Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những nấm mộ dưới đáy biển từ bao đời

Đại dương được xem là nghĩa địa khổng lồ không chỉ của các loài sinh vật mà còn cả của con người, những người không may thiệt mạng và phải nằm lại ở nơi sâu
Những nấm mộ dưới đáy biển từ bao đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thẳm nhất của biển khơi. Khám phá những nấm mồ dưới đáy biển sâu.


► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật
  Bên cạnh những người không may thiệt mạng và phải nằm lại dưới đáy biển sâu, không ít người lại có nguyện vọng được chôn cất trong lòng đại dương. Xuất phát từ nhu cầu này, có không ít công ty mai táng, chẳng hạn Neptune Society giúp họ được thỏa nguyện. Neptune Society hiện cung cấp dịch vụ chôn cất tro cốt của khách hàng tại các rặng san hô nhân tạo lớn nhất ngoài khơi bờ biển Miami.

Nhung nam mo duoi lop song bien hinh anh
 
  Ở góc phải dưới cùng của bức ảnh, nhiếp ảnh gia Bill Reals chụp được bức ảnh về một bộ xương người, theo ước tính, đã có khoảng 10.500 tuổi ở động Yucatan, nằm dưới đáy biển sâu. Những bộ xương người cổ đại được phát hiện tại các hang động dưới đáy biển là chứng tích còn sót lại của một thời con người sinh sống bên trong các hang động trên mặt đất.   Tuy nhiên, sau đó do các biến đổi về cấu tạo địa chất, địa tầng, các hang động này bị nhấn chìm vào lòng biển, kéo theo cả hài cốt của các cư dân từng cư trú ở đó. Các bức ảnh còn lại là phần khung xương còn sót lại của một con cá voi. Nhà hải dương học Craig Smith cho biết, mỗi bộ xương như vậy cung cấp những hỗ trợ rất lớn cho hệ sinh thái đa dạng dưới đáy biển. Xác chết của con cá voi là nguồn thức ăn nuôi sống các loài thủy sinh ăn xác thối, sau đó là các loài sâu ăn xương hoặc loài trai sống ở khu vực này.   Bức ảnh chụp một vài bộ xương của các sinh vật sống dưới biển. Bức ảnh lớn bên trái là bộ xương của một con rùa được tìm thấy ở gần Sipadan, Malaysia. Bức ảnh trên cùng bên phải là bộ xương của một con rắn biển và bức ảnh dưới cùng bên phải là một phần xương chưa xác định đươc tìm thấy gần xác của con tàu bị đắm tên là La Jolla.

Nhung nam mo duoi lop song bien hinh anh
 
  Nhiều nguồn tin từng cho rằng Hiệp hội Địa lý Quốc gia Mỹ tìm thấy bộ xương người cổ đại khổng lồ dưới đáy đại dương. Tin tức này nhanh chóng lan rộng trên các trang mạng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là tin đồn nhảm. Ngoài ra, cũng có nhiều người tin về sự tồn tại của hòn đảo huyền thoại Atlantis ở Đại Tây Dương và dành gần như toàn bộ cuộc đời để tìm kiếm dấu vết của nó. Một trong số đó là Dan Clark.
 
Ông này từng tuyên bố, mình đã phát hiện ra Atlantis và bức ảnh đầu tiên được cho là phần còn sót lại của hòn đảo huyền thoại này. Bức ảnh bên dưới là hình ảnh minh họa cho khám phá của ông về bộ xương người cao 3,5 m dưới đáy đại dương. Tuy nhiên, song song với việc những tuyên bố của Dan Clark vẫn chưa được chứng minh, nhiều người cho rằng, những bức ảnh kia chỉ là một trò lừa bịp.
 
Nhung nam mo duoi lop song bien hinh anh
 
Trong một chuyến lặn biển ở Aruba, một cặp đôi người Pennsylvania đã chụp được hình ảnh mà họ cho là bộ xương của một nữ sinh người Mỹ bị mất tích tên là Natalee Holloway. Biển cả luôn chứa đựng nhiều bí mật và cả những bộ xương của những người không may bị chết đuối và phải nằm lại dưới đáy sâu của nó. Do đó, việc thợ lặn tình cờ tìm thấy các bộ xương người khi đang “chu du” dưới đáy biển là chuyện không hiếm gặp.
Theo Xuangiao.com
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nấm mộ dưới đáy biển từ bao đời

Các đối tượng khoa Tử vi

Từ khởi thủy đến nay, khoa Tử Vi vẫn không thay đổi đối tượng : Tìm hiểu con người .
Các đối tượng khoa Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả Khoa Tử Vi là đạo sĩ Trần Đoàn, sinh dưới thời nhà Tống. Ông này đã dựa vào Kinh Dịch cùng những khai triển về lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Đổng Trọng Thư, một triết gia thời Hán, để lập ra khoa Tử Vi.Theo nguyên ngữ, danh từ Tử Vi không nói lên đối tượng khảo cứu, Tử là màu Tím, Vi là từ của vi diệu. Nhưng mục đích của Tử Vi là tìm hiểu con người và số phận con người, dựa trên hệ thống quy luật biến hóa của triết thuyết về Vũ Trụ thời đó. Dù căn bản triết lý của Tử Vi cao siêu, nhưng đối tượng chỉ nhắm vào con người mà thôi.

   Trong việc tìm hiểu này, Tử Vi có tham vọng khảo sát cả con người lẫn đời người, tức các chi tiết sau:      


     1. Đặc tính cá nhân của mỗi người, bao hàm các yếu tố :
      - Cơ thể
      - Tướng mạo
      - Tính tình
      - Bệnh tật

     2. Đặc tính gia đình :
      - Cha mẹ
      - Anh chị em
      - Vợ chồng
      - Con cái
      - Đời sông ngoại hôn

     3. Đặc tính kinh tế :
      - Nghề nghiệp
      - Tài lộc
      - Điền sản

     4. Đặc tính xã hội :
      - Môi trường sinh sống
      - Những mối giao thiệp

     5. Đặc tính dòng họ :
      - Phúc Đức
      - Ảnh hưởng của Phúc Đức

    6. Đặc tính vận số :
      - Các giai đọan của đời người.
      - Các biết cố lớn trong một khỏang thời gian.

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các đối tượng khoa Tử vi

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Muốn tài lộc vào nhà, tiền đếm mỏi tay thì cứ đặt ông Thần Tài chỗ này

Vị trí đặt Thần Tài ảnh hưởng rất nhiều đến sự luân chuyển tài lộc vào nhà bạn đấy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thần Tài là vị thần như thế nào?

Trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước Phương Đông, Thần Tài là vị thần được nhiều người thờ cúng trong gia đình để cầu sự sung túc.

Theo truyền thuyết, Thần Tài chính là Triệu Công Minh, người đời nhà Thương. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà. Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn. Người ông yêu là Phù Dung tiên tử.

Muốn tài lộc vào nhà, tiền đếm mỏi tay thì cứ đặt ông Thần Tài chỗ này - Ảnh 1.

(Ảnh: Internet)

Người ta thường vẽ ông hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi cưỡi cọp đen. Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái. Người đời vẽ ông trên một cái đĩa làm bằng kim loại trên bàn thờ để thờ cúng.

Theo tín ngưỡng dân gian, người xưa tin rằng Thần Tài chính là vị thần chuyên quản tài lộc trong thiên hạ. Vì vậy, nếu được sự chiếu cố của ông thì đường công danh rộng mở, giàu sang phú quý tự động đi vào nhà. Chính vì vậy, bên cạnh thờ Thổ Địa – thần canh quản đất đai nơi ở, thì người ta còn thường thờ Thần Tài kế bên.

Đặt để Thần Tài sao cho tốt?

Không như bàn thờ tổ tiên hay các bàn thờ Thổ Công, Thánh Sư phải đặt nơi cao ráo và trang trọng, vị trí đặt bàn thờ Thần Tài tốt nhất chính là dưới sàn, hướng thẳng ra cửa lớn.


Theo quan niệm dân gian, để tránh tài lộc trôi đi mất hoặc không tụ về gia đạo thì sau lưng bàn thờ Thần Tài tốt nhất nên là bức tường vững chãi, tránh trổ cửa hay đục lỗ vì tài vận sẽ không có chỗ tụ mà trôi đi mất.

Từ ngoài nhìn vào thì Thần Tài phải được đặt ở bên trái, còn bên phải là nơi ngồi của Thổ Địa. Bát nhang đặt ở giữa hai vị thần và tránh dịch chuyển khi lau dọn.

Khi cúng mà dâng hoa thì nên đặt bình hoa bên tay phải, đĩa trái cây ở phía trái. Nước cúng Thần Tài nên đặt 5 chén nhỏ, theo hình chữ thập để tượng trưng cho 5 phương và ngũ hành tương sinh.

Muốn tài lộc vào nhà, tiền đếm mỏi tay thì cứ đặt ông Thần Tài chỗ này - Ảnh 2.

Thiềm Thừ (ảnh: Internet)

Nếu muốn đặt thêm các vật phẩm phong thủy như Thiềm Thừ (dân gian hay gọi là Ông Cóc) thì để bên trái, buổi sáng cho quay mặt ra, buổi tối thì quay mặt vào. Và nhớ để dưới đất chứ không đặt lên bệ thờ chung với Thần Tài, Thổ Địa.

Có thể đặt thêm tượng Phật Di Lặc phía trên bàn thờ để Phật xem xét, trấn giữ phòng các thần làm điều sai.

(Tổng hợp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn tài lộc vào nhà, tiền đếm mỏi tay thì cứ đặt ông Thần Tài chỗ này

Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc
Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xông nhà, xông đất là nét văn hóa có từ lâu đời ở Việt Nam. Với quan niệm, ngày mùng 1 là bắt đầu cho một năm mới, thế nên nhiều người cho rằng nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ trong ngày này thì cả năm sẽ được thuận lợi, tốt lành…

Xông đất mang an lành

Ngay sau thời khắc Giao thừa, bất cứ người nào bước từ ngoài vào nhà với lời chúc năm mới được coi là đã xông đất cho gia chủ.

Gia chủ sẽ căn cứ vào sự thành đạt, tài cán, đức độ, sức khỏe... của người xông đất để đoán vận hạn cho mình. Tục xông đất thể hiện khát vọng về sự thịnh vượng, an khang và người xông đất như một dấu hiệu để người ta giải đoán trước hậu vận của năm đó.

Quan niệm người xông đất đầu năm sẽ mang lại may mắn cho gia chủ trong suốt một năm vẫn được giữ gìn.

Với người Việt, tục xông đất ở các vùng gần như giống nhau. Khách đến xông đất phải đến vào sáng sớm ngày mùng 1 mang theo quà biếu như hoa quả, bánh mứt và tiền lì xì cho người già, trẻ con trong nhà.

Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết khoảng 5-10 phút chứ không ai ở lâu, như vậy thì mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy, thông suốt. Cứ đến dịp cuối năm, hầu như ai cũng có ý tìm chọn trong họ hàng hay láng giềng những người tốt tính và làm ăn phát tài, có cuộc sống suôn sẻ để “xông đất” nhà mình. Tục xông đất đầu năm có ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, thể hiện mong muốn hướng tới những điều tốt lành của người dân Việt.

Có một số gia đình lại chọn cách xông đất sau giờ Giao thừa, thường để người thân trong gia đình tự xông lấy. Người ta chọn một người dễ vía ra khỏi nhà trước thời khắc đón Giao thừa rồi đi lễ tại đình chùa, sau đó xin hương hái lộc. Lúc trở về nhà đã bước sang năm mới, người này tự “xông nhà”, mang sự tốt lành quanh năm về cho gia đình theo quan niệm của ông bà xưa. Với kiểu xông nhà, xông đất như vậy tránh được việc phải nhờ người khác.

Ngày nay, đối với những người làm kinh doanh, việc chọn “ngày lành tháng tốt” để bắt đầu công việc, chọn người hợp tuổi để khai trương, xông đất đầu năm không còn là chuyện quá hiếm. Giới doanh nhân tâm niệm ngày đầu “xuất quân” suôn sẻ sẽ đem lại một năm làm ăn may mắn.

Chọn tuổi xông đất

Bất cứ ai cũng muốn được người tử tế, tốt tính đến xông đất nhà mình. Vì thế, người ta thường để ý tìm người hợp tuổi với mình để dặn trước nhờ xông đất.

Thông thường nên chọn người xông nhà hợp với tuổi chủ nhà, có thể là tam hợp hoặc nhị hợp.

Chẳng hạn như: Chủ nhà tuổi Tý thì nên chọn người tuổi Thân, Thìn, Sửu để xông nhà. Chủ nhà tuổi Sửu nên chọn người tuổi Tỵ, Dậu, Tý. Chủ nhà tuổi Dần nên chọn người tuổi Ngọ, Tuất, Hợi. Chủ nhà tuổi Mão nên chọn người tuổi Mùi, Hợi, Tuất. Chủ nhà tuổi Thìn nên chọn người tuổi Tý, Thân, Dậu. Chủ nhà tuổi Tỵ nên chọn người tuổi Sửu, Dậu, Thân. Chủ nhà tuổi Ngọ nên chọn người tuổi Dần, Tuất, Mùi. Chủ nhà tuổi Mùi - nên chọn người tuổi Mão, Hợi, Ngọ. Chủ nhà tuổi Thân nên chọn người tuổi Tý, Thìn, Tỵ. Chủ nhà tuổi Dậu nên chọn người tuổi Sửu, Tỵ, Thìn. Chủ nhà tuổi Tuất nên chọn người tuổi Dần, Ngọ, Mão. Chủ nhà tuổi Hợi nên chọn người tuổi Mão, Mùi, Dần để xông nhà.

Mặc dù đã chọn tuổi nhưng người được nhờ xông đất, xông nhà người khác cũng e ngại. Vì cái vía của mình có may mắn, có đem lại tốt lành cho gia chủ hay không, việc đó phải chờ đến hết cả năm mới biết được. Thế nên việc nhờ người xông đất cũng không phải chuyện dễ dàng.

Thế mới hay, xông đất vẫn là một nét đẹp văn hóa cần được gìn giữ. Trong mùi hương trầm thoang thoảng ấm cúng, người đến xông đất cùng gia chủ rót tách trà ngon, mời nhau chiếc bánh ngọt hay uống một ly rượu vang, rồi cùng cầu chúc những điều tốt đẹp cho nhau trong năm mới… Thật là một khung cảnh ấm cúng trong những ngày đầu năm mới này!

(Theo Laodong.com.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao phải coi trọng việc xông đất đầu năm?

TẾT...NGUYÊN ĐÁN

Tết là do chữ 'Tiết' (chữ Hán) mà ra. Người xưa chia một năm thành 24 Tiết khác nhau, gom lại thành 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán là Tiết Lễ đầu năm mới. Khởi sự từ giây phút giao thừa. Theo luật tuần hoàn trong vũ trụ, cứ đủ 365 ngày là bước qua một năm mới. Tết là ngày vui nhất trong năm của người Việt Nam. Những gia đình lễ giáo, thường tụ tập đông đủ để chúc thọ ông bà, cha mẹ và anh chị em chúc tuổi lẫn nhau, con trẻ sẽ được tiền mừng tuổi.
TẾT...NGUYÊN ĐÁN

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dân ta có câu: ''Nhất Sĩ nhì Nông, hết gạo chạy rông, nhất Nông, nhì Sĩ''. Điều đó chứng tỏ Nông nghiệp là lãnh vực quan yếu trong xã hội VN. Từ xưa tới nay, 70, 80% dân sô` người Việt sống về nghề nông, lam lũ! Nhà nông quanh năm vất vả với ruộng đồng, nương khoai! Do đó, Tết chính là dịp được nghỉ ngơi, thư thả.

Để đón Tết, người VN chuẩn bị rất công phu, chu đáo. Ở thành thị, có thể là xa hoa, đài các, nhưng ở thôn quê, đặc biệt là ngày xưa thì êm ả, ấm cúng. Người ta lo lắng, bồn chồn, nhiều gia đình dành dụm cả năm, sau khi đã thanh thỏa nợ nần, cũng mong sao còn một chút...lo Tết. Lỡi Tết ...chính là mối ưu tư lớn nhất của nhiều gia đình (nghèo khó) ở thôn quê. Vay nợ, chịu ơn người ta suốt năm, nay ...Tết là dịp, phải...đền ơn, đáp nghĩa thế nào?

Những gia đình giầu có thì ngay từ đầu tháng chap đã chẻ lạt, gom củi nấu bánh chưng, gói giò. Người ta bắt đầu mua đủ thứ...Gạo nếp, lá dong, thịt heo, hành tỏi. Bắt đầu o bế những chậu Cúc, chậu Trà, Quất, Hải đường, Mai vàng hay Bích đào (chỉ có hoa đỏ, không có quả).v.v. Sao cho kịp nở đúng vào ngày Tết. Một số người còn nặn sẵn 3 ông 'Đầu rau', béo mập, oai phong. để thay thế những ông bị bể đầu, vỡ mặt! Hàng phe, hàng giáp thì định ngày hội họp, chia cỗ, chia phần theo lệ làng: Đinh, Tráng, Lão Bà, Lão Ông. Những gia đình không khá giả lắm thì chung nhau 'đụng lợn' để có tí thịt, làm nhân bánh chưng hay gói giò, làm ...cỗ Tết. Nơi đình làng, ông Thủ Từ đã bắt đầu lau chùi đồ thờ, mua sắm vàng, mã cùng cờ xí, trống, chiêng, chuẩn bị cho Lễ hội có toàn dân tham dự. Nhiều làng xóm còn có tục thi chọi trâu, đấu vật, đánh cờ (người) hay trò chơi muá rối (hình nỗm cử động bằng dây do người điều khiển) trên mặt hồ, mặt ao, cũng hào hứng lắm.

Tết VN còn có nhiều tục lệ đáng ghi:

- Tiễn Ông Táo... Ông Táo phải về Trời để báo cáo Thiên Tào, Ngọc Đế, tất cả những gì đã xảy ra ở Trần gian trong năm qua, ông về Trời vào ngày 23 tháng chap. Ông là người cai quản 'Bếp' trong mỗi gia đình. Lễ tiễn ông là mâm quả cùng với con cá chép (còn sống, thả trong chậu nước, hoặc bằng giấy) làm phương tiện cho ông bay về Trời cho lẹ, cho oai.

- Chơ Tết... .. Ta có câu ...Vui như...chợ Tết. Ngày Tết càng gần thì 'Chợ Tết' càng tưng bừng, náo nhiệt. Những 'Phiên chợ' của tháng cuối năm như nhộn nhịp hơn nhiều, có nơi chỉ tổ chức duy nhất một lần trong tháng. (Miền Trung châu Bắc Việt có 'Phiên Chợ Huyện' là nổi tiếng của Tỉnh Thái Bình, họp vào ngày 29 Tết). Một số người mua thường chờ đến chợ phiên mới mua sắm đủ thứ, họ biết chắc...cái gì cũng sẽ có và...thế nào cũng rẻ hơn, vì... ai cũng mong bán cho hết, tránh bị ám ảnh bởi......''ì ẩm'' cuối năm! Xui lắm!! Ai ghiền bói toán, xem tranh hay có cái thú coi các cụ Đồ bán chữ.v.v.v. Cứ đến 'Chợ Phiên' là có tất cả.

- Cây Nêu... Chiều ngày 30 tháng chap là thời gian chót cho những nhà muốn dựng 'Nêu'. Đó là một cây tre, chặt từ gốc, cố giữ nguyên ngọn, trên đầu ngọn tre, treo một cái mũ (nhỏ), một xấp giấy vàng, vài cái khánh bằng đất nung, lủng lẳng trên không, gío thổi, khánh đụng vào nhau, kêu leng keng, ai nghe, biết ngay là nhà có chủ. Những nhà không dựng nêu, họ thường buộc lá cây (dừa, dứa) ngoài ngõ, có nhà rắc vôi bột, hình cái cung, ngay trườc sân, ai đến, nhìn thấy hình cung, đừng vô nếu không quen biết, cả ma qủi cũng chẳng dám vô. Nhớ một điều: Phải hạ Nêu trong ngày mồng 7 Tết, không..thì xui tàn mạng!

- Giao thừa... Dựng Nêu xong thì chuẩn bị đón Giao thừa.(Thời điểm trao cái cũ, nhận cái mới). Đêm này còn được gọi là 'Đêm Trừ tịch' (Trừ là thải, là bỏ, tịch là đêm tối). Lễ giao thừa được tổ chức khá long trọng tại tư gia, Đình làng hay Miếu, Am, Đền, Chùa. Giờ phút giao thừa rất là ồn áo, náo nhiệt, chuông trống inh ỏi, pháo nổ vang trời. Nơi Đền, Chùa thì khói nhang nghi ngút, trai thanh, nữ tú, lui tới tấp nập. Các Giáo đường thì chuông trống vang dội, với Lễ nửa đêm, tràn ngập Tín hữu, cất cao những lời ca trầm bổng, nguyện cầu cho Thế giới bình an, Nhân loại Hạnh Phúc..

--Xuất hành... Lễ giao thừa xong, nhiều người rủ nhau đến Chùa, Miếu để xin xâm, hái lộc. Xuất hành là chuyện rất quan trọng, nên người ta phải chọn...Hướng và Giờ xuất hành cho cẩn thận. Giờ...lúc ra đi phải hợp với giờ, với sao của người xuất hành, không được...kỵ, không được khắc. Nếu chẳng may...kỵ, khắc, đã không hên, còn...xui!

--Xông nhà... Xuất hành quan trọng thế nào thì xông nhà cũng quan trọng không kém. Những gia đình đông con, thường chọn đứa con nào...hiền lành, khôn ngoan, tốt...Viá nhất (...Vía là gì? Vía là cái Linh của mỗi người, Nam giới có 7 Linh, Nữ giới có tới 9 Linh lận - Nhiều người hay nói...Sợ hết viá...), để nó là người xông nhà trước nhất. Nếu không ưng ý đứa con nào thì nhờ bạn bè hay người hàng xóm cũng được, để họ mang sự may mắn đến cho gia đình.

--Kiêng cữ... Tết là dịp phải kiêng kỹ nhất. Thận trọng từng lời nói, cử chỉ. Tránh cau có, gắt gỏng hay la lối, giận hờn. Tránh nói con...khỉ (nhất là năm nay lại là năm...Khỉ), con hùm, con beo! Đừng đánh vỡ bát chén, đặc biệt nhà nào có người hút thuốc lào thì chớ làm đổ nước điếu...Xui vô cùng! Tránh mặc áo trắng, sợ có tang và điều sau đây, có lẽ nhiều người dễ mắc phải...Đó là phải kiêng hốt rác. Cố kiêng quét nhà trong ba ngày Tết, lỡ mà có nhiều rác thì dồn tạm vào một xó nào đó, chờ hết động thổ (3 ngày), hãy hốt đổ đi, không thì...xui cả năm đấy!

Tết Nguyên Đán là Tết trọng nhất trong năm, Đây là dịp người ta tụ họp lại cùng nhau sau một năm dài lưu lạc. ''Dù ai buôn bán đâu đâu, nhớ 3 ngày tết, rủ nhau mà về''. Tết cũng là dịp ăn uống thả dàn, vui chơi thỏa thích, đánh cờ, đánh bạc, cá ngựa, lôtô, xổ số lấy hên, ai cũng muốn thử tài, thử vận. Nhất là trẻ con, xin qúi vị đừng quên ...lì xì cho chúng, ít cũng được, miễn là có, không thì chúng.. tủi lắm!!!



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: TẾT...NGUYÊN ĐÁN

Niệm Phật thuyết cho xuân mới thanh thản và an nhiên

Người nôn nao vì xuân mới rạo rực, nhập môn Phật giáo dạy điều cho xuân mới an nhiên tự tại.
Niệm Phật thuyết cho xuân mới thanh thản và an nhiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc
 
Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 2
 
Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 3
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 4
 
Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 5
 
Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 6
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 7
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 8
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 9
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 10
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 11
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 12
 

Niem Phat thuyet cho xuan moi thanh than va an nhien hinh anh goc 13
 
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Kiếm Phong 

Xem Clip Khánh Tuế đầu Xuân mới

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Niệm Phật thuyết cho xuân mới thanh thản và an nhiên

Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Dậu

Người tuổi Dậu không quá quan tâm đến tiền bạc và là mẫu người có tinh thần tự lập cao. Họ luôn biết trân trọng những gì đã đạt được và biết vượt qua khó khăn
Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Dậu không quá quan tâm đến tiền bạc và là mẫu người có tinh thần tự lập cao. Họ luôn biết trân trọng những gì đã đạt được và biết vượt qua khó khăn trong cuộc sống để vươn lên. Tính cách này có thể mang đến cho họ sự phù hợp khi bước chân vào lĩnh vực chính trị.

Bên cạnh đó, họ còn là người có tư duy nhạy bén và lòng dũng cảm. Nếu hoạt động ở lĩnh vực an ninh, quân đội họ sẽ mau chóng được đề bạt lên chức vụ cao.

Ngoài ra, người tuổi Dậu còn có thể lực tốt, sức khỏe dẻo dai, ưa thích các hoạt động thể thao, nếu trở thành vận động viên cũng rất phù hợp với họ.

Khả năng thuyết phục tốt,  tài tạo lập quan hệ, người cầm tinh con gà hoàn toàn có thể đảm đương công việc ngoại giao. Đó là lĩnh vực mà họ nên thử sức mình nếu muốn trở nên nổi tiếng và có cơ hội làm giàu.

Người tuổi Dậu còn rất khéo tay, tỷ mỷ, cẩn thận và cần mẫn, đặc biệt là nữ giới. Do vậy, họ cũng nên tìm đến những công việc như liên quan đến hóa trang, may mặc hay lĩnh vực giải trí.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghề nghiệp phù hợp với người tuổi Dậu

Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Lục Thập Hoa Giáp của Giáp Thân là khỉ trên núi cao, thông minh, cá tính mạnh mẽ, có chí khí, học rộng biết nhiều, phản ứng linh hoạt nhưng vui giận bất thường.
Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Giai ma van menh nguoi tuoi Giap Than theo Luc Thap Hoa Giap hinh anh
 
Vận mệnh người tuổi Giáp Thân: Tỉnh tuyền Thủy là suối nước lạnh thanh khiết, nguồn dài vô tận, nuôi sống muôn dân. Thủy này sinh ở Kim mà xuất ở Thủy, cho nên gặp Kim là phúc. Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa trung Kim hàm chứa Thổ tính, ưa phối hợp nhất, tiếp đến là Canh Tuất, Tân Hợi Thoa xuyến Kim. Không nên lại gặp Bạch lạp Kim, vì chúng tương xung. Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim quá vượng, e rằng có họa tràn lan. Gặp Ất Sửu Hải trung Kim cũng được cát lợi.
 
Gặp Mộc đều cát lợi, nếu như gặp Mậu Tuất, Kỷ Hợi Bình địa Mộc; Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại lâm Mộc, cần có Nhâm Thân, Quý Dậu Kiếm phong Kim để gót vọt mới có thể thành vật dụng. Nhâm Tý, Quý Sửu Tang đố Mộc, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Dương liễu Mộc vô dụng. Ưa nhất Canh Dần Tùng bách Mộc, song lộc thích đạp.
 
Các Hỏa mà âm dương gặp nhau chủ về cát lợi. Mậu Tý, Kỷ Sửu Tích lịch Hỏa gọi là nhập thánh. Mậu Ngọ, Kỷ Mùi Thiên thượng Hỏa gọi là hiển chiếu, 2 Hỏa gặp nhau là thượng cát.
 
Thổ lấy Canh Ngọ, Tân Mùi Lộ bàng Thổ; Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa trung Thổ là thượng cát. Bính Tuất, Đinh Hợi Ôc thượng Thổ có thiên môn sinh Thủy cũng cát lợi. Mậu Dần, Kỷ Mão Thành đầu Thổ; Canh Tý, Tân Sửu Bích thượng Thổ không can thiệp với Thủy này. Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại dịch Thổ khắc Thủy này. Thủy bị Thổ chặn, cần có Thủy chảy đi mới tốt.
 
Ưa Nhâm Tuất, Quý Hợi Đại hải Thủy, là Dẫn phàm nhập thánh cách. Bính Ngọ, Đinh Mùi Thiên hà Thủy; Bính Tý, Đinh Sửu Giản hạ Thủy; Nhâm Thìn, Quý Tỵ Trường lưu Thủy cũng không xảy ra tai họa. Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy chủ cát lợi.
 
Lục Thập Hoa Giáp của Giáp Thân gặp Ất Dậu, quan tinh đổi chỗ cho nhau, cát lợi. Giáp Thân gặp Canh Dần, song lộc thích đạp, chủ về giàu có. Giáp Thân gặp Kỷ Sửu, quý nhân thích đạp, chủ về sang quý.
 
Nếu như 2 Thủy tọa ở niên trụ và thời trụ, 2 Mộc tọa ở nguyệt trụ và nhật trụ, gọi là Thủy nhiễu hoa đê cách, chủ về sang quý.
 
Trong tử vi nếu như trụ khác có Nhâm Thìn, nước giếng ngầm vọt ra Kim, chủ về có tài văn chương, nên làm nhà văn, tác gia,... 
 
Địa chi của các trụ khác có Thân, phạm Phục ngâm, vợ chồng duyên bạc.
 
Địa chi của các trụ khác có Dần, phạm Phản ngâm, con cái duyên bạc.
 
Nhật chi có Thìn, khắc vợ hoặc chồng.
 
Địa chi của các trụ khác có Tỵ, Dần, phạm tam hình, có thể vì tình cảm đứt gánh giữa đường hoặc sự nghiệp thất bại mà phát sinh tư tưởng bi lụy chán chường dẫn đến tự sát.
 
Người tuổi Giáp Thân gặp năm Thân, năm Dần, trong nhà không yên. Nếu không hại bản thân cũng thương hại đến người nhà.
 
Giáp Thân chọn bạn đời không nên lấy người sinh năm Canh, Tân. Nên tìm người sinh năm Mậu, Kỷ.

Theo Tử vi toàn tập
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã vận mệnh người tuổi Giáp Thân theo Lục Thập Hoa Giáp

Hướng bếp hợp người sinh năm 1976 Bính Thìn –

Hướng bếp hợp người sinh năm 1976: - Năm sinh dương lịch: 1976 - Năm sinh âm lịch: Bính Thìn - Quẻ mệnh: Càn Kim - Ngũ hành: Sa Trung Thổ (Đất pha cát) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp hợp người sinh năm 1976:

Contemporary-country-style-kitchen

– Năm sinh dương lịch: 1976

– Năm sinh âm lịch: Bính Thìn

– Quẻ mệnh: Càn Kim

– Ngũ hành: Sa Trung Thổ (Đất pha cát)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Thiên Y); Tây Nam (Diên Niên); Tây (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh);

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Phục Vị); Đông Bắc (Thiên Y); Tây Nam (Diên Niên); Tây (Sinh Khí);

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Lục Sát); Đông (Ngũ Quỷ); Đông Nam (Hoạ Hại); Nam (Tuyệt Mệnh);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1976 Bính Thìn –

Mơ thấy sữa bò sữa dê: Cơ thể khỏe mạnh, sự nghiệp thịnh vượng –

Sữa bò tượng trưng cho tinh lực dồi dào, cơ thể khỏe mạnh; sữa dê tượng trưng cho sự nghiệp thịnh vượng. Nếu sữa bị chua, dự báo gặp phải chướng ngại hay khó khăn do hành vi ngu xuẩn của bản thân.   Mơ thấy sữa tràn ra ngoài, dự báo hy vọng của
Mơ thấy sữa bò sữa dê: Cơ thể khỏe mạnh, sự nghiệp thịnh vượng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy sữa bò sữa dê: Cơ thể khỏe mạnh, sự nghiệp thịnh vượng –

Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài

Phát tài là loại cây phong thủy thường được bày trong nhà, nơi làm việc để thu hút may mắn. Ngoài ra, loại cây cát tường này còn có những tác dụng tốt khác.
Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phát tài là loại cây phong thủy thường được bày trong nhà, nơi làm việc để thu hút may mắn. Nhưng ngoài ra, loại cây cát tường này còn có những tác dụng tốt khác mà không phải ai cũng biết.


Nhung tac dung bat ngo cua cay phat tai hinh anh
 
1. Trang trí    Cây phát tài thuộc thực vật thường xanh, hình dáng tươi đẹp, lá xanh biếc, hoa to và rực rỡ. Với ngoại hình bắt mắt, bày cây phát tài có thể gia tăng cảnh quan, sinh động không gian, mang tới vẻ đẹp cho ngôi nhà.    Cây phát tài, nghe tên đã thấy vui mừng, nên đặt ở trước cửa nhà, mặt tiền cửa hàng rất thích hợp. Đặt ở phòng khách thì tăng vẻ trang nhã và phong thái tự nhiên, gần gũi cho ngôi nhà. 
Tác dụng chiêu tài của cây đá quý phong thủy Trưng cây chiêu tài, công việc nhanh phát 21 thần khí phong thủy chiêu tài nạp phúc 2016: Cây chiêu tài
2. Thanh lọc không khí    Loại cây cát tường này không chỉ đẹp mà còn hữu ích. Với lá rộng, cây phát tài có thể tinh lọc không khí, hấp thụ cacbonic, nhả ra oxy giúp không gian luôn mới mẻ, trong lành. Là loài cây sinh trưởng tốt trong cả điều kiện ánh sáng yếu hoặc có nồng độ cacbonic dày, hiệu suất quang hợp cao nên rất hữu hiệu trong việc làm sạch không khí, cải thiện môi trường sống, môi trường làm việc bị ô nhiễm. Ngoài ra, với độ bốc hơi lớn, cây còn gia tăng độ ẩm, điều hòa nhiệt độ, kháng lại chất độc hại do khói thuốc gây ra.
Nhung tac dung bat ngo cua cay phat tai hinh anh
 
3. Đổi mới phong thủy 
  Cây phát tài ý cũng như tên, mang tới tài lộc hanh thông và sự nghiệp suôn sẻ, có thể thúc đẩy vận trình, gia tăng phong thủy. Nếu vận khí tốt, cây phát tài nở hoa thì tiền của như nước, đầy đủ dồi dào. Nhà bày cây phát tài thì người trong nhà tinh thần phấn chấn, gia cảnh thịnh vượng. Loại cây chiêu tài tiến lộc này nên bày ở hướng Đông Nam hoặc ở tiền sảnh, phòng khách, nhất định mang tới hiệu quả như ý.   Một loại cây phong thủy mà đa tác dụng, vừa tốt cho sức khỏe, vừa lợi cho tài vận như cây phát tài thì còn ngần ngại gì mà không mau rước về nhà.   
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất
Chọn cây theo phong thủy né trở ngại trong sự nghiệp Những lưu ý phong thủy âm trạch khi trồng cây tại mộ Lựa cây vượng tài vượng lộc cho 12 con giáp Trình Trình    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tác dụng bất ngờ của cây phát tài

Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –

Tướng trán hẹp, trán ngiêng, hay cằm dài... về hình thức thì không đẹp, nhưng về tài vận thì sẽ may mắn và dễ phát tài vào năm nay lắm đó nha. 1. Trán hẹp, thần sắc tươi sáng Trán hẹp là người cẩn thận, làm việc rụt rè, có phần thiếu can đảm, thường
Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nét tướng phát tài trong năm 2015 (Ất Mùi) –

13 điều kiêng kị nên biết trong “tháng củ mật“

Dưới đây là 13 điều kiêng kị được truyền miệng trong các bạn có thể tham khảo để tránh gặp xui xẻo trong tháng củ mật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là 13 điều kiêng kị được truyền miệng trong các bạn có thể tham khảo để tránh gặp xui xẻo trong tháng củ mật:

1. Khi có mâu thuẫn với người khác, đừng bao giờ cãi nhau vào sáng sớm, đặc biệt là trong chuyện làm ăn và xây cất nhà cửa, rất nhiều người buôn bán làm ăn không biết rằng buổi sớm mà khó chịu, cả ngày không buôn bán được.

2. Trên đường đêm muộn về nhà, tốt nhất không nên hát, có người cho rằng hát lên sẽ thấy mình can đảm hơn, nhưng thực ra không phải vậy nó chỉ bộc lộ ra sự cô đơn và sợ hãi, giống như câu cá, bạn thở khí ra là mắc câu vậy. Bạn có thể hút thuốc hoặc tự làm mình tức giận lên.

3. Khi ra khỏi nhà mà phải bắt xe khách, nếu vừa hay nhà bạn có một em bé dưới 3 tuổi , nếu em bé lên xe mà kêu khóc, bạn nên xuống xe ngay, quay mặt về phía đông niệm 10 lần: giáp mộc.

4. Khi chuyển nhà, bạn nên dẫn theo 1 chú cún hoặc 1 em bé dưới 3 tuổi đến thăm ngôi nhà mới. Sau khi đến ngôi nhà đó nếu chú chó đi khắp nhà vẫy đuôi, hoặc bạn để em bé trên sàn mà đứa bé vẫn tự bò, tự chơi, điều này cho thấy nơi này là nơi tốt lành. Còn nếu chó không muốn vào, liên tục sủa hoặc em bé kêu khóc thì cho biết nơi này không nên ở lâu, nếu không mọi việc sẽ không thuận lợi.

13 dieu kieng ki nen biet trong “thang cu mat“
 Ảnh minh họa.

5. Khi bạn ra khỏi nhà 3 ngày hoặc trên ba ngày (tôi nói ở đây là nói đến khi mà trong nhà không có người), khi bạn trở về nhà không nên rút ngay chìa khóa và mở cửa, trước tiên bạn nên gõ cửa mạnh 3 tiếng, sau đó đợi khoảng nửa phút lại gõ cửa tiếp 3 lần rồi hẵng mở cửa. Sau khi mở cửa bất luận là ban ngày hay ban đêm bạn đều nên bật hết đèn các phòng lên, khoảng 2 phút lại tắt đi.

6. Khi bạn đi xa cần bắt xe khách, nếu như bạn là nam, khi lên xe phát hiện toàn là nữ mà vừa vặn lại có 7 người , chuyến xe này bạn không bao giờ nên đi. 1 nữ 7 nam cũng vậy. Thất dị vị vi thất sát ( bảy người khác nhau bảy nỗi đau).

7. Giường trong phòng ngủ không nên đối chuẩn với cửa. Đây là cách xếp đặt để tế người chết.

8. Không đi tiểu trên cầu.

9. Khi ăn cơm không được cắm đũa ở giữa bát cơm

10. Trong sân nhà không nên trồng cây dâu tằm, tre (trúc), bạch đàn, hoa huệ. Theo phong thuỷ, đây là những loại thực vật có nhiều âm khí.

11. Gương trong phòng ngủ không nên đối diện với cửa vì đây là cách xếp đặt để tế người chết.

12. Trong ngày 30 tết không nên tùy tiện vãi đường, hoa quả, gạo trên đường, trong các ngày lễ tết không nên cãi nhau, nếu bố mẹ thường như vậy con cái sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.

13. Khi nằm viện, nằm trên giường tuyệt đối không nên nhìn vô hồn lên trần nhà. Khi xuất viện về nhà, ghé vào một nơi nào đó cởi áo ra, thay áo khác rồi về.

14. Sau khi ăn cơm tối nên có thói quen rửa bát ngay, sau khi rửa xong không nên để đọng nước ở trong bát đũa.

15. Không nên mở dù (ô) ở trong nhà, đặc biệt là dù màu đen và màu trắng.

16. Trong nhà không nên treo quá nhiều gương, đặc biệt là phòng ngủ, người phụ nữ rất dễ phạm sai lầm, gương tốt nhất nên treo ở nhà vệ sinh.

17. Nếu bạn cảm thấy nửa năm gần đây vận số rất kém, sóng này chưa lặng sóng sau lại tới thì tốt nhất bạn nên đi du lịch một thời gian hoặc chuyển nhà. Nếu không sẽ có tai họa nghiêm trọng.

18. Cảnh báo những người mà cả tháng không thấy ánh sáng mặt trời, tốt nhất nên ra ngoài đi dạo, bạn ở trong nhà 1 ngày thì dương khí bị âm khí chiếm lĩnh một chút, dương khí cần ánh sáng mặt trời. Mắt của người nhiều âm khí khi tiếp xúc với ánh sáng sẽ bị khó chịu.

19. Nếu ban đêm cần tìm nơi ngủ nhờ, đừng ngủ nhờ ở những căn nhà cũ tối tăm ẩm ướt hoặc những nơi đất miếu. Ở những nơi này dễ bị nhiễm tà khí.

20. Khi bạn ngủ nếu nghe thấy âm thanh lạ gọi tên mình, bạn không nên trả lời, mà phải kiểm tra thật kỹ lại xem có người thật không, nếu có người thì trả lời, nếu không thấy người thì nhất thiết không được trả lời. Nếu bạn lỡ trả lời thì phải cắn ngay vào đầu ngón tay giữa cho rỉ máu, nếu cắn không được thì dùng 1 chiếc kim chích cho máu rỉ ra một chút.

Theo Mask
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 13 điều kiêng kị nên biết trong “tháng củ mật“

Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tý năm 2014 –

Tý/Dậu - Nóng lạnh thất thường Hai con giáp này dễ dàng tạo nên mối quan hệ yêu ghét lẫn lộn, với những cơn nóng lạnh thất thường. Có sự cuốn hút thực sự và tình yêu có thể dễ dàng phát triển thành một mối quan hệ khá sâu đậm. Tuy nhiên vẫn có sự lệc
Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tý năm 2014 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên người tuổi Dậu và người tuổi Tý năm 2014 –

Tiết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 ÂL)

Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Ông bà ta xưa chọn Tiết Thanh Minh là ngày cắt cỏ trên mộ và đắp đất lên mộ (tảo mộ). Vì ngày này thời tiết chuyển sang ấm dần, mưa nhiều hơn, cây cỏ tốt hơn trùm lên mộ, có thể làm mộ sụt lở nên cần phải cắt cỏ, đắp thêm đất lên mộ.

Nhân lúc đi Thanh Minh tảo mộ, để tưởng nhớ tổ tiên, người thân đã khuất, mọi người có thể dạo chơi ngắm cảnh cỏ cây tươi tốt, nên còn gọi là Đạp Thanh. Nguyễn Du có câu:

Thanh Minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ, hội là Đạp Thanh

2. Sắm lễ:

Lễ trong tiết Thanh Minh gồm có: hương đèn, trầu cau, tiền vàng, rượu thịt (chân giò, gà luộc hoặc một khoanh giò nạc độ vài lạng), hoa quả.

Khi đến nghĩa trang hay khu vực có để mộ phần của gia đình mình thì gia chủ đặt lễ vào chỗ thờ chung. Sau đó thắp đèn, nhang, vái ba vái vị Linh thần Thổ địa rồi khấn.

3. Văn khấn:

3.1. Văn khấn lễ âm phần Long Mạch, Sơn thần thổ phủ nơi mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.

- Con kính lạy các ngài Thần linh bản xứ cai quản trong khu vực này.

Hôm nay là ngày: …………….....

Tín chủ (chúng) con là:…………

Nhân tiết Thanh minh (hoặc là nhân tiết thu, tiết đông, hoặc nhân ngày lành tháng tốt.. .) tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước án, kính mời chư vị Tôn thần lai lâm chiếu giám.

Gia đình chúng con có ngôi mộ của…………………..

Táng tại xứ này, nay muốn sửa sang xây đắp (hoặc tảo mộ, bốc mộ…) vì vậy chúng con xin kính cáo các đấng Thần linh, Thổ công, Thổ phủ Long Mạch, Tiền Chu Tước, Hậu Huyền Vũ, Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ và Chư vị Tôn thần cai quản trong khu vực này, chúng con kính mời các vị chư Thần về đây chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho vong linh được an nhàn yên ổn, siêu thoát. Cúi xin các vị phù hộ độ trì cho tín chủ chúng con toàn gia mạnh khỏe an bình, bốn mùa không tật ách, tám tiết hưởng thái bình.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

3.2. Lễ vong linh ngoài mộ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)

- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương

- Con kính lạy Hương linh………(Hiển khảo, Hiển tỷ hoặc Tổ Khảo…)

Hôm nay là ngày. . ………….

Nhân tiết:……………………..

Tín chủ (chúng) con ……….

Ngụ tại:……………………...

Chúng con và toàn thể gia đình con cháu, nhờ công ơn võng cực, nền đức cao dầy, gây dựng cơ nghiệp của………….. chạnh lòng nghĩ đến âm phần ở nơi hoang vắng, tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương kính dâng trước mộ, kính mời chân linh……. . lai lâm hiến hưởng.

Chúng con xin phép được sửa sang phần mộ, bồi xa, bồi thổ, cho được dầy bền, tu sửa minh đường hậu quỷ cho thêm vững chắc. Nhờ ơn Phật Thánh phù trì, đội đức trời che đất chở, cảm niệm Thần linh phù độ, khiến cho được chữ bình an, âm siêu dương thái. Con cháu chúng con xin vì chân linh . . ……..Phát nguyện tích đức tu nhân, làm duyên, làm phúc cúng dâng Tin Bảo, giúp đỡ cô nhi quả phụ, tế bần cứu nạn, hiếu thuận tông nhân để lấy phúc này hướng về Tiên Tổ.

Cúi xin linh thiêng chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ độ trì con cháu, qua lại soi xét cửa nhà. Che tai cứu nạn, ban tài tiếp lộc, điều lành mang đến, điều dữ xua đi. Độ cho gia đạo hưng long, quế hờ tươi tốt, cháu con vinh hưởng lộc trời, già trẻ nhuần ơn Phật Thánh.

Chúng con lễ bạc tâm thành, cúi xin chứng giám.

Sau khi khấn xong, đợi hết 2/3 tuần hương thì đi lễ tạ các nơi, hóa vàng, xin lộc và mọi người trở về nhà làm lễ gia thần và gia tiên ở nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Thanh minh (mồng 5/3 - 10/3 ÂL)

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1988 Mậu Thìn –

Hướng kê giường Tuổi Mậu Thìn 1988 - Năm sinh dương lịch: 1988 - Năm sinh âm lịch: Mậu Thìn - Quẻ mệnh: Chấn Mộc - Ngũ hành: Đại Lâm Mộc (Gỗ rừng già) - Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường Tuổi Mậu Thìn 1988

– Năm sinh dương lịch: 1988

– Năm sinh âm lịch: Mậu Thìn

– Quẻ mệnh: Chấn Mộc

– Ngũ hành: Đại Lâm Mộc (Gỗ rừng già)

– Thuộc Đông Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Bắc (Thiên Y); Đông (Phục Vị); Đông Nam (Diên Niên); Nam (Sinh Khí);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Ngũ Quỷ); Đông Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Hoạ Hại); Tây (Tuyệt Mệnh);

ke-giuong-1-669109-1388745306

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Mộc, Thủy sinh Mộc, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Thủy, là hướng Bắc;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh dương, Đen, đây là màu đại diện cho hành Thủy, rất tốt cho người hành Mộc.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1988 Mậu Thìn –

Tướng mặt làm quan chi tiết qua Ngũ tinh

Ngũ tinh Tai trái Kim, tai phải Mộc, miệng Thủy, bộ vị trên giữa 2 lông mày Hỏa, Chuẩn đầu Thổ. Người có tướng mặt làm quan, phú quý thì Ngũ tinh có đặc điểm như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngũ tinh là chỉ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Tai trái là Kim tinh, tai phải là Mộc tinh, miệng là Thủy tinh, bộ vị trên giữa 2 lông mày là Hỏa tinh, Chuẩn đầu là Thổ tinh. Người có tướng mặt làm quan, phú quý thì Ngũ tinh có đặc điểm như thế nào?

tuongmatlamquanngutinh

Vành tai rõ ràng, có thể được phú quý dài lâu

Tai có vành rõ ràng, to nhỏ cân xứng, tựa như cánh cửa rộng thoáng, đoan trang, nổi cao, phân biệt rõ ràng cùng hướng về lông mày, hình dạng không nhọn, da thịt bóng hồng, sắc trắng như bạc, quá mắt, như thế là tướng quý, chủ phú quý.

Nếu người có tai lật ngược, không đoan chính mà lại hẹp, hoặc lớn nhỏ khác nhau, như thế là tướng xấu. Người như thế không chỉ không có học thức mà tiền tài, phúc đức cũng bị tổn thương.

Sách xưa chép rằng: 2 sao Kim, Mộc, tức tai trái và tai phải có luân có quách, lỗ tai có thể nhét vừa được ngón tay út, người đó thông minh.

Nếu tai có nghiêng ngược, người đó cả đời gian khổ, dù có cơ hội làm quan cũng chỉ làm quan nhỏ.

Miệng hướng lên trên có thể làm quan đến tam công

Thủy tinh là miệng, được gọi là nội học đường. Hai môi bóng hồng, miệng vuông, môi đoan chính, người có tướng như thế tài năng lớn, lại có thể được hưởng phúc lộc.

Người có răng môi thô lộ, khóe miệng rủ thấp, lộ sắc vàng là người bần tiện.

Miệng vuông đoan chính tựa hình chữ “tứ” lại có môi bóng hồng như bôi son, khóe miệng hơi hướng lên trên, răng trắng tinh khiết chỉnh tề, Nhân trung lộ rõ, người đó thông minh, có học vấn uyên thâm, có thể làm quan đến hàng tam công.

Ngược lại, người có miệng dài không vuông ngay ngắn, môi mỏng, khóe miệng rủ xuống thấp, người như thế nghèo hèn, cuộc sống bần khốn. Nếu miệng lại có nét không hài hòa chủ về thích làm điều thị phi, gian trá, có thể sẽ gặp phải họa miệng lưỡi.

Trán rộng bằng thoáng, chẳng lo chuyện cơm ăn áo mặc

Nếu trán của một người rộng bằng thoáng, đầy đặn tươi sáng, người đó không chỉ có cha mẹ phú quý mà bản thân cũng thông minh, nhiều tài năng, có được quan lộc, chẳng lo chuyện cơm áo, con cái thành tựu, cả đời tài lộc song toàn. Nếu lại được thêm Hỏa tinh tốt, như thế đã tốt lại càng tốt, tuổi thọ cao.

Ngược lại, trán của một người nhọn lại có nếp nhăn thì năng lực bình thường, chẳng làm nên được chuyện gì to tát, chỉ có thể là dân thường, anh em cũng chẳng có quyển thế, không nhận được sự trợ giúp của ai. Gia đình cũng chẳng có quyền, không được phú quý, nhân định cũng chẳng thịnh vượng.

Sách xưa chép rằng: Trán bằng rộng ngay ngắn, tươi sáng, không có đường vân, khí sắc nhuận sáng là tướng tốt. Nếu trán bằng tựa như hình chữ “xuyên”, người có tướng như thế sớm đỗ đạt chôn quan trường.

Người mà trán có nhiều nếp nhăn chủ phạm nhiều tội. Nếu trán lại có thếm 2 đường vân sắc đỏ xâm nhập vào hai bên trái phải của mắt, như thế là tướng hung họa. Người này làm nhiều điều độc ác, cuối cùng phải ly tán xa quê.

Mũi tựa bút dài đoan chính, phúc lộc thọ đều được toàn mỹ

Thổ tinh là mũi, mũi mà thẳng tựa cây bút đoan chính, lỗ mũi to mà không lộ ra ngoài, chóp mũi đầy đặn, có thịt, không có sự khiếm khuyết, người như thế có cả quan vận, tài vận và thọ vận.

Ngược lại, nếu mũi không được đoan chính, lỗ mũi lộ ra ngoài (mũi hướng lên trời), mũi nhọn mà nổi cao, người đó không chỉ tổ tiên không để lại gia nghiệp gì mà bản tính cũng không tốt, cả đời lao đao vất vả. Đó là hình tướng nghèo hèn.

Sách xưa chép rằng: Mũi đoan chính, lỗ mũi tròn, mũi bằng, tề chỉnh tựa như ống trúc, người có tướng mặt như thế nhất định sẽ làm quan đến tam công. Cánh mũi trái phải đầy đặn, sáng trong là người thông minh, hiển đạt.

Nếu chóp mũi nhọn, mỏng, gia đình người này không được hạnh phúc, cũng chẳng có con cháu kế thừa hương hỏa, có thể sẽ phải sống cô quả cả đời, đến khi về già cũng chẳng có ai để nhờ cậy.

Nếu mũi tựa như mỏ chim ưng hay tựa hình móc câu là người âm mưu gian trá, chỉ nghĩ cách hại người, cần phải đề phòng khi kết giao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt làm quan chi tiết qua Ngũ tinh

Tiết Xuân Phân là gì?

Tiết Xuân Phân là 1 trong 24 tiết khí trong năm, đánh dấu thời điểm bước vào nắng xuân ấm áp, thời tiết thực sự chuyển giao, vạn vật nảy nở sinh động.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiết Xuân Phân bắt đầu từ 20 (hoặc 21) tháng 3 kéo dài tới 4 (hoặc 5) tháng 4. Hàng năm, Mặt Trời tới điểm xuân phân là Thiên Xích Đạo (thời điểm Mặt Trời gần Xích Đạo nhất).  Lúc này, ngày đêm bằng nhau, là chính giữa mùa xuân tươi đẹp.    Ngày Xuân Phân ánh Mặt Trời bắn thẳng đến Xích Đạo nên độ dài ngày và đêm bằng nhau, sau đó, Mặt Trời dần lui về Bắc nên ngày dài đêm ngắn. Xuân Phân không chỉ có ý nghĩa quan trọng về chiêm tinh học, nông học mà còn ảnh hưởng tới tử vi học. Người xưa dựa vào các tiết khí để đoán vận mệnh và đưa ra những việc nên làm, không nên làm, cầu con, cầu phúc khác nhau.   Xuân Phân cây cối muông thú đều tốt tươi và sinh sản, đánh dấu bằng tiếng sấm mùa xuân và những trận mưa xuân tưới đẫm đồng ruộng. Nhiệt độ không khí tăng lên và ổn định, xua tan giá lạnh. Người xưa có câu “Xuân phân mạch thức dậy, một khắc giá ngàn vàng”, ý đây là thời điểm tốt nhất để gieo trồng và chuẩn bị mùa vụ.    Trong tiết Xuân Phân, hoạt động tâm klinh và lễ nghi đáng chú ý nhất là tiết Thanh Minh tảo mộ. Vào ngày xuân, con cháu chuẩn bị lễ vật tới thăm nom, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo và kịp thời sửa sang những phần đã bị hư hỏng, xuống cấp.   

Tiet Xuan Phan la gi hinh anh
 
Trong tiết khí này, âm dương cân bằng, thời tiết thuận hòa, vạn vật tốt tươi, ngày đêm dài ngắn như nhau nên có tên là Xuân Phân, tức là chia đều mùa xuân ra. Người xưa lấy mốc từ Lập Xuân tới Lập Hạ là mùa Xuân, Xuân Phân là chính giữa khoảng thời gian đó, lúc khí xuân cực thịnh.    Tiết Xuân phân không chỉ tốt cho nông vụ, cấy cày mà còn đặc biệt có lợi với việc cưới hỏi, mang thai, sinh nở, hứa hẹn những điều may mắn và an lành. Vì thế, xem tử vi thường đưa ra khuyến cáo nên làm việc hỉ trong Xuân Phân.   Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Xuân Phân là gì?

Treo tranh phong thủy rồng, hổ, ngựa

Treo tranh phong thủy hổ và ngựa là biểu tượng mang lại may mắn về công danh, tài lộc cho gia chủ và được sử dụng khá phổ biến ở dạng tranh ảnh.
Treo tranh phong thủy rồng, hổ, ngựa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Đã từ lâu rồng, hổ và ngựa là biểu tượng mang lại may mắn về công danh, tài lộc cho gia chủ và được sử dụng khá phổ biến ở dạng tranh ảnh. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết treo tranh phong thủy đúng cách để không rước xui xẻo vào nhà.

 

1. Tranh phong thủy biểu tượng con Rồng
 

Trong phong thủy, rồng mang biểu tượng của quyền lực tối cao. Truyền thuyết kể rằng, 4 linh vật rồng xanh, phượng hoàng đỏ, hổ trắng và rùa đen bắt tay nhau tạo nên thế giới và chia bầu trời thành 4 góc. Mỗi hướng có một con vật cai quản, trong đó rồng chiếm góc phía Đông.   Xét về đặc tính, rồng thông minh, quyết đoán và vô cùng mạnh mẽ. Treo tranh phong thủy mang biểu tượng rồng tượng trưng cho trí tuệ, sự may mắn, sức mạnh, tài lãnh đạo và cả lòng bao dung, nhân từ. Nhưng nếu không đặt tranh đúng chỗ, rồng dễ biến thành rắn, biểu tượng của sự hung bạo, xấu xa. Khi treo tranh rồng cần chú ý:

Treo tranh phong thuy rong, ho, ngua hinh anh 2
 
  - Đặt tranh sao cho đầu rồng không hướng ra ngoài. Vì điều này có nghĩa là người trong nhà luôn muốn ra ngoài, không cảm thấy yên ổn khi ở trong nhà.    - Nên đặt tranh rồng ở tường phía Đông ngôi nhà. Nếu đặt ở phía bên phải ngôi nhà, có thể gây ra nhiều tranh cãi, mâu thuẫn trong gia đình.    - Kị treo tranh biểu tượng rồng ở gần hoặc trong phòng tắm.   - Tránh cuộn hoặc cất tranh vào góc nào đó hay nhà kho.    - Trong một ngôi nhà, không nên treo quá 5 bức tranh rồng. Biểu tượng rồng sẽ tiếp thêm năng lượng cho chủ nhân ngôi nhà, khiến họ luôn khao khát làm việc và tiến về phía trước. Nhưng nếu quá nhiều năng lượng dễ khiến tâm lý con người bị kích động, bồn chồn, khó thư giãn. Vì vậy mà, thành công đạt được có thể phải đánh đổi bằng sức khỏe của cá nhân và gia đình.  

2. Tranh phong thủy biểu tượng con Hổ

  Trong phong thủy, hổ mang biểu tượng của phẩm giá cao, sức mạnh, sự vinh quang, lòng nhiệt huyết và quả cảm. Treo tranh hổ nhằm xua đuổi những điều bất hạnh trong gia đình như tà khí, ma quỷ, hỏa hoạn hoặc trộm cướp. Những điểm cần lưu ý khi treo tranh phong thủy mang biểu tượng hổ:
Treo tranh phong thuy rong, ho, ngua hinh anh 2
 
 
 
- Khi treo tranh, nên để đầu hổ hướng ra ngoài nhà hoặc cửa chính, không nên để hưởng vào trong, vì điều này ám chỉ hổ đang chuẩn bị săn mồi.    - Những khu vực có nguồn năng lượng thấp như phòng tắm, nhà kho, gara ô tô… không nên treo tranh hổ ở đây. Nên treo loại tranh này ở gần những nơi có không gian mở.    - Đặt tranh quá cao hoặc quá thấp so với tầm mắt là điều nên tránh. Theo quan điểm phong thủy, đặt tranh quá cao sẽ tạo ra quá nhiều năng lượng so với mức cần thiết, đặt thấp thể hiện sự thiếu tôn trọng.   - Cũng tương tự tranh rồng, không nên treo quá 5 bức tranh hổ trong nhà.   - Khi treo tranh, dán một mảnh giấy đỏ kích cỡ khoảng bằng một tờ tiền đô la lần lượt vào đầu và đuôi con hổ. Việc này nên được tiến hành vào buổi trưa và đồng thời lẩm nhẩm trong đầu: “Thưa Đức Phật, xin Người hãy dẫn hổ quay lại chỗ mà nó tới. Từ giờ trở đi, bức tranh này chỉ là một tác phẩm nghệ thuật”.   - Không nên chụp ảnh với hổ, bất kể là hổ thật hay chỉ trong các tác phẩm nghệ thuật (tranh vẽ, tượng điêu khắc…) Nếu đã lỡ chụp, hãy cắt phần ảnh chứa con hổ và đốt đi, tránh bị bệnh tật, ốm đau.  

3. Tranh phong thủy mang biểu tượng con Ngựa

  Ngựa mang biểu tượng cho tốc độ, sự bền bỉ, tự do, lòng dũng cảm. Tranh ngựa tượng trưng cho nhân tố Lửa (Hỏa) trong phong thủy. Bản thân con vật này mang nhiều năng lượng dương nên có tác dụng tăng may mắn, mang tới danh tiếng, sự thành công, địa vị cho gia chủ. Vì thế mới có câu “Mã đáo thành công”. Khi treo tranh mang biểu tượng ngựa cần chú ý những điểm sau:

Treo tranh phong thuy rong, ho, ngua hinh anh 2
 
  - Treo tranh sao cho đầu ngựa hướng vào phía trong nhà. Nếu làm ngược lại, nó sẽ ảnh hưởng xấu tới vận may tài lộc của gia chủ, ví dụ như chi tiêu nhiều hơn thu nhập, nhiều khoản nợ chồng chất, buôn bán thua lỗ…
 
- Nên treo tranh mang biểu tượng ngựa ở phía Nam, Đông Nam của ngôi nhà, đối diện cửa ra vào hoặc cửa sổ.
 
- Kị treo tranh chỉ có một con người, nhất là đối với những gia đình buôn bán, kinh doanh. Một ngựa là “độc mã”, ngụ ý khiến bạn bị mất phương hướng, chỉ một mình làm việc, không được nhân viên cấp dưới ủng hộ.    - Hình ảnh ngựa phi nước đại được coi là mang nhiều dương khí cho gia chủ. Tuy nhiên nên tránh tranh vẽ nhiều con ngựa chạy phi nước đại về phía ngược nhau. Điều đó ám chỉ xung đột giữa các thành viên trong gia đình.   - Không nên treo tranh những con ngựa chiến, có hình dáng kỳ dị hoặc thể hiện cảm xúc giận dữ. Đồng thời tránh chọn tranh vẽ các con ngựa có màu sắc đỏ, xanh lá, xanh nước biển. Nên chọn ngựa đen, nâu hoặc trắng.   - Vị trí không nên treo tranh: gần hoặc đối diện cửa hướng ra ngoài đường, phòng tắm, bếp; sảnh chờ đối diện với kho hàng tại công ty…
 
- Tránh treo tranh mang biểu tượng này ở phòng ngủ, vì nguồn năng lượng mạnh mẽ từ chúng sẽ làm xáo trộn không gian thư giãn, nghỉ ngơi. Nên treo tranh tại những khu vực chính trong nhà như phòng khách, sảnh chính…
 
Ngân Hà   Khéo treo tranh phòng khách, tà khí kéo nhau ra ngoài Hướng dẫn chọn tranh phong thủy hợp mệnh Nằm lòng những nguyên tắc treo tranh phong thủy văn phòng Rước họa vào thân nếu treo tranh chữ thập bừa bãi 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo tranh phong thủy rồng, hổ, ngựa

10 vị trí nốt ruồi nên xóa đi

Nếu bạn có những nốt ruồi ở đuôi mắt, thắt lưng, xương đòn... thì nên xóa đi vì chúng có thể lấy mất vận may của bạn.
10 vị trí nốt ruồi nên xóa đi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đuôi mắt 

Đuôi mắt có một vị trí được gọi là Gian môn, nếu con gái có nốt ruồi ở vị trí này thì tình cảm hôn nhân sẽ không thuận lợi, hơn nữa tỷ lệ điều này trở thành hiện thực là tương đối cao.

2. Trên xương đòn 

Người có nốt ruồi trên xương đòn phần lớn trong sự nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, vất vả, phải trả giá nhiều nhưng thu lại ít.

1-7634-1423728511.jpg

3. Trên mũi, cánh mũi 

Người sở hữu đặc điểm này phần lớn vận khí không tốt lắm, nên xóa đi, nếu dưới cằm cũng có nốt rồi thì là cát tướng, nên lưu ý hai vị trí này. Đầu mũi có nốt ruồi là người dễ gặp kẻ xấu.

4. Trên ngực 

Trên ngực có nốt ruồi thì đào hoa, bất kể là nam hay nữ đều dễ dàng thu hút người khác giới, nhưng đồng thời cũng dễ suy sụp vì tình yêu, họ còn dễ gặp phải thị phi vì chuyện tình cảm.

5. Thắt lưng

Phần thắt lưng không nên có nốt ruồi, nếu có thì nên xóa bỏ bởi nó đại biểu cho đời sống tình cảm không như ý. Họ thường gặp hoặc bị theo đuổi bởi người mình không thích hoặc ghét.

6. Mặt trái đầu gối của chân trái 

Nốt ruồi này là nốt ruồi hung. Người có nốt ruồi này cả đời lắm tai nhiều nạn, dễ gặp phải thử thách, trở ngại.

7. Ở hai bên trán, gần chân tóc, ngang với vị trí lông mày 

Những người này phải đặc biệt chú ý an toàn khi đi ra ngoài, có nguy cơ gặp phải nguy hiểm, dễ gặp phải tai họa bất ngờ, và cần chú ý hơn khi tham gia giao thông.

8. Cổ họng 

Yết hầu có nốt ruồi, trong tướng số thì đây là một đặc điểm không tốt, thường dễ gặp chuyện bất lợi, cần chú ý nhiều đến an toàn của bản thân.

2-1926-1423728511.jpg

9. Nốt ruồi mọc nhiều thành từng đám (ban chí)

Đối với con gái nếu trên người có ban chí khi mang thai cần chú ý an toàn.

10. Khu vực quanh đuôi mắt có nốt ruồi đen

Trên mặt tình cảm sẽ không thuận lợi, nếu là con trai thì dễ bắt cá hai tay, dù có bạn gái rồi cũng có thể đi tán tỉnh những người khác, không thẳng thắn trong tình cảm, khó có thể thành người chồng tốt.

Kunie (theo Astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 vị trí nốt ruồi nên xóa đi

Tình yêu của chàng trai Nhân Mã với cô gái nào là hòa hợp nhất?

Cùng giúp chàng ấy chọn đối tượng phù hợp bằng cách đo độ hợp trong tình yêu của chàng trai Nhân Mã và 12 chòm sao nữ nào.
Tình yêu của chàng trai Nhân Mã với cô gái nào là hòa hợp nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chàng trai Nhân Mã dáng vẻ khỏe mạnh, sáng sủa, vừa nhìn đã biết là người chân thật. Vì lẽ đó dù đối với ai cũng rất thoải mái không có ý kiến gì, trên phương diện tình cảm lại càng ngốc nghếch.


Mục Lục

  1. Nam Nhân Mã – nữ Bạch Dương: độ hợp 100
  2. Nam Nhân Mã – nữ Kim Ngưu: độ hợp 40
  3. Nam Nhân Mã – nữ Song Tử: độ hợp 60
  4. Nam Nhân Mã – nữ Cự Giải: độ hợp 40
  5. Nam Nhân Mã – nữ Sư Tử: độ hợp 100
  6. Nam Nhân Mã – nữ Xử Nữ: độ hợp 50
  7. Nam Nhân Mã – nữ Thiên Bình: độ hợp 90
  8. Nam Nhân Mã – nữ Hổ Cáp: độ hợp 80
  9. Nam Nhân Mã – nữ Nhân Mã: độ hợp 80
  10. Nam Nhân Mã – nữ Ma Kết: độ hợp 70
  11. Nam Nhân Mã – nữ Bảo Bình: dộ hợp 90
  12. Nam Nhân Mã – nữ Song Ngư: độ hợp 50

 

1. Nam Nhân Mã – nữ Bạch Dương:  độ hợp 100

 

Tinh yeu cua chang trai Nhan Ma voi co gai nao la hoa hop nhat hinh anh 2
 

Nhân Mã thích mạo hiểm, Bạch Dương theo đuổi kích thích đều là chòm sao nhóm Lửa nên vô cùng phù hợp, là cặp đôi hoàn hảo. Trường hợp thường xuyên diễn ra nhất là nhất kiến chung tình, vừa gặp đã yêu, thuận tiện tiến tới yêu đương. Hơn nữa càng ở chung càng thấy hợp.

 

Cả hai đều là người nhiệt tình, kể cả ở nơi công cộng cũng không kiêng kị gì mà thể hiện yêu thương, thực sự là khiến người khác phải đỏ mắt đố kị mà. Tình cảm dành cho nhau tự do, không chủ quan, không bao giờ tự tiên mang tình yêu ra đùa giỡn, có thể nói nàng Bạch Dương là tình yêu của chàng trai Nhân Mã, ở bên nhau sẽ hạnh phúc trọn vẹn.

 

Xem thêm bài viết Chọn chàng kết đôi chuẩn chỉnh cho cô nàng Bạch Dương

 

2. Nam Nhân Mã – nữ Kim Ngưu: độ hợp 40

 

Đây là cặp đôi kì lạ bởi chàng trai Nhân Mã làm việc với tốc độ nhanh như điện xẹt, vừa nghĩ tới liền tức khắc biến thành hành động; ngược lại, cô nàng Kim Ngưu chậm chạp, thích hoàn thành công việc một cách ổn định, vững vàng. Hai người nhìn từ xa đã thấy rõ sự chênh lệch.

 

Nhân Mã vẫn tiến về phía trước, Kim Ngưu vẫn từ từ phía sau, tốc độ không cùng một bước nên ở bên nhau chắc chắn có nhiều điều không theo kịp. Chẳng sớm thì muộn chàng Mã Mã cũng theo đuổi những điều thú vị mới mẻ mà bỏ nàng Ngưu chan lại một mình thôi.

 

3. Nam Nhân Mã – nữ Song Tử: độ hợp 60

 

Tính cách của hai người này rất giống nhau, đều theo trường phái hành động, phản ứng nhanh, yêu thích mạo hiểm nhưng đối với chuyện tình cảm lại không đủ chuyên tâm. Một trong hai người phải trở thành bến bờ níu giữ người kia nhưng ở đây cả nhân Mã và Song Tử đều thích dong buồm ra khơi hơn.

 

Khi xảy ra sự tình, cách thức xử lý của hai người gần giống nhay, không cãi vã quá khích mà lạnh lùng vô tình, không ai chịu chủ động. Với tình huống này, chỉ cần chút va chạm là có thể tan vỡ bất cứ lúc nào, hơn nữa còn có họa người thứ ba rất rõ ràng nữa cơ.

 

4. Nam Nhân Mã – nữ Cự Giải: độ hợp 40

 

Có thể nói đây là tổ hợp không mấy thuận lợi dù bề ngoài thì khá đẹp. Nhân Mã vui vẻ, phóng khoáng và Cự Giải tâm lý, hòa nhã quả thực là đôi lứa xứng đôi. Nhưng thực chất, Cự Giải tâm tư cẩn thận, Nhân Mã lại quá kích động, Cự Giải thích bình yên đẹp đẽ còn Nhân Mã lại ưa mạo hiểm và muốn dấn thân vào những điều thú vị.

 

Lâu dần, Giải Giải không thể kiểm soát được Mã Mã, còn Mã Mã không thể chịu nổi sự kiềm tỏa của Giải Giả, vậy là xung đột, thậm chí căm ghét lẫn nhau. Đối với mối quan hệ này thì tìm được tiếng nói chung là vô cùng quan trọng, là trung tâm để duy trì tình cảm.

 

5. Nam Nhân Mã – nữ Sư Tử: độ hợp 100

 

Cùng là chòm sao nhóm Lửa, tính cách đều hừng hực dữ dội, tỉnh táo mà lãng mạn, Nhân Mã và Sư Tử chính là cặp bài trùng, ăn ý vô cùng. Cô nàng Sư Tử chú trọng bề ngoài, chàng trai Nhân Mã rất có guu ăn mặc lại biết cách lãng mạn, tán tỉnh, dễ dàng thỏa mãn được lòng hư vinh nho nhỏ này.

 

Đương nhiên, hai người ở chung lâu dài thì cần nhất là tình cảm chân thật, phải có sự đổi mới mà điều này là điểm mạnh của họ nên có thể nói đây là tổ hợp 100% duyệt, nhất định sẽ là mối tình không tầm thường, khiến người khác phải thầm ghen tị.

 

Xem thêm bài viết 10 điều cần biết khi "cầm cưa" nàng Cự Giải

 

6. Nam Nhân Mã – nữ Xử Nữ: độ hợp 50

 

Hai người yêu nhau bởi sự hấp dẫn lần đầu nhưng rõ ràng tính cách đôi bên không có nhiều điểm chung, thậm chí còn rất khác biệt. Nhân Mã không để ý những chi tiết nhỏ, tôn trọng tự do trong khi Xử Nữ nghiêm cẩn hà khắc, trong quá trình từng chi tiết nhỏ đều không bỏ qua.

 

Tình yêu của chàng trai Nhân Mã và cô nàng Xử Nữ nếu có thể cũng chỉ duy trì được nhiệt tình lúc ban đầu chứ rất khó tiến xa. Trừ khi hai người dần học hỏi, thích nghi, thấu hiểu đối phương hơn, bồi dưỡng những điểm chung thì tình cảm mới dần bền vững.

 

Xem thêm bài viết Xử Nữ và Nhân Mã - cặp đôi hoàng đạo cần hiểu nhiều hơn yêu

 

7. Nam Nhân Mã – nữ Thiên Bình: độ hợp 90

 

Tinh yeu cua chang trai Nhan Ma voi co gai nao la hoa hop nhat hinh anh 2
 

Thiên Bình là cô nàng nhóm Nước hiền hòa dịu dàng, ghép đôi với chàng trai Nhân mã nhóm Lửa nhiệt tình, nóng bỏng rất hợp. Hai người vừa gặp đã yêu, vừa yêu đã say đắm, như rơi vào bể tình. Mã Mã trời sinh thích tự do một khi đã thích ai thì sẽ rất nóng vội, không quan tâm tới bối cảnh xung quanh, may mà gặp người rộng lượng như Bình nhi.

 

Bình nhi như làn nước mát lành xoa dịu, làm nhẹ bớt những cơn nóng nảy của chàng trai Nhân Mã, Thiên Bình vốn khéo léo, biết giao tiếp nên đối với chuyện tình cảm rất thư thái, vừa nắm vừa buông, dung tung mà vẫn nắm chắc được con ngựa bất kham Nhân Mã.

 

8. Nam Nhân Mã – nữ Hổ Cáp: độ hợp 80

 

Sức hấp dẫn đầy trí tuệ toát ra từ Hổ Cáp khiến Nhân Mã mê mẩn, sự dôi nổi hoạt bát phóng khoáng của Nhân Mã làm Hổ cáp không điều khiển được trái tim mình. Chúc mừng hai người, đúng là cặp đôi hoàng đạo trời sinh, ở bên nhay chẳng chút đắn đo, vừa yêu vừa dìu nhau tiến bước.

 

Hai người này đều coi trọng tình cảm, chung thủy với tình yêu, biết chia sẻ thế giới nội tâm với nhau. Nhưng điểm yếu là Hổ Cáp hay nghi ngờ nên khó rút ngắn khoảng cách, cần Nhân Mã chủ động xuất kích thì mới phá tan được bức tường, xích lại gần nhau hơn.

 

9. Nam Nhân Mã – nữ Nhân Mã: độ hợp 80

 

Cùng thuộc về chòm sao nhóm Lửa, cùng một cung hoàng đạo, hai người hợp nhau ở nhiều phương diện. Cùng nhau điên cuồng, cùng nhau tự do, cùng nhau buông thả, hai người giống ngựa hoang mất cương, mười phần nhiệt tình, dồi dào sức sống, ở chung tự nhiên vui vẻ.

 

Nhân Mã – Nhân Mã quá hiểu nhau, chẳng phải tỏ vẻ gì nữa. Nhưng điểm cần lưu ý là cả hai đều có nhiều mối quan hệ, bạn bè rộng rãi, kết giao bốn phương nên nếu không có bạn chung thì không gian riêng quá nhiều, dễ lạc mất nhau giữa biển người, cần phải bồi dưỡng vòng tròn xã hội mà cả hai cùng có liên kết.

 

Xem thêm bài viết Sự thú vị của một nàng Nhân Mã

 

10. Nam Nhân Mã – nữ Ma Kết: độ hợp 70

 

Hai chòm sao, hai thái cực, như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời nhưng không phải không hợp đâu nhé. Ngược lại, họ ở bên nhau sẽ tạo thành cặp đôi khá thú vị, có nhiều điểm nhấn và mang tới những sắc thái không ngờ tới trong cuộc đời mỗi người.

 

Ma Kết trầm lặng, lạnh lùng, đối với sự theo đuổi tự do thái quá của Nhân Mã cảm thấy rất không thực tế, quá ham chơi, vô trách nhiệm. Ngược lại Mã Mã thấy Ma Kết quá nhàm chán, vô vị, tẻ nhạt. Ma Kết không an tâm ở cùng Nhân Mã, Nhân Mã chán ghét ở cùng Ma Kết, hai người phải tìm thấy điểm cân bằng thì mới lâu dài được.

 

11. Nam Nhân Mã – nữ Bảo Bình: độ hợp 90

 

Tinh yeu cua chang trai Nhan Ma voi co gai nao la hoa hop nhat hinh anh 2
 

Một bên là lửa một bên là khí, khả năng thành đôi rất cao. Nhân sinh quan, thế giới quan, cách đối nhân xử thế cùng phong cách của Nhân Mã và Bảo Bình tương đối giống nhau, tâm ý tương thông, dễ dàng ăn nhịp. Chỉ cần ở đâu có cặp đôi này là ở đấy không khí sôi nổi hẳn lên.

 

Chỉ cần chú trọng một số chi tiết nhỏ, cuộc sống bận rộn cũng đừng quên duy trì liên hệ để bồi dưỡng tình cảm, không quên mất nửa kia của mình thì tình yêu của chàng trai Nhân Mã với nàng Bảo Bình sẽ ổn thỏa.

 

12. Nam Nhân Mã – nữ Song Ngư: độ hợp 50

 

Nhân Mã và Song Ngư là tổ hợp ăn ý nhịp nhàng nhưng lại không thích hợp yêu đương. Nhân Mã đối với chuyện tình cảm có thái độ lửng lơ, không cố định, khiến chòm sao lụy tình như Ngư nhi bị tổn thương, dễ chia tay, rời xa nhau. Song Ngư lúc nào cũng bị động, cần Nhân Mã phải tự chủ, hành động quyết liệt.

 

Lúc hai người khó khăn cô nàng ấy rất nhạy cảm, mà Mã Mã thì luôn giương cao chủ trương cho tình cảm thuận theo tự nhiên, phát triển tự do, cuối cùng chút cảm hứng ban đầu không còn, vẫn là đường ai nấy đi mà thôi.

 

Xem thêm bài viết 8 lý do Song Ngư khó hiểu nhất trong các cung hoàng đạo

 

Thái Vân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của chàng trai Nhân Mã với cô gái nào là hòa hợp nhất?

Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Phái nữ chân to thường có phúc lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể; hay đôi mắt linh hoạt là người nhạy cảm, có trí nhớ tốt.
Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi mắt linh hoạt

Phái nữ tướng này thường nhạy cảm, trí nhớ tốt.

2. Mũi to

Trong dân gian, mũi này được xem là mũi giàu. Theo tử vi, mũi to đại diện cho khả năng tài chính tốt.

3. Mũi khoằm

Ý chí kiên cường, nữ giới mũi khoằm khi gặp thất bại thường không dễ chấp nhận.

4. Tai vừa to vừa dày

Phái nữ có tai này là người khoẻ mạnh, sống thọ và thông minh.

mui-5220-1408683293.jpg

5. Mông mẩy, hông to

Tướng này đại diện cho phái nữ có tiền và có khả năng tạo phúc cho chồng con.

6. Tay nhỏ

Phái nữ có tay nhỏ, thon dài là người có mệnh phu nhân, tốt số.

7. Chân dài

Phái nữ chân dài thường có khả năng giao tiếp tốt.

8. Ngực hơi xệ

Đây là những nữ giới có khái niệm đơn giản về tiền bạn, cuộc sống ít âu lo, nghĩ ngợi.

chan-5041-1408683294.jpg

9. Cổ dài

Phái nữ cổ dài có tham vọng trong sự nghiệp. Người này hoang phí, không có khả năng tiết kiệm tiền bạc.

10. Bụng phẳng

Những người này trở nên giàu có nhờ các tài lẻ của bản thân.

11. Ngón tay thô

Họ có sức chống chọi mạnh mẽ với sự khắc nghiệt của cuộc sống.

12. Chân to

Phái nữ chân to thường có phúc lớn, mạng lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể.

Hạnh Yunnie (theo Meiguo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi tướng phái nữ sẽ gặp nhiều vận may

Đặc tính sao Cô Thần và sao Qủa Tú

Tìm hiểu về đặc tính về bộ đôi sao Cô Thần và Qủa Tú, Sao Cô Thần thuộc dương hỏa cònSao Qủa Tú thuộc âm hỏa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính sao Cô Thần và sao Qủa Tú

Đặc tính sao Cô Thần và sao Qủa Tú

Tìm hiểu về đặc tính sao Cô Thần và Qủa Tú

Sao Cô Thần thuộc dương hỏa, chủ về cô độc, kịp nhập các cung thân, mệnh, phúc đức, phụ mẫu; ưa gặp các cát tinh giải tỏa, kịp gặp hung tinh. Nếu gặp thêm các sao Thiên Cơ, Thiên Lương, Vũ Khúc, Thiên Tướng thì càng cô độc. Nam mệnh kị sao Cô Thần. Sao Qủa Tú thuộc âm hỏa, chủ về cô quả, là âm cô, kị nhập cung mệnh, thân, phúc đức, cung phu thê, thích gặp các cát tinh hóa giải, kị gặp các hung tinh. Nếu gặp các sao Thiên Cơ, Thiên Lương, Vũ Khúc, Kình Dương, Không Vong thì hàng cô độc. Nữ mệnh kị sao Qủa Tú.

Sao Cô Thần cá tinh tiêu cực cố chấp, bất cận nhân tình, cô độc tự chủ, kiến giải độc đáo, tư tưởng siêu thoát, cuộc đời nhiều chìm nổi, không có người thân để nương tựa. Sao Qủa Tú tự cho mình là đúng, nhưng nội tâm hay do dự chần chừ, có chút thần kinh chất, cô độc, khó hợp quần, thường không thấu tình đạt lý, có thể chịu đựng, không có người thân, để nương tựa thường phải phiêu bạt. Người có sao Cô Thần, sao Qủa Tú đóng tại cung thân, cung mệnh, thường thích làm việc đơn độc, một mình viết lách, hội họa, sáng tác, nghiên cứu học thuật hoặc kĩ thuật, có thể phát huy được tiềm năng.

Sao Cô Thần, Qủa Tú phần nhiều có tâm tình cô độc, có lúc trốn tránh người khác, nếu có được thời gian để một mình để hưởng thụ sự cô đơn, họ sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái, tự tại.

Sao Cô Thần không dựa dẫm vào người khác, có nhân sinh quan thoát tục, biết tự lực gánh sinh, thường xa lánh mọi người, có duyên với tôn giáo, thích ở một mình, coi thường danh lợi.

Sao Qủa Tú tâm tính thanh cao, ít dục vọng, xử thế tiêu cực, bi quan, quan hệ giao tế khép kín, gặp chuyện hay nghi ngờ, lo lắng, không muốn làm tổn thương người khác, cũng sợ bị đã kích, tình cảm mềm yếu, dễ có duyên với tôn giáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính sao Cô Thần và sao Qủa Tú

Phong thủy nhà ở cho mẹ bầu

Nhà có người mang bầu là một niềm vui đối với cả gia đình. Trong quãng thời gian mang bầu, môi trường ở ảnh hưởng rất lớn tới bà mẹ và thai nhi. Vậy thì, cần chú ý phong thủy gì khi nhà có bà bầu?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nên: Làm vượng phía chính Đông, tập trung nạp khí

 phong thuy nha o cho me bau

Người nhà mang thai là niềm vui với cả gia đình, do vậy đừng để phong thủy ảnh hưởng tới sự phát triển của bà mẹ và thai nhi.

Khí trường của ngôi nhà ảnh hưởng rất lớn tới bà mẹ và thai nhi. Do vậy, trọng điểm phong thủy là nạp khí, hơn nữa phải là nạp dương khí và vượng khí mới tốt. Căn phòng mà bà bầu ở cần giữ cho không khí thông thoáng, thường xuyên mở cửa sổ để trao đổi khí, không nên do mùa hè nóng nực là ở lì trong căn phòng máy lạnh.

Ngoài ra, căn phòng cũng không nên âm u, tối tăm. Cần có đủ ánh sáng đèn điện và ánh sáng mặt trời, để dương khí có thể tích tụ, xua đuổi âm khí.

Khí trường mạnh có lợi cho việc sinh con “mẹ tròn con vuông”, nên phía Đông cần dùng nhiều màu xanh, như thảm màu xanh lá cây, các vật trang trí màu xanh lá…. Các vật này sẽ làm vượng khí, khiến đứa trẻ sinh ra thông minh và khỏe mạnh.

Tránh: Xây dựng, cải tạo, chuyển nhà.

Đối với bà bầu và thai nhi, việc duy trì sự ổn định của khí trường là điều quan trọng nhất. Trong thời gian phụ nữ mang thai, trong nhà không nên động thổ, xây dựng, cải tạo phòng, cũng không nên thay đổi phòng ở hoặc dời giường.

 phong thuy nha o cho me bau

Tránh thay đổi môi trường sống khi nhà có bà bầu.

Thông thường, nếu ở một môi trường có thể thụ thai, thì sẽ không có vấn đề gì lắm về phong thủy, cho nên không nên thay đổi để tránh rước rắc rối vào người.

Trong thời gian phụ nữ mang thai cũng không thích hợp di dời, do thai nhi quen với môi trường cũ. Nếu di dời, từ trường, thanh trường của ngôi nhà mới có điều khác biệt với nơi cũ. Nếu thai nhi không thể thích ứng được, sẽ làm cản trở sự phát triển của trẻ nhỏ.

Phòng ngủ cho bà bầu ngủ nghỉ cũng là một nơi cần chú ý. Cần luôn giữ cho cuối giường được sạch sẽ và gọn gàng. Nếu cuối giường còn không gian, chỉ nên bày quần áo và chăn gối sạch, không được đặt quần áo cũ rách, đồ lặt vặt hay các đồ kì lạ, đặc biệt là hộp công cụ, đồ chơi hay các dụng cụ kim khí. Nếu muốn bỏ các vật này đi, chọn ngày lành và ngày bà bầu ra ngoài để bỏ, tránh ảnh hưởng không tốt tới thai nhi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở cho mẹ bầu

Xem bói tướng tay của người yêu đơn phương

êu đã khổ, yêu đơn phương càng khổ. Tướng bàn tay có thể đoán biết được con người khi yêu sẽ như thế nào. Thực ra yêu đúng người lại thêm phương thức thể hiện đúng đắn sẽ có thể tránh đươc nỗi khổ của tình yêu đơn phương.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Yêu đã khổ, yêu đơn phương càng khổ. Tướng bàn tay có thể đoán biết được con người khi yêu sẽ như thế nào. Thực ra yêu đúng người lại thêm phương thức thể hiện 

 đúng đắn sẽ có thể tránh đươc nỗi khổ của tình yêu đơn phương. Mời các bạn cùng xem bói tướng tay của nhóm người thường yêu đơn phương và phương pháp hóa giải

Ngón trỏ ngắn

Đây là những người mà trước vấn đề khó khăn thường không tự tin, dễ lùi bước. Đứng trước mặt người mình yêu thường mà không biết cách bày tỏ tình cảm. Điều này chính là nguyên nhân dẫn đến tình yêu đơn phương của họ. Vì vậy nên có dũng khí và ý chí để đạt được tình yêu.

Nhiều đường Trở ngại

Bạn là người hay yêu cầu về đối phương quá cao, đầu óc nặng về ưu tư suy nghĩ, có thể vì những suy nghĩ gàn dở mà bạn làm mất đi tình yêu đẹp của chính mình, là người dễ nảy sinh sự tự ti bởi vậy những cái đáng thu hút của bản thân không được thể hiện ra ngoài. Luôn nhìn sự vật với con mắt tiêu cực. Cho nên bạn hãy bắt đầu từ cuộc sống hằng ngày, lạc quan để sống qua mỗi ngày thì đường Trở ngại cũng từ đó ít đi.

Nửa đường Trí luệ cong lên ở gò Nguyệt

Những người này là người có tính trực giác cao, trí tưởng tượng phong phú nhưng tính phán đoán thường lại tương đốì yếu. Nếu như tất cả những suy nghĩ của bản thân được coi là nhất thì không thể có được tình yêu tốt đẹp. Bạn nên nắm bắt tình hình khách quan mà giải quyết vấn đề sao cho hợp lý

Đường Hôn nhân rất ngắn

Vốn dĩ bạn là người không biết quan tâm như thế nào đến tình yêu và người khác phái, lại thêm cảm xúc của bạn  dễ dàng thay đổi, do vậy rất khó để tìm được người thích hợp. Nhưng với những người cùng chí hướng với bạn thì lại có sự phát triển thuận lợi đến không ngờ.

Đường Tình cảm có vân đảo

Thường vì tính tùy hứng mà bạn rơi vào cảnh yêu đơn phương, là người  cảm xúc dễ thay đổi, tính tình hơi trẻ con, nên làm cho thành công của bạn trong tình yêu càng trở nên xa vời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tướng tay của người yêu đơn phương

Giải nghĩa sao Thiên phủ trong lá số Tử vi –

Sao Thiên Phủ có chủ quản là Khương hoàng hậu – một người phụ nữ nết hạnh, hiền thục là Hoàng Hậu bên của Trụ Vương nhưng bị Trụ Vương ngược đãi, nghe theo lời Đắc Kỷ giết chết. Trong Tử Vi Thiên Phủ còn tính chất tài năng và từ bi. Đặc điểm sao Thiê
Giải nghĩa sao Thiên phủ trong lá số Tử vi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Thiên Phủ có chủ quản là Khương hoàng hậu – một người phụ nữ nết hạnh, hiền thục là Hoàng Hậu bên của Trụ Vương nhưng bị Trụ Vương ngược đãi, nghe theo lời Đắc Kỷ giết chết. Trong Tử Vi Thiên Phủ còn tính chất tài năng và từ bi.

Đặc điểm sao Thiên Phủ

– Phương Vị: Nam Đẩu Tinh
– Tính: Dương
– Hành: Thổ
– Loại: Tài Tinh, Quyền Tinh
– Chủ về: Tài lộc, uy quyền
– Tên gọi tắt: Phủ

Vị trí Thiên Phủ ở các Cung

– Miếu địa (tốt nhất) ở các cung Dần, Thân, Tý, Ngọ.
– Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất.
– Đắc địa (tốt vừa)ở các cung Tỵ, Hợi, Mùi.
– Bình hòa (bình thường)ở các cung Mão, Dậu, Sửu.
– Thiên Phủ không có hãm địa.

sao-tu-vi

Sao Thiên Phủ là một trong 14 chính tinh quan trọng của Tử Vi. Chòm Thiên Phủ với Chòm Tử Vi hợp thành đầy đủ các sao chính tinh. Tạo thành lá số tử vi nói lên được số mệnh của đương số. Vậy Thiên Phủ có ý nghĩa như thế nào khi nằm ở các cung với các trường hợp miếu, vượng, đắc địa?

Thiên Phủ ở Cung Mệnh

Ý nghĩa tướng mạo, ngoại hình, tính cách:

+ Cung Mệnh có Thiên Phủ tọa thủ, nên thân hình đầy đặn, da trắng, vẻ mặt thanh tú, đều và đẹp, tính khoan hồng nhân hậu, ưa việc từ thiện, biết suy tính và có nhiều mưu cơ để giải quyết những công việc khó khăn. Suốt đời được hưởng phúc, giàu sang và sống lâu.

+ Cung Mệnh có Phủ tọa thủ là người khoan hòa, nhân hậu, có lòng từ thiện.

+ Cung Mệnh có Phủ tọa thủ, gặp nhiều Sát tinh hội hợp, là người gian trá, hay đánh lừa, nói dối.

+ Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ hay Không, Kiếp hội hợp, thì thân hình lại cao và hơi gầy, da kém vẻ tươi nhuận, tính ương ngạnh, thích ăn hoang tiêu rộng, chơi bời phóng túng, thích phiêu lưu nay đây mai đó, hay mưu toan chuyện viển vông. Vậy cho nên suốt đời túng thiếu, và chẳng mấy khi được xứng ý toại lòng, tuổi thọ cũng bị chiết giảm.

– Nam mệnh

+ Phủ thủ Mệnh gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp, hội hợp, nhất là Tử Vi, Tướng, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc, tất được hưởng phú qúy song toàn và sống lâu.

+ Đàn ông có Phủ thủ Mệnh là người cẩn thận, chín chắn, biết suy nghĩ sâu xa, ví như con thuồng luồn qua vực.

+ Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay Thiên Không, Kiếp hội hợp, thật là cùng khổ suốt đời, khó tránh thoát được tai họa và thường yểu tử. Gặp cách này, chỉ có lánh mình ở chốn thuyền môn đạo viện mới được yên thân và sống lâu.

– Nữ mệnh

+ Phủ thủ Mệnh nên vẻ mặt tươi đẹp như hoa mới nở.

+ Phủ gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp hội hợp, tất được hưởng giàu sang sống lâu và rất vượng phu ích tử.

+ Phủ gặp Tuần, Triệt án ngữ, hay Thiên Không dám, Không Kiếp hội hợp, nên suốt đời phải lao tâm khổ tứ, buồn bực vì chồng con và không thể sống lâu được. Nhưng nếu có cách này mà dốc lòng tu hành thì cũng được hưởng phúc và thanh nhàn.

Ý nghĩa tài lộc phúc thọ

Thiên Phủ là tài tinh và quyền tinh, và là sao chính quan trọng bậc nhì, cho nên có nhiều ý nghĩa phú quý và thọ.

Nhưng nếu bị Tuần Triệt, Không hay Kiếp xâm phạm thì hiệu lực kém sút nhiều: túng thiếu, bất đắc chí, tuổi thọ bị giảm, phá di sản lại hay bị tai họa, đi tu thì mới yên thân và thọ.
Riêng phụ nữ thì phải lao tâm khổ trí, buồn bực vì chồng con. Dù sao, Thiên Phủ vẫn là sao giải trừ nhiều bệnh tật, tai họa.

Những Bộ Sao Tốt

Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung.

Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách: Hai cách này tốt toàn diện về mọi mặt công danh, tài lộc, phúc thọ.

Phủ, Tướng: Giàu có, hiển vinh.

Thiên Phủ, Vũ Khúc: Rất giàu có. Càng đi chung với sao tài như Hóa Lộc, Lộc Tồn thì càng thịnh về tiền bạc.

Những Bộ Sao Xấu

Sao Thiên Phủ rất kỵ các sao Không Kiếp, Tuần, Triệt, Kình, Đà, Linh, Hỏa.
Nếu gặp các sao này thì uy quyền, tài lộc bị chiết giảm đáng kể. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng Thiên Phủ chế được hung tinh của sát tinh như Kình, Đà, Linh hay Hỏa. Nhưng, nếu Thiên Phủ gặp đủ cả bốn sao, Thiên Phủ không chế nổi, mà còn bị chúng phối hợp tác họa mạnh mẽ.

Thiên Phủ ở Cung Phụ Mẫu

– Bất cứ tại vị trí nào, cha mẹ cũng có của.

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: cha mẹ khá giả, có danh сhức.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: hai thân phú qúy song toàn, nhưng sớm xa cách một trong hai thân.
– Tử đồng cung: cha mẹ giàu sang. Con được thừa hưởng của cha mẹ để tại rất nhiều.

– Liêm Trinh đồng cung: hai thân giàu có, nhưng bất hòa. Con không hợp tính cha mẹ.

– Vũ Khúc đồng cung: cha mẹ giàu có và vinh hiển.

Thiên Phủ tại Cung Phúc Đức

– Đơn thủ tại Tỵ, Нợi: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng đông đảo, khá giả.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: không được hưởng phúc dồi dào. Nên lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương. Trong họ, nhiều người giàu sang, nhưng ly tán.

– Tử đồng cung, Tướng đồng cung: suốt đời được xứng ý toại lòng, sống lâu và hưởng phúc. Họ hàng nhiều người giàu sang.

– Liêm đồng cung: suốt đời sung sướng, phúc thọ song toàn. Trong họ có nhiều người giàu sang.
– Vũ đồng cung: được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng khá giả.

Thiên Phủ tại cung Điền Trạch

– Được thừa hưởng của tổ nghiệp để lại.

– Đơn thủ tại Dần, Thân: khá nhiều nhà đất.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: nhà đất bình thường.

– Tử đồng cung: rất nhiều nhà đất. Cơ nghiệp ngày càng thịnh vượng. Nếu tự tay tạo lập ngày càng phát đạt.

– Liêm đồng cung: được hưởng của tổ nghiệp để lại. Nhưng cơ nghiệp càng về sau càng sa sút, không giữ được bền vững.

– Vũ đồng cung: gìn giữ được tổ nghiệp. Về sau làm nên thịnh đạt bội phần.

Thiên Phủ tại Cung Quan Lộc

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: công danh bền vững, nhưng không hiển hách.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: thành công trong việc kinh doanh buôn bán. Nếu có danh chức, cũng chỉ trong một thời gian ngắn.

– Tử đồng cung: công danh hiến hách, phú qúy song toàn.

– Liêm đồng cung: phú qúy song toàn, lập được nhiều chiến công, có uy quyền hiển hách.

– Vũ đồng cung: công danh hoạnh đạt, văn võ kiêm toàn, có chức vụ thuộc về tài chánh hay kinh tế.

Thiên Phủ ở Cung Thiên Di

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: gặp qúy nhân, có tài lộc.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: xa nhà được lợi ích và yên thân hơn ở nhà, buôn bán phát tài.

– Tử đồng cung: ra ngoài luôn tuôn gặp qúy nhân phù trợ, mọi sự đều hành thông, càng xa nhà càng được xứng ý toại lòng.

– Liêm đồng cung: ra ngoài lợi ích hơn ở nhà, tài lộc dễ kiếm, qúy nhân trợ giúp cũng nhiều.

– Vũ đồng cung: gặp qúy nhân phù trợ, được nhiều người kính nể, tài lộc hưng vượng.

Thiên Phủ ở Cung Tài Bạch

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: rất giàu có và giữ của bền vững

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: giàu có, nhưng không được rực rỡ như trên.

– Tử đồng cung: rất nhiều của cải, thường làm quan về tài chánh, được coi giữ kho tàng.

– Liêm đồng cung: giàu có lớn, giữ của bền vững.

– Vũ đồng cung: rất giàu có, giữ của bền vững, thường làm quan về tài chính hay giữ kho tàng.

Thiên Phủ tại Cung Tử Tức

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: từ năm con trở lên, cố qúy tử.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: nhiều nhất là bốn con.

– Tử đồng cung: từ năm con trở lên.

– Liêm đồng cung: từ ba đến năm con, về sau đều khá giả.

– Vũ đồng cung: hai con, sau đều qúy hiển.

Thiên Phủ tại Cung Phu Thê

– Đơn thủ tại Tỵ, Hợi: vợ chồng khá giả, hòa thuận đến lúc đầu bạc.

– Đơn thủ tại Sửu, Mùi, Mão, Dậu: vợ chồng chung sống sung túc, nhưng hay cãi lộn.

– Tử đồng cung: hòa hợp trắng răng đến thuở bạc đầu, bợ chồng khá giả, chung hưởng giàu sang

– Liêm đồng cung: nên muộn lập gia đình. Vợ chồng tính cương cường nhưng chung sống được với nhau đến lúc bạc đầu. Gia đình sung túc và thường có danh giá.

– Vũ đồng cung: vợ chồng đôi khi có sự bất hòa, nhưng chung hưởng giàu sang đến lúc bạc đầu.

Thiên Phủ khi vào Hạn

– Thiên Phủ không có vị trí hãm nhưng nếu gặp Tam Không (Địa Không, Thiên Không, Không Vong), tất bị phá sản, đau yếu, mưu sự chẳng được toại lòng, hay mắc lừa tiểu nhân.

– Xa lánh Tam Không: thật là kho tài lộc, gặp Hạn này chắc chắn là công danh hiển đạt, tăng tài tiến hỉ, nếu may mắn gặp thêm Khoa, Quyền, Lộc phải quyết đoán là tài quan song mỹ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa sao Thiên phủ trong lá số Tử vi –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd