Tuổi Thân và tuổi Dậu có hợp nhau không? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Alexandra V (theo vonvon)
Sao Tử vi còn gọi là Đế tòa đứng đầu 12 vì sao trong lá số tử vi, thuộc tính Ngũ hành là âm Thổ, là trung tâm của các vì sao. Tử vi chuyên quản về tước lộc, có tác dụng hóa giải tai ách, kéo dài tuổi thọ, chế hóa (chế phục và hóa giải hung tính của các sát tinh).
Sao Tử vi ưa gặp Tả phù, Hữu bật đồng cung phò tá; Thiên tướng và Văn xương làm tùy tùng; Thiên khôi, Thiên việt truyền lệnh, Thái dương, Thái âm phân chức. Nếu đồng cung với những cát tinh trên hoặc tọa tại cung Tam phương Tứ chính hội chiếu lẫn nhau sẽ tạo thành cách cục tốt. Tử vi tọa thủ cung Thân hoặc cung Mệnh, chủ về có phong độ, có khí chất, cá tính đôn hậu, cương trực cung kính.
Tuy nhiên thưòng tâm địa khá hẹp hòi, dễ tin ngưòi khác mà làm điều trái đạo lý, bảo thủ cô chấp, dễ bị kích động. Không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung chủ về mệnh cô độc, phải tự mình làm mọi việc, do đó thường vất vả, ít có thời gian nghỉ ngơi. Cao ngạo, trọng hư vinh, thích quyền quý, học nhiều không tinh thâm, dễ phạm đào hoa. Tử vi tọa Mệnh, nếu không có Tả phù hoặc Hữu bật đồng cung, đại hạn, tiểu hạn đến Thiên hình hoặc Địa kiếp dễ xuất gia, học đạo.
- Người có sao Tử vi đóng tại Ngọ nên kinh doanh bất động sản,tránh kinh doanh ngành chăn nuôi trồng trọt
- Người có sao Tử vi đóng tại Dậu có sao Tham lang Thiên hình đồng cung nên theo ngành công an hay quân đội
- Người có sao Tử vi đóng tại Thìn Tuất lại có sao Thiên tướng đồng cung thường có chí khó thành, gặp chuyện tình cảm lận đận,phạm đào hoa thì cả tình duyên sự nghiệp đều trắc trở, muôn sự khó thành
- Người có sao Tử vi đóng tại Tỵ Hợi có Thất sát đồng cung là người thích phiêu bạt giang hồ ,lãng tử
- Người có sao Tử vi đóng tại Sửu Mùi có Phá quân đồng cung là người dễ tin người hay bị lừa gạt..
- Người nữ có sao Tử vi đóng tại Hợi có Thất sát đồng cung nên làm thư ký cho chồng hoặc trợ lý cho chồng.
Ảnh minh họa |
Nếu bạn gái mơ thấy âm đạo của mình, điều này ám chỉ những vấn đề về nữ tính và nhu cầu/sự thôi thúc mãnh liệt về "chuyện yêu" của bạn.
Còn nếu các bạn nam mơ thấy "cậu bé", điều này cho thấy bạn đang lo lắng về vấn đề sinh lực tính dục, sức mạnh và khả năng sinh sản. Nếu bạn thấy một "cậu bé" lớn khác thường thì có nghĩa là bạn đang nghi ngờ và lo âu về dục tính và khả năng sinh lý.
Bạn mơ thấy mình đang ở giữa cuộc vui nhưng lại không thể điều khiển "nó" theo ý muốn. Điều đó tương tự như giấc mơ "bại liệt" khi bạn thấy mình không thể cử động. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, nó có nghĩa là bạn cảm thấy bất lực hay mất hết khả năng trong cuộc sống. Chẳng hạn, khi đang tìm việc mới hay cố gắng thăng tiến, bạn sẽ có giấc mơ này. Nó có thể ám chỉ sự bực bội của bạn khi không thể phát triển trong một lĩnh vực nào đó.
Nếu bạn nằm mơ thấy mình có hành vi làm "chuyện ấy" với người đồng giới, có nghĩa là bạn đang muốn người tình của mình hành động nam tính hơn một chút. Một số nhà tâm lý học lý giải, đó là sự khao khát người phụ nữ của mình thể hiện những phẩm chất của đàn ông như sự logic, lý trí và mạnh mẽ.
Các chuyên gia cũng khẳng định, nếu một giấc mơ đồng tính làm bạn lo lắng, chắc hẳn, bạn không phải là người đồng tính. Vì vậy, bạn không cần lo lắng về vấn đề giới tính của mình nhé.
Bạn mơ thấy mình làm "chuyện ấy" tại nơi công cộng trước cặp mắt của bao người lạ. Giấc mơ này có thể ám chỉ nỗi sợ về sự thân mật thể xác, hoặc lo lắng về cảm giác bị tổn thương hay bị bắt gặp. Chẳng hạn, bạn có giấc mơ này sau khi nói chuyện với bạn tình về một kiểu quan hệ kỳ quái và nó cho thấy cảm giác tội lỗi trong bạn.
Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với nữ khác giới nhưng không phải là vợ hay bạn gái thì bạn cũng không cần phải tự trách mình, giấc mơ này chỉ phản ánh sức tưởng tượng về giới tính của bạn mà thôi, ở cuộc sống thực tế bạn là một chàng trai ngoan ngoãn và đúng mực.
Mơ thấy mình làm chuyện nhạy cảm với mỹ nữ có nghĩa là nội tâm của bạn đã phát hiện ra ưu điểm của cô gái ấy chứ không hẳn vì vẻ bề ngoài mà thích cô ấy.
Mơ thấy mình làm "chuyện yêu" với giới tính khác nhưng vô cùng căng thẳng - ngụ ý quan hệ của bạn với giới tính khác khá căng.
Theo Bí ẩn điềm chiêm bao
► Lịch ngày tốt tổng hợp những kiến thức phong thủy đời sống hữu ích |
Mùa xuân - giàu có
Tuổi Chuột, tuổi Rồng, tuổi Mèo, tuổi Ngựa, tuổi Khỉ
Những người tuổi Chuột, Rồng, Mèo, Ngựa, Khỉ sinh vào mùa xuân sẽ rất biết cách kiếm tiền, tìm kiếm cơ hội mới khá nhanh. Tuy vậy, bản thân họ không cần biết kiếm được nhiều tiền hay ít tiền đều không nỡ tiêu. Thông thường, hoặc là tích góp lại, hoặc là mua vật gì đó có thể tăng giá trị để tích lũy nhiều tiền hơn. Họ cũng không thích cho người khác vay tiền, có đôi chút kẹt xỉ, nhưng lúc nào cần hào phóng thì vẫn rất hào phóng.
Mùa hè – khỏe mạnh
Tuổi Hổ, tuổi Dê, tuổi Rắn, tuổi Rồng, tuổi Chó
Những con giáp Hổ, Dê, Rắn, Rồng, Chó sinh vào mùa hè, ngoài biết làm việc ra, còn rất biết hưởng thụ cuộc sống, cũng biết chăm lo cho mình và mọi người. Những người này đặc biệt chú ý đến sức khỏe của mình và những người xung quanh. Họ thích giúp đỡ người khác, do vậy tình trạng sức khỏe của họ rất tốt, thường không bị già. Càng nhiều tuổi thì họ càng có nhiều sức hấp dẫn.
Mùa thu – có phúc
Tuổi Mèo, tuổi Lợn, tuổi Chuột, tuổi Trâu, tuổi Hổ
Những người tuổi Mèo, Lợn, Chuột, Trâu, Hổ sinh vào mùa thu, vừa sinh ra tài vận đã rất tốt. Số mệnh của họ trường khi không còn tiền thì tiền tài sẽ tự động đến. Đồng thời bọn họ có nhiều người theo đuổi nhưng lại rất biết giữ chừng mực, có giới hạn rõ ràng chứ không hề lạm dụng. Họ có khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt, nên đi đâu cũng được mọi người yêu quý, may mắn lúc nào cũng bám xung quanh nên khi gặp khó khăn cũng rất nhanh chóng giải quyết.
Mùa đông – phú quý
Tuổi Dê, tuổi Trâu, tuổi Rắn, tuổi Chó, tuổi Gà
Thời niên thiếu của những người tuổi Dê, Trâu, Rắn, Chó, Gà sinh vào mùa đông thường trắc trở, cuộc sống phần nhiều khó khăn. Nhưng bước vào thời thanh niên trở đi, khi mà tự mình có thể độc lập tự chủ, sẽ nỗ lực kiếm kiến, dần dần từ không thành có. Không chỉ bước thẳng tới cuộc sống giàu có mà đồng thời họ cũng nhận được sự tôn trọng và công nhận từ những người xung quanh. Những người này có cuộc sống nửa cuối đời sung túc, có thân phận và địa vị.
Theo Leo St (toutiao) (Khám phá)
LÊ THÁI TỔ, VỊ ĐẾ VƯƠNG MỆNH VÔ CHÍNH DIỆU
Để tìm hiểu thêm kinh nghiệm tử vi, chúng tôi xin thêm đề mục “Tử vi cổ nhân” do cụ Thiên Lương phụ trách, kính mời bạn đọc theo dõi. Chúng tôi tin rằng đề mục này rất lý thú và sẽ gây nhiều cuộc tranh luận hào hứng.
Thái Tổ khởi nghĩa tại đất Lam Sơn (Thanh Hóa) dòng dã 10 năm đánh đuổi quân Minh sau 13 năm đô hộ khai sáng cho một Triều đại gần 4 thế kỷ (360). Ngài trị vì được 6 năm và thọ có 49 tuổi (50 tuổi là lão, 49 tuổi là yểu).
Nói đến triều đại và công nghiệp của Thái Tổ, ai ai cũng phải công nhận là một Triều đại chính thống có công đuổi xâm lăng lấy lại độc lập cho giang san đất nước. Sau này bao lần vật đổi sao rời hết Nguyễn đến Trịnh, rồi sau đến Tây Sơn vẫn lấy danh tiếng là phù Lê diệt tặc (Nguyễn hay Trịnh).
Vậy thời lá số của ngài hẳn là đặc biệt, thật đặc biệt.
Ngài tuổi Ất Sửu sanh ngày 6 tháng 8 giờ Tí
Thân, Mệnh đồng cung tại Dậu, vô chính diệu, không có một Không nào thủ mệnh hay chiếu.
Đây là một cái mệnh đặc biệt, tuy vô chính diệu nhưng quả là đắc chính diệu. Kim mệnh âm nam đắc Bạch hổ Dậu cung cùng Phi liêm, Phượng các, Giải thần đủ tư cách một nhà đại ái quốc, đại anh hùng cứu nước, cắn tăng chiến đấu, hăm hở dũng mãnh vô cùng.
Đối cung Cự Cơ, Lộc tồn, Hóa Lộc là cả một cái thế cai trị độc đoán, thực dân bóc lột vững như thành đồng vách sắt. Nhưng nhìn vào thế cờ, Thái Tổ tuy là yếu, vẫn ở cái thế lợi là Kim khắc Mộc với bộ tứ hóa, mỗi vị đều có cái đắc dụng riêng như Khoa ở Ách (Tử tướng ngộ Hình đắc Khoa khả giải) Kỵ ở Quan (Nhật Nguyệt đắc địa Thanh Long đắc Hóa Kỵ).
Trong 10 năm tranh đấu, 8 năm ở cung Ngọ bị khắc nhập cả thời gian lẫn không gian, tất nên nguy khốn vô cùng. May là người vô chính diệu gặp hạn Sát Phá Tham đắc địa nhưng đều bị kềm chế hết thẩy (Thất Sát ngộ Triệt, Phá Quân ngộ Tuần, Tham Lang ngộ Thiên Không) nên cứ cù cưa và phải chịu đựng sự gian lao, chờ thời cơ thuận lợi.
Phải nhờ qua đại vận ở Tỵ cung và cũng phải đến 2 năm trong vận hành mới thành công và ở ngôi được 6 năm. Ngài băng hà năm 49 tuổi.
Tam hóa liên châu ở Thìn phải công nhận là quý, là tấm Bảo Quốc Huân chương cho người được cái hãnh diện mang nó đang đứng ở chỗ thanh thiên bạch nhật, ở Ách cung với Khoa giáp Quyền Lộc đã cứu Vương bao nhiều lần, nhất là trận bị bao vây ở Chí Linh tháng 4 năm Mậu Tuất hết lối thoát, nhờ có ông Lê Lai đổi áo, Vương mới trốn được.
Thiên Đồng là Phúc tinh đóng ở Phúc đức là đúng cách, nhưng tại sao lại bị Tuần làm giảm cả bộ Tướng Ấn. Nó là uẩn khúc của Thái Tổ nhà Lê sau 10 năm chính chiếu, không muốn kéo dài việc can qua, sai sứ sang Tầu cầu phong, nhưng vua nhà Minh không chịu, cứ bắt phải để con cháu nhà Trần làm vua nước Nam mới được. Năm lần bẩy lượt sự quy lụy đó đủ giảng cho thấy là Thiên Đồng Tướng Ấn bị Tuần là thứ cách.
Bình Định Vương thành công được là nhờ ở con Mã và Không Kiếp ở Hợi cũng ở ngay cung Phúc đức. Nhất là mệnh của Vương lại là âm nam rất được Không Kiếp ở Hợi phò trợ, thêm Tả Hữu mà phục hồi (Mã Hợi đắc Tuần), Không Kiếp này đối với Vương quá ư nghiêm khắc, âu cũng cơ trời, với mệnh vô chính diệu (phi bần tắc yểu). Nó đưa Vương đến chỗ vinh quang, nhưng nó không tha thứ cho cái mệnh quá ư mềm yếu đó, mặc dầu Bạch hổ (Kim tinh) làm nòng cốt, huống chi Tỵ cung lại là cái lò khắc nấu Kim mệnh.
Có phải là cái nghiệp của những nhà khai sáng cho mỗi Triều đại, sau khi đã bình định xong đất nước cứ hay hãm hại công thần, những người đã cùng mình vào sanh ra tử, nằm gai nếm mật để đưa mình lên địa vị tột đỉnh cao sang.
Vua Lê Lợi cũng không thoát khỏi cái nghi ngờ quàng xiên ấy, nên đã giết oan 2 ông Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo chỉ vì sự dèm pha của phường múa rối.
Có lẽ đó cũng là luật thừa trừ của cán cân công lý thiêng liêng nên ngài phải chịu mất sớm 1 năm trước khi được đến cõi thọ.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem bói theo ngày sinh, xem ngày tốt chuẩn xác để thuận lợi công việc |
Đây là quẻ Quan Âm thứ 97 được xây dựng trên điển cố: Lục xuất Kỳ Sơn hay sáu lần ra Kỳ Sơn.
Quẻ trung bình thuộc cung Hợi. Mọi việc do sự an bình số phận, không cần quá hao tâm tổn sức mưu tính được hơn.
Thử quái đương phong điềm chúc chi tượng. Phàm sự hư danh bắt lợi dã.
Kỳ Sơn, nằm ở phía đông huyện Lễ của tỉnh Cam Túc ngày nay. Thời Hán xây thành trên bờ phía bắc của sông Tây Hán Thủy, rất kiên cố, tức là thôn Kỳ Sơn ngày nay, đây chính là vị trí chắc chắn sẽ dẫn đến tranh chấp trong quân sự. “Kỳ Sơn” trong điển cố Gia Cát Lượng sáu lần ra Kỳ Sơn, chính là địa điểm này.
Lần thứ nhất ra Kỳ Sơn: Mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 6 (tức năm 228), quân Thục chuẩn bị tiến đánh phía bắc, tướng tĩnh là Ngụy Diên đề xuất kế tập kích chiếm Đồng Quan, nhưng Gia Cát Lượng không theo. Gia Cát Lượng cử Triệu Vân, Đặng Ngải dẫn quân làm nghi binh, từ Cơ Cốc dàn trận như muốn tấn công về hướng bắc bắt đầu từ đạo Tà Cốc, để thu hút quân Ngụy. Hành động của quân Thục rất hiệu quả, Ngụy Minh Đế Tào Duệ ờ Lạc Dương đã phái cánh quân ờ Quan Hữu của Đô đốc Tào Chân đến huyện Mi chặn quân Triệu Vân, vì thế Gia Cát Lượng đích thân dẫn quân chủ lực tiến về Kỳ Sơn. Khắp nước Ngụy đều sợ hãi, các Thái thú ba quận Thiên Thủy, Nam An và An Định lần lượt bỏ quận chạy về hướng đông. Gia Cát Lượng thừa thế bao vây Kỳ Sơn. Tào Chân dẫn quân đến nghênh chiến. Gia Cát Lượng sai Tham quân Mã Tắc dẫn quân đến Nhai Đình chặn Trương Hợp. Sau khi Mã Tắc đến Nhai Đình, lại không tuân theo sự bố trí của Gia Cát Lượng, cũng không tiếp nhận lời khuyên của Vương Bình, không hạ trại ở nơi đường lớn, mà lại lên núi đóng quân. Đến khi Trương Hợp đến, trước tiên là bao vây quân Thục ở trên núi, cắt hết nguồn nước, lại thúc quân ò ạt tấn công, quân Thục đại bại, Mã Tắc bỏ chạy, Nhai Đình thất thủ. Lần ra Kỳ Sơn thứ nhất của Gia Cát Lượng đã thất bại.
Lần thứ hai ra Kỳ Sơn: Mùa đông năm Kiến Hưng thứ 6, Gia Cát Lượng lợi dụng cơ hội Lục Tốn bên Đông Ngô đánh bại Đại tư mã Tào Hưu nước Ngụy, lại xuất quân đánh nước Ngụy. Tháng mười hai, Gia Cát Lượng dẫn quân ra Tán Quan, bao vây Trần Thương. Nhưng quân Ngụy sớm đã đắp thành Trần Thương phòng bị, Gia Cát Lượng sai người đi thuyết phục tướng giữ thành là Hách Chiêu đầu hàng, nhưng không thành công. Gia Cát Lượng dẫn quân tấn công thành Trần Thương, hai bên đánh nhau kịch liệt hơn hai mươi ngày, không phân thắng bại. Sau đó Gia Cát Lượng thấy Phí Diệu, Trương Hợp của quân Ngụy đem quân tiếp viện đến, đành phải lui quân.
Lần thứ ba ra Kỳ Sơn: Mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 7, Gia Cát Lượng cử Trần Thức đánh Vũ Đô và Âm Bình, cuối cùng đã chiếm được hai quận này một cách thuận lợi. Sau đó, Gia Cát Lưựng vỗ yên người dân tộc Đê và dân tộc Khương ở vùng đất này, để lại quân trấn giữ, còn mình dẫn quân trở về Hán Trung. Do chiếm được hai quận thành công, nên Gia Cát Lượng được thăng chức làm Thừa tướng.
Lần thứ tư ra Kỳ Sơn. Tháng bảy năm Kiến Hưng thứ 8, Tào Ngụy từ khách trở thành chủ, xuất quân đánh Thục. Tư Mã Ý, Trương Hợp, Tào Chân đều thống lĩnh đại quân của lộ mình, cùng nhau đánh Hán Trung. Gia Cát Lượng tăng cường phòng thủ, điều Lý Nghiêm dẫn hai vạn quân tiếp viện cho Hán Trung, còn mình dẫn đại quân nghênh chiến ở Thành Cố và Xích Bản. Lại lệnh cho Ngụy Diên dẫn quân theo hướng tây vào đất Khương, tấn công quân Ngụy của nhóm Quách Hoài. Đến tháng chín năm đó, quân Thục đã đánh bại sự tấn công của quân Ngụy.
Lần thứ năm ra Kỳ Sơn: Tháng hai năm Kiến Hưng thứ 9, Gia Cát Lượng lại dẫn quân tấn công Kỳ Sơn một lần nữa. Lúc này, Đại tư mẫ Tào Chân của Ngụy bị bệnh, Ngụy Minh Đế lệnh cho Tư Mã Ý dẫn quân giao chiến với Gia Cát Lượng. Vừa mới xuất trận, Gia Cát Lượng đã đánh bại tướng Ngụy là Quách Hoài và Phí Dao, lại thừa thắng thu hoạch lúa mạch cùa vùng Thượng Khuê làm quân lương. Tư Mã Ý cố thủ nơi hiểm trở không chịu ra, Gia Cát Lượng đành phải dẫn quân quay về.
Lần thứ sáu ra Kỳ Sơn: Gia Cát Lượng xét thấy mỗi lần ra Kỳ Sơn, đều vì lương thực cạn mà phải lui quân, cho nên sau năm Kiến Hưng thứ 9, đã khuyến khích quân sĩ chú trọng luyện tập võ nghệ, cho quân đội nghỉ ngơi ba năm, để chuẩn bị lương thảo cần dùng khi chiến đấu. Đến tháng hai năm Kiến Hưng thứ 12, Gia Cát Lượng điều động quân đội ra khỏi Tà Cốc, lại sai sứ giả giao ước với Đông Ngô cùng xuất binh đánh Tào Ngụy. Hai quân Thục – Ngụy giằng co nhau ờ sông Vị Thủy. Đến tháng tám năm đó, Gia Cát Lượng do lao lực nhiều mà sinh bệnh, qua đời trong doanh trại, hưởng thọ năm mươi tư tuổi.
Đối với một ngôi nhà mà nói, nếu như coi môi trường bên ngoài là “đại phong thủy” thì bên trong nhà ở chính là “tiểu phong thủy”. Nói cách khác, có thể phân ra làm “môi trường bên ngoài” và “môi trường bên trong” của căn nhà. Nếu so sánh từ góc độ năng lượng mạnh hay yếu, môi trường bên trong không mạnh bằng môi trường bên ngoài, tuy nhiên trong thực tế thì môi trường bên trong lại có ảnh hưởng trực tiếp lớn hơn môi trường bên ngoài ngôi nhà.
Nhất là khi chúng ta ở trong trạng thái hoàn toàn không có chút phòng bị nào, ví dụ như khi ngủ thì môi trường trong nhà gần chúng ta nhất sẽ có ảnh hưởng vô cùng tập trung. Sự ảnh hưởng của nguồn năng lượng khoảng cách gần là rất lớn, bởi vậy cách bài trí trong phòng sao cho phù hợp với phong thủy là vô cùng quan trọng.
“Dương trạch tam yếu” là tác phẩm nổi tiếng của một nhà phong thủy học người TQ cổ, ông chủ yếu lấy 3 tổ hợp đại môn (cửa), chủ phòng (chủ), táo gian (bếp) để nghiên cứu cát hung của một căn nhà. 3 yếu tố này ứng với nhà cửa là mối quan hệ giữa các phương hướng của cửa chính, phương vị của phòng ngủ gia chủ và phương vị của gian bếp. Nói cụ thể, những người khác nhau thì cũng có yêu cầu về phương vị 3 yếu tố không giống nhau .
Cửa nhà:
– Hướng của cửa nhà: Cổ nhân dựa trên phương hướng của cửa nhà, phân căn nhà làm 8 loại. Mỗi loại nhà đều có sự phân biệt giữa tọa và hướng. Tọa và hướng được quyết định bới phương hướng của cửa nhà. Nói một cách đơn giản thì phần chủ thể phía sau ngôi nhà được gọi là tọa và phần phía trước mặt của cửa chính nhà hướng tới chính là hướng.
Ví dụ nếu như tòa nhà có cửa hướng Nam thì nằm ở phía Bắc, tục ngữ gọi là tọa Bắc triêu Nam. Tọa và hướng của căn nhà luôn luôn đối nhau. Tọa ở phương vị nào thì nhà được gọi là nhà đó, ví dụ như nhà tọa Bắc triêu Nam thì được gọi là Khảm trạch.
– Điều kỵ úy khi chọn hướng nhà: Chức năng chủ yếu của nhà ở là “nạp khí”, bởi vậy trước mặt cửa nhà tốt nhất nên sạch sẽ, vui vẻ và ấm cúng. Nếu như có rác, nhà vệ sinh, cống nước v.v.. thì sẽ hút những luồng khí ô nhiễm, không có lợi cho vận may chủ nhà. Ngoài ra, nhà đối diện với những cửa chính cửa sau, cửa sổ của các công trình khác; nhà đối diện với cột điện, góc tường cũng phạm phải đại kỵ.
Phòng ngủ:
Phương vị của phòng ngủ được dựa theo phương vị may mắn của bạn. Lấy phòng ngủ làm một đơn vị (coi phòng ngủ là 1 căn nhà nhỏ), nếu như cửa và giường cùng nằm trên phương vị may mắn thì tốt. Ngoài ra, có những vấn đề sau cũng không nên coi nhẹ:
– Cửa phòng ngủ không nên quá rộng. Cửa là nơi người nhà và bạn bè đi qua đi lại, loại khí này không có lợi cho phong thuỷ phòng ngủ. Hơn nữa âm thanh từ bên ngoài vào cũng ồn ã , trong khi phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi, cần yên tĩnh riêng tư.
– Cửa phòng ngủ không được đối diện với nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh luôn có khí ô nhiễm và uế khí, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tài khí chủ nhà. Ngoài ra luồng khí ẩm lạnh cũng nguy hại đến sức khoẻ con người. Nếu gặp trường hợp này thì cần tiến hành xử lí dựa theo nguyên lý chuyển hoá năng lượng.
– Phòng ngủ không được liền hoặc đối diện với nhà bếp. Nhà bếp chứa nhiều khí nóng, theo lời cổ nhân, nhà vệ sinh là thuần âm chi địa, nhà bếp là thuần dương chi địa, đều là nơi âm dương không điều hoà. Bởi vậy cửa nhà bếp không nên đối diện với phòng ngủ. Phòng ngủ và nhà bếp liền cạnh cũng không có lợi cho phong thuỷ phòng ngủ, nếu đầu giường hướng về bếp thì còn nguy hơn.
– Hình dạng phòng ngủ nên vuông vắn. Có một số người tìm kiếm sự mới lạ thị giác, tạo những đường chéo/ dốc trong phòng ngủ, mà không biết rằng hình thái không vuông vắn bản thân nó là một loại năng lượng chuyển động. Điều này mâu thuẫn với yêu cầu yên tĩnh, an bình của phòng ngủ. Đơn giản, vuông vắn, bình ổn, yên tĩnh mới là tư tưởng chủ đạo cho phòng ngủ.
– Cửa phòng ngủ không được đối diện với gương. Gương trong phong thuỷ thường được gọi là công cụ “ hoá sát giải tai”, cũng là vật có thể tham gia cùng môi trường chuyển hoá năng lượng. Gương nằm đối diện phòng ngủ giống như một đôi mắt đang mở to, không hợp với phòng ngủ. Kỳ thực gương cũng không được đặt đối diện với giường. Cổ nhân gọi loại năng lượng này là “kính sát” và chỉ ra rằng: bất lợi cho phòng ngủ.
– Phòng ngủ không nên đặt quá nhiều thực vật: Cổ nhân cho rằng thực vật dễ tập trung “âm khí” (loại năng lượng không có lợi cho con người). Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh thực vật vào buổi tối sẽ hút khí 02 và thải CO2 do đó chỉ nên trang trí phòng ngủ bằng một vài chậu cây nhỏ để trang trí và làm cảnh là tốt nhất.
– Không để xà ngang ép đầu giường: Phong thuỷ coi xà ngang cũng là một loại sát khí (năng lượng ác tính) . Nó có năng lượng áp bức và chìm về dưới. Xà ngang ép đầu giường, khiến cho chủ nhà ngủ không ngon, thường gặp ác mộng, đau đầu, chóng mặt .v.v..
– Đầu giường nên dựa tường: Đầu giường cần ổn định. Hơn nữa khi đầu giường không tựa vào đâu cả thì sẽ có không gian cho luồng năng lượng lưu động. Khí lưu động là điều kị uý trong phong thuỷ phòng ngủ.
– Màu phòng ngủ nên nhẹ nhàng và dịu, nên tránh sử dụng các màu nóng, các gam màu dễ gây kích thích thần kinh.
Phong thuỷ nhà bếp:
– Nên đặt bếp ở hướng may mắn.
– Cửa nhà bếp kỵ đối diện với cửa chính và cửa nhà vệ sinh. Nguồn năng lượng của cửa chính, nhà vệ sinh, nhà bếp đều tương đối mạnh, giữa các phòng tốt nhất không nên có liên quan gì đến nhau, không động chạm gì đến nhau mới là tốt. Hơn nữa, luồng năng lượng của chúng đều có liên quan đến tin tức sinh mệnh của chủ nhân, nếu như năng lượng giữa các phòng gặp mâu thuẫn thì sự bất lợi sẽ chuyển sang chính chủ, dẫn đến vận may bay mất.
– Nhà bếp kỵ gió. Tin tức năng lượng trong phòng bếp thuộc Hoả, là Dương kháng chi sở, Gió trong ngũ hành thuộc Mộc, Mộc sinh Hoả đáng ra là việc tốt, nhưng cổ nhân cho rằng, nhà bếp là Dương kháng chi sở, hay nói cách khác, “dương chi cực hĩ”, nơi này mà còn sinh thêm Hoả thì quá độ. Đứng trên phương diện khoa học mà nói, thì gió nhà bếp quá lớn không an toàn.
– Những kỵ uý khác: Thu gọn đơn giản trong nhà bếp là tốt nhất. Bếp lò không nên đặt dưới xà ngang. Bếp không được hướng về cửa…
Trên đây là những trình bày về cửa, chủ, bếp 3 nguyên tố chính, hi vọng rằng nó có thể giúp ích cho các bạn trong quá trình thiết kế bố trí nhà và phương vị các phòng sao cho hợp lý.
Phong thủy phòng khách :
Bố trí phong thủy phòng khách tương đối phức tạp, đầu tiên là vì diện tích phòng khách thường lớn, cần bài trí nhiều đồ gia dụng và những thứ khác như là bàn khách, cốc trà, đồ trang trí, thiết bị điện .v.v.. Kì thực, nếu như nghiêm khắc dựa trên phương pháp bố cục phong thủy phòng khách, chủ nhân khác nhau thì có yêu cầu về cách sắp đặt sẽ khác nhau. Bởi vậy rất khó có thể nói rõ ràng từng trường hợp. Do đó, qua bài viết ngắn này chỉ có thể tường thuật lại những kiến thức cơ bản cho bạn đọc vậy.
1. Phòng khách ưa vòng quanh, kỵ trực xung: Phái “lí khí” phong thủy cổ đại nghiên cứu sâu nhất về sự quay lại, vòng quanh, bao bọc của trường khí; cho rằng trường khí này có tác dụng tu dưỡng và bổ sung cho con người. Nếu như giữa cửa chính và phòng khách, có một khu đệm hoặc lối đi thì có thể đáp ứng được yêu cầu này. Nếu như cửa chính nối liền phòng khách, giữa cửa và phòng khách đặt bình phong, giá thấp để chặn lại, có thể hóa giải “xung”.
2. Phong thủy phòng khách trước tiên phải có đủ ánh sáng: Lan can không nên đặt quá nhiều đồ vật chặn ánh sáng, màu sắc trên tường cũng không quá thẫm quá tối, khí phải được thông suốt, tối kỵ đặt phòng khách ở nơi có không khí tù túng, chật hẹp.
3. Phòng khách không nên có xà ngang: Cổ nhân cho rằng phòng khách có xà ngang thì không may mắn. Bởi vì người đứng dưới xà ngang luôn cảm thấy bị đè nén, tinh thần hoảng hốt, vận may không được đánh thức. Tình hình này rất dễ giải quyết, chỉ cần dùng trần giả hay vật trang trí che xà ngang lại là được.
4. Màu sắc phòng khách: Màu sắc trong phòng khách không nên lòe loẹt phức tạp, nên dùng những gam màu cơ bản thống nhất. Phong thủy học dựa trên phương hướng khác nhau mà thiết kế màu sắc khác nhau cho phù hợp:
Cửa hướng Đông Nam: Phòng khách theo đuổi sự sáng sủa, có thể dùng gam màu trắng sáng
Cửa hướng Đông: Phòng khách theo đuổi sắc quang trung hoà, không nên qúa sáng . Gam màu trắng không chiếm hơn một phần tư tổng diện tích màu , 3 mặt đều có cửa sổ lớn thì không may mắn.
Cửa hướng Tây Nam: Thiết kế phòng khách không nên quá rộng, dùng màu lấy trắng, vàng đất và màu cà phê thì lợi.
Cửa hướng Bắc: Phòng khách không nên có quá nhiều khoảng trống, bởi vì nếu như không gian không dùng đến nhiều thì càng dễ đem lại khả năng tai nạn về lửa.
Cửa hướng Nam: Phòng khách có thể dùng gam màu lạnh, không cần quá bắt mắt.
Cửa hướng Đông Bắc: Gia dụng phòng khách cần phong cách đồ sộ, ưa dùng màu vàng, màu gỗ thuần, không gian ưa rộng rãi.
Cửa hướng Tây Bắc: Phòng khách nên rộng rãi, dùng màu xanh nhạt, thiên thanh.
5. Phòng khách nên dùng nhiều đồ trang trí dạng tròn: Vật dạng tròn sản sinh loại năng lượng viên hòa, dung hợp, hoạt bát, có lợi cho giao lưu giữa người với người
6. Phòng khách nên ở phía trước nhất của căn nhà: Bởi vì phòng khách là nơi tiếp đãi rất nhiều người, nhân tạp trường loạn, trường này không dung hợp với trường phòng ngủ hay nhà bếp, bởi vậy cần đặt nó ở ngay trước nhất của căn nhà.
Phong thủy phòng đọc sách:
Phòng sách là nơi người lớn và trẻ em đọc sách và học tập, ngoài cần yên tĩnh và sáng sủa thì còn cần chú ý những điểm sau:
1. Bàn không nên đặt giữa phòng: Nếu đặt giữa phòng, 4 bề đều trống, hữu hư vô thật, cô lập vô viên, khiến cho tinh thần con người khó tập trung, bay bổng đẩu đâu.
2. Bàn nên hướng về cửa: Cửa là khí khẩu, có thể nạp linh khí, sắp bàn hướng về cửa khiến đầu óc tỉnh táo thông minh. Nhưng có 1 điều, bàn không được trực tiếp đối diện với cửa.
3. Bàn không nên quay lưng về cửa hoặc cửa sổ: Bàn tốt nhất nên dựa vào tường làm núi tựa ( cổ gọi là Lạc san), nếu quay lưng với cửa hoặc cửa sổ, gọi là lưng không núi tựa, không thể thăng cấp, công việc học tập chậm trễ.
Phong thủy trong nhà và cuộc sống hàng ngày của chúng ta rất gần gũi, bởi vậy ảnh hưởng của chúng cũng mạnh mẽ và lâu dài. Có thể nói, thiết kế trong nhà đối với sự nghiệp, học vấn, sức khỏe.v.v. mang rất nhiều ý nghĩa. Mong rằng tài liệu tham khảo trên có thể giúp ích cho bạn
Nhà vệ sinh không nên đặt gần khu vực bếp nấu ăn. Bởi, bếp cần vệ sinh an toàn trong khi nhà vệ sinh luôn tiềm ẩn sự ô nhiễm.
Thời gian vừa qua nhiều bạn đọc hỏi về việc nên bố trí nhà vệ sinh thế nào cho hợp lý với một số không gian khác trong nhà như bếp, phòng ngủ… Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty Cổ phần Nhà Xuân nêu một số điều nên tránh khi bố trí nhà vệ sinh để bạn đọc nắm bắt rõ.
Đó là, nhà vệ sinh không nên đặt gần khu vực bếp nấu ăn. Bởi, bếp cần vệ sinh an toàn trong khi nhà vệ sinh luôn tiềm ẩn sự ô nhiễm. Đặc biệt, không nên mở cửa nhà vệ sinh thẳng ra bếp nấu. Theo phong thuỷ, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến người phụ nữ trong gia đình và dễ phát sinh bệnh tật.
Tương tự, các phòng ngủ hiện nay đề cao tính tiện lợi, sinh hoạt dễ dàng nên đặt luôn phòng vệ sinh trong phòng ngủ (còn gọi là phòng vệ sinh khép kín). Tuy nhiên, phòng ngủ là chốn nghỉ ngơi rất cần không khí trong phong thuy lành nên khi thiết kế cần bố trí cửa nhà vệ sinh cần một số lưu ý. Không thẳng vào giường ngủ, điều này không những ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, giường ngủ bên dưới nhà vệ sinh hoặc đầu giường dựa vào nhà vệ sinh cũng không tốt, người ở dễ gặp những chuyện thị phi, suy nghĩ không được minh mẫn, sáng suốt.
Bên cạnh đó, những không gian cần sự tập trung tư duy như bàn học hay bàn làm việc cũng cần tránh đối diện khu vệ sinh. Khu vực ban thờ đặt dưới khu vệ sinh, đối diện cửa hay dựa vào bức tường nhà vệ sinh cũng đều ảnh hưởng đến sự tôn nghiêm của không gian thờ cúng. Nhà vệ sinh không nên đặt giữa nhà…
Người tuổi Mão, tuổi Thân là một trong những con giáp được xem là cao thủ giả nai. Tại sao chúng tôi lại nói như vậy? Các bạn cùng đọc bài viết sau để biết rõ con giáp nào hay giả nai nhất nhé!
Người tuổi Mão thông minh, khôn khéo ngầm từ bên trong nên rất khó đoán nội tâm họ đang suy tính điều gì. Khả năng thích ứng của con giáp này siêu cao thủ, có thể tùy cơ ứng biến nhanh nhạy, sắc sảo.
Trước mặt mọi người họ không bao giờ để lộ yếu điểm của mình. Dù trong tình huống cấp bách nhất, họ vẫn giả nai hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Do đó, người tuổi Mão xứng đáng đứng ngôi đầu bảng.
Thứ 2: Tuổi Thân
Là con giáp thuộc hàng tinh ranh nhất trong 12 con giáp, cộng với sự hiểu biết sâu rộng nên người tuổi Thân biết cách ăn nói và hành động khéo léo sao cho bản thân được hưởng lợi ích nhiều nhất.
Họ biết cách giả nai sao cho thật bài bản làm hài lòng mọi người. Một phần là để che giấu suy nghĩ nội tâm của mình, phần khác để chiếm được cảm tình và sự tin tưởng của mọi người.
Thứ 3: Tuổi Tý
“Ngụy trang” đã trở thành thói quen của con giáp này từ khi mới được sinh ra. Người tuổi Tý thích ẩn mình trong thế giới của riêng họ để gây dựng hình tượng bí ẩn và có phần lạnh lùng. Họ cố chấp, ngang bướng bảo vệ bí mật của bản thân, nhưng lại thích “săm soi” người khác và lấy đó là thú tiêu khiển, giảm stress.
Vậy nên, khi nghe người tuổi Tý nói chuyện, bạn chỉ nên tin một nửa thôi nhé, nửa còn lại bạn phải tự thân vận động, tìm hiểu rõ ngọn nguồn sự việc để có kết quả chính xác nhất.
Có 2 dòng tranh phong thủy hiện nay: tranh phong thủy truyền thống và tranh phong thủy mạng xu hướng hiện đại.
Dòng tranh phong thủy truyền thống có yếu tố, quy chuẩn của thời cổ, mang tính chất truyền thống. Ví dụ như: Tranh tứ bình, tùng cúc trúc mai hoặc tranh ngựa...
Dòng tranh phong thủy hiện đại phù hợp với nội thất và xu hướng hiện đại.
Tranh phong thủy phải mang lại hiệu ứng tâm lý tốt đẹp cho gia chủ.
Ngoài hai cách an sao lưu trên, nhiều người đã an thêm nhiều sao khác, và không những an sao lưu theo năm mà còn an sao lưu theo tháng, ngày hoặc giờ nữa. Vấn đề an sao lưu được thực hiện để chi tiết hóa sự giải đoán vì ví dụ nếu không an sao lưu theo ngày thì làm sao ta có thể tìm ra sự khác biệt giữa các ngày 1, 13, 25 của một tháng nào đó ?
Ta có thể an sao lưu căn cứ vào Can và Chi của năm (nếu an sao lưu theo năm), tháng (nếu an sao lưu theo tháng), ngày (nếu an sao lưu theo ngày) và giờ. Nguyên tắc chung thì ta vẫn sử dụng cách an sao như an sao cố định. Cần phân loại cách an sao cố định căn cứ vào Can Chi:
An theo chi: vòng Thái Tuế, Thiên Không, Nguyệt Đức, Long Trì, Phượng Cát, Giải Thần, Thiên Khốc, Thiên Hư, Thiên Mã, Hoa Cái, Kiếp Sát, Cô Thần, Quả Tú, Phá Toái, Đào Hoa, Hồng Loan, Thiên Hỉ
An theo can: Lộc Tồn, Kình, Đà, Lưu Niên Văn Tinh, Quốc Ấn, Đường Phù, Khôi Việt, Quan Phúc, Lưu Hà, Thiên Trù, Triệt
An theo can chi kết hợp: hành nạp âm, Tuần
An theo chi tháng: Tả Hữu, Địa Giải, Thiên Giải, Thiên Hinh, Riêu - Y
An theo chi tháng và ngày: Tam Thai, Bát Tọa
An theo chi giờ: Không Kiếp, Thai Cáo, Xương Khúc
An theo chi giờ và ngày: Ân Quang, Thiên Quí
An theo can năm, tháng, ngày, giờ: các chính tinh bao gồm vòng Tử Vi và Thiên Phủ, Tứ Hóa (Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ)
An theo can năm và giới tính: vòng Bác Sĩ
An theo can năm, tháng, giờ: cục
An theo can năm, tháng, giờ, giới tính: vòng Tràng Sinh
An theo chi năm, giờ, giới tính: Hỏa, Linh
An theo chi năm, tháng, giờ: Đẩu Quân, Thiên Tài, Thiên Thọ
An cố định: La, Võng, Thương, Sứ
Sau đây là một số khác biệt khi an sao lưu
An sao lưu thuộc vòng Bác Sĩ
Lưu Bác Sĩ luôn luôn đồng cung với lưu Lộc Tồn. An vòng sao lưu Bác Sĩ thì cần xác định tính thuận nghịch của vòng sao này. Có hai cách có thể áp dụng:
Cách một: căn cứ vào tính Âm Dương của Can và phân biệt đối tượng là nam hay nữ : Dương Nam Âm Nữ thì an theo chiều thuận, Âm Nam Dương Nữ thì theo chiều nghịch. Ví dụ như gặp lá số của Nam nhân và Can của thời gian coi là Dương thì đây là trường hợp Dương Nam an theo chiều thuận, nếu là Nữ thì là Dương Nữ lại an theo chiều nghịch. Nguyên tắc an sao lưu như vậy phù hợp với cách an sao cố định
Cách hai: căn cứ Âm Dương của Can: can dương thì an thuận, can âm thì an nghịch. Nguyên tắc an sao như vậy thì mâu thuẫn với cách an sao cố định vì không có sự phân biệt giới tính Nam Nữ khi an. Việt Viêm Tử sử dụng cách này
An sao lưu Trường Sinh
Trường Sinh trong Tử Vi được an luôn luôn căn cứ vào hành nạp âm. Có hai cách an:
Cách một: căn cứ vào hành nạp âm để xác định cung khởi Tràng Sinh rồi từ đó an vòng Lưu Tràng Sinh theo chiều thuận. Cung khởi được xác định như sau:
Hành Mộc khởi tại Hợi, Kim tại Tỵ, Hỏa tại Dần, Thủy Thổ tại Thân. Cách an này giống như cách xác định vòng Tràng Sinh căn cứ vào ngũ hành bản Mệnh
Cách hai: căn cứ vào hành nạp âm và âm dương của can hay chi để xác định cung khới của sao Tràng Sinh sao cho Mộ luôn tại tứ mộ và dương thì an thuận, âm thì an nghịch cho các sao thuộc vòng này. Như vậy
Dương Mộc khởi tại Hợi, an thuận
Âm Mộc khởi tại Mão, an nghịch
Dương Hỏa khởi tại Dần, an thuận
Âm Hỏa khởi tại Ngọ, an nghịch
Dương Kim khởi tại Tỵ, an thuận
Âm Kim khởi tại Dậu, an nghịch
Dương Thủy hoặc Thổ thì khởi tại Thân, an thuận
Âm Thủy hoặc Âm Thổ thì khởi tại Tí, an nghịch
Việt Viêm Tử sử dụng cách này
An Tứ Hóa
Tứ Hóa cố định được an căn cứ vào Can và chính tinh hoặc Tả Hữu, Xương Khúc trong đó Tả Hữu được an theo tháng, Xương Khúc được an theo giờ. Có nhiều quan điểm về lưu Tứ Hóa:
Quan điểm 1: không an lưu Tứ Hóa vì Tứ Hóa được an theo chính tinh hoặc Tả Hữu, mà chính tinh thì không có sao lưu tương ứng, còn Tả Hữu thì phải biết tháng mới xác định vị trí và Xương Khúc thì cần biết giờ mới an được thành ra không thể an Lưu Tứ Hóa theo năm hoặc tháng, ngày
Quan điểm 2: không an lưu Tứ Hóa theo năm, tháng hoặc ngày, chỉ lưu Tứ Hóa theo giờ bằng cách căn cứ vào năm tháng ngày giờ coi để an sao lưu 14 chính tinh và Lưu Tả Hữu, Lưu Xương Khúc rồi an Lưu Tứ Hóa giống như các an Tứ Hóa cố định. Nếu chấp nhận quan điểm này thì cần phải chấp nhận lưu Mệnh và lưu Thân
Quan điểm 3: an lưu Tứ Hóa căn cứ vào can và chính tinh cố định hoặc Tả Hữu, Xương Khúc cố định. Cách an sao lưu thì giống như cách an sao Tứ Hóa cố định. Cách an này có điểm vô lý là khi coi lưu tháng thì có lưu Tả Hữu nhưng mà Lưu Tứ Hóa lại không được an theo Lưu Tả Hữu mà lại an theo Tả Hữu cố định
Vận dụng trong giải đoán
Sao Lưu chỉ có giá trị tạm thời trong thời gian ta an sao nên chỉ có ảnh hưởng gia giảm tốt xấu trong hạn đó mà thôi. Khi sao Lưu trùng với sao cố định hoặc kết hợp với sao cố định thành bộ thì ảnh hưởng gia tăng, ví dụ như Lưu Kình Dương gặp Kình Dương hoặc Đà La. Sao Lưu xuất hiện trong cung nào thì ảnh hưởng lên cung đó, ví dụ như xuất hiện tại Phụ Mẫu thì ta có thể coi như là sao lưu đó được an trong lá số trong thời gian đó, phương pháp giải đoán thì sử dụng cách phối hợp như là sao cố định. Số lượng sao lưu sử dụng tùy theo kinh nghiệm của mỗi người nhưng qua kinh nghiệm có những sao lưu cần phải thêm không thể bỏ qua như Lưu Triệt, Lưu Song Hao.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Như (##)
Người ta không ai có thể chọn ngày chết, vậy nên từ xưa tới nay, hàng năm cứ đến ngày mất thì làm giỗ, dù cho có những năm, ngày đó rất xấu, có cả trùng phục, trùng tang, sát chủ, quả tú, cô thần.v.v... theo gia lễ: Lễ chung thất, Tốt khốc, Tiều tường, Đại tường cứ theo đúng ngày mà làm lễ.
Con cháu ở xa nhớ ngày về làm lễ, thân nhân ở chỗ khác sắm sửa lễ đúng ngày tới dự, chẳng lẽ đến nơi thấy hương lạnh khói tàn, gạt nước mắt lủi thủi ra về hay sao? người chủ sự báo lại rằng: theo lời thầy lễ đã lễ xong xuôi đâu đấy rồi, hoặc đợi thêm và ngày nữa, được chăng? Xin lưu ý tang tế theo ngày định sẵn, thân bằng, cố hữu ai lưu luyến đến thăm viếng, không đợi thiệp mời như lễ mừng, lễ cưới, không chuỵện "Hữu thỉnh hữu lai, vô thỉnh bất đáo" (mời thì đến, không thì thôi).
Người có bàn chân lớn, lòng bàn chân đầy đặn, nếu là nam thì cao lớn khôi ngô, là nữ thì cao ráo xinh xắn. Đó là những tướng người có phúc lớn mạng lớn. Củ thể như thế nào chúng ta cùng nghiên cứu trong bài viết dưới đây nhé! Mặt khác thông qua bài viết này bạn có thể xem được bản thân mình có tướng phúc lớn mệnh lớn không?
Nội dung
Người này nhìn bề ngoài dường như không có nhiều phúc khí, thật ra nó ẩn hết vào trong. Dù họ đi tới nơi nào cũng được người khác công nhận, được quý nhân phù trợ, cực kỳ may mắn.
Nghe có vẻ rất hài hước nhưng trường hợp này dù là nam hay nữ đều rất tốt. Họ có phúc khí tốt, mệnh tốt.
Người có bàn chân lớn, lòng bàn chân đầy đặn, nếu là nam thì cao lớn khôi ngô, là nữ thì cao ráo xinh xắn. Bên cạnh may mắn về ngoại hình, họ thường gặp được quý nhân, tài vận cùng phúc khí lúc nào cũng dồi dào.
Lòng bàn tay của nam giới cần phải lớn, không nhất thiết phải trắng trẻo mập mạp, còn đối với nữ giới nếu có nhiều phúc khí thì hai bàn tay của họ phải trắng trẻo đầy đặn. Những người tay gầy guộc, xương xẩu thường không có nhiều phúc khí. Đặc biệt những người năm ngón tay xương gầy và dài thì càng phải tự lực cánh sinh mới mong cơm no áo ấm. Còn những người có bàn tay đầy đặn thì ngược lại, họ không cần phải trải qua quá nhiều vất vả cũng có thể dễ dàng có được cuộc sống hạnh phúc, gặp nhiều may mắn.
Một người có phúc khí hay không thường có thể nhìn thấy thông qua tai của họ. Tai càng lớn thì thọ mệnh càng dài, tai càng dày thì tài vận càng tốt. Về già phúc khí cũng tương đối thịnh vượng.
Phần trán nếu vô duyên vô cớ trở nên tối tăm thì có thể bạn đang gặp phải vận xấu. Nhưng điều này sẽ khó có thể xảy ra với những người có vầng trán cao rộng, bởi bọn họ trời sinh phúc lớn mệnh lớn.
Người sở hữu tướng mũi như vậy thì cực kỳ tốt số, người ta có thể thông qua hình dáng mũi để nhìn thấy tài vận của mỗi người. Mũi còn được gọi là “Cung tài bạch”, có tiền thì có thể giải quyết được rất nhiều việc, bởi vậy một mặt nào đó người có tiền cũng có thể trở thành người có phúc.
Những người có gò má quá cao hoặc cao thấp không đều, dù là nam hay nữ, cuộc sống của bọn họ đều khá vất vả, thời ấu thơ cũng không tốt. Còn người có hai má cân đối thì ngược lại, họ được nhiều người quan tâm, chăm sóc, che chở. Cuộc sống cũng êm đềm, nhiều may mắn.
Phúc khí thật ra có thể là cảm xúc của lòng mình, chứ không đơn thuần là về mặt vật chất mà người ta có thể dễ dàng nhìn thấy. Người biết tự hài lòng, cũng chính là người có nhiều phúc. Nếu như năng làm việc thiện, giữ thiện tâm, vận may tự dưng sẽ đến, vận xấu cũng sẽ bỏ đi, khổ tận cam lai.
Xem thêm:
Tuổi Tý và tuổi Ngọ
Tuổi Sửu và tuổi Mùi
Tuổi Dần và tuổi Thân
Tuổi Mão và tuổi Dậu
Tuổi Thìn và tuổi Hợi
Tuổi Tuất và tuổi Tỵ
Mr.Bull (theo DYXZ)
Quy định số lý mang thuộc tính âm dương
Số lẻ thuộc tính dương: Động, mạnh, nóng…
Số chần thuộc tính âm: Tĩnh, mềm, uyển chuyển…
Số thuộc tính Dương Số thuộc tính Âm
1 2
3 4
5 6
7 8
9 10
Quy định số lý trong ngũ hành.
Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy
1, 2; 3, 4; 5, 6; 7, 8; 9, 10
Kết hợp Âm Dương và Ngũ Hành trong số lý
Dương |
Âm | Dương |
Âm | Dương |
Âm |
Môc
|
Mộc | Hỏa | Hỏa | Thổ |
Thổ |
1 |
2 | 3 | 4 | 5 |
6 |
Dương |
Âm | Dương |
Âm | ||
Kim |
Kim | Thủy | Thủy | ||
7 |
8 | 9 | 10 |
Vì là một ngày đặc biệt nên những người sinh ngày 29/2 vô cùng cá tính. Họ có trí tuệ siêu việt, mang tính cách láu cá của loài mèo. Có lẽ vì mang trí tưởng tượng phong phú cũng như có những suy nghĩ tương đối hoang tưởng nên đôi khi họ không được xã hội xung quanh dễ dàng chấp nhận.
Người này chịu số ảnh hưởng từ 2 (2+9=11, 1+1=2) và sức mạnh từ Mặt Trăng. Người phụ thuộc vào số 2 sẽ là những đồng nghiệp hoặc bạn làm ăn tốt; nhưng không hợp để giữ vai trò lãnh đạo. Những người này bị động với sức mạnh từ Mặt Trăng, suy nghĩ quá nhiều nên tư duy có chút không hợp logic. Người sinh ngày 29/2 thường có sức khỏe trời sinh, nhưng họ dường như không hề biết điều đó. Các bạn trẻ thường xuyên thức khuya dậy muộn, đồng hồ sinh học hoàn toàn đảo lộn. Họ mong muốn hưởng thụ hết các hoạt động cuộc sống để tiêu tụ hoàn toàn sức lực trong một ngày.
Vòng luân hồi |
Ngày nay, tìm biệt danh hay đặt tên ở nhà cho con đã trở thành việc khá phổ biến ở các ông bố bà mẹ hiện đại. Cũng đau đầu không kém gì chuyện đặt tên thật, vấn đề đặt tên ở nhà cho con khiến nhiều bố mẹ bối rối bởi tìm ra một cái tên vừa thú vị, vừa độc đáo “không đụng hàng” với ai quả không hề dễ dàng.
Dưới đây là những cách đặt tên ở nhà cho bé rất hay và ý nghĩa mà các sao Việt đã lựa chọn, hy vọng sẽ là gợi ý cho bố mẹ nào còn đang băn khoăn đi tìm nickname cho con:
Đặt theo tên món ăn
Cha mẹ có thể chọn những món ăn ngon độc đáo, hoặc là món khoái khẩu, hoặc gắn với kỉ niệm của hai vợ chồng để lấy làm tên ở nhà cho con.
Cái tên của con gái Chuối Đậu nhà diễn viên “Bánh đúc có xương” Diệu Hương bắt nguồn từ món ăn yêu thích của chồng diễn viên, cũng là món ăn đưa hai người đến với nhau. Bé trai thứ 2 nhà Diệu Hương cũng mang cái tên Cà Bung đậm chất ẩm thực dân dã.
Con trai Sushi nhà Tim – Trương Quỳnh Anh có cái tên “ngon lành” như vậy cũng là do khi mới yêu, cả hai vợ chồng ca sĩ đều thích ăn sushi, mỗi lần ra ngoài hẹn hò, món họ chọn không gì khác mà là sushi. Chính món ăn này đã giúp cặp ca sĩ ngày càng hiểu nhau hơn và quyết định gắn bó với nhau.
Rất nhiều gia đình sao Việt khác đã chọn đặt tên cho con theo cách này. Có thể kể đến những cái tên như bé Bánh Gạo - con gái Thủy Tiên –Công Vinh,
bé Cà Phê, con trai Đức Thịnh – Thanh Thúy,
con trai Cà Pháo – Lê Phương, Quách Ngọc Ngoan,
con trai Su Hào của ca sĩ Tuấn Hưng,
bộ ba Coca – Cola- Cacao nhà Ốc Thanh Vân,
bé Bào Ngư – con gái hotgirl Mi Vân,...
Đặt theo tên động vật
Những biệt danh cho bé về động vật luôn mang sắc thái tinh nghịch, dễ thương. Có thể thấy những nickname theo động vật cho các nhóc tỳ nhà sao Việt khá phổ biến.
Chia sẻ về cái tên Tê Giác của con trai mình, ca sĩ Hoàng Bách từng cho biết: “Với tôi, tê giác không chỉ là loài vật hiền lành mà khi nhìn nó, tôi thấy toát lên sự vững chãi. Bên cạnh đó, vì tê giác là loài thú quý hiếm nên tôi muốn đặt cái tên này cho con để khi lớn lên, con hiểu rằng, con quan trọng với bố nhường nào.”
Cô con gái út “rượu” của Hoàng Bách cũng mang biệt danh “Mèo” rất đáng yêu.
Một số tên ở nhà theo tên động vật khác: hai bé song sinh Tôm, Tép nhà diva Hồng Nhung,
bé Thỏ - con gái siêu mẫu Xuân Lan,
bé gà nhà ca sĩ Phương Thanh,
bé Chuồn Chuồn nhà MC, diễn viên Bình Minh,...
Đặt theo tên nước ngoài
Khá nhiều nhóc tỳ nhà sao Việt mang những cái tên “Tây”, đọc lên nghe rất vui tai và độc đáo. Dàn con đẹp như thiên thần của ông bố doanh nhân Đỗ Minh (tham gia chương trình Bố ơi! Mình đi đâu thế? Mùa 2) có loạt tên khá thú vị như tên người Italy: Tissot, Totti, Tito, Tiara.
Hai công chúa nhà Minh Khang – Thúy Hạnh được đặt tên đôi ngộ nghĩnh Suli – Suti.
Ngoài ra, còn có tiểu thư Bella nhà Phạm Quỳnh Anh;
Bé Subeo nhà Hồ Ngọc Hà – Cường Đô la;
Bé Devon con cặp vợ chồng Trương Ngọc Ánh - Trần Bảo Sơn,
Bé Sonic con trai Kim Hiền,
Bé Bin con trai Vân Hugo,
Bé Sumo con MC Diệp Chi,...
Đặt tên thuần Việt dân dã
Nhiều ông bố bà mẹ nổi tiếng lại chọn những cái tên cực kì dân dã, rất phổ biến, được nhiều người Việt dùng làm tên ở nhà cho con mình như Bi béo - nhóc tỳ má phính đang gây sốt “Bố ơi mình đi đâu thế” mùa 2 – con trai Xuân Bắc;
Bờm – cậu nhóc lém lỉnh, tinh nghịch cũng cực hot ở mùa 1 của “Bố ơi” - con trai đạo diễn Trần Lực;
cặp bé Na, bé Nấm nhà Phương Thảo – Ngọc Lễ,...
Dù đặt tên con theo cách nào thì mỗi cái tên đều chứa trong đó vô vàn tình cảm yêu thương và kì vọng của mẹ cha dành cho con cái. Hy vọng với những gợi ý vừa rồi, các ông bố bà mẹ sẽ tìm ra cái tên phù hợp nhất cho bé yêu nhà mình.
Đại vận trong lá số tử vi là chỉ cát hung họa phúc trong 10 năm của mỗi người. Trong lá số tử vi đại vận được ghi rõ mang các con số ở góc phải trên cùng của mỗi cung.
Thí dụ: Đại vận ở cungThê số 22, là Đại vận trong thời gian từ 22 đến 31 tuổi.
Đại vận 10 năm, chủ vào 10 năm của cuộc đời.Đại vận mà khá thì cũng như có cài gốc khá,tiểu vận có kém cũng được khá theo và tiểu vận mà khá thi lại càng khá nhiều. Ngược lại, Đại vận mà kém thì tiểu vận có những sao tốt, cũng không thể tốt như ý muốn. Càng bởi thế, tÍnh vận hạn, ta không nên ngạc nhiên rằng năm Thân lần trước sao ta khá thế, mà năm Thân lần này, sao ta lại quá dở, đó là vì Tiểu vận phải tùy theo Đại vận.
Các yếu tố để tính Đại vận trong tử vi gồm có Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Thời.
Được Thiên Thời là được vận tốt, nói chung, và không kể đến chi tiết. Người được Thiên Thời tốt thì được ăn trên ngồi trước, người người quý mến, dù gặp trường hợp xấu vẫn hơn người đồng cảnh. (Thí dụ như gặp Thiên Thời mà phải ở tù thời cũng là tù cha, tù chú, anh em cung phụng, cai tù nể sợ) và mọi việc làm đều được hanh thông.
Muốn rõ Thiên Thời tốt xấu, phải đem hành của tam Đai vân so sánh với hành của tam hớp tuổi (hành của tam hợp tuổi tức là mình).
Thí du: Cung Đại vận ở Thân, thì tam hợp Đại vận là Thân Tý Thìn, thuộc 'Thủy. Tam hợp tuổi của người tuổi Mùi là Hợi Mão Mùi, thuộc Mộc. Tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, nên ta gọi là sinh nhập.
Sau đây là các trường hợp của Thiên Thời:
- Tốt 1: tam hợp Đại vận cùng hành với tam hợp tuổi (tức là trường hợp cung Đại vận nằm trong tam hợp Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ và có Tứ Linh: Long, Phượng, Hổ, Cái). Đây là Đại vận tốt bậc nhất trong đời.
- Tốt 2: tam hợp Đại vận bị tam hợp khắc (tức là mình khắc ra hay là khắc xuất) vì mình khắc ra được, cho nên minh thắng được hòan cảnh, bằng sự phấn đấu.
Thí du: Tuổi Thân, thuộc Thân, Tý, Thìn, hành Thủy. Gặp Đại vận ở Tuất, là tam hợp Dần Ngọ Tuất, thuộc Hỏa. Mình khắc được Đại vận, tức là mình đạt được những thành quả bằng sự phấn đấu.
- Xấu nhẹ: tam hợp Đại vận được sinh do tam hợp tuổi (tức là tam hợp tuổi bị sinh
xuất). Trường hợp này, đương số gặp những khó khăn, phải chịu mệt nhọc mới có thành quả, hoặc phải thất bại trước sau mới thành, hoặc thất bại luôn phải chờ dịp khác.
Nhưng người tuổi Hợi, tam hợp Hợi, Mão, Mùi, hành Mộc. Hành Mộc sinh cho Đại vận (sinh xuất) khi Đại vận đến một trong 3 cung Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.
- Xấu vừa: tam hợp Đại vận sinh cho tam hợp tuổi, tức là tam hợp gốc được sinh nhập, ở thế này, có dễ có khó, có thành có bại, tốt xấú đều lãnh đủ: Càng ăn nên làm ra càng gặp xấu, suy tán đến độ mất nghiệp, mất việc làm, mất tàì sản (vì gặp Thiên Không).
Như tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi (Mộc) đến Đại vận ,Thân và được tam hợp Thân Tý Thìn thuộc Thủy sinh cho, làm ăn tốt nhưng rồi tan vỡ cả!
- Xấu nặng: tam hợp Đại vận khắc tam hợp tuổi, tức là trường hợp mình bị khắc nhập, ơ thế này, đương sế gặp nhiều khó khăn làm ăn không tiến, thua thiệt, thất bại, hay gặp nạn.
Như người tuổi Mùi, tam hợp Hợi Mão Mùi thuộc Mộc, bị tam hợp Đại vận ở Dậu khắc, vì tam hợp Tỵ Dậu Sửu thuộc Kim. Phải gặp những cái tốt khác mới gỡ được thế kẹt.
Bạn có thể xem thêm phần 2 tại : xem đại vận, đại hạn 10 năm trong lá số tử vi P2
Xem Tướng chấm net chúc mọi người năm mới an khang thịnh vượng !
Bài viết của giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU
Một thân chủ gặp việc chẳng lành, hoặc gặp việc phân vân khó giải quyết, tìm thầy Tử vi nhờ xem dùm, để từ đó có thể đưa ra quyết định. Sau khi đưa ngày, giờ tháng năm sinh ra, Thầy bấm tay, một lúc rồi nói. Đa số là dựa theo nét mặt và câu trả lời rồi nói tiếp, nói láo bốn phần, dựa theo nói năm phần may ra đúng ba phần. Thân chủ dễ tính vội cho là thần thánh.
Sự thực thân chủ muốn biết thầy có học đến trình độ sơ cấp về Tử vi hay không cứ hỏi ngay một lúc bằng này câu hỏi. Nếu đoán đúng 3 câu là tạm được. Nếu sai 3 câu là chưa học đến trình độ sơ đẳng.
Thí dụ: một nữ thân chủ 30 tuổi hỏi:
- Cha mẹ còn hay mất? Cha mất trước hay mẹ mất trước?
- Có mấy anh chị em? Anh em trai nhiều hay chị em gái nhiều?
- Học tới đâu?
- Lập gia đình năm nào? Đã có mấy còn? Những năm nào có con?
- Chồng là người thế nào? Làm nghề gì?
Tùy theo câu trả lời của thầy sẽ biết thầy có là người nói láo hay không. Chúng tôi xin minh xác trước rằng, mình chưa học đến trình độ sơ đẳng của khoa Tử vi. Mà chỉ tìm hiểu lịch sử khoa Tử vi, cùng những diễn biến trong Việt Nam sử và Trung quốc sử về khoa này. Những thư tịch mà tôi nghiên cứu trong thư viện tại Đông Kinh là những thư tịch người Nhật tịch thu của Trung hoa trong các cuộc Hoa chinh trước đây. Một số thư tịch tại thư viện Trung ương Đài bắc rất giá trị lại khác hẳn những sách của VN. Tại VN sách Tử vi bằng chữ Hán chép tay rất nhiều, phải khó khăn lắm mới cô đọng được.
Chúng tôi xin trình bầy ra đây để thức giả khỏi lầm lẫn khoa thiên văn Tử vi với những anh thầy bói nói láo. Cả gan hơn nữa những anh này còn dám viết sách lịch Tử vi vào đầu năm nữa.
Giáo sư TRẦN QUANG ĐÔNG
I. Nguồn gốc khoa Tử vi
Cho đến nay khoa Tử vi do ai đặt nền móng đầu tiên, lịch sử không chứng minh được rõ ràng. Căn cứ vào bộ Tử vi Đại toàn do các văn thần nhà Thanh dâng lên cho vua Càn Long (1736-1796) vào niên hiệu Càn Long thứ 41, bài tựa có chép:…”Bọn thần vâng tra cổ sử, chỉ biết Tử vi có từ đời Đông Tấn vào niên hiệu Vĩnh Hưng nguyên niên (304 sau Tây lịch) nhưng chưa đặt căn bản. Đến đời Tống, Thái Tổ cho mời đạo sĩ Trần Đoàn ở núi Phú Sơn vào chầu. Tiên sinh dùng khoa Tử vi tính vận hạn cho triều thần trăm sự đều đúng cả…” (Tử vi Đại toàn quyển 1 trang 14).
Xem như vậy thì khoa Tử vi có từ trước năm 963 là năm Tông Thái tổ mời Trần Hi Di tiên sinh vào cung xem vận mạng. Nhưng Khoa Tử vi do Trần Hi di tiên sinh và đệ tử của ông đặt căn bản nghiên cứu, nên sau này ông được tôn là Tổ sư.
Bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh, do chính con cháu nhà Tống chép một đoạn kỳ thú về sự gặp gỡ giữa Hi Di tiên sinh và Tống Thái hậu. Nhờ khoa Tử vi mà Hi Di tiên sinh biết trước sau này hai người con của Tống Thái Hậu làm vua:
…”Cuối đời Hậu Châu ly loạn, Thái Hậu cho Thái tổ và Thái tông (Tức Triệu Khuông Dẫn và Khuông Nghĩa) vào hai chiếc thúng gánh trên vai chạy loạn. Khi qua núi Phú Sơn thì gặp Hi Di tiên sinh. Tiên Sinh hỏi niên canh bát tự của Thái tổ, Thái tông rồi bấm số, nói với Thái hậu:
- Bà phúc đức lắm hai người con sau này đều là đấng minh quân bình thiên hạ.
Thái hậu tạ ơn:
- Ngài nói chi lời nhạo báng? Con tôi đang đói khổ đây. Ngài có gì cứu giúp không?
Tiên sinh đáp:
- Sau này hai con bà đều làm vua bà thiếu gì dịp ban ơn mưa móc cho thiên hạ. Giang sơn này của bà cả. Bây giờ bà bán cho tôi hòn núi này đi, để lấy 10 lượng vàng mà tiêu.
Thái hậu đồng ý vì nghĩa rằng ông đạo điên, có ai đi mua núi bao giờ đâu?
Bà xé vạt áo Thái Tổ, Thái Tông cột vào chiếc đũa bỏ vào ống đũa làm văn tự đưa cho Hi Di tiên sinh.
Sau khi thống nhất giang sơn, vào niên hiệu Càn Đức nguyên niên (963) quan địa phương báo về rằng: Có đạo sĩ Hi DI ở núi Phú Sơn đuổi quan thu thuế về, và nói rằng núi này Thái Hậu đã bán cho ông ta. Thái Tổ hỏi lại sự tích Thái hậu nhất nhất thuật lại sự việc. Thái tổ cảm cái ân tặng 10 nén hạt Phú Sơn. Triều thần cho là bậc kỳ tài, xin đón về kinh hỏi việc quá khứ vị lai. Tháng 10 năm ấy tiên sinh về triều. Thái Hậu, Thái tổ và văn thần võ tướng được ngài tính theo khoa Tử vi cho biết hết quá khứ, vị lai. Tiên sinh có dâng lên Thái Tổ sách Tử vi Tinh nghĩa. Từ đấy các bậc vương hầu trong hoàng tộc đều được học khoa này, mỗi đời thêm vào các kinh nghiệm, điền khuyết những chỗ chưa đủ. Bậc Đế vương học khoa Tử vi để biết kẻ trung người nịnh mà dụng người,… (Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi kinh quyển 1 trang 28).
II- Các môn phái Tử vi Trung hoa
Khoa Tử vi lưu truyền từ đời Tống (960) đến đời Thanh (1644) trải qua 684 năm, trong gần 7 thế kỷ đó khoa Tử vi đã chia ra làm ba rõ rệt.
Vua Càn Long có tham vọng thống nhất lại cho đúng. Nhưng cho đến nay sách vở thất tán, nên khoa này tại Trung Hoa không phổ thông và tinh vi như Việt Nam. Ba phái Tử vi đó là:
Sau đây chúng tôi xin lược trình qua sự xuất hiện của các phái.
1- Phái Triệu Gia
HI DI tiên sinh truyền sách Tử vi Tinh Nghĩa cho Tống Thái Tổ. Thái Tổ truyền lại cho các bậc Vương, Hầu trong hoàng tộc. Khoa Tử vi lưu truyền trong hoàng tộc đời Tống giữ một sắc thái đặc biệt có thể tóm lược như sau:
Khoa Tử vi lưu truyền trong tôn thất nhà Tống, đời đời ghi chú thêm các kinh nghiệm. Sau khi nhà Tống mất con cháu vẫn còn giữ được di thư. Người sau dùng chữ Triệu là họ của nhà Tống mà gọi phái này.
Sau đây là một vài câu chuyện còn ghi chép trong bộ sách Triệu Thị Minh Thuyết Tử vi Kinh.
Sau khi Tông Thái tổ thống nhất giang sơn cho nghĩa đệ là Trịnh ân ra trấn cõi ngoài. Ngài xem số thấy Trịnh âN sắp bị đại nạn e khó thoát chết. Số Trịnh ân Thiên Tướng, Tướng quân thủ mệnh tại Tý. Mà năm ấy đại hạn gặp Tuần, tiểu hạn gặp Triệt. Lưỡng tướng tối kị ngộ Tuần, Triệt. Huống hồ lưỡng Tướng gặp cả Tuần lẫn Triệt, Ngài xuống chiếu gọi Trịnh ân về kinh đợi qua năm sẽ cho ra trấn thủ lại. Không ngờ khi Trịnh ân về kinh thì xảy ra vụ gian thần mượn quyền Thái Tổ giết chết. Thái Tổ giết chết bọn gian thần trả thù cho nghĩa đệ, bồi hồi vì cố cưỡng lại số cứu nghĩa đệ mà rốt cuộc nghĩa đệ vẫn không thoát khỏi số. Vợ Trịnh ân là một võ tướng trí dũng tuyệt vời tên là Đào Tam Xuân, đã giúp Thái tổ dựng lên đại nghiệp. Thái Tổ đang ân hận nghĩa đệ bị giết, lại lo việc Tam Xuân vây hãm kinh đô, không cách thoát. Hoàng đệ là Triệu Khuông Nghĩa tính số tử vi rồi nói:
- Số của Hoàng huynh có cách: Tử Phủ Vũ Tướng dầu có Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Tang Hổ, nhưng năm nay hạn ngộ Tuần, đế vô sở quyền, nên mới bị Quý phi mượn lệnh mà giết mất Trịnh ân. Bây giờ bị vây, tôi xem số của Đào Tam Xuân, Vũ khúc, Phá quân thủ mệnh tại Tý ngộ Lộc tồn Kiếp, Không, tại Thiên Di. Cung Quan Tử, Tham Lộc. Cung Tài Liêm Sát Tả Hữu Khoa. Hiện tại đây không ai có thể thắng nàng. Cái cách Kiếp, Không đắc địa của nàng là khắc tinh của cách Tử Phủ Vũ Tướng của hoàng huynh. Muốn lầm cho êm truyện này, phải tuân theo điều kiện sau: Tam Xuân có Vũ Phá thủ Mệnh, tính tình nhẹ dạ. Theo Tử vi thì chỉ có Thiên lương chế được tính ác của Phá quân, Lộc tồn chế được tính điên của Phá quân. Tôi xin đề cử Cao Hoài Đức, người có Thiên Lương thủ Mệnh tại Tý ngộ Khốc, Hư và Lộc tồn cư Thiên di tại Ngọ với Thái dương, ra thuyết phục Đào Tam Xuân.
Thái tổ chuẩn tấu. Quả nhiên Cao hoài Đức thuyết phục Đào tam Xuân rút binh. Về sau con cháu Trịnh ân phò nhà Tống cho đến khi mất nghiệp vò tay quân Mông Cổ.
Một lần khác, phải đề cử tướng ra trấn thủ biên cương Tống đế được các quan đề cử hai người. Triều đình tranh luận liên tiếp mấy ngày không kết quả. Sau cùng Tống đế tính số Tử vi thấy:
- Trương quang Đăng có cách Tử Phá thủ Mệnh Tả Hữu phù trì tại Mùi nhưng năm sau Đại hạn, Tiểu hạn trùng phùng ngộ Liêm Tham tại Hợi chắc chắn là chết. Nếu cử Đăng đi thì qua năm lại phải cử người khác.
- Dương Văn Quảng, tuổi Giáp, mệnh lập tại Dần, có Hình, Mã, được cách Tử Phủ Vũ Tướng, sách Tử vi nói rằng: “Hình Hổ cư Dần, Hổ đới kiếm hùng, tương phùng Đế cách, ư Giáp Kỷ nhân uy vũ trấn, động”. Nghĩa là: Thiên hình, Bạch hổ ở Dần Hổ đeo kiếm hùng. Người tuổi Giáp, Kỷ uy vũ trấn động.
Đó là cách “Mã đầu đới kiếm trấn ngự biên cương”. Vì vậy Tống đế quyết định cử Dương Văn Quảng ra trấn biên ải.
Quả nhiên năm sau Trương Quang Đăng chết. Khi nhà Tống mất nghiệp, con cháu còn lưu truyền công phu nghiên cứu Tử vi của họ Triệu qua bộ Triệu Thị Minh Tuyết Tử vi kinh.
2- Phái Hà Lạc
Sai khi Hi Di tiên sinh qua đời, đệ tử của ông chia ra làm hai phái. Phái đi về phương Nam chịu ảnh hưởng của khoa bói toán, nên đời sau gọi là phái Hà lạc. Họ thêm vào một số sao mới mà trong Tử vi chính nghĩa kinh không có. Cách an sao của họ cũng khác với HI Di tiên sinh, Những sao họ thêm vào, với tính cách quái dị, vô lý của khoa bói dịch, như: Thiên giải, Địa giải, Giải thần, Thiên quan, Thiên phúc, Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên y, Thiên Trù, Quán sách, Thiên xá…
Vòng Thái tuế có 5 sao, họ thêm vào 7 sao nữa thành 12 sao.
Đa số người của phái này dùng khoa Tử vi làm kế sinh sống, nên không bao giờ họ truyền cho nhau hết cái tinh vi. Bao giờ họ cũng giữ lại một số bí thuật. Đôi khi họ còn truyền sai cho nhau nữa. Vì vậy lâu ngày phái này bị mất hẳn gốc. Kinh nghiệm của họ thực nhiều, nhưng họ không truyền cho nhau thì đâu còn giá trị nữa. Các thầy Tử vi Tầu sang VN dạy lại cho người VN, họ vốn dĩ đã bị học lại không đúng với chính kinh, khi truyền lại họ còn dạy sai và dạy thiếu nữa, thì hỏi sao khoa tử vi VN không có những chỗ bế tắc khó giải thích.
Công trình của phái này còn chép trong bộ Tử vi âm Dương chính nghĩa nam tông.
3- Phái âm Dương
Học trò của Hi Di tiên sinh đi về phương bắc đã bị ảnh hưởng của âm Dương sinh khắc ngũ hành. Phía này có khuyết điểm là quá chú ý vào âm Dương sinh khắc mà quên mất tinh yếu của khoa Tử vi là Thiên văn. Đầu đời Mih một nhân vật quan trọng của phái này làm quân sư cho Minh Thái Tổ. Đó là Lưu bá ôn. Trọn đời Minh (1368-1643) phái này được trọng dụng. Kinh nghiệm của phái này rất nhiều, nhưng tiếc rằng đi quá xa với chính tinh nên không thành đạt cho lắm. Công phu của phái này còn lưu truyền bộ Tử vi âm Dương Chính nghĩa, Bắc Tông.
Niên hiệu Sùng Chinh thứ 16 nhà Minh (1643), Lý tự Thanh đem quân đốt phá Bắc kinh, thì bộ sách trên thất truyền. Sau Vĩnh Vương bị Ngô tam Quế thắt cổ ở Vân Nam, y có lưu giữ một bộ. Ngô tam Quế bị diệt, bộ này lọt vào tay các văn thần nhà Thanh.
4- Bộ Tử vi Đại toàn
- Niên hiệu Càn Long thứ 38 nhà Thanh, nhà Vua thấy danh sĩ thiên hạ xúm vào bài bác mình, chê bai Thanh triều làm giòng dõi mọi sợ phương Bắc mới tập trung những nhà học giả lại phong cho mỗi người một tước đặt dưới quyển Kỷ Duân, là việc trong viện Tử khố toàn thơ. Công việc của viện là tập trung tất cả sách vở, học thuật trong thiên hạ lại chú giải, ấn hành cho dân gian học. Bộ này được gọi là Tứ bộ bị yếu. Gồm có 4 bộ cả sách Tử vi trong thiên hạ lại chú giải thành bộ Tử vi Đại toàn, gồm 9 cuốn như sau:
Đặc biệt cuốn thứ nhì có nói đến khoa Tử vi tại VN, là công trình nghiên cứu của nhà Trần. Cuốn thứ 8 chép lại nguyên văn của sách “Đông A di sự” đời Trần.
5- Khoa Tử vi Trung hoa ngày nay
Có nhiều lý do giải thích tại sao khoa Tử vi Trung hoa ngày nay lại không thịnh hành và được nhiều người nghiên cứu đến nơi đến chốn như Việt Nam điều đó chúng tôi sẽ trình bày trong một bài sau.
KHHB số 74G1
Bài viết chép lại một đoạn nhận xét về các môn khoa học huyền bí Trung Hoa trong Hồi Ký của học giả Nguyễn Hiến Lê
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai cuốn Tử vi viết bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc thêm sách Tử bình bằng chữ Hán. Năm 1974 tôi lại được đọc cuốn Bát tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi quê ở Thanh Trì (Hà Nội) có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học huyền bí đó của Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn “làm cách mạng” thấy tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm hiểu một môn học rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có thực. Một người thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng cho người đó; hiện tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy vô lí, nhưng vẫn có thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu thanh; nửa thế kỉ trước, ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
“Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội, nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng”.
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6, 7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy:
- Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao (tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di, tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ... cho nên đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì dùng âm lịch, mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa (thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12 sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
- Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4 can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch (tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ “hành” nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều người không thích khoa đó.
- Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10 năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11, ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ, tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán, như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy: “Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ” (Tin số mà không tin sức mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: “vận nước thắng vận người” (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi môn lí số của Trung Hoa.
***
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một cách tài tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp dụng luật ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và Tử bình có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của Trung Hoa, khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ đúng một cách kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr. 177), một quẻ về bệnh của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi; đúng về tốt xấu là chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng cũng chỉ được 50%), nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người chết rồi thì bảo là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không mua được. Đoán rất đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường nghiệm, có người trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như quẻ nghiệm hay không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền, hoặc tùy tâm trạng người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin khoa đó nữa, cứ xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị, huyền bí chứ không phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa lí hám giá, tôi cũng lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ, một vài qui tắc rồi đọc lấy được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa. Cổ nhân đã nói muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết (phát) thì phải có “lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu”. Tôi không có lòng thần, cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu đất kết, chỉ cho “mạch” phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch; chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
Bạn sẽ nhận thấy nhiều thay đổi tích cực trong cuộc sống của mình khi bạn áp dụng tất cả các mẹo phong thủy phòng ngủ sau đây.
1. Bàn tay to
Họ có năng lực làm việc, tiêu tiền rất rộng rãi. Trên phương diện vật chất, họ chu đáo và sẵn sàng vì người khác mà chi tiền rất thoáng.
2. Bàn tay dày chắc nịch
Họ là người có phúc, tài vận may mắn. Nếu bàn tay dày và cứng, họ rất thành thật, không giỏi giao tiếp, coi trọng tình bạn và tình thân, sẵn sẵn vì bạn bè, người thân hoặc người họ thích mà tiêu tiền. Chỉ cần đối phương thích, cho dù đắt bao nhiêu họ cũng sẵn sàng mua.
3. Ngón tay mảnh khảnh
Họ nhạy cảm, tinh tế, có khả năng thiên bẩm về nghệ thuật, coi trọng tình cảm, rộng rãi, thích làm việc thiện, có tham vọng sự nghiệp, vì thực hiện lý tưởng của bản thân mà không tiếc tiền.
4. Các ngón tay lộ khe hở khi khép lại
Họ tiêu tiền rất rộng rãi, thích là mua, hiếm khi suy nghĩ giá tiền. Người lộ khe hở càng lớn thì chi tiền càng hào phóng, tiêu đến mức không biết tiết kiệm.
5. Khớp ngón cái mềm mại
Họ có tính cách độ lượng, thích quan hệ xã giao, giàu lòng trắc ẩn, tiêu tiền như nước, vui giận không che đậy. Nếu ngón cái thẳng, đầu nhọn hướng về phía sau thì họ hào phóng rộng rãi, tiêu tiền không thể kiểm soát.
6. Bàn tay duỗi ra 5 ngón tách rời nhau
Họ sẵn sàng tiêu tiền, không hề keo kiệt, thích món nào mua món đấy, rất ít khi nghĩ đến việc tiết kiệm.
7. Vân tài vận dày, sâu dài
Vân tài vận là những đường vân xiên vẹo nằm giữa gò Thủy Tinh (gốc ngón út) và gò Thái Dương (gốc ngón áp út). Họ có nhiều vận may, không thiếu tiền tiêu, chi tiền rộng rãi, biết hưởng thụ cuộc sống,
8. Lòng bàn tay bằng phẳng
Họ tiêu tiền rộng rãi, khó giữ tiền. Nếu gò Thái Dương (gốc ngón áp út) cao và mềm mại thì họ có nhiều tài vận, dù kiếm nhiều tiền nhưng vẫn tiêu sạch, không keo kiệt nên họ có nhiều bạn bè, nhân duyên tốt.
Câu trả lời đó là do có quá nhiều “Thủy khí” không tốt trong ngôi nhà của bạn. Đó cũng có thể là sự hiện diện của quá nhiều đồ vật màu đen. Điều này sẽ làm suy yếu vận thế của người đàn ông và khiến cho toàn bộ Thủy khí không tốt chạy sang người phụ nữ.
Hãy mở cửa phòng thông thoáng để ánh nắng chiếu vào, sẽ làm giảm tính “trăng hoa” của anh ấy. Theo Blog Phong Thủy, bạn cũng có thể cùng anh ấy đi tắm biển, tắm suối nước nóng để gột rửa Thủy khí xấu trên người, như vậy vận may tự nhiên sẽ quay trở lại.
Trung hòa Thủy Khí
Bạn cũng có thể mua thêm 1 bộ ghế sofa đẹp và trang nhã, có màu sắc tươi trẻ để trung hòa Thủy khí quá vượng. Đồ dùng trong nhà bằng nhung cũng có thể hút bớt Thủy khí từ người đàn ông của bạn. Thảm, vải bọc ghế, dép đi trong nhà đều có thể chọn chất liệu bằng nhung, len. Bên cạnh đó, bạn có thể dùng khung ảnh gỗ, lồng ảnh chụp 2 người để tăng vượng khí. Phải chú ý, màu của khung ảnh không nên quá đậm, nên chọn màu nhạt tự nhiên.
Tăng cường Thổ khí
Cả 2 nên ăn nhiều đồ hầm cũng là 1 cách để tăng cường Thổ khí và có được năng lượng “trấn an tinh thần”. Âm nhạc du dương có thể làm yên lặng tâm tư đang xao động của anh ấy. Tóm lại, bạn hãy tìm mọi cách để anh ấy thích không khí ở nhà, từ đó bỏ quên ý định ra ngoài tìm niềm vui thú.
Bên cạnh đó, bạn nên chăm chỉ quét dọn nhà cửa, trong nhà lúc nào cũng cắm hoa tươi; ghế ngồi tốt nhất nên có đệm kê, tạo môi trường thư giãn thoải mái. Nói chung, hãy biến ngôi nhà thành nơi giữ chân anh ấy. Như thế sẽ giảm đi rất nhiều tính trăng hoa của chàng…
Ngoài ra, tính trăng hoa của anh ấy rất có thể xuất phát từ bạn. Bạn nên xem lại cách ăn mặc, trang điểm và thói quen vệ sinh của mình. Liệu bạn có phải là người cẩu thả, lôi thôi không? Nếu đúng vậy thì hãy chăm chút cho bản thân để tạo sự quyến rũ và gợi cảm trong mắt anh ấy.