Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

SAO QUAN ĐỚI

quan đớI (Kim) *** 1. Ý nghĩa của quan đới: a. Về vật dụng: Quan Đới là cái đai, biểu tượng cho chức vị,...
SAO QUAN ĐỚI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

quan đớI (Kim) 



***

1. Ý nghĩa của quan đới:
a.  Về vật dụng: Quan Đới là cái đai, biểu tượng cho chức vị, quyền hành
b. Về công danh: chỉ sự háo danh, háo quyền từ đó có nghĩa phụ là có chức vị, quyền thế. Về điểm này, Quan Đới giống như Thai Phụ, Phong Cáo, Hóa Quyền.
c. Về phúc thọ, tai họa: Quan Đới báo hiệu cho cái chết bất đắc kỳ tử và mau chóng Quan Đới, Tang, Hổ: chết bất ngờ vì đứt gân máu Quan Đới, Không, Hỏa: chết vì súng đạn, lửa, bom Tọa thủ ở bất cứ cung nào chỉ người, cách chết bất đắc này sẽ xảy ra cho người đó.

2. Ý nghĩa của quan đới và một số sao khác:
Quan Đới:             - gặp nhiều sao mờ ám xấu xa thì gây rắc rối, phiền nhiễu, ngăn trở mọi công việc.             - gặp nhiều sát bại tinh, Quan Đới ví như sợi dây thắt cổ, trói buộc, tự ải.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO QUAN ĐỚI

Lợi ích của thạch anh trong phong thủy –

Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé! Lợi ích của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia đình Bình an – Tài vận thông thuận: Đá cầu thạch anh – Động thạch anh – Thạch anh hình khối trụ lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà. Củ thể như thế nào chúng ta cùng đọc bài viết sau để biết thêm về lợi ích của đá thạch anh nhé!

Nội dung

  • 1 Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy
    • 1.1 Gia đình bình an – tài vận thông thuận
    • 1.2 Cải thiện phong thủy và tích tài khí
    • 1.3 Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát
    • 1.4 Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần
    • 1.5 Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng
    • 1.6 Nhà không được hướng
    • 1.7 Khử mùi
    • 1.8 Hiện tượng bóng đè
    • 1.9 Nơi buôn bán
    • 1.10 Cách cầu tài
    • 1.11 Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên

Lợi ích của đá thạch anh trong phong thủy

751px-Amethyst_Druse

Gia đình bình an – tài vận thông thuận

Đá cầu Thạch Anh – động Thạch Anh – Thạch Anh hình trụ khối lớn – Đá Hắc Diệu Thạch đặt ở các góc nhà .
Tác dụng : truyền khí từ trường , không những bảo hộ gia trung bình an , tránh tà mà còn giúp lưu thông không khí trong nhà đem lại nhiều may mắn.

Cải thiện phong thủy và tích tài khí

Đặt động thủy tinh trong nhà có tác dụng hoá xung giải sát, ngoài ra còn có thể tích phú, tích lộc .

Trấn trạch , tránh tà, vừa vượng vừa phát

Góc tài lộc ở trong phòng làm việc , công ty hoặc trong nhà nếu đặt động Thạch anh hoặc Thạch anh hình trụ có tác dụng trấn trạch – tránh tà – chặn sát khí , giúp bạn làm ăn thịnh vượng , phát đạt.

Tăng cường phát triển trí tuệ và ổn định trạng thái tinh thần

Đặt thạch anh tím trên bàn học hoặc đầu giường giúp bạn phát huy trí tuệ và cải thiện thị lực .

Khử sóng từ phát ra từ tivi, máy tính, lò vi sóng

Bên cạnh Tivi, máy tính, lò vi sóng đặt một sản phẩm thuộc gia tộc họ thạch anh mầu trắng có tác dụng giảm bớt bức xạ phát ra , tránh gây ảnh hưởng đến sức khoẻ con người .

Nhà không được hướng

Ðối diện chính cửa ra vào là đường cái , hoặc vị trí nhà ở góc đường hình chữ L , cửa nhà có cây to , hoặc cột điện nên treo trước cửa ra vào một quả chuông gió bằng đá thuộc họ thạch anh hoặc góc nhà hướng cửa ra vào đặt động Thạch anh tím có thể tránh tà .

Khử mùi

Cửa nhà vệ sinh treo thạch anh hoặc đặt Thạch anh có thể giải uế khí.

Hiện tượng bóng đè

Ðầu giường hoặc dưới chân giường nên để một tảng Thạch anh hình trụ hoặc một sản phẩm bất kỳ thuộc họ Thach Anh có thể hoá giải hiện tượng bị bóng đè .

Nơi buôn bán

Tại quầy bán hàng đặt Thạch anh tím hoặc mầu phấn hồng tăng cường nhân duyên và duyên bán hàng.

Cách cầu tài

Dùng Trận thất tinh hoặc Thạch anh vàng cầu tài; Luc Du Linh gây dựng sự nghiệp – tài phúc.

Cải thiện tình cảm , thắt chặt nhân duyên

Đầu giường đặt thuỷ tinh phấn hồng có tác dụng dung hoà tình cảm giữa bạn bè , ngưòi thân , cải thiện mối quan hệ chăn gối hai vợ chồng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lợi ích của thạch anh trong phong thủy –

Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Vị trí treo gương đại kị: Sử dụng gương trong nhà đúng phong thủy sẽ kích thích tiền bạc, sức khỏe nhân đôi nhưng nếu treo chúng lung tung gia chủ vô tình rước
Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử dụng gương trong nhà đúng phong thủy sẽ kích thích tiền bạc, sức khỏe nhân đôi nhưng nếu treo chúng lung tung gia chủ vô tình rước điều xui xẻo vào nhà.


1. Đại kị treo gương ở tài vị hoặc đối diện thần linh


Tài vị chính là vị trí tài lộc trong ngôi nhà. Thông thường nó là góc đối diện với cửa ra vào. Ví dụ, cửa ra vào ở phía tay trái ngôi nhà, tài vị chính là phía góc phải của ngôi nhà. Nơi đây chỉ nên đặt những linh vật may mắn, không thích hợp treo gương.

Ngoài ra, không ít người nhầm tưởng rằng treo gương đối diện thần linh sẽ nhân đôi sự ảnh hưởng của vị thần đó. Nhưng theo quan điểm phong thủy, điều này sẽ gây phản tác dụng vì đó được coi là hành động không tôn trọng thần linh.

2. Đại kị treo gương đối diện giường ngủ và bàn học

Nhung vi tri treo guong dai ki cho tai loc va suc khoe hinh anh 2
 
Chiếc gương treo đối diện giường ngủ sẽ khiến bạn dễ gặp ác mộng hoặc hoảng sợ. Ngoài ra, nó cũng được coi như người thứ ba xen ngang phá hoại tình cảm vợ chồng. Tốt nhất không nên treo gương trong phòng ngủ.

Việc treo gương trước bàn học cũng không nên vì nó sẽ khiến con cái bạn phân tâm, khó tập trung trí lực cho chuyện học hành khiến kết quả học tập giảm sút.

3. Đại kị treo gương đối diện cửa ra vào

Cửa ra vào trong ngôi nhà có thể là cửa chính, cửa phòng ngủ, cửa nhà vệ sinh. Tất cả những vị trí này đều không thích hợp để treo gương.

Nếu treo ở cửa chính sẽ ngăn cản tài lộc, tiền bạc chỉ có đi ra mà không đi vào, đồng thời sự nghiệp của mọi thành viên trong gia đình gặp nhiều sóng gió hay chịu tổn thất.

Phòng ngủ là một trong những nơi trọng yếu của ngôi nhà. Treo gương đối diện phòng ngủ sẽ khiến người trong đó cảm thấy bất an, từ đó ảnh hưởng tới sức khỏe.

Còn nếu treo gương đối diện nhà vệ sinh sẽ khiến người khác nhìn thấy mọi hành động mang tính chất riêng tư của bạn trong đó. Về phong thủy, cách bố trí này cũng không hợp lí.

4. Đại kị treo gương ở nhà bếp

Nhung vi tri treo guong dai ki cho tai loc va suc khoe hinh anh 2
 
Chiếc gương sẽ phản chiếu nhiều lửa, khiến trong nhà bếp hỏa quá vượng, dễ xảy ra hỏa hoạn hay những sự cố ngoài ý muốn.

5. Đại kị treo gương trên trần nhà

Không ít người muốn mở rộng không gian ngôi nhà bằng cách treo gương trên trần nhà mà không biết rằng mình đã phạm vào lỗi đại kị trong phong thủy nhà ở. Bởi cách làm này ảnh hưởng xấu tới sức khỏe cũng như gây ra sự hao tài hao lực cho những người sinh sống trong ngôi nhà này.

► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự tại Lichngaytot.com

Theo Khám phá






Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe

Phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân, xua thị phi

Trong nhà phòng khách là nơi có vị trí quan trọng nhất, bố trí phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân như thế nào cho hợp lý, xin mời theo dõi.
Phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân, xua thị phi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có câu: Lòng hại người không thể có nhưng nên có tâm phòng bị người. Trong cuộc sống, nhiều trường hợp chúng ta không làm gì cả nhưng vẫn có tiểu nhân hãm hại, gây khó dễ khiến công việc bất thành.   Phòng khách là vị trí trọng yếu trong nhà, quyết định quan trọng tới tài vận, sự nghiệp và quan hệ xã giao của chủ nhân. Đặc biệt, phòng khách có liên đới tới việc tiểu nhân có thể tiếp cận tới người trong nhà hay không bởi đây là nơi chủ nhân gặp gỡ tiếp khách. Xem thêm bài viết Lưu ý cần phải biết trong phong thủy phòng khách   Phong thủy chia nhà ở thành 5 phương vị Chu Tước, Huyền Vũ, Thanh Long, Bạch Hổ và Câu Trận. Trong đó phương vị Thanh Long đại biểu cho quý nhân, phương vị Bạch Hổ đại diện cho tiểu nhân. Gặp quý nhân là con đường chỉ mong có duyên không thể cầu nhưng tiểu nhân thì có thể phòng.    Bố trí phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân là điều cần thiết, bất cứ ai cũng nên tìm hiểu để xua đuổi vận khí xấu, mang may mắn, tốt lành tới cho ngôi nhà của mình. Dưới đây là một số lưu ý quan trọng.  

1. Bày gương không chính xác, dễ khai vận tiểu nhân


Phong thuy phong khach tranh tieu nhan, xua thi phi
 
Gương là vật dụng không thể thiếu trong bất cứ ngôi nhà nào, không chỉ để soi chiếu, chỉnh trang đầu tóc, trang phục mà gương còn có tác dụng trang trí, làm đẹp cho căn phòng. Nhưng nếu bày không đúng vị trí thì gương sẽ mang tới xui xẻo bởi nó có nhiều âm khí.   Bày gương giữa phòng khách là cực kì bất lợi đối với chủ nhân bởi đây là nơi cần bổ sung dương khí thịnh vượng, đại diện cho sức sống của toàn bộ ngôi nhà, âm khí của gương sẽ phá hỏng nguồn năng lượng cần thiết.   Thêm vào đó, bày gương ở phòng khách cần lưu ý sao cho gương không chiếu vào người, nhất là vị trí chủ tạo mà người đàn ông trong gia đình hay ngồi. Điều này sẽ dẫn dụ tiểu nhân, gây đàm tiếu, thị phi không cần thiết, ảnh hưởng tới sự nghiệp của trụ cột gia đình.
Xem thêm bài viết Treo gương đúng phong thủy: Nên và không nên
 

2. Con rối, búp bê khai vận tiểu nhân

  Không ít người có thói quen mua những con rối, con búp bê, món đồ chơi xinh xắn về bày trong nhà làm kỉ niệm, nhìn cũng rất vui mắt. Nhưng bày thì đẹp mà hậu quả phong thủy thì khôn lường. Trong phòng khách bày những vật dụng này sẽ mang tới phiền phức không đáng có, chiêu dụ tiểu nhân, quấy nhiễu cuộc sống.   Kể cả bày trong phòng làm việc, phòng ngủ cũng là cấm kị vì sẽ ảnh hưởng tới sự nghiệp, quan hệ vợ chồng. Những món đồ chơi này chỉ thích hợp bày ở phòng trẻ nhỏ.  

3. Bày hoa không đúng, chiêu dụ tiểu nhân


nhung loai hoa khong nen bay trong phong khach
 
Hoa tươi không chỉ có màu sắc rực rỡ mà còn có hương thơm ngát, mang tới sức sống mới cho không gian. Việc cắm hoa trong phòng khách là thói quen của không ít người với mong muốn ngôi nhà trở nên tươi đẹp và có phong vị hơn. Cắm hoa còn có tác dụng thúc đẩy vận trình, cải thiện phong thủy, nhất là phong thủy tình duyên.   Tuy nhiên không phải loại hoa nào cũng có thể bày trong phòng khách, cần chọn lựa kĩ càng, tránh những loài hoa mang sát khí, chiêu dụ tiểu nhân. Điển hình là hoa xương rồng, dạ lan hương, tuylip,….
Xem thêm bài viết Ý nghĩa phong thủy của các loài hoa
 

4. Bố trí phòng khách tránh tiểu nhân

  Trong nhà, cung Tây Bắc – cung Càn đại diện cho nam mệnh, cung Tây Nam – cung Khôn đại diện cho nữ mệnh, khuyết thiếu bất cứ góc nào cũng mang ý nghĩa Càn Khôn bất ổn, âm dương không hài hòa, mất cân đối nên phiền phức không ngừng tăng lên, vận trình ngày càng sa sút.   Muốn hóa giải trường hợp này, phương pháp hữu hiệu nhất là ở vị trí khuyết góc bày một chậu cây xanh tươi tốt, nên treo trên cao để tăng cường hiệu quả. Đồng thời đẩy mạnh phong thủy phòng khách bằng cách bày những loại cây cát tường như kim tiền, trúc phú quý, vạn niên thanh, cây phát tài,….
bay cay xanh trong phong khach
 
Phòng khách mắc lỗi xà ngang áp đỉnh là cực kì xấu, khiến người trong nhà cảm thấy ngột ngạt, không thuận lợi, mang tới trở ngại về sự nghiệp, có tiểu nhân quấy rầy, lúc nào cũng bị người khác chèn ép, bắt nạt. Với người làm ăn kinh doanh, người làm công việc ngoại giao thì lỗi phong thủy này rất có hại với quan hệ xã giao, không thể không giải quyết.   Cách tốt nhất là không thiết kế xà ngang trong phòng khách, nếu không thể tránh được hoặc vô tình phạm lỗi thì nên trang trí xà ngang sao cho khuất lấp, không lộ liễu. Đồng thời treo chuông gió hóa sát hoặc hồ lô thu sát ở trên xà ngang để giảm bớt hung hiểm, phòng tiểu nhân, tăng cường quý nhân, hỗ trợ sự nghiệp.    Phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân thực ra không khó, chỉ cần để ý một chút, dụng tâm khi bố trí thì phòng khách không những đẹp về mặt thẩm mỹ mà còn hợp về mặt phong thủy, giúp chủ nhân yên tâm hơn, không lo bị ảnh hưởng từ bên ngoài.
Tranh phong thủy phòng khách: Nên và không nên 5 mẹo nhỏ xoay chuyển phong thủy phòng khách Cải thiện phong thủy phòng khách nhờ dùng chuẩn đèn

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng khách tránh tiểu nhân, xua thị phi

Mẫu người Tham Vũ đồng hành

Mẫu người “Tham Vũ Đồng Hành” là những người có cung Mệnh an tại tứ mộ, tức là bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có hai sao Tham Lang và Vũ Khúc tọa thủ đồng cung hoặc xung chiếu với nhau. Nếu cung Mệnh an tại Thìn và Tuất, thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ xung chiếu với nhau.
Mẫu người Tham Vũ đồng hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nếu cung Mệnh an tại Sửu và Mùi thì Tham Lang và Vũ Khúc sẽ tọa thủ đồng cung. Sau phần trình bày khái quát về cuộc đời của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành nói chung, chúng ta sẽ đi vào chi tiết để xem sự khác biệt của mẫu người tuy là Tham Vũ Đồng Hành, nhưng Tham Vũ đồng cung tọa thủ tại Mệnh có gì khác biệt với người Tham Lang thủ Mệnh và Vũ Khúc xung chiếu, cũng như Vũ Khúc thủ Mệnh và Tham Lang xung chiếu?

Trước tiên, chúng ta nói qua về đặc tính của hai sao Tham Lang và Vũ Khúc là hai chính tinh trong cách Tham Vũ Đồng Hành Cư Tứ Mộ, rồi sau đó mới nói đến hai sao phụ khác nữa là Linh Tinh và Hỏa Tinh thì mới đủ bộ và đúng cách. Tham Lang là Bắc Đẩu tinh, hành của Tham Lang có người cho là hành Thủy, có người cho là hành Hỏa và cũng có người cho là hành Mộc. Theo thiển ý của người viết thì Tham Lang thuộc hành Mộc, bởi vậy, khi Tham Lang (đào hoa) tọa thủ tại cung Tí (cung Thủy), khoa Tử Vi gọi đây là cách Phiếm Thủy Đào Hoa, nghĩa là hoa đào trôi dạt trên dòng nước. Bản tính của Tham Lang là đặt nặng vấn đề vật chất trong cuộc sống. Thích hội hè đình đám, những chỗ đông người với những cuộc vui. Tính rất năng động, háo danh, háo thắng và thích làm những chuyện lớn cho nên có nhiều tham vọng. Ưu điểm của Tham Lang là có năng khiếu về kinh doanh, có khả năng tổ chức, nhưng khuyết điểm là mau chán nản và dễ bỏ cuộc nửa chừng. Nếu Tham Lang ở các vị trí miếu hay vượng địa thì chủ về uy quyền, giàu sang và sống lâu.

Vũ Khúc cũng là Bắc Đẩu tinh và thuộc hành Kim. Bản chất của Vũ Khúc rất nghịch với Tham Lang ở điểm Tham Lang thích vui chơi ở chỗ đông người thì Vũ Khúc lại thích cô đơn, làm việc gì cũng muốn độc hành. Người có Vũ Khúc thủ Mệnh tính gan dạ, táo bạo, có khả năng tổ chức, có đầu óc kinh doanh, chủ quyền uy, danh vọng và giàu sang. Chính những điểm tương đồng này giữa Vũ Khúc với Tham Lang mà bộ Tham Vũ là một bộ sao của những tay kinh doanh có hạng trên thương trường. Có người cho rằng Tham Vũ là hai sao thuộc về võ cách, tượng trưng cho võ nghiệp thì tại sao lại hợp với lãnh vực kinh doanh? Để trả lời cho điều này, chúng ta hãy nhìn vào cuộc sống của người Hoa Kỳ cũng như cộng đồng người Việt tị nạn, một số những cựu quân nhân, sau khi giã từ vũ khí, họ đã thành công một cách dễ dàng trên thương trường. Vậy phải chăng, những đức tính và khả năng cần có của một người điều binh trên chiến trường cũng cần thiết cho một người lăn lộn trên thương trường, đúng với câu mà người Trung Hoa vẫn nói: thương trường như chiến trường.

Được xem là đắc cách Tham Vũ Đồng Hành thì hai sao Tham Lang và Vũ Khúc phải đóng tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gọi là tứ mộ, bốn cung này thuộc hành Thổ cho nên đó là bốn vị trí miếu địa, vượng địa của hai sao Tham Vũ. Một điều kiện quan trọng khác là tại bốn vị trí này, bộ Tham Vũ phải gặp một hoặc cả hai sao Linh Tinh, Hỏa Tinh. Hai sao Linh Hỏa có thể đồng cung, xung chiếu hay tam hợp chiếu với hai sao Tham Vũ thì mới đầy đủ uy lực mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Tham Vũ đồng hành cư tứ mộ, ngộ Linh, Hỏa hào phú gia tư, hầu bá chi quý. Có nghĩa là người Mệnh an tại bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, có Tham Lang và Vũ Khúc đồng cung hay xung chiếu, lại thêm có một hoặc hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh chiếu vào là số giàu sang, phú quý như bậc hầu bá dưới thời phong kiến ngày xưa.

Điều mà chúng ta lưu ý ở đây là sự thành công, phú quý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành không phải từ quan trường, mà chính là từ thương trường. Như trên chúng ta đã nói, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành rất gan dạ, tự tin, nhiều tham vọng, có óc tổ chức và có năng khiếu về thương mãi, cho nên họ là những tay kinh doanh có tầm vóc chứ không phải chỉ làm ăn buôn bán lẻ tẻ. Đó phải chăng là do sự ảnh hưởng kỳ diệu của vòng Ngũ Hành tương sinh trong cách này: hành Hỏa của Linh Tinh, Hỏa Tinh một mặt phù trợ cho hành Thổ của bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi để tương sinh cho hành Kim của Vũ Khúc, đồng thời cũng đốt cho Kim này thành Thủy để dưỡng Mộc của Tham Lang, rồi Mộc của Tham Lang lại là củi cho ngọn lửa Linh, Hỏa cháy bùng lên...

Một đặc điểm khác đáng lưu ý của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là vì ảnh hưởng của Vũ Khúc, cho nên mẫu người này thường lao đao, lận đận trong tiền vận, và sớm lắm thì cũng phải qua trung vận, đa số phải đến hậu vận mới có thể gọi là thành công như ý muốn và lúc đó cơ nghiệp mới có thể bền vững được.
Hỏa Tinh và Linh Tinh là hai sao Hỏa, cho nên lúc phát thì sẽ giúp cho bộ Tham Vũ phát rất nhanh, nhưng nếu phát không đúng vào thời vận thì cũng chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên rồi cũng tắt đi một cách nhanh chóng. Nếu biết được lý lẽ này, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành chẳng nên bôn ba sớm trong cuộc đời mà chuốc nhiều phiền não, đắng cay. Điều này rất nhiều người đã biết, nhưng họ không cam lòng, để cuối cùng cũng nói được một câu an ủi với chính mình như Nguyễn Du đã nói: càng phong trần danh ấy càng cao! Đặc điểm này thấy rõ nhất ở những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an tại hai cung Sửu và Mùi, hai sao Tham Vũ sẽ đồng cung, khắc chế nhau mạnh mẽ trong tiền vận (khoảng 33 hoặc 36 tuổi) khiến cho đương số bao lần thấm mệt và sớm ngộ được cái ý nghĩa của câu: có tài mà cậy chi tài... Phải qua trung vận và bắt đầu vào hậu vận thì sự nghiệp của người Tham Vũ Đồng Hành có Mệnh an tại Sửu hay Mùi mới được ổn định và bền vững cho đến cuối cuộc đời.

Nói đến sự thành công của mẫu người Tham Vũ Đồng Hành nhanh hay chậm, bền vững hay ngắn ngủi thì chúng ta cũng nên lưu ý trường hợp nếu Mệnh an ở tứ mộ, có Tham Lang tọa thủ đồng cung với Hỏa Tinh, thì đây còn gọi là cách Tham Hỏa Tương Phùng, nếu gặp Linh Tinh thì gọi là cách Tham Linh Tịnh Thủ, cũng là những dạng của Tham Vũ Đồng Hành, nhưng với cách này, khi đến thời, đương số sẽ phát rất nhanh vì ảnh hưởng mạnh mẽ của Ngũ Hành tương sinh giữa Tham Lang thuộc Mộc và Hỏa Tinh thuộc Hỏa đồng cung với nhau. Tuy nhiên, công danh sự nghiêp dù có phát rất nhanh chóng, nhưng cũng chẳng giữ được lâu bền, vì đây cũng chỉ là cách bạo phát, bạo tàn mà thôi.

Tương tự như vậy, chúng ta xét đến vị trí của hai chính tinh Tham Vũ tại tứ mộ. Đối với những người Tham Vũ Đồng Hành mà Mệnh an tại hai cung Thìn và Tuất thì sự khắc chế của hai sao Tham Vũ tương đối nhẹ hơn vì nằm trong vị trí xung chiếu nhau, vì vậy, sự nghiệp của mẫu người này sẽ thành đạt sớm hơn, nhưng mức độ của sự thành đạt lại không có kích thước bằng những người Mệnh an tại Sửu Mùi.

Và một điểm khác biệt nữa là cá tính của mỗi mẫu người Tham Vũ Đồng Hành sẽ có sự khác biệt tùy theo cung an Mệnh. Khi Mệnh an ở Thìn Tuất thì nếu chúng ta giao tiếp với những người này, chúng ta sẽ nhận ra họ như có hai con người khác nhau: một con người vì ảnh hưởng của Vũ Khúc nên thường sống cô độc, suy nghĩ và quyết định một mình, nhưng khi ra ngoài, sao Tham Lang lại làm cho họ thành một con người khác, họ biết nói, biết làm cho vui lòng người khác, mặc dù trong thâm tâm họ không thích như vậy, và phải chăng đây cũng là một đặc tính giúp họ thành công trong lãnh vực kinh doanh?

Tóm lại, mẫu người Tham Vũ Đồng Hành là một mẫu người lý thú khi chúng ta quen biết hoặc hợp tác trong vấn đề làm ăn mua bán với nhau. Họ là những người có cá tính rất mạnh, gan lì, táo bạo và nhiều tham vọng. Địa bàn giúp họ thành công là thương trường. Và thời điểm mà họ xây dựng được sự nghiệp như ý là hậu vận của cuộc đời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẫu người Tham Vũ đồng hành

Vì sao cấm kị cửa nhà hướng Bắc trong phong thủy nhà ở?

Cửa nhà hướng Bắc thường bị coi là cấm kị trong phong thuỷ nhà ở. Vì sao yếu tố này lại ảnh hưởng đến vậy, cùng tìm hiểu nhé!
Vì sao cấm kị cửa nhà hướng Bắc trong phong thủy nhà ở?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay, xu hướng mua nhà xây sẵn đang rất phổ biến vì tính tiện lợi và kinh tế của nó. Phần lớn người mua và người bán đều chỉ quan tâm đến kết cấu nhà, nội thất, giá cả mà lơ là phong thủy nhà ở. Tai hại nhất là cửa nhà hướng Bắc mà vẫn có người chấp nhận mua, không lường hết được những điều hung hiểm.


Vi sao cam ki cua nha huong Bac trong phong thuy nha o hinh anh
 
Phong thủy nhà ở chú trọng bậc nhất tới cửa chính. và kị cửa nhà hướng Bắc. Nhà to hay nhà nhỏ, nhà trong ngõ hay nhà mặt đường thì hướng cửa chính vẫn là thứ cần cân nhắc, đắn đo nhiều nhất, tuyệt đối không thể chọn bừa bãi.    Trong bát vận, theo chuẩn thước Lỗ Ban thì ba cát môn là hai lẻ bốn năm đến hai lẻ hai ba năm. Đệ nhất cát môn là hướng Chính Thần Đông Bắc – cát vị vượng khí, chủ sự nghiệp tài vận có tiến triển nhanh chóng. Đệ nhị cát môn là hướng Sinh Khí Chính Nam – cát vị chủ sự nghiệp, tài vận vững bước tiến lên. Đệ tam cát môn là Tiến Khí Chính Bắc, mở cửa là tiến vào khổng khí, chủ sự nghiệp, tài vận ổn định tiến bộ.   Trong phong thủy nhà ở, hướng xấu nhất, tuyệt đối không thể đặt cửa là hướng Bắc – phương vị âm. Hướng Bắc xưng là Huyền Vũ môn, phong thủy cho rằng có tâm ý bại trận, không may mắn, là âm phòng, bất lợi đối với tiền tài và sức khỏe của người trong nhà.  Do đó mà cửa nhà hướng Bắc là một điều tối kị.
Vi sao cam ki cua nha huong Bac trong phong thuy nha o hinh anh
 
Nếu không may nhà có cửa nhà hướng Bắc thì biện pháp giải quyết là trước cửa bày vật phẩm phong thủy trấn sát Quan Công và một chậu cây xanh cát tường, có thể thúc đẩy tài vận, nâng cao vận trình. Ngoài ra, nên chọn thảm màu đỏ, để mở cửa là thấy hồng, rất có phúc khí, may mắn.    Nhà tọa Bắc triều Nam, tức là quay lưng về Bắc, hướng mặt về Nam được coi là thế nhà đại cát đại lợi, không chỉ tốt về mặt phong thủy mà còn phù hợp với khí hậu Việt Nam. Hạ đón gió Nam mát lành, đông có mặt trời ban trưa chiếu rọi lại tránh được gió mùa đông Bắc. Nhà ở hướng Năm hứng ánh sáng tự nhiên, không khí lưu thông, tràn trề sức sống.
Tính chất cơ bản của 24 hướng nhà Muốn chọn hướng nhà tốt, nhớ ngay 4 lưu ý Thế đất hình gì sẽ mang tài lộc cho gia chủ
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao cấm kị cửa nhà hướng Bắc trong phong thủy nhà ở?

Cửa đối diện thang máy, cần treo cầu thủy tinh để hóa giải

Trong phong thủy nhà ở, nếu cửa ra vào đối trực diện với cầu thang máy thì sẽ mang lại nhiều điều xấu cho gia chủ. Vậy làm thế nào để hóa giải?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn đọc Nguyễn Xuân Minh (Từ Liêm, Hà Nội) hỏi về phong thủy nhà ở: Tôi muốn mua một căn chung cư, nhưng sau khi đặt tiền thì phát hiện cửa vào căn hộ đối diện cầu thang máy. Tuy nhiên, cửa và cầu thang máy còn cách một khoảng khá xa. Vậy, cửa ra vào đối diện cầu thang máy có xấu trong phong thủy không?

Cua doi dien thang may, can treo cau thuy tinh de hoa giai
 Ảnh minh họa.

Theo chuyên gia phong thủy  trong các tòa nhà chung cư, thang máy đóng một vai trò rất quan trọng. Thang máy không chỉ phục vụ giao thông, thuận lợi cho việc lên căn hộ mà với phong thủy đó cũng là nơi nạp các dòng năng lượng cho không gian các tầng. Vì vậy, để định tốt xấu cho một căn hộ trong tương quan với cầu thang máy thì việc xem xét vị trí tương đối của nó so với thang máy là rất quan trọng.

Những căn hộ đối diện với cầu thang máy sẽ nhận được nhiều năng lượngvà được phong thủy xem là những căn hộ tốt. Tuy nhiên, nếu cửa căn hộ đối trực diện với cửa thang máy ở một khoảng cách gần sẽ xảy ra hiện tượng xung đối giữa các dòng khí. Điều này được quan niệm rằng sẽ khiến gia chủ dễ gặp những chuyện thị phi. Ngoài ra, trong trường hợp cụ thể như nhà bạn, cửa dù đối diện với cầu thang máy nhưng có khoảng cách xa, có thể là đầu hành lang và cuối hành lang... Vì thế, trong trường hợp này có thể xem như không phải là vị trí xấu.

Nếu bạn là người hay lo lắng, có thể làm một số biện pháp hóa giải đơn giản như sau: Treo trước cửa căn hộ một quả cầu thủy tinh vát cạnh sẽ giúp hóa giải xung đối và góp phần điều tiết các dòng khí vào nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa đối diện thang máy, cần treo cầu thủy tinh để hóa giải

Kinh dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc

Mốc đột phá đầu tiên nhất là khi chúng tôi thử nghiên cứu đối xứng của cái gọi là “Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương”. Nó thật thảm hại, luộm thuộm và phi logic đến mức buồn cười.
Kinh dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc tìm kiếm này đã dần đưa chúng tôi đến một diễn đàn tranh luận giữa một người có nickname là Thiên Sứ (Nguyễn Vũ Tuấn Anh) [1] và các người khác về đổi vị trí Tốn Khôn [2] của Hậu Thiên Bát Quái [3] trong website www.tuvilyso.com . Và chính cuộc bút chiến này làm cho chúng tôi đặt ra câu hỏi: “Liệu Hà Đồ [4] có hợp với Tiên Thiên Bát Quái? [5]”. Câu trả lời là chúng hoàn toàn không hợp với nhau. Vậy phải chăng Hà Đồ sai, hay Tiên Thiên sai?. Hay Hà Đồ được vẽ ra không dùng để ký hiệu Tiên Thiên?!

Rồi càng nghiên cứu, càng lý thú. Đầu tiên, tôi thử đặt một giả thiết: “Ông Thiên Sứ đúng”. Và lý luận tiếp: “Nếu Thiên Sứ đúng thì truy nguyên lại, người Trung Quốc hoàn toàn không nắm bắt được những tư tưởng Hà Đồ, Lạc Thư. [6]”. Hà đồ thì khó, chứ Lạc Thư chả có gì đáng nói về toán học. Nó cũng chỉ là magic matrix đơn giản nhất thôi. Và trí tuệ người cổ đại hoàn toàn đạt được. Với bất cứ dân tộc nào!

Mốc đột phá đầu tiên nhất là khi chúng tôi thử nghiên cứu đối xứng của cái gọi là “Hậu Thiên Bát Quái Văn Vương”. Nó thật thảm hại, luộm thuộm và phi logic đến mức buồn cười. Rồi dần dần ý tưởng về trống đồng của anh Nguyễn Thiếu Dũng [7] đã thôi thúc tôi. Ừ nhỉ? Tại sao không? Thế ông cha ta để lại thông điệp gì trên trống đồng. Thử dùng một thứ logic tự nhiên, đơn giản nhất để hiểu các cụ xem sao. Khoan nghĩ đến góc độ mỹ thuật để mà trầm trồ: “Ôi đẹp quá! Văn hiến Lạc Việt rực rỡ đấy chứ.”. Liệu có chăng một thứ triết lý nào đó trên trống đồng? Thay vì trầm trồ, thán phục vẻ đẹp của chúng (trống đồng), ta hãy lắng mình tìm những chi tiết nhỏ nhạnh nhất để thử tìm lại cái gì mà ông cha ta gởi gắm vào đó. Mặc dù, cái đẹp cũng là cái rất to tát rồi.

Nào ngồi xuống đây, tôi kể anh nghe. Việt Nam ta có bí quyết trống đồng. Qua bao nhiêu trầm luân, Hán thuộc, Tây thuộc đủ cả; nhất là thời kỳ Bắc thuộc tổ tiên ta chịu mất đi ngữ văn của mình, chịu mất đi một phần ngôn ngữ cổ truyền của mình, chịu mất đi bao tài năng xuất chúng cho kẻ xâm lược. Thế mà bí quyết trống đồng, phương bắc không thể nào chiếm đoạt được. Cái gì thiêng liêng đến mức vậy?. Cái gì mà tổ tiên tôi với anh dù có bị tù đày, tra tấn, nhục hình vẫn không khai? Nó phải là cái gì cao quý chứ. Ít ra đối với dân tộc chúng ta.

Chúng tôi bắt đầu tìm lại “nền văn hiến mồ côi...” như ông Kim Định [8] đã viết. Càng thôi thúc chúng tôi hơn khi đọc được bài phỏng vấn của bà Patricia Pelley trên BBC:

BBC:Về vấn đề bản sắc dân tộc, chẳng phải đó đã luôn là quan tâm của mọi thế hệ sử gia hay sao?

Đúng vậy, nhưng trong các xã hội hậu thuộc địa, không chỉ riêng ở Việt Nam, vấn đề bản sắc mang một tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là khi các sách thời thuộc địa của Pháp tỏ ra tiêu cực về Việt Nam. Chẳng hạn, khi các nhà khảo cổ Pháp khai quật vùng Đông Sơn và thấy sự rực rỡ của trống đồng, họ liền cho rằng đây không thể nào là thành quả của người Việt.

Người Pháp rõ ràng nghĩ họ đã chiếm được nước ta thì nước ta làm gì có nền văn hiến đáng kể!!! Hẳn nhiên, người Pháp với chủ quan của họ có quyền phán xét như vậy. Nhưng chúng ta có quyền nghĩ vậy không là điều đáng nói. Liệu chúng ta có thể nói văn hiến chúng ta không đáng kể trong khi dù bị đô hộ 1000 năm, dân tộc ta vẫn trường tồn không?...

Khá khen cho các học giả người Pháp chăm chú và một cách thành kính nghiên cứu văn hiến Maya, văn hiến Aztec. Nền văn hiến của một dân tộc đã biến mất trên thế gian này; đâu còn gì để so đo, ganh tỵ mà mình không khen cơ chứ. Còn văn hiến của một dân tộc mất nước, một dân tộc bị mình đô hộ thì có chi đáng kể. Nếu có gì đó rực rỡ hay vĩ đại quá ngược với thành kiến của ta, ta cứ phán là không phải thành quả của họ.

Người dân tộc khác cũng hoàn toàn logic khi nói: “Dân tộc Việt của các anh xướng ca vô loài, đàn bà đàn ông nhảy nhót với nhau, không ra thể thống gì. Làm gì có thể đặt vấn đề triết thuyết ra đây? Các anh làm ra trống đồng thật đấy. Nhưng há có một dân tộc nào không có một nghệ nhân khéo léo nào đó?! Người nghệ nhân của các anh chỉ vẽ thô sơ lại một vũ hội nào đấy mà thôi.”. Có thể như thế vậy chăng? Chuyện cơ ngẫu thì trong triết học từ Á sang Âu đều có viết. Nhưng người nghệ nhân làm ra một sản phẩm trí tuệ liệu có ngẫu nhiên phát họa những hình ảnh đập vào mắt mình không?...

Và tôi đã tìm ra những ngẫu nhiên đáng ngờ...

Chú thích:

[1] : Nguyễn Vũ Tuấn Anh - nhà nghiên cứu văn hoá, chuyên về nền văn hiến Lạc Việt. Ông còn là nhà Dịch học. Một trong những người kiên quyết khẳng định, Kinh Dịch do người Việt cổ làm nên. Vào đây để đọc sách của tác giả Nguyễn Vũ Tuấn Anh:

[2] : Hai quái trong Bát quái. Có tám quái cả thảy vì chúng được xây dựng nên từ hai vạch Âm Dương và có ba lớp như thế, nên số quái sẽ bằng 23 = 8. Với Càn-3 lớp Dương cả, Khôn-3 lớp Âm cả, Đoài-2 Dương dưới và 1 Âm trên, Cấn-2 Âm dưới và 1 Dương trên, Chấn-1 Dương dưới hai Âm trên, Tốn-1 Âm dưới hai Dương trên, Ly-2 Dương trên dưới và vạch Âm giữa, Khảm-2 Âm trên dưới và vạch Dương giữa.

[3] : Hậu Thiên Bát Quái tương truyền do ông Chu Văn Vương dựng nên khi bị Trụ Vương giam cầm ở Dữu Lý. Các quái trong Hậu Thiên Văn Vương được phân bố như sau: Khảm-Bắc, Càn-Tây Bắc, Đoài- Tây, Khôn-Tây Nam, Ly-Nam, Tốn-Đông Nam, Chấn-Đông, Cấn-Đông Bắc.

[4] : Hà Đồ: tương truyền do vua Phục Hy nhìn thấy nó mà vẽ nên hai vạch Âm Dương. Đồng thời dựng nên Tiên Thiên Bát Quái. Hà đồ là một đồ số có các cặp số (được vẽ số nhỏ trong, số to ngoài) sau: 1-6, 2-7, 3-8, 4-9. Với 1-6 đối với 2-7, 3-8 đối với 4-9.

[5]: Tiên Thiên Bát Quái. Các quái trong Tiên Thiên phân bố như sau: Khôn-Bắc, Cấn-Tây Bắc, Khảm- Tây, Tốn-Tây Nam, Càn-Nam, Đoài-Đông Nam, Ly-Đông, Chấn-Đông Bắc. Thật ra phương vị không quan trọng. Chúng tôi chép như thế để bạn đọc biết vị trí tương xứng của các quái mà thôi.

[6] : Lạc Thư. Ma phương 3x3, tổng các số hàng ngang hàng dọc và chéo đều bằng 15. Các số từ 1-9 được xếp như sau (ở đây để tiện theo dõi vấn đề liên quan đến Dịch học, chúng tôi cũng phân các ô của Lạc Thư theo tám hướng: 5 ở giữa, 1-Bắc, 6-Tây Bắc, 7- Tây, 2-Tây Nam, 9-Nam, 4-Đông Nam, 3-Đông, 8-Đông Bắc.

[7] : Nguyễn Thiếu Dũng. Người viết một loạt bài chứng minh Kinh Dịch là di sản của người Việt. Link tham khảo: Kinh dịch - Di sản sáng tạo của Việt NamThanh niên Online và Chiếc gậy thần Thanh niên Online

[8] : Kim Định. Linh mục triết gia người Việt. Người viết nhiều về triết lý Việt cổ. Người viết cuốn “Gốc rễ triết Việt”.

 

Nguồn: www.thuvienkhoahoc.com

Nguồn: www.thuvienkhoahoc.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc

Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.
Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.

TOP 1 - Thiên Bình

Năm 2016, Thiên Bình sẽ là chòm sao tiền bạc rủng rỉnh nhất. Sao Mộc mang may mắn chiếu vào cung tài lộc, mang đến vận may tối cao cho Thiên Bình.
Nếu bạn cảm thấy thu nhập hiện giờ của mình không đủ chi tiêu hoặc lương không xứng với năng lực bản thân, hãy nhanh chóng hành động, thỏa thuận về việc tăng lương nhất định bạn sẽ được như ý muốn, còn muốn đầu tư hãy đầu tư… thời cơ tuyệt vời đang đến, đừng bỏ lỡ.

TOP 2 - Song Tử

Thu nhập của cung Song Tử tăng vọt trong năm 2016, nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài. Ngoài lương thì Song Tử còn có những khoản thu nhập ngoài sức tưởng tượng như tiền thưởng cao, hoa hồng nhiều.

Chú ý, bạn đừng phô trương quá nhé. Và Song Tử phải thay đổi kế hoạch tích lũy tiền bạc năm 2016, có như vậy vận may tiền tài mới đầy đủ. Bạn hãy lên kế hoạch chi tiêu hợp li, hãy chi những khoản cần thiết và lên kế hoạc trước, đừng nên chi tiêu tiền theo cảm hứng không tài vận sẽ tiêu tan đấy

TOP 3 - Bọ Cạp

Vài năm qua, tình hình tài chính của Bọ Cạp khá bi quan. Nhưng từ giờ, tình trạng đó sẽ chấm dứt. Sự vận hành của Sao Thổ khiến cung Bọ Cạp phải tốn không ít tiền của, nhưng khi Sao Mộc mang theo những điều tốt lành đến, bạn sẽ được thở dài nhẹ nhõm, không phải đau đầu về vẫn đề tiền bạc trong năm nay. Bạn sẽ không phải lo những khoản tiền chi lặt vặt từ trên trời rơi xuống nữa. Năm nay bọ cạp có thuận lợi về công việc nên tình hình lương bổng của bạn sẽ được cải thiện, bạn cũng sẽ thường xuyên nhận được những khoản tiền thưởng.

Trong năm 2016 này, Nếu những Bọ Cạp có đầu óc kinh doanh hãy tận dung cơ hội đầu tư để sinh lời, vận may đang mỉm cười với bạn đấy. Nếu mạnh dạn đâu tư thời gian và vốn liếng thì lời thu về sẽ cực kì nhiều đấy. Vậy nên Bọ Cạp đừng tỏ ra e dè hay sợ điều gì nhé, năm nay là năm nay mắn cả về công việc lẫn tiền tài của bạn.

TOP 4 - Bạch Dương

Trong năm 2016, các chú dê sẽ bước vào thời kỳ đỉnh cao của tài chính. Giai đoạn này, nếu bán hàng hoặc hợp có đồng kinh doanh với ai đó, các Bạch Dương sẽ gặp được khách hàng tốt, nhận được hoa hồng hào phóng.

Nếu tự kinh doanh, bạn cũng có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Năm nay Bạch Dương sẽ có thêm những mối quan hệ cực thuận lợi cho kinh doanh, bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ rất nhiệt tình từ bạn bè. Chính vì thế tình hình kinh doanh của bạn sẽ rất phát đạt. Nếu có ý tưởng kinh doanh nào đó, dù là lớn hay nhỏ thì Bạch Dương hãy bắt tay chuẩn bị thực hiện ngay đi nhé, đừng bỏ lỡ.

TOP 5 - Bảo Bình

Bảo Bình luôn là chòm sao khôn bao h phải lo lắng quá nhiều về tiền bạc. Đặc biệt cung giàu sang của Bảo Bình sẽ tiếp tục tăng mạnh năm 2016. Bảo Bình nên chăm chỉ làm việc để kiếm được nhiều tiền hơn - cơ hội đổi đời đã đến. Bạn có thể kiếm được nhiều hơn năm cũ nếu bạn thực sự chăm chỉ, bỏ thời gian và công sức. Bởi vì Bảo Bình có khả năng làm việc hiệu quả rất cao nên sẽ rất được trọng dụng.

Trong quá khứ, bạn có ý định đầu tư nhưng chưa thực hiện được? Vậy đây chính là thời cơ để bạn bắt tay hành động đấy. Tự mình bỏ vốn đầu tư và rủ thêm bạn bè cùng thực hiện cũng là 1 ý tưởng rất hay đấy.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

Trung Thu tháng 8, thời điểm gia đình đoàn viên, hãy cải thiện phong thủy phòng ăn của ngôi nhà để cũng nâng cao vận trình sức khỏe của mọi người trong nhà nào.
Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trung Thu tháng 8, thời điểm gia đình đoàn viên, cùng nhau quây quần, hãy trang hoàng, cải thiện phong thủy phòng ăn của ngôi nhà để cũng nâng cao vận trình sức khỏe của tất cả mọi người trong nhà nào.


► Mời các bạn tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung Thu theo truyền thống dân gian

Trung Thu thang 8 Nang cao suc khoe bang viec cai thien phong an hinh anh
 
Trung Thu tháng 8 không chỉ là dịp lễ hội lớn mà còn là lúc để gia đình hội họp, gia tăng tình cảm. Và trong muôn vàn điều ao ước, ước mong lớn nhất vẫn là tất cả mọi người đều mạnh khỏe, bình an. Cải thiện phong thủy phòng ăn sẽ đặc biệt có lợi trên phương diện này.    Trung Thu đoàn viên, vẫn là mong khỏe mạnh, mà muốn khỏe thì ăn uống phải tốt. Để nâng cao tinh thần ăn uống, hãy trang trí phòng ăn theo tông màu cam, giúp kích thích cảm cảm muốn ăn. Màu cam có hưng phấn độc đáo, giúp cảm nhận tốt hơn hương vị của thức ăn, kích thích ngon miệng.    Hơn nữa, màu sắc này còn lan tỏa cảm giác ấm áp, yên tĩnh khiến không khí vui vẻ, hài hòa, người trong phòng có thể thả lỏng tâm tình, hưởng thụ những bữa ăn một cách trọn vẹn nhất, thoải mái nhất vào dịp Trung Thu tháng 8.   Đồ dùng trong phòng ăn nhất định phải vững chãi, bàn ghế chắc chắn. Nếu bàn ghế lung lay sẽ mang đến cảm giác bất an cho người dùng bữa, ăn mất ngon, tiêu hóa không tốt, ảnh hưởng đến sức khỏe. Bàn ăn nên dùng loại trơn, ít trang trí, vì dù trang trí nhiều nhìn đẹp mắt nhưng lại không bằng phẳng, rối mắt, ảnh hưởng đến cảm giác của người dùng.   Phong thủy phòng ăn giúp tăng cường vận trình sức khỏe một cách rõ rệt nếu được trang trí bằng quả bầu gỗ. Quả bầu hay còn gọi là hồ lô, biểu tượng cho phúc lộc, treo trong phòng ăn tại phương Diên Niên, Sinh Khí, Thiên Y thì cực kì tốt lành. Có thể làm cho thân thể cường tráng, tinh thần vui vẻ, quan trọng nhất là hóa sát trừ tai, tiễu bệnh hưởng phúc, bảo vệ cho cả gia đình. 
Trung Thu thang 8 Nang cao suc khoe bang viec cai thien phong an hinh anh
 
Phòng ăn bày hoa không chỉ mang đến sự tươi tắn, đẹp đẽ trong dịp Trung Thu tháng 8 mà còn có tác dụng phong thủy rất tốt. Đặc biệt nên bày hoa cẩm chướng trong phòng ăn. Loài hoa này mang ý nghĩa lời cảm ơn, tình cảm lâu dài. Trong phong thủy học, phòng ăn là nơi gia đình đoàn tụ nên bày cẩm chướng với sắc màu ấm áp, đẹp mắt sẽ tăng cường cảm giác muốn ăn, xây dựng không khí hài hòa, trợ giúp sức khỏe. 
Thay đổi nhỏ, có phòng ăn hợp phong thủy Những điều cấm kị trong phong thủy nhà ở Lỗi phong thủy cần tránh khi đặt bàn ăn nếu không muốn rước họa Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trung Thu tháng 8: Nâng cao sức khỏe bằng việc cải thiện phòng ăn

Tướng tai và các dự báo |

1. Trong tướng pháp xem tai là “thái thính quan”. - Cơ quan thu nhận thông tin. Sinh lý học gọi cơ quan thính giác: tại nơi thu nhận thông tin đưa lên não bộ phân tích: nghĩa là bộ phận trợ giúp cho “thiên” (trời) quan hệ mật thiết với: ngu, tuệ, thọ
Tướng tai và các dự báo |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tai và các dự báo |

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A: cẩn trọng chu đáo

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A cẩn thận, chu đáo. Tuy nhiên họ có chút bướng bỉnh, chuyện đã quyết định thì sẽ không bao giờ thay đổi.
Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A: cẩn trọng chu đáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Sửu nhóm máu A có tính cách cẩn thận, làm việc gì cũng suy nghĩ kĩ càng. Tuy nhiên họ có chút bướng bỉnh, chuyện đã quyết định thì sẽ không bao giờ thay đổi.

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu O: Thông minh phóng khoáng, chính trực thiện lương


Tính cách đặc trưng người tuổi Sửu nhóm máu A
 

Người tuổi Sửu nhóm máu A cực kì cẩn trọng, luôn suy nghĩ kĩ càng trước khi hành động. Khi đối diện với bất cứ vấn đề gì, họ cần thời gian để xem xét, cân nhắc lợi hại, tính toán mọi điều bất trắc có thể xảy ra, vì thế mà mọi quyết định của họ đều vô cùng sáng suốt, không chút sai sót, khiến mọi người có cảm giác an tâm, có thể tin tưởng, dựa dẫm vào họ.

Những người thuộc nhóm này có tính cách mộc mạc, chân thành, cẩn thận chu đáo, làm việc nghiêm túc, tuyệt đối không bao giờ qua loa, đại khái. Điều này không chỉ thể hiện trong quá trình học tập, làm việc mà ngay cả trong chuyện kết giao bạn bè, họ cũng luôn giữ thái độ cẩn trọng, nghiêm túc.
 
Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A có phần bướng bỉnh, cố chấp, làm việc gì cũng quyết theo đến cùng, không bao giờ bỏ dở giữa chừng. Chỉ cần là việc đã quyết định thì dù có gặp phải khó khăn đến đâu, họ cũng vẫn kiên trì, luôn giữ ý chí vững vàng, không hề dao động, lung lay.

Người thuộc nhóm này tính tình ngay thẳng, chính trực, họ sẵn sàng hi sinh lợi ích bản thân vì chính nghĩa, chỉ cần là chuyện tốt thì không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ. Họ thích được giúp đỡ người khác, cũng thích hợp làm trợ thủ, lại rất mực trung thành nên dễ dàng được cấp trên tin tưởng.

Những người này thường không thích nói xấu sau lưng, nếu bắt gặp ai đó đang kể xấu người khác, họ sẽ lập tức tỏ thái độ bất bình. Nếu người bị đàm tiếu là bạn bè của họ thì họ sẽ tức giận như chính mình bị chê bai. Người tuổi Sửu nhóm máu A có khao khát kiểm soát, lãnh đạo người khác nên họ rất thích được người khác tin tưởng, dựa dẫm, đồng thời sẽ chăm sóc người ấy cực kì chu đáo.


Tinh cach nguoi tuoi Suu nhom mau A can trong chu dao hinh anh 3
 

Trong chuyện tình cảm, người thuộc nhóm này cũng luôn nghiêm túc, không bao giờ tỏ thái độ mập mờ với người khác. Họ không tin vào “tình yêu sét đánh”, cũng tuyệt đối chân thành về tình cảm, không có tính lơi lả, trăng hoa. Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A như vậy nên họ cũng yêu cầu rất cao trong tình yêu, đòi hỏi đối phương phải một lòng một dạ với mình. Nữ giới thường thích mẫu người tính cách thông minh cương trực, phóng khoáng lạc quan. Còn nam giới hay có cảm tình với những cô gái độc lập tự tin, lanh lợi giỏi giang.
 
Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A và nghề nghiệp của họ có mối liên hệ mật thiết. Họ là người trọng hình thức và luôn tìm kiếm sự ổn định, không mơ mộng viển vông mà sẵn sàng chịu khó chịu khổ, kiên trì nhẫn nại để hoàn thành mục tiêu đã đặt ra. Họ cũng có phần cứng nhắc, luôn tuân theo quy tắc, lại có chút điên cuồng, sẵn sàng làm mọi việc để bảo vệ lý tưởng của bản thân. Khi gặp thách thức, dù khá để tâm đến ý kiến của người khác nhưng không vì vậy mà lung lay ý chí, quyết tâm đi theo con đường mình đã chọn.
 
Ngoài ra, người nhóm này là mẫu người độc lập, cá tính, họ không quan tâm đến những chuyện không liên quan đến bản thân. Tuy là người khá lạnh lùng song với bản tính thiện lương, họ không bao giờ làm những chuyện gây tổn hại đến người khác, cũng không cố ý gây khó dễ với bất cứ ai.
 

Ưu điểm người tuổi Sửu nhóm máu A


Người tuổi Sửu nhóm máu A luôn cẩn thận, chu đáo trong mọi việc, suy nghĩ cũng chín chắn hơn người. Tính cách như vậy nên họ luôn được mọi người tin tưởng và quý mến. Trong công việc, họ luôn hoàn thành tốt công việc và được cấp trên đánh giá cao. Họ không từ chối bất cứ việc gì, không ngại khó ngại khổ, dồn mọi tâm sức để thực hiện, vì thế mà công việc luôn được suôn sẻ, đạt được mục tiêu đã đề ra. 


Tinh cach nguoi tuoi Suu nhom mau A can trong chu dao hinh anh 2
 

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A ngay thẳng, chính trực, tuy lạnh lùng, không hay biểu lộ tình cảm song lại thích giúp đỡ người khác, chính vì thế mà họ có không ít bạn bè. Họ là người trọng tình cảm, sẵn sàng hy sinh lợi ích của bản thân vì mọi người. Khi đã thiết lập quan hệ bạn bè, họ sẽ luôn quan tâm, đối xử chân thành với đối phương, dù không có điều kiện thường xuyên gặp gỡ thì vẫn luôn giữ mối quan hệ lâu dài. 
 
Trong tình yêu, người này luôn chân thành và chung thủy. Họ nghiêm túc suy nghĩ kĩ càng rồi mới quyết định bắt đầu mối quan hệ với người khác. Khi đã chọn được đối tượng yêu đương, họ sẽ một lòng chung thủy với người đó, tuyệt đối không bao giờ có thói trăng hoa.
 

Nhược điểm người tuổi Sửu nhóm máu A
 

Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A cẩn trọng, luôn cân nhắc kĩ càng trong mọi việc, nhưng cũng chính vì thế mà đôi lúc trở nên đa nghi, lo được lo mất, quyết định chậm chạp nên bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt. Có những việc dù nhỏ nhưng họ cũng cần xem xét nhiều lần, suy nghĩ mọi khía cạnh, khiến người khác cảm thấy mệt mỏi. 
 
Trong giao tiếp, họ không có cởi mở với người mới quen, dễ khiến người khác cảm thấy họ là người lạnh lùng, khó tiếp xúc. Người thuộc nhóm này cũng không thích thể hiện bản thân, họ thường giấu mình trước tập thể, không muốn trở nên nổi bật giữa đám đông. Ngoài ra, họ cũng là người khá nóng tính, khi tức giận hay lớn tiếng quát mắng, khiến mọi người e dè không dám lại gần. Tính cách có phần không ổn định như vậy nên đôi lúc chỉ vì một phút nóng nảy mà làm hỏng cả hình tượng xây dựng bấy lâu.
 
Những người nhóm này rất có cá tính, họ không bao giờ chủ động nịnh bợ người khác, cũng không miễn cưỡng bản thân kết giao với người mình không thích. Tuy nhiên, do không có thói quen chủ động bắt chuyện với người khác nên ngay cả khi gặp người mình có cảm tình, họ cũng hiếm khi lại gần làm quen. Trong tình yêu, họ cũng vẫn giữ tính cách lạnh lùng, ít bày tỏ tình cảm nên đôi khi khiến đối phương cảm thấy bị lạnh nhạt, bỏ rơi. 
 

Tài lộc người tuổi Sửu nhóm máu A
 

Do tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A khá cẩn trọng, không dễ dàng chấp nhận theo đuổi những việc mơ hồ hay không đảm bảo có thể thực hiện tốt, họ cũng là người bảo thủ và không dễ thay đổi nên hầu như trong suốt cuộc đời mình, họ hiếm khi mạo hiểm làm bất cứ chuyện gì, bỏ qua rất nhiều cơ hội phát tài.
 
Những người này cũng rất hiểu tính cách của mình, họ không bị ảnh hưởng hay dao động trước thành công của người khác mà kiên trì với con đường mình đã chọn, nỗ lực hết mình, nhẫn nại không mệt mỏi, từng bước từng bước dựa vào năng lực của bản thân để đạt được mục tiêu, nhờ đó nhận được sự đền đáp xứng đáng.
 
Đường tài lộc của người tuổi Sửu nhóm máu A tương đối bình lặng, phát về hậu vận, thường đến tuổi trung niên mới bắt đầu tốt dần lên. Những năm cuối đời là thời kì rực rỡ nhất, chuyện vui liên tiếp kéo về.


Tinh cach nguoi tuoi Suu nhom mau A can trong chu dao hinh anh 3
 


Tình yêu hôn nhân người tuổi Sửu nhóm máu A
 

Tình yêu
 

Người thuộc nhóm này thường rất nghiêm túc trong chuyện tình cảm. Họ không bao giờ bông đùa, trêu ghẹo tình cảm người khác. Họ là người thực tế, không tin vào “tình yêu sét đánh” hay “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Khi lựa chọn đối tượng yêu đương, họ không chỉ đơn giản dựa vào cảm xúc hay bị ảnh hưởng bởi ngoại hình của đối phương. Họ sẽ dành nhiều thời gian quan sát, tìm hiểu kĩ lưỡng về tất cả các yếu tố như phẩm chất đạo đức, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế, trình độ học vấn hay tương lai sự nghiệp. Sau khi cân nhắc kĩ càng, họ mới quyết định đi đến quan hệ yêu đương nghiêm túc.


Tinh cach nguoi tuoi Suu nhom mau A can trong chu dao hinh anh 3
 

Tình yêu của người tuổi Sửu
nhóm máu A cũng khá độc đáo, tuy không quá nồng nhiệt nhưng luôn có một ngọn lửa âm ỉ cháy. Họ không hay thể hiện tình cảm nhưng luôn quan tâm đến mọi nhu cầu của đối phương. Do tính cách người tuổi Sửu nhóm này cẩn trọng, thực tế nên trong tình yêu, họ cũng luôn yêu cầu có sự đảm bảo bền vững và ổn định. Những người này không bao giờ mù quáng, vì tình yêu mà đánh mất lý trí của mình.

Họ sẽ không bao giờ bỏ qua những vấn đề mang tính hiện thực. Người tuổi Sửu nhóm máu A không chấp nhận thái độ coi tình yêu như trò đùa của một số người. Nếu đối phương là người phù hợp với họ về mọi mặt nhưng lại thiếu trách nhiệm trong chuyện tình cảm thì họ cũng sẽ không lưu luyến mà chia tay. 
 
Người thuộc nhóm này là những người hết mình tình yêu, họ luôn khao khát một tình yêu chân thành, chung thủy và bền vững. Họ sẽ luôn quan tâm, chăm sóc cho người mình yêu. Trừ khi đối phương thay lòng đổi dạ, nếu không họ tuyệt đối không bao giờ có suy nghĩ lừa dối đối phương.
 

Hôn nhân


Nữ giới tuổi Sửu nhóm máu A thường rất giữ mình, không đồng ý quan hệ tình dục trước hôn nhân, ngay cả với chồng sắp cưới. Họ cũng luôn giữ khoảng cách nhất định với người khác giới nên đôi khi bị hiểu lầm là lãnh cảm, nhưng họ thực sự là mẫu người phụ nữ của gia đình. Sau khi kết hôn, họ thường được khen ngợi là “Mẹ hiền, vợ đảm”. Họ biết cách chăm sóc gia đình, luôn vun vén chu đáo cho tổ ấm của mình, ngay cả khi điều kiện kinh tế eo hẹp nhất. Tuy nhiên, trước những biến cố lớn như sự nghiệp của người chồng bị phá hỏng, họ thường không biết cách động viên, tạo động lực giúp chồng thoát khỏi cơn hoạn nạn. 
 
Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A vốn nghiêm túc, lạnh lùng nên không biết cách tạo không khí vui vẻ trong gia đình. Do đó, họ rất có thể gây khó chịu, căng thẳng cho bạn đời hoặc trở thành những bậc phụ huynh quá nghiêm khắc. Đặc biệt, nếu cuộc hôn nhân của họ có người thứ ba xen vào thì kết cục thường là đổ vỡ, bởi họ không chấp nhận sự lừa dối trong tình cảm.
 
Nữ giới nhóm này nên chọn bạn đời là người đàn ông thông minh, cương nghị, vui vẻ, lạc quan. Nam giới thì nên chọn bạn đời là người phụ nữ mạnh mẽ, năng động, thông minh, nhanh nhẹn. Nếu lựa chọn đúng đắn, cuộc sống hôn nhân của họ sẽ vô cùng hạnh phúc, gia đình và sự nghiệp đều ổn định, vững vàng.


Lời khuyên dành cho người tuổi Sửu nhóm máu A


Những chuyện mà người tuổi Sửu nhóm này đã quyết định thì rất khó thay đổi, họ bướng bỉnh, cố chấp, luôn cho rằng quyết định của mình là đúng đắn nhất. Nên linh hoạt hơn, chịu khó thay đổi để thích ứng được với những biến đổi của môi trường và hoàn cảnh xung quanh. Hãy nhún nhường hơn, đặt cái tôi của mình xuống để đón nhận và lắng nghe ý kiến của người khác.
  Hy Vũ
Tuổi Tý cung Kim Ngưu: thích quyền lực, si tình Bí mật hoàng đạo: Vận mệnh Thiên Bình nhóm máu O Xem tử vi đoán tính cách đàn ông, chọn bạn đời mười phân vẹn mười

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Sửu nhóm máu A: cẩn trọng chu đáo

Ngày Hoàng Đạo, giờ Hoàng Đạo là gì ?

Ngày Hoàng Đạo Hoàng đạo trong thiên văn cổ đại (còn có tên là Thiên Hoàng đạo) tức là quỹ đạo chuyển động của mặt trời trên bầu trời mà người xưa quan sát được.
Ngày Hoàng Đạo, giờ Hoàng Đạo là gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Qua quỹ đạo đó thấy đường đi của mặt trời trong một năm có những khoảng cách khác nhau, lấy quỹ đạo đó phân định mùa hè và khí tiết. Thuyết nhị thập bát tú cũng có nguồn xuất phát từ Hoàng đạo.

Các sao trên cung Hoàng đạo vốn không có hàm ý sao tốt hay xấu. Nhưng theo tâm lý của người xưa: Mặt trời tức là ông Trời. Mặt trời là vật hữu hình, ông Trời là vô hình. Mọi người mọi vật, mọi việc, mọi điều họa phúc trên đời này đều do ông Trời đầy đủ uy quyển quyết định. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm, trên đường đi của ông Trời qua từng chặng đường tất phải có các vị thần hộ vệ, mỗi vị thần là một ngôi sao, các thần có thần thiện thần ác, mỗi thần chuyên lo một việc do ông Trời giao phó. Vì vậy trong 12 giờ có 12 vị Thần sát, các vị Thần sát cũng luân phiên trực nhật mỗi vị một ngày trong tháng trong năm. Đường thần thiện đi gọi là Hoàng đạo, đường thẩn ác đi gọi là Hắc đạo.

Giờ hoàng đạo là gi? cách chọn giờ hoàng đạo

Theo phong tục cổ truyền, khởi đầu một việc gì, ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt còn phải chọn giờ tốt. Xuất hành, khởi công xây dựng, khai trương cửa hàng, bắt đầu đi đón dâu, đưa dâu, bắt đầu lễ đưa ma hạ huyệt đều phải chọn giờ Hoàng đạo tránh giờ Hắc đạo. Trừ trường hợp đặc biệt, ví dụ sắp đến giờ tàu xe xuất phát, nếu đợi giờ tốt có khi nhỡ kế hoạch; hoặc có giờ tốt, ngày tốt nhưng thời tiết rất xấu, chưa khởi công được... Nếu cứ quá câu nệ nhiều khi lại hỏng việc. Chúng tôi giới thiệu một phương pháp đơn giản, giúp các bạn không biết chữ Hán cũng có thể xem được giờ Hoàng đạo.

Trước hết xem công lịch để biết ngày hàng chi là ngày nào (từ Tý đến Hợi).

Một ngày đêm âm lịch là 12 giờ (2 tiếng đồng hồ là một giờ), bắt đầu là giờ Tý (chính Tý là 12 glờ đêm) theo thứ tự: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Mỗi câu lục bát sau đây có 14 chữ: Hai chữ đầu chỉ 2 ngày, chữ thứ 3 chỉ giờ Tý, chữ thứ 4 chỉ giờ Sửu, lần lượt theo thứ tự từ chữ thứ 3 đến chữ thứ 14 chỉ từ giờ Tý, Sửu, Dần, Mão... Xem trong bảng, thấy giờ nào có phụ âm đầu là chữ "d1' thì đó là giờ hoàng đạo. Phân tích tỷ mỉ hơn, đó là các giờ: Thanh long, Minh đường, Kim đường, Thiên lương, Ngọc đường, Tư mệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngày Hoàng Đạo, giờ Hoàng Đạo là gì ?

Xem tuổi ngũ hành –

BẢNG TRA TUỔI THEO NGŨ HÀNH Năm Năm âm lịch Ngũ hành Giải nghĩa Mệnh nam Mệnh nữ 1905 Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Khôn Thổ Khảm Thuỷ 1906 Bính Ngọ Thiên Hà Thủy Nước trên trời Tốn Mộc Khôn Thổ 1907 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Nước trên trời Chấn Mộc Ch

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vv1

BẢNG TRA TUỔI THEO NGŨ HÀNH

Năm Năm âm lịch Ngũ hành Giải nghĩa Mệnh nam Mệnh nữ
1905 Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1906 Bính Ngọ Thiên Hà Thủy Nước trên trời Tốn Mộc Khôn Thổ
1907 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Nước trên trời Chấn Mộc Chấn Mộc
1908 Mậu Thân Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khôn Thổ Tốn Mộc
1909 Kỷ Dậu Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1910 Canh Tuất Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Ly Hoả Càn Kim
1911 Tân Hợi Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Cấn Thổ Đoài Kim
1912 Nhâm Tý Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Đoài Kim Cấn Thổ
1913 Quý Sửu Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Càn Kim Ly Hoả
1914 Giáp Dần Đại Khe Thủy Nước khe lớn Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1915 Ất Mão Đại Khe Thủy Nước khe lớn Tốn Mộc Khôn Thổ
1916 Bính Thìn Sa Trung Thổ Đất pha cát Chấn Mộc Chấn Mộc
1917 Đinh Tỵ Sa Trung Thổ Đất pha cát Khôn Thổ Tốn Mộc
1918 Mậu Ngọ Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1919 Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Ly Hoả Càn Kim
1920 Canh Thân Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Cấn Thổ Đoài Kim
1921 Tân Dậu Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Đoài Kim Cấn Thổ
1922 Nhâm Tuất Đại Hải Thủy Nước biển lớn Càn Kim Ly Hoả
1923 Quý Hợi Đại Hải Thủy Nước biển lớn Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1924 Giáp Tý Hải Trung Kim Vàng trong biển Tốn Mộc Khôn Thổ
1925 Ất Sửu Hải Trung Kim Vàng trong biển Chấn Mộc Chấn Mộc
1926 Bính Dần Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khôn Thổ Tốn Mộc
1927 Đinh Mão Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1928 Mậu Thìn Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Ly Hoả Càn Kim
1929 Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Cấn Thổ Đoài Kim
1930 Canh Ngọ Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Đoài Kim Cấn Thổ
1931 Tân Mùi Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Càn Kim Ly Hoả
1932 Nhâm Thân Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1933 Quý Dậu Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Tốn Mộc Khôn Thổ
1934 Giáp Tuất Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Chấn Mộc Chấn Mộc
1935 Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Tốn Mộc
1936 Bính Tý Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1937 Đinh Sửu Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Ly Hoả Càn Kim
1938 Mậu Dần Thành Đầu Thổ Đất trên thành Cấn Thổ Đoài Kim
1939 Kỷ Mão Thành Đầu Thổ Đất trên thành Đoài Kim Cấn Thổ
1940 Canh Thìn Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Càn Kim Ly Hoả
1941 Tân Tỵ Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1942 Nhâm Ngọ Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Tốn Mộc Khôn Thổ
1943 Quý Mùi Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Chấn Mộc Chấn Mộc
1944 Giáp Thân Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khôn Thổ Tốn Mộc
1945 Ất Dậu Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1946 Bính Tuất Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Ly Hoả Càn Kim
1947 Đinh Hợi Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Cấn Thổ Đoài Kim
1948 Mậu Tý Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Đoài Kim Cấn Thổ
1949 Kỷ Sửu Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Càn Kim Ly Hoả
1950 Canh Dần Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1951 Tân Mão Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Tốn Mộc Khôn Thổ
1952 Nhâm Thìn Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Chấn Mộc Chấn Mộc
1953 Quý Tỵ Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Khôn Thổ Tốn Mộc
1954 Giáp Ngọ Sa Trung Kim Vàng trong cát Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1955 Ất Mùi Sa Trung Kim Vàng trong cát Ly Hoả Càn Kim
1956 Bính Thân Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Cấn Thổ Đoài Kim
1957 Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Đoài Kim Cấn Thổ
1958 Mậu Tuất Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Càn Kim Ly Hoả
1959 Kỷ Hợi Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1960 Canh Tý Bích Thượng Thổ Đất tò vò Tốn Mộc Khôn Thổ
1961 Tân Sửu Bích Thượng Thổ Đất tò vò Chấn Mộc Chấn Mộc
1962 Nhâm Dần Kim Bạch Kim Vàng pha bạc Khôn Thổ Tốn Mộc
1963 Quý Mão Kim Bạch Kim Vàng pha bạc Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1964 Giáp Thìn Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Ly Hoả Càn Kim
1965 Ất Tỵ Phú Đăng Hỏa Lửa đèn to Cấn Thổ Đoài Kim
1966 Bính Ngọ Thiên Hà Thủy Nước trên trời Đoài Kim Cấn Thổ
1967 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Nước trên trời Càn Kim Ly Hoả
1968 Mậu Thân Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1969 Kỷ Dậu Đại Trạch Thổ Đất nền nhà Tốn Mộc Khôn Thổ
1970 Canh Tuất Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Chấn Mộc Chấn Mộc
1971 Tân Hợi Thoa Xuyến Kim Vàng trang sức Khôn Thổ Tốn Mộc
1972 Nhâm Tý Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1973 Quý Sửu Tang Đố Mộc Gỗ cây dâu Ly Hoả Càn Kim
1974 Giáp Dần Đại Khe Thủy Nước khe lớn Cấn Thổ Đoài Kim
1975 Ất Mão Đại Khe Thủy Nước khe lớn Đoài Kim Cấn Thổ
1976 Bính Thìn Sa Trung Thổ Đất pha cát Càn Kim Ly Hoả
1977 Đinh Tỵ Sa Trung Thổ Đất pha cát Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1978 Mậu Ngọ Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Tốn Mộc Khôn Thổ
1979 Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa Lửa trên trời Chấn Mộc Chấn Mộc
1980 Canh Thân Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Khôn Thổ Tốn Mộc
1981 Tân Dậu Thạch Lựu Mộc Gỗ cây lựu Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1982 Nhâm Tuất Đại Hải Thủy Nước biển lớn Ly Hoả Càn Kim
1983 Quý Hợi Đại Hải Thủy Nước biển lớn Cấn Thổ Đoài Kim
1984 Giáp Tý Hải Trung Kim Vàng trong biển Đoài Kim Cấn Thổ
1985 Ất Sửu Hải Trung Kim Vàng trong biển Càn Kim Ly Hoả
1986 Bính Dần Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1987 Đinh Mão Lư Trung Hỏa Lửa trong lò Tốn Mộc Khôn Thổ
1988 Mậu Thìn Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Chấn Mộc Chấn Mộc
1989 Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc Gỗ rừng già Khôn Thổ Tốn Mộc
1990 Canh Ngọ Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Khảm Thuỷ Khôn Thổ
1991 Tân Mùi Lộ Bàng Thổ Đất đường đi Ly Hoả Càn Kim
1992 Nhâm Thân Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Cấn Thổ Đoài Kim
1993 Quý Dậu Kiếm Phong Kim Vàng mũi kiếm Đoài Kim Cấn Thổ
1994 Giáp Tuất Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Càn Kim Ly Hoả
1995 Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Khảm Thuỷ
1996 Bính Tý Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Tốn Mộc Khôn Thổ
1997 Đinh Sửu Giảm Hạ Thủy Nước cuối khe Chấn Mộc Chấn Mộc
1998 Mậu Dần Thành Đầu Thổ Đất trên thành Khôn Thổ Tốn Mộc
1999 Kỷ Mão Thành Đầu Thổ Đất trên thành Khảm Thuỷ Khôn Thổ
2000 Canh Thìn Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Ly Hoả Càn Kim
2001 Tân Tỵ Bạch Lạp Kim Vàng chân đèn Cấn Thổ Đoài Kim
2002 Nhâm Ngọ Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Đoài Kim Cấn Thổ
2003 Quý Mùi Dương Liễu Mộc Gỗ cây dương Càn Kim Ly Hoả
2004 Giáp Thân Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Khôn Thổ Khảm Thuỷ
2005 Ất Dậu Tuyền Trung Thủy Nước trong suối Tốn Mộc Khôn Thổ
2006 Bính Tuất Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Chấn Mộc Chấn Mộc
2007 Đinh Hợi Ốc Thượng Thổ Đất nóc nhà Khôn Thổ Tốn Mộc
2008 Mậu Tý Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Khảm Thuỷ Khôn Thổ
2009 Kỷ Sửu Thích Lịch Hỏa Lửa sấm sét Ly Hoả Càn Kim
2010 Canh Dần Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Cấn Thổ Đoài Kim
2011 Tân Mão Tùng Bách Mộc Gỗ tùng bách Đoài Kim Cấn Thổ
2012 Nhâm Thìn Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Càn Kim Ly Hoả
2013 Quý Tỵ Trường Lưu Thủy Nước chảy mạnh Khôn Thổ Khảm Thuỷ
2014 Giáp Ngọ Sa Trung Kim Vàng trong cát Tốn Mộc Khôn Thổ
2015 Ất Mùi Sa Trung Kim Vàng trong cát Chấn Mộc Chấn Mộc
2016 Bính Thân Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Khôn Thổ Tốn Mộc
2017 Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa Lửa trên núi Khảm Thuỷ Khôn Thổ
2018 Mậu Tuất Bình Địa Mộc Gỗ đồng bằng Ly Hoả Càn Kim


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi ngũ hành –

Phân nhóm theo ngày sinh 12 chòm sao

Ngày sinh 12 chòm sao quyết định tính cách một cách rõ nét. Ngoài 4 nhóm cung hoàng đạo theo nguyên tố theo đặc tính có 3 nhóm với những phẩm chất nổi bật.
Phân nhóm theo ngày sinh 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày sinh 12 chòm sao quyết định tính cách của họ một cách rõ nét. Ngoài 4 nhóm cung hoàng đạo theo nguyên tố nhóm Lửa, nhóm Nước, nhóm Đất và nhóm Khí; theo đặc tính có 3 nhóm với những phẩm chất rất nổi bật.   Theo chiêm tinh, ngày sinh 12 chòm sao chi phối, ảnh hưởng tới cuộc đời của họ thông qua việc quy định tính cách, quan điểm, thái độ. Ngoài ra, sự di chuyển của các hành tinh qua các cung cũng tạo ra vận mệnh, biến cố trong cuộc đời mỗi người. Mỗi nhóm cung có những nét riêng, thể hiện trong suy nghĩ và các hành động thường ngày.

ngay sinh 12 chom sao 1
 

1. Nhóm thống lĩnh – hành động

  Các chòm sao Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình và Ma Kết được xếp vào nhóm này bởi họ biểu hiện xu hướng thống lĩnh mạnh và có khuynh hướng hành động nhanh. Tuy xét về mặt tính cách và nguyên tố có rất nhiều sự khác biệt nhưng vị trí trên bản đồ sao quy định đặc định của họ nổi trội nhất ở điểm này.   Những người này dù tính cách thâm trầm như Ma Kết, sôi nổi như Bạch Dương, khéo léo như Thiên Bình hay dịu dàng như Cự Giải thì đều có ý chí mạnh, họ thích đi trước dẫn đầu và thường có những hành động mang tính chất quyết liệt, không có chuyện ngồi không nói suông. Các chòm sao này cũng có một chút mạo hiểm và đặc biệt là có năng lực thực tiễn.   Điểm yếu của nhóm thống lĩnh là bồng bột và nóng nảy, họ cũng không kiên trì mà chỉ hứng thú ban đầu. Họ sẵn sàng trả giá cao vì một việc mình thích nhưng sau đó khó quá thì bỏ qua, không tới nơi tới chốn nên đôi khi bỏ công vô ích hoặc vì lơ là mà bị người khác bỏ xa, tới khi quay lại thì đã công cốc rồi.  
Xem thêm bài viết Thổ lộ khuyết điểm khiến tình yêu tan vỡ của 12 chòm sao
 

2. Nhóm kiên định - ổn định

  Dựa vào ngày sinh 12 chòm sao, các cung Kim Ngưu, Sư Tử, Thiên Yết và Bảo Bình được xếp vào nhóm này. Nếu cung thống lĩnh thích đi đầu và chỉ huy, lăn xả thì nhóm kiên định là những người theo sau, có vị trí vững vàng, làm việc có tính toán và chỉ nhắm mục tiêu vào những thứ mà mình thực sự muốn.    Về bản chất, nhóm thống lĩnh thực sự muốn làm lãnh đạo nhưng thực tế người lãnh đạo thường là các chòm sao nhóm kiên định vì nhóm thống lĩnh hành động nhanh nhưng nóng vội, thường mất vị trí tốt vào nhóm kiên định tuy chậm hơn nhưng lại chính xác hơn. Đây cũng là những chòm sao giỏi chịu áp lực và bình tĩnh trước những tình huống khó khăn – phẩm chất cần thiết của người đứng đầu.   Tuy nhiên họ lại khá cứng đầu, chỉ thích ở trong vòng an toàn, ngại thay đổi. Họ muốn giữ nguyên hiện trạng thay vì cải cách. Họ cũng rất có chính kiến tới mức độc đoán, không nghe lời khuyên của những người xung quanh, cũng không chịu vận động nên đôi khi tụt hậu so với thời cuộc.  
Xem thêm bài viết Phản ứng của 12 chòm sao khi được hỏi “Bạn đang làm gì đó?”
 

3. Nhóm biến đổi – giao tiếp


ngay sinh 12 chom sao
 
Nhóm này bao gồm các chòm sao Nhân Mã, Song Tử, Xử Nữ, Song Ngư. Họ thường là người đứng ngoài cuộc quan sát những việc mà hai nhóm trên đã làm rồi đưa ra nhận định, nhận xét và đôi khi là cả hòa giải. Nhóm này tập hợp những chòm sao hoạt bát, giỏi thuyết phục, linh hoạt và dễ thích nghi.   Họ không ngại thay đổi, cũng không quá vội vàng, có thể thỏa hiệp và chọn phương pháp đối thoại thay vì đối đầu. Họ dung hòa được sự bồng bột của nhóm thống lĩnh và sự bảo thủ của nhóm ổn định. Nhóm biến đổi thích sự mới mẻ, thú vị, họ làm việc theo cảm hứng, tìm ra lý do để theo đuổi thì sẽ theo đuổi đến cùng. 

Xem thêm bài viết Khám phá cuộc sống độc thân vui vẻ của 12 cung hoàng đạo
  Nhược điểm của các chòm sao này là ba phải, bất nhất, đôi khi mất phương hướng với cuộc đời vì thay đổi quá nhanh. Họ cũng không phải là người chung thủy, khi cảm xúc tan biến họ sẽ ra đi nhanh, có cảm giác vô trách nhiệm, rũ bỏ mọi thứ để chạy theo niềm đam mê riêng, ích kỉ chỉ nghĩ tới bản thân mình.   Ngày sinh 12 chòm sao quyết định phẩm chất của họ, phát huy được thế mạnh và tiết chế nhược điểm sẽ mang tới những thành công trong cuộc sống. Nên nhớ phẩm chất này là không thể thay đổi nhưng có thể điều chỉnh cho phù hợp.
Bắt ngay cách khắc phục tính xấu của 12 chòm sao Hình mẫu nữ thần trong mơ của 12 chòm sao nam Bật mí cách lấy cảm hứng làm việc cho 12 chòm sao
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân nhóm theo ngày sinh 12 chòm sao

Điểm danh 4 chòm sao được thần tình yêu ưu ái nhất Tết trung Thu

Tết Trung Thu không chỉ là dịp gia đình sum vầy mà còn là thời gian cho đôi lứa hẹn hò, 4 chòm sao may mắn dưới đây số đào hoa rất vượng, được thần tình yêu ưu
Điểm danh 4 chòm sao được thần tình yêu ưu ái nhất Tết trung Thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Trung Thu không chỉ là dịp gia đình sum vầy mà còn là thời gian cho đôi lứa hẹn hò tình tự. Dưới ánh trăng vàng, khung cảnh lãng mạn, tình yêu thăng hoa, cảm xúc ngọt ngào, 4 chòm sao may mắn dưới đây có số đào hoa rất vượng, được thần tình yêu ưu ái nhất mùa Trung Thu năm nay. 


► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem danh 4 chom sao duoc than tinh yeu uu ai nhat Tet trung Thu hinh anh 2
 

Bạch Dương

  Bạch Dương vốn dĩ là người bận rộn, lúc nào cũng công kia việc nọ, nhiều khi quên mất cả việc tình cảm riêng tư của mình. Rất cần một cơ hội, một nhân duyên để chòm sao này gặp gỡ được ý trung nhân và Tết Trung Thu này chính là thời điểm có một không hai. Nhờ vượng số đào hoa nên Bạch Dương sẽ nhận được sự mai mối từ người thân, bạn bè, thậm chí là khách hàng, đối tác cũng rất gấp gáp muốn giới thiệu người yêu cho Bạch Dương. Quả đúng là Dương Dương nên xem lại đi, có phải bạn ế quá lâu rồi nên mọi người mới sốt ruột như vậy không.  

Song Tử

  Tết Trung Thu này, đã đào hoa còn đào hoa hơn, Song Tử sau khi kết thúc công việc sẽ tót ngay đi quẩy cùng chúng bạn. Thật tình cờ và thật bất ngờ, họ sẽ trúng “tiếng sét ái tình” với một người hoàn toàn xa lạ. Tất nhiên là Tử nhi chẳng chịu đứng từ xa ngắm nhìn rồi, nhất định sẽ đến bắt chuyện làm quen. Và thần tình yêu ưu ái, đào hoa vượng vận trợ giúp nên kế hoạch thành công trót lọt, cả hai tình ý ngọt ngào, sau mùa lễ là tay trong tay rồi.
Diem danh 4 chom sao duoc than tinh yeu uu ai nhat Tet trung Thu hinh anh 2
 

Nhân Mã

  Đào hoa tinh chiếu mệnh trong Tết Trung Thu, Nhân Mã có rất nhiều vệ tinh theo đuổi, người nào người nấy đều rất hấp dẫn, thú vị, có nhiều ưu điểm. Mấy khi được nhận sự ưu đãi lớn như vậy từ số phận, Nhân Mã hãy tận dụng triệt để nhé. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, phong lưu có cái sướng nhưng cũng có cái khổ, bạn nhất định đừng vì sự đa tình của mình mà làm khổ người khác, tất cả đều có chừng mực thôi nhé.  

Ma Kết

  Không ngờ phải không, chòm sao mặt sắt của chúng ta lại gặp đào hoa trong Tết Trung Thu này đấy. Và với con người cuồng công việc thì tất nhiên đối tượng sẽ xuất hiện ở công ty, cơ quan hoặc là đối tác của Kết Kết rồi. Tình yêu công sợ có nhiều thú vị nhưng cũng không ít cấm kị nhưng vì là người chỉn chu, nghiêm túc và rất rõ ràng như Ma Kết nên chẳng cần lo lắng đâu, bạn tự biết cách cư xử sao cho thỏa đáng mà. 
Top 5 sao nữ may mắn sở hữu ưu điểm “vạn người mê” Sai lầm trong tình yêu của 12 chòm sao nữ Phê bình 4 chòm sao bảo thủ cứng đầu, để người yêu ấm ức
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh 4 chòm sao được thần tình yêu ưu ái nhất Tết trung Thu

Nguyên tắc và định lý giải đoán lá số tử vi

Bài viết trình bày tóm tắt những kinh nghiệm giải đoán của tác giả Trần Việt Sơn. Mời mọi người cùng đọc!
Nguyên tắc và định lý giải đoán lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TRẦN VIỆT SƠN (tập hợp các kinh nghiệm cổ kim)

Trong số trước mở đầu loạt bài “Nguyên tắc giải đoán lá số tử vi”, chúng tôi đã cống hiến quý bạn những “chất liệu”, “dụng cụ” để quý bạn sử dụng trong việc giải đoán. Kỳ này chúng tôi xin nêu lên nguyên tắc đầu tiên để ước tính 1 cung Mạng hay hoặc dở, tức là 1 đời người nói chung tốt hoặc xấu.

Các nhà tướng số theo các sách cổ thường nêu lên 1 yếu tố lấy trong tử bình:

- Lấy can chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh rồi xét Âm Dương và xét các hành- Cùng Dương hay cùng Âm là tốt (nhất là cùng Âm thì cuộc đời an lành, không vận hạn)

- Không được thế thì năm Âm, tháng Âm cũng được

- Năm tháng ngày giờ sinh đều có hành (Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ). Nếu được năm sinh tháng, tháng sinh ngày, ngày sinh giờ là tốt. Nếu khắc nhau thì giảm kém

- Muốn xác định yếu tố đó, phải xem Vạn Niên Lịch và lại phải theo tiết khí chứ không theo tử vi. Vì phải xem Vạn Niên Lịch và theo nguyên tắc Tử Bình cho nên phức tạp. Bởi thế, nhiều cao thủ tử vi bỏ yếu tố đó và chỉ xét những yếu tố khác:

  1. Mệnh Cục tương sinh hay tương khắc
  2. Mệnh an tại cung Âm hay Dương
  3. Chính tinh thủ Mệnh tốt hay xấu, sinh hay khắc Mệnh
  4. Mệnh và Thân
  5. Mệnh và Phúc Đức
  6. Các trung tinh và hunh tinh quan trọng; Các vị thế chính để đoán mệnh
  7. Vòng Đại hạn

Hai yếu tố đầu không xác định vào chi tiết, chỉ nêu lên sự kiện tốt hơn lên hay giảm bớt đi. Các yếu tố 3,4,5,6,7 đi vào chi tiết, cho phép xác định nhiều sự kiện trong cuộc đời về hình tướng, sức khỏe, tính tình, công danh và việc làm, thế đứng trên bậc thang xã hội

Sau khi chúng tôi trình bày yếu tố, chúng tôi sẽ ngược trở lại để xếp đặt phép giải đoán chung

YẾU TỐ 1: MỆNH & CỤC

- Mệnh có hành, Cục có hành
- Hành Mệnh sinh cho hành Cục: tốt nhiều
- Hành Cục sinh cho hành Mệnh: tốt vừa
- Hành Cục khắc hành Mệnh: xấu vừa
- Hành Mệnh khắc hành Cục: xấu

Như người mệnh Kim, cục Thủy được tốt vì sinh. Bị giảm hay được tốt có nghĩa là giảm đi hay tốt hơn so với những giải đoán trên lá số. Sự giảm đi hay tốt hơn không được chính xác là bao nhiêu. Ở đây còn tùy kinh nghiệm. Nhiều cao thủ tử vi không quá chú trọng yếu tố này

YẾU TỐ 2: VỊ TRÍ CUNG MỆNH

Người ta gọi “Mệnh Dương cư Dương vị”, “Âm cư Âm vị” là tốt. Còn Mệnh Dương cư Âm vị, Âm cư Dương vị là kém tốt

- Các tuổi Tí, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất là tuổi Dương
- Các tuổi Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi là tuổi Âm
- Tuổi Dương mà Mệnh đóng ở cung Dương trên lá số là tốt
- Tuổi Âm mà Mệnh đóng ở cung Âm (tức các cung Sửu, Mão Tị, Mùi, Dậu, Hợi) là tốt
- Trái lại, tuổi Dương mà Mệnh đóng cung Âm, tuổi Âm mà mệnh đóng cung Dương là xấu

Tốt tức là tăng độ số tốt, xấu tức là giảm độ tốt

YẾU TỐ 3: CHÍNH TINH THỦ MỆNH

Ở cung Mệnh có 1 hay 2 chính tinh thủ Mệnh chỉ về vận mạng đại cương của người (vị trí cao thấp trong xã hội), hình tướng, tính tình, có thể luôn cả sự giàu nghèo, hướng đi trong đời, nghề nghiệp…Đó là cung quan trọng nhất

Đoán Mệnh, thật ra phải kèm luôn cả các yếu tố 4,5,6,7. Nhưng chúng tôi hãy chỉ xin nêu lên các yếu tố chính tinh thủ Mệnh.

Như đã ghi trong số trước, 1 chính tinh có 1 vị trí trên lá số, vị trí đó tốt giúp cho chính tinh có tất cả các hiệu lực, hay vị trí hãm khiến mất hết hiệu lực và có thể thành xấu nữa. Tùy theo vị trí, chính tinh có thể:

  • Nhập miếu: tốt nhất, sang nhất, có nhiều ảnh hưởng nhất
  • Vượng địa: tốt vừa, có ảnh hưởng
  • Đắc địa: tốt vừa, có ảnh hưởng
  • Hãm địa: tốt, bị vùi dập không ảnh hưởng hoặc có ảnh hưởng xấu
  • Ví dụ sao Thiên Lương thuộc hành Thủy thì ở cung Thân, Dậu thuộc Kim là được tốt vì Kim sinh Thủy; ở cung Hỏa là bị khắc (vì hỏa khắc Kim). Đó là do nguyên tắc ngũ hành

Tuy nhiên, vì 1 chính tinh còn Âm Dương, phương hướng, vả lại có những kinh nghiệm thêm vào, cho nên việc ấn định vị trí miếu hay hãm lại không hẳn theo hành. Theo bảng ghi, thì Thiên Tướng miếu tại cung Dần Thân, vượng tại Thì, Tuất, Ngọ, đắc tại Sửu Mùi Tị hợi, hãm tại Mão Dậu.

Có thể làm 1 cuộc so sánh: 1 chính tinh giống như 1 ông cò trọng nhậm ở 1 địa phương: địa phương đó thuận tiên, thích hợp thì ông Cò có thực quyền (nhập miếu, đắc địa); địa phương đó xấu, gặp nhiều người to chèn ép thì ông cò sợ sệt, không có quyền (hoặc có thể kể như ông cò về hưu). Nhưng chưa phải mệnh gặp chính tinh miếu mà là được ảnh hưởng tốt, cũng không phải gặp chính tinh hảm mà là xấu. Còn phải xét Âm Dương của chính tinh nữa. Tùy theo Âm Dương mà chính tinh có thể ảnh hưởng hay không.

Nếu mình tuổi Dương mà chính tinh là Dương thì chính tinh không ảnh hưởng vào mình (không khắc, cũng không sinh dưỡng tốt, kể như chính tinh trung lập đối với mình). Nhưng nếu chính tinh là Âm thì sẽ có trọn ảnh hưởng nếu nhập Miếu, vượng địa hay đắc địa, để ảnh hưởng tốt (sinh dưỡng cho Mệnh) hay xấu (khắc Mệnh).

Cụ Hoàng Hạc giải thích sự kiện Âm Dương theo Dịch Lý, cũng tương tự như các cực của 1 thanh nam châ,: cực Dương và Dương đẩy nhau, cực Âm và Âm đẩy nhau (tức không biết đến nhau, không ảnh hưởng vào nhau). Các cực Dương và cực Âm mà gặp nhau thì hút nhau tức là có ảnh hưởng vào nhau, sinh dưỡng tốt, hoặc là khắc xấu).

Như thế, về 1 chính tinh có tốt cho mình hay không cần phải xem chính tinh có vị trí tốt hay không (miếu vượng đắc hãm), chính tinh có Âm Dương để đạt ảnh hưởng vào đương số hay không, và chính tinh có hành khắc Mệnh hay sinh phò cho mệnh.

Vậy thì 1 chính tinh miếu vượng đắc địa phải có Âm Dương khác với Âm Dương của tuổi và phải có hành sinh cho hành của mệnh mới là tốt.

Ví dụ: người tuổi Mùi, tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh là Vũ khúc tại Sửu (miếu). Vũ khúc là Âm Kim, đồng với tuổi Âm thì Vũ khúc không có ảnh hưởng với tuổi Mùi.

Người tuổi Mão tức tuổi Âm, mạng Hỏa, chính tinh ở cung Mệnh tại Dần là Thiên Tướng (Dương Thủy). Tại Dần Thiên Tướng miếu, thuộc Dương là có ảnh hưởng với tuổi Âm, nhưng hành Thủy lại khắc mạng Hỏa. Vậy Thiên Tướng ở đây tuy là miếu nhưng lại khắc mạng.

(Trong kỳ sau, chúng tôi sẽ xin chiếu theo các lá số để luận về ảnh hưởng của các chính tinh trước khi xét các yếu tố 4,5,6,7)

....

Để xác định 1 mệnh là tốt hay xấu và tốt xấu nghiêng về những hướng nào (tốt là giàu, có công danh, có cuộc sống ngay lành không vận hạn; xấu là nghèo, hèn, hoang tàn, hay đổi thay….), chúng ta lần lượt nhận xét các yếu tố sau này trên cung mệnh:

  • Chính tinh miếu vượng, đắc địa có hành sinh cho hành mệnh hay hòa với hành mệnh là tốt nhất. Chính tinh hãm thì kém. Chính tinh tốt mà có hành khắc hành của mệnh thì kém. Tuy nhiên chính tinh hãm mà gặp Tuần triệt đồng cung thì lại tốt ra. Thái Dương Thái Âm hội hãm mà gặp Tuần Triệt hay Đào Hồng hỉ lại sang tốt
  • Nói tổng quát, chính tinh tại Mệnh tốt còn cần được thêm những bộ trung tinh tốt thì cuộc đời mới thật tốt. Nếu gặp những bộ turng tinh xấu thì cuộc đời bị giảm kém. Nếu chính tinh đã xấu còn bị nhiều hung tinh xấu thì cuộc đời xấu nhiều

Ngoài nguyên tắc ấy, còn những cách nêu lên những sự giải đoán khác biệt

MỆNH TỐT

Có mệnh tốt, cuộc đời giàu sang, học hành và công danh khá giả, nếu:
Chính tinh miếu, vượng, đắc địa, có hành dưỡng cho hành mạng, không bị những hung tinh vướng vào và được thêm những bộ sao tốt sau đây (càn được nhiều càng tốt nhiều)

  • KHÔI VIỆT
  • XƯƠNG KHÚC (ứng vào sự học hành, đỗ đạt cao);
  • KHOA QUYỀN LỘC (ứng vào công danh học hành tốt, có quyền, có lộc, hóa lộc chỉ về tài lộc do tay mình tạo ra)
  • LONG PHƯƠNG (chủ cuộc sống sang cả
  • TƯỚNG ẤN (chủ công danh)
  • TẢ HỮU (tuy nhiên Tả Hữu chỉ tăng thêm ảnh hưởng cho các sao tốt, trong trường hợp có nhiều cặp sao tốt. Nếu có nhiều sao xấu mà lại thêm tả Hữu thì lại không tốt)

MỆNH XẤU

Không có chính tinh tốt và hạp mạng, mà lại gặp những bộ sao xấu thì Mệnh kém, nhiều sự rủi, nhiều vận hạn:

  • KHÔNG KIẾP
  • KÌNH ĐÀ
  • LINH HỎA
  • SONG HAO
  • TANG HỔ
  • KHỐC HƯ
  • HÓA KỊ

NHỮNG CÁCH RIÊNG BIỆT ĐỂ XÁC ĐỊNH MẠNG

Vị trí cung Mệnh Thân: phải nhìn xem vị trí cung Mệnh so với các sao trong vòng Thái Tuế. Mệnh được Thái Tuế, Quan Phù, Bạch hổ là người ngay chính, hoạt động hợp với lòng mình và dễ đạt kết quả. Mệnh ở 1 cung đối diện với 3 sao trên là thường gặp nghịch cảnh, khó đạt sở nguyện. Mệnh ở 1 cung sau cung có 1 trong 3 sao trên (theo chiều thuận thì cung đó đứng sau cung có Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ) là người kém vế, đi làm cho người khác. Cung Mệnh ở 1 cung đứng trước cung có Thái Tuế, Quan Phù, bạch hổ là người hay lấn lướt người khác nhưng phải coi chừng ăn người khác rồi cũn dẫn đến thất bại vì gặp Thiên Không tại mệnh hay tam hợp mệnh

YẾU TỐ LỘC TỒN

Phải nhìn xem đương số có được hưởng lộc tồn hay không. Như người tuổi nào thì ghi cung đó và nhìn xem cung đó hay 2 cung tam hợp có Lộc tồn hay không. Không có Lộc tồn là không được hưởng lộc trời (lộc tự nhiên và bền vững, và hạnh phúc với cuộc sống lành, không tai nạn)
Cũng có thể là cung mệnh có Lộc tồn hoặc được Lộc tồn ở tam hợp chiếu về, cũng được hưởng Lộc tồn nhưng hạn chế.

YẾU TỐ VÒNG TRƯỜNG SINH

Phải nhìn xem cung mệnh được sao gì: Được Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Thai, Dưỡng là tốt. các sao còn lại là xấu

YẾU TỐ ĐÀO HỒNG, THIÊN KHÔNG

Phải nhìn cặp Đào hoa, hồng Loan và Thiên Không đứng với nhau tại Mệnh như thế nào:

  • Nếu mệnh tại dần Thân Tị Hợi có sao hồng Không là người lành, thiên vào việc tu tánh, tu đức. Mà tu được là tốt. gặp thêm Kiếp Sát càng phải rang tu để tránh vận hạn
  • Nếu mệnh có Thiên Không tại Thìn Tuất Sửu Mùi là cuộc đời sẽ đến 1 lúc sa sút nặng khi hạn đến
  • Nếu mệnh có Đào Hoa tại Tí Ngọ Mão Dậu thì ngoài tính chất của Đào hoa, còn có tính chất xảo quyệt

Về chi tiết các cách, xin đón coi kỳ giai phẩm tới.

******

Về các nguyên tắc giải đoán Tử vi, chúng tôi đã kể đến sự kiện Mệnh, Cục tương sinh hay tương khắc Mạng, đó là những yếu tố rất đại cương để tăng thêm độ số hay giảm hạ độ số.

Kế đó, chúng tôi đã lần lượt kể đến các nguyên tắc đi vào chi tiết để đoán Mạng của một người:

  • Vòng Thái tuế (để chỉ về tư cách và cung cách hoạt động của một con người).
  • Vòng Lộc tồn (để chỉ về một con người có được lộc trời không? Lộc trời là lộc được hưởng. Lộc tồn cũng chỉ về hạnh phúc, về sự tiêu tai giải hạn của một người.

Kỳ này, chúng tôi sẽ nêu lên những cách sao chính mà một cung Mệnh có thể gặp để thấy ngay cái tốt hay cái xấu của một vận mạng.

Ý nghĩa vòng Tràng sinh

Sao của vòng Tràng sinh gặp tại Mệnh chỉ về trạng thái, cấp bậc, trình độ sống của một người.

Vòng Tràng sinh gồm có: Tràng sinh, Mộc dục, Quan đới, Lâm quan, Đế vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Cách an các sao trong vòng Tràng sinh dễ đúng với nguyên tắc giải đoán sau:

  • Thủy cục và Thổ cục: dương nam và âm nữ, an thuận vòng Tràng sinh (cứ theo thứ tự 12 sao như trên) kể từ cung Thân. âm nam và dương nữ, an ngược lại kể từ cung Tý (chính Thủy)
  • Mộc cục: dương nam, âm nữ an thuận từ cung Hợi. âm nam, dương nữ an ngược từ cung Mão (chính Mộc).
  • Kim cục: dương nam, âm nữ an thuận từ cung Tỵ. âm nam, dương nữ, an ngược từ cung Dậu (chính Kim).
  • Hỏa cục: dương nam, âm nữ an thuận từ cung Dần. âm nam, dương nữ, an ngược từ cung Ngọ (chính Hỏa).

Giải đoán

Tùy theo cung Mệnh có sao nào của vòng Tràng sinh mà có một ý nghĩa (xin chú ý rằng đây chỉ là một yếu tố để còn phối hợp với các yếu tố khác). Thí dụ: được Đế vượng là được trạng thái sống rất tốt, rất thuận lợi, nhưng nếu các thế sao khác lại hỏng thì đương số được sự thuận lợi để đạt đến mức độ thấp kém hơn như các sao khác cho phép.

Mệnh gặp Tràng sinh (ngay tại cung Mệnh): khỏe mạnh, ít vận hạn, ra đời ở thế khác ngay.

Mệnh có Mộc dục, sinh ra ở trạng thái như tuổi dậy thì, có nhiều triển vọng để tiến.

Mệnh có Quan đới, Lâm quan, hay Đế vượng, có nhiều điều kiện dễ dàng đạt được những bằng cấp, chức vị.

Mệnh có Suy: cuộc đời sút kém, nhưng ít thôi (trạng thái vừa suy sau khi vượng tột bậc).

Mệnh có Bệnh: cuộc đời suy giảm hoặc có cản trở, có bênh làm suy giảm sinh hoạt (đại mạng như Khổng Minh, gặp Suy, cũng vẫn trở nên quan sựu vạn đại nhờ các thế sao tốt, nhưng cuộc đời bị suy giảm, gặp Bệnh cũng tương tự).

Mệnh có Tử: cuộc đời suy kém nhiều (làm nghề cao quý, cũng suy giảm).

Mệnh có Mộ: cuộc đời phẳng lặng ở chỗ tối (không chừng lại đạt hạnh phúc) vì không tham vọng và được sống yên.

Mệnh có Tuyệt: cuộc đời tầm thường, không được nhắc tới.

Mệnh có Thai: cuộc đời có những mầm hé nở để vươn lên.

Mệnh có Dưỡng: cuộc đời tốt, tu tâm dưỡng tính càng tốt.

Các thế chính tinh và trung tinh, hung tinh

Như đã nói mạng số muốn tốt, thì cung Mệnh cần phải có chính tinh miếu, vượng, đắc địa (có như vậy thì chính tinh mới sáng láng) nhưng hành của chính tinh đó cũng phải dưỡng cho Mệnh minh hay hòa thì mới tốt. Nếu chính tinh tốt mà lại khắc mình, thì xấu (còn xấu hơn cả là chính tinh hãm mà phù cho Mệnh của mình).

Vậy khi nói rằng người đó có Tham Vũ miếu tại Mùi là tốt lắm là chưa đủ, còn phải xét xem Tham Vũ đó có phù cho mình không mới được.

Chính tinh ở vào một cách nào đó, như cách Tử phủ vũ tướng, Sát phá liêm tham, Cự nhật, Cơ nguyệt đồng lương. Những cách đó không nhất thiết là tốt hay xấu, sở dĩ được nêu lên là để còn xét với những sự kiện khác, hoặc là để xét về đại vận ( như có Tử phủ, Vũ tướng, đến đại vận Sát phá liêm tham, là người có trí tuệ gặp thêm bàn tay làm việc như Cơ nguyệt đồng lương, gặp những sao nặng phá thì bị họa hại, trong khi Sát phá liêm tham lại không sợ).

Xét chính tinh, chưa đủ ấn định mạng số khá hay kém, mà còn phải xét xem các chính tinh đó được phò hay bị phá.

Nếu chính tinh tốt, mà lại gặp Tuần Triệt thì lại bị giảm kém. Nếu chính tinh hãm, gặp Tuần Triệt thì lại tốt ra.

Một chính tinh như Tử, Phủ gặp Không, Kiếp hãm thì lại bị hỏng nhưng Thiên tướng gặp Không kiếp lại không hề hấn gì. Chính tinh tốt và phò cho Mệnh là tốt, nhưng cũng phải thêm những sao như Khôi Việt, Xương Khúc, Long Phượng, Hổ Cái, Tướng ấn thì việc học hành mới giỏi, đỗ đạt cao, đường công danh tốt có chính tinh tốt mà gặp những hung tinh nặng như Không kiếp, Kình đà, Linh hỏa ở thế hại thì lại hỏng. Những hung tinh miếu vượng và nhập vào cách tốt thì lại được tốt.

Các cách thật phức tạp, kể hết ra thì đó là một cuốn tự điển giải đoán, mà có khi không thực tế bằng công trình nêu lên những nguyên tắc và các cách chính.

Bởi thế, chúng tôi sẽ chỉ nêu lên những nguyên tắc, kèm thêm một số những cách chính (như cách Hồng, Đào, Thiên không, các hung tinh, các trung tinh mạnh…) để quý bạn trông vào lá số thấy ngay những điều mình có thể giải đoán được.

Xin đón các kỳ sau các cách chính để giải đoán Mệnh.

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc và định lý giải đoán lá số tử vi

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tên đẹp cho bé sinh năm 2016

Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên và xem tên có phù hợp với con không nhé. Hãy xem gợi ý những tên đẹp cho bé...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cái tên nói lên tính cách con người. Hay con người tự rèn luyện mình cho giống với cái tên mình? Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định: tên gọi ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sự nghiệp sau này của đứa trẻ. Trong muôn vàn chuẩn bị khi đón bé chào đời, đừng quên nghĩ đến một cái tên và xem tên có phù hợp với con không nhé. Hãy xem gợi ý những tên đẹp cho bé sinh năm Bính Thân 2016 dưới đây:

ten-dep-2016

Tên đẹp cho bé trai sinh năm 2016 theo vần A – N

1. THIÊN ÂN Con là ân huệ từ trời cao

2. GIA BẢO Của để dành của bố mẹ đấy

3. THÀNH CÔNG Mong con luôn đạt được mục đích

4. TRUNG DŨNG Con là chàng trai dũng cảm và trung thành

5. THÁI DƯƠNG Vầng mặt trời của bố mẹ

6. HẢI ĐĂNG Con là ngọn đèn sáng giữa biển đêm

7. THÀNH ĐẠT Mong con làm nên sự nghiệp

8. THÔNG ĐẠT Hãy là người sáng suốt, hiểu biết mọi việc đời

9. PHÚC ĐIỀN Mong con luôn làm điều thiện

10. TÀI ĐỨC Hãy là 1 chàng trai tài dức vẹn toàn

11. MẠNH HÙNG Người đàn ông vạm vỡ

12. CHẤN HƯNG Con ở đâu, nơi đó sẽ thịnh vượng hơn
13. BẢO KHÁNH Con là chiếc chuông quý giá
14. KHANG KIỆN Ba mẹ mong con sống bình yên và khoẻ mạnh
15. ĐĂNG KHOA Con hãy thi đỗ trong mọi kỳ thi nhé
16. TUẤN KIỆT Mong con trở thành người xuất chúng trong thiên hạ
17. THANH LIÊM Con hãy sống trong sạch
18. HIỀN MINH Mong con là người tài đức và sáng suốt
19. THIỆN NGÔN Hãy nói những lời chân thật nhé con
20. THỤ NHÂN Trồng người
21. MINH NHẬT Con hãy là một mặt trời
22. NHÂN NGHĨA Hãy biết yêu thương người khác nhé con
23. TRỌNG NGHĨA Hãy quý trọng chữ nghĩa trong đời
24. TRUNG NGHĨA Hai đức tính mà ba mẹ luôn mong con hãy giữ lấy
25. KHÔI NGUYÊN Mong con luôn đỗ đầu.

Tên đẹp cho bé trai sinh năm 2016 theo vần (N – V)

26. HẠO NHIÊN Hãy sống ngay thẳng, chính trực
27. PHƯƠNG PHI Con hãy trở thành người khoẻ mạnh, hào hiệp
28. THANH PHONG Hãy là ngọn gió mát con nhé
29. HỮU PHƯỚC Mong đường đời con phẳng lặng, nhiều may mắn
30. MINH QUÂN Con sẽ luôn anh minh và công bằng
31. ĐÔNG QUÂN Con là vị thần của mặt trời, của mùa xuân
32. SƠN QUÂN Vị minh quân của núi rừng
33. TÙNG QUÂN Con sẽ luôn là chỗ dựa của mọi người
34. ÁI QUỐC Hãy yêu đất nước mình
35. THÁI SƠN Con mạnh mẽ, vĩ đại như ngọn núi cao
36. TRƯỜNG SƠN Con là dải núi hùng vĩ, trường thành của đất nước
37. THIỆN TÂM Dù cuộc đời có thế nào đi nữa, mong con hãy giữ một tấm lòng trong sáng
38. THẠCH TÙNG Hãy sống vững chãi như cây thông đá
39. AN TƯỜNG Con sẽ sống an nhàn, vui sướng
40. ANH THÁI Cuộc đời con sẽ bình yên, an nhàn
41. THANH THẾ Con sẽ có uy tín, thế lực và tiếng tăm
42. CHIẾN THẮNG Con sẽ luôn tranh đấu và giành chiến thắng
43. TOÀN THẮNG Con sẽ đạt được mục đích trong cuộc sống
44. MINH TRIẾT Mong con hãy biết nhìn xa trông rộng, sáng suốt, hiểu biết thời thế
45. ĐÌNH TRUNG Con là điểm tựa của bố mẹ
46. KIẾN VĂN Con là người có học thức và kinh nghiệm
47. NHÂN VĂN Hãy học để trở thành người có học thức, chữ nghĩa
48. KHÔI VĨ Con là chàng trai đẹp và mạnh mẽ
49. QUANG VINH Cuộc đời của con sẽ rực rỡ,
50. UY VŨ – Con có sức mạnh và uy tín.

Tên đẹp cho bé gái sinh năm 2016:

Ngọc Anh: Bé là viên ngọc trong sáng, quý giá tuyệt vời của bố mẹ
Nguyệt Ánh: Bé là ánh trăng dịu dàng, trong sáng, nhẹ nhàng
Gia Bảo: Bé là “tài sản” quý giá nhất của bố mẹ, của gia đình
Ngọc Bích: Bé là viên ngọc trong xanh, thuần khuyết
Minh Châu: Bé là viên ngọc trai trong sáng, thanh bạch của bố mẹ

Bảo Châu: Bé là viên ngọc trai quý giá
Kim Chi: “Cành vàng lá ngọc” là câu nói để chỉ sự kiều diễm, quý phái. Kim Chi chính là Cành vàng.
Ngọc Diệp: là Lá ngọc, thể hiện sự xinh đẹp, duyên dáng, quý phái của cô con gái yêu
Mỹ Duyên: Đẹp đẽ và duyên dáng là điều bạn đang mong chờ ở con gái yêu đó.
Thanh Hà: Dòng sông trong xanh, thuần khiết, êm đềm, đây là điều bố mẹ ngụ ý cuộc đời bé sẽ luôn hạnh phúc, bình lặng, may mắn.Gia Hân: Cái tên của bé không chỉ nói lên sự hân hoan, vui vẻ mà còn may mắn, hạnh phúc suốt cả cuộc đời
Ngọc Hoa: Bé như một bông hoa bằng ngọc, đẹp đẽ, sang trọng, quý phái
Lan Hương: Nhẹ nhàng, dịu dàng, nữ tính, đáng yêu
Quỳnh Hương: Giống như mùi hương thoảng của hoa quỳnh, cái tên có sự lãng mạn, thuần khiết, duyên dáng
Vân Khánh: Cái tên xuất phát từ câu thành ngữ “Đám mây mang lại niềm vui”, Vân Khánh là cái tên báo hiệu điềm mừng đến với gia đình.

Ngọc Khuê: Một loại ngọc trong sáng, thuần khiết
Diễm Kiều: Vẻ đẹp kiều diễm, duyên dáng, nhẹ nhàng, đáng yêu
Thiên Kim: Xuất phát từ câu nói “Thiên Kim Tiểu Thư” tức là “cô con gái ngàn vàng”, bé yêu của bạn là tài sản quý giá nhất của cha mẹ đó.
Ngọc Lan: Cành lan ngọc ngà của bố mẹ
Mỹ Lệ: Cái tên gợi nên một vẻ đẹp tuyệt vời, kiêu sa đài các.

Kim Liên: Với ý nghĩa là bông sen vàng, cái tên tượng trưng cho sự quý phái, thuần khiết
Gia Linh: Cái tên vừa gợi nên sự tinh anh, nhanh nhẹn và vui vẻ đáng yêu của bé đó
Thanh Mai: xuất phát từ điển tích “Thanh mai trúc mã”, đây là cái tên thể hiện một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng và gắn bó, Thanh Mai cũng là biểu tượng của nữ giới.
Tuệ Mẫn: Cái tên gợi nên ý nghĩa sắc sảo, thông minh, sáng suốt.
Nguyệt Minh: Bé như một ánh trăng sáng, dịu dàng và đẹp đẽ

Diễm My: Cái tên thể hiện vẻ đẹp kiều diễm và có sức hấp dẫn vô cùng
Kim Ngân: Bé là “tài sản” lớn của bố mẹ
Bảo Ngọc: Bé là viên ngọc quý của bố mẹ
Khánh Ngọc: Vừa hàm chứa sự may mắn, lại cũng có sự quý giá
Thu Nguyệt: Trăng mùa thu bao giờ cũng là ánh trăng sáng và tròn đầy nhất, một vẻ đẹp dịu dàng

Hiền Nhi: Con luôn là đứa trẻ đáng yêu và tuyệt vời nhất của cha mẹ
Hồng Nhung: Con như một bông hồng đỏ thắm, rực rỡ và kiêu sa
Kim Oanh: Bé có giọng nói “oanh vàng”, có vẻ đẹp quý phái
Diễm Phương: Một cái tên gợi nên sự đẹp đẽ, kiều diễm, lại trong sáng, tươi mát
Bảo Quyên: Quyên có nghĩa là xinh đẹp, Bảo Quyên giúp gợi nên sự xinh đẹp quý phái, sang trọng

Ngọc Quỳnh: Bé là viên ngọc quý giá của bố mẹ
Ngọc Sương: Bé như một hạt sương nhỏ, trong sáng và đáng yêu
Mỹ Tâm: Không chỉ xinh đẹp mà còn có một tấm lòng nhân ái bao la.
Phương Thảo: “Cỏ thơm” đó đơn giản là cái tên tinh tế và đáng yêu
Hiền Thục: Hiền lành, đảm đang, giỏi giang, duyên dáng là những điều nói lên từ cái tên này

Bích Thủy: Dòng nước trong xanh, hiền hòa là hình tượng mà bố mẹ có thể dành cho bé
Thủy Tiên: Một loài hoa đẹp
Ngọc Trâm: Cây trâm bằng ngọc, một cái tên gắn đầy nữ tính
Ðoan Trang: Cái tên thể hiện sự đẹp đẽ mà kín đáo, nhẹ nhàng, đầy nữ tính
Thục Trinh: Cái tên thể hiện sự trong trắng, hiền lành

Thanh Trúc: Cây trúc xanh, biểu tượng cho sự trong sáng, trẻ trung, đầy sức sống
Minh Tuệ: Trí tuệ sáng suốt, sắc sảo
Nhã Uyên: Cái tên vừa thể hiện sự thanh nhã, lại sâu sắc đầy trí tuệ
Thanh Vân: Bé như một áng mây trong xanh đẹp đẽ
Như Ý: Bé chính là niềm mong mỏi bao lâu nay của bố mẹ

Như vậy là bạn đã có thêm nguồn tham khảo để có thể chọn ra một cái tên đẹp nhất trong vô vàn những cái tên hay mà bạn muốn đặt cho đứa con sẽ chào đời trong năm tới rồi phải không? Hy vọng với phần chia sẻ cách đặt tên cho con trai, con gái sinh năm 2016 hợp phong thuỷ bố mẹ, bạn đã có thể lựa chọn cho bé yêu của mình 1 cái tên phù hợp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tên đẹp cho bé sinh năm 2016

Bát Tự luận Mệnh bí kíp (3)

Bài tập: Nhạc Phi:quý ất giáp kỷ Mùi mão tử tị Cùng một khác nam mệnh: quý ất giáp canh Mão mão dần ngọ
Bát Tự luận Mệnh bí kíp (3)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một người vốn là dân tộc anh hùng, minh tái sử sách, một người bình thường cán bộ. Bọn họ đích dụng thần đều là thủy, quý mão tạo tân hợi vận ất hợi năm lên chức chức. Hai người bọn họ vì sao giống như này đại đích khác biệt?

Đề kỳ: dụng "Có" cùng "Không có" đích lý luận.

Thứ mười kỳ, bát tự trung tam hình đích cái nhìn

Dần tị thân, sửu tuất mùi, tử mão tam hình, có thư trung nói gặp tam hình lấy hung đoạn, hơn nữa đem tam hình nói xong rất đáng sợ. Kỳ thật tam hình cùng loại vu lục xung, 《 Tích Thiên Tủy 》 nói hình vi hình động cùng hình khai, không nhắc tới kỳ hung. Dần hình tị, lấy mộc động hỏa, hỏa hỉ vượng thì cát, hỏa kỵ vượng thì hung; tị hình dần, dần động mà tiết, chủ dần viện đại biểu chuyện vật bị nạn, nếu dần vi kỵ phản chủ cát, nhưng dần vượng tị suy thì dần động; dần thấy thân cùng thân thấy dần lấy xung luận; mà tị thấy thân thì vi hình hợp, tị có thể đem thân hợp mang hình không có tác dụng, thân cũng có thể đem tị hợp bán mang hình, đánh mất tác dụng. Sửu tuất mùi tam hình cùng xung đích cái nhìn cực kỳ tương tự, gần thì hình phá hư mộ trung vật, xa thì có thể hình khai mộ khố mà được dụng. Tử mão hình vi bại hình, tử thủy đem mộc  cây hủ bại mà không dậy nổi sinh đích tác dụng; mão hình tử thì tử thủy chết vào mão, tử bị hao tổn thương.

Lệ càn tạo:

Kỷ đinh ất bính

Sửu sửu mão tử

Đại vận:

Bính ất giáp quý nhâm

Tử hợi tuất dậu thân

Này mệnh xem tử tức, lấy thực thương bính đinh vi con gái tinh, đinh thực thần vi tử, bính thương quan vi nữ. Thực đinh thấy sửu tài nhất định tiên sinh tử. Mà đại vận hành quý dậu vận kiêu thần đoạt thực, tình hình có khi thấy thương quan sớm tử khó khăn tồn đích tin tức, cố ngoài tử vu 10 tuổi thời chết vào bỏ mạng. Gặp tử mão hình, mão cùng tử lưỡng thương, cùng lúc nói rõ cả đời vi con gái mà thương tâm * lao; về phương diện khác tỏ vẻ có tử nhất định vi qua phòng, tử mão chi hình tị không cách nào hình thành huyết thống quan hệ, mão bị hình phá hư thê tử cũng không có cách tái sinh dục.

"Mệnh Lý Chỉ Yếu" và "Tích Thiên Tủy" là có đóng hình đích ví dụ rất nhiều, đệ tử tại đọc thời nói chú ý lĩnh hội tức có thể.

Bài tập: rất nhiều đệ tử đích dụng thần chưa vượt qua kiểm tra, cố ở lâu này phương diện bài tập.

Càn tạo:

Ất quý đinh mậu

Tị mùi sửu thân

Khôn tạo:

Giáp giáp quý tân

Ngọ tuất hợi dậu

Khôn tạo:

Bính quý tân quý

Dần tị dậu tị

Tốt nhất nói ra 2, 3 lệ này hai người vốn là đang làm gì.

Thứ mười một kỳ, thập can hỉ kỵ khái luận

"đạo đọc" ngàn dặm lãng một thiên Hác tiên sinh một câu khẩu quyết: giáp sinh dậu nguyệt hỉ thủy nhuận, ất sinh dậu nguyệt dụng hỏa công, là đúng giáp ất mộc tại thu sinh đích hỉ kỵ nhất tinh ích đích khái quát. Đối với thập can hỉ kỵ đích một lần nữa nhận thức vốn là bát tự lấy dụng thần đích mấu chốt! Rất nhiều đệ tử dùng  Lý hồng thành đích nhật chủ suy vượng pháp lấy dụng thần, có mấy người khuyết điểm, ⒈ có khi đối với nhật chủ suy vượng nhận thức không rõ;⒉ suy thời dụng ấn hay là dụng tỉ kiếp, hay là kiếp ấn cũng khả dụng nhận thức không rõ;⒊ nhật chủ vượng thời chỉ dùng để tiết hay là dụng khắc dụng háo không đổi nắm giữ;⒋ đối với một ít đặc thù cách cục, dụng thần cùng nhật chủ suy vượng không có vấn đề gì. Nhưng nếu như chúng ta vứt bỏ này đó, hết thảy cũng được dễ dàng hơn nhiều.

Giáp mộc sinh vu dần mão nguyệt, có thủy sinh trợ giúp có thể thành che trời chi mộc, dụng hỏa tiết vi nghi; nhưng đầu mùa xuân mộc nộn, nhất úy cường kim khắc hại, cố có "Giáp mộc che trời, thoát thai nên hỏa, xuân không tha kim" nói đến. Đặc thù tòng người mạnh, thì thấy hỏa nghi khứ ( như Nhạc Phi ); nếu xuân mộc không có thủy thì khô, phản không nên thấy hỏa.

Ất mộc sinh dần mão nguyệt, thì nghi thủy không nên hỏa, nghi kết đảng hội cục, loại tụ thành xu thế, có thủy thấy hỏa cũng cát.

Giáp ất mộc sinh mùa hè thì vi lúa giá, nhất nghi thấy thủy, có thủy thì quý, không có thủy thì bần.

Giáp ất mộc sinh trời mùa thu, như khẩu quyết trung viện nói "Giáp mộc hỉ thủy sợ thổ, ất mộc thì hỉ hỏa sợ thủy."

Giáp ất mộc sinh mùa đông vi hàn mộc, hoan hỷ nhất dụng hỏa tối cục điều hậu, không có hỏa thì bần tiện.

Bính đinh hỏa đích đặc điểm đối với bốn mùa cũng không hết sức mẫn cảm, sợ nhất ẩm ướt thổ hối hỏa, còn sợ táo thổ hối hỏa, ngộ này hai loại tình hình thì hỉ dụng mộc. Không có mộc thì bần tiện. Bính đinh hỏa thấy thổ không chủ tú khí, nguyên nhân thổ vi ngũ hành trung nhất tiện gì đó. Bính hỏa hình như mặt trời, sợ qua vượng mộc suy không có thủy thì đốt tẫn mà chết, cố bính hỏa nên ức ngoài tính chất, không thể trợ giúp ngoài uy. Đinh hỏa hình như chúc đăng, gặp tị ngọ tái sợ thấu bính thì đoạt ngoài quang; suy thời nhất nghi giáp ất sinh trợ giúp.

Mậu thổ như mặt đất, sinh vu xuân hoặc sinh vu thu ( không kể cả tuất nguyệt ) vi bạc thổ, yêu nhất bính hỏa mặt trời chiếu khắp. Sinh vu hạ người rất ít có thể có quý cách. Thấy tuất thổ thông căn thì ngoan cố, lại sợ thấy hỏa, nghi tiết chi háo chi vi nghi. Sinh vu đông càng hỉ thấy bính hỏa.

Kỷ thổ đối với bốn mùa cũng không hết sức mẫn cảm. Một bực như nhau vượng thì hỉ tân kim, suy thì hỉ lộc. Đinh vi kỷ thổ lộc, đa số kỷ thổ cũng hỉ đinh hỏa.

Canh kim vốn là một loại khó nhất nắm lấy gì đó. Nó ngoan cố mà thô tháo, sẽ thuận theo tính chất, sẽ nghịch ngoài tính chất, không thể cũng thuận cũng nghịch, thì tiện không thể nói. Tức, nên khắc hay dùng vượng hỏa, nên tiết hay dùng vượng thủy, nên sinh sẽ vượng chi ẩm ướt thổ; canh kim chế hóa thích hợp, tức có thể thành tài.

Tân kim vốn là một loại rất tú khí gì đó, nghi cẩn thận trân trọng. Hạ tân kim gặp khắc, hoan hỷ nhất thấy quý thủy; đông tân kim ngộ hàn, nhất nghi thấy đinh hỏa. Tân kim không nên nhiều, nhiều thì không tú, lại sợ thổ trọng, mai một mà không ánh sáng. Tân kim ái thực thần cùng lộc thần, rất ít ái ấn thụ đích tình huống.

Nhâm thủy yêu nhất dần mộc, suy thủy thấy dần mộc có thể dựa vào, vượng thủy thấy dần mộc có thể tiết tú. Nhưng không thích mão mộc. Đồng lý nó yêu thích giáp mộc, nhưng lại chưa chắc ái ất mộc.

Quý thủy âm trung chi âm, nếu như có thể tòng mộc hỏa hoặc hóa khí vốn là tốt nhất bất quá đích. Một bực như nhau thấy canh tân thân dậu chi kim trợ giúp, bất quá bình thường mệnh mà kỷ.

Lấy thượng viện thuật, chỉ là thập can hỉ kỵ đích một bực như nhau cái nhìn, thiết không thể dùng làm tử che. Hác tiên sinh nói, mỗi một can đều có nó hỉ đích cùng kỵ gì đó, nhân tiện tượng người của chúng ta  đích tính cách giống nhau, thập can là có người tính chất gì đó, thiết không thể dụng một loại suy vượng đích khuôn mẫu đến che, như vậy ngươi vĩnh viễn không cách nào hiểu rõ nó. Có thể thấy được mệnh học đích khó khăn điểm cùng yếu điểm tại "Nghiền ngẫm" nhân tính thượng.

Mệnh học lớn nhất đích lầm lẫn vốn là không biết chúng ta nhất trụ cột tựa hồ nhất hiểu biết gì đó.

Bài tập: càn tạo:

Giáp bính bính giáp

Tử dần dần ngọ

Nói ra hắn đích quý tiện và dụng thần, này nói đề tài dường như khó khăn, ta khảo qua người khác, rất ít có trả lời đích.

Thứ mười nhị kỳ   mệnh đàn sai luận

A, có sai nhất định củ

Ta đề xướng mệnh học nghiên cứu trung đích thảo luận cùng biện bác, có đệ tử phát hiện ta tác phẩm trung đích một ít sai lầm, phi thường tốt. Hiện đem sai đích địa phương đưa ra tu chỉnh.

1, tại thứ hai giữa kỳ có một gã nói: "Đại vận xung bát tự cực vượng chi thần không vi xung vượng, cát hung ứng xem tình huống. Bát tự trung vốn có hung thần không có chế hóa, tại đại vận trung đắc căn chủ đại hung; bát tự trung vốn có hung thần bị chế hóa, tại đại vận trung đắc căn chủ khứ hung thần chi ứng kỳ, chủ cát." Có đệ tử yêu cầu giơ lệ.

Lệ: 《 Mệnh Lý Chỉ Yếu 》 như nhau (161 trang ):

Càn tạo:

Đinh nhâm nhâm tân

Sửu tử thân hợi

Đây là mỗ thị trưởng. Hành bính ngọ vận đại vận xung bát tự trung cực vượng chi tử thủy, nguyên cục trung kỵ thần đinh hỏa bị nhâm thủy hợp khứ, nay gặp kỵ thần đắc căn to lớn vận chủ kỵ thần chế hóa đích ứng kỳ ( thực tế này tạo đích đinh hỏa không vi kỵ thần, ứng gọi là "Kẻ trộm thần ", phía sau có tế nói ). Này vận lên chức cho dù giáo ủy chủ nhiệm, sau khi lên chức thị trưởng.

2, đáng đệ tử thêm phát hiện 《 Mệnh Lý Chỉ Yếu 》 trung 《 người giám 》 bộ phận, có mệnh đích giải thích tồn tại vấn đề. Quả thật, ta làm này thư thời tại ba năm trước đây, khi đó ta đối với một ít vấn đề chưa chuẩn bị rõ ràng, không thể quá khứ đích giải thích vi "Pháp" . Đệ tử khả dụng bây giờ đích quan điểm phê phán tính chất mà đi xem 《 người giám tân giải 》. 《 cách cục thông biện 》 bộ phận sai lầm ít.

Triệu bỉnh quân lệ:

Mậu ất nhâm ất

Ngọ sửu thân tị

Đại vận canh ngọ, lưu niên ất tị. Tị thân hợp bán, tị sửu không có khả năng tái củng. Tuế vận ất canh kết hợp hợp khứ ấn tinh, sẽ không hợp vượng. Này tạo có thể thời thìn có lầm, có khả năng vốn là giáp giờ Thìn, dụng thần vi mộc, hàn mộc không dài, điều hậu dụng thần. Canh vận xung giáp, ất canh kết hợp khứ canh, chủ đại cát.

Trịnh hiếu tư lệ:

Canh canh bính mậu

Thân thìn ngọ tuất

Ất dậu đại vận, quý mão lưu niên. Mão dậu xung, nguyên văn trung nói xung động thái tuế mão trợ giúp nhật nguyên, đây là không đúng đích. Mão mộc không có gốc chủ bị xung phá, phản đem dậu kim kỵ thần xung động. Có thể này tạo thời thìn có lầm, kỷ giờ Hợi tượng. Nguyên cục bát tự không có ấn tinh vô luận như thế nào cũng không phải một làm quan đích, kỷ giờ Hợi ấn rơi quan trung, có thể làm quan. Như vậy ất dậu vận kỵ thần dậu kim hợp bán kỵ thần thìn thổ, chủ cát; quý mão hợi mão củng mộc, dẫn ra quan trung ấn tinh, mão có gốc sẽ không bị phá, phản có thể xung động dậu kim, thìn dậu kỵ thần hợp, xung năm vi ứng kỳ, chủ cát ( hợp trung hỉ xung chi ứng ).

B, mệnh đàn không phải là

Đương kim mệnh đàn "Đại sư" cao thủ rất nhiều, ta từng nhắc nhở đệ tử muốn học hội biện thức mệnh lý thật giả. Ta tại công khai trường hợp một bực như nhau không đi đánh giá người khác không phải là. Nhưng tại chúng ta đệ tử bên trong, có chút nói hay là muốn nói đích.

A mỗ đích thích mệnh hệ thống có nghiêm trọng sai lầm, không cần ta tế nói đệ tử cũng có thể phân biệt rõ, hắn đích đồ tử đồ tôn các rất nhiều, so với hắn mạnh hơn một ít. B mỗ học triết học sinh ra, hội bày ra, thiện biên ngụy biện, không có nghiêm cẩn đích quy luật gì đó. Hắn đích đệ tử đại khái gần vạn, không có nghe nói người theo hắn có thể học thành đích, một vị ở nơi nào ngây người nửa năm đích đồng hành theo ta nói, hắn bản thân căn bản sẽ không đoạn mệnh. C mỗ có thể thêm tỉ B mỗ cường một điểm, hắn cũng thiện biên ngụy biện, hắn thích đem đơn giản gì đó phức tạp hóa, đem phức tạp gì đó đơn giản hóa, ta xem không hiểu hắn làm đích thư. D mỗ so với bọn hắn hoàn lại cường một điểm, học thức độ sâu cùng ngộ tính cũng không cao, hoàn lại dường như thành thật, thích mệnh sơ hở tuy nhiều, còn có có thể lấy đích địa phương.

E mỗ vốn là đương kim đối với mệnh lý đích nhận thức cùng ngộ tính cao nhất đích một vị, hắn đích thư cũng hết sức có giá trị.

Đầu tiên, hắn lần đầu tiên đưa ra "Khứ kỵ thần thời được kỵ thần hỉ" đích trọng yếu mệnh lý tư tưởng, này một cái mặc dù Hác tiên sinh đoạn mệnh trung cũng thường sử dụng, nhưng hắn không có hình thành phổ biến áp dụng đích lý luận quy tắc.

Tiếp theo, hắn hữu ích rồi bát tự ứng kỳ đích cách, bát tự thực tế vốn là một người cát hung cùng ứng kỳ đích quy luật hệ thống, tại hắn trước tất cả đại lục đích mệnh sư cũng không có nhận thức đến điểm này. Ta là hai năm tiền ngộ đến đích, cùng theo Vương Hổ Ứng sư phụ học tập sáu hào có liên quan.

Lần nữa, đối với mệnh lý can chi hư thật và sắp đặt đích hữu ích, E mỗ nhận thức đến này một cái.

Nhưng E mỗ đích luận mệnh hệ thống cũng tồn tại nghiêm trọng không đủ.

Đầu tiên, hắn không nói bát tự đích tân chủ, mà thống thống nói hợp bán, như vậy dễ dàng xuất hiện khác biệt.

Thứ hai, chối bỏ điều hậu dụng thần, thực tế điều hậu vốn là hết sức ứng hiểm đích. Ta đến nay không biết dụng hắn đích lý luận, ta đích bát tự đáng thấy thế nào.

Thứ ba, đem tam hội cục nói thành hợp bán, đó là một nghiêm trọng sai lầm, cùng Tống Anh Thành đích "Gặp mộ kỵ yêu" rất tương tự.

Thứ tư, đem dụng thần kỵ thần cuối cùng thân hóa cùng tuyệt đối hóa. Hắn chối bỏ bát tự có đến gần thăng bằng đích kết cấu, chối bỏ nhàn thần đích tồn tại, hơn nữa xem lục thân cũng dụng hỉ kỵ thần, này cùng ta đích phương pháp bất đồng.

Thứ năm, hắn đem chính mình đích hệ thống dâng tặng tuyệt đối chính xác, không tha nạp đồ vật khác , đây là làm học vấn đích tối kỵ. Mệnh lý là có rất nhiều đặc thù gì đó, hội du cách vu quy luật chung ở ngoài, có rất nhiều đích lý cùng cách. Theo hắn đích đệ tử F nói, E mỗ đích chuẩn xác suất 70%. Mà thêm theo khác đồng hành nói, hắn cấp một vị mộ danh cầu trắc người chích đoạn được rồi 30%, cơ hồ nguyên nhân ngôn ngữ không đúng mà đánh lớn một trận. Có thể thấy được hắn thích mệnh hệ thống đích vấn đề rất nhiều.

Ta tùy theo giơ như nhau, quê quán của ta năm bàn xuất đích một vị nhân vật diêm tích sơn:

Càn tạo:

Quý tân ất đinh

Mùi dậu dậu sửu

Theo Hác tiên sinh nói, hắn đích manh người sư gia lưu khai thành tại diêm mười tám, chín tuổi đích lúc cho hắn tính qua mệnh, lúc ấy diêm cùng phụ thân việc buôn bán thất bại nghèo túng thời tính đích. Lúc ấy khuyên hắn nên xuất dương lưu học, tương lai có thể ngồi nửa bích thiên hạ, thêm khuyên hắn mọi việc không nên bốc lên đầu, như vậy hội gặp tới tai họa. Tiên sinh theo diêm nói: "Ấn mạng của ngươi ngươi nên phó ta 300 đại dương đích quẻ tiền, ta biết ngươi bây giờ không có tiền, đánh một nợ điều đi" . Diêm lúc ấy cũng không tin, tưởng rằng tiên sinh theo hắn hay nói giỡn, liền tiện tay đánh một 300 đại dương đích nợ điều. Vài chục năm sau khi, diêm làm đô đốc, lưu khai thành cầm nợ điều tìm được diêm, diêm vui vẻ xuất ra.

Này đoạn chuyện xưa ứng đáng có thể tín tính chất, bởi vì Hác tiên sinh có thể báo xuất diêm đích ngày sinh tháng đẻ. Cái này bát tự cùng thư trung lưu hành đích giờ Hợi thời thìn bất đồng, thực tế thư trung có lầm. Theo dân bản xứ nói, diêm mẫu mộng thấy một viên sao rơi vào nhà nàng đích củi phòng sau khi tỉnh lại sinh đích diêm, phụ hợp giờ sửu. Diêm mẫu tuyệt không hội ban ngày làm mộng.

Ấn E mỗ đích lý luận, diêm mệnh sát vượng thân cực nhược, ứng đáng tòng sát, lấy sát vi dụng tài vi hỉ. Ứng hỉ quan tinh vừa người. Thực tế diêm canh thân vận mọi sự không được, việc buôn bán thất bại. Phản tại mậu ngọ vận khắc sát chi vận làm đô đốc. Nếu như quý thủy vi kỵ mậu hợp khứ quý vi khứ kỵ, như vậy vì sao hắn ất tị vận vẫn như cũ có thể cầm quyền? Tại quân phiệt hỗn chiến rung chuyển đích năm tháng, diêm có thể chưởng quản Sơn Tây 36  nhiều năm, như thế nào giải thích hợp lý đây?

Vốn kỳ đích bài tập chính là: như thế nào hợp lý giải thích diêm tích sơn đích mệnh tạo.

Thứ mười ba kỳ, điều hậu chính giải

Điều hậu lấy dụng thần vốn là bát tự lấy dụng thần đích trọng yếu nội dung, nhưng rất nhiều thư trung nó đích giải thích cũng không thấu triệt, ta ở đây làm tân đích chính giải. Đầu tiên điều hậu nên trọng định nghĩa mới, tiếp theo điều hậu có nghiêm khắc đích sử dụng điều kiện.

Một, điều hậu lấy chi vu thời kỳ đích hàn ấm, táo ẩm ướt, lấy lễ làm là việc chính, xứng xem nó chi. Tức chỉ có đông sinh, hạ sinh dụng chi hàn ấm điều hậu; mùi, tuất nguyệt sinh gặp lại hỏa, sửu thìn nguyệt sinh gặp lại thủy dụng chi táo ẩm ướt điều hậu, khác xuân thu chi sinh không cần điều hậu.

Nhị, điều hậu giới hạn vu bộ phận thiên can mà không thích hợp vu tất cả thiên can. Giáp ất mộc đối với hàn ấm thời kỳ nhất mẫn cảm, cố phàm giáp ất mộc làm nhật chủ hoặc tác dụng thần, kỵ thần thêm đông sinh hoặc hạ sinh người đầu tiên lo lắng điều hậu. Tiếp theo canh tân kim đối với hàn ấm, táo ẩm ướt cũng rất mẫn cảm. Mậu kỷ thổ chuyển đổi hậu không mẫn cảm. Về phần bính đinh nhâm quý chúng nó thân mình đối với hàn ấm cũng không mẫn cảm, nhưng có ỷ lại mộc sinh, có ỷ lại mộc tiết, cố có mộc thời dụng điều hậu, không có mộc thời không xem điều hậu.

Tam, điều hậu đích cách dùng nên đồng dụng hỏa, dụng thủy khu tách ra đến, không thể hỗn làm một đàm. Tỷ như ba tháng vi thìn, dụng hỏa nói thìn thổ hối hỏa vừa là thủy khố, không cát, nhưng dụng điều hậu ba tháng xuân ấm hoa thiên, dương khí ban đầu tiến, thì cát. Cũng có đích bát tự vốn là vừa dụng hỏa, cũng dụng ấm điều hậu, hoặc vừa dụng thủy, cũng dụng hàn điều hậu, có thì đơn độc dụng một loại, đệ tử phải chú ý khu phân chúng nó đều tự đích cách dùng. Hiện trạch lệ mà nói: ( Lý hàm thìn 《 chân tung 》221 trang lệ )

Khôn tạo:

Kỷ đinh đinh nhâm

Hợi sửu mùi dần

Đại vận:

Mậu kỷ canh tân nhâm

Dần mão thìn tị ngọ

Đây là hàm Trữ một vị thị trưởng. Lý hồng thành nói thân nhược dụng hỏa, Lý hàm thìn nói tòng quan. Lý hàm thìn khẳng định nói đích không đúng, tòng quan, quan vi dụng thần, quan tinh nhâm thủy nhược vi hỉ thần nhược, quyết chủ không có quan; hơn nữa dần mộc trường sinh hỏa, thêm không gặp phá, đinh hỏa có khí có sinh, không thể tòng. Thực tế này tạo cũng không tòng quan, cũng không phải thân nhược dụng hỏa, xác nhận điều hậu dụng ấm. Đinh hỏa thân mình đối với thời kỳ không mẫn cảm, nhưng nó viện ỷ lại đích dần mộc nhưng lại rất hàn không dài, cố hỉ hành ấm mà, đại vận đoạn đường tẩu ấm, cố cát. Canh thìn vận mặc dù thìn thổ hối hỏa, nhưng chuyển đổi hậu đến nói nhưng lại cát, cố quyết không sẽ ở này vận xui xẻo, phản lấy cát đoạn. Có người sẽ nói ất hợi năm tị hợi xung hội xung khứ tị hỏa không cát, thực tế điều hậu dụng thần còn có một đặc tính, nhưng lại không sợ hình xung phá hại và hợp hóa biến chất, có hình đích ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ cũng sợ hãi bị phá hư điệu, duy có điều hậu vốn là một loại thời kỳ, một loại thời gian, vốn là vô hình đích, cho nên không sợ bị phá phá hư.

Thêm lệ giáp tạo:

Đinh nhâm đinh tân

Mùi tử tị hợi

Ất tạo:

Đinh tân ất đinh

Mùi hợi tị sửu

Đại vận:

Canh kỷ mậu

Tuất dậu thân

Giáp tạo dụng thần ứng nên mộc hỏa, ất tạo đích dụng thần vốn là điều hậu. Cũng nên có khác biệt. Canh tuất vận vốn là giáp tạo hỏa đắc căn, học tập nổi danh nhóm tiền vài tên; ất tạo ở đây vận vẫn trung bình. Kỷ dậu vận chi giáp tuất năm, giáp tạo dụng hỏa vô cùng tốt, này một năm khai trương rồi hán tử; ất tạo dụng giáp không cần tuất, tiền nửa năm xui xẻo, giáp tuất nguyệt sau lúc buôn bán lời mấy ngàn nguyên, khác biệt rất lớn. Đến ất hợi năm, giáp tạo dụng hỏa ất mộc có thể nhóm lửa, dậu bán tị, hợi xung tị, cát hung hỗ có, viện cát người hợi xung tị, dậu không thể bán tị, dụng thần xung xuất chủ cát, viện hung người hợi qua vượng thêm cuối cùng đem tị cũng xung điệu, kết quả tiền nửa năm buôn bán lời mười mấy vạn, sau khi nửa năm hán tử đóng cửa, nhận được quán tử. Mà ất tạo nhưng lại ở này một năm nhất xui xẻo, thu vào đặc biệt ít còn phải rồi một năm bệnh, ất tạo tòng 98 năm sau lúc dần dần ấm, trục năm chuyển biến tốt đẹp, giáp tạo cũng không thấy khởi sắc, tới canh thìn năm giáp tạo càng ngày càng tốt, hắn bình thản, phụ thân hoàn lại bị bệnh. Mậu thân vận vi thổ kim, đối với giáp tạo dụng điều hậu đến nói vốn là rơi vào ấm mà, mà ất nhưng lại chưa chắc có thể sống khá giả giáp tạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát Tự luận Mệnh bí kíp (3)

Chùa Bích Động - Ninh Bình

Chùa Bích động là một trong những điểm hấp dẫn nhất xứ sở du lịch này. Chùa Bích Động tọa lạc trên dãy núi đá vôi, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Chùa Bích Động - Ninh Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ninh Bình là xứ sở chùa chiền ở Việt Nam – khu điểm du lịch trọng điểm quốc gia Việt Nam. Chùa Bích động là một trong những điểm hấp dẫn nhất xứ sở du lịch này. Chùa Bích Động tọa lạc trên dãy núi đá vôi Trường Yên, xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Chùa Bích Động nguyên có tên “Bạch Ngọc Thanh Sơn Đồng” – có ý nghĩa một ngôi chùa bằng đá rất đẹp và trong trắng như ngọc ở nơi sơn cùng thủy tận. Chùa được xây dựng trên dãy núi đá vôi, đây là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu du lịch quốc gia Tam Cốc – Bích Động đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đây là một kiểu động phổ biến ở Ninh Bình, động Bích Động là một trong những thắng cảnh nổi tiếng được mệnh danh là “Nam Thiên đệ nhị động” – động đẹp thứ nhì của trời Nam chỉ sau động Hương Tích (Hà Tây cũ).

Chùa xây dựng vào sườn núi và được chia làm ba cấp gọi là: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, nằm trên dãy Ngũ Nhạc sơn, trên núi có hình tượng ông Quan Vân đội mũ cánh chuồn, ngắm nhìn bốn phía như đang chiêm ngưỡng và giới thiệu một thắng cảnh tuyệt đẹp của đất Hoa Lư. Phía trước là cánh đồng Tràng Thi và một dòng sông uốn khúc xuyên qua nhiều thung lũng và núi non hiểm trở, bao bọc xung quanh là dãy núi Phi Vân trùng điệp. Đây đã từng là nơi tập luyện thủy binh chống quân xâm lược Nguyên- Mông lần thứ nhất của đời nhà Trần.

Câu chuyện kể gắn liền với Bích Động bắt nguồn từ hai vị sư tên Trí Kiên và Trí Khê quê ở Nam Định trong hành trình thuyết pháp, truyền bá đạo Phật, năm 1705 dừng chân ở núi Bích Động khi ấy mới chỉ có một ngôi chùa nhỏ, đã quyên góp thập phương để xây dựng ba ngôi chùa dựa lưng vào vách núi, giữa thiên nhiên đất trời giao hòa đẹp lộng lẫy như hiện nay.

Bước vào chùa Hạ, một bức Đại tự bằng chữ Hán ở chính giữa có ghi “Thanh thản cổ mộ” – thanh bạch từ xưa đến nay. Trên cùng là tòa tam thế. Ba vị này là người biết trước được mọi việc ở ba thế giới khác nhau là Thượng giới, Hạ giới và Âm giới. Kế đến là ba vị Phật, ngồi chính giữa là đức Phật Di Đà, bên phải là Quan Âm Bồ Tát, bên trái là Đại Thế Trí Bồ Tát.

Vị ngồi hàng thứ ba, đầu đội vương miện là bà chúa Ba- Công chúa thứ ba đời vua Trang Vương đi tu đắc đạo thành Phật (còn gọi là Phật Bà nghìn mắt nghìn tay). Vị đứng thứ tư mặc áo đỏ, tay chỉ thiên, tay chỉ địa là Thích Ca Mâu Ni (còn gọi là Phật Tổ Như Lai). Người mặc võ phục đứng bên phải là Bát Đại Kim Cương, đứng bên trái là đại diện cho tứ trực công tào- coi xét việc chính sự trong giới nhà Phật. Cuối cùng là ba vị ngồi bên trái là Chí Kiên, Chí Thể và Chí Tâm đã có công thành lập và xây dựng nên chùa Bích Động. Hai tượng Phật đá bên ngoài là Nam Tào- Bắc Đẩu, coi xét sổ sanh tử. Tấm bia lớn bằng đá bên phải là tên những người đóng góp xây dựng chùa Bích Động.

Từ chùa Hạ bước lên khoảng hơn 100 bậc theo đường hình chữ S tới lưng chừng dãy núi Ngũ Nhạc là chùa Trung. Chùa này đã trải qua ba thời kỳ có tên khác nhau: thời kỳ đầu (1428) có tên là chùa Động, đến 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng, chùa này được mở mang, xây dựng thêm và được đặt tên là: Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng. Đến 1786 dưới thời vua Tự Đức được đặt tên là chùa Bích Động. Phía trên của mái chùa có mười chữ Hán màu vàng là: Giá Lam Thần Đại Hùng Bảo Điện Nam Thiên Tổ- nghĩa là tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ chùa Bích Động ra đi. Về mặt bài trí ở chùa Trung, Phật Tổ Như Lai có cửu long phù giá. Hai tượng ngồi phía ngoài là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền Bồ Tát, bên trong chính cung là Thánh hiền (ai muốn học hành thành đạt thì cầu vị này) v.v…

Ở chùa Trung còn có đường lên Động Tối. Ngay trước cửa động, một chiếc chuông đồng cổ kính với những đường nét chạm trổ rất tinh xảo. Nhìn ra phía ngoài là cầu Giải Oan. Hầu hết khách qua đây thường “thỉnh” lên ba tiếng chuông ngân nga như để “giải oan” cho tâm hồn mình ở nơi cửa Phật được thanh thản.

Trong động có ba pho tượng đá sừng sững uy nghi. Chính giữa là đức Phật Di đà, bên phải là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Quan Âm Thị Kính và hình tượng Lão Thọ bằng đá, biểu tượng cho sự trường tồn bất tử v.v…

Những bậc đá lên chùa Thượng được đẽo gọt, xếp thành 40 bậc cấp. Có thể nhìn thấy rõ đá được xếp thành tường trên cao để tạo thành một khoảng sân nhỏ trước chùa. Chùa Thượng chính là ngôi chùa đầu tiên được xây dựng ở Bích Động. Chùa nhỏ, bên trong chỉ có thể đứng khoảng năm người là chật. Cửa chùa đóng, nhưng có thể nhìn từ bên ngoài nhìn vào thấy thờ Phật Bà Quan Âm.

chùa bích động
Chùa Trung – Chùa Bích Động – Ninh Bình

Hai bên chùa có hai miếu thờ; hướng bắc thờ Sơn thần, hướng nam thờ Thổ địa. Cạnh chùa có một bể nước được gọi là “bể nước Cam Lồ”. Tục truyền, ngày xưa ở quanh chùa Thượng có loại cây tên Sơn Kim Cúc. Cây nở ra hoa màu vàng, cánh hoa nhỏ, phơi khô làm trà; người ta cho biết loại trà này là loại thuốc trị bệnh mắt mờ.

Bỏ ra một quãng đường khá dài dưới chân núi để lên chùa Thượng. Trong không gian phiêu bồng, bước chân qua cây cầu bao quanh hoa sen nở, rồi lên tận chùa Thượng đi tìm hoa Sơn Kim Cúc, ngắm nhìn núi Ngũ Nhạc giao hòa, đủ thỏa lòng một chuyến hành hương cổ tự giữa non sông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bích Động - Ninh Bình

Đền Trần - Thái Bình

Đền Trần Thái Bình là một khu di tích bao gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua Trần trên đất phát tích Thái Bình
Đền Trần - Thái Bình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu như du khách đã từng biết đến Đền Trần của Hải Phòng hay Đền Trần tại Nam Định thì ắt hẳn sẽ không nên bỏ qua Đền Trần Thái Bình – Một quần thể di trúc đền thờ và lăng mộ tọa lạc trên làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Đền Trần Thái Bình là một khu di tích bao gồm các đền thờ, lăng mộ thờ các vị vua quan nhà Trần. Đền thờ các vua Trần trên đất phát tích Thái Bình (còn gọi là Thái Đường Lăng).

Lịch Sử: Lịch sử ghi chép lại, vương triều nhà Trần có nhiều vị vua anh minh tuấn kiệt như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và rất nhiều tướng kiệt xuất như Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư… Thái Bình là vùng đất phát tích của vương triều Trần, vì cách đây hơn 700 năm, tại đây các vị vua khai nghiệp nhà Trần được sinh ra, gia tộc nhà Trần dựa vào đây dấy nghiệp.

Các vua Trần đã cho xây dựng một hành cung Long Hưng để tổ chức những đại lễ mừng chiến thắng và Tam đường là nơi lưu giữ hài cốt của các tổ tiên triều Trần như: Thuỷ tổ Trần Kinh, Thái tổ Trần Hấp, Nguyên tổ Trần Lý, Thái thượng hoàng Trần Thừa…

Khi các vị vua và hoàng hậu băng hà thì có tới trên một nửa được an táng tại quê nhà và đều được xây lăng miếu phụng thờ, trong đó Thái Đường Lăng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vị vua đầu triều Trần như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Các hoàng hậu sau khi qua đời đều được quy về hợp tác tại các lăng mộ như Thọ lăng, Chiêu lăng, Dự lăng, Quy đức lăng.

Năm tháng qua đi, lăng mộ ba vị vua đầu triều Trần và dòng sông Thái Sư vẫn còn đó. Hơn 7 thế kỷ, những di vật nằm sâu trong lòng đất Tam Đường đã được khai quật, giúp hậu thế tìm lại một quần thể kiến trúc lăng mộ, kiến trúc hành cung Long Hưng uy nghi, tráng lệ.

Đền Trần - Thái Bình
Trước điện – Đền Trần – Thái Bình

Kiến Trúc: Đền có diện tích rộng khoảng trên 5175m2. Đền thờ các vua Trần và Đức thánh Trần Hưng Đạo đã được xây dựng công phu, uy nghi bề thế toạ lạc trên nền phế tích nằm giữa trung tâm xã Tiến Đức với các hạng mục đã hoàn thành là toà hậu cung, toà bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hoá vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình kiến trúc liên quan.

Đây là một tổng thể kiến trúc rộng lớn, là nơi thờ tự các vua Trần. Các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian, như: không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến trúc dân tộc – kiến trúc đình làng. Riêng Toà hậu cung đền Trần là một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu chữ đinh, gồm hai toà tám gian, trên diện tích 359m2, được khởi dựng bởi sự tài hoa của những người thợ; sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động.

Lễ hội đền Trần Thái Bình đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào ngày 27/1/2014. Lễ hội đền Trần diễn ra vào ngày 13 đến 18 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Lễ hội Đền Trần Thái Bình là lễ hội lớn của tỉnh, được tổ chức hàng năm vào dịp đầu Xuân nhằm khẳng định và tôn vinh công lao dựng nước, giữ nước của Nhà Trần – triều đại phong kiến Việt Nam đã làm nên những trang lịch sử hào hùng ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên – Mông. Đây cũng là dịp để các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh thể hiện lòng tri ân với các bậc liệt tổ, các vị vua, các vị tướng, hoàng thân quốc thích Nhà Trần có công với đất nước, qua đó, giáo dục thế hệ trẻ truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Trần - Thái Bình

Kiến thức phong thủy. Thiết kế phòng ngủ cho bé giấc ngủ ngon –

Yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí. Nếu tác động đúng sẽ giúp bé ngủ ngon và có sức khỏe tốt. Giấc ngủ góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh lý của các bé. Vì vậy, phụ huynh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí. Nếu tác động đúng sẽ giúp bé ngủ ngon và có sức khỏe tốt.

Giấc ngủ góp phần không nhỏ trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh lý của các bé. Vì vậy, phụ huynh nên sắp xếp vật dụng trong phòng ngủ của bé hợp lý để tạo ra môi trường sinh hoạt lành mạnh cho con.

Các bậc phụ huynh thường cho rằng việc sắp xếp phòng ngủ của trẻ nhỏ không quan trọng, chỉ cốt sao để bé có không gian riêng, thoải mái là được. Tuy nhiên, theo phong thủy, với trẻ dưới 7 tuổi, yếu tố phong thủy duy nhất tác động đến bé trong giai đoạn này là cung Sinh khí (tượng trưng cho sức khỏe). Nếu biết cách tác động sẽ giúp không khí đối lưu trong phòng tốt nhất, tác động tốt đến sức khỏe của bé.

Không vi phạm điều cấm

f2fa71depositphotos1478747opt

Theo phong thủy, khi bố trí chỗ ngủ của bé, cần tránh:
– Đặt giường trực tiếp ngay cửa ra vào phòng hay gần cửa sổ vì luồng khí chênh lệch trong và ngoài phòng dễ gây bệnh, ảnh hưởng đến giấc ngủ của bé.

– Không để gương soi trong phòng vì sẽ gây ra từ trường nhiễu loạn khó kiểm soát, ảnh hưởng đến giấc ngủ.

– Tránh làm la-phông nổi hay xà nhà trong phòng bé vì sẽ tạo ra từ trường đè nén, khiến bé thường giật mình, khó ngủ.

Tránh vật sắc nhọn

– Hạn chế tối đa những vật dụng trang trí có nhiều góc nhọn. Theo phong thủy, những góc nhọn có thuộc tính Hỏa, không tốt cho cung Sinh khí trong phòng, đồng thời còn dễ gây chấn thương cho trẻ nhỏ vốn hiếu động.

– Nên sử dụng những vật dụng bằng gỗ, với các góc cạnh bo tròn để hạn chế tối đa tổn thương cho trẻ nhỏ.

Cẩn thận khi khử mùi

1838c9depositphotos10705692opt

– Khi bé ngủ dậy, hãy mở cửa và bật quạt trong phòng cho thoáng khí.
– Không nên sử dụng thuốc khử mùi vì chúng không tốt cho khứu giác của trẻ.

– Có thể dùng túi thơm hút ẩm làm từ thảo dược thiên nhiên để khử mùi.

– Có thể treo bình hồ lô trong phòng bé. Đây là vật phẩm phong thủy biểu tượng của sức khỏe, sẽ giúp bé ăn uống tốt, khỏe mạnh, tránh được bệnh tật.

Độ sáng phù hợp

20def6cachphoimausongdongvadep

Để ánh sáng trong phòng ngủ không ảnh hưởng đến mắt của bé, phụ huynh nên:
– Dùng loại đèn dây tóc, cho ánh sáng vàng ấm, nhiệt lượng tỏa ra hài hòa.

– Chọn vị trí đặt đèn sao cho ánh sáng tản đều khắp phòng, phả đều dễ chịu, độ sáng vừa phải.

Chú ý hướng gió

Phụ huynh cũng cần chú ý hướng thổi của quạt và máy lạnh trong phòng bé:

– Luôn để quạt xiên góc so với chỗ nằm, khoảng cách từ quạt/máy lạnh đến giường bé phải từ 1,5m trở lên để gió vừa đủ, không quá lạnh.

– Tránh đặt bé ngủ dưới quạt trần vì khi quạt quay sẽ sinh ra nhiều từ trường xấu, không tốt cho sức khỏe của bé. Bên cạnh đó, cánh quạt quay sẽ che một phần ánh sáng, gây hiệu ứng chớp-tắt, về lâu về dài sẽ gây hại cho mắt bé.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiến thức phong thủy. Thiết kế phòng ngủ cho bé giấc ngủ ngon –

Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

Hình dáng ngón chân là một trong những dấu hiệu giúp bạn phán đoán mình sẽ có vận giàu nghèo ra sao nhé!
Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón thứ hai dài hơn ngón cái

Đặc điểm này khá phổ biến. Nghĩa là đại đa số đều có ngón chân thứ hai dài hơn ngón cái. Điều này có nghĩa số mệnh giàu sang sẽ ít khi hỏi thăm bạn, nếu có thì sẽ đến rất muộn. Tuy nhiên, cuộc sống tiền tài của bạn ở mức hạng trung, không rơi vào tình cảnh khốn khó. Sở dĩ bạn có tố chất đứng lên lãnh đạo, nhưng tùy thuộc vào vận mệnh có hợp thời hay không để thăng tiến. Bạn còn mạnh mẽ, quyết đoán nên dễ dàng nắm bắt cơ hội kiếm tiền.

7-buoc-cham-soc-chan-5539-1442416576.jpg

2. Ngón chân thứ hai và thứ ba cách xa nhau

Nếu sở hữu hai bàn chân với đặc điểm này, điều đó có nghĩa bạn tinh tế, tỉ mỉ, khó nắm bắt và kiểm soát cảm xúc cực kỳ xuất sắc. Hơn nữa, bạn vô cùng nhanh nhạy trong việc hiểu suy nghĩ của đối phương nên thường có chiến lược giao tiếp, ứng xử sao cho mang lại thuận lợi. Vậy nên, ngay khi có nền tảng kinh tế để kinh doanh, bạn sẽ bắt nhịp và sớm gặt hái được thành quả to lớn. Sau này, bạn còn biết cách quản lý nguồn tiền và căn cơ chuẩn xác. Vận giàu sang sẽ đến với bạn.

3. Ngón chân thứ hai đổ dồn vào ngón cái

Số bạn có thể dư giả về kinh tế, nhưng lại thua thiệt về tình cảm. Bạn thuộc nhóm những người ủy mị, yếu đuối và sống thiên về hoài niệm cũ. Thậm chí, nhiều người tỏ ra khó chịu vì bạn liên tục nhắc về chuyện đã qua. Mặt khác, nếu không vướng bận vào tình yêu, bạn làm việc rất có trách nhiệm, chín chắn, nên dễ được đề bạt vị trí quan trọng trong sự nghiêp. 

4. Ngón chân út siêu nhỏ

Bạn sẽ không giàu sang về tiền bạc, mà là đại gia tình cảm. Nhờ vào vẻ trong sáng, thánh thiện và luôn thể hiện nét hồn nhiên, bạn gây thương nhớ cho rất nhiều người. Bạn được tin yêu và luôn đem lại cảm giác bình yên, thư thái cho người đối diện. Vậy nên, bạn sẽ được nhận được nhiều sự hậu thuẫn trong cuộc sống. Cho dù tiền bạc còn ít, nhưng bạn vẫn rủng rỉnh tình cảm để thấy mình hạnh phúc nhất thế gian.

Mr.Bull (theo ZB)

710201320531028601411461396-14-8692-6806 Đoán vận mệnh tương lai qua hình dáng tai

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phán mệnh giàu nghèo qua ngón chân

4 siêu cao thủ đàm phán của vòng tròn hoàng đạo

Kĩ năng đàm phán của các chòm sao dưới đây thuộc mức thượng thừa, gặp trường hợp nào cũng có thể khiến cho đối phương cúi đầu bái phục.
4 siêu cao thủ đàm phán của vòng tròn hoàng đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kĩ năng đàm phán của các chòm sao dưới đây thuộc mức thượng thừa, gặp trường hợp nào cũng có thể khiến cho đối phương cúi đầu bái phục.


4 sieu cao thu dam phan cua vong tron hoang dao hinh anh
 
Bạch Dương
 
Không có sự tính toán sâu sắc nhưng kĩ năng đàm phán của Bạch Dương lại tốt ở phương diện mạnh mẽ, quyết đoán và có sức nặng. Sự nhiệt tình, đanh thép, thậm chí có phần “hổ báo” của Cừu trong các cuộc thương lượng sẽ lấn át khí thế đối thủ, tạo cho họ thời cơ thừa thắng xông lên. 
 
Đối phương thường rất ngại phải co kéo với Bạch Dương vì phần thắng rất ít. Sự hiếu chiến của Bạch Dương dồn họ vào thế bị động, “cứng lưỡi”, nhưng khí thế hào sảng và quân tử của chòm sao này lại ghi điểm với đối tác.
 
Song Tử
 
Hoạt ngôn, nhanh nhẹn và biết nắm bắt thời cơ là những điểm mạnh để Song Tử trở thành cao thủ đàm phán. Họ thường trưng ra bộ mặt tươi cười, cởi mở, thoải mái nhưng “lời nói chứa dao”, một khi đến phần quan trọng nhất định sẽ dùng sự hiểu biết sâu rộng của mình cùng những lời lẽ “đè chết người” mà áp chế đối phương.
 
Đối phương hay bị Song Tử đánh lừa nên rất đề phòng, dù điều ấy chẳng mấy khi hiệu quả, vì Song Tử rất khéo léo.
 
Xử Nữ
 
Cẩn thận, chỉn chu và có trách nhiệm, Xử Nữ bước vào đàm phán với tâm thế của kẻ “biết người biết ta”, hiểu rõ từng chân tơ kẽ tóc của đối thủ. Năng lực làm việc cùng sự thận trọng của chòm sao này khiến họ không giờ bị bắt được điểm yếu hay sơ hở, đàm phán “trăm trận trăm thắng”.
 
Lối làm việc hoàn hảo, hiệu quả của Xử Nữ đặc biệt ghi điểm nên dù bị “ép” thì đối tác cũng rất tin tưởng.
 
Ma Kết
 
Chòm sao siêu cao thủ đàm phán tất nhiên không ai khác ngoài Ma Kết. Mọi điều các chòm sao trên có, Ma Kết đều hội tụ. Khí thế của Bạch Dương, sự khôn khéo của Song Tử, sự cẩn trọng của Xử Nữ, thêm vào đó là sự bình tĩnh và lí trí đặc trưng khiến ai cũng “ngán” khi phải đối đầu với chòm sao này.
 
Nhưng Ma Kết là chòm sao có năng lực, nên dẫu thua thì đối tác vẫn vui vẻ hợp tác thôi.
► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo, Horoscope được cập nhật mới nhất

Trần Hồng (Theo Horoscopecompatibility)

 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 siêu cao thủ đàm phán của vòng tròn hoàng đạo

Ý nghĩa sao Trực Phù

Sao Trực Phù ở Mệnh là người trực tính, ăn ngay nói thẳng, cho nên dễ bị đụng chạm, mếch lòng, hay bị rắc rối, bị ngăn trở mọi việc, sức khỏe kém, hay bị bệnh tật, lúc nhỏ èo uột, khó nuôi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Trực Phù

Ý nghĩa sao Trực Phù

Hành: Kim

Loại: Ác Tinh

Đặc Tính: Tật bệnh.

Là một phụ tinh. Sao thứ 12 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Ý Nghĩa Sao Trực Phù Ở Cung Mệnh:

Sao Trực Phù ở Mệnh là người trực tính, ăn ngay nói thẳng, cho nên dễ bị đụng chạm, mếch lòng, hay bị rắc rối, bị ngăn trở mọi việc, sức khỏe kém, hay bị bệnh tật, lúc nhỏ èo uột, khó nuôi.

Ý nghĩa của sao Trực Phù:

Trực tính, ăn ngay nói thẳng, không sợ mếch lòng hay động chạm do đó có nghĩa như không cẩn ngôn, vụng về trong lời nói. Nếu Thái Tuế đi liền với Trực Phù thì người đó vừa nói nhiều, vừa nói thẳng. - nhỏ mọn, hay câu chấp những tiểu tiết do đó có tính gian của kẻ tiểu nhân, nhỏ mọn, gian vặt, dùng mẹo nhỏ để hại người, nói xấu người.

 

Ý nghĩa của sao trực phù và một số sao khác:

Trực Phù, Thái Tuế: nói nhiều, nói thẳng và nói xấu

Trực Phù, Đế Vượng: ngụy quân tử, bề ngoài quân tử, bề trong tiểu nhân; có lời nói quân tử mà lòng dạ tiểu nhân

Trực Phù, Tử Vi: nghĩa tương tự như trên nhưng Tử Vi nặng về trung hậu nên giảm chế tính cách tiểu nhân của Trực Phù rất nhiều và mạnh hơn Đế Vượng. Nếu thêm Thiên Tướng hội họp thì cái dở giảm nhiều hơn nữa.

Trực Phù, Thái Tuế, Tang Môn: bất hòa, gây thù chuốc oán.

Trực Phù, Đào, Hồng, Cái, Phục, Tướng, Phá: dâm đãng

Các bộ sao trên nằm ở cung nào sẽ có ý nghĩa tùy theo cung đó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Trực Phù

Các đồ dùng trong văn phòng phải được xếp đặt như thế nào –

Xếp đặt bàn viết, có hai điểm cần chú ý: Một là, cần phải chú ý không được đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính. Hai là, chú ý đằng sau bàn làm việc cần có chỗ tựa, không được có khoảng trống quá nhiều. Để tránh đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xếp đặt bàn viết, có hai điểm cần chú ý: Một là, cần phải chú ý không được đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính. Hai là, chú ý đằng sau bàn làm việc cần có chỗ tựa, không được có khoảng trống quá nhiều.

file.419742

Để tránh đặt bàn làm việc đối thẳng với cửa chính, chủ yếu là vì khiến cho nhà lãnh đạo khi làm việc không dễ dàng tiếp nhận những âm thanh bên ngoài cửa đến mình và những soi mói của tiểu nhân; để tránh đằng sau ghế ngồi có quá nhiều khoảng không, chủ yếu là vì để khi nhà kinh doanh ngồi vào bàn xử lý mọi công việc có thể giảm đi những cảm giác không thật đằng sau lưng mình, tăng thêm độ tin cậy.

Đặt bàn làm việc yên một chỗ, trước bàn làm việc nên có một không gian tương đối mở rộng, theo cách nói của phong thủy là một khu sinh khí, có thể khiến cho lòng được mở rộng. Đồng thời, khoảng cách giữa bàn làm việc và cửa xa nhau, mà hơn nữa cửa lại ở vị trí góc chếch của phía trước bên trái bàn làm việc, có thể tránh những soi mói trực tiếp của người ngoài cửa và những tạp âm ở phía bên ngoài đem lại. Đằng sau của bàn làm việc là một bức tường kiên cố, bời vì bức tường đó sẽ giống như một dãy núi đem lại cảm giác vững chắc, lại khiến cho bàn làm việc cũng như có chỗ dựa.

Ngoài ra giữa bàn viết cần phải chú ý lựa chọn phòng có cửa sổ, đồng thời còn phải quan sát quang cảnh xung quanh ngoài cửa sổ, yêu cầu khi đứng gần cửa sổ nhìn ra xa, phía trước cửa sổ không nên nhìn thấy những vật giống như những ông khói… Ngoài điều nói trên, còn phải xem phía bên ngoài của cửa sổ có đường đi lại không, nếu có đường đi, tốt nhất là nên lựa chọn căn phòng khác. Bởi vì nơi có người đi lại, tiếng bước chân, tiếng cười nói, đều sẽ ảnh hưởng đến tâm lí khi làm việc của mọi người trong phòng. Hơn nữa, còn thường bị những ánh mắt soi mói của người ngoài cửa nhìn vào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các đồ dùng trong văn phòng phải được xếp đặt như thế nào –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd