Tuổi Thìn và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Phụ nữ vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó.
Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác: Vừa đi vừa lủi vừa mổ, gật đầu tợ rắn, bước chổng như chuột là người bần khổ đa dâm, đa tật đó.
Xem tướng phụ nữ bân bạc dâm ác
Lông mày lem mí, tóc thô cứng, mặt bạnh, mũi hỉnh là cô độc, khắc sát nghèo hèn.
Mũi cong khoảng giữa, mũi có ngấn, lỗ mũi ngó trời mũi hỉnh là tướng đa dâm, hạ tiện, khốn khổ.
Trán có nhiều lằn, mắt lộ tròng trắng bệch là người gian dâm đại ác khắc chồng sát con, tán tài cơ cực.
Bụng teo ngực nẩy cũng là người có tướng nghèo hèn tham lam dâm đảng.
Tiếng nói như lửa reo hừng hực, mắt lộ gân đỏ lan tới con ngươi là tướng người hung ác thô bạo, hình phu sát tử. Môi trên như trùm xuống, môi dưới như đầy ra cũng đều là tướng người khắc sát bần bạc, ngu độn.
Hay đứng dựa cửa liếc dọc ngang, chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy, đang làm công việc, dừng tay châu mày thở ra, hay ca hát nho nhỏ, tự nhún nhẩy một mình, tóc hoe mà thưa lợt gần như lông măng tay, đều là những hình tướng đê tiện dâm đãng.
Miệng dụm như thổi, môi thâm mồm rộng, chơn mày dựng ngược, thấy cười mỉm, mắt nhìn như diều hâu, như cú dữ, đều là tướng hèn hạ, bạc ác.
Đi như chim se sẻ, ăn liếm láp như bò dê, nét mặt xanh đen, lông mày có góc xương lộ, hay tự nói lầm thầm, nói chuyện làm việc quên đầu quên đuôi, hơi khô giọng thổ, đều là các hiện trạng hình tưởng đàn bà âm trầm bạc ác, sâu độc nghiêng ngả, ghen tương như điên dại.
Đôi gò má ửng hồng, mắt như sao chớp, mát bóng như mở, miệng ngậm không kín răng, hạ mao như cỏ khô lưa thưa vàng úa, âm hộ chỉ có da bọc xương nhô lên, chớ không đầy thịt, ngủ say hay nói một mình hoặc kinh hoảng mớ la. Ngồi tựa như đứng, đứng giống như ngồi, mừng vui giận ghét không chừng đổi, hay lắc mình nghiêng đầu, liếc dọc nhìn ngang. Ấy là biểu lộ hình trạng tà dâm bạo ác không tốt.
Xem tướng tổng quát hình tướng phụ nữ bần bạc dâm ác theo TƯỚNG PHÁP DIỄN CA
Đàn bà khắc sát chồng con
Mặt dày miệng rộng, trán còn lằn ngang
Xoáy tóc trước trán mấy hàng
Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa
Mày cao xương mí lộ ra
Lông mày mọc ngược thấy mà gớm ghê
Lại thêm mặt trẹt một dề
Lông mày dựng đứng phu thê xa lìa
Con ngươi vàng bệt đỏ tươi
Tròng trắng, trắng giã là người sát phu
Mũi mọc cụm lông u xù
Miệng chụm như thổi lao tù chồng con
Tai mỏng lật ngược vòng tròn
Tóc nám như cháy vàng son phai màu
Tuổi trẻ tóc rụng sói đầu
Hình phu khắc tử lệ sầu không vơi ?
Đầu lủi trước, bước đi sau
Ngoảnh đầu ngoái cổ làm màu đong đưa
Đầu to sói tựa gáo dừa
Giả sầu giả bịnh đánh lừa phu quân
Đầu lép trán dẹp lưng chừng
Trán rộng mày rậm cũng đừng vội tin
Bao nhiêu tướng đã lộ hình
Là bao nhiêu tánh dâm tình tà gian
Má hồng, mặt đẹp trái soan
Ngoại gian mê đắm lấy vàng cũng cho
Má lép mặt như đất tro
Tỉnh sâu thâm thẩm ai đo cho vừa
Ánh mắt chiếu rực mây mưa
Nhìn ngang liếc dọc đẩy đưa duyên tình
Mắt mọc nút ruồi xinh xinh
Lại như ướt rượt mày xanh mi dài
Đa tình không gởi cho ai
Trong nhà dù có ra ngoài cũng thêm
Môi xanh như rêu bên thềm
Môi trắng bềnh bệch như têm vôi trầu
Răng chuột tai dơi nhọn đầu
Thân dài cổ ngắn, chớ cầu chính chuyên
Thân gầy như liễu gió nghiêng
Ngực cao mông lép lụy phiền vì yêu
Bao nhiêu cũng chưa là nhiều
Sáng mai không đủ thêm chiều không dư
Rún lòi đầu vú cứng khừ
Cũng phường lãng đãng tà tư khôn lường
Đầu vú trắng bệch điểm sương
Núm sát trùng thịt cũng vương lưới tình
Vừa đi vừa nói một mình
Cười như ngựa ré tiết trinh kể gì
Vung văng như rắn cuốn đi
Ăn như chuột gặm, ngủ thì mớ la
Bao nhiêu hình bóng nêu ra
Đều thuộc dâm đãng biết mà làm sao
Sách xưa chép dễ sai nào
“Tướng tùng tâm diệt” nhớ trao sửa mình
Còn câu “Tướng tự tâm sinh…”
Chữ tâm kia mới chứng minh tỏ tường
Tâm minh chính, chí đường đường
Tướng yểu lại được thọ trường khó chi
Mặc dầu sách cổ đã ghi
Vẫn còn tùy diệt vẫn còn tùy sinh
Hư nên do ở tâm mình
…….. Xin nhớ đinh ninh.
a. Tình trạng không chồng, không vợ:
Nếu cả Phúc lẫn Phu Thê đồng thời gặp nghịch cảnh thì dễ đoán việc vô gia đình (đặc biệt là với lá số nữ giới).
Nếu Mệnh, Thân có hao bại tinh (Tang, Hổ, Cô, Quả, Đẩu Quân, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao) thì phải xem đó là một yếu tố bổ túc để quyết đoán thêm trường hợp độc thân bắt buộc.
Cung Tử tức có nhiều sao hiếm muộn, tuyệt tự, lập tự.
Vòng đại hạn đi theo chiều thuận tức là ngày càng xa cung Phu Thê. Đây là một yếu tố bổ túc phải lưu ý. Nếu đi theo chiều nghịch thì vào khoảng 30 tuổi trở đi, vấn đề gia đạo dễ xảy ra hơn vào khoảng thập niên 32 trở đi vì tại đó cung Phu Thê trấn ngự, ngụ ý có sự chi phối khá mạnh, sự thúc đẩy khá lớn, sự quan tâm đặc biệt của con người về vấn đề gia đạo.
Sự lạc vị của những sao tình duyên: nếu các sao đó đóng ở Tật, Tử, Bào, Phụ, Điền thì cái duyên bị đặt sái chỗ, không lợi cho sự sum họp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)
Sự phát triển của xã hội hiện đại kéo theo giá nhà đất ngày càng cao hơn và cao hơn nên rất nhiều người buộc phải thuê nhà để ở. Tuy nhiên, khi thuê nhà, tốt nhất bạn phải chú ý đến một số vấn đề phong thủy để tránh những điều xui xẻo và rắc rối trong cuộc sống. Cụ thể:
1. Không "ham hố" thuê nhà quá rẻ
Những ngôi nhà có giá thuê thấp hơn so với mặt bằng chung chắc chắn điều kiện sinh hoạt sẽ có nhiều bất lợi. Đó có thể là vì phong thủy ngôi nhà không tốt đẹp, từng có người qua đời tại đây hoặc cấu trúc nhà sập xệ, không an toàn...
2. Tránh thuê nhà cũ, lâu đời
Một ngôi nhà cũ đã được xây dựng từ rất lâu hiển nhiên sẽ có nhiều người sinh sống trong quá khứ. Nguồn năng lượng của toàn bộ những người chủ trước đây sẽ tích tụ bên trong ngôi nhà, gây ảnh hưởng không tốt đến nhiều khía cạnh của cuộc sống, nhất là các mối quan hệ của bạn.
3. Tránh thuê nhà có người bị ốm, bị bệnh
Nếu từng có người bệnh nặng sống trong ngôi nhà này, hoặc chủ nhân (và cả người thân) của ngôi nhà cho thuê mắc bệnh nghiêm trọng, bạn phải kiên quyết loại bỏ nó ra khỏi danh sách lựa chọn. Bởi vì, năng lượng và nguồn khí tiêu cực trong nhà sẽ tác động xấu đến vận may của bạn.
4. Tránh thuê nhà có phong thủy yếu kém
Trường hợp ngôi nhà gặp phải nhiều vấn đề rắc rối liên quan đến phong thủy, nó không thích hợp để ở. Ngoài ra, nó có thể ảnh hưởng đến việc phát triển sự nghiệp của bạn ở thời điểm hiện tại và trong tương lai.
5. Tránh thuê nhà gần nghĩa trang
Bạn không nên sống trong ngôi nhà gần nghĩa trang, hoặc có lối đi vừa hẹp vừa tối tăm. Theo phong thủy, nhà gần nghĩa trong có vị trí không tốt, đây là nơi có âm khí hoặc sát khí quá nặng nề, ảnh hưởng không tốt đến tinh thân của người sinh sống trong nhà. Lối đi quá hẹp cản trở sự giàu có không vào được nhà.
6. Tránh thuê nhà tối tăm, u ám
Nếu gặp phải ngôi nhà thiếu ánh sáng, thậm chí khi mở tất cả cửa sổ và cửa chính trong nhà vào ban ngày mà vẫn rất tối tăm, u ám, có nghĩa ngôi nhà bị bao trùm bởi âm khí quá nặng nề, thiếu hụt dương khí trầm trọng. Quyết định sáng suốt nhất là chuyển đi/tìm ngôi nhà khác tươi sáng hơn.
7. Tránh thuê nhà cô độc
Ngôi nhà được gọi là cô độc khi xung quanh nó không có bất kỳ ngôi nhà nào khác hoặc có nhưng ở khoảng cách rất xa. Những ngôi nhà như thế nằm ở vị trí bị cô lập và không có lợi cho cuộc sống.
8. Tránh thuê nhà gần núi trọc và sông nguy hiểm
Không nên sống trong ngôi nhà gần những ngọn núi trọc và dòng sông nguy hiểm. Dựa vào địa hình, những nơi này luôn có nguồn khí âm mạnh hơn dương, nó có thể gây ra sự bất lợi, rủi ro trong cuộc sống cũng như khiến bạn phải chịu đựng nhiều vấn đề sức khỏe rất nghiêm trọng.
Rất nhiều người thắc mắc vật phẩm phong thủy mang lại may mắn mệnh hỏa là gì?. Để có những thông tin chính xác vật phẩm phong thủy cho người mệnh hỏa thì hãy cùng chúng tôi đọc bài viết sau đây nhé!
Nội dung
Vật phẩm phong thủy đối với người mạng hỏa cũng phải tuân theo nguyên tắc này sử dụng chất liệu đá, gỗ và có màu sắc phù hợp như đỏ, hồng, cam, tím, xanh lá.
Trong và ngoài căn nhà nên có cây xanh vì Mộc sinh Hỏa.
Đương nhiên nếu kích hoạt quá tay yếu tố Hỏa thì cũng không tốt cho gia chủ, vì thế nên sử dụng gương, bể cá để kích hoạt Thủy khí, cân bằng Hỏa khí cho căn nhà.
Gương không nên để đối diện với cửa ra vào, và đối diện với đầu giường vì sẽ gây cảm giác bất an.
Nếu các bạn còn ở chung với gia đình, nhưng có phòng riêng, thì ngoài việc bài trí cho căn phòng riêng của mình hợp với mệnh theo hướng dẫn trên, bạn nên sử dụng phương pháp bát trạch để xác định các phương vị các cung cần kích hoạt trong nhà.
Thông thường các cung chính là Tài Lộc, Quan Lộc và Quý Nhân mà bạn cần kích hoạt để mang lại tài lộc, công danh và quan hệ may mắn.
Bài trí vật phẩm tại những hướng cụ thể này không ảnh hưởng nhiều tới tổng thể của căn nhà, dù gia chủ mang mệnh gì.
Cung Quan Lộc nằm ở hướng Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà và thuộc hành Thủy, vì thế gia củ nên đặt bể cả hay phong thủy luân (đài phun nước) hoặc chuông gió ở hướng này.
Cung Quý Nhân nằm tại hương Tây Bắc tính từ giữa trung tâm căn nhà, kích hoạt cung này sẽ nhận được sự giúp đỡ của người khác, tại góc Tây Bắc bạn có thể đặt bình gốm, đá hay pha lê để tăng cường năng lượng.
Cung Tài Lộc nằm ở hướng Đông Nam tính từ trung tâm căn nhà thuộc hành Mộc, vì thế nên đặt một chậu cây xanh hoặc một vài đồng xu trong bát nước để tài lộc đổ vào như nước.
Đại đa số chúng ta chỉ sau khi mọi việc xảy ra rồi ta mới hiểu, mới biết sống sao cho đúng. Hiểu cuộc sống rất khó, biết cách sống lại càng khó. Không ít người cảm thấy ngày tháng trôi qua vô cùng mệt mỏi. Bất kể là mọi người xung quanh làm gì cũng đều khiến họ cảm thấy lao tâm, lao lực. Thực tế thì cuộc đời này đâu có nhiều bất công đến thế đâu, chỉ là do suy nghĩ của bản thân ta mà thôi. Hãy biết trân trọng những người bên cạnh mình trước khi quá muộn.
Nữ giới cầm tinh con Mèo:
Biết lo toan cuộc sống không phải là họ ăn tiêu tiết kiệm mà là một trạng thái tự do tự tại với tuổi Mão. Chính xác là họ biết cách biến những ngày tháng nghèo khó trôi qua trong sự sung túc, biến những ngày tháng đủ đầy trôi qua một cách “hoành tráng”.
Nữ giới tuổi Mão khi lo liệu công việc gia đình thì đủ đầy về vật chất, phong phú về tinh thần. Nhà cửa vào tay họ thì luôn sạch sẽ, ngăn nắp, xử lý thỏa đáng mọi mối quan hệ trong gia đình, hàng xóm. Họ cũng luôn sắp xếp thời gian hợp lý để mọi người trong nhà có nhiều thời gian quây quần bên nhau nhiều hơn.
Nữ giới cầm tinh con Hổ:
Phụ nữ tuổi Dần cũng không sống bằng việc quanh đi lo tiết kiệm tiền bởi với họ thì như thế là “lỗ” với gia đình. Phụ nữ tuổi Dần rất biết kiếm tiền và cũng biết tiêu tiền hợp lý. Họ phát huy tối đa tác dụng với mỗi đồng tiền kiếm được để biến 365 ngày thành những tháng ngày hạnh phúc nhất. Để mọi người trong gia đình giàu có về tinh thần, không băn khoăn về kinh tế đó mới là người phụ nữ biết cách sống.
Nữ giới cầm tinh con Gà:
Nữ giới tuổi Dậu rất nỗ lực trong mọi công việc và hiểu được giá trị cuộc sống. Họ biểu hiện cực kỳ xuất sắc trong công việc. Cả ngày đều khá bận rộn mà tiền lương kiếm được cũng không chịu thua kém đức lang quân. Ngoài công việc, trong cuộc sống hằng ngày họ luôn sắp xếp mọi việc hợp lý, thi thoảng lại tạo bất ngờ nho nhở cho chồng mình, và thêm chút gia vị hài hước cho cuộc sống khô cứng hiện tại.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Thời gian: tổ chức vào ngày 22 tháng 2 âm lịch.
Địa điểm: huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công đức của đức thánh Tam Giang.
Nội dung: Mở đầu hội là các hoạt động lễ thánh Tam giang, cầu mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Tiếp đó là phần hội có tổ chức: bơi trải, chèo thuyền bắt vịt.
Khi mua nhà có hướng phạm vào ngũ quỷ, bạn có thể hóa giải bằng cách xoay hướng bếp sang hướng sinh khí sẽ trừ được tà khí…
Hặc cũng có thể hóa giải bằng trụ thạch anh: Thạch anh tự nhiên mang nguồn năng lượng vũ trụ cực kỳ mạnh mẽ. Để hóa giải nhà hướng xấu không hợp tuổi gia chủ bạn nên dùng trụ thạch anh (trụ tối thiểu từ 0,5kg trở lên) loại lớn, để trấn các năng lượng xấu, tà khí xấu do hướng xấu như Lục sát, Ngũ quỷ, Mất mát, Họa hại gây ra. Năng lượng dương cực mạnh của thạch anh sẽ xua tan, đẩy năng lượng âm ra khỏi căn nhà của bạn. Bạn cần chú ý trụ thạch anh cần được ngâm nước muối tinh 7 ngày 7 đêm trước khi đặt, để mang lại hiệu quả trấn tốt hơn trụ thạch anh cần phải được trì chú và tính ngày giờ tốt hợp tuổi gia chủ để an vị.
Nếu không có điều kiện dùng trụ thạch anh, bạn có thể dùng 2 gương bát quái treo phía trước cửa nhà bạn đó là TIÊN THIÊN BÁT QUÁI VÀ HẬU THIÊN BÁT QUÁI
Bát quái treo bên ngoài dùng để trừ tà ma, chỉnh hướng cửa sai… Bát quái có nhiều loại, có loại có gắn gương (thường, lồi, lõm). Các loại gương này được dùng như liệt kê dưới đây. Có 2 loại Bát-quái là Tiên-thiên Bát-quái và Hậu-Thiên Bát-quái. Tiên-Thiên Bát-quái treo theo vị trí Càn trên Khôn dưới. Hậu-Thiên Bát-quái thì treo theo vị trí Khảm trên, Ly dưới. Khi muốn sửa nhà nằm trong vị trí xấu thì treo Tiên-thiên Bát-quái trong vị trí bình thường. Hậu-Thiên Bát-quái phải xoay để thay vị trí hướng xấu bằng vị trí hướng tốt. Bạn chọn Sinh-khí để hóa giải cửa chính quay về hướng Ngũ – quỷ .Vị trí bình thường của Hậu-thiên Bát-quái là Ly ở phía trên, Khảm ở phía dưới tượng trưng cho vị trí Phục-vị. Dựa theo Mệnh-quái, xoay vị trí Phục-vị đến vị trí cần phải sửa. Hay nói khác đi là xoay vị trí tên của Mệnh-quái đến thay thế cho vị trí cần phải sửa.
Tuy nhiên bát quái không phải lúc nào cũng có tác dụng khi ta mua từ tiệm về để dùng. Mà ta phải đem đến CHÙA nhờ CHÚ NGUYỆN,có nghĩa là MỞ MẮT THẦN cho bát quái,thì sử dụng mới có hiệu quả.
Tính cách bốc đồng nóng nảy luôn là nguyên nhân gây hậu quả trong đời sống vận mệnh, trong tình cảm vợ chồng rất dể gây ra diễn cảnh ly hôn, ngoài xã hội tính cách bốc đồng rất dể gây nhiều hậu quả nghiêm trọng khác.
Tính cách này thường biểu lộ trong khoa Tử vi như sau:
Cục số, bản mệnh:
Trong ngũ hành thường hành hỏa thể hiện tính nóng nảy, các hành khác không mấy gì thể hiện tính cách nóng nảy.
Vì vậy bản mệnh làm căn gốc, cục số là dụng, mối tương quan giữa cục số và bản mệnh phần nào đó thể hiện sơ qua tính cách này.
Các loại bản mệnh được nạp âm thì Tích Lịch Hỏa đại diện cho tính cách nóng nảy nhiều nhất, các loại bản mệnh hành hỏa khác chỉ nói lên cá tính nóng nảy nhưng mức độ và hình thức thì sự nóng nảy không bằng.
Trong khoan lá số tử vi, bản mệnh là thể (gốc) cục số là dụng (ngọn). Cục số biểu diễn sự vận động của bản mệnh, vì vậy khi bản mệnh hỏa có mối tương hòa với cục số cho thấy đời sống vận mệnh tương đối thuận lợi, do đó tính cách tuy có nóng nảy nhưng có mức độ chừng mực không dẫn đến bốc đồng thiếu suy nghĩ.
Ngược lại mối tương quan giữa cục số với bản mệnh hỏa không tương hòa, gây bất lợi cho bản mệnh hỏa, cho thấy đời sống xã hội không tương thuận với bản mệnh, từ đó là động cơ gây nên tính cách nóng nảy, bốc đồng hành sự thiếu suy nghĩ.
Khi phân tích tính cách nóng nảy, ta cần xem xét thêm chi tiết chính diệu và phụ diệu để rỏ hơn từng tình trạng tính cách này.
Chính diệu:
Trong 14 chính diệu, độc lập có hai sao mang ngũ hành hỏa đặc trưng cho cá tính nóng nảy: Liêm Trinh và Thái Dương.
Liêm Trinh: là tinh diệu chủ tù tinh và đào hoa tinh. Khi bị lạc hãm tính cách của Liêm Trinh rất dể trở nên khó khăn, nóng nảy. Mức độ khi Liêm Trinh lạc hãm, hội đủ các lục sát tinh tính cách của Liêm Trinh càng trở nên cố chấp, mù quáng, bốc đồng nóng nảy, với cá tính này khó tránh những việc làm vi phạm hình pháp.
Trong lá số khi Liêm Trinh không thủ cung mệnh, nhưng thiết nghĩ củng nên lưu ý tam phương tứ chính hội chiếu về mệnh cung, vì Liêm Trinh thường trong bộ tinh diệu: Sát, Phá, Liêm, Tham chủ võ tinh. Tính cách của võ tinh thường thiên về hành động, hơn là tư duy
Thái Dương: là tinh diệu chủ quí tinh. Khi bị lạc hãm tính cách của Thái Dương không còn quang minh sáng tỏ, hành sự thường mù quáng, nóng nảy.
Khi mệnh cung Thái Dương không tọa thủ, cầm xem xét tam phương tứ chính Thái Dương có hội chiếu về mệnh cung hay không. Khi Thái Dương hội chiếu về cung mệnh ta cần phải cân nhắc cung mệnh là tinh diệu gì, nếu là Cự Môn (ám tinh) thì tính cách nóng nảy một cách ngang tàng.
Phụ diệu:
Lục sát tinh là bộ tinh diệu đặc trưng tính chất nguy hiểm của tính cách bất ổn không bình thường. Trong đó các tinh diệu mang hành hỏa đặc trưng cho tính cách nóng nảy: Địa không; Địa kiếp; Hỏa tinh; Linh tinh.
Địa không, Địa kiếp:
Khi hội chiếu hoặc đồng tọa thủ mệnh cung với hai chính diệu nêu trên, tính cách của Không Kiếp càng trở nên quái dị, tư tưởng không hòa hợp với xã hội, bản thân Không Kiếp mang hành hỏa nên tình trạng nóng nảy bộc phát càng nguy hiểm hơn cho mọi người xung quanh.
Hỏa tinh, Linh tinh:
Khi hội chiếu hoặc đồng cung mệnh với chính diệu nêu trên, tính cách của Hỏa Linh biến thể là sự quấy quá, gây loạn, tâm tưởng không dừng lại ở mức ổn định. Hỏa Linh mang hành hỏa vì vậy tính nóng nảy rất dể gây loạn, không phân định đâu là ranh giới đạo đức.
Thiên không:
Thiên không chủ ám bại tinh, khi hội chiếu hoặc đồng cung mệnh với nhiều tinh diệu mang hành hỏa, tính cách của Thiên không càng trở nên nóng nảy một cách dữ dội, hậu quả sau khi nóng nảy thường là bại sự, không thành tựu được việc gì.
Thái tuế, Tuế phá, Thiên hình, Quan phù, Quan phủ:
Những tinh diệu này khi hội chiếu hoặc đồng tọa thủ mệnh cung với hai chính diệu vừa nêu trên, từ tính cách nóng nảy rất dễ dẫn hiềm khích, thù oán, tranh chấp, và có thể dẫn đến tù tội.
Đại tiểu hao, Điếu khách, Lực sỉ, Phá toái, Thái tuế:
Các tinh diệu này thường thể nóng nảy do lòng tự trọng, trong kinh doanh rất có máu muốn chóng có kết quả thành đạt, đầu cơ thường liều lĩnh.
Tóm lại:
Khảo sát tính cách nóng nảy, mức độ hình thức nóng nảy như thế nào, nóng nảy trong việc gì và diễn biến sau khi nóng nảy là hậu quả gì, trước ta cần khảo sát bản mệnh và cục số.
Sau đó ta khảo sát vòng tam hợp tuổi, và tam hợp cung mệnh có mối tương quan như thế nào.
Trong những điều kiện khảo sát trên, lá số càng hội nhiều tinh diệu mang hành hỏa và có số lượng ít tinh diệu mang hành thủy tương khắc, tính cách nóng nảy bốc đồng càng mạnh hơn và càng rỏ rệt hơn.
Bản Mệnh hỏa, Cục hỏa đều là bừng chứng của sự nóng nảy. Nếu Bản Mệnh hỏa gặp Cục mộc thì tính nóng nhiều hơn. Có thể chia các sao hỏa chỉ sự nóng nảy làm hai hạng, dựa trên tính chất hung hay cát của sao:
Hạng nặng:
- Địa Không - Phục Binh - Quan Phù
- Địa Kiếp- Phi Liêm- Quan Phủ
- Hỏa Tinh - Đại Hao - Thái Tuế
- Linh Tinh - Tiểu Hao - Tử Phù
- Thiên Không - Lực sỹ - Điếu khách
- Kiếp Sát - Phá toái - Bệnh
- Thiên Hình - Tuế Phá
Hạng vừa:
- Thái Dương - Thiên Quan - Nguyệt Đức
- Liêm Trinh - Thiên Phúc - Đẩu Quân
- Thiên Khôi - Thiên Đức - Văn Tinh
- Thiên Việt - Thiếu Dương
- Thiên Mã - Hỷ Thần
Các sao hạng vừa là những quý tinh, văn tinh, phúc tinh vì là sao tốt nên hình thái nóng nảy tương đối nhẹ hơn hung sát hao bại tinh.
Tuy nhiên, không phải chỉ có sao hỏa mới nóng nảy. Có nhiều sao thuộc 4 hành khác cũng đồng nghĩa. Chẳng hạn như Tướng Quân (Mộc), Thất Sát, Trực Phù, Kình Dương, Đà La (Kim), Thiên Tướng, Tham Lang, Phá Quân, Hóa Quyền, Thiên Sứ (Thủy), Thiên Thương, Thiên La, Địa Võng, Tuyệt (Thổ).
Đặc biệt, tên các loài vật biết bay có thể dùng để đặt tên người, gồm có các chữ như Diên Lân (chỉ con lân, con vật trong tứ linh); Quy (chỉ con rùa); Phượng (chỉ con phượng hoàng); Phúc (chỉ con dơi); Lộc (chỉ con nai); Oanh (chỉ chim oanh); Uyên (chỉ tên loài chim uyên ương); Loan (chỉ chim loan và nó thường đi với chim phượng, ý chỉ vợ chồng hòa thuận); Hồng (chỉ chim hồng, hay còn gọi là hồng nhạn); Ly (chỉ chim hoàng ly, hoàng anh); Quyên (chỉ chim đỗ quyên); Bằng (chỉ chim ó, chim ưng)... Mỗi 1 loài đều có những đặc điểm riêng mang đầy ý nghĩa để có thể được dùng để đặt tên cho con người.
Diên
Diên chính là chỉ tên của chim ưng, chim ó. Tên của loài chim này khá hay gặp trong danh từ riêng chỉ người. Bởi vì chim ó là loài chim bay rất cao, rất dũng mãnh và được nhiều người yêu thích. Khi dùng tên loài chim này để đặt tên, bạn có thể dùng chữ Diên để làm tên, cũng có thể dùng làm tên đệm, ví dụ Diên Hải, Mạnh Diên, Diên Vỹ, Diên Vũ, Diên Minh, Lâm Diên...
Hải Âu
Hải âu hay còn gọi là chim Âu, là loài chim có lông màu trắng sinh sống chủ yếu ở bờ biển. Đây là loài chim thông minh, thực hiện những hình thức giao tiếp phức tạp và có tổ chức bầy đàn cao. Đặc biệt, loài chim xinh đẹp này rất giỏi đương đầu với mưa gió biển khơi và rất thân thiện với con người. Vì thế, sử dụng chữ Âu làm tên người nghe rất hay.Loan
Loan chính là chim phượng hoàng, là vua của trăm loài chim trong truyền thuyết cổ đại. Bộ lông của phượng hoàng rất diễm lệ, là biểu tượng cho sự cát tường, mạnh khỏe. Nếu sử dụng chữ "Loan" làm tên gọi sẽ mang nội hàm là cát tường. Một số tên gọi hay như: Hồng Loan, Kim Loan, Thanh Loan, Bích Loan...
Lưu ý: Đối với những người thường giao tiếp hoặc có quan hệ với người nước ngoài thì không nên đặt tên Loan, vì theo tiếng Anh, Loan nghĩa là Nợ.
Ly
Ly chỉ loài chim hoàng ly có thân hình màu vàng, màu đỏ, tiếng kêu nghe rất hay. Nó cũng có tên gọi là hoàng oanh. Tên gọi Hoàng Ly hàm ý chủ nhân có dung mạo đẹp đẽ và giọng nói trong trẻo dễ nghe. Một số tên khác cũng rất ý nghĩa như Kiều Ly, Ngọc Ly...
Quyên
Tức là chỉ chim Đỗ Quyên, là loài chim có lông màu tro, đuôi lại điểm 1 vài dấu chấm trắng. Đỗ quyên là cách gọi giống nhau của chim đỗ quyên và hoa đỗ quyên. Một số tên Quyên mang ý nghĩa tốt đẹp: Kim Quyên, Lệ Quyên, Tố Quyên, Ngọc Quyên, Vũ Quyên...
Oanh
Tên Oanh thường được dùng để đặt tên cho con gái |
Hình dáng chim oanh rất nhỏ bé, có lông màu nâu hoặc màu xanh tối. Người ta thường múa điệu “oanh ca yến vũ” để chào đón mùa xuân về. Tên Oanh thường được dùng để đặt tên cho con gái và có thể được dùng làm tên đệm. Một số tên gọi hay như: Hoàng Oanh, Kim Oanh, Lâm Oanh, Yến Oanh, Oanh Vũ, Oanh Ca...
Uyên
Chim uyên ương có thân hình nhỏ bé, không những là loài chim bay giỏi mà còn biết bơi. Nó có bộ lông sặc sỡ rất đẹp. Con cái lại có lông màu nâu. Chim đực và chim cái thường cùng chung sống với nhau ở ven hồ, do đó mọi người thường ví uyên ương như đôi vợ chồng. Nếu muốn chỉ tính cách dịu dàng, hòa thuận thì chữ “Uyên” rất thích hợp để đặt tên cho con gái. Một số tên gọi hay có thể đặt như: Tố Uyên, Mỹ Uyên, Hồng Uyên...Bằng
Chim Bằng là loài chim lớn nhất so với các loài chim khác trong truyền thuyết. Người ta thường ví “bằng trình vạn lý” với những gì xa xôi ở hành trình phía trước. Ở Việt Nam có 1 số người đặt tên cho con là Bằng với hàm ý công bằng: Vũ Bằng là 1 cái tên khá ý nghĩa. Ngoài ra, còn 1 số tên khác như Bằng Sơn, Thiên Bằng, Lâm Bằng...
Mi
Mi là loài chim có bộ lông màu nâu, giọng hót mượt mà, dễ nghe. Với người con gái yêu thích ca hát thì dùng chữ Mi với ý nghĩa là nốt nhạc là hay nhất. Mang ý nghĩa này, ta có thể đặt tên là Giáng Mi, Diễm Mi, Trà Mi, Hoàng Mi...
Long
Thời xưa, rồng là hóa thân của Hoàng đế, đại diện của quyền lực. Rồng được liệt vào vị trí số 1 trong “tứ linh”, bao gồm: Long, Lân, Quy, Phượng. Trong ngũ hành, rồng đại diện phương Đông, được mệnh danh là Thanh Long, đối xứng với Bạch Hổ ở phương Tây. Vì thế, lấy tên Long đặt cho con trai với kỳ vọng lớn vào công danh của con mình sau này quả là lý tưởng. Những cái tên gắn liền với hình tượng rồng mang đầy ý nghĩa như: Vân Long, Long Sơn, Thiên Long, Long Du, Thủy Long, Ngọc Long, Thanh Long, Thăng Long, Xuân Long...
Theo Tìm hiểu khoa học về tên gọi
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
thiên sứ (Thủy) thiên thương (Thổ)
***
Hai sao này đóng ở vị trí cố định: Sứ đóng ở cung Tật, Thương đóng ở cung Nô.
1. Ý nghĩa của thương, sứ:
2. Ý nghĩa của thương, sứ ở cung hạn:
- Thương Xương hay Khúc: tác họa khủng khiếp, có thể chết non nếu 2 hạn cùng xấu.
- Thương, Sứ, Kình, Hỏa, Riêu, Cự: hại của, hại người
- Thương, Sứ: hay ốm đau (Sứ), hay rắc rối vì bạn
- Sứ, Cơ, Cự, Hình: kiện tụng
- Sứ, Tuế: chết nếu đại hạn xấu
- Sứ, Thiên Không, Lưu Kình đồng chiếu vào hạn: chết
- Sứ, Tang Hổ: có tang. Tại cung nào, tang có thể xảy ra cho người đó.
- Sứ ở Tý, Kình Đà, Tuế vào nhị hạn : chết
- Sứ gặp Lục Sát: chết
- Thương Sứ ở Tý, Dần: độc
- Sứ, Kình, Đà: dữ (Tử, Đồng, Lương giải được)
- Sứ Xương: khoa trường, thi cử lận đận
- Thiên Thương, Thiên Hình: bị đánh
- Thiên Thương, Tang Môn: có tang, có sự biến đổi phi thường
- Thương, Khốc: thi cử lận đận.
Năm hạn mà gặp 2 sao này thì không chết cũng nguy mạng, nếu thiếu sao giải đủ mạnh.
3. những sao giải thương, sứ:
a. Chính tinh: Tử, Phủ, Lương, Đồng
b. Bàng tinh: - Khoa, Lộc, Tả, Hữu, Quang Quý, Khôi Việt
c. Cung phúc tốt:
Việc chế giải ở đây không có nghĩa là sự việc đó hoàn toàn không xảy đến mà là nếu có đến, chuyện chẳng may đó không tác họa đúng mức, nếu gặp sao giải hiệu lực.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Ngoài xã hội dựa theo tuổi tác và chức vụ địa vị, trong gia tộc dựa theo thế thứ, nhưng khi giao thiệp với từng cá nhân cụ thể lại phải kết hợp theo cách xưng hô ngoài xã hội theo quan hệ tuổi tác. Có thể đúng theo huyết thống thì anh A phải gọi tôi bằng ông chú, nhưng tôi cũng gọi anh A bằng bác, vì anh A đã là người tuổi cao, gọi bằng cháu bất tiện và bất lịch sự. Tôi gọi anh A bằng bác đó là gọi thay cho cháu chắt tôi, mặc dầu tôi ít tuổi hơn anh nhưng về thế thứ ngang với ông nội anh A. Tuy nhiên nếu ít tuổi quá mà gọi bằng ông cũng bất tiện, có khi phải hạ xuống một bậc mà gọi bằng chú mới thân mật.
Trong khi chúng tôi biên soạn gia phả có người bà con trong họ thắc mắc: Gia phả có nhầm lẫn gì giữa các chi trong họ ta hay không? Tại sao anh X. Còn ít tuổi hơn cháu nội tôi, mà tôi lại phải gọi anh X. bằng ông.
Xin trả lời: đó là hiện tượng phổ biến không có gì đặc biệt. Ngay trong một gia đình anh cả đã có con, mà chú út chưa ra đời: hiện tượng "Em bú chị dâu, cháu bú bà" là chuyện bình thường trong xã hội cũ, chỉ mới qua hai đời đã có sự chênh lệch 1 đời, vậy thì trong họ hàng qua nhiều đời, chênh lệch dăm ba đời không có gì là lạ.
ở nông thôn còn mối quan hệ giây mơ rễ má chằng chịt qua giữa thông gia, giữa bà con nội ngoại, nên cách xưng hô lại càng phức tạp, thông thường thì vợ chồng thống nhất cách xưng hô với ông chú bà bác bên nội bên ngoại như nhau, nhưng cũng có trường hợp do quan hệ huyết thống thân sơ khác nhau chồng gọi bằng em, vợ gọi bằng bác hay ngược lại. Nhưng dầu sao "Máu thoảng còn hơn nước lã", gọi nhau theo quan hệ gia tộc vẫn thân mật hơn gọi theo quan hệ xã hội.
Gương Bát quái
Gương Bát quái có rất nhiều loại: Gương Bát quái phẳng, gương Bát quái lồi, gương Bát quái lõm, những loại này thường bằng gỗ và kính. Gương Bát quái Hổ Phù, gương Bát quái Trấn Trạch, gương Bát quái Chuẩn Đề, gương Bát quái Đại Đế, những loại này bằng đồng.
+ Gương Bát quái phẳng và lồi thường dùng để hóa giải các trường hợp Thương sát, Hỏa hình sát, Đỉnh tâm sát, Tam xoa sát. Nhưng tùy trường họp mà sử dụng loại nào (vì hình sát nhỏ không nên dùng gương Bát quái lồi) và thêm những công cụ khác trên gương.
+ Gương Bát quái lõm thường dùng để hóa giải các trường họp cầu thang đổ ra đường, nhà nhìn từ cửa trước thông thẳng ra cửa sau. Và gương Bát quái lõm là loại có thể treo trong nhà.
+ Gương Bát quái Hổ Phù thường dùng để hóa giải Ngũ hoàng sát, Tam xoa sát, Thương sát, Đỉnh tâm sát, Thích diện sát.
+ Gương Bát quái Trấn Trạch là loại gương Bát quái đồng, một mặt có in hình Bát quái, mặt kia là một Phù Trấn Trạch với hai thanh thư hùng Thất Tinh Kiếm. Ngoài các công năng hóa giải như gương Bát quái thường ra, nó thường dùng cho trường hợp nhà đối diện các nhà tang lễ, trại giam, bệnh viện, nghĩa trang… nóỉ chung là những nơi có sự chết chóc.
+ Gương Bát quái Chuẩn Đề là loại gương Bát quái đồng, một mặt in hình Phật Chuẩn Đề vói 18 tay cầm 18 món Pháp khí, mặt kia là vòng tròn Bát quái cộng với bài chú Chuẩn Đề. Đây đúng ra là Pháp Khí Hóa Giải của phong thủy Mật Tông Tây Tạng, công năng của nó rất mạnh. Ngoài những tính năng đặc biệt như gương Bát quái Trấn Trạch ở trên, nó còn dùng cho trường hợp nhà ở mà trước đây chủ trước dùng Lỗ Ban nuôi “binh”, hoặc nhà có Âm binh quấy phá. Đây là loại gương Bát quái đồng có thể treo trong nhà.
+ Gương Bát quái Đại Đế là loại gương Bát quái đồng, một mặt có ỉn hình Vô Cực Đại Thiên Tôn (chính là Ngọc Hoàng Đại Để) với Phù Trấn Trạch, mặt kia in hình Bát quái. Gương này ngoài những công năng đặc biệt bên trên của các gương kia còn có sức hóa giải ác hình tượng Thập Tự Giá khổng lồ đối diện nhà, các nhà đối diện eo gương có hình Tử Vi Đại Đế cưỡi trên Kỳ Lân cầm gương Bát quái chiếu sang nhà mình.
Gương Bát quái thường có 2 loại Tiên Thiên và Hậu Thiên. Hóa sát dùng Tiên Thiên còn xoay chuyển hướng dùng Hậu Thiên.
Thái Sơn Thạch Cảm Đương
Đây là vật hóa sát khá phổ biến trong phong thủy, nhất là ở miền Bắc. Theo truyền thuyết thì ngày xưa ở núi Thái có một vị đạo sĩ tên là Thạch Cảm Đương, ông nhờ tài giỏi đã đánh đuổi được yêu quái chuyên quấy nhiễu các khuê nữ, nên người ta mới dùng tên ông khắc vào đá để trấn yêu, trừ tà.
Vật khí này thường có những dạng: một miếng đồng khắc 5 chữ đó và thêm một đầu Hổ (thường thấy nhất là dạng trên gương Bát quái đồng), một con Long Quy chở trên lưng tấm bia khắc 5 chữ này, 2 con Kỳ Lân ngồi trấn 2 bên bảo vệ một tấm bia khắc 5 chữ này (thường thấy nhất).
Ngoài việc trừ tà ma vào nhà quấy phá, vật khí này còn được dùng để trấn Thương sát lớn (giống như đồ vật trưng trên tủ hướng ra cửa, không phải treo Bát quái, cho những ai ngại treo Bát quái), Thiên kiều sát.
Hồ lô Bát Tiên
Là hồ lồ đồng có hình tưọng Bát Tiên xung quanh thân hồ lồ, mỗi vị cầm một món binh khí của mình.
Bát Tiên là 8 vị Tiên trong truyền thuyết Trung Quốc (Hà Tiên Cô, Lam Thái Hòa, Trương Quả Lão, Hớn Chung Lỵ, Lý Thiết Quài, Lã Đồng Tân, Tào Quốc Cữu, Hàn Tương Tử), tài phép vô song, chuyên trừ ma. Trong phong thủy, 8 vị Bát Tiên này tượng trưng cho sự trấn giữ 8 hướng, cho nên bài trí Bát Tiên trong nhà dù dưới hình thức nào (tranh, tượng, hồ lô Bát Tiên, đĩa bát Tiên…) cũng mang lại sự tốt lành cả. Hồ lô có tính hút, nên việc dùng hồ lô để hóa giải hay kích hoạt cũng dùng tính năng này.
Hồ lô Bát Tiên là loại pháp khí của Mật Tông Tây Tạng cũng lợi dụng tính năng hút này, nó có cổng dụng kích hoạt vượng khí rất tốt, và công năng trừ tà mạnh nhờ vào hình tượng Bát Tiên. Cho nên việc đặt hồ lô Bát Tiên phải tìm vị trí vượng khí thích hợp để đặt nó, không thể đặt bừa bãi.
Voi đồng
Voi rất giỏi hút nước, mà nước (Thủy) là tiền tài, nên công dụng đầu tiên của voi chính là hút tài lộc. Voi cũng là con vật chuyên chở nặng, nên ngưòi ta lợi dụng tính năng này của voi để chống đỡ các áp lực nặng trong phong thủy. Ngoài ra voi đồng còn dùng để hóa giải các hình sát như: Thiên kiều sát, Thích diện sát.
Voi đồng có nhiều dạng: có khi chỉ là cặp voi bằng đồng bình thường, có khi voi đồng chở trên lưng một chú cóc 3 chân, có khi voi chở trên lưng là một cái đấu (giống cái đấu đựng cống phẩm ngày xưa), có khi voi chở trên lưng là một cái Hốt Như Ý… Nhưng tựu trung công dụng kích hoạt tài lộc của chúng đều như nhau.
Long Phụng Trình Tường
Long Phụng tức Rồng và chim Phượng Hoàng. Đây là 2 linh thú đứng đầu trong Tứ Linh. Thông thường người ta dùng Rồng để tượng trưng cho người nam, còn chim Phượng Hoàng tượng trưng cho người nữ, nên trong các đám cưới người ta dùng kèm biểu tượng Rồng – Phượng là vì quan niệm này. Bên cạnh đó, ngưòi ta cũng chúc những câu như: Long Phụng (Phượng) hảo hợp, Long Phụng hòa duyên… Trong chế độ phong kiến thời xưa, chỉ có vua và hoàng hậu mới được ví với Rồng và Phượng Hoàng, đủ thấy đây là 2 biểu tượng linh thú rất cao quý.
Khi đứng riêng một mình thì Long có tác dụng ngừa tiểu nhân, hóa giải sát khí; còn Phụng thì có tác dụng chiêu quý nhân, kích hoạt sự nghiệp. Khi Long Phụng đứng chung gọi là Long Phụng Trình Tường (Rồng Phưọng bày điều lành) có tác dụng kích hoạt tình duyên, đem lại điều may mắn, Hóa Giải tất cả Sát khí ở nơi đặt nó. Long Phụng Trình Tường có thể làm bằng ngọc (dạng ngọc bội đeo), bằng gốm sứ cao cấp, bằng đồng.
Khi đứng riêng một mình, Long có thể làm bằng nhiều chất liệu, đá thường có, đá quý có, đồng có, vàng có… và cũng có nhiều kiểu dáng Kim Long Như ý, Song Long Hý Châu, Văn Xương Kim Long, Ngọa Long, Thụy Long…
Khi đứng riêng một mình thì Phụng thường được dùng trong tranh vẽ nhiều hơn, và nổi tiếng nhất có lẽ là hình tượng Bách Điểu Triều Phụng (100 con chim về chầu chim Phượng Hoàng). Tranh này người ta thường dùng nhất trong phong thủy để giúp cho sự nghiệp mình ngày càng thăng tiến.
Bảo Giải
Giải chính là con cua. Cua thường có tính đi ngang, cho nên công năng của nó đầu tiên phải nói đến là đánh bại những kẻ ngang ngược, kiếm chuyện vô cớ, hoành hành trong cơ quan, công sở. Ngoài ra cua có cái khí thế hơi… bá đạo, nên nó cũng là một vật dùng để trị tà (mà là những nơi chuyên bị âm binh quấy phá).
Cua thường được làm bằng đồng. Nhiều nơi người ta làm không chỉ dạng cua bình thường bằng đồng, mà còn làm thêm các thỏi vàng bên dưới, ngụ ý Bảo Giải Cát Tường (cua báu đem lại may mắn, tốt lành).
[highlight]Các vật phẩm phong thủy hóa sát trừ tà (Phần 1)[/highlight]
Cũng có nhiều lý thuyết gia không đồng ý và đặt vấn đề là nếu chẳng may mạng mình gồm toàn Sao khắc với mạng thì không lẽ mạng trống rỗng và sẽ chỉ đoán theo Cung thiên di. Hoặc nói một cách khác thực tế chẳng hạn như mình có 2, 3 người con ngũ hành khắc với bản Mệnh mình thì có thể coi như không có con được không ? cùng lắm là cha con không hợp tính nhau hoặc khi trưởng thành thì các con ở xa cha mẹ chứ chắc gì dám quả quyết rằng chúng bỏ bê cha mẹ. Về Tử Vi cũng vậy, có nhiều lá số chính tinh thủ Mệnh khắc bản Mệnh từ hình dáng cho đến tính tình, khả năng. Ví dụ, người có cơ lương thủ mạng ở thìn hay tuất thì dù bản Mệnh thuộc ngũ hành nào cũng có thể đoán là người đó cao lớn mặt tròn xoe, tính tình tháo vát nhiều mưu trí, nếu khác chỉ ở mức độ thành công trên đường đời mà thôi.
Nếu quá câu nệ ngũ hành thì dễ dàng đoán sai lầm, vậy tốt hơn hết nên giới hạn ngũ hành theo phạm vi hiểu biết của mình chứ đừng nên xét tỉ mỉ từng chính tinh, từng trung tinh bàng tinh rồi tính toán đến sự sinh khắc của những Sao đó ra Sao, sau đó lại đem so với mạng xem sinh Sao nào và khắc Sao nào, sau đó lại xem đến khía cạnh âm dương, nam bắc đẩu tinh, nghĩa là đủ mọi khía cạnh một lúc. Vì vậy sự quyết đoán đâm ra lủng củng, lúng túng và lệch lạc.
Nói tóm lại ngũ hành là con dao hai lưỡi biết sử dụng thì có lợi, ngược lại rất tai hại, thà không áp dụng còn hơn là áp dụng bừa bãi.
Có 4 tam hợp là : thân tí thìn thuộc thủy, dần ngọ tuất thuộc hỏa, tỷ dậu sửu thuộc kim, hợi mão mùi thuộc mộc. Nhìn thế tam hợp tuổi để xem sinh khắc của ngũ hành từ chỗ an Mệnh thân đến các Cung đại vận để biết sự thuận lợi hay nghịch cảnh.
Người tuổi thân tí thìn Mệnh thân cần đóng ở các Cung thân tí thìn mới là trúng cách đồng hành (vòng thái tuế), nếu Mệnh thân đóng ở các Cung dần ngọ tuất là hành khắc (xuất hay nhập) là cuộc đời có sự bất mãn khó khăn, nếu ở tỵ dậu sửu hay hợi mão mùi là gặp hành sinh nhập hay sinh xuất là cuộc đời luôn có sự hạn chế như sinh nhập (lại gặp thiên không), còn sinh xuất thì hay bị nhầm lẫn thiệt thòi.
Luận về ngũ hành tương ngộ : khoa lý học đông phương coi lẽ âm dương như sinh lý biến dịch và lấy ngũ hành làm lý luân sinh khắc, chu trình ngũ hành sinh khắc đều là chu trình khép kín :
+ Kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim.
+ Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim.
Luân lý đó ai cũng biết rõ ràng và không có thắc mắc, nhưng trường hợp đồng hành của ngũ hành thì rất phức tạp. Những ý kiến thì trái ngược nhau (tốt có, xấu có). Theo Dương Quân Tùng đời Minh thì trường hợp ngũ hành tương ngộ tạo ra 3 hình thái như :
Đồng hành mộc (mộc giáp mộc) thắng, tốt tuổi.
Đồng hành kim (kim gặp kim) thắng, phong phú.
Đồng hành thổ (thổ gặp thổ) hòa, vừa phải.
Đồng hành hỏa (hỏa gặp hỏa) bại, khẩu thiệt.
Đồng hành thủy (thủy gặp thủy) thái quá.
Lý thuyết trên đây đem ap dụng vào lý đoán các Sao các Cung trên tính cách bản hành nhất là vào đại vận của thái tuất sẽ thấy rõ mức độ thành bại của mỗi người.
Ví dụ : người mạng thổ nhập hạn thái tuế ở Cung mùi (thổ) thì không thể thoải mái bằng người mạng kim mà gặp thái tuế Cung thân hay Cung dậu (kim).
ÂM DƯƠNG : không nên xao lãng vấn đê âm dương vì luật âm dương là đầu dây mối nhợ của mọi sự giải thích Tử Vi như 12 Cung trên lá số bao giờ cũng có âm dương xen kẽ không bao giờ có 2 Cung âm hay 2 Cung dương liền nhau cả. Vấn đề 14 chính tinh cũng phải nhận định đâu là âm đâu là dương là thể lưỡng nghi.
+ Một bên là Tử Vi thiên phủ thiên tướng liêm trinh tham lang vũ khúc thất sát và phá quân.
+ Một bên là thiên cơ thái âm thiên lương cự môn thiên đồng thái dương.
Nhìn vào 12 Cung của mỗi lá số thì mỗi nhóm Sao dương hay âm bao giờ cũng xen kẽ mà đứng chứ không bao giờ có trường hợp chỗ của nhóm này lại có Sao của nhóm kia đứng lẫn vào nhau. Cung dần có Tử Vi thiên phủ thì 5 Cung tí thìn ngọ tuất thân có nhóm Sao tử phủ vũ tướng và sát phá liêm tham chia nhau mà đứng. Trái lại nếu Cung dần có thiên đồng thiên lương thì cũng ở 5 Cung tí thìn ngọ thân tuất nhóm Sao cơ nguyệt đồng lương và cự nhật cũng dàn ra ở 5 Cung đó mà an vị chứ chẳng bao giờ đóng ở Cung khác được. Không thể nào có trường hợp một Sao của nhóm này lại được an ở các Cung sửu mão tỵ mùi dậu và hợi được vì ở các Cung đó đã là cứ địa của hai nhóm Sao tử phủ vũ tướng và sát phá liêm tham rồi.
Đã có sự sắp xếp trật tự như vậy rồi Sao lại còn có Cung vô chính diệu ? vì trong 12 Cung chỉ có 14 chính tinh. Trường hợp nhiều Cung có 2 chính tinh đứng cặp với nhau trong 1 Cung như Tử Vi thất sát ở tỵ thì phải có liêm trinh phá quân ở dậu thiên đồng thái âm ở tí, cự môn thái dương ở dần, thiên cơ thiên lương ở thìn, vũ khúc tham lang ở sửu, tức là 6 cặp Sao đóng ở 6 Cung, chỉ còn Sao thiên phủ đóng một mình ở hợi và thiên tướng một mình ở mão thì còn lại 4 Cung không có nhóm Sao nào an vị, như vậy phải có đến 4 Cung vô chính diệu.
Nhưng dù vô chính diệu mỗi Cung chịu ảnh hưởng của một nhóm Sao xem như địa phận thuộc quyền của nó, không thể coi như đứng trung lập không theo nhóm nào được. Tử Vi thất sát ở tỵ Cung ngọ vô chính diệu phải coi như là đất của nhóm Sao có nguyệt đồng lương, cự nhật ở dần. Cung mão vô chính diệu phải coi như là thuộc địa của nhóm Sao tử phủ vũ tướng, sát phá liêm tham. Cung thân vô chính diệu là căn cứ của nhóm cơ nguyệt đồng lương cư nhật, và Cung dậu có liêm trinh phá quân thì Cung tuất (cũng coi như cùng thân) được coi là đất của nhóm cơ nguyệt đồng lương cự nhật.
Vậy khi đã nhận định được rõ ràng thế âm dương rồi ta sẽ không còn hiểu mù mờ một số sách vô căn cứ áp dụng một cách máy móc không cần hiểu nguyên do tại sao lại thế, cứ thấy Cung vô chính diệu là lôi kéo chính tinh của xung chiếu lên lấp chỗ trống vô chính diệ. Biết rằng Cung tam hợp, Cung chiếu hay xung chiếu tam hợp đều là đất dụng võ của nhóm âm hay nhóm dương. Nếu cứ áp dụng một cách máy móc như thế không hẳn là đúng vì trong cách tử phủ vũ tướng, sát phát liêm tham, cơ nguyệt đồng lương và cự nhật mỗi bộ đó đã có sự khác biệt gần như phân nửa vì bộ sát phá liêm tham thì 100% thực hành, bộ tử phủ vũ tướng chỉ còn 60% thực hành, 40% lý thuyết ; bộ cơ nguyệt đồng lương thì 100% lý thuyết còn bộ cự nhật thì 60% lý thuyết và 40% thực hành (theo cự thiên lương).
Ví dụ : Cung thân vô chính diêu, Cung xung chiếu là dần có 2 sao thái dương và cự môn, trên nguyên tắc có thể mượn 2 sao cự nhật ở dần để tô điểm cho Cung thân vì tam hợp thân tỵ là thủy khắc xuất với tam hợp dần ngọ tuất là hỏa, cự nhật có thể xem như chiến lợi phẩm của kẻ thắng đem về bồi đắp cho mình. Trái lại nếu Cung dần vô chính diệu mà Cung thân có cự nhật mà cứ áp dụng một cách máy móc mang cự nhật ở thân về lấp chỗ trống ở Cung dần vô chính diệu thì không hợp lý vì dần đã bị thân khắc nhập, người bại trận không thể đoạt chiến lợi phẩm của kẻ thắng.
Nếu cứ để cự nhật ở thân thay mặt cho dần vô chính diện, các sự đại diện đó là đại diện của một khuôn mặt cường quyền để lập lên trên đầu trên cổ kẻ bị trị. Cái chính xác luôn ở trong tam hợp, tức là phải lấy đồng âm ở ngọ và cơ lương ở tuất mới là anh em ruột thịt của vô chính diệu. Để ra khỏi bế tắc này thì ta chỉ áp dụng vô chính diệu đâu là tử phủ vũ tướng, sát phá liêm tham, đâu là cơ nguyệt đồng lương, đâu là cự nhật.
Ngoài ra khách quan mà nhìn vào lá số Tử Vi, người ta nhận thấy 14 chính tinh được chia làm 2 phái âm dương rõ rệt nhưng sau lại chia ra đến tứ tượng. Bên dương như trên đã trình bày gồm hai bộ tử phủ vũ tướng và sát phá liêm tham. Trái lại bên âm gồm 6 sao có tinh thần đoàn kết hơn nhiều, nhờ ở cặp thái dương thái âm mà thiên lương nêu cao đạo lý để cự môn theo dõi thiên cơ, thiên đồng lên tiếng để phê bình. Nói tóm lại nhóm sao âm gồm 2 nhóm cơ nguyệt đồng lương và nhóm cự nhật.
Nghịch lý âm dương : vậy khi gặp phải cảnh nghịch lý âm dương ắt phải có cảnh không hợp cách, vì thế lá số Tử Vi phải trình bày thêm nhị hợp để cảnh giác sự hơn thiệt giữa tư cách quân tử nên thêm tinh thần suy tính tùy lúc. Cũng như lục hại, trường hợp nào cũng phải e dè. Về nhị hợp và lục hại sẽ có một mục riêng để trình bày khúc triết hơn.
Trích từ Vietbao
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Đá mắt hổ được con người tác chế thành các sản phẩm rất đẹp và được sự yêu thích của phái nữ. Từ vòng cổ nhẫn và có cả vòng tay đá mắt hổ…. Nhưng để đá sản phẩm vòng đá mắt hổ phát huy hết công năng của nó thì trước tiên phải chọn hợp mệnh cũng như hợp tuổi mình. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cho các bạn cách chọn vòng đá mắt hổ hợp mệnh, hợp tuổi. Chúng ta cùng tham khảo bài viết để xem trong các loại vòng đá mắt hổ đỏ, mắt hổ vàng, mắt hổ xanh… loại nào hợp với bạn.
Nội dung
Đá mắt hổ (xem thêm tại đây) hay còn gọi là ngọc mắt hổ, tên khoa học là tiger’s eye (hay tiger eye) là đá chatoyant (chatoyant gemstone là từ dùng chỉ nhóm đá có hiệu ứng mắt mèo), thường là một loại đá biến chất có màu sắc từ vàng đến nâu đỏ, bề mặt đá có hiệu ứng “ánh lụa – silky lustre” vô cùng bắt mắt.
Đá mặt hổ là một biến thể thuộc nhóm đá thạch anh. Một dạng biến thể gần giống với loại đá này là đá mắt chim ưng xanh (tên khoa học là Hawk’s eye), ở Việt Nam Hawk’s eye thường được gọi là đá mắt hổ xanh.
Đá mắt hổ có thành phần hóa học là SiO2, độ cứng là 7/10 (theo thang độ cứng Mohs), có ánh thủy tinh bắt mắt.
Chúng có nhiều biến thể với màu sắc khác nhau như mắt hổ đỏ nâu, mắt hổ vàng nâu, mắt hổ vàng tươi, mắt hổ xanh đen (mắt chim ưng). Loại phổ biến nhất là loại màu vàng nâu.
Loại đá này được tìm thấy khá nhiều ở các tỉnh khu vực miền Trung, Việt Nam.
Đá mắt hổ là viên đá hộ thân tuyệt vời. Trong thạch trị liệu học, chúng được cho là mang đến cảm xúc vững vàng, tâm lý ổn định cho con người. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng năng lượng của chúng tác động đến hệ thống thần kinh, làm cho con người tăng cảm giác tự tin, sẵn sàng trong hoạt động nhằm đạt được mục đích cá nhân, tăng tính thực tế, giúp đầu óc minh mẫn hơn trong việc quyết định các vấn đề.
Trong văn hóa phương Đông, đá mắt hổ được cho là mang đến may mắn, thịnh vượng, tượng trưng cho tiền tài trong phong thủy.
Trong văn hóa Ấn Độ và một số vùng dân tộc Nam Á, đá mắt hổ còn có nghĩa là “sự bảo vệ”. Người dân ở đây thường mang theo trong các chuyến công tác, du lịch để cầu bình an. Các thủy thủ, người làm nghề đánh cá, khai thác biển thường mang theo đá này để tăng sự tập trung tầm nhìn.
Trong thiền học, các thiền sư thường sử dụng đá mắt hổ để hấp thu năng lượng, khai mở luân xa thứ 3.
Như vậy vòng tay đá mắt hổ có màu sắc đẹp, có hiệu ứng ánh sáng bắt mắt (hiệu ứng ánh lụa), có độ cứng 7/10 nên rất bền, khó vỡ hơn những loại vòng đá khác.
Vòng tay đá mắt hổ đỏ nâu được làm từ đá mắt hổ đỏ nâu, đây là loại khá hiếm trong các biến thể của mắt hổ. Màu nâu đỏ trong phong thủy ngũ hành thuộc hành Hỏa. Vì vậy, vòng đá mắt hổ đỏ nâu hợp với những người mệnh Hỏa và mệnh Thổ. (tra tuổi của bạn ở cuối bài viết)
Vòng đá mắt hổ vàng nâu được làm từ đá mắt hổ vàng nâu, đây là loại biến thể phổ biến nhất trong tự nhiên. Màu nâu vàng trong phong thủy ngũ hành thuộc hành Thổ. Vì vậy, vòng đá mắt hổ vàng nâu hợp với những người mệnh Thổ và mệnh Kim.(tra tuổi của bạn ở cuối bài viết)
Vòng đá mắt hổ màu vàng tươi được làm từ đá mắt hổ vàng. Đây là biến thể nằm lẫn với biến thể nâu vàng, chúng là loại hiếm gặp nhất trong tự nhiên, có màu sắc đẹp và giá trị thương mại cao. Màu vàng tươi tượng trưng cho hành Thổ. Vì vậy, vòng đá mắt hổ vàng tươi hợp với những người mệnh Thổ và mệnh Kim. (tra tuổi của bạn ở cuối bài viết)
Vòng đá mắt hổ xanh đen cũng là loại biến thể hiếm gặp nhất thuộc họ mắt hổ. Chúng thường được gọi với cái tên khác là vòng đá mắt chim ưng, do màu xanh đậm có cảm giác huyền bí, sâu lắng, rất giống với đôi mắt của loài chim ưng. Màu xanh đen này trong phong thủy tượng trưng cho hành Thủy. Vì vậy, vòng đá mắt hổ xanh đen hợp với những người mệnh Thủy và mệnh Mộc. (tra tuổi của bạn ở cuối bài viết)
Dựa vào bảng tra cung mệnh theo năm sinh dưới đây, bạn sẽ biết mình mệnh gì, qua đó lựa chọn được một sản phẩm màu sắc hợp mệnh.
1960 | Canh Tý | Thổ |
1961 | Tân Sửu | Thổ |
1962 | Nhâm Dần | Kim |
1963 | Quý Mão | Kim |
1964 | GiápThìn | Hỏa |
1965 | Ất Tỵ | Hỏa |
1966 | Bính Ngọ | Thủy |
1967 | Đinh Mùi | Thủy |
1968 | Mậu Thân | Thổ |
1969 | Kỷ Dậu | Thổ |
1970 | CanhTuất | Kim |
1971 | Tân Hợi | Kim |
1972 | Nhâm Tý | Mộc |
1973 | Quý Sửu | Mộc |
1974 | Giáp Dần | Thủy |
1975 | Ất Mão | Thủy |
1976 | BínhThìn | Thổ |
1977 | Đinh Tỵ | Thổ |
1978 | Mậu Ngọ | Hỏa |
1979 | Kỷ Mùi | Hỏa |
1980 | CanhThân | Mộc |
1981 | Tân Dậu | Mộc |
1982 | NhâmTuất | Thủy |
1983 | Quý Hợi | Thủy |
1984 | Giáp tý | Kim |
1985 | Ất Sửu | Kim |
1986 | Bính Dần | Hỏa |
1987 | Đinh Mão | Hỏa |
1988 | Mậu Thìn | Mộc |
1989 | Kỷ Tỵ | Mộc |
1990 | Canh Ngọ | Thổ |
1991 | Tân Mùi | Thổ |
1992 | NhâmThân | Kim |
1993 | Quý Dậu | Kim |
1994 | GiápTuất | Hỏa |
1995 | Ất Hợi | Hỏa |
1996 | Bính Tý | Thủy |
Chất lượng vòng đá mắt hổ được đánh giá dựa trên tiêu chí là: kiểu cắt, độ bóng sáng, hiệu ứng quang học “ánh lụa”, tạp chất lẫn trong đá, độ trơn và độ mịn của bề mặt đá.
Kiểu cắt: là viên đá được cắt tròn, đều, không méo mó sai lệch;
Độ bóng sáng: là viên đá được mài bóng, kích thích tối đa ánh thủy tinh;
Hiệu ứng quang học: là viên đá phát huy tối đa hiệu ứng ánh lụa, viên đá dưới ánh đèn neon hoặc ánh sáng ban ngày trông “rực lửa” như mắt con hổ;
Tạp chất: viên đá sạch, không lẫn các tạp chất, khoáng vật khác.
Cuối cùng, trên thị trường có xuất hiện loại sản phẩm tên là vòng đá mắt mèo, loại này người mới tìm hiểu về đá thường dễ nhầm lẫn. Vòng đá mắt mèo cũng là loại sản phẩm giống với đá mắt hổ (cùng họ mắt mèo chatoyant), nhưng loại này ở thị trường Việt Nam hiếm, nếu là loại 100% tự nhiên sẽ có giá thành thực tế cao hơn so với mắt hổ.
Loại vòng đá mắt mèo thường bị làm giả bằng nhựa, nhà sản xuất dùng một thủ pháp trong giới sản xuất đồ trang sức gọi là “bơm ánh” để vòng mắt mèo có hiệu ứng mắt mèo, khách hàng dễ bị nhầm lẫn.
Hướng tiền sảnh | Màu hung | Màu cát | Hình kỵ | Hình cát |
Bắc | Đỏ, hồng | Trắng, sữa | Vuông | Làn sóng |
Nam | Vàng, da cam | Đỏ, hồng | Làn sóng | Tam giác |
Đông | Trắng, sữa, kim | Xanh | Tròn | Cao, thẳng |
Tây | Đỏ, hồng, tím | Trắng, sữa, kim | Tam Giác | Tròn |
Tây Bắc | Đỏ, hồng, tím | Trắng, sữa, kim | Tam giác | Tròn |
Tây Nam | Xanh | Vàng, da cam, nâu | Thẳng đứng | Vuông |
Đông Bắc | Xanh | Vàng, da cam, nâu | Thẳng đứng | Vuông |
Đông Nam | Trắng, sữa, kim | Xanh | Tròn | Cao, thẳng |
Họ tên của chúng ta không chỉ là dấu hiệu đại diện cho một cá nhân mà còn liên quan đến tiền đồ một đời người, vì thế ai cũng hy vọng mình có được một cái tên hay.
Khổng Tử nói: “Danh bất chính tắc ngôn bất thuận”. Tô Đông Pha nói: “Trên thế gian chỉ có tên là có thực không thể dối trá”. Nghiêm Hạ thì nói: “Một tên đã lập thì đi cùng năm tháng”. Các tiên hiền đều đã nêu ra được tầm quan trọng của họ tên đối với con người. Cổ ngữ lại có câu “Cho con ngàn vàng không bằng dạy con một nghề, dạy con một nghề không bằng cho con một cái tên hay”, đủ thấy cái tên có tầm quan trọng như thế nào.
Mỗi cái tên đều gửi gắm một niềm hy vọng thành công trong sự nghiệp, tiền đồ rộng lớn, cuộc sống sung túc, mưu cầu thông minh, xinh đẹp, mạnh khỏe cát tường, ý chí kiên cường, lòng ôm chí lớn, tri thức uyên thâm, nội hàm văn hóa…của mỗi con người. Do đó, cái tên không đơn giản chỉ là dấu hiệu hay mã số của mỗi con người.
Họ tên là kết quả tổng hợp tinh túy của các ngành khoa học như tâm lý học, xã hội học, triết học, lịch sử, dân tục học, là dấu mốc biểu thị hình tượng, tố chất, phẩm vị của mỗi cá nhân. Một cái tên đẹp phù hợp với mình có thể đưa ra những ám thị, dẫn dụ về mặt tâm lý, giúp con người tự tin, hỗ trợ thành công trong công việc và sự nghiệp. Họ tên đi theo mỗi con người cả đời, ảnh hưởng suốt đời. Mệnh tốt, vận hay lại thêm một cái tên đẹp thì có thể giúp bạn luôn công thành danh toại, mọi việc như ý.
Chữ tượng hình Trung Quốc bắt nguồn từ “Vật” trong tự nhiên, bản thân nó đã có linh khí sinh mệnh. Khi chữ viết trở thành tên của người và tên công ty, nó thường được gửi gắm hy vọng của con người, lại có thể tàng ẩn những thông tin dẫn dụ của thiên địa vũ trụ đối với con người, công ty. Tên tựa hư mà thực, đã thực lại truyền thần. Hàng ngàn năm nay, Tính danh học lưu truyền không suy, được đông đảo quần chúng tin dùng, tự đã có cái lý của nó. Họ tên có thể ảnh hưởng đến vận mệnh, là uy lực của “Số” và “Âm”. Chữ viết tạo nên họ tên được cấu thành từ các chấm và nét vạch, là cái căn bản của “Số”. Nói cách khác, chữ viết có chứa số, chữ viết chính là số. Số là biểu hiện của Hồn. Cổ nhân có câu “số trời”, “số trời khó thoát”…, có thể thấy sự ảnh hưởng của “Số” đối với vận mệnh đời người.
Ngày trước, nhà cách mạng giai cấp vô sản Tôn Bính Văn, người Nghi Tân, Tứ Xuyên là một trong những nhà lãnh đạo quan trọng của Đảng Cộng sản thời kỳ đại cách mạng. Xét về số lý của họ tên, Địa cách số 13 là số thủ lĩnh, nhưng Nhân cách số 19 lại đại diện cho “gió mây che lấp mặt trời, vất vả liên miên, tuy có trí mưu nhưng vạn sự đứt gánh”, lại là “số gây tổn thọ”. Số lý tam tài ngầm chỉ “tuy có thể phát triển nhất thời, nhưng nền móng không vững, dễ sinh cấp biến cấp họa”. Sau này, ông bị bắt và sát hại, vừa hay ứng với số này. Qua đó có thể thấy, sự tốt xấu của họ tên mỗi cá nhân không đơn giản ảnh hưởng đến hình tượng, ở tầng sâu nó còn có thể phản ánh vận mệnh và sự nghiệp của mỗi con người.
Cho nên, một cái tên tuy đơn giản nhưng thực tế lại hàm chứa rất nhiều kiến thức. Ngày nay, các bậc phụ huynh đều bắt đầu quan tâm dần đến việc đặt tên cho con cái. Hy vọng các bậc cha mẹ trước hết có một cách nhìn toàn diện và rõ ràng đối với họ tên để từ đó chọn cho con mình một cái tên hay.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nếu không, họ sẽ bỏ lỡ mất thời cơ có được người mình yêu thương.
Sắc thái tình cảm của người tuổi Tý khá phong phú và thường "đứng núi này trông núi nọ". Họ cần cố gắng điều hòa tình cảm của mình, tránh trường hợp yêu nhiều mà cuối cùng lại không thu được kết quả. Nếu thấy hợp tình, hợp duyên, họ nên mở rộng tấm lòng kẻo lại rơi vào tình cảnh "đêm dài lắm mộng".
Để tạo được ấn tượng đối với phái kia, người tuổi Tý nên thể hiện những nét vốn có của mình, đối xử thân thiện, chân thành với mọi người. Để tạo được sự hấp dẫn với nam giới, nữ tuổi Tý có thể mặc những bộ quần áo trẻ trung, năng động và hoạt bát.
Theo phong thủy, một số đồ vật đem lại may mắn và tình yêu cho người tuổi Tý là: hoa hồng, quả nhãn, bạch kim.
Các bài viết sau cùng chủ đề người tuổi Tý, có thể bạn quan tâm:
(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)
Tượng sư tử trấn giữ trước một trụ sở ngân hàng ở Hong Kong tượng trưng cho việc bảo vệ tài sản. Tầng trệt mở của tòa nhà này cũng giúp năng lượng lưu thông tự do.
Thời điểm năm 2008 là lúc các công ty đều cùng nhau cắt giảm các chi phí, nhưng Chau không ngại tốn tiền mời thầy. Thầy phong thủy bảo ông Chau hãy đổi cổng chính của nhà máy. Kết quả là năm đó vô số hãng phá sản, còn doanh thu của hãng ông Chau tăng gấp đôi.
Ông Chau, người đã nghe lời tư vấn của các thầy phong thủy khoảng hai mươi năm nay, là đại diện cho nét tân cổ giao duyên trong cách người châu Á làm kinh tế. Với bằng cao học ngành kỹ thuật từ đại học Cornell ở Mỹ, ông Chau sở hữu một công ty có doanh thu 2 triệu USD/năm, thuê 1.400 lao động. Bất chấp những ngờ vực của người phương Tây, với ông, phong thủy là một công cụ kinh doanh cốt yếu. "Tôi chỉ tin vào các con số nhưng tôi có tư duy mở", Chau nói.
Phong thủy là một hệ thống quy tắc cổ của Trung Quốc giúp tăng vận may gia chủ bằng việc sắp đặt các đồ vật và dự đoán tài lộc qua ngày tháng và các văn bản cổ. Nó được sử dụng theo nhiều cách khác nhau: các trung tâm mua sắm, tòa nhà văn phòng và sòng bạc khắp châu Á áp dụng quy tắc của phong thủy trong thiết kế nhằm tạo ra sự thịnh vượng. Những cá nhân thường nghe lời khuyên của thầy phong thủy để quyết định ngày tốt nhất cho việc cưới hỏi, sinh con hay chuyển nhà.
Chau cho biết các thầy phong thủy đã giúp ông giải quyết một loạt vấn đề nảy sinh trong công ty, và trong một số năm, ông đã tiêu tốn tới 100.000 USD để mua lời khuyên từ thầy phong thủy.
Mới đây nhất, ông xin lời khuyên về vấn đề nhân sự, sau khi nhiều kỹ thuật viên làm việc lâu năm tại nhà máy của ông ở Trung Quốc xin thôi việc với ý xấu.
Để kiếm được khoản tiền bồi thường nghỉ việc, các kỹ thuật viên đó bắt đầu đi làm mà chẳng làm gì cả. Chau cho biết ông không có lựa chọn nào khác ngoài việc sa thải họ và miễn cưỡng trả tiền.
Phát chán ngấy, ông mời một thầy phong thủy đến thăm. Thầy nói cửa nhà vệ sinh đối diện với lối vào chính, và luồng khí xấu đồng nghĩa với việc mọi người ra đi không vui vẻ .
"Ông ấy nói sao anh không xây một bức tường chắn dòng khí?", Chau kể. "Sau sự thay đổi đó, tôi không phải trả thêm một đồng xu nào nữa", ông cho biết.
Theo lời khuyên của rất nhiều thầy phong thủy, ông Chau cũng thay đổi màu của tấm mành trong phòng hội thảo từ xanh lá sang trắng sữa, và thêm vào một bể cá trong văn phòng. Tuy nhiên, đến nay ông vẫn chống lại lời khuyên di dời hội sở ở Hong Kong khỏi địa chỉ hiện tại. "Đó lại là vấn đề tiền tươi thóc thật".
Kerby Kuek, thầy phong thủy giúp ông Chau về vấn đề nhân sự cho biết 60% khách hàng của ông là các doanh nghiệp. Quãng thời gian gần năm mới Âm lịch là thời điểm bận rộn nhất của ông Kuek vì các khách hàng muốn một cuộc "kiểm toán thường niên" giúp tối đa hóa tài lộc của họ trong năm tới.
Trước khi gặp gỡ khách hàng, ông sẽ nghiên cứu sơ đồ mặt bằng văn phòng của khách và tra bản đồ Google để hiểu hơn về địa điểm của tòa nhà. "Phong thủy liên quan tới môi trường tự nhiên. Chúng tôi cố gắng khai thác năng lượng tốt và tránh năng lượng không tốt", ông cho biết.
Lời tư vấn của ông bao quát từ kiến trúc văn phòng tới màu sắc chuẩn cho đồng phục nhân viên, tới việc thay bóng đèn và sửa những chiếc bàn gãy, đặc biệt nếu chúng nằm ở góc phía nam của văn phòng, nơi biểu thị cho yếu tố Hỏa và niềm đam mê. Thầy phong thủy này cũng giúp chọn ứng viên tiềm năng bằng cách nhìn ảnh và ngày sinh. Một người sinh vào những tháng hè của năm Rắn phù hợp nhất với công việc văn phòng, hậu trường, Kuek nói khi đề cập đến một trong 12 con giáp.
"Tuy nhiên nếu họ sinh vào năm Sửu (Trâu), vào mùa đông, họ cần phải ở "tiền tuyến", gặp gỡ mọi người và trở nên năng nổ", ông nói thêm.
Kuek là một người thú vị, và ngôn ngữ ông sử dụng được điểm xuyết bởi những thuật ngữ trong nghề chính của ông: bán cổ phần, cổ phiếu cho một ngân hàng đầu tư.
Nền tảng học vấn về ngành tài chính của thầy phong thủy này giúp những khách hàng là doanh nghiệp cảm thấy thoải mái hơn, và không đồng nghiệp nào coi nghề tay trái của ông là một chuyện lạ, theo Kuek.
Các khách hàng của Kuek cũng bao gồm cả các công ty đa quốc gia, những công ty nhận ra rằng họ phải xem xét các vấn đề như phong thủy một cách nghiêm túc khi mở rộng kinh doanh ở châu Á.
Ví dụ, nhà đấu giá Sotheby chỉ bắt đầu làm việc ở khu văn phòng mới tại Hong Kong năm ngoái, sau khi một thầy phong thủy chọn "ngày đẹp". Ở Sydney, sòng bài Star City cũng thêm một "mái hiên phong thủy" trong dự án tái xây dựng trị giá 760 triệu USD.
Giáo sư Michael Mak, thuộc đại học Newcastle, Australia, là người nghiên cứu việc sử dụng phong thủy trong thiết kế và kiến trúc đô thị từ lập trường khoa học.
Ông cho rằng có "dữ liệu mềm" ở dạng khảo sát và phỏng vấn cho thấy những tòa nhà áp dụng nguyên tắc phong thủy khiến cho người dân ở đó thấy vui vẻ hơn, bất kể đó là trung tâm mua sắm, khu văn phòng hay một bệnh viện.
Và ông chỉ ra rằng sự phổ biến của cửa hay các sân trong giúp đem môi trường tự nhiên vào tòa nhà là một trong những nguyên tắc phong thủy hiện hữu trong kiến trúc hiện đại. Mak vẫn nghi ngờ đối với những tuyên bố về vũ trụ của phong thủy và cho biết đó vẫn là một vấn đề cần nhìn nhận với nhiều sự phản biện hơn.
Lời khuyên phong thủy không hề rẻ và đã có nhiều vụ tai tiếng liên quan đến những thầy phong thủy vô đạo đức. Ông Kuek thu về 1.300 USD cho việc tư vấn đối với văn phòng rộng dưới 18 m2 và có thể tới 6.500 USD cho văn phòng rộng từ 180 tới 460 m2.
Chau cho biết ông đã từng gặp những chuyên gia tồi. Một người từng khuyên ông sơn tường văn phòng màu đen. Người khác thì thúc ông mua những món đồ phong thủy đắt đỏ. Mặc dù vậy, Chau vẫn không thôi gặp thầy phong thủy và sẽ có một cuộc gặp thầy để xem ông và doanh nghiệp của mình sẽ làm ăn ra sao trong năm Quý Tỵ này. "Phong thủy không thể khiến mọi thứ xảy ra, nhưng nó có thể hỗ trợ bạn và giúp làm mọi việc dễ dàng hơn", Chau nói.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Có xí nghiệp bề ngoài trông có vẻ hưng vượng, tiền vốn hùng hậu, tiền đồ sáng sủa, nhưng khi gặp bại vận thì tiền của cứ đi dần, đến một lúc nào đó tai vạ bất ngờ đổ lên đầu, lúc đó chắc chắn sập tiệm, đóng cửa. Có người gia tư hàn ức vạn, của cải dồi dào, nhưng khi rơi vào vận kiếp tài, bại tài thường đúng lúc phát tài rất nhanh, rất lớn nhưng sau đó rất mau khuynh gia bại sản, chuyển thành phá sản. Những ví dụ như thế xưa nay trong và ngoài nước đều có, đặc biệt trong xã hội buôn bán hiện đại, sự chuyển hóa rất nhanh chóng. Cũng có người nhìn thấy người khác làm ăn nên nổi, tự mình đã qua nên không thể nào phát tài được nữa. Người xưa có câu : " Có của không bằng sắp phát tài, sắp phát tài không bằng biết giữ của lại". Cho nên muốn biết được các thông tin về tài vận, phải hướng đến điều may, tránh xa cái bất lợi, trước phải dự đoán sau mới hành động. Như thế mới gọi là " tự mình nắm vững vận mệnh của mình". Ðối với từng người là thế , đối với các xí nghiệp nhà nước lại càng cần phải thế.
I. DỰ ÐOÁN TÀI VẬN (1)
- Tứ trụ có tài thì cái ăn, cái mặc không thiếu.
- Tài nên tàng ẩn, tàng thì phong phú hùng hậu. Tài có kho, phát tài thì có thể giữ được .
- Tài lộ rõ là người hào phóng khảng khái.
- Tài là thê tinh, có tài thì có vợ, ngược lại thì khó khăn.
- Tài là nguyên thần của quan tinh, không có của thì khó mà quyền quý.
- Thân vượng, tài vượng là phúc, nếu thêm quan tinh thì càng tuyệt diệu.
- Tài nhiều, thân nhược cần có ấn thụ để hỗ trợ thân.
- Thân vượng, tài nhiều là tiền của vừa ý.
- Mệnh nam có đủ thìn, tuất, sửu, mùi là bậc giàu sang phú quý.
- Trong trụ tài nhiều, thân vượng là suốt đời phú quý.
- Trụ giờ có thiên tài, các cung khác kị không nên có, như thế mới quý.
- Trụ giờ có thiên tài, các cung khác kị không nên có, như thế mới quý.
- Cung tị đóng ở ngày quý là tài quan trọn vẹn.
- Trong trụ tài, quan có kho là đầy nhà châu báu.
- Trong trụ thiên tài nhập tạp khí là người phát tài rất lớn.
- Tài gặp trường sinh là ruộng vạn mẫu.
- Trong trụ gặp đất hợp tài là cơ nghiệp bền vững.
- Quan nhập mộ, tài nhập mộ, sau khi xung khai sẽ phát tài.
- Tài tinh nhập mộ khi được xung phá thì tiền của đầy kho.
- Tứ trụ thuần tài, thân vượng thì người vừa sang, vừa giàu có.
- Lệnh tháng kiến lộc vận lại gặp tài quan thì tự nhiên phất lên giàu có.
- Nếu trụ giờ gặp lộc mà không có trạch mã thì người này chỉ giàu không sang.
- Tài làm dụng thần là người giàu có.
- Thân vượng, tài nhược, nếu được thực thương sinh tài thì mới giàu.
- Trụ giờ có mã tinh, không bị xung phá là lấy được vợ đẹp, được của từ bên ngoài đến, sinh con vinh hiển, tài sản hùng hậu. Ðó không phải là của cha mẹ để lại, mà là được từ bên ngoài đưa đến, nên cần kiệm, không nên tiêu phí.
- Tài tinh ở ngôi chính nắm quyền, trụ ngày mạnh là người danh lợi song toàn, nếu gặp được ấn thụ là được hổ trợ mạnh mẽ, châu báu đầy nhà, phúc bền lâu.
- Tài nhiều lại dựa vào ấn thụ để hộ thân là người có vợ hiền, con đẹp, cuối đời hạnh phúc.
- Tài kho ở vượng địa là suốt đời của cải hùng hậu.
- Thân nhược, tài nhiều khi hành đến vận tỉ kiếp thì mới phát tài.
- Người tuổi mậu lấy thủy làm tài, thân ty thìn đóng ở kho, khi mệnh nhập quý cách mới giàu. Nếu không gặp cách thì sự giàu sang vừa phải.
- Có tài gặp sát, người tuổi dần, ngọ, tuất gặp tân sửu, người tị, dậu, sửu gặp ất mùi, người thân, tý, thìn gặp bính tuất ; người hợi, mão, mùi gặp mậu thìn, như thế gọi là thê tài tụ hội. Người gặp như thế sẽ giàu, nhưng phải đề phòng vợ làm hại.
- Ấn thụ thông suốt, gặp phát tài thì phát, gặp quan thì vinh hiển.
- Tài, quan làm mộ kho nếu không xung thì không phát.
- Tài kho gặp tam hợp, tất phát tài mạnh mẽ.
- Thìn, tuất, sửu, mùi gặp hình xung không ai không giàu.
- Thương quan, thương hết để có thể sinh ra tài, khi tài vượng sẽ sinh quan.
- Thương quan gặp kiếp thì sẽ gặp của.
- Thương quan sinh tài thì sẽ tự nhiên giàu có.
- Thiên tài là thiên lộc, là của tự nhiên không lao động mà có, là được hưởng phúc sẵn có.
- Thực thần gặp tài, nhưng tài nhiều thì không sang mà chỉ là trọc phú.
- Thực thần có cát thần phù giúp thì giàu có tiếng.
- Trong trụ tài, quan tự vượng là mệnh phú ông.
- Can ngày, can tháng, chi ngày, chi giờ đồng thời xung tài của cung đối diện thì phát tài.
- Trong trụ tài kho không bị thương tổn thì của cải nhiều.
- Thương quan của ngày, giờ bị tổn thương hết thì sẽ phát tài một cách bất nghĩa.
- Tài đóng ở trụ ngày là tài ở đất vượng, là tượng người vừa được vợ vừa được của ; nếu tài không ở đất tử, mộ là người được của phía nhà vợ.
- Tài tinh chỉ có một ngôi mà được thời là nhà phú quý, người tính nóng, hai ngôi thì tính khí nóng nửa phần ; ba, bốn ngôi thì hao thân suy bại.
- Thân vượng có thể thành gia lập nghiệp : thân suy không thắng tài là người vất vả.
- Trong trụ đủ cả tài, quan, ấn là người không sang thì giàu.
- Tài tàng ẩn ở trong quan kho, là sự quý báu hiếm thấy.
- Trong trụ có tài, quan cùng với ấn thụ là người vàng bạc nhiều.
- Quan hưu tù, ấn vượng là được nhiều tiền của.
- Trong Tứ trụ thương quan sinh ra tài thì nguồn của dồi dào.
- Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thiên đức, nguyệt đức lại gặp tài quan thì đó là nhà phú hào.
- Bản thân khắc trạch mã là phát của ở nước ngoài.
- Thân nhược, tài nhiều lại còn gặp tỉ kiếp lạm dụng thần thì tiền bạc đầy lưng.
- Tài quan đều có và lộ rõ thì rất vinh hiển.
- Thiên tài gặp quan kiêm thực thần thì chắc chắn vinh hoa.
- Tài nhiều lại lộ rõ thì thành bại thất thường.
- Tài nhiều gặp tỉ kiếp trợ giúp là nhà giàu thịnh vượng.
- Tài gặp đất phùng sinh tiền của vạn kho.
- Thương quan bị thương tổn khi hết thương tổn, trở lại sinh tài thì châu báu tự nhiên mà đến.
- Trong mệnh có cả lộc mã và quý nhân là người có phúc được của.
- Mã chạy vào đất tài là phát tài nhanh như mãnh hổ.
- Chính tài là của ít, thiên tài là của nhiều. Thiên tài làm dụng thần là người phú quý.
- Thân mạnh, tài vượng thì có lợi cho thanh danh, trước tài sau ấn thì chuyển thành người có phúc.
- Trong Tứ trụ kiêu thần mừng nhất gặp tài tinh, khi thân vượng gặp được là phát phúc, thân nhược gặp phải là tai hoạ.
- Nhâm quý gặp thân, tí, thìn cục là phúc nhiều, tài nhiều.
- Thực thần gặp ấn là tiền của ngày một nhiều.
- Thất sát có chế ngự là người đại quý.
- Trụ tháng gặp ấn thụ là người giàu sang, vinh hiển.
- Trụ ngày vượng, tài tinh yếu lấy thực thương xì hơi trụ ngày để sinh tài.
- Mệnh nữ tài quan tàng kho, nếu bị hình xung mất thì không giàu được .
- Tài của địa chi phục ám sinh thì nhờ đó dần dần giàu có.
- Tài đóng ở nhật nguyên, hành đến vận tài thì sẽ phát.
- Trong trụ vốn có tài tinh thì nên hành đến quan vận ; vốn có quan tinh thì nên hành đến tài vận, hành tài vận sẽ sinh quan, hành quan vận sẽ phát tài.
- Trụ nhật xung kình dương gặp thất sát khi hành đến tài vận sẽ giàu có.
- Trong trụ tài quan đều vượng, khi hành đến tài vận thì sẽ giàu.
- Trước tỉ, sau tài là trước nghèo sau giàu.
- Trụ giờ gặp tài kho, hành đến tài vận là cuối đời phát giàu.
- Trong trụ năm, tháng, quan ấn tải đều có là tổ tiên phú quý ba đời.
- Quan tinh là lộc, tài tinh là mã, hành đến tài vận thì sẽ giàu.
- Tài quan yếu, trụ ngày vượng thì nên hành đến vận tài quan là tốt nhất.
- Tài mừng gặp sát, mười người có đến chín người phú quý.
- Ấn nhiều hành đến tài vận sẽ phát phúc.
- Năm, tháng, giờ đều sinh trợ cho ngày, như thế là ấn thụ sinh của, hành đến vận quan ấn thì sẽ giàu.
- Ấn sợ gặp tài, trong trụ có tỉ kiếp gặp tài là tốt.
PHÁT TÀI :
Ðây là Tứ trụ của một người năm 1986 nhờ đoán vận. Tôi xem trong Tứ trụ thấy thực thần sinh tài phú quý tự nhiên đến. Hành đại vận mão nên đoán, năm giáp tí 1984, năm ất sửu 1985 nhất định phát tài, tiền của vào như nước. Người đó phấn khởi nói : quả đúng như thế, hai năm đó mọi mặt rất trôi chảy, buôn bán vụ nào cũng thắng lợi. Tứ trụ này ứng với câu : "Tài đóng ở nhật nguyên hành đến vận tài thì phát."
Người này tháng 6 năm 1987 nhớ đoán. Trong trụ thiên tài thấu rõ, kho tài lặp đi lặp lại. Tính lưu niên , đại vận thấy đại vận giáp tí thực thần sinh tài, lưu niên là bính dần. Ðúng với dần, ngọ, tuất tam hợp cục, lại còn kho, nên tôi đoán : " năm 1986 phát tài lớn". Người này rất thành thực nói : "dúng năm ngoái đã lãi hơn 300 vạn".
Tứ trụ này ứng với câu : " Tài tinh có kho thì phát tài có chỗ chứa", "tài tinh nhập mộ là giàu có nghìn vàng, tài kho gặp đất tam hợp tất phát vạn kim".
Tháng 10 năm 1985 ông Lý định mở cửa hàng, nhưng không rõ mệnh của mình có phát tài không, không biết tài vận như thế nào nên tìm đến tôi nhờ đoán. Tôi thấy trong trụ tài tinh đóng ở trụ ngày, tuy không vượng nhưng đúng vào tài vận bính ngọ nên nói với ông ta : ông cứ mạnh dạn làm đi, vì đúng dịp này ông đang bước vào đại vận. Trong hai năm 1986, 1987 sẽ đại phát, đến năm 1992 mới bắt đầu kém hơn. Nhưng sau khi ông phát tài có thể con cái ông sẽ tiêu dùng mất một số. Kết quả về sau đúng là cửa hàng phát đạt, nhưng vì con cái đánh nhau nên hao một số tiền của.
Tháng 12 năm 1988 ông Diêm ở thành phố Tây An nhờ tôi đoán. Tôi thấy trên trụ giờ thiên tài lộ rõ, năm tháng đều gặp tài, lại hành vận thiên tài kỷ hợi cho nên đoán : năm 1985 và 1988 đều phát tài lớn. Ông ta nói : " Không sai tý nào, đúng như ông đoán. Trụ này ứng với câu : " Tài nhiều lại được tỉ kiếp trợ giúp là nhà thịnh vượng, người giàu có". Và "tài ở vượng địa thì suốt đời của cải hùng hậu".
Mùa thu năm 1989 vượt qua ngàn dặm xa xôi, ông Vượng từ Thượng Hải đến Tây An tìm tôi nhờ tôi đoán. Tôi thấy tài kho đóng ở trụ ngày, trên trụ giờ lại có tài tinh, nên đoán ; 1984, 1985 tài vận hanh thông, phát tài một mạch đến năm 1988 trở thành người giàu có ở vùng đó. Ông ta nói : Ðúng ! đây là nhờ chính sách mở cửa đem lại kết quả cho tôi. Ông này năm 36 tuổi hành tài vận, từ năm 1984 đến năm 1988 tài tinh một mạch ở vượng địa. Tứ trụ này ứng với câu: " Vốn có tài tinh hành đến tài vận thì đại phát".
Tháng 4 năm 1991 nhà buôn lớn họ Trần ở Inđônêxia nhờ tôi đoán tài từ nay về sau. Tôi thấy trên trụ năm tài hiện rõ, tài lại đóng ở đất dần mộc trường sinh, thương quan, thực thần gặp nguyệt kiến ở đất vượng địa nên sinh tài, năm 44 tuổi hành sát vận nên hoá tài lại gặp được tài kho. Do đó đoán : năm sau 44 tuổi, vận phát tài bắt đầu đến. Hai năm 1986, 1987 đại phát, hiện nay gia tư cơ nghiệp tuy chưa phải đã đại phú nhưng cũng đã khá giàu. " Ngài Thiêu, ngài có thể đoán được tôi buôn bán gì không?" Tôi không do dự trả lời rằng : ông buôn bán gỗ. Ông Trần và những hoa kiều có mặt ở đó, đều đồng thanh nói : Thầy Hoa thật là người khác thường, đoán việc như thần.
Tứ trụ này ứng với câu : thương quan thực thần mừng được sinh tài, thì phú quý do trời sắp đặt", "tài gặp trường sinh là ruộng vườn vạn mẫu."
Tháng năm 1991, ông Vương ở Thái Lan nhờ tôi đoán hậu vận. Tôi xem Tứ trụ thấy tài quan ấn đều có, nên đoán : " Ông vốn giàu nhất vùng, nhưng năm 1985 lại khuynh gia bại sản. Năm 1986, 1987 cơ hội lại xoay chuyển, tài thần đến cửa, nên rất chấn hưng trở lại, hiện nay trong nhà đầy vàng bạc. "Mọi người ở đó đều nói : "Thầy Thiệu thật là thần đoán, nói như người trong nhà". Năm 1985 ông Vương tý nữa thì khuynh gia bại sản, nhưng nay đã trở thành bậc đại phú.
Trong trụ tài quan ấn đều có, năm 25 tuổi lại hành vận thực thần nên trong nhà nhất định có tích trưc. Năm ất sửu 1985 là năm thương quan gặp quan, là hoạ liên miện, tất sẽ hao tài lớn. Năm 1986, 1987 gặp năm hỏa vượng, tài vượng cho nên lại gặp cơ hội phát tài lớn. Tứ trụ này ứng với câu: "Tài, quan, ấn đầy đủ không quý thì cũng giàu".
Tháng 5 năm 1991, khi tôi ở Thái Lan đã đoán một vụ buôn bán cho ngài Trương trị gái 10 triệu đồng, hợp đồng sắp kí kết nhưng ông Trương do dự không yên tâm nên nhờ tôi đoán.
Tôi xem Tứ trụ và tuế vận đều được lộc trời nên nhất định đây là dịp tốt được của, tôi thẩm tra trên trụ giờ thấy thế cân bằng có lợi nên nói với ông ta: phải nắm lấy cơ hội này để giúp sức với ông 1 tay, nên đã cổ vũ ông ta : " Chỉ cần lúc đàm phán ông ngồi vào chỗ tôi chỉ định cho ông thì chắc chắn sẽ thành công. Xem ra hợp đồng nhất định sẽ được ký kết và lần này số tiền sẽ vượt quá 10 triệu". Ông Trương nói ngay : được những lời vàng ngọ như thế thì tôi rất tin tưởng. Kết quả về sau ông đến báo tin mừng sự việc đã thành công và đãi tôi 1 khỏan tiền khá hậu.Tứ trụ này ứng với câu : "Tài kho bị xung khai, người nào gặp như thế đều phát tài", "Trong trụ có tài, hành đến đất tài là đại phát".
Trong dự đoán về kinh doanh và buôn bán, tôi đã từng đoán cho rất nhiều giám đốc nhà máy và giám đốc các đơn vị rất có ích. Có những giám đốc cứ theo những hạng mục kinh doanh tôi hương dẫn để làm, tránh xa những hạn mục nếu làm thì tài vận không lợi. Cũng có những giám đốc làm theo yêu cầu điều chỉnh của tôi, bày đặt bàn làm việc của Tổng giám đốc ở vị trí hợp lý, điều chỉnh kịp thời những công việc khác, áp dụng những biện pháp tương ứng nên đã thu được hiệu quả như đã tính trước, có đơn vị thậm chí từ lỗ hoặc sắp đóng cửa chuyển dần thành có lãi và ngày một càng phát triển ; còn có một số đơn vị khi chuyển khoản hay thanh toán ở ngân hàng, vì không biết tình hình của đối tác mà chỉ dựa vào cảm tính hoặc kinh nghiệm nên đã đánh giá sai khả năng thanh toán của đối phương, kết quả sau khi chuyển tiền cho đối phương, kết quả sau khi chuyển tiền cho đối phương thì không thu lại được . Cũng có trường hợp đối phương bỏ trốn, hoặc đối phương phá sản không thể bồi thường, dù có kiện cáo ra tòa cũng vô ích. Do đó không ít đơn vị đã thành tâm mời tôi làm cố vấn kinh tế."Dự đóan theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa