Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Khám phá số mệnh của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số

Lục Thập Hoa Giáp là một trong những yếu tố tử vi quan trọng, dựa vào đó đoán định những đặc điểm cơ bản của đời người.
Khám phá số mệnh của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lục Thập Hoa Giáp là một trong những yếu tố tử vi quan trọng, dựa vào đó đoán định những đặc điểm cơ bản của đời người.


So menh cua Luc Thap Hoa Giap trong tu vi dau so hinh anh
 
Xem tử vi dựa vào Lục Thập Hoa Giáp chi tiết và cụ thể hơn xem chỉ dựa vào tuổi, vì nó còn luận cả Thiên can, nạp âm bên cạnh Địa chi.   11. Sinh năm Giáp Tuất (Chó khí tiết), năm Giáp Mộc, ngũ hành Thổ, nạp âm Sơn Thượng Hỏa: mồm miệng nhanh nhẹn, tấm lòng thanh thản nhưng không an nhàn, có quyền bính, túc trí đa mưu, thanh danh xán lạn, nhiều phúc lộc, người nữ vượng phu, có số giàu sang.   12. Sinh năm Ất Hợi (Lợn đi lại), năm Ất Mộc, ngũ hành Thủy, nạp âm Sơn Thượng Hỏa: thái độ làm người hòa thuận, còn nhỏ nhiều tai ương, cha mẹ có hình nhưng vì lễ bái nên không hại, vợ chồng hòa hợp, công bằng chính trực, chưa tới trung niên đã phát tài, con cái có khắc, chậm rãi thì tốt.   Những con giáp thích hợp ăn chay để tăng vận khí
13. Sinh năm Bính Tý (Chuột ngoài đồng), năm Bính Hỏa, ngũ hành Thủy, nạp âm Giản Hạ Thủy: là người có gan lớn, mưu lược, tuổi trẻ bình thường nhưng trung niên có thành tựu, về già tốt, người nữ nhiều lời nên họa từ miệng, biết an phận thì hạnh phúc.
  14. Sinh năm Đinh Sửu (Trâu trong hồ), năm Đinh Hỏa, ngũ hành Thổ, nạp âm Giản Hạ Thủy: thái độ làm người hòa thuận, vẻ ngoài phong nhã, tuổi trẻ ít tài lộc, về sau có tốt hơn nhờ con cái, con đầu lòng là gái thì vô cùng tốt, vợ chồng hòa thuận, người nữ vượng phu, biết quản lý gia đình.   15. Sinh năm Mậu Dần (Hổ vượt núi), năm Mậu Thổ, ngũ hành Hỏa, nạp âm Thành Đầu Thổ: thái độ làm người mãnh liệt, mau nóng mau lạnh, phản bội vô tình, tuổi trẻ cần kiệm, xa quê mới phát đạt, thông minh lanh lợi, lấy lễ đối đãi với người khác, tuổi già nhiều cơ hội, hạnh phúc.   Những chàng trai nói yêu là trọn đời trọn kiếp
16. Sinh năm Kỷ Mão (Mèo rừng núi), năm Kỷ Thổ, ngũ hành mộc, nạp âm Thành Đầu Thổ: thái độ làm người phong lưu, cả đời ăn sung mặc sướng, tự tại an nhiên, chơi đùa du ngoạn, người thân không giúp đỡ nhiều, anh em ít hòa thuận, vợ lớn tuổi nhưng hợp tính, người nữ thân tộc hiển đạt, có số trường thọ.
  17. Sinh năm Canh Thìn (Rồng đa nghi), năm Canh Kim, ngũ hành Thổ, nạp âm Bạch Lạp Kim: thái độ làm người vui vẻ hòa nhã, cả đời lao lực phong ba, có đường danh lợi song toàn, cơm áo đủ dùng, trung niên thuận, tuổi già phát đạy, người nữ cần kiệm.   18. Sinh năm tân Tỵ (Rắn ngủ đông), năm Tân Kim, ngũ hành Hỏa, nạp âm Bạch Lạp Kim: người cơ mưu, linh hoạt, ứng biến giỏi, chí khí hơn người, cơm áo đủ dùng, có quý nhân trợ giúp, trung niên hòa thuận, về già phát tài, sống thọ.   19. Sinh năm Nhâm Ngọ (Ngựa trong quân), năm Nhâm Thủy, ngũ hành Hỏa, nạp âm Dương Liễu Mộc: người cần kiệm, cha mẹ có họa, tai ách không thể tránh, tuổi trẻ có tiền nhưng không giữ được, về già mới phát đạt, tích lũy được nhiều, người nữ hưng gia, trưởng thành.   4 yếu tố tử vi nên xem trước khi quyết định kết hôn
20. Sinh năm Quý Mùi (Dê trong đàn), năm Quý Thủy, ngũ hành Thổ, nạp âm Dương Liễu Mộc: thái độ làm người nóng vội, lanh lợi, cứu người thì không được báo ơn, thị phi nhiều, phải nhờ vả người khác, có tiền nhưng không tích trữ được, coi trọng vật chất, người nữ hiền đức, quản tốt việc gia đình, về già bình an.

=> Tra cứu: Lịch âm 2016, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá số mệnh của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số

Người tuổi Tuất mệnh Mộc

Người tuổi Tuất mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Tuất 1958, 2018...
Người tuổi Tuất mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tuất mệnh Mộc là những người sinh năm Mậu Tuất 1958, 2018...

(Ảnh minh họa)

Họ thường thành thực, trung hậu và có hiểu biết rộng. Đây còn là người có tinh thần chính nghĩa, không ngại khó khăn khi giúp đỡ mọi người. Họ cũng sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân nếu cần thiết và vì vậy họ được nhiều người tin tưởng, yêu mến.

Người tuổi Tuất mệnh Mộc có thể trở thành bạn bè hoặc cấp dưới đáng tin cậy. Họ cũng có khả năng chịu đựng khó khăn, gian khổ. Khi đã xác định được mục tiêu họ sẽ tiến lên không ngừng nghỉ. Họ có khả năng hợp tác với người khác để làm nên sự nghiệp chung.

Là người rất có năng lực làm việc nhưng họ không phải là người có tài ăn nói. Họ cũng là người không thể giữ yên lặng trong thời gian dài. Tuy nhiên, vì không có khả năng biểu đạt nên họ thường chỉ có thể nói rất thẳng thắn ý kiến của mình về mọi việc. Nếu không làm được như vậy, họ sẽ cảm thấy rất cô độc.  

Nữ giới tuổi Tuất mệnh Mộc thường có tính cách khá mạnh mẽ, không thích hợp với vai trò "nội tướng" trong gia đình.

Nếu được sao tốt tương trợ, họ sẽ được hưởng phúc đức, tốt số và có thể sẽ được giàu sang. Nếu không được sao tốt tương trợ, tuy họ có được danh tiếng tốt nhưng thường không ổn định, nguyện vọng và kế hoạch đã định ra sẽ khó mà thực hiện được.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Tuất mệnh Mộc

Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương s

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tính ngày xung tuổi trên cơ sở thuyết Ngũ Hành với hai quy luật tương sinh và tương khắc giữa can với can và chi với chi. Biết rằng Ngũ Hành gồm Kim – Thủy – Mộc – Hỏa – Thổ. Mỗi Thiên Can và Địa Chi đều thuộc về một Hành nào đó và chúng hoặc tương sinh là: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim… Hoặc theo quy luật tương khắc là: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.

2011771450232

Ngoài quy luật tương sinh, tương khắc chung, các Địa chi còn phân ra sáu cặp Địa chi xung nhau rất mạnh. Đó là:

–     Dần xung Thân và ngược lại – Thìn xung Tuất và ngược lại.

–     Tị xung Hợi và ngược lại – Tý xung Ngọ và ngược lại.

–     Mão xung Dậu và ngược lại – Sửu xung Mùi và ngược lại.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc khác tính ngày xung tuổi –

Có những loại hình hộ nào không nên áp dụng làm nhà ở? –

Làm thế nào có thể chọn được một căn phòng lý tưởng, trở thành một vấn đề lớn đặt ra trước mắt chúng ta. - Dạng mũi khoan không nên chọn Hộ hình mà có hình dạng răng nhọn một bên, có vào có ra, rất quy tắc hoặc không quy tắc, những loại hộ hình này t

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Làm thế nào có thể chọn được một căn phòng lý tưởng, trở thành một vấn đề lớn đặt ra trước mắt chúng ta.

– Dạng mũi khoan không nên chọn

Hộ hình mà có hình dạng răng nhọn một bên, có vào có ra, rất quy tắc hoặc không quy tắc, những loại hộ hình này trong thực tế có rất nhiều, xin bạn chú ý rằng: Nếu bạn gặp phải những loại này, tốt nhất là không nên lựa chọn. Bởi vì từ mặt lý luận phong thủy, những căn hộ có loại hộ hình này là hung khí, không thích hợp để ở.

PlaschemP

– Dạng dao thái cũng không nên chọn

Hộ hình khi nhìn thấy dạng hình dao thái, giống như dạng mũi khoan ở trên, trong lý luận phong thủy, cũng cho rằng có tướng hung, không nên chọn ở.

– Dạng khẩu súng cũng không nên chọn

Dạng hình giống khẩu súng hoặc mũi súng thì không nên chọn.

– Dạng gấp khúc cũng không nên chọn

Hộ hình không nên gấp khúc, giống như vào mê cung vậy. Nhà ở là nơi chúng ta ở thường xuyên, không nên có những thu kỳ liệt diên (màu sắc kỳ lạ), nhà ở không phải là một quán rượu, không nên có những hình thù kỳ quái.

– Dạng hình hành lang cũng không nên chọn

Hộ hình hoàn toàn là một lối đi lớn, rộng không rộng, dài thì rất dài. không có lợi cho việc giao lưu giữa mọi người với nhau, đối với văn phòng thì cũng không nên.

– Dạng hình một thành hai

Hành lang cát giữa phòng thành hai phần, loại bố cục này không có lợi cho việc điều hòa giao tiếp, dễ dẫn đến thị phi, khiến người ở trong đó cũng cảm thấy tâm tường buồn chán hỗn loạn, nhất là khi sự không thành sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần.

Lối đi trong phòng không thể xuyên khắp cả phòng mà chia phòng thành hai nửa, nếu không thì không có lợi.

– Dạng hình chữ “hồi”.

Hình chữ “hồi” của lối đi hành lang cũng không có lợi cho trạch vận. Do những loại gian phòng này dễ dẫn không khí trong phòng lưu thông tuần hoàn, không thể trực tiếp trao đổi không khí trong lành ở bên ngoài, giống như có sự cách biệt với thế giới bên ngoài, khiến người ta cảm thấy cô lập, đều không có lợi đối với việc thu thập thông tin và chất lượng căn phòng. Bước vào những căn phòng hình chữ “hồi” sẽ có cảm giác không có đường đi vậy.

– Mở cửa sổ trời không nên (một dạng giếng trời bằng kính)

Kiến trúc nếu có diện tích lớn hoặc kiến trúc ba mặt đều không có cách nào lấy ánh mặt trời, rất nhiều nhà kiến trúc thiết kế ra những cửa sổ trời ở giữa trung tâm nhà, điều này là những lỗi sai lầm lớn của các nhà kiến trúc không hiểu biết về phong thủy.

Trong một căn nhà thì tuyệt đối không được đặt cửa sổ trời lấy ánh sáng ở giữa trung tâm của nhà, điều này giống như tim của một người đang banh ra. Chính vì vậy sẽ dẫn đến sức khỏe của mọi người sống trong căn nhà gặp trở ngại, hơn nữa vấn đề sự nghiệp tài vận cũng không tốt.

Vậy nên khi có những bố cục quy hoạch như vậy, chỉ cần tìm cách đậy giếng trời lấy ánh sáng đó lại thì hoàn toàn có thể hoá giải. Nếu mà ba mặt ngôi nhà đều không có cách lấy ánh sáng bên ngoài, thì kiến nghị rằng nên làm một cửa sổ trời ở mé hẹp của căn nhà là tốt nhất, tuy nhiên cửa trời cùng không thể mở rộng quá.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có những loại hình hộ nào không nên áp dụng làm nhà ở? –

Luận về sao Thất Sát

Thất Sát trong hệ Nam đẩu, thuộc âm hỏa âm kim còn gọi là hỏa hoa chi kim, như sắt nung đỏ bắn ra những hoa lửa, chủ về sinh sát, tính chất của một thượng tướng. Hỏa hoa bắn tung ra ngoài, nhưng âm kim lại nội liễm cho nên tâm tính vừa âm trầm vừa dễ giận dữ.
Luận về sao Thất Sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong Tử Vi Khoa Thất Sát đựơc coi là hung sát tinh. Bất luận số đẹp hay số xấu, hễ đã có Thất Sát vào Mệnh hay Thân thế tất phải trải qua những chuyện hung hiểm hoặc có một thời gian bị lắm chướng ngại. Sách viết:”Nhị cung phùng chi định lịch gian tân” (Mệnh Thân có Thất Sát phải nếm trải gian nan tân khổ)

Một khi có Thất Sát thủ Mệnh phải xem kỹ những vận hạn, nếu vận tốt đến càng sớm để thành công sớm thì hậu vận lại càng tối tăm với thất bại. Thiếu niên đắc chí ắt lúc bị thất ý ảnh hưởng đến hết đời. Nếu tuổi trẻ bôn ba chìm nổi đến trung niên mới phát đạt thì nhờ kinh lịch đã thâu lượm như thanh gươm tôi luyện kỹ rồi sự phát đạt ấy mới hay.

Thất Sát có những thế đứng sau đây: đơn thủ ở Dần Thân Tí Ngọ và Thìn Tuất, với Liêm Trinh nơi Sửu Mùi, với Tử Vi ở Tỵ Hợi, với Vũ Khúc ở Mão Dậu.

Sách viết:”Thất Sát cư hãm địa trầm ngâm phúc bất vinh”. Hãm cung cho Thất Sát là Mão Dậu và Thìn Tuất, nhưng đáng ngại là Mão Dậu gọi bằng cách “Sát hãm Chấn Đoài” (Chấn là Mão, Đoài là Dậu)

Lý luận cho rằng Thất Sát không có hãm địa là sai. Vũ Khúc Thất Sát ở Mão Dậu mà đứng cùng với các hung sát tinh rồi lại gặp vận có lưu hung sát tinh thì tai họa không nhỏ, phần lớn do sự lầm lỡ của chính mình mà ra. Vũ Khúc Thất Sát chỉ nên dựa vào nghề nghiệp mưu sinh an thân, tham vọng lắm thêm phiền. Thất Sát vốn ưa vẫy vùng nhưng ở Dậu Mão hãm chẳng khác gì con cá trong chậu quậy cựa lắm cũng thế thôi, đôi khi còn sinh nguy hiểm. Nếu như có được Hỏa Tinh Tham Lang thì sự đắc ý không bền, nay được mai mất.

Thất Sát hợp nhất với Tử Vi (đã nói ít nhiều trên phần luận về Tử Vi). Sách viết:”Tử Vi Thất Sát hóa Sát vi quyền”.

Thất Sát đóng Dần cung xung chiếu trên cao là Tử Vi Thiên Phủ. Thất Sát đóng Thân cung xung chiếu ở dưới có Tử Vi Thiên Phủ gọi bằng cách “Thất Sát ngưỡng đẩu” hay “Thất Sát triều đẩu”.

Thất Sát khi đã biến thành Quyền rồi không nên hội tụ với Văn Xương Văn Khúc Long Trì, Phượng Các. Vì đã xung sát thì xung sát luôn, đừng luẩn quẩn văn vẻ làm gì. Nửa văn nửa vũ, thành nửa mùa tất hành động mâu thuẫn và thành công kém ác liệt.

Thất Sát đã gặp sao Tử Vi để hóa vi Quyền rồi thì không nên thấy Hóa Quyền nữa sẽ vì thế mà quyền lực quá nặng thành ra con người cô khắc, quan hệ giao tế sinh lắm kẻ thù, càng không nên thấy Hỏa Tinh quyền lực khốc liệt khiến cho kiêu căng mà lâm nguy hiểm, thân phận lưu ly, lục thân ghẻ lạnh, không ai muốn khuông phù. Dù có sự nghiệp thật đấy nhưng đầy gian nan và lúc về già cô quạnh.

Thất Sát một khi hóa thành Quyền lại rất cần gặp Hóa Lộc, Lộc Tồn, Tả Hữu, Khôi Việt, có Tham Lang đứng với Hóa Lộc càng tốt, còn như Tham Lang đứng với Linh Tinh thì phải trải thiên ma bách triết mới thành công.

Cổ nhân luận Thất Sát thủ Mệnh cho rằng sao này đóng ở bốn cung: Dần Thân Tí Ngọ kể làm thượng cách. Ở Dần với Thân là “Ngưỡng đẩu” với “triều đẩu”, ở Tí Ngọ thì gọi bằng “Hùng tú càn nguyên cách”

Hai ông Ngô Cảnh Loan và Vương Đình Chi đưa ra luận cứ đáng chú ý rằng:”Thất Sát Ngọ mới đúng “hùng tú càn gnuyên” Thất Sát ở thủy cung Tí là phá cách” vì Thất Sát vốn thuộc Hỏa Kim và nói thêm:”Liêm Trinh Thất Sát đóng Mùi cũng kể là “hùng tú càn nguyên”. Như vậy thay vì Dần Thân Tí Ngọ nay theo hai ông là Dần Thân Ngọ Mùi.

Thất Sát tại Ngọ, cung Phúc Đức có Liêm Trinh, Liêm Trinh là âm hỏa nung nấu rèn đúc âm kim của Thất Sát.

Hai ông còn cho rằng Thất Sát không nên gần văn tinh tại Mệnh hay tam hợp chiếu, nhưng lại rất cần có văn tinh ở Phúc Đức. Nhờ những văn tinh Xương Khúc Long Phượng Hóa Khoa đóng Phúc Đức làm che giảm ngọn lửa Liêm Trinh thì cuộc đời ít gian nan.


Trên đây là những lời bàn đáng cho ta suy gẫm thêm. Riêng tôi cũng thấy điều Thất Sát đóng Tí không bằng đóng Ngọ.


Thất Sát âm kim âm hỏa, kim bị hỏa luyện tính tình dũng mãnh cương cường, là con người của hành động chủ động làm việc tích cực bởi vậy Thất Sát mới được coi làm tướng tinh.


So với Thiên Cơ Thiên Lương thì Cơ Lương mang khuynh hướng tư tưởng lý thuyết trong khi Thất Sát xông pha chấp hành. Thất Sát chỉ huy lãnh đạo, Cơ Lương điều hành. Thất Sát điều khiển, Cơ Lương vẽ kế hoạch. Bởi vậy cuộc đời Thất Sát thường có những nút chuyển biến dữ dội triệt để, lên thật cao và xuống thật thấp tùy theo vận hay hay dở.

Người xưa e ngại Thất Sát vào nữ Mệnh có những câu ca sau đây:

Nữ Mệnh sầu phùng Thất Sát tinh

Bình sinh tác sự quả thông minh

Chí cao khí đại vô nam nữ

Bất miễn hình phu lịch khổ tân

(Thật đáng buồn khi số gái có sao Thất Sát, làm việc thông minh tháo vát, tham vọng nhiều và xông xáo như con trai, khó tránh đựơc chuyện khắc chồng và phải bôn ba vất vả)

Thất Sát cô tinh Tham tú phùng

Hỏa Đà tấu hợp phi vi quí

Nữ mệnh đắc thử tính bất lương

Chi hảo cô phòng vi tì thiếp

(Thất Sát Cô Thần gặp Tham Lang gặp thêm Đà Hỏa ắt là không quí. Số nữ tính bạc bẽo liều lĩnh đưa đến khắc hại chồng làm thiếp hầu)

Thất Sát Dần Thân nữ mệnh phùng

Ác sát gia chi dâm sảo dung

Cánh phùng cát hóa chung bất mỹ

Tì thiếp thị phụng chủ nhân ông


(Thất Sát tại Dần Thân mà số nữ có kèm sao hung nữa là người nhan sắc, tính tình khéo nhưng sảo, dù gặp cát tinh cũng vừa chưa hẳn là đẹp ắt phải có bận khắc phu)

Đời trước cổ nhân sợ người đàn bà sắc sảo, tháo vát, xông xáo, tự lập nên mới đưa ra những câu phú trên. Thời nay không câu nệ vào những câu phú cổ hủ ấy nữa. Nữ mệnh Thất Sát bây giờ đều là những người đàn bà thành công làm việc giỏi, chỉ cái chuyện khắc phu thì vẫn vậy thôi.

Có một điều khá chính xác là: Thất Sát tại mệnh nữ đi cùng Đào Hoa Hỏa Tinh không ai không bạc tình. Thất Sát vào cung Phúc Đức của số nữ tình duyên không ai không lận đận nhỡ nhàng. Bởi vậy mới có câu phú:”Thất Sát đan cư Phúc Đức nữ nhân thiết kị tiện vô nghi” (Thất Sát một mình ở cung Phúc Đức số nữ lao đao vất vả dễ rơi vào tình trạng lẽ mọn)

Bàn về câu:”Thất Sát Liêm Trinh đồng vi lộ thượng mai thi” (Thất Sát đồng cung với Liêm Trinh thủ mệnh lúc chết chôn bên đường). Thất Sát Liêm Trinh chỉ đóng cùng ở hai chỗ Sửu và Mùi. Trong khi Thất Sát Mùi cung đã được coi làm cách tốt “hùng tú càn nguyên” thì tại sao còn có câu này?

Các nhà số học Trung Quốc lập luận:”Liêm Sát đồng vị chỉ gặp hung nguy khi đóng tại Sửu thôi, còn Mùi cung thì không và phải có những sát tinh như Kình Đà Hỏa, Hóa Kị thì mới đi tới chỗ lộ thượng mai thi, mà lộ thượng mai thi không hoàn toàn là cứ phải vùi thây bên đường, ý bóng của nó là cái chết bất chợt, cái chết không ở trên giường bệnh hay ở trong nhà. Hoặc là chết như một nhà chính trị bị ám sát, hoặc chết như một tên ăn cướp bị bắn giữa đường. Vấn đề là cân đo những hung sát kị tinh nặng nhẹ mức nào?

Số Liêm Sát không bị hung sát kị tinh tất nhiên không “lộ thượng mai thi”. Một điều chắc chắn hễ đã số Liêm Sát dù ở Sửu hay Mùi thì cũng không (?) bốn mươi năm đi làm thầy giáo hay nói khác đi là phải có cuộc sống của kẻ phiêu lưu hoặc có một chút khác thường.

Nếu đem hai câu viết ở mục Chú giải Thái vi phú: “Thất Sát Liêm Trinh lưu đãng thiên nhai (Mệnh có Liêm Sát sống nơi chân trời góc biển) và Thất Sát Liêm Trinh đồng vị lộ thượng mai thi” thì cái lý nó gần gần nhau, đã chân trời góc biển làm sao còn chết ở quê nhà?

Ngoài ra Thất Sát Liêm Trinh mà đóng Thiên di, (tất nhiên thủ Mệnh là Thiên Phủ Mùi hay Sửu) nếu Thiên Phủ bị Tuần Triệt hay gặp hung sát tinh cũng gặp cái chết của đồng vị Liêm Sát đã nói trên.

Sau hết là Thất Sát ở hai cung Thìn Tuất. Thìn Thiên La, Tuất Địa Võng. Thất Sát sao của hành động không dễ thích ứng không dễ thuận tòng như Liêm Phủ vào hai cung ấy. Vì Thiên Phủ Liêm Trinh mềm dẻo, biết theo thời thế, biết đứng vào hàng lối. Do đó Thất Sát Thìn Tuất kể như hãm địa, do sức ép của Thiên La Địa Võng và do sức tranh thoát dữ dội của Thất Sát.

Thất Sát Thìn Tuất ý chí kiên cường, có chủ kiến và độc lập tính nhưng phải trăm cay ngàn đắng mới thành tựu nếu được cát tinh phò trợ. Còn như quá nhiều hung sát tinh vây bọc chỉ nên học một sảo nghệ mà an thân. Vì đối cung là Liêm Phủ cho nên hung tinh đáng ngại nhất cho Thất Sát Thìn Tuất là sao Hóa Kị đứng đối cung đó là giảm hẳn khả năng thích ứng thuận tòng, chỉ còn bất mãn phẫn nộ, tất nhiên sẽ cực hơn.


Về sao Thất Sát lâm Thân có hai câu phú hầu như mâu thuẫn:

Thất Sát lâm Thân chung thị yểu

Thất Sát cư Thân hưởng đắc an toàn chi phúc


Yếu hay Phúc chỉ là vấn đề hãm hay đắc địa thôi. Ngoài ra còn phải xem thêm các hung sát kị tinh nữa mới chỉ định cho rõ được.


Thất Sát có nhiều câu phú cần nghiên cứu:


- Thất Sát cư Quan đắc vị uy áp vạn nhân

(Thất Sát đóng Quan Lộc đắc địa, uy quyền. Uy quyền gồm vị thế và oai nghiêm. Thất Sát cư Quan chỉ huy mật vụ đắc lực)


- Thất Sát phùng Thái Tuế trí dũng hữu dư

(Thất Sát đi bên Thái Tuế vừa dám làm vừa giỏi liệu công việc)


- Sát Phá hỉ trợ Kình Dương

(Thất Sát Phá Quân có Kình Dương trợ thành công mau phát mạnh nhưng nhiều nguy hiểm ví như người cưỡi cọp)


- Thất Sát thủ tha tài vi kỷ vật

(Thất Sát tinh tấn lướt được đằng chân lên đằng đầu, lấy của người làm của mình)

- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại, chư ban thủ nghệ bất năng tịnh
(Mệnh Thất Sát hay Phá Quân nên làm nơi xa, có nghề nhưng không giỏi tay nghề lắm. Đây là chỉ vào Thất Sát Phá Quân hãm)

- Thất Sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong

(Thất Sát hãm thêm Hỏa Linh Không Kiếp thì dễ có tật trên người, thường gặp hiểm nguy nơi trận mạc)


- Thất Sát Hỏa Dương bần thả tiện đồ tể chi nhân

(Thất Sát hãm thủ Mệnh gặp Kình Dương Hỏa Tinh chỉ chuyên ăn người và hung bạo, cũng không nên danh phận được)


- Thất Sát thủ chiếu, tuế hạn Kình Dương, Ngọ sinh nhân Mệnh an Mão Dậu chư hưng vong

(Thất Sát thủ hay chiếu Mão Dậu, niên vận gặp Kình Dương, người tuổi Ngọ gặp một ngã rẽ thay đổi cuộc đời mình)


- Sát Kình tại Ngọ, mã đầu đới tiễn, tương giao sát điệu, Bính Mậu nhân mệnh vị nan toàn

(Mệnh Thất Sát Kình Dương ở Ngọ, gặp vận nhiều sát tinh, người tuổi Bính Mậu nguy đến tính mạng)


- Thân phùng Sát Phá Liêm Tham hạn lâm Địa Võng Hình Khôi sát điệu Kỵ Đà xâm nhập, Thục gia trường nội, Dực Đức mệnh vong

(Cung Thân có Sát Phá Liêm Tham hội tụ đến vận hạn vào cung Địa Võng (Tuất) có Kỵ Đà, Thiên Hình, Thiên Khôi như ông Trương Phi bị ám toán chết ngay trong trướng phủ)


- Sát cư Ly Khảm nam nhân, thê hiền đa hội, mạc ngộ Kiếp Riêu số phụ ái cô thân. Nữ mệnh trai oán hồng nhan nan tự chủ

(Thất Sát thủ Mệnh Ngọ số trai gặp vợ hiền, nhưng nếu có Kiếp Riêu thì lại thích sống độc thân. Còn mệnh Nữ thường oan trái rơi lệ vì tình)


- Sát phùng Hình Hổ hãm tại tử cung thai lệ chi ai

(Sát gặp Hình Hổ tử cung, đến già chưa thấy tay bồng con thơ)


- Sát Phá Tham tại Nữ mệnh nhi ngộ Văn Xương ư Tân Đinh tuế sương phụ chi nhân
(Mệnh Sát Phá Tham gặp sao Văn Xương người nữ tuổi Tân Đinh thì góa chồng hoặc ly phu)


- Sát Phá Tham tại phối cung đắc Quyền Lộc Khúc Xương mệnh phụ chi nhân
Quí tuế ưu phùng Cô Quả, quả phụ chi nhân

(Cung phu có Sát Phá Tham đắc địa hội Quyền Lộc lấy chồng quyền chức cao làm mệnh phụ nhưng tuổi Quí mà thấy thêm Cô Thần, Quả Tú thì lại thành quả phụ góa chồng)


- Sát Riêu cư hỏa địa nữ nhân ba đào xuất hải, phùng Quyền Lộc tham bác chi nhân
(Thất Sát Thiên Riêu thủ Mệnh ở Tỵ hay Ngọ đàn bà có cuộc sống lênh đênh, được Quyền Lộc thì sành sỏi thành công gây cơ dựng nghiệp)


- Sát Hình tọa củng liêm trực vô tư

(Mệnh Thất Sát hội chiếu Thiên Hình hoặc đồng cung là người liêm khiết chính trực)

- Mệnh VCD hạn ngộ Trúc La Đào Hồng, Suy Tuyệt, Khổng Minh nan cầu trường thọ
(Mệnh không chính tinh vận đến Trúc La; Sát Phá Tham hội với Đào Hoa, Hồng Loan và Suy hay Tuyệt như Khổng Minh có lập đàn cúng tế vẫn khó thọ)


- Sát Phá Liêm Tham tam kỳ gia hội lai triều, Hồng Hình Tả Hữu uy danh nhất thế chi nhân

Phùng Kị Không Triệt chung thân tác sự nan thành

(Sát Phá Liêm Tham đắc địa hội tụ vào Mệnh cùng với Khoa Quyền Lộc Hồng Loan Thiên Hình Tả Hữu là người uy danh lừng lẫy. Nhưng hễ bị Tuần Triệt Hóa Kị thì làm việc gì cũng chẳng nên vì làm toàn chuyện bốc giời mà không có phận)

- Thất Sát đan thủ Mệnh viên vô khả cửu trùng lâm chi hạn

(Thất Sát Thìn Tuất vận lại gặp Thất Sát thì khó tránh tai ương thất bại)


- Mấy người thủy ách, hỏa tai

Sát Liêm ngộ Hỏa, Riêu ngồi Kị Tham


(Sát Liêm gặp Hỏa Tinh hay bị nạn cháy nhà. Thiên Riêu gặp Hóa Kị Tham Lang dễ vướng tai nạn sông nước)


- Dần Thân Sát Kị trùng gia

Thương chiêu đá mạ thật là gian truân

(Cung Dần Thân Thất Sát đứng cùng Hóa Kị, thường bị đẩy đưa vào những chuyện gây gổ, đánh chửi nhau phiền toái)


- Sinh con điếc lác ngẩn ngơ

Bởi cung tử tức Sát Đà Kiếp Không


- Sát phùng Phù Hổ hay đâu

Dã Tràng thưa ấy âu sầu ngục trung


- Sát tinh chiếu ở cung Đoài

Vì người tham của Phật đài họa toa

(Câu này không rõ nghĩa lắm)


- Ngôi cao chức trọng công hầu

Mệnh Thân Sát Phá ở đầu Ngọ cung


- Liêm tại Mùi đứng cùng Thất Sát

Tính cang kiên tài cán đảm đương

Được thêm Kỷ Ất sinh nhân

Anh hùng trí dũng mười phần khá khen


- Sát Kình ở tại Ngọ cung

Tai ương chìm nổi luôn trong cuộc đời

Nhưng Giáp Kỷ là người cái thế

Bậc anh hùng địa vị thênh thênh


- Kìa nữ mệnh Đinh Tân hai tuổi

Sát Phá Tham lại hội Văn Xương

Ấy là góa bụa đáng thương

Nếu không cũng chịu dở dang duyên tình


- Thất Sát phùng Dương Đà ư Tật ách tàn tật chi nhân

(Thất Sát gặp Dương Đà ở cung Tật Ách tất có tật thương)


- Thất Sát lưu niên Bạch Hổ hình lục tai truân

(Thất Sát hãm thủ mệnh lưu niên gặp sao Bạch Hổ tất bị kiện tụng cò bót)


- Thất Sát lâm Thân Mệnh, lưu niên Hình Kị tai thương

(Thất Sát vào Thân Mệnh, lưu niên có Hình Kị gặp tai nạn thương tích)


- Sát lâm Tuyệt địa hội Dương Đà Nhan Hồi yểu triết

(Sát đứng với sao Tuyệt gặp Kình Đà không thọ)


- Thất Sát Phá Quân chuyên ý Dương Linh chi ngược

(Thất Sát Phá Quân hãm địa thủ mệnh gặp Kình Dương, Linh Tinh cuộc đời khó khăn chướng ngại, dễ thành dễ bại)


- Cung Tỵ ấy Sát là đẹp quá

Nếu mà Tuyệt Hỏa cùng ngồi

Ấy phường tàn nhẫn hôi tanh sá gì


- Thìn Tuất Thất Sát xem qua

Kình Hình hội ngộ ắt là đảo điên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về sao Thất Sát

Ánh sáng trong phòng ngủ –

Phòng ngủ là nơi nghỉ ngơi thư giãn, đòi hỏi phải có độ ánh sáng thích hợp. Ánh sáng trong phòng ngủ dù là trên phương diện mĩ thuật hay để đảm bảo sức khỏe đều phải đạt tiêu chuẩn dịu nhẹ và không làm hại mắt. Nếu ánh sáng trong phòng ngủ quá mạnh,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

con người sẽ dễ cáu giận bực bội. Ngược lại, nếu ánh sáng quá yếu thì dễ làm cho con người có tâm trạng u uất và mắc chứng trầm cảm.

anhsang_phongngu1

Phong thủy học nói rằng, lắp đặt đèn điện cũng có những điều cấm kị. Chẳng hạn, không nên treo đèn treo ngay trên đầu giường, càng không nên treo ở chính giữa giường. Vì nếu trên đầu có một chiếc đèn treo thì khi ngủ ánh sáng sẽ chiếu trực tiếp vào mắt. Trừ khi bạn đeo một cái che mắt trong khi ngủ, nếu không chắc chắn bạn không thể nào ngủ ngon giấc được. Không chỉ vậy, việc thường xuyên bị ánh đèn chiếu vào mắt sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến gan của bạn.

Ngoài ra, hiện nay phần lớn những chiếc giường đôi được thiết kế có một chiếc đèn ngủ kèm theo. Điều này không có gì đáng nói. Tuy nhiên, ánh sáng phát ra từ chiếc đèn ngủ ấy phải dịu nhẹ. Nếu là một chiếc đèn đơn thì nên lắp thêm một cái chụp đèn, màu của chụp đèn phải hợp với màu tường và ngũ hành của chủ nhà. Như vậy, bạn không những có thể ngủ ngon mà sức khỏe của bạn cũng được đảm bảo. Nếu một người có tinh thần luôn luôn sung mãn thì tài sản, cuả cải sẽ tự nhiên tìm đến.

Nếu đèn điện trong nhà bị hỏng thì phải lập tức sửa hoặc thay ngay một cái bóng mới, vì đèn hỏng là chuyện vô cùng xui xẻo. Bởi thế, nếu trong nhà bạn có bất kì bóng đèn nào bị hỏng thì xin bạn đừng ngại việc mà hãy bắt tay vào xử lý ngay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng trong phòng ngủ –

20 điều khó Phật dạy cảnh tỉnh bao người

Con người luôn cảm thấy cuộc sống thật khó khăn, vất vả, sẵn sàng làm người ta gục ngã. Cùng xem 20 điều khó Phật dạy để biết ta có đang khó khăn thực sự không.
20 điều khó Phật dạy cảnh tỉnh bao người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm

20 dieu kho Phat day canh tinh bao nguoi hinh anh
 
1- Nghèo khổ bố thí là khó
 
2- Giàu sang học đạo là khó
 
3- Bỏ thân mạng vì lẽ phải là khó
 
4- Hiểu được và thông suốt kinh Phật là khó
 
5- Sinh cùng thời với Phật và gặp Phật là khó
 
6- Nhẫn chịu được sắc dục là khó
 
7- Thấy tốt đẹp không ham cầu là khó
 
8- Bị nhục mà không oán hờn là khó
 
9- Có thế lực không cậy uy quyền là khó
 
10- Đối cảnh tâm không lay động là khó
 
11- Học rộng, nghiên cứu nhiều là khó
 
12- Trừ diệt cống cao ngã mạn là khó
 
13- Không khinh khi người chưa học là khó
 
14- Thực hành tâm bình đẳng là khó
 
15- Chẳng nói phải trái là khó
 
16- Gặp được thiện tri thức là khó
 
17- Học đạo, kiến tánh là khó
 
18- Tùy duyên hóa độ là khó
 
19- Thấy cảnh vô tâm là khó
 
20- Khéo biết phương tiện độ sinh là khó
 
20 điều khó Phật dạy không chỉ giúp con người hiểu rõ ngọn nguồn của những cái khó trong cuộc sống mà còn khiến mỗi chúng ta tự kiểm điểm lại bản thân mỗi khi than vãn, dạy ta sống lạc quan và vượt lên hoàn cảnh, là lời cảnh tỉnh với những ai chỉ gặp chút trắc trở đã bỏ cuộc, buông xuôi.
 
Theo Thế giới văn hóa tâm linh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 20 điều khó Phật dạy cảnh tỉnh bao người

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Tử vi người sinh ngày Mậu Tuất thông minh, quyết đoán, thành danh từ trung vận, tuy nhiên đường tình duyên lân đận, hợp ly khó đoán.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi người sinh ngày Mậu Tuất thông minh, quyết đoán, thành danh từ trung vận nếu biết nắm bắt cơ hội và chăm chỉ, tuy nhiên đường tình duyên lân đận, hợp ly khó đoán.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Tuat hinh anh
 
Ngày Mậu Tuất có Tuất Thổ thuộc khí của sao Cai Hoa, một mình đơn độc. Tàng khí thương cung Tân Kim tạo nên tính cách kiêu ngạo, tuy nhiên gặp phải sự sát luyện của Đinh Hỏa, tạo nên tính cách không phô trương, thông minh nhưng không biểu hiện ra bên ngoài, âm thầm lập mưu tính kế. 
  Mệnh chủ Mậu Tuất không nên được sinh vào mùa hạ, Hỏa viêm Kim táo dễ tạo nên các bệnh về máu, ung thư phổi, hơn nữa tàng khí Mậu Thổ không có cách nào để hóa giải, vậy nên tốt nhất sinh vào mùa thu đông.  
 
Đón năm mới bình an, tục lệ xưa lưu giữ
Từ xa xưa, ông cha ta đã có những tục lệ chào đón một năm mới bình an, theo thời gian, dù có chút biến đổi theo văn hóa hiện đại nhưng ý

Mệnh trụ ngày Mậu Tuất kiên cường, thông minh, quyết đoán, không dễ khuất phục, có năng lực lãnh đạo. Tiền vận của họ gặp nhiều sự ly biệt với người thân, anh em và nhiều thăng trầm. Tuy nhiên, nếu cố gắng phấn đấu và biết nắm bắt cơ hội, từ trung vận trở đi sẽ thành danh và yên ổn.   
  Tử vi trọn đời người sinh ngày Mậu Tuất chỉ rõ đường tình duyên lận đận, hợp ly khó đoán, đau khổ vì tình. Nam mệnh gặp hai lần đào hoa. Tình duyên nữ mệnh gặp nhiều phong ba, cần đề phòng sự xuất hiện của người thứ ba, nên kết hôn muộn nếu không tất gặp thất bại trong hôn nhân.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Tuat hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Mậu Tuất nên kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ, Ất Mùi, Bính Thân, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Mậu Thân, MẬu Dần, Mậu Tý, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Kỷ Sửu, Canh Dần, Canh Tý, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Mùi, Tân Tỵ, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tuất, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi, Quý Dậu, Quý Sửu.
► Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Chi Nguyễn    

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Tuất

Cách sắp xếp và bài trí tủ lạnh hợp phong thủy

Ngoài tác dụng lưu trữ và quản quản đồ ăn, tủ lạnh có tác dụng phong thủy vô cùng to lớn. Biết cách bài trí tủ lạnh hợp phong thủy sẽ mang lại tài lộc cho gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vị trí để tủ lạnh


Theo phong thủy học, vị trí bài trí tủ lạnh tốt nhất trong ngôi nhà là phòng bếp. Tủ lạnh vốn thuộc hành Kim, phòng bếp lại là nơi Hỏa vượng, mà Hỏa khắc Kim. Vì vậy, để tủ lạnh trong bếp sẽ có tác dụng làm cân bằng tính Hỏa. Nhưng cần chú ý, tủ lạnh không kê đối diện hoặc gần bếp vì khí nóng từ bếp và hơi lạnh từ tủ lạnh xung khắc với nhau sẽ gây ảnh hưởng sức khỏe của gia chủ. Ngoài ra, nó còn có thể khiến những người trong gia đình không hòa thuận.

Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh Thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.

Những người mệnh Mộc nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với Kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.

Không đặt tủ lạnh đối diện với cửa bởi điều này có thể khiến tài lộc của gia chủ không ổn định.

2. Cách lựa chọn màu tủ lạnh


Tủ lạnh là đồ dùng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đối với một số người, nó lại kị về mệnh. Để bài trí tủ lạnh hợp phong thủy, màu tủ lạnh hợp với mệnh của gia chủ bạn nên màu sắc tủ lạnh phù hợp một mặt có thể hóa giải tác dụng không mong muốn với người xung khắc Kim, đồng thời lại có tác dụng hỗ trợ với người hợp mệnh Kim. 

Theo thuyết ngũ hành, Kim tương ứng với màu trắng, Mộc tương ứng với màu xanh lá cây, Thủy tương ứng với màu đen và xanh lam, Hỏa tương ứng với màu đỏ và tím, Thổ tương ứng với màu vàng và nâu. Người kị với Kim có thể lựa chọn tủ lạnh có màu đỏ, tím hoặc xanh lá cây để hạn chế tính Kim của tủ lạnh. Người hợp với Kim nên chọn tủ lạnh màu trắng, vàng, nâu để tăng thêm vận may.

3. Tủ lạnh không được để trống


Tủ lạnh liên quan thức ăn của người sử dụng. Thức ăn dồi dào ngụ ý chủ nhân không phải lo lắng về cơm ăn áo mặc. Ngược lại, tủ lạnh bị bỏ trống có nghĩa là tình hình kinh tế không khả quan, bởi vậy tủ lạnh nên để đầy đủ thức ăn.

4. Dọn dẹp tủ lạnh định kỳ

Tủ lạnh có liên hệ mật thiết với tài vận của gia chủ, do vậy chủ nhân cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ tủ lạnh. Như vậy mới khiến tài lộc sinh sôi.

5. Không đặt đồ điện hoặc đồ vật trên nóc tủ lạnh


Có người để tiết kiệm không gian, đã đặt lò vi sóng, lò nướng hay máy xay sinh tố lên nóc tủ lạnh. Chưa nói về góc độ phong thủy, thì về khoa học, sóng điện từ do các thiết bị điện này phát ra đã ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người sử dụng.

Ngoài ra cũng không để đồ vật trên tủ lạnh. Nhiều người có thói quen tiện tay để đồ vật lên tủ lạnh, lâu ngày nóc tủ lạnh sẽ trở thành nơi chứa đồ. Việc này tưởng là vô thưởng vô phạt, nhưng thực ra nó lại ảnh hưởng đến sự tụ tài. Vì vậy tủ lạnh tốt nhất là nên lau chùi sạch sẽ, cả bên trong lẫn bên ngoài.

(Theo Afamily)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sắp xếp và bài trí tủ lạnh hợp phong thủy

Có nên để nhiều đồ linh tinh trong phòng ngủ không? –

Phong thủy học truyền thông cho rằng nơi nghỉ ngơi cần phải yên tĩnh và thông gió tốt, dòng khí thông thoáng. Nếu sắp xếp trong phòng ngủ các đồ vật như hòm, tủ, sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới lưu thông không khí, hơn nữa, bạn thường dùng băng phiến để b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ảo quản các đồ bên trong hòm tủ (thường là quần áo, chăn màn lâu ngày không sử dụng tới), mỗi lần mở hòm tủ ra thì khí tù hãm bên trong và mùi của băng phiến phả ra, không có lợi cho sức khỏe.

av

Ngoài ra, không nên để những đồ đã cũ dưới gầm giường vì theo kết cấu, mặt dưới của giường cách mặt đất một khoảng nhất định nhằm làm cho phía dưới thông gió khiến giường luôn khô ráo. Nếu bạn để nhiều những thứ đó dưới gầm giường, sẽ không có lợi cho sự lưu thông khí, khiến giường bị ẩm ướt, có hại cho sức khoẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên để nhiều đồ linh tinh trong phòng ngủ không? –

Mơ thấy tim: Tình yêu và quan hệ cả nhân thuận lợi –

Tim là cơ quan thúc đẩy sự tuần hoàn máu trong cơ thể con người và động vật bậc cao. Quả tim con người nằm trong lồng ngực, hơi lệch về bên trái, có hình nón, kích cỡ tương đương với nắm tay con người. Bên trong quả tim có bốn ngăn, sự giãn nở hay co
Mơ thấy tim: Tình yêu và quan hệ cả nhân thuận lợi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy tim: Tình yêu và quan hệ cả nhân thuận lợi –

Phong thủy tủ giày như nào là chuẩn? (phần 1)

Phong thủy tủ giày có liên quan chặt chẽ tới phong thủy cửa ra vào, ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn của chính căn nhà và gia chủ. Bố trí tủ giày như nào là
Phong thủy tủ giày như nào là chuẩn? (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy tủ giày có liên quan chặt chẽ tới phong thủy cửa ra vào, ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn của chính căn nhà và gia chủ. Dưới đây là một số quy tắc chung liên quan đến phong thủy tủ giày.

Phong thuy tu giay - tuong nho ma lon (phan 1) hinh anh
 

1. Chiều cao lý tưởng


Theo phong thủy tủ giày, chiều cao của ngôi nhà được chia thành 3 phần bằng nhau. Phần đầu là Trời, phần giữa là Con người và phần cuối là Đất. Giày dép luôn bị bám nhiều đất cát, bụi bẩn. Tủ giày lại chứa những đôi giày bám bẩn nên nó thuộc về phần Đất.
 
Chiều cao lý tưởng của tủ giày không được vượt quá 1/3 chiều cao của ngôi nhà. Các bậc thầy phong thủy truyền thống tin tưởng rằng, tủ giày cao đến phần giữa ngôi nhà - phần thuộc về Con người, sức khỏe của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng.
 
Nếu rơi vào trường hợp này, biện pháp nhanh nhất để khắc phục phong thủy tủ giày xấu là xếp giày dép mới ở các tầng trên cùng, đẩy những đôi đã cũ và đang đi dở xuống bên dưới.
 

2. Mẫu mã và số lượng tầng

So với kiểu dáng mở, tủ giày khép kín, có cánh cửa được khuyến khích chọn mua hơn. Bởi nó giữ giày dép khuất khỏi tầm nhìn và giữ cả các loại mùi hôi phát ra từ chúng. Khi đóng cửa lại, chiếc tủ sẽ "khóa chặt" toàn bộ năng lượng xấu và tạp khí. Nhưng cần lưu ý chọn loại tủ có lỗ thoát khí để đảm bảo không khí vẫn được lưu thông thay vì ứ đọng một chỗ.
 
Về số lượng tầng, 5 là con số lý tưởng nhất, đại diện cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) theo phong thủy. Số lượng tầng của tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày có thể làm ít hơn hoặc bằng 5 chứ không nên nhiều hơn. Đây cũng là một chỉ dẫn tốt giúp xác định chiều cao thích hợp cho tủ giày.
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tủ giày như nào là chuẩn? (phần 1)

Xem bói tình yêu theo tên: Chữ cái đầu tiết lộ tình yêu của bạn

Xem bói tình yêu theo tên tiết lộ đối tượng trong mơ của bạn và cách bạn phản ứng với người ấy trong một mối quan hệ lãng mạn.
Xem bói tình yêu theo tên: Chữ cái đầu tiết lộ tình yêu của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Mọi người có sở thích về một nửa của mình hoàn toàn khác nhau tùy thuộc vào cá tính riêng, quan niệm riêng của họ. Điều đặc biệt là chỉ với chữ cái đầu tiên của tên, chúng tôi có thể đoán biết về cách bạn yêu, cách bạn đối xử với một nửa yêu thương của mình.

 

Chữ A

  Trong tình yêu, bạn không phải là mẫu người lãng mạn vì bạn thích hành động hơn là nói. Bạn không đủ kiên nhẫn để tán tỉnh ai đó và cũng không dễ bị mềm lòng với những người có tính cách rụt rè, dễ thương hay kín đáo.   Đời sống tình dục của bạn cũng vậy, bạn thích những lời thẳng thắn chứ không phải là những gợi ý mơ hồ. Bạn thích sự phiêu lưu nhưng không thích nói quá nhiều về chuyện này vì mối quan tâm thực sự của những người có tên bắt đầu bằng chữ A là kiếm tiền.  

Chữ B

  Bạn thích tận hưởng những điều lãng mạn như bữa tối với nến và rượu bên một nửa yêu thương. Bạn đang rất vui khi nhận được những món quà - biểu hiện tình yêu thương từ một nửa của mình. Bạn muốn được nuông chiều và cũng biết cách nuông chiều người người khác. 
 
Bạn sẵn sàng độc thân cho tới khi tìm được một người đáp ứng được nhu cầu yêu thương. Trong đời sống tình dục, người bắt đầu bằng chữ B khá lý trí, họ có thể kiểm soát bản thân và tránh quan hệ tình dục nếu cần.   
Xem boi tinh yeu theo ten4
 

Chữ C

  Bạn là người khá quảng giao và không thể sống thiếu tình yêu. Bạn thích sự gần gũi và gắn kết với một nửa của mình. Hơn nữa, bạn thích mọi người xung quanh chấp nhận người yêu/bạn đời của bạn. Đối với bạn, người yêu cũng là một người bạn, người đồng hành vì có như thế mới đủ thấu hiểu nhau.
 
Dự báo tình yêu theo chữ cái đầu của tên cho biết, người có tên bắt đầu bằng chữ C cuốn hút và gợi cảm, họ cần một ai đó đánh giá cao hoặc tôn thờ họ. Khi những yêu cầu trên đạt được, họ mới sẵn sàng cho chuyện tình dục. Có thể nói, họ là một chuyên gia trong việc kiểm soát ham muốn của bản thân.  

Chữ D (Đ)

  Một khi tìm thấy được đối tượng yêu thích, bạn sẵn sàng dồn hết tâm hết sức để theo đuổi. Bạn không bao giờ từ bỏ mục tiêu này của mình một cách dễ dàng. Bạn yêu chiều và chăm sóc người ấy bằng sự tin yêu.

Có thể nói, nếu mối quan hệ xảy ra vấn đề, đó là do bạn. Bạn đang đánh giá cao tình dục, sự đam mê, chung thủy một cách mãnh liệt và điều này đôi khi trở thành tính sở hữu, hay ghen tuông ở bạn. 
   
Xem boi tinh yeu theo ten3
 

Chữ G

  Những người có tên bắt đầu bằng chữ G khó tính, luôn mong tìm kiếm sự hoàn hảo từ chính mình cũng như ở đối phương. Bạn chỉ bị cuốn hút bởi người thông minh hoặc một người có thể nâng cao vị trí của bạn.

Bạn gợi cảm và biết làm thế nào để người ấy dễ dàng bị bạn hấp dẫn một cách bài bản. Bạn gặp khó khăn trong việc kết nối cảm xúc với người yêu, nhưng không hề gặp rào cản nào khi liên quan tới tình dục.
 

Chữ H

  Xem bói tình yêu theo tên tiết lộ, những người bắt đầu bằng chữ H luôn tìm kiếm một người bạn đời có thể nâng cao uy tín và thu nhập của họ. Trước khi yêu ai đó, họ có xu hướng tiết kiệm trong chi tiêu và điều này ảnh hưởng tới cả thói quen hẹn hò.

Tuy nhiên, khi yêu thật lòng họ rất hào phóng. Họ xem quà tặng là khoản đầu tư xứng đáng cho một nửa của mình. Trong một mối quan hệ tình cảm, họ nhạy cảm và khá kiên nhẫn. 
 

Chữ K

  Những người có tên bắt đầu bằng chữ K là những người bí ẩn, khép kín và khá nhút nhát. Họ rất gợi cảm và nhiều đam mê, nhưng không bộc lộ ra ngoài những điều này. Chỉ khi yêu và đủ gần gũi ai đó, họ mới bộc lộ bản thân.
 
Bạn hoàn toàn nghiêm túc trong chuyện tình cảm và không thích lãng phí thời gian cho những mối quan hệ không đâu. Bạn có đủ kiên nhẫn để chờ đúng người bạn đời của mình xuất hiện.

Xem boi tinh yeu theo ten2
 
 

Chữ L

  Bạn thích những giây phút lãng mạn trong tình yêu. Bạn đề cao chuyện tình cảm. Phải cảm nhận được rằng đối phương khiến trí tò mò của mình bị kích thích bạn mới thực sự bị cuốn hút, nếu không bạn cảm thấy khó khăn để duy trì tình yêu. Bạn cần yêu thương, âu yếm, những bữa tối lãng mạn để biết rằng mình được tôn trọng, yêu thương.  

Chữ M

  Bạn đề cao chuyện tình cảm và mong muốn tìm được một nửa tốt nhất có thể. Những người có tên bắt đầu bằng chữ M rất thích tán tỉnh, nhưng một khi đã cam kết, bắt đầu yêu ai, bạn rất chung thủy.

Khi yêu, bạn gợi cảm, nhiệt huyết và có chút phô trương, xa hoa và hào hiệp với người ấy. Bạn thích sự lãng mạn trong tình yêu và rất hào phòng với đối phương một khi bạn đã yêu thật lòng. 
 

Chữ N

  Bạn thơ ngây, khiêm tốn, và nhút nhát, nhưng đó chỉ là vẻ ngoài để đánh lạc hướng tất cả mọi người xung quanh. Trong đời sống tình dục, bạn được đối tác đánh giá cao và người ấy không bao giờ có cảm giác nhàm chán vì bạn. Tuy nhiên, không dễ dàng để tìm một ai đó có thể đáp ứng tiêu chuẩn của những người có chữ cái đầu của tên là N. Bạn cần một chỗ dựa an toàn và hơn nữa, bạn gặp khó khăn bày tỏ cảm xúc với những người mình yêu.  

Chữ O

  Bạn là người rất quan tâm đến tình dục nhưng e ngại khi nói về mong muốn của mình. Song, bạn có thể chuyển hóa năng lượng này vào việc kiếm tiền và tìm kiếm quyền lực. Vì thế, bạn có thể dễ dàng kéo dài giai đoạn sống độc thân. Những người sống đam mê, có lòng bác ái và nghiêm túc trong mối quan hệ tình cảm mới đủ lọt mắt xanh của bạn.   Bạn thích sự phong phú, đa dạng và sẵn sàng thử thách. Đôi khi đam mê của bạn chuyển thành tính sở hữu và muốn giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát. Để bớt tính cố chấp và kiểm soát người khác, bạn nên tham khảo những lời Phật dạy về tình yêu nhất định phải khắc cốt ghi tâm để trong lòng luôn cảm thấy an yên, vui vẻ, không phụ thuộc vào cảm xúc của người khác.  

Chữ P

  Bạn rất ý thức trong việc gây dựng hình ảnh của bản thân trong mắt mọi người, vì thế, không có ý định làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho hình ảnh hoặc danh tiếng của mình. Đó là lý do bạn muốn người yêu có vẻ ngoài đẹp trai/xinh gái. Hơn nữa, bạn cũng thích người đó cũng phải là người thông minh để khi sánh đôi cùng, bạn có cảm giác tự hào với những người xung quanh.

Xem boi tinh yeu theo ten
 

Chữ Q

  Bạn thích hoạt động và luôn tràn đầy năng lượng. Nhưng sự thật là ít người có thể theo kịp nhịp độ của bạn và điều này cũng đúng trong đời sống tình dục. Bạn chỉ bị thu hút bởi những người có cá tính tượng tự. Những điều lãng mạn, bữa tối với nến và hoa, trái tim yêu thương, và rất nhiều cuộc chuyện trò thì mới có thể khiến bạn để ý tới đối phương.  

Chữ S

  Đối với những người có tên chữ cái đầu là S thì kinh doanh mới là niềm vui chứ không phải là chuyện tình cảm đôi lứa. Vì thế, nếu đang bận rộn  theo đuổi sự nghiệp, công việc kinh doanh thì thực sự bạn không có tâm trạng để yêu đương. 
 
Xem bói tình yêu theo tên cho biết, bạn là người rất cẩn thận và thận trọng trước khi trao trái tim của mình cho ai đó nhưng một khi sẵn sàng cam kết, bạn vô cùng yêu thương đối phương và thậm chí sẵn sàng dính người ta như keo vậy.  

Chữ T

  Những người có chữ cái đầu của tên là chữ T là người nhạy cảm và khá thụ động trong mối quan hệ tình cảm. Bạn muốn đối tác là người kiểm soát mối quan hệ. 

Nhạc, ánh sáng dịu nhẹ và những điều lãng mạn mới đủ khiến bạn thích thú. Khi yêu, bạn lãng mạn, lý tưởng hóa mọi thứ, ủy mị và hay thay đổi. Bạn rất giỏi trong việc tán tỉnh và có thể khiến cho mối quan hệ của mình như trong mơ bằng một trái tim yêu thương trọn vẹn.
 

Chữ U

  Bạn là người nhiệt tình và khá lý tưởng trong mối quan hệ yêu đương. Bạn dễ bị cuốn hút với những người đáng yêu, dễ thương. Lãng mạn quả là thách thức đối với người có tên bắt đầu bằng chữ U vì bạn rất thực tế và ít mơ mộng. 
 
Đối với bạn, thấy phúc không vội mừng, thấy họa không vội buồn vì thế, bạn sẵn sàng tham gia vào những gì mang tính mạo hiểm để thỏa mãn tính tự do. Ngoài ra, bạn thích tặng quà và ngắm nhìn niềm vui trên khuôn mặt người ấy khi nhận món quà. Bạn khó kiểm soát bản thân và nếu có ham muốn tình dục mạnh mẽ thì bạn muốn thỏa mãn ngay lập tức.   
 

Chữ V

  Những người có tên bắt đầu bằng chữ V đề cao chủ nghĩa cá nhân và chỉ có sự tự do, có không gian riêng mới khiến bạn cảm thấy hứng thú. Bạn đợi cho đến khi hiểu rõ ai đó thật kỹ rồi mới sẵn lòng cam kết với mối quan hệ nào đó. 
 
Bạn thích đối mặt với nguy hiểm, cảm giác mạnh, và có những trải nghiệm hồi hộp vì thế, bạn dễ bị  thu hút bởi những người có phong cách cá tính, thậm chí lập dị. Thông thường bạn và người yêu thường có khác biệt về tuổi tác rất lớn. 
 

Chữ X

  Bạn cần liên tục được làm mới bởi vì tính cả thèm chóng chán của mình. Bạn có thể kiểm soát nhiều mối quan hệ một lúc một cách dễ dàng vì đầu óc bạn liên tục hoạt động để có thể sắp xếp mọi chuyện. Vì thế, khả năng rất cao là bạn có thể ngoại tình. Khi đó đừng đổ lỗi cho người khác vì lý do chỉ là ở chính bạn và cách suy nghĩ của bạn mà thôi.  

Chữ Y

  Xem bói tình yêu theo tên cho biết, những người có chữ cái đầu là chữ Y là người quyến rũ, gợi cảm và rất độc lập. Nếu mọi thứ không được diễn ra theo cách của mình, bạn vô cùng bức xúc và khó chịu. Bạn muốn kiểm soát mối quan hệ của mình, thích tiếp xúc cơ thể bằng những cử chỉ yêu mến. 
 
Tuy nhiên, lúc cần dành thời gian để kiếm tiền, bạn sẽ từ bỏ những thú vui không lành mạnh trong thời điểm này. Bạn muốn chứng minh với bản thân và người ấy rằng mình tuyệt hơn những gì mọi người đang nhìn thấy. Bạn rất thích mọi người công nhận điều này, có như vậy bạn mới cảm thấy hạnh phúc với mối quan hệ yêu đương.


Kate Nguyễn

Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 1) Đoán tính cách nhờ chữ cái đầu tiên của tên (Phần 2)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu theo tên: Chữ cái đầu tiết lộ tình yêu của bạn

Lưu ý cần phải biết trong phong thủy phòng khách để tránh gặp xui

Bố cục vuông vắn, nội thất đơn giản, ánh sáng tự nhiên...là những lưu ý đầu tiên mọi gia chủ cần biết trong bố trí phong thủy phòng khách.
Lưu ý cần phải biết trong phong thủy phòng khách để tránh gặp xui

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bố cục vuông vắn, nội thất đơn giản, ánh sáng tự nhiên...là những lưu ý đầu tiên mọi gia chủ cần biết trong bố trí phong thủy phòng khách.

  So với các phòng trong ngôi nhà, phòng khách là nơi nhiều người xuất hiện nhất đồng thời cũng là trung tâm sinh hoạt hàng ngày của mọi thành viên trong gia đình. Căn phòng này là tâm điểm chú ý của nhiều người nên cách bài trí phong thủy phòng khách vô cùng quan trọng. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe, tài vận của cả gia đình.

Luu y can phai biet trong phong thuy phong khach hinh anh
Phong thủy phòng khách


1. Về bố cục phong thủy phòng khách


Khi bước vào một ngôi nhà khác nhau chúng ta có cảm cảm giác khác biệt, nơi thì sảng khoái tinh thần, nơi lại tạo không khí ảm đạm, nặng nề. Điều đó phần lớn do bố cục của căn nhà, đặc biệt là phòng khách quyết định. 
 
Tốt nhất phòng khách nên được bố trí ngay gần cửa chính. Nguồn khí từ cửa chính sẽ lưu thông vào trong ngôi nhà liên tục, tạo cảm giác thoáng mát, không bị bí bách. Trường hợp cửa chính ở ngoài hành lang tối thì gia chủ cần đảm bảo hành lang sạch sẽ, đủ ánh sáng và tránh cản trở lưu thông không khí.
 
Phòng khách nên chọn bố cục vuông vắn, rộng rãi, nhiều ánh sáng và kết cấu hài hòa. Tuy nhiên tránh bài trí những đồ vật quá nhiều góc nhọn như bàn ghế, tủ gỗ…Hoặc có thể trang trí những chậu cây có tán lá to để che đi những góc cạnh này. 
 
Lưu ý: Không nên dùng chậu cây giả khiến không gian thiếu sức sống. Cây thật có tán lá to sẽ tiêu trừ sát khí từ những góc khuất, góc nhọn sinh ra, theo đó giảm năng lượng xấu cho phòng khách. Những loại cây xanh phù hợp để trang trí trong phòng khách như: trúc phú quý, cây phát tài…Các loại cây này có sức sống mãnh liệt, có dưỡng khí hút những nguồn năng lượng tiêu cực.

Ngoài ra, khi sắp xếp bố cục phòng khách, bạn cần đặc biệt lưu ý: Những điều kiêng kỵ trong phong thủy phòng khách để hạn chế những điều rủi ro không đáng có ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình. 
 

2. Nội thất càng đơn giản càng dễ thúc vượng

Một phòng khách đúng tiêu chuẩn phong thủy là càng được bài trí đơn giản càng tốt. Những đồ nội thất cần có như một bộ ghế sofa, chiếc bàn trà, ti vi. Nếu muốn bố trí thêm bộ tranh hay tủ treo tường cần phải đảm bảo gọn nhẹ, dễ trưng bày. Các linh vật hay linh khí phong thủy cũng được sắp xếp gọn gàng, đúng phương hướng, tránh gây họa vào thân. 
 
Trong phong thủy phòng khách, ghế sofa đại diện cho yếu tố thủy, tủ tường cao tượng trưng cho núi. Nếu phối hợp ghế thấp và tủ cao là thế vô cùng lí tưởng. Ngược lại, nếu tủ thấp lại bố trí cùng ghế sofa cao sẽ hình thành thế cục có nước mà không có núi, không tốt theo phong thủy.
 
Khi treo tranh để tạo phong thủy phòng khách hữu tình, gia chủ cần lưu ý chọn tranh phù hợp với địa vị, thân phận cũng như nghề nghiệp của mình. Ngoài ra, nên treo đồng hồ trong phòng khách để có tác dụng chiêu tài, hóa sát khí và tăng vận thế. Tuy nhiên, cần lưu ý không nên quay mặt đồng hồ hướng vào trong mà nên treo hướng ra cửa hoặc ban công. Bạn nên xem thêm: Những lưu ý khi treo đồng hồ trong phòng khách để vận dụng tốt, làm tăng thêm khí năng trong gia đình. 
 

3. Nguồn ánh sáng cho phòng khách

Nên tận dụng tối đa ánh sáng tự nhiên từ cửa chính, cửa phụ và các cửa sổ trong phòng khách. Trường hợp căn hộ ở góc khuất sáng hoặc bị bao quanh bởi các căn hộ khác, gia chủ nên lắp đặt hệ thống chiếu sáng hợp lí. Nên sử dụng đèn chiếu sáng, đèn nền và đèn trang trí được phân bổ ở những vị trí hợp lí trong phòng khách
 
Ngoài ra cần lưu ý, thời gian chiếu sáng trong phòng khách lâu nên sử dụng những loại đèn chiếu sáng tiết kiệm điện và mức độ tỏa nhiệt không cao, tránh gây nhức mỏi mắt hoặc nóng nực. 

Nguyên tắc phong thủy đặc biệt cấm kỵ một phòng khách thiếu ánh sáng, kể cả những góc khuất. Bạn nên tham khảo thêm bài viết Ánh sáng phòng khách theo nguyên tắc phong thủy để có cách áp dụng đúng, mang đến cho gia đình may mắn, hài hòa và yên bình.  
 
Có thể bạn quan tâm: 5 mẹo nhỏ xoay chuyển phong thủy phòng khách Cải thiện phong thủy phòng khách nhờ dùng chuẩn đèn Phong thủy phòng khách vượng tài nhờ treo tranh cửu ngư đúng cách Phòng khách chuẩn phong thủy thúc vượng tài lộc dồi dào ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý cần phải biết trong phong thủy phòng khách để tránh gặp xui

Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003...
Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh minh họa)

Người tuổi Mùi mệnh Mộc là những người sinh năm Quý Mùi 1943, 2003... 

Cả nam giới và nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường có vẻ ngoài ưa nhìn. Đây là những người có nghị lực, luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Tuy nhiên, họ không phải là những người quá tham vọng. Họ biết tự lượng sức để tiếp tục duy trì địa vị xã hội và thực lực kinh tế hiện có của mình. Họ cũng luôn lạc quan, hài lòng với cuộc sống. 1 số người tuổi Mùi mệnh Mộc lại có tính đa nghi và điều này đôi khi ảnh hưởng tiêu cực đến công việc. Sự do dự trong những tình huống cần phải quyết đoán khiến họ bị mất đi không ít cơ hội trong làm ăn kinh doanh.

Đa số người tuổi Mùi mệnh Mộc, đặc biệt là phụ nữ thường khá nhạy cảm. Họ coi trọng phép tắc, lễ nghĩa trong cuộc sống. Khi còn trẻ, người tuổi Mùi mệnh Mộc thường khá chăm chỉ, sống tiết kiệm. Cuộc sống của họ khá bình lặng, ít nhờ vả anh em, bạn bè. Sau khi lập gia đình, họ sẽ có cuộc sống khá giả hơn. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Mộc thường giúp ích rất nhiều cho sự nghiệp của chồng con.

(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi mệnh Mộc

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Nằm mơ thấy gãy móng tay là điềm gì –

Trong giấc mơ bạn mơ thấy những móng tay của mình hay bạn mơ thấy cảnh mình đang sơn móng tay hoặc gặm móng tay? Bạn cảm thấy băng khoăn về ý nghĩa của giấc mơ? Vậy giấc mơ đó báo hiệu điều gì cho bạn? Giải mã giấc mơ móng tay Mơ thấy móng tay là điề
Nằm mơ thấy gãy móng tay là điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy gãy móng tay là điềm gì –

Sao Hóa Quyền

Hành: Thủy Loại: Quyền Tinh Đặc Tính: Uy quyền, tôn vinh, lanh lợi, cơ mưu Tên gọi tắt thường gặp: Quyền Phụ tinh. Một trong 4 sao ...
Sao Hóa Quyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Quyền TinhĐặc Tính: Uy quyền, tôn vinh, lanh lợi, cơ mưuTên gọi tắt thường gặp: Quyền
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.

Vị Trí Ở Các Cung
Đắc địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Tại đây, Hóa Quyền sáng lạng, biểu dương cho thực quyền, đa quyền hay có uy tín thật sự, được nhiều người nể trọng, biết tiếng, phục tùng.
Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi. Tại đây, Hóa Quyền bị che lấp, ví như người ít quyền, hư quyền hoặc có quyền nhưng ở trong bóng tối, hoặc có thể có quyền tước hàm hay quyền tước sau khi chết (truy tặng).
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì có oai phong, có tướng lạ.
Tính Tình
Cung Mệnh có sao Hóa Quyền thì thông minh, có tài chỉ huy, được nhiều người kính nễ, tùng phục, cương quyết, tháo vát, có quyền hành hoặc có thế lực. Người nữ thì nhờ vào thế lực của chồng mà có danh quyền.
Công Danh Tài Lộc
Hóa Quyền đặc biệt là sao quyền, sao uy, có nghĩa là có oai phong, được nhiều người kính nể, sợ sệt, tùng phục; có quan chức lớn, có uy quyền hiển hách, được thượng cấp tin nhiệm, trọng vọng. Tóm lại, đây là người có quyền hành hoặc có thế lực.
Đây không hẳn chỉ là võ quyền mà còn có ý nghĩa văn quyền (quyền của quan văn), giáo quyền (quyền lực của thầy tu, giáo sĩ). Tùy theo cách làm quan, Hóa Quyền sẽ có ý nghĩa võ, văn hay giáo quyền.
Cho dù không đi vào đường quan chức, người có Hóa Quyền thủ Mệnh cũng có thế lực thực tế, được kiêng nể vì uy tín, vì nhân đức, vì khoa bảng, vì tiền bạc, vì tài năng...
Phúc Thọ Tai Họa
Hóa Quyền là sao trung lập về mặt cứu giải, cho nên:

  • Nếu gặp nhiều sao giải thì qua khỏi tai họa, bệnh tật một cách bất ngờ.
  • Nếu gặp nhiều sao hung thì tác họa rất nguy kịch.
Hóa Quyền gặp các sát tinh hội hợp, thì hay liều lĩnh, trước khi làm bất cứ một việc gì cũng không suy tính cẩn thận. Nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng, lại hay mắc tai họa kiện cáo, và phải buồn phiền vì con cái.
Những Bộ Sao Tốt
  • Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Lộc: Người vừa có danh quyền, có văn hóa, vừa có tài lộc. Đây là bộ sao Tam Hóa rất quý cho bất luận nam nữ, bất luận số nào, bất luận hạn nào, bất luận ý nghĩa hay phương diện nào.
  • Hóa Quyền, Tử Vi, Thiên Phủ: Có uy quyền quan chức lớn, có uy tín, hậu thuẫn lớn.
  • Hóa Quyền, Cự Môn, Vũ Khúc: Có nhiều quyền hành, công danh hiển đạt.
  • Hóa Quyền, Thiên Khốc: Có uy danh lừng lẫy. Nếu Mệnh ở Tý, Ngọ thì càng tốt đẹp, phú quý lâu dài, danh lưu hậu thế.
Những Bộ Sao Xấu
Nói chung, Hóa Quyền rất kỵ sát tinh hãm địa.
  • Hóa Quyền gặp Không, Kiếp: Có uy quyền nhưng không bền, bị lụy, bị hại vì quyền hành, dùng quyền hành làm việc ác, hay sử dụng bạo quyền.
  • Hóa Quyền gặp Tuần, Triệt: Công danh trắc trở, thành ít bại nhiều, chỉ có hư danh, hư quyền, bị cách chức, giáng chức.
  • Hóa Quyền gặp Hỏa Tinh, Thất Sát, Thiên Khốc, Thiên Hư : Hay bắt nạt người khác, bị người dưới khinh ghét.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ có danh chức hoặc nổi tiếng, thường là người trưởng tộc hoặc hay được họ hàng hỏi ý kiến, thường bảo bọc, bảo trợ cho người thân.
  • Hóa Quyền, Thiên Khôi, cha mẹ có quyền hành lớn.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc, giòng họ danh giá, có tiếng.
  • Hóa Quyền, Tham Lang, có tuổi thọ.
  • Hóa Quyền, Hóa Khoa, Văn Xương, Văn Khúc, phát về văn tài, giòng dõi văn gia.
  • Hóa Quyền, Ân Quang, Thiên Quý, công danh đại phát.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Điền Trạch
  • Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu nhà cửa. Thường được ở dinh thự. Nếu không thì cũng là nhà cao cửa rộng.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Quan Lộc
  • Dễ có chức vụ, công danh, thi cử, có thực quyền.
  • Hóa Quyền, Hóa Lộc, Thiên Phủ, Vũ Khúc, số đại quý.
  • Hóa Quyền, Thất Sát, có uy quyền, nhiều người nể sợ.
  • Gặp các sao Đại Hao, Thất Sát, Thiên Khốc, Thiên Hư, người dưới khinh ghét.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Nô Bộc
  • Bạn bè có quyền hành, nhờ bạn bè là nên.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Thiên Di
  • Sao Hóa Quyền hợp vị nhất ở cung Mệnh, Quan, Thân. Tại đó, Hóa Quyền có nghĩa như mình có quyền bính, chính thức, tự mình tạo được thế lực, hậu thuẫn.
  • Hay lui tới chỗ quyền quý.
  • Có thế lực lớn trong xã hội, được trọng đãi, tín dụng.
  • Sinh phùng thời.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được tai nạn, nhưng nếu bị sao TUẦN, TRIỆT, và các sao xấu, thì hay gặp tai nạn về quyền lực, bị bãi truất, có án tù, công danh trắc trở, tự đắc, kiêu căng, ngạo mạn khiến ai cũng ghét, có hại, hư danh.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Tài Bạch
  • Gia tăng sự tốt đẹp về việc mưu cầu tiền bạc.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Tử Tức
  • Con cái làm nên sự nghiệp, công danh thành đạt.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Phu Thê
  • Chồng hay vợ là người có quyền chức lớn, vợ nể chồng, chồng nể vợ.
Ý Nghĩa Hóa Quyền Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em làm nên sự nghiệp, có uy quyền.
Hóa Quyền Khi Vào Các Hạn
  • Được trọng dụng, được giao phó trách nhiệm quan trọng.
  • Được thăng chức hay thăng cấp.
  • Nếu đi với hung sát tinh hãm địa, Hóa Quyền phối hợp tác họa mạnh mẽ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Quyền

Tìm hiểu về Thanh Long trong phong thủy

Thanh Long hay còn được gọi là Thương Long được coi là một trong Tứ Tượng của nền Thiên văn học đồ sộ của Trung Quốc. Đây được coi là một phần vô cùng quan trọng trong phong thủy, thuyết âm dương và triết học.
Tìm hiểu về Thanh Long trong phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Thanh Long hay còn được gọi là Thương Long được coi là một trong Tứ Tượng của nền Thiên văn học đồ sộ của Trung Quốc. Đây được coi là một phần vô cùng quan trọng trong phong thủy, thuyết âm dương và triết học. Các chòm sao trong khoa chiêm tinh của nền Trung Hoa cổ đại với Tứ Tượng đó là đại diện cho các con thú thiêng hay còn gọi là linh vật đại diện cho bốn phương: phương bắc có Huyền Vũ, phương đông có Thanh Long, phương Tây có  Bạch Hổ và phương Nam có Chu Tước. Trong đó, Thanh Long được coi là linh vật thiêng liêng nhất, với hình tượng rồng, màu xanh, màu của hành Mộc ở phương đông, tương ứng với mùa xuân trong 4 mùa trong năm.

sao-thanh-long2.jpg

I. Thanh Long trong thiên văn

Trong thiên văn học, Thanh Long chỉ cung gồm 7 chòm sao phương đông trong Nhị thập bát tú, đó là:

      - Giác Mộc Giảo (sao Giác)

      - Cang Kim Long (sao Cang)

      - Đê Thổ Lạc (sao Đê)

      - Phòng Nhật Thố (sao Phòng)

      - Tâm Nguyệt Hồ (sao Tâm)

      - Vĩ Hỏa Hổ (sao Vĩ)

      - Cơ Thủy Báo (sao Cơ)

Trong đó Giác là hai sừng của rồng, Cang là cổ của rồng, Đê là móng chân trước của rồng, Phòng là bụng của rồng, Tâm là tim của rồng, Vĩ là đuôi của rồng, Cơ là móng chân sau của rồng. Bảy chòm sao này xuất hiện giữa trời tương ứng với mùa xuân.

Hai sao Phòng và Tâm là gần nhau nhất trong cung Thanh Long, có nhiều đặc điểm tương đồng về độ sáng, cấu tạo, chu kỳ,... nên thời được ví như hai chị em sinh đôi.

sao-thanh-long.jpg

II. Thanh long trong phong thủy

    Trong phong thủy, đại long mạch thì Thanh Long tương ứng với các dãy núi dài, hoặc dòng sông dài. Chẳng hạn với thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) thì sông Hồng chảy ở phía Đông là thế Thanh Long. Đối với kinh thành Huế thì cồn Hến ở giữa sông Hương, ở về phía đông là Thanh Long.

III. Ý nghĩa của chòm sao Thanh Long

1. Thanh Long là một thiện tinh

Hành: Thủy

Loại: Thiên Tinh

Đặc Tính: Vui vẻ, may mắn về công danh, hôn nhân, giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ

Phụ tinh: Sao thứ 3 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

sao-thanh-long3.jpg

2. Ý Nghĩa Thanh Long Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo: Sao Thanh Long ở Mệnh thì gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng.

Tính Tình:

- Vui vẻ, hòa nhã.

- Lợi ích cho việc cầu danh, thi cử.

- May mắn về hôn nhân.

- May mắn về sinh nở.

- Giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ.

3. Ý Nghĩa Thanh Long Với Các Sao Khác

- Long, Kỵ ở Tứ Mộ: Thanh Long được ví như rồng xanh ẩn trong mây ngũ sắc, nghĩa là như rồng gặp mây, người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử.

- Thanh Long, Lưu Hà: Người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quí, hôn nhân, sinh nở, thi cử (được ví như rồng xanh vùng vẫy trên sông lớn).

- Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái: Cách này gọi là Long Hổ Cái, cũng rực rỡ về tài quan.

- Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các: Cách này gọi là Tứ Linh, cũng rực rỡ về công danh, tài lộc.

- Thanh Long, Quan Đới: Người gặp thời, đắc dụng.

- Thanh Long, Sát tinh: Mất hết uy lực, trở thành yểu và hèn nhát.

4. Ý Nghĩa Thanh Long Ở Các Cung

Sao Thanh Long rất đẹp nếu ở hai cung Thủy là Hợi, Tý, hoặc ở cung Thìn (Long cư Long vị) cũng rực rỡ như trường hợp Long Kỵ, Long Hà.

Ngoài ra, các cách tốt kể trên, nếu có tại cung Mệnh, Thân, Quan, Di, Tài hay Hạn đều đắc dụng, đắc lợi cho đương số.

    Mặt khác, nếu Mệnh hay Quan giáp Long, giáp Mã thì cùng hiển đạt về công danh, chức vị.Theo cổ đồ thư thì người mệnh có thanh long thường hợp về võ nghiệp hoặc thương nghiệp( Lá số Tưởng Giới Thạch có Thanh long cư long vị phát về võ nghiệp, tất nhiên phải phối hợp với nhiều yếu tố khác nữa)

    Sao Thanh Long hay Thương Long tuy nhỏ nhưng lại có bản chất mạnh mẽ, hùng dũng, cao thượng giống như bản chất của linh vật rồng xanh. Ngôi sao mang lại sự may mắn cho con người trong nhiều phương diện như công danh, hôn nhân, trong thi cử hay ngay cả trong đường con cái. Khi kết hợp với nhiều cát tinh ở các cung thuận, ngôi sao này sẽ lại càng tỏa sáng rực rỡ, ngày càng phát đạt và thành công cho cả phái nam và phái nữ.

Xem thêm những thông tin về tử vi:

Bình Giải về ngôi sao Thiên Khốc trong tử vi 

Tỳ Hưu - Linh vật linh thiêng trong phong thủy

Tìm hiểu về 12 cung hoàng đạo trong tử vi


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về Thanh Long trong phong thủy

Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Dậu

Tử vi tháng 6 âm lịch, người tuổi Dậu lâm “Tuyệt” vận tại Ất Mộc, người có cách cục này xuất hiện huyền cơ rất sâu xa nhiều việc khó đoán biết.
Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Dậu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Tử vi tháng 6 âm lịch, người tuổi Dậu lâm “Tuyệt” vận tại Ất Mộc, người có cách cục này xuất hiện huyền cơ rất sâu xa nhiều việc khó đoán biết.


Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc
 
Tử vi tháng 6 âm lịch, người tuổi Dậu lâm “Tuyệt” vận tại Ất Mộc, người có cách cục này xuất hiện huyền cơ rất sâu xa nhiều việc khó đoán biết. “Tuyệt” là một dạng chuyển hóa từ trạng thái “yên tĩnh”, trở nên không âm thanh, không nhịp thở. Một chuyển động nhỏ trong “Tuyệt” cũng giúp chúng ta nắm bắt được điều cơ mật. Vì vậy người tuổi Dậu trở nên vô cùng cẩn trọng trong tháng Ất Mùi này.   Tuy nhiên vì quá cẩn thận mà đôi khi lại làm mất đi cơ hội của mình. Tâm tính còn chuyển sang “đa nghi như Tào Tháo” khiến người khác khó tin tưởng. Chuyện tình cảm không được Thiên Can ủng hộ, người độc thân nhân duyên kém, người có gia đình dễ vợ chồng cãi cọ mà đồng sàng dị mộng. Mặt sức khỏe phải đề phòng Huyết Đao, đi lại phải hết sức cẩn thận.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 2
 
Người tuổi Dậu lâm vào “Tuyệt” vị tại Ất Mộc, vận trình gặp rất nhiều khó khăn, giao tiếp đồng nghiệp suy trước nghĩ sau, đa nghi nhiều việc. Mọi người xung quanh cảm thấy bạn quá khó gần, khó mà mở lòng với bạn được. Tính cách này sống trong môi trường tập thể rất dễ bị kỳ thị xa lánh, làm việc một mình, lại hay phải gánh vác phần việc nặng nhọc. Tuy nhiên, những người làm nghệ thuật lại rất thuận lợi, một mình một ngựa cá tính tự do thăng hoa.     Những người làm ăn có nhiều dấu hiệu nguy hiểm, mỗi chuyện làm ăn đều phải được nghiên cứu kĩ càng. Vận trình “Tuyệt” vị nếu đi sai bước sẽ như rơi xuống “vực thẳm”, “ngõ cụt” không còn đường lui.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 3
 
Vận trình tài lộc của người tuổi Dậu gặp nhiều trắc trở do tính cách quái dị, không tin tưởng người khác. Khách hàng, bạn làm ăn e dè khiến đường làm ăn không mở rộng, túi tiền của bạn vì vậy cũng không thể “phình lên”. Nhưng những người làm về  nghề trang sức, tài chính, nội trợ lại rất thuận lợi vì hành Kim được tương sinh. Người này cũng phải lưu ý nạn phá tài do va chạm bởi Huyết Đao mang lại.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 4
 
Chuyện tình cảm người tuổi Dậu trong ngày Ất Dậu gặp Thiên Ấn đối đầu Thiên Ấn, nội tâm dao động, nhiều mâu thuẫn. Người độc thân không nắm rõ được điều trái tim mình muốn, tình cảm dùng dằng khiến đôi bên đều chịu tổn thương sâu sắc.    Người độc thân thì đa sầu đa cảm, hay tự kỷ ám thị về chuyện nửa kia ngoại tình, tự mình cắt nát hạnh phúc hiện tại. Người này gặp cả Tỷ Kiên tọa mệnh, nên dễ mâu thuẫn với người lớn trong nhà. Nữ tuổi Dậu thì cá tính quá mạnh, nửa kia của bạn cảm thấy quá áp lực.   
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 5
 
Mặt sức khỏe phải đề phòng về da dẻ, có khi do ăn uống đồ tanh nên bị dị ứng. Huyết Đao phạm mệnh, điềm va chạm tứ chi rất nguy hiểm, hoặc người tuổi Dậu phải đề phòng sức khỏe người trong nhà. Mùi Thổ sinh Dậu Kim, Mộc khí hao tổn Gan Thận bị âm hư gây mệt mỏi, lao lực, chân tay tê mỏi, quan hệ vợ chồng yếu kém… Nên dùng những loại dược liệu cân bằng âm dương, duy trì thói quen dậy sớm, ngủ sớm tránh thức đêm nhiều. Tích cực tham gia các hoạt động vận động ngoài trời, thư thái tinh thần. Trong khi làm việc, người tuổi Dậu cần phải tránh để áp lực công việc học hành gây khó cho sức khỏe của bạn
Xem tu vi thang Sau am lich cua nguoi tuoi Dau hinh anh goc 6
 
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi tháng Sáu âm lịch của người tuổi Dậu

Bài trí văn phòng, công sở áp dụng trên học thuyết phong thủy –

Đi theo sự phát triển của đời sống, phong thuỷ hiện được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, trong đó nổi bật là áp dụng phong thủy vào bố trí đồ đạc trong văn phòng công sở và kinh doanh. Chúng ta có thể dựa vào phong thủy của nhà ở, văn
Bài trí văn phòng, công sở áp dụng trên học thuyết phong thủy –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đi theo sự phát triển của đời sống, phong thuỷ hiện được áp dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống, trong đó nổi bật là áp dụng phong thủy vào bố trí đồ đạc trong văn phòng công sở và kinh doanh.

Chúng ta có thể dựa vào phong thủy của nhà ở, văn phòng, cơ sở thương mại để “tiên đoán” sự phát triển và hưng thịnh của các tổ chức xã hội, kinh tế và nhân sinh. Nhưng, trong việc áp dụng phong thuỷ ở thời điểm hiện tại vẫn còn nhiều khúc mắc cần phải làm rõ cả về nhận thức và thực tiễn. Trước hết là tính khoa học trong phong thuỷ.

bo tri van phong lam viec theo phong thuy1 Bài trí văn phòng, công sở áp dụng trên học thuyết phong thủy

 

Tính khoa học của phong thủy

Phong thủy theo cách hiểu nôm na là 1 bộ môn khoa học phương Đông tìm hiểu về sự ảnh hưởng của môi trường, cảnh quan tự nhiên, ảnh hưởng của những yếu tố về địa lý xung quanh ngôi nhà đến sinh hoạt của con người.

Phong thủy không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nó bắt nguồn từ ngay trong thực tiễn cuộc sống. Từ xa xưa, cuộc sống của con người chủ yếu trông vào nông nghiệp nên rất cần nước (thủy) và đất (thổ). Do vậy, mà con người ngay từ lúc chào đời đã ý thức lựa chọn những nơi cư trú có núi non bao bọc, che chở, lại gần sông ngòi, ao hồ.

Sự tranh giành quyền lực, đất đai của các bộ lạc, dân tộc dẫn đến những nhìn nhận về nơi an cư, lạc nghiệp mà nhất là phía sau gần núi dễ tạo sự an toàn thuận lợi cho việc phòng thủy. Từ đó hình thành nên khái niệm tọa sơn hướng thủy. Gần nước để tiện sinh nhai, gần núi để dễ được bảo vệ, che chở. Các câu “phú sơn quản nhân đinh thủy quản tài” cũng bắt nguồn từ chính trong những nhu cầu sinh tồn đó.

Đi qua thời gian, những học thuyết phong thủy bắt đầu được hình thành. Qua chiêm nghiệm thực tiễn, người ta đã bắt đầu gạt bỏ những điều bất hợp lý, phát huy những điều đúng đắn nhất. Khoa học phong thuỷ vì thế mà dần dần hoàn thiện hơn trên phương diện lý luận.

Bước sang thời hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật phương tây, phong thuỷ vẫn không những không mất đi vị thế mà còn phát huy được tính ưu việt của mình trên rất nhiều phương diện. Và điều chủ chốt là những nguyên lý của phong thuỷ không hề mâu thuẫn với những bộ môn khoa học hiện đại của phương tây.

Nếu phương đông có bộ môn phong thủy thì phương tây cũng có những môn khoa học tương ứng tìm hiểu về thổ nhưỡng, khí hậu tác động tới cuộc sống con người. Có thể kể đến là môn vật lý  kiến trúc tìm hiểu về sự vận động của gió trong nhà. Theo môn này thì không nên để các cửa thẳng hàng nhau sẽ hạn chế sự thông thoáng, vi khuẩn yếm khí sinh sôi nảy nở. Còn phong thủy phương đông môn phái loan đầu cũng có lời khuyên tương tự rằng nếu để ba cửa đối nhau dễ phát sinh tai họa.

Những tỷ lệ quý báu trong kiến trúc tây phương cũng có nhiều nét tương đồng đối với những con số coi là đẹp trong phong thủy huyền không học. Phong thủy tương đồng với khoa học hiện đại tây phương và chúng ta hãy xem xét nó dưới góc độ khoa học và không nên khoác lên nó sự thần bí.

 

Ứng dụng phong thủy trong bố trí văn phòng công sở

Trong 1 tổ chức, 1 doanh nghiệp, vị trí cũng như phương pháp bố trí văn phòng làm việc của bộ phận điều hành, phòng giám đốc là không nên xem nhẹ.

Nếu chiếc dầm đè bàn làm việc thì khi đó các dòng khí có sự tác động cực mạnh đối với người đang ngồi sử dụng bàn. Ngoài hiệu ứng trên thì người trên bàn chịu hiệu ứng từ trường nguyên nhân do khối lượng sắt thép phía trong dầm tương tác.

Điều này lí giải tại sao trong phong thủy người ta kiêng không nên làm việc hoặc hoạt động bất cứ việc gì trong khu vực có dầm chạy qua. Chẳng hạn như khi đặt bếp, đặt giường ngủ cũng đều tuân theo sự kiêng kỵ này.

Trong Phong thủy có quan niệm cho rằng ánh sáng, không khí chính là khí của Phong thủy cho nên nhiều khi lấy tiêu chí hướng cửa sổ là hướng chính để tính Phong thủy. Vì thế, có ai đó cho rằng đặt bàn làm việc như vậy là sai theo Phong thủy.

Thời gian gần đây, nhiều phong thủy gia khi tư vấn lại lựa chọn ban công ở các khu chung cư để xác định hướng nhà. Nhưng cách làm trên cần phải suy nghĩ lại.

Chỉ cần chúng ta đưa ra câu hỏi: “nếu cứ để nguyên cửa sổ và bịt cửa chính ra vào thì gia đình đó có sinh hoạt được không?” thì sẽ phát hiện ra ngay tính bất hợp lý của nó.

Trong khi giữ nguyên cửa chính và bịt cửa sổ thì gia đình đó vẫn sinh hoạt được nhưng về lâu dài thì cũng không hề tốt do hiện tượng thiếu sự thoáng mát dưới góc nhìn kiền trúc hiện đại. Còn trong phong thủy gọi là bế khí.

Trong phong thủy yếu tố về khí được đặc biệt coi trọng. Bài trí nhà ở hay bài trí phòng làm việc yếu tố này cũng nên đưa lên hàng đầu.

Nhất là trong việc bài trí phòng của những người giữ vai trò đầu não như phòng giám đốc, đặc biệt lưu ý lấy cửa ra vào là trọng. Người giám đốc nên ngồi ở vị trí trong mọi tình huống có thế quan sát được người ra vào.

Tất nhiên vị trí đặt bàn làm việc hay nhất là ở vị trí góc chéo với cửa ra vào, đó là vị trí tuyệt vời nhất và đằng sau chỗ ngồi phải có bờ tường dựa, khi ngồi làm việc thì mặt phải nhìn về một trong bốn hướng tốt của mỗi người theo từng mệnh cung.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí văn phòng, công sở áp dụng trên học thuyết phong thủy –

Đền Đuổm - Di Tích Lịch Sử Quốc Gia

Đền Đuổm vẫn giữ vị trí độc tôn với phong cảnh đẹp cùng nghi thức trang nghiêm nhất. Đền Đuổm tọa lạc ở xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
Đền Đuổm - Di Tích Lịch Sử Quốc Gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền Đuổm được xây dựng từ thế kỷ thứ XII, năm 1180 vào thời Lý Cao Tông, là một trong những ngôi đền có bề dày lịch sử tại Thái Nguyên. Ngôi đền đến nay đã được tu sửa lại nhiều lần và đến năm 1993 Bộ Văn hóa Thông tin đã ban hành Quyết định xếp hạng Đền Đuổm là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Đền Đuổm tọa lạc ở chân núi Đuổm, xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.

Đền Đuổm cũng là một điểm lễ hội thu hút du khách hành hương trong và ngoài thành phố đến cúng bái. Đặc biệt vào dịp lễ từ ngày 6 đến ngày mùng 8 tháng giêng hàng năm.

Đền Đuổm nằm cách thành phố Thái Nguyên 25 km, sát ngay quốc lộ 3. Đền thờ vị anh hùng dân tộc Dương Tự Minh. Ngôi đền đã nhuốm màu thời gian, phủ rêu xanh nằm dựa mình dưới chân một dãy núi đá này là điểm đến tâm linh quen thuộc của người dân trong tỉnh. Với du khách từ phương xa tới, ngôi đền được biết đến nhờ vẻ đẹp cổ kính và phong cảnh quanh các kiến trúc.

Đền Đuổm thờ Dương Tự Minh, vị tướng tài ba của vương triều nhà Lý, người có công lớn trong việc giành lại phần đất đai rộng lớn từ tay giặc Tống và bảo vệ vững chắc vùng biên cương phía bắc Đại Việt. Ông còn có công khai khẩn điền địa, phát triển kinh tế, giữ vững mối đoàn kết của dân tộc, được nhà Lý phong sắc: “Uy viễn đôn Cao Sơn quảng độ chi thần” và được triều Lý gả hai công chúa. Các triều đại về sau đều có sắc phong ông là “Cao Sơn quý minh thượng đẳng thần”.

Dương Tự Minh được nhân dân tôn là thần. Ngôi đền được xây dựng tại nơi tương truyền là nơi ông thác lúc về già. Địa thế uy nghi với ba dãy núi giữa cánh đồng tựa những cánh nhạn bay. Đền được xây ở phần lõm của ngọn núi phía trước như được ngọn núi che chở vĩnh hằng. Trước cửa đền là cánh đồng xanh bát ngát, dòng sông Cầu uốn khúc chảy qua. Phía xa là những đồi cọ, đồi chè mênh mông bát ngát ẩn hiện những bản trú phú của người Tày.

đền đuổm
Nét thanh tịnh trong Đền Đuổm

Đền đã qua tu sửa nhiều lần, nhưng vẫn giữ được phong cách kiến trúc cổ theo kiểu tam cấp gồm: đền Thượng, đền Trung và đền Hạ. Từ cổng đền, đã thấy nét đẹp uy nghi, cổ kính. Ngôi đền nằm ẩn mình trong màu xanh của cây lá và rêu xanh. Từ những bậc thềm dẫn vào đền, đến những mái cong, bức tường cũ đều phủ màu. Khung cảnh ngôi đền khiến du khách ghé thăm đều muốn dừng chân nán lại đôi chút, trước khi bước trở lại với thế giới ồn ào ngược xuôi bên ngoài cửa đền.

Hội đền Đuổm được tổ chức vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội quan trọng của chính quyền và nhân dân huyện Phú Lương cũng như đối với các đơn vị hành chính kế cận.

Đền Đuổm là một điểm sáng về du lịch của huyện và tỉnh Thái Nguyên, không chỉ trong dịp Tết mà cả những thời điểm quan trọng khác của năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Đuổm - Di Tích Lịch Sử Quốc Gia

Nằm mơ thấy khoai lang là điềm gì? –

Trong cuộc sống chúng ta có vô vàn những bí mật thật thú vị mà đang chờ chúng ta khám phá. Một trong số đó cần phải nhắc đến những giấc mơ. Mỗi giấc mơ đều có những bí mật và ẩn ý của riêng chúng. Ngay cả việc tại sao ta lại mơ giấc mơ này mà không p
Nằm mơ thấy khoai lang là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy khoai lang là điềm gì? –

mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Dân gian vẫn có câu “Mèo tới nhà thì khó, chó tới nhà thì sang”, nhưng đó là trong hiện thực, trong giấc mơ, đôi khi có phần ngược lại.
mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Giải mã giấc mơ thấy chó, mèo:

giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy chó
 
Mơ thấy chó điên xuất hiện là dễ xảy ra sự cố bất ngờ, đặc biệt chú ý tai nạn xe cộ.

 
Mơ thấy dắt chó đi dạo ngụ ý quan hệ xã hội tốt, sắp gặp lại bạn bè cũ.

 
Mơ thấy âu yếm chó con ngụ ý quan niệm về thời gian ngày càng kém, thường xuyên trễ giờ.

 
Mơ thấy hai con chó đang tình cảm với nhau là mặt tình yêu có chiều hương tốt nhưng không dễ dàng đi quá giới hạn.

 
Mơ thấy chó đang ăn cơm ngụ ý mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý.

 
Mơ thấy chó đang đi tiểu là sức khoẻ đi xuống, bạn cần chú ý.

 
Mơ thấy chó hướng về phía mình sủa ám chỉ quan hệ bạn bè xấu đi, tốt nhất nên tránh những người mình không hợp.

 
Mơ thấy chó chạy nhanh là vận tài lộc khá tốt. Sắp có món tiền lớn.

 
Mơ thấy chó dại đang cắn càn cảnh báo bạn gặp sự cố hoặc bị bệnh nặng.

 
Mơ thấy bị chó dại cắn là bạn sẽ nghe thấy tin tức không may từ họ hàng.

 
Mơ thấy chó đã chết ngụ ý những người bạn tốt hoặc trợ thủ của bạn sắp rời xa trần thế.

 
Mơ thấy chó chết là ngụ ý bạn sẽ làm những việc vi phạm đạo đức.

 
Thương nhân mơ thấy chó chết là ngụ ý bạn để đạt được mục tiêu bạn sẽ không từ thủ đoạn nào.

 
Mơ thấy chó đang bơi là cuộc sống khó khăn vất vả.

 
Thương nhân mơ thấy chó đang bơi thì chuyện làm ăn gặp thuận lợi.

 
Mơ thấy chó đánh nhau là sắp xảy ra chuyện liên quan tới chuyện hình sự.


giai ma giac mo hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy mèo
Mơ thấy mất con mèo mình nuôi bạn bè cự tuyệt qua lại, không muốn quan hệ.

 
Mơ thấy 1 con mèo bị bỏ rơi cạnh đường và đang kêu ám chỉ đường tài lộc đi xuống.

 
Người bệnh mơ thấy mình nuôi mèo là người này sắp thoát khỏi bệnh tật.

 
Mơ thấy mèo đang tắm nắng dự báo 1 tháng sau vận trình của bạn sẽ bình an vô sự thậm chí có lúc bạn thấy thật vô vị.

 
Mơ thấy mèo đang trèo lên đầu gối - mối quan hệ với người yêu tốt.

 
Mơ thấy bị mèo cắn là điềm lành, khó khăn trong công việc sắp được giải quyết.
 
Mơ thấy mèo hoang là điềm xấu, vận trình chuyển xấu.

 
Mơ thấy một con mèo sạch sẽ tượng trưng cho cuộc sống hạnh phúc.

 
Mơ thấy mèo bẩn thỉu là nhiều đại nạn sắp đến.

 
Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: mơ thấy chó mèo là điềm gì?

Long huyệt là gì?

Huyệt trong phong thủy còn gọi là long huyệt, chỉ nơi chôn cất người chết. Đất huyệt long mạch tụ khí, giống như huyệt trên người rất tốt.
Long huyệt là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyệt vốn chỉ thượng không (trên không) nơi người xưa cư trú, còn chỉ nơi chôn cất người chết, cũng chỉ nơi khí huyệt kim mạch trong người ngưng tụ.

Long huyet la gi hinh anh
Long huyệt

Sách “Địa lý nhân tử nên biết” viết: “Huyệt giống như huyệt trên cơ thể con người, nơi tinh túy nhất của trời đất”. Huyệt có loại cao, loại thấp, loại to, loại nhỏ, loại béo, loại gầy. “Ngũ long (ngũ sơn) làm huyệt chia thành 5 loại: hoành, trực, phi, tiềm, hồi, huyệt. Chúng biến hóa đa dạng từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyệt hướng Bắc - Nam, huyệt hướng Đông - Tây. Có loại hình đi nhanh, có loại bay chéo, có loại bối thủy, có loại cận giang. Huyệt có chính thể, biến thể”.

Căn cứ vào hình dáng, huyệt được phân loại thành: huyệt oa, huyệt kiềm, huyệt nhũ, huyệt đột. Theo phương thức nhận khí gồm: huyệt thụ, huyệt phân thụ, huyệt bàng thụ. Ngoài ra còn có chân huyệt, giả huyệt, phúc huyệt, quý huyệt, bần huyệt, tiện huyệt, quái huyệt…

Huyệt phải có thế lớn, hình chính, tụ khí, uy phong. Điều này còn có nghĩa là huyệt mộ cao mà không nguy, thấp mà không vùi, hiển mà không lộ, tĩnh mà không âm u, kỳ (lạ) mà không quái, xảo mà không liệt, chính mà không xung, dựa mà không nghịch, nằm ngang mà không nổi, bao bọc mà không lõm, chuyên nhất mà không lồi, tiết lậu.

Theo Bí ẩn thời vận

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Long huyệt là gì?

SAO THANH LONG TRONG TỬ VI

thanh long (Thủy) *** 1. Ý nghĩa tướng mạo: Gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng. Đến hạn gặp T...
SAO THANH LONG TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thanh long (Thủy) 



***

1. Ý nghĩa tướng mạo: Gương mặt tuấn tú, phương phi, cốt cách sang trọng. Đến hạn gặp Thanh Long thì sắc diện phát hiện tú khí, nhất là khi Thanh Long đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và ở hai cung Thủy là Hợi và Tý.

2. Ý nghĩa tính tình:             - vui vẻ, hòa nhã             - lợi ích cho việc cầu danh, thi cử             - may mắn về hôn nhân             - may mắn về sinh nở             - giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ Với những ý nghĩa đó, Thanh Long đồng nghĩa với Long Phượng.

3. Ý nghĩa của thanh long và một số sao khác:
Long, Kỵ ở Tứ Mộ: Thanh Long được ví như rồng xanh ẩn trong mây ngũ sắc, nghĩa như rồng gặp mây, người gặp thời rực rỡ, có lợi cho phú quý, hôn nhân, sinh nở, thi cử.
Thanh Long, Lưu Hà: đồng nghĩa như trên
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái: cách này gọi là Long Hổ Cái, cũng rực rỡ về tài quan
Thanh Long, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các: cách này gọi là Tứ Linh, cũng rực rỡ về công danh, tài lộc
Thanh Long, Quan Đới: người gặp thời, đắc dụng
Thanh Long, sát tinh: mất hết uy lực, trở thành yếu và hèn nhát.

4. Ý nghĩa của thanh long  ở các cung:
            - Thanh Long rất đẹp nếu ở hai cung Thủy là Hợi và Tý, hoặc ở cung Thìn (Long cư Long vị) cũng rực rỡ như trường hợp Long Kỵ, Long Hà.             - Nếu có tại cung Mệnh, Thân, Quan, Di, Tài hay Hạn đều đắc dụng, đắc lợi cho đương số             - Nếu Mệnh hay Quan giáp Long, giáp Mã thì cũng hiển đạt về công danh, chức vị.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO THANH LONG TRONG TỬ VI

7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an

Bản mệnh Phật thường được mang bên mình để hộ thân, cầu bình an. Tuy nhiên, có 7 lưu ý khi đeo dây chuyền mặt Phật mà bạn phải nhớ kĩ.
7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bản mệnh Phật là vật phẩm vừa mang ý nghĩa phong thủy, vừa mang màu sắc tâm linh, thường được mang bên mình để hộ thân, cầu bình an. Tuy nhiên, giống như các vật phẩm phong thủy khác, có 7 lưu ý khi đeo dây chuyền mặt Phật mà bạn phải nhớ kĩ.


7 luu y phai nho khi muon thinh ban menh Phat bao ho binh an hinh anh
 
Dây chuyền mặt Phật hay còn gọi là bản mệnh Phật có tác dụng gặp dữ hóa lành, bảo hộ bình an, che chở chủ nhân khỏi điều tà ác. Khi thỉnh vật phẩm phong thủy tốt lành này về mang bên mình, hãy nhớ kĩ 7 lưu ý khi đeo dây chuyền mặt Phật.   1. Bản thân vật phẩm là vô tri nên khi thỉnh bản mệnh Phật về phải làm lễ hô thần nhập tượng thì mới có tác dụng phong thủy.   2., Có thể đeo các loại vật phẩm phong thủy tốt khác đồng thời với bản mệnh phật. Mang bản mệnh Phật tặng bạn bè, người thân là một việc kết thiện duyên, phát huy Phật hiệu và cũng thể hiện thành ý của bản thân, mang may mắn nhân rộng ra.   3. Khi vợ chồng gần gũi thì nên tháo bản mệnh Phật xuống cất đi.   4. Nếu làm mất hoặc rơi vỡ, hỏng bản mệnh Phật thì cũng không nên lo lắng thái quá, vì có thể vật hộ thân cản tai họa cho bạn.   5. Khi tắm nên tháo bản mệnh Phật xuống, đặt ở nơi cố định.
Bài trí tượng Phật bảo hộ gia đình
Hiện nay, trong nhiều gia đình có lập ban thờ Phật hoặc đặt tượng Phật trong nhà. Bài trí tượng Phật cần lưu ý một số điểm quan trọng.

6. Nếu đeo bản mệnh Phật trong thời gian dài, hình đã bị mòn, cũ thì nên đổi cái mới để tránh mất đi tác dụng bảo hộ đồng thời dễ bị hư hỏng, mất mát khiến người đeo cảm thấy lo lắng.
  7. Không nên cho người lạ chạm vào bản mệnh Phật.   Sau một thời gian sử dụng, bản mệnh Phật có thể bị nhiễm bụi, bẩn. Nên dùng nước sạch hoặc nước có pha phấn đàn hương và khăn bông làm vệ sinh sạch sẽ.     Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh, mang theo bản mệnh Phật bên mình thì công đức vô lượng, tăng cường phong thủy. Không chỉ mang tới cho mình may mắn, phúc lành mà còn kết thiện duyên. Và quan trọng hơn cả là mang Phật bên người thì hãy có Phật trong tâm, tránh ác hành thiện là loại phong thủy tốt nhất.
 
=> Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd