Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Cải thiện vận may công việc nhờ một số mẹo vặt phong thủy

Nếu bạn muốn cải thiện vận may về công việc và tài lộc của mình trong năm mới, hãy làm theo một số mẹo nhỏ dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Dọn đống bừa bộn quanh cửa
 

Khu vực sự nghiệp trong nhà bạn liên quan đến cửa ra vào, vì vậy nếu cửa bị chặn, sự nghiệp của bạn sẽ gặp trở. Sự bừa bộn làm giảm năng lượng và ngăn chặn dòng chảy tiền bạc. Đảm bảo cửa trước của ngôi nhà luôn thông thoáng và không có rác thải. Và nếu cánh cửa bị kẹt cũng là điều bất lợi vì nó làm năng lượng tốt bị hao hụt đi. Hãy thường xuyên kiểm tra tình trạng cửa nẻo.

2. Thắp sáng cửa ra vào

Ánh sáng mang tới cơ hội tốt cho cuộc sống cả bạn. Hãy luôn để nguồn năng lượng dương tràn ngập cửa ra vào. Nếu không bạn có thể bật đèn cửa trước, kể cả vào ban ngày. Nếu bạn lo ngại về tiền điện, có thể bật khoảng 3h/ngày. Nếu bạn không có đèn ở ngoài, hãy bật đèn bên trong phòng. Sự chú ý của bạn tới ánh sáng sẽ giúp thúc đẩy sự nghiệp.

3. Chữa những thứ hư hỏng

Chiếc chuông cửa bị hỏng sẽ làm nảy sinh khó khăn trong công việc. Vì vậy, hãy đảm bảo nó luôn hoạt động. Ngoài ra, chú ý tới những hỏng hóc có thể làm giảm nguồn năng lượng tích cực của bạn. Hãy làm giàu thêm ngân quỹ bằng cách tự tay sửa chữa các hư hỏng.

4. Bật bếp lửa
    Hãy khởi động bếp lửa trong vài giây mỗi ngày. Bếp ám chỉ đồ ăn và sự dồi dào. Vì vậy, bạn cần phải kích hoạt sự dồi dào này bằng cách làm nóng bếp thường xuyên. Ngoài ra, cần phải giữ mặt bếp sạch sẽ bởi nó là dấu hiệu của sự thịnh vượng. Treo 1 chiếc gương nhỏ phía trên bếp để giúp kích thích vận may về tiền bạc. Giữ gương luôn sạch sẽ, không bám bụi bẩn, nếu không nó sẽ làm "lu mờ" nguồn thu nhập của bạn.
 
(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện vận may công việc nhờ một số mẹo vặt phong thủy

Phong thủy hoá giải nhà vệ sinh không hài hòa –

Hiện nay không ít kiểu nhà thiết kế theo xu thế trong phòng ngủ có buồng vệ sinh và phố biến một tình trạng là cửa buồng vệ sinh thường đối diện với đầu giường hoặc thân giường. Theo phong thủy như vậy là đã phạm vào điều đại kị. Trước kia người ta g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay không ít kiểu nhà thiết kế theo xu thế trong phòng ngủ có buồng vệ sinh và phố biến một tình trạng là cửa buồng vệ sinh thường đối diện với đầu giường hoặc thân giường. Theo phong thủy như vậy là đã phạm vào điều đại kị.
Trước kia người ta gọi nhà vệ sinh là “nhà cỏ”, “phòng cỏ”, nghĩa là nhà lợp bằng cỏ và chứa những thứ ô uế bẩn thỉu. Trong “Thuyết văn giải tự” viết về chữ “xí”: “Xí là nơi ô uế cần được vệ sinh làm sạch thường xuyên” . Cho nên đến hơn một ngàn năm nay, quan niệm nhà vệ sinh là hôi thối bẩn thỉu đã ăn sâu vào tiềm thức con người. Trong chữ Hán cổ, chữ xí có nghĩa là lợn trong chuồng. Ớ nông thôn, chuồng lợn thường cách nhà ở 20m đến 100m, có khi còn chia thành hai tầng, tầng trên nhốt lợn và làm nhà vệ sinh, tầng dưới dùng để chứa phân cho tiện. Cho nên phong thuỷ nói đó là nơi ô uế, hôi thôi, nếu để nó trong nhà thì quả là không hợp. Tuy nhiên, do điều kiện chật chội, nhiều người dân ở thành thị hiện tại bắt buộc phải để phòng vệ sinh trong nhà mình.

phong-tam-hien-dai-1
Phòng vệ sinh hiện đại thường có hai chức năng là vừa làm nhà xí vừa làm phòng tắm. Mặc dù con người hiện đại dã dùng đến các loại bồn cầu đảm bảo vệ sinh khá tốt, việc trang trí cũng ngày càng được chú ý hơn, trông khá đẹp mắt. Thế nhưng, dù thế nào thì bản chất của nó vẫn là nhà vệ sinh, là nơi chứa những thứ phế thải ô uế, điều đó là không thay đổi. Chính vì nhà vệ sinh có hai chức năng như vậy nên về phong thuỷ nó bị coi là nơi âm khí nặng, đồng thời là nơi sán sinh ra khí ô nhiễm. Nói đến nơi này người ta thường nghĩ ngay đến sự mất vệ sinh. Bố trí nhà vệ sinh trong phòng ngủ làm cho tính năng thông gió của nó kém đi, mỗi khi cửa phòng vệ sinh mở sẽ có vô khối khí bẩn bay ra. Nếu như giường ngủ thẳng với cửa phòng vệ sinh thì giường sẽ nằm gọn trong luồng khí bẩn đó. Sức khoẻ người nằm trên giường chắc chắn bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, nhà vệ sinh là nơi sinh ra khí ẩm, mọi hoạt động trong đó đều dùng đến nước, hơi nước rất nhiều. Dễ dàng nhận ra nhất là vào mùa đông khi chúng ta tắm bằng nước nóng, hơi nước bốc lên như sương mù trong phòng tắm. Hơi ẩm này sẽ nhanh lan đến phòng ngủ, chúng thấm vào những thứ dễ hút ấm như chăn, đệm, lâu ngày làm cho giường ẩm ướt giống như một chiếc “giường nước”. Ngủ trên giường như vậy làm sao có thế khoẻ được.
Từ đó có thể thấy, nhìn bề ngoài cửa phòng vệ sinh thẳng với giường có vẻ như là tiện lợi, nhưng tiềm ân bên trong là ảnh hưởng mặt trái của nó đối với sức khỏe con người. Phòng ngủ chứa phòng vệ sinh nếu xử lý không tốt nó sẽ biến thành một tên đại “sát thủ” của một số kiểu kiến trúc hiện đại, điều này hoàn toàn có cơ sở khoa học.

Vậy thì làm thế nào để phòng tránh và hoá giải được vấn đề không hợp phong thuỷ của nhà vệ sinh?

Với phòng ngủ có phòng vệ sinh bên trong thì giường phải đặt cách xa phòng vệ sinh. Khi chỉnh sửa cần chú ý không được để giường đối diện với cửa phòng vệ sinh. Trường hợp không thể tránh có thể đặt một tấm bình phong cây hoặc một chiếc tủ chắn ở giữa, hoặc có thể treo một tấm rèm ngăn cách. Ngoài ra có thể đặt một con rùa làm bằng đồng trong phòng tắm, con rùa này sẽ thu nạp hơi nước làm chuyển hoá khí sát. cần phải giữ cho phòng vệ sinh khô ráo, thông thoáng khí, sạch sẽ và thường xuyên đóng kín cửa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy hoá giải nhà vệ sinh không hài hòa –

Cách hóa giải nhà có sát khí –

Sinh khí ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người. Nhà có sinh khí tốt thì người sống trong đó cảm thấy bình an, ấm cúng và gắn bó. Còn nhà nhiều sát khí sẽ gây cảm giác bất an, căng thẳng, đau yếu do dễ gặp xui xẻo trong đời sống hàng ngày. Thự

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh khí ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người. Nhà có sinh khí tốt thì người sống trong đó cảm thấy bình an, ấm cúng và gắn bó.

nhadep2012

Còn nhà nhiều sát khí sẽ gây cảm giác bất an, căng thẳng, đau yếu do dễ gặp xui xẻo trong đời sống hàng ngày.

Thực tế sát khí chia làm 3 loại :

1- Sát khí hữu hình: Loại sát khí có thể nhìn thấy bằng mắt, thậm chí có thể sờ thấy như đầu hồi nhà người khác, phá sơn (núi đổ nát), lộ xung (đường chọc vào nhà), tháp sắt, cột điện…

2- Sát khí vô hình: Sát khí của các sao theo quan niệm của phong thủy Phi Tinh, bao gồm:

– Nhị Hắc Cự Môn tinh: Là sao bệnh phù, ngũ hành thuộc Thổ, gia chủ bệnh tật, ốm đau.

– Tam Bính Lộc Tồn tinh: Ngũ hành thuộc Mộc, gia chủ cãi cọ, phân tranh.

– Ngũ Hoàng Liêm Trinh tinh: Ngũ hành thuộc Thổ, gia chủ hung, tai họa hoạn

– Thất Xích Phá Quân tinh: Ngũ hành thuộc Kim, gia chủ tai họa hình thương, đạo tặc (trộm cướp), kiện cáo, phẫu thuật.

Bốn loại sát khí trên có thể bị hạn chế hoặc tăng cường khi kết hợp với các phi tinh khác.

3- Hung sát cổng và cửa sổ: Cổng và cửa sổ gia chủ bị góc nhọn của kiến trúc trước nhà (đình, chùa) hoặc bị đường xiên thẳng vào, hoặc đúng hướng của 1 trong 4 loại phi tinh chiếu. Loại hung sát này nguy hiểm, cần phải được hóa giải.

Nếu ngôi nhà mắc vào một số điều gây sát khí như đã nêu trên thì sẽ gây cảm giác bất an, căng thẳng, đau yếu do dễ gặp xui xẻo trong đời sống hàng ngày, bạn nên nhờ các chuyên gia xử lý cho từng trường hợp cụ thể. Hoặc bạn có thể sử dụng vật liệu theo ngũ hành sát khí như sau:

Theo ngũ hành, mỗi hướng đều tương ứng với một hành xác định. Vì thế để tìm cách hóa giải sát khí bạn cần biết hướng mà chúng đang nhắm vào nhà bạn, đặc biệt là vào cửa trước.

Trước hết, cần nắm được chu kỳ ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc; Mộc khắc Thổ; Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim.

Dùng la bàn để xác định hướng của nguồn sát khí đó. Khi đã xác định được hành của sát khí, bạn sẽ xác định được hành có thể làm lệch ảnh hưởng có hại của sát khí.

– Khi sát khí ở hướng Nam, thuộc hành Hỏa, thì dùng đài phun nước để làm lệch hướng của năng lượng Hỏa.

– Khi sát khí ở hướng Bắc, thuộc hành Thủy, thì dùng 1 bức tường bê tông tượng trưng cho Thổ hút hết Thủy.

– Khi sát khí ở hướng Đông hoặc Đông Nam, thuộc hành Mộc, thì dùng hàng rào kim loại để làm lệch hướng năng lượng Mộc.

– Khi sát khí ở hướng Tây hoặc Tây Bắc, thuộc hành Kim, thì dùng đèn chiếu sáng để làm tan chảy năng lượng Kim.

– Khi sát khí ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, thuộc hành Thổ, thì dùng hàng rào cây hoặc bờ dậu tượng trưng cho năng lượng Mộc bao phủ Thổ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà có sát khí –

Xem tướng lông mày trên khuôn mặt

Xem tướng lông mày nghĩa là quan sát lông mày trên khuôn mặt độ đậm, nhạt, rậm, thưa, dài ngắn, vểnh lên hay cụp xuống, từ đó có thể nhận xét về tài vận
Xem tướng lông mày trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lông mày hay còn gọi là Bảo thọ quan, xem tướng lông mày nghĩa là quan sát độ đậm nhạt, hình dáng, màu sắc, dài ngắn của lông mày, từ đó nhận định được những điểm đặc biệt của con người này.

1. Lông mày hình chim nhạn bay trên bầu trời là tướng tốt lành

Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày tượng trưng cho vua, mắt tượng trưng cho bề tôi. Tướng lông mày thanh tú mà dài hơn so với mắt, hình trạng của lông mày tựa như hình trạng của chim nhạn bay trên tròi là tướng tốt lành. Người có lông mày ngắn hơn so với mắt khó có anh em. Nếu có nhiều anh em, hầu hết cũng vất vả chẳng cậy nhờ được.

Xem tướng qua lông mày nhận định: Người có lông mày dài hơn so với mắt sẽ có anh chị em; lông mày dài hơn so với mắt, lại có hình trạng tựa như cầm chổi quét, người đó có nhiều anh chị em hơn. Người có lông mày và mắt dài bằng nhau, chỉ có 1 đến 2 anh em. Người có lông mày ngắn hơn so vối mắt, không có anh em, còn nếu có 1 đến 2 anh em thì cũng không phải là anh em ruột thịt. Từ 26 đến 35 tuổi về cơ bản có khoảng 4 – 5 năm vận số không tốt.

2. Tướng lông mày tựa trăng đầu tháng, cả đời hạnh phúc

Trong Quảng giám tập có chép: Lông mày được xem là vua của mắt, mầm của túi mật, vẻ ngoài của mặt. Lông mày thanh tú tức là tựa như vầng trăng khuyết, người như thế, đầu óc thông minh, có trí tuệ, có tài năng văn học, rất phú quý, địa vị hiển hách, cả đời giàu có. Từ năm 26 tuổi đến trung niên, công danh hiển hách. Quách Lâm Tông nói: Người có lông mày tựa như trăng khuyết, danh vang thiên hạ. Hứa Phụ nói rằng: Người có lông mày cong tựa hình trăng khuvết, chẳng phải lo chuyện cơm áo, cả đời chẳng nghèo khổ. Trong Thái thanh thần giám cho rằng: Người có lông mày cong cong, học thức cao siêu.

3. Giữa 2 mày rộng thoáng, cả đời hưởng phúc

Giữa 2 lông mày là Ấn đường, cũng được gọi là cung Quan lộc, cung Tướng mạo, cung Phúc đức, cung Tử khí. Trên mặt người, Ấn đường có mối quan hệ rất mật thiết với chuyện họa phúc của đời người. Người mà giữa 2 lông mày rộng thoáng, chia ra hai bên nhập vào tóc mai, cả đời hưỏng phúc, là người quý hiển. Năm 26 tuổi mới bắt đầu vận số, đến thời kỳ trung niên mới có thế có được công danh. Có một vị chân nhân là Vệ Lâm từng nói: Lông mày được tượng trưng bởi hai sao La hầu và Kế đô, mày rộng là tướng tốt. Mày nhập vào cung Tử khí là tướng xấu. Ngoài ra, 2 lông mày không được gần sát nhau. Trần Đồ Nam từng nói rằng: Người mà có lông mày dựng thẳng, lòng lang hiểm độc

4. Xem tướng lông mày dựng đứng có tâm thích sát phạt.

Trong Đại thống phú có chép: Người có lông mày dựng thẳng đứng, tính tình vội vàng, thần thái hung mãnh, thích tranh đấu với người khác, có sát khí, làm việc vô nguyên tắc. Lại nói: Người có lông mày dựng thẳng đứng thường là người lòng lang hiểm độc.

5. Xem Tướng lông mày đen dày, trông không cân xứng với mặt, chủ vất vả cả đời.

Trong Ngủ tổng quy có nói: Lông mày rậm đen, tóc thô dày cuộc sống sẽ không thuận lợi. Trong Vạn kim tướng nói: Nam là dương, người con trai mà có lông mày tựa mày hổ cả đời vất vả. Vậy lông mày như thế nào gọi là lông mày hổ? Lông mày đen dày đậm tức là lông mày hổ. Người mà có lông mày hổ, cả đời chẳng gặp nhiều chuyện vui vẻ. Từ 26 đến 35 tuổi vận số không tốt, chủ vất vả.

6. Xem bói lông mày giao nhau ở Ấn đường, cả đời bôn ba

2 lông mày tại vị trí của Ấn đường có sự giao hòa với nhau, tức là mọc lấn vào vị trí Ân đường. Vì Ân đường được gọi là cung Quan lộc nên người mà lông mày không mọc lấn vào Ấn đường sẽ được làm quan, lại có cuộc sống an nhàn. Người mà có tướng lông mày giao nhau, chẳng có được quan lộc, ngược lại còn phải bôn ba vất vả kiếm sống. Ấn đường cũng được gọi là cung Mệnh, lông mày được gọi là sao La, Kế, cho nên người mà có sao La, Kế nhập vào cung mệnh, cùng không được hưởng quan lộc.

7. Tướng lông mày dài sát mắt, tai họa không ngừng

Trong Quảng giám tập có nói: Lông mày là hai sao La hầu, Kế đô, tượng trưng cho mặt trăng và mặt trời của mắt. Lông mày sát mắt, tức là lông mày và mắt có sự tương liên, như thế là biểu hiện của 2 sao La hầu, Kế đô xâm phạm vào Thái âm và Thái dương. Mà Thái âm, Thái dương là sự hòa hợp của mặt trăng và mặt trời, là chủ của thân. Cho nên vận hạn qua tướng lông mày của những người này, từ 26 đến 29 tuổi vận thế không tốt; 37, 38, 39 tuổi cũng không thuận lợi. Tình hình như thế, nếu có sao Nguyệt bột chiếu rộng, Nhật, Nguyệt rõ ràng thì tai họa có thể giảm đi.

8. Xem bói người có xương mày nổi cao không nên kết giao

Lăng cốt nổi cao tức là người có xương nơi lông mày nối cao lớn và lộ rõ ra, cử chỉ thô lỗ, làm việc máy móc, chỉ biết hướng vể phía trước mà không biết tùy cơ ứng biến nên lùi về sau. Họ chỉ biết giữ mà không biết mất, chỉ biết thành công mà không biết đến thất bại. Kiêu ngạo, tự cao, tự đắc, rõ ràng biết việc không thể thành công nhưng vẫn theo đuổi một cách mù quáng, tính tình nóng vội, có tâm sát phạt. Người như thế không thế kết giao.

9. Trong lông mày có nốt ruồi, tốt xấu chẳng rõ

Trong tướng thuật, 2 lông mày có thể quản vận hạn của 4 năm. Trong đó, lông mày trái quản vận hạn 2 năm từ năm 26 đến năm 27 tuổi, còn lông mày phải quản vận hạn 2 năm từ 28 đến nảm 29 tuổi. Trong lông mày có nốt ruồi hoặc có đường vân, điềm tốt xấu trong đó có thể chia thành mấy loại sau đây:

-Người mà trong lông mày có nốt ruồi đen, khi còn nhỏ phòng gặp tai họa liên quan đến sông nước.

-Người mà đầu mày có nốt ruồi, tính cách thường cương nghị. Nếu phía trên lông mày có nốt ruồi, tất sẽ được làm quan mà trở thành quý nhân. Trong lông mày mà

có đường vân hình chữ “nguyên” hoặc chữ “thập” , người đó có phúc lại có tài. Trong lông mày mà có đường vân hình chữ “thổ”, hoặc có đường vân hình cánh chim, hình cá tất sẽ làm tới hàng đại tướng, công khanh.

– Người mà có khí sắc trên lông mày bỗng chuyển sang trắng tất gặp họa. Người mà phía trên lông mày bỗng chuyến sang màu hồng, trong vòng ít ngày tới sẽ bị quan trên trách mắng. Người mà trong lông mày bỗng nhiên xuất hiện lông tơ, được gọi là thọ mao (lông trường thọ). Tuy nhiên thọ mao xuất hiện sớm là không tốt. Trong Vạn kim tướng có nói: Người mà năm 20 tuổi có thọ mao sẽ khó sống qua 30 tuổi; 40 tuổi mới xuất hiện thọ mao, như thế tuổi thọ rất dài. Nếu 40 tuổi trở lên, trong lông mày đột xuất hiện thọ mao dài, người như thế trong vòng 3 năm sẽ gặp được việc tốt lành.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng lông mày trên khuôn mặt

Các ngày “Kiêng đi thăm người Ốm” –

Các ngày: Nhâm Dần Giáp Dần Nhâm Ngọ Ất Mão Canh Ngọ Kỷ Mão. Đến thăm người ốm vào những ngày này sẽ không tốt, gây bất lợi cho người ốm. Có thơ rằng: “Nhâm Dần, Nhâm Ngọ liền Canh Ngọ Giáp Dần, Ất Mão, Kỷ Mão phòng Thần tiên lưu hạ thử lục thần Thăm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các ngày:

hoa-cho-nguoi-benh

  1. Nhâm Dần
  2. Giáp Dần
  3. Nhâm Ngọ
  4. Ất Mão
  5. Canh Ngọ
  6. Kỷ Mão.

Đến thăm người ốm vào những ngày này sẽ không tốt, gây bất lợi cho người ốm.

Có thơ rằng:

“Nhâm Dần, Nhâm Ngọ liền Canh Ngọ
Giáp Dần, Ất Mão, Kỷ Mão phòng
Thần tiên lưu hạ thử lục thần
Thăm người tật bệnh dễ lâm vong!”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngày “Kiêng đi thăm người Ốm” –

Cách hóa giải đơn giản quan hệ tương khắc trong các cặp con giáp

Đôi khi mối quan hệ tương khắc gây ra không ít phiền toái, nếu muốn hóa giải quan hệ tương khắc nên tham khảo bài viết dưới đây.
Cách hóa giải đơn giản quan hệ tương khắc trong các cặp con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Đôi khi mối quan hệ tương khắc gây ra không ít phiền toái cho chính bạn và những người xung quanh. Nếu muốn hóa giải các mâu thuẫn, giúp cuộc sống thư thái hơn, bạn có thể tham khảo nội dung dưới đây.


=> Tra cứu: Lịch vạn niên 2016, Lịch âm 2016  chuẩn xác tại Lichngaytot.com

ngu hanh chi
 
1. Tý và Ngọ


Để hóa giải quan hệ tương khắc Tý và Ngọ cần dùng yếu tố Mộc. Bởi Tý Thủy, Ngọ Hỏa, Thủy Hỏa tương khắc.

Chỉ có Mộc mới có thể điều hòa được mâu thuẫn mang tính đối kháng này, làm cho Thủy thay đổi để sinh ra Mộc, rồi tiếp tục quá trình sinh Hỏa.

Khi mối quan hệ giữa Tý và Ngọ phát sinh mâu thuẫn, có thể mời Dần hay Mão đến để hóa giải, vì Dần và Mão có mệnh cách ngũ hành Mộc, có thể phát huy tác dụng giải hòa mâu thuẫn.

 
quan he xung khac1
 
2. Sửu và Mùi


Nên dùng yếu tố ngũ hành Kim để giảm trừ nhuệ khí xung khắc của Sửu và Mùi. Vì Sửu Thổ, Mùi Thổ, mối quan hệ Thổ Thổ là đối kháng tương đương, chỉ có Kim mới có thể khơi thông, hóa giải sự đối kháng ấy.

quan he xung khac
 
3. Dần và Thân

Cần dùng yếu tố Thủy để điều chỉnh, hóa giải mối quan hệ tương khắc Dần và Thân. Dần Mộc, Thân Kim, Kim khắc Mộc, Kim chiếm thế thượng phong, Mộc bị khắc chế, chỉ có Thủy mới làm giảm bớt nhuệ khí của Kim, chuyển hóa để sinh Mộc, biến hại thành lợi.

  4. Mão và Dậu


Tương tự với cặp Dần Thân, nên dùng yếu tố Thủy để hóa giải quan hệ tương khắc Mão Dậu. Mão Mộc, Dậu Kim, Kim khắc Mộc, Kim được lợi, Mộc chịu tổn thương, chỉ có Thủy mới có thể hóa giải mâu thuẫn đó. Nhưng lưu ý, thêm Thủy vừa đủ, nhiều quá không được, ít quá vô dụng.

Hé lộ bất ngờ về top 3 “chàng giáp” nghe lời vợ răm rắp
– Dù mạnh mẽ, oai hùng kiểu “thét ra lửa” là thế, nhưng khi đã rơi vào lưới tình, khi đã lập gia đình, chàng trai tuổi Dần lại bị ảnh hưởng
5. Thìn và Tuất


Thìn và Tuất đều có ngũ hành mệnh cách thuộc Thổ, quan hệ đối kháng của cặp đôi này không phân cao thấp, ai cũng không chịu nhường ai, chỉ có Kim mới có thể cùng lúc hóa giải, tiêu trừ sự xung đột ấy.

6. Tỵ và Hợi

Tỵ Hỏa, Hợi Thủy, Thủy Hỏa tương khắc, Thủy được lợi, Hỏa chịu tổn thương, khó mà hòa thuận được. Tuy nhiên, có thể dùng Mộc để hóa giải quan hệ tương khắc. Sức mạnh của Mộc làm cho Thủy thay đổi để sinh ra Mộc, rồi tiếp tục quá trình sinh Hỏa, biến thù thành bạn, mọi sự hanh thông.

Ngọc Diệp

Hé lộ 4 con giáp tập xác định yêu là cưới
– Trong tiềm thức của người tuổi Sửu, yêu đương chỉ là giai đoạn “làm ấm” cho hôn nhân mà thôi. Tình yêu cần có sự hài hòa với hiện thực, với

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải đơn giản quan hệ tương khắc trong các cặp con giáp

Thái Tuế Nhập Quái

Một bài viết về chủ đề Thái Tuế Nhập Quái rất đáng tham khảo.
Thái Tuế Nhập Quái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ông Trần Thế Hưng (Đài Loan) thuộc thế hệ 5x, là lớp nổi lên sau ông Tử Vân (Đài Loan). Theo lời tự thuật thì ông bắt đầu với khoa Tử Bình, từng theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian và có qua lại với Liễu Vô cư sĩ, nhưng sau nhờ một thầy khác mới được “mở hai mạch nhâm đốc”, mạnh dạn vừa làm thầy xem Tử Vi vừa viết sách Tử Vi dương danh thiên hạ. Các sách của ông Hưng nhắm vào những lá số người thật có cùng nét đặc biệt như “Vi hà bất hôn thiên” (vì sao không lập gia đình), “hôn ngoại tình thiên” (những kẻ ngoại tình). Bài sau đây được chọn vì có xử dụng cả hai kỹ thuật sau:

- Phép mượn cung: Phép này khá thông dụng ở Đài Loan, được nhiều người xử dụng từ lâu. Thí dụ: Ông X đang ở cung Tí thì cung thê của Tí (tức cung Tuất) ứng với vợ hoặc tình nhân của ông X. Giả như ông X ngoại tình với một người đã có chồng là bà Y trong hạn này thì bà Y ứng cung thê của hạn nên ứng cung Tuất (thê của Tí). Lại nữa, vì bà X ứng cung Tuất nên chồng bà X ứng cung Thân (là cung phu của Tuất). Đại khái như thế.

- Phép “Thái Tuế nhập quái”: Phép này nhờ ông Tử Vân mà trở thành hết sức phổ biến ở Đài Loan, dù chỉ mới nổi lên trong vòng hơn hai mươi năm nay thôi. Như trường hợp ông X ngoại tình với bà Y như ở trên nếu dùng lá số của ông X để xem diễn biến ra sao thì coi cung có địa chi của bà Y ứng với bà Y, lại thêm các sao hóa theo năm sinh của bà Y vào; rồi phối hợp dữ liệu mà đoán tốt xấu. Nói chung chung nhiều lộc tụ tập thì tốt, bị kị sát tụ tập thì xấu nhưng đi vào thực tế thì có thể hết sức phức tạp.

Chú ý về cách xem nhân duyên của ông Trần Thế Hưng

Chỉ xem chính tinh tứ hóa Lộc Tồn lục cát lục sát Khốc Hư Hình Riêu Đào Hồng Hỉ. Các sao còn lại bất luận lớn (như Tuần Triệt song Hao) hoặc nhỏ (như Giải Thần, Âm Sát) đều không xem.
An Hỏa Linh thuận theo giờ cả, không phân nam nữ âm dương như VN.

Trích sách “Hôn ngoại tình thiên” (dịch nghĩa “Các lá số ngoại tình”), 1994, nxb Tiêm Đoan, Đài Bắc.

Trường hợp 11: Cô Dương, Ất Mùi 1955, âm lịch tháng 3 ngày… (3 hoặc 13, hỏa lục cục, mệnh cư Sửu vô chính diệu, phu Tử Sát cư Hợi) giờ Mão.

Nguyên tác: Trường hợp 11: Cô Dương, trang 154-171, Trần Thế Hưng, “Hôn ngoại tình thiên”, Tiêm Đoan, Đài Bắc 1994.

VDTT phỏng dịch và chú thích

Cô D làm nghề phục vụ, việc không ổn định. Năm Quý Hợi quen ông M sinh Mậu Tý (1948), năm Ất Sửu 1985 sinh đôi. Năm Tân Mùi 1991 quen ông R (Kỷ Mão 1939) đã có vợ.

Mệnh Kỷ Sửu VCD Linh độc thủ (dịch giả chú = dgc: Cách tiêu chuẩn của Đài Loan là Hỏa Linh an thuận theo giờ cả), xung có Vũ Tham Xương Khúc, tam hợp Phủ Tướng.

Mệnh: VCD, hai cung giáp cung VCD nên mệnh ở vị trí rất yếu. Khi một mình đối diện chính mình không khỏi có cảm giác cô độc lo sợ, cho nên thành tính lệ thuộc ngoại cảnh, không thích một mình. Tự tin không đủ nên không hợp các công việc khó khăn phải tự quyết định nhiều, tốt nhất là có liên hệ với người. Cô D làm nghề phục vụ vậy là thích hợp cá tính.

Linh Tinh độc thủ khó tránh nóng vội, vì VCD tính nóng vội thường khiến mình phiền lụy mệt mỏi, may không gặp Kình Đà bằng không thì như người xua nói “khó tránh hình khắc”.

Mệnh VCD, di là lốt giả, Vu Tham Xương Khúc thành nhiều cách cục Xương Tham, Khúc Tham, Linh Tham, LXĐV (trong luu niên). Cô D bản tính bất ổn, có suy nghi khác thường, khả năng học hỏi cao, cũng dễ tẩu hỏa nhập ma. Thuộc týp dễ lên dễ xuống. Làm việc sáng kiến chẳng dở, công việc nhiều biến đổi.

Người xưa nam mệnh thích Xương Khúc, như “Văn Khúc Văn Xương Thiên Khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân”, “Tuấn nhã Văn Xương, mi thanh mục tú; lỗi lạc Văn Khúc, khẩu tài tiện ngụy…”, “Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng”… (nhưng) nữ mệnh gặp Xương Khúc thì e bất cập, như “Văn Xương Văn Khúc phúc bất toàn”, “Dương phi háo sắc tam hợp Văn Xương Văn Khúc” vân vân… Thời đại ngày nay nam nữ mệnh giống nhau, ưu điểm là khả năng học tốt, ngoại hình khá; khuyết điểm là dễ chuốc phiền toái, khôn quá hóa dại; nhất là hai sao Vũ Tham rất kị Xương Khúc. Sinh giờ Mão, Dậu rất dễ gặp hai sao này cùng chỗ.

Tại sao Tham Vũ không thích gặp Khúc Xương?

1) Vũ Tham gặp Xương Khúc thành cách ác Xương Tham, thêm Linh Tinh lại thành cách LXĐV, một đời khó tránh lên xuống gập ghềnh.

2) Đại hạn luu niên dễ gặp Kị. Kỉ Tân Nhâm Quý 4 năm đều có Kị, cơ hồ thành cách “liên Kị“. Đại hạn có may tránh đuợc thì lưu niên cũng chẳng thoát qua, khiến con người bất ổn hoặc vận hạn gập ghềnh.

Theo kinh nghiệm của người viết (dgc: tức ông Trần Thế Hưng), diễn viên và quảng cáo viên nhiều người có số thế này. Bởi vì đời họ hoặc công việc của họ phù hợp với tính nhiều biến đổi, hay là vì làm các nghề ấy mà sinh ra nhiều biến đổi?

“Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân” thời xưa có thể phù hợp bởi người Vũ Tham phải có tuổi mới ổn định, mà (xưa) cá tính ổn định mới mong có tiền đồ. Ngày nay đời sống biến đổi, cá tính bất ổn có khi hợp trào lưu; nên anh hùng xuất thiếu niên chưa chắc là việc khó, miễn là vận hạn tốt, cá tính ngoại hình không quá khó thương. Người xưa ắt nói đúng, nhưng thời đại biến đổi, theo người viết phải uyển chuyển không thể quá câu nệ; phải dựa vào các ngành nghề (phù hợp hay không) mà dụng lẽ biến thông.

Thân (thiên di): Thân cư thiên di nên rất chú ý lời bình luận của người khác, lại nữa mệnh VCD nên tình hình càng nghiêm trọng. Có lúc tỏ ra cứng cỏi vì sợ người khác biết là mình “rỗng” và bất an. Di có thể nói là mạnh nên khả năng giao tế, tiếp xúc khá, lắm bạn và nhiều loại (Tả Hữu). Cho người ta ấn tượng tốt.

Phúc: Liêm Phá trái phải có Kình Đà giáp chế, hai bên đều VCD, khó thoát cảnh tâm sự trùng trùng không khai mở được. Tinh thần thiếu chỗ nương tựa. Tương đối coi trọng tiền tài.

Phu thê: Tử Sát một thuộc thổ một thuộc Kim đều không đủ linh động, xử lý tình cảm không khỏi quá lí tính, là loại ngoài nhiệt tâm mà trong lãnh đạm, tự nhiên bất lợi cho phương diện tình cảm.

Tam phương không thấy Tả Hữu, là kết cấu “cô quân”. Lúc khởi sự có thể hứng thú, sau thành thực tế. Loại người này chẳng phải là không thích hợp kết hôn, nhưng phải tìm bạn đời có tính độc lập, ai lo chuyện người nấy, không can thiệp người kia. Sống rất thực tế thì lại có thể lâu dài. Giả như gặp người tính lãng mạn, thích gần gũi thì lại có thể chịu không nổi. Loại người này, cổ nhân liệt vào dạng “cô khắc”.

Chẳng phải là người ta không thích được yêu, chỉ là mỗi ngưòi thích được yêu một cách khác nhau, chẳng thể lấy cái nhìn của mình để xét ngưòi khác.

Tiêu chuẩn chọn đối tượng của cô Dương khá cao. Không được đóng ấn phê chuẩn thì đừng hòng làm khách vào được vòng trong.

Giải thích các đại vận

Kỷ Sửu (6 đến 15 tuổi): Vũ Lộc Tham Quyền Khúc Kỵ đều ở di cả nên lúc nhỏ ra ngoài nhiều, thích nổi; ở nhà không thuận lợi.

Mậu Dần (16 đến 25 tuổi): Tham Lộc nhưng Cơ chuyển Lộc ra Kỵ, thành thử mệnh đắc Lộc còn hạn bị song Kỵ. Hạn lại VCD bị Không Kiếp Đà thủ chiếu, là vận yếu nhất trong đời. Nhà bi phá sản, kinh tế khốn quẫn mà cô Dương tranh thủ học được đại học là tại sao? (Trần Thế Hưng chú: Xem Lộc Quyền ở đâu).

Cô Dương hạn tài, quan đều có Kỵ, khi đối diện chính mình tất khổ không thể nói được; nhưng ngoài mặt vẫn tươi cười, lại nghĩ được biện pháp kiếm tiền để tiếp tục học hành; tại sao thế, bạn có xem ra không?

Định nghĩa vài thuật ngữ:

Tiên thiên (ứng toàn bộ): Tiên thiên mệnh là cung mệnh, tiên thiên phu là cung phu v.v…

Hậu thiên, hạn (ứng đại hạn 10 năm): Hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh là cung đại hạn. Từ cung đại hạn lùi lại 2 cung thì được hậu thiên phu hoặc hạn phu. Thí dụ đại hạn ở cung Hợi thì gọi Hợi là hậu thiên mệnh hoặc hạn mệnh, gọi Dậu là hậu thiên phu hoặc hạn phu.

Lưu (ứng một năm): Lưu mệnh là cung chứa lưu Thái Tuế. Từ lưu mệnh lùi lại hai cung được lưu phu. Như năm xem hạn là năm Tí thì Tí là lưu mệnh, Tuất là lưu phu.

Kỷ Mão (26 đến 35 tuổi): Tứ hóa như hạn Kỷ Sửu, chỉ khác là bây giờ (Lộc Quyền Kỵ) ở hạn quan thay vì hạn di. Ba hạn liên tiếp bản mệnh đắc Lộc, hạn mệnh đắc Quyền nên trong gian khổ cô Dương vẫn đi đến trước. Hạn quan của cô Dương hình thành nhiều cách cục nên đổi việc khá nhiều lần; nhưng mặc dù công việc khác nhau vẫn có điểm chung là cơ bản dựa trên tiền thưởng, tiền hoa hồng.

Tiên thiên phu (chú: tức phu nguyên thủy) cũng ba hạn hội Lộc, cô Dương chẳng phải bỏ qua chuyện ái tình, chẳng qua hạn Mậu Dần binh hoang mã loạn, chẳng có thời giờ để bàn tính yêu đương; huống chi tiên thiên phu bị song Kị giáp chế (dịch giả chú: theo phái Tử Vân, một Kị của Âm từ Ngọ chiếu vào cung Tí VCD, Kị kia là Cơ ở Tuất hạn Mậu), nào phải dễ đâu!

Vận Kỷ Mão thì khác. Hạn thê có Lộc (Vũ) chiếu, thêm Linh thành cách Linh Tham, dễ nói chuyện yêu đương. Nhưng bị Khúc Kỵ thành cách Khúc Tham và Linh Xương Đà Vũ, sinh hoạt ái tình khó tránh trở ngại, muốn gặp đối tượng hôn nhân thích hợp có phần khó, huống chi hạn phu chính là bản mệnh là vị trí vừa bất ổn vừa yếu đuối, giả như kết hôn thì có thể sinh biến.

Người viết từng nhấn mạnh nhiều lần. Mười hai cung đều là ta cả. Cách cục đều sẽ gặp, chỉ khác là khi gặp thì hóa Lộc hoặc hóa Kỵ mà thôi. Như trường hợp cô Dương tiên thiên mệnh yếu nhược như thế, lại hình thành quá nhiều cách cục: Cơ Lương Kình Dương hội, Cự Hỏa Kình, Xương Tham, Linh Tham, Khúc Tham, Linh Xương Đà Vũ v.v… hành vận quả là khó khăn, trở ngại hơn người ta nhiều.

Kế tiếp chúng ta xét đoạn tình giữa cô Dương và ông M.

Năm Quý Hợi cô Dương 29 tuổi, lưu phu ở Dậu có lưu Lộc (Phá Quân) và Linh Tinh hội chiếu. Đại vận phu có Vũ Lộc Khúc Kỵ và Tham Kỵ xung chiếu là một kết cấu “cát xứ tàng hung” (Lộc phùng xung phá, phát động các cách xấu, đi đường dài thì gặp trở ngại.) Tiên thiên phu cũng hội chiếu song Lộc và song Kỵ. Cô Dương nội tâm không bài xích ái tình, lưu niên lại có cơ hội dẫn động, tự nhiên dễ sinh chuyên tình cảm, chỉ là vận phu kết cấu quá yếu, nên một là gặp đối tượng rồi có vấn đề, hai là cố duy trì nhưng gặp trở ngại trùng trùng.

Coi cung phu của lưu niên như cung mệnh của ông M thì Mùi là thê của ông này; lắm cách cục như thế, lại hiện đủ Lộc Kỵ xem ra mặt tình cảm của ông M phức tạp biến động nhiều. Nói cách khác, không dùng điều kiện du nhập thêm đã thấy năm này cô Dương muốn gặp đối tượng tốt thật chẳng dễ gì.

Ở đây có vấn đề trong vòng bàn cãi: Cùng lá số, vận phải giống y nhau hay sao? Cho nên người biết lô gích khoa học bài xích Tử Vi, bảo là phi lí, mê tín. Ông Liễu Vô có đề xướng rằng phải du nhập thêm dữ liệu mới mong luận mệnh, đừng hòng dùng lá số chung mà đoán cho trường hợp riêng (dgc: Liễu Vô đây là ông Liễu Vô cư sĩ, từng đề xướng nhu cầu thêm dữ liệu trong loạt sách Hiện Đại Tử Vi. Thực ra, đây là luận điểm của thầy ông Liễu Vô cư sĩ, tức ông Tử Vân, ông Liễu Vô cư sĩ chỉ làm việc tường thuật. Sau này ông Liễu Vô có một số chủ trương khác với ông Tử Vân, nhưng đó là chuyện khác). Luận điểm này xét ra hợp lý, nhưng rốt ráo thì mệnh lý thuộc triết học không phải khoa học, không thể lập lại thí nghiệm, cũng có những tính chất không giải thích bằng khoa học được. Ta không thể nói cái gì khoa học không giải thích được thì không tồn tại (bởi) chúng ta biết rằng khoa học vẫn không giải thích được hết mọi hiện tượng và sự thật.

Cùng một lá số nhất định có điểm giống nhau, nghĩa là có (một số) tiềm năng, cá tính, khuynh hướng tương tự; nhờ đó mà chúng ta có thể chỉ bằng lá số mà đoán cá tính và kể ra những đặc trưng về nhân cách, khiến người ta không thể hoài nghi về độ chuẩn xác (của lá số). Vận hạn lên xuống, chuyển ngắt vì chịu ảnh hưởng hoàn cảnh mà là phương diện có tính cá biệt hơn hết. Tuy nhiên, chỉ cần cùng lá số là phải có điểm tương tự. Chẳng hạn một người lên đỉnh cao thì không thể nào người khác xuống vực thẳm. Giá trị tuyệt đối có thể khác nhau, nhưng nội tâm cảm thấy thế nào (tâm thái) thì phải tương tự.

Du nhập điều kiện chẳng qua là tùy người, sự, vật đặc thù mà quan sát, phân tích, so sánh; hy vọng từ đó suy ra sự phát triển hỗ tương (giữa các yếu tố). Nói rộng hơn chút là hy vọng dùng lá số của mình để đoán ra trạng thái của đối phương mà thôi.

Các sao trong lá số đã định thì có thể đoán các vận tốt xấu thế nào. Người có kết cấu thế này thì dễ xảy ra diễn biến thế kia; việc này khi phát sinh thì dễ có kết cục như thế kia v.v… Bởi vậy người luận mệnh theo cách truyền thống không du nhập thêm dữ kiện mà vẫn thường đoán ra hoàn cảnh của bạn.

Về việc luận hạn không đúng, thường tùy thuộc kinh nghiệm tu dưỡng của người đoán. Như người không tiêu hóa cái cũ, không uyển chuyển biến thông thì nhất định đoán không đúng; người biết phân tích khách quan, chịu vận dụng các điều kiện được du nhập để quan sát thì có thể tăng độ chính xác; nhưng đừng nghĩ đến việc chính xác trăm phần trăm vì khi xét đại hoàn cảnh của con người thì xã hội hôm nay phức tạp hơn hẳn ngày xưa, chỉ qua một đêm đảng cộng sản giải thể (dgc: Sách này in năm 1994, nhiều đảng cộng sản Đông Âu giải thể năm 1989, có lẽ đây ám chỉ việc ấy), qua một đêm sẽ còn chuyện lớn nào xảy ra nữa? Khó mà dự liệu. Độ chính xác con người có thể đạt tới khó mà biết được.

Hóa Lộc tăng độ tự tin và khả năng phán đoán của ta. Hóa Kị khiến ta lòng động tâm biến, thậm chí tạo hành vi sai lầm. Nhìn từ một góc độ khác hóa Lộc là “động năng” có ích cho thực tế mưu danh cầu lợi, hóa Kị là “tĩnh năng” (dịch giả chú: Ở đây soạn giả dùng chữ “vị năng”, vị đây là vị trí, ý nghĩa chính xác nhưng tiếng Việt dễ bị hiểu lầm, bởi vậy dịch giả mạn phép đổi thành “tĩnh năng”, tĩnh đây phản lại nghĩa động, thiếu chính xác hơn so với “vị năng” nhưng khó hiểu lầm hơn) thích hợp cho việc tiềm ẩn tích lũy, lợi cho việc phản tỉnh, kiểm thảo, tập luyện. Hóa Lộc thì phải phát huy tinh lực, xung kích đạt mục tiêu; hóa Kị thì phải suy tư, lo nghĩ, cẩn thận trong công việc. Như thế Lộc Kị đều là đời sống con người, có gì phải sợ? Sợ chăng không biết tiến thối mà thôi!

Hệ thống giáo dục của chúng ta dạy chúng ta phải “hóa Lộc” như thế nào, nhưng ít nói đến khi “hóa Kị” phải cư thể nào cho đúng; có nói chúng ta phải cắn răng cố vượt qua khổ ải, đừng táng tâm thối chí, không thành công thì thành nhân v.v… Đời người chỉ là tranh chức quán quân hay chăng? Quán quân chỉ có một người, cũng chẳng có “thường thắng tướng quân” (ông tướng thắng hoài), vậy những người còn lại chẳng có tiền đồ hay sao? Học mệnh lý phải nhìn rộng, lòng cũng phải mở rộng, tâm phải có sự thiện, bằng không càng học càng phiền, càng không thoải mái; chẳng bằng không học biết gì về mệnh lý.

Nói lan man vậy quá đủ. Chúng ta hãy trở lại với liên hệ hỗ tương giữa cô Dương và ông M.

Ông M sinh năm Mậu Tí, thành ra Lộc (Tham) chiếu hai cung phu nguyên thủy và hậu thiên (của cô Dương), lại tam hợp lưu niên, cho nên cô Dưong dễ động lòng vì cái tình của đối phương. Từ cung Tí là cung trọng điểm của ông M mà xét thấy có Âm Hỏa Kị thành cách “thập ác”, nhưng cung Tuất lại có Lộc (Cơ) Quyền (Lương) nguyên thủy của cô Dương, ý là ông M cùng cô Dưong có tình không duyên, lâu rồi cô Dương sẽ bỏ ông, nhưng vì lưu niên dẫn động quá mạnh, đại vận phu lại có kết cấu như thế mới tạo thành mối tình lẽ ra không nên có như vậy.

Bất luân dùng lưu niên hoặc thái tuế nhập quái, cung thê của ông M đều hiển nhiên có vấn đề to. Lưu niên thê ở Mùi tựa hồ là vị trí đa tình và bất ổn; còn Tuất thì có Kị (Cơ) nguyên thủy của ông M, lại thành cách cô khắc “Cơ Lương Kình”. Ông M năm ấy 37 tuổi, có gia đình rồi mới phải, nhưng vẫn độc thân (Kình của ông M ở Ngọ cũng chiếu vào Tuất).

Năm Giáp Tí 1984 cô Dương có thai, chuẩn bị lấy ông M thì phát hiện ông M bề ngoài văn nhã mà thực ra có đi lại với băng đảng, vả tính tình bất định, ở càng lâu càng chịu không nổi, không biết thời khắc tới là vui hay giận. Trong cảnh bạn với người như bạn với hổ đó, cô quyết định bỏ đi, bạn thử đoán xem tại sao?

Lưu niên tam kỳ gia hội (Liêm Phá Vũ) tái cát hóa Hợi và Dậu; nhưng Nhật kỵ dẫn động Âm Kị xung Tí, lại khiến Mùi thành song Kị giáp Kị. Mùi đại biểu gì? Lại xung Sửu có ý nghĩa gì? Xin độc giả suy nghĩ. Chẳng phải là người viết “bán cái” mà là để quí vị tự xem mình đã luyện đến đâu.

Năm Ất Sửu Lộc Quyền ở bản mệnh tử và lưu niên tử, nhưng đại hạn tử không tốt. Cô Dương sinh hai trai, trao cho người khác nuôi nấng.

Hạn Canh Thìn (36-45 tuổi)

Đại hạn VCD có Kình Hỏa không khỏi lao khổ. Được Nhật hạn Lộc và Cơ nguyên Lộc chiếu nên (thành quả) tốt. Hai Lộc này giáp Dậu nên sự phát triển của hạn này dựa trên cái nền có sẵn của hạn Kỷ Mão (dịch giả chú: Ấy bởi vì song Lộc ứng với cái tốt của hạn Thìn lại làm lợi Dậu, mà Mão tức đại hạn trước xung Dậu, nên cái tốt của hạn này có liên hệ với hạn trước, tức là những liên hê của hạn cũ có biến chuyển tốt đẹp trong hạn này).

Hạn quan của cô Dưong 20 năm tọa Lộc là cơ hội tốt, sự nghiệp phải có một thành tựu nào đó. Nhưng hạn Kỷ Mão Lộc Kỵ cùng thủ tạo nhiều cách ác thành thử khó ổn định. Hạn Canh Thìn tốt hơn, dù có sát tinh nhưng chỉ có Lộc không gặp Kỵ trở ngại tương đối ít. Thế nhưng muốn việc suôn sẻ từ đầu đến cuối e chẳng dễ dàng; rốt ráo thì vì nguyên mệnh và hạn mệnh đều vô chính diệu khó tránh ảnh hưởng của hoàn cảnh, phải đổi thay cho phù hợp khó mà giữ được lập trường, phương hướng.

Hạn phu ở Dần VCD Đà La Địa Kiếp thủ là vị trí bất ổn. Tam phương tuy được song Lộc chiếu nhưng cũng bị song Kị ở hạn phúc chiếu (chú: Âm Kị nguyên thủy và Đồng hạn Kị); vậy là Lộc phùng xung phá, không tốt.

Nếu coi cung Dần (hạn phu) là đối tượng, thì cung thê của đối tượng ở Tí VCD lại bị Hỏa Âm (thập ác) và Kình Âm (nhân li tài tán) chiếu. Cô Dương có nhiều cơ hội được người theo đuổi, chỉ là những người ấy cảm tình có vấn đê.

Năm Tân Mùi cô Dương 37 tuổi, lưu niên ở di nguyên thủy, cách cục to, nhưng Xương lưu Kị thủ, cô Dương có xác xuất cao hành xử sai lầm.

Bản mênh phu có cách ác Xương Tham chiếu, nội tâm đối với hôn nhân có khuynh hướng làm trái lẽ thường, tuy không nhất định kết hôn nhưng có thể dính líu đến một đoạn “kỳ tình”.

Đại vận phu đắc 3 Lộc hội chiếu, tăng độ ổn định rất nhiều, nhưng cung VCD rốt ráo vẫn là VCD, có mối nguy chìm nổi bất thường.

Lưu phu có Thiên Phủ là một sao ổn định, ngưởi gặp điều kiện có lẽ chẳng dở (cung quan Dậu có hai Lộc giáp phù), cung phu Mão bị Kình Đà giáp chế (cho nên) cẩn thận trong việc hôn nhân, nhưng gặp Xương Kị (cho nên) năm ấy cảm tình, hôn nhân có vấn đề.

Ông R sinh năm Kỷ Mão 1939, hơn cô Dương 16 tuổi, mệnh Lôc (Vũ) và Kỵ (Khúc) đều ở lưu niên mệnh (Mùi) cũng là cung thân của cô Dương, lại chiếu tiên thiên phu (ở Hợi) nên năm Tân Mùi cô Dương cảm sự chiếu cố của ông R.

Mão là cung trọng điểm của ông R, hai cung giáp đều VCD. Nhật Lộc (hạn Canh) xung đến Dần, Cơ Lộc (mệnh Ất) xung đến Thìn, khiến Mão được tính ổn định của song Lộc giáp, chỉ là ảnh hưởng tương đối nhỏ (chú: vì đều do xung cả). Cô Dương ắt có ấn tượng tốt với ông R, và có một loại duyên phận khó diễn tả thành lời được.

Sửu ứng cung thê của ông R, chính là bị cách Linh Xương Đà Vũ, quan hệ giữa cô Dương và ông R. có tính “đảo điên”, lẽ ra không nên có lại có (chú: Vì cách Xương Tham, Khúc Tham là “li chính vị nhi đảo điên”). Ông R. sự nghiệp đã thành, vợ con đều đã di cư ra nước ngoài chỉ còn mình ông trong nước, mới có cơ hội trồng nhân cho đoạn tình này.

Cô Dương và ông R tương lai phát triển thế nào?

Nếu xét đại vận phu thì Tân Tị, Nhâm Ngọ hai hạn Lộc đều chiếu đến Dần (chú: Cự hóa Lộc và Lương hóa Lộc), tựa hồ tình chưa hết; nếu xét Sửu (chú: coi là cung thê của ông R sinh năm Mão) thì ba vận sau Kị đều chiếu cả, tựa hồ tình đã dứt; vậy giải thích làm sao?

Cô Dương không thể thành vợ của ông R, nhưng liên hệ giữa hai người có thể tiếp tục phát triển, chỉ là từ hạn Tân Tị trở đi thì tình cảm cô Dương dành cho ông R càng lúc càng nhạt đi. Nhanh thì năm Bính Tí (42 tuổi ta) Liêm Kị nhập Mão tình cảm phai mờ, chậm thì năm Nhâm Ngọ (48 tuổi ta) vì Vũ Kị xung kích Mão.

Các hạn về sau:

Ba hạn Tân Tỵ, Nhâm Ngọ, Quý Mùi Kỵ đều ở Mùi, phá hoại mệnh, thân và ảnh hưởng tiên thiên phu, khiến cô Dương tâm tình khó ổn định, chuyện muốn kết hôn khó xảy ra, mà nếu kết hôn thì chẳng tốt đẹp được.

Ngoài ra cô Dương hạn Canh Thìn, Tân Tị phúc đức đều hóa Kị, thành các cách ác Âm Hỏa, Linh Xương Đà Vũ v.v… ngoài cái lo mất tiền ra, trạng thái tâm lý cũng cần đề phòng, nhất là hạn Tân Tị (dịch giả chú: Vì phúc ở Mùi cách cục rất rõ nét).

Lời kết:

Cô Dương cảm tình không thuận lợi, có thể cả đời không thành hôn, nguyên nhân có thể quy về:

Một: Mệnh vô chính diệu, hai cung giáp cũng vô chính diệu, hội họp có nhiều cách ác; khiến cá tính bất an, hành sự thiếu chín chắn, phán đoán dễ sai lầm.

Hai: Tiên thiên phu sao quá cương, lại vào cách cô quân, trừ tiêu chuẩn cảm tình quá cao, xử lý tình cảm quá cương nghị, thiếu cái dịu dàng của nữ giới. (Nhưng) cũng có thể vì đó mà phù hợp với sinh hoạt cảm tình độc lập như vậy.

Ba: Các hạn trong tuổi thích hợp thành hôn cung phu đều bị Kị xâm phạm, gây trở ngại trong cảm tình, không dễ gặp đối tượng tốt, lại là cung VCD thiếu ổn định.

Hạn Mậu Dần, Tí VCD bị tiên thiên Kị xung, thành cách Âm Hỏa.

Hạn Kỉ Mão, Sửu VCD bị Khúc Kị xung, thành cách Linh Xương Đà Vũ.

Hạn Canh Thìn, Dần VCD bị song Kị (Âm nguyên Kị, Đồng hạn Kị) chiếu.

Rồi đến hạn Tân Tị lại bị Xương Kị; rõ là bị Liên Kị nên trên đường tình ái bị cảnh gập ghềnh khó đi.

Ngoài ra bốn vận Kỷ Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn Lộc hoặc Quyền đều ở tiên thiên di khiến cô Dương hiếu thắng, đòi tranh đấu với số mệnh.

Tóm lại, lá số như cô Dương một đời nhiều xung động biến hóa, chuyện gì sẽ xảy ra chẳng dự liệu được nhưng chẳng đáng ngạc nhiên.

(Dẫn theo website của Trần Nhật Thành)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thái Tuế Nhập Quái

Xem tướng dựa vào ngũ hành

xem tướng cho người khác trước tiên nên xem họ thuộc vào loại nào trong Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xem tướng cho người khác trước tiên nên xem họ thuộc vào loại nào trong Ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

ngu-hanh

Trần Đồ Nam chỉ ra rằng:

Hình tướng người hình Kim nên vuông ngay ngắn, khí sắc trắng tinh khiết, da thịt không quá đầy đặn nhưng xương cốt không được mỏng bạc.

Hình tướng của người hình Mộc xương cốt rắn chắc, nếu khí sắc có sắc xanh, người đó thông minh tuấn tú hơn người.

Hình tướng người hình Thủy nên tròn bóng đầy đặn, khí sắc là sắc đen. Nếu bụng xệ xuống, lưng gồ cao, người này có khí phách.

Hình tướng người hình Hỏa trong sự đầy đặn có chút vuông nhọn, khí sắc màu đỏ là tốt lành. Nếu người này có tướng xương lộ rõ, khí sắc tiểu tụy, vận thế sẽ không tốt.

Hình tướng người hình Thổ nên đôn hậu, khí sắc có mang sắc vàng, mông lưng lộ rõ, tính cách điềm tĩnh.

Lã Thượng chỉ ra rằng: Mộc gầy Kim vuông là bình thường, Thủy tròn Thổ dày nào phải sửa sang.

Lân phượng ký chép: Trong hình tướng có tình trạng tương khắc của Ngũ hành chủ người có vận mệnh khó khăn, cả đời gặp nhiều tai nạn.

Mật quyết chỉ ra rằng: 

Sự tương khắc trong hình tướng Ngũ hành chủ về hung họa. Ví như:

Hình tướng người hình Kim lại mang hình tướng người hình Mộc, chủ về người này từ sớm cầu danh lợi nhưng thường gặp chuyện không may, tuy nhiên sau đó sẽ giành được thành công lớn.

Người hình Mộc mà mang hình tướng của người hình Kim, chủ về cả đời gặp tai ương, tựa như dùng đao búa chặt cây vậy, mọi việc đều không thuận lợi, cha mẹ sớm gặp phải họa hình thương, vận số của vợ và con cũng không tốt.

Người hình Thủy mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thổ, chủ về gia nghiệp bị phá bại, nhiều năm liên tiếp gặp tai họa, cả đời khổ cực, cuộc sống khó khăn.

Người hình Hỏa mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thủy là tướng hung họa, chủ người khắc hại con của mình, gia nghiệp tàn lụi, đến cuối đời trắng tay.

Người hình Thổ mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Mộc, chủ người này làm việc khó được thành công, nếu không mất sớm cũng sẽ gặp cảnh ngộ lẻ loi cô đơn, rất bi thảm.

Sự tương sinh trong hình tướng Ngũ hành chủ về cát lợi. Ví như:

Người hình Kim mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Thổ là hình tướng rất đáng quý, như hạt trân châu, chủ người lập mọi kế hoạch đều có thể được thành công.

Người hình Mộc mang đặc trưng hình tướng của người hình Thủy chủ rất phú quý, trên lĩnh vực văn chương có tiếng tăm, tựa như tìm được vật quý giá trong nơi bình dị, rạng rỡ ngay trước mắt.

Người hình Thủy mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Kim, chủ về danh lợi song toàn, tri thức uyên bác, hành vi cử chỉ đoan chính, có trí tuệ, thông đạt, cương nghị.

Người hình Hỏa mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Mộc, chủ người thăng tiến rất nhanh, khi 30 tuổi đã có thể làm quan đến chức khanh tướng, công danh nổi vang thiên hạ.

Người hình Thổ mà mang đặc trưng hình tướng của người hình Hỏa, tựa như đèn tiếp thêm dầu, càng ngày càng trở nên thịnh vượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng dựa vào ngũ hành

Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Một bài viết hay trình bày về bốn mươi hóa diệu của Trung Châu Phái rất hay! Mời các bạn cùng nghiên cứu.
Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tứ Hóa là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hóa Kị, chúng căn cứ vào thiên can mà phi hóa, bốn hóa tinh này không tự thành sao được, mà phải dựa vào sao khác để biểu thị. Đây là nhân tố quan trọng để luận đoán cát - hung.

Khẩu quyết an tứ Hóa của Trung Châu phái

Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Tử Âm

Bính Đồng Cơ Xương Liêm, Đinh Âm Đồng Cơ Cự

Mậu Tham Âm Dương Cơ, Kỷ Vũ Tham Lương Khúc

Canh Dương Vũ Phủ Đồng, Tân Cự Dương Khúc Xương

Nhâm Lương Vi Phủ Vũ, Quý Phá Cự Âm Tham

1- Liêm trinh - can Giáp hóa Lộc

Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần, tất nhiên sẽ không keo kiệt.

Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc, còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc "phong hoa tuyết nguyệt", tính chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.

Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc, cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết phái,.v.v...

Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà được hiến thân hoặc đắc tài lộc.

Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc,.v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm trọng trách và nắm giữ quyền hành

Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.

Tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm trinh Thiên tướng". Đối cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử vi Tham lang" chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ tài lộc rồi dào hơn tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm trinh Thiên tướng" thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp, tranh chấp, cho đến âm mưu...

Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ "Thiên phủ Vũ khúc" trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt. Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.

Tinh hệ "LIêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung, hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi, cung Quan là tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm mạnh thêm tài vận của "Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ "Tử vi Thất sát" cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh là Thiên tướng tại Mão, bị "Cự môn Thái dương" có Thái dương hóa Kị, và Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến "Liêm trinh Phá quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành tựu đã đạt được mới cát lợi.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.

Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa năm đầu. Đây là vì "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung "thiên la địa võng", cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.

Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của người phối ngẫu.

Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi, cung Quan có "Vũ khúc Thất sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử vi Phá quân" hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.

Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.

2- Thiên Cơ - can Ất hóa Lộc

Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén. Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ "chủ động" tìm được ra cơ hội để tạo thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.

Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ, cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho người khác (như làm môi giới, thuyết khách,...)

Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người này bị nhiều hạn chế.

"Tiền tài" của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn, cung Tài là tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" có Thiên lương hóa Quyền (can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương (Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc, nhưng "Thiên đồng Thiên lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.

Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền, mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc, thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà. Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo "tìm cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn "Thái dương Thái âm" an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới,.v.v... Nếu có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.

Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái dương Thái âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước khi đầu tư.

Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến tranh chấp, gặp trở lực.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn" an cung hội hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" mà Thái âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này, cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện. Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy. Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt, không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)

Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa Kị, cung Tài là "Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn "Thái dương Thiên lương" an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ phí tâm lực, hoặc phí lời nói.

Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất, hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều, mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.

3- Thiên Đồng - can Bính hóa Lộc

Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc không những chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.

Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong nhã, dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.

Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.

Thiên Đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên có cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành Cách, nhưng có gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.

Sau khi hóa Lộc, Thiên Đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng không cần có sát tinh kích phát).

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung (ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này, nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên,.v.v...), hoặc viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ hội.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên Đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng ở cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn", chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá (nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ. Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức (??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất), có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa, thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả. Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự vinh dự của bản thân.

Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương, chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền phức.

Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ. Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La, thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát", nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng, hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.

Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn, hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp", thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn "Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp", tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác "trống vắng dưới trăng trước hoa".

4- Thái Âm - can Đinh hóa Lộc

Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động kiếm tiền, thiếu "sức" cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có "tài khí" dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình thường mà thôi.

Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn luôn đối nhau). Thái Âm vốn có "khí chất" dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo tính toán thái quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều cảnh ngộ đáng tiếc.

Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại ý.

Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào. Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những bất lợi đối với lục thân.

Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá tài.

Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.

Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có một thiên tình sử để nhớ!!!

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng. Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên cơ Cự môn" mà Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả, còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm mà thôi.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm???]. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng,.v.v... nếu làm việc trong chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở "thiên la địa võng" nên nội tâm thường không được yên ổn.

Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa (ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa Quyền đối nhau, gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với cung Thìn. Cung Quan là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự môn hóa Kị. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà thôi.

Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là "Thái dương Thiên lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược, công tác xã hội,, gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm. Cung Tài là "Thiên đồng Cự môn" một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.

5- Tham Lang - can Mậu hóa Lộc

Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự nghiệp, từ đó kiếm tiền.

Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không nên đầu cơ.

Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.

Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.

Tham lang hóa Lộc thành cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", ắt sẽ có khoảng tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.

Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài, ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp", nên an Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường, nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng, không có người thì nghỉ".

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí, vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực "xung kích", sức cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp, người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm trinh Thất sát", cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của "Tử vi Tham lang". "Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.

Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.

Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử vi Phá quân" không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là "Vũ khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ khúc Thất sát" ở cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản,.v.v...

6- Vũ khúc - can Kỷ hóa Lộc

Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này, không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.

Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu không phần nhiều đều có tích lũy.

Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.

Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc hóa Lộc, là kết cấu tốt lành. Hơn nữa còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, "Lộc trùng điệp" nên nguồn tiền tài càng vượng. Cung Tài là Liêm trinh độc tọa hội hóa Lộc, thì giỏi quản lý tài chính, cũng là sở trường lợi dụng của cải để kiếm tiền (lấy tiền để kiếp tiền, rất an nhàn, thường thường còn được nhiều). Ở cung Dần gặp "Lộc trùng điệp" là khá tốt. Cung Quan là "Tử vi Thiên tướng", chủ về ưa hợp tác với người khác, mà bản thân mệnh tạo ở địa vị lãnh đạo, địa vị chủ đạo. Ở cung Tuất gặp "Lộc trùng điệp" cũng khá tốt (Tóm lại "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ là khá tốt, nhưng ở đây chỉ nói về tiền bạc của cải). Nhóm tinh hệ này cần phải quan sát kỹ xem Văn Khúc hóa Kị ở cung độ nào, thường thì khuyết điểm cơ bản của mệnh cục là ở đó.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Lộc còn Tham lang hóa Quyền, nhưng ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là "Tử vi Thất sát" đồng độ với Đà la, hoặc có Kình Đà giao hội. Cung Tài là "Liêm trinh Phá quân" bị Đà La hội chiếu, hoặc Kình Dương hội chiếu. Gặp Đà La thì khá bất lợi, chủ về tuổi trẻ hưởng thụ sa đà, nếu không sẽ chủ về vất vả mà không thu hoạch được gì. Nhóm tinh hệ này, ham muốn tiền bạc và sự nghiệp đều nặng, chính vì duyên cớ này mà thường có hiện tượng lộng quyền, lạm quyền, thích sống sa hoa, ưa lôi kéo trong quan hệ giao tế, nhưng trong tình bạn lại không được lâu dài và tình bạn không bền vững. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Nô (cung Giao hữu) hay cung Huynh, sẽ chủ về bị bạn bè hoặc người dưới quyền ngầm gây tổn hại. Đánh giá về "nhân tình" là then chốt để luận đoán nhóm tinh hệ này.

Tinh hệ "Thiên tướng Vũ khúc" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Lộc, hơn nữa ở cung Dần còn hội Lộc tồn, tài khí không phải yếu. Cung Quan là Tử vi ở cung Tý hoặc Ngọ, có khí thế độc lập, được Lộc tồn đồng độ hoặc hội chiếu, sự nghiệp có thực chất chứ không khoa trương phù phiếm. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên phủ, chủ về giỏi quản lý tài chính, lại sở trường vận dụng tiền bạc để có tiếng tăm. Xem toàn bộ tinh hệ là một kết cấu tốt, chủ về lúc đầu thì giúp người khác gây dựng sự nghiệp, nhưng không lâu liền tự lập mà trở nên giầu có, danh lợi có đủ. Nhưng nếu Văn Khúc hóa Kị ở cung Mệnh hoặc cung Phúc, phần nhiều sai lầm là do gánh lụy cho người khác, tuyệt đối không nên đầu cơ, cũng không nên làm người bảo lãnh tiền bạc cho ai. Văn Khúc hóa Kị ở cung Huynh chủ về bị bạn bè uy hiếp.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Lộc. Cung Quan là "Tử vi Phá quân" đồng độ với Kình dương, hoặc có Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là "Liêm trinh Tham lang" mà Tham lang hóa Quyền, có Đà La đồng độ, hoặc Kình Đà hội chiếu. Toàn bộ tinh hệ có kết cấu mạnh mẽ, vì Vũ Sát đã có sắc thái quyền lực, lại thêm Tham lang hóa Quyền. Nếu cung Mệnh không có Hỏa Linh, thì rất thích hợp theo võ nghiệp. Gặp Xương Khúc thì có thể là Bác sỹ ngoại khoa hoặc nha khoa, cũng thích hợp với nghề ẩm thực. Nhóm này, tinh hệ cũng chủ về khéo vận dụng cơ hội, có năng lực quản lý tốt, cũng khéo vận dụng tiền bạc để lôi kéo sự ủng hộ, nên được nhiều trợ lực.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Tham lang hóa Quyền ở đối cung. Cung Tài là "Liêm trinh Thiên tướng" có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Quan là "Tử vi Thiên Phủ". Nhóm này, tinh hệ về tài lộc đều vượng, nhưng Vũ khúc hãm ở "thiên la địa võng" e rằng sức khai sáng không đủ, dễ ham thích an nhàn. Cho nên rất ngại Văn Khúc hóa Kị ở cung Phúc đức. Cung Tài là Liêm Tướng, nếu đồng độ với Lộc tồn thì keo kiệt ích kỷ. Nếu Lộc tồn vây chiếu thì chủ về rộng rãi hào sảng. Nếu gặp tinh hệ này ở lưu niên hoặc đại hạn, mà ở nguyên cục Liêm trinh hóa Kị, hoặc Vũ khúc hóa Kị, thì lại không cát tường, chủ về vì tiền bạc mà thất bại lớn.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Lộc, hội với "Tử vi Tham lang" ở cung Quan mà Tham lang hóa Quyền và hội với "Liêm trinh Thất sát" ở cung Tài. Khi luận đoán cần lưu ý tình hình 3 tinh hệ này hội hợp với Kình dương, Đà la. Tinh hệ này có sức khai sáng rất mạnh, chỉ khi đồng độ với Đà la ở cung Tị mới chủ về sức khỏe không tốt, gây ảnh hưởng đến sức khai sáng của nó. Tử Tham ở cung Quan có Tham lang hóa Quyền, chủ về cực kỳ tích cực, có thể phối hợp tốt với cung Mệnh. Nhưng cung Tài lại khá yếu, thích tích lũy tiền bạc mà lại thiếu lực, dẫn đến không thể phối hợp với cung Mệnh và cung Quan. Đây là khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nguyên nhân không thể tích lũy tiền của, là vì thường có nguyên nhân liên quan đến sức khỏe, cũng có liên quan đến hôn nhân.

7- Thái Dương - can Canh hóa Lộc

Thái Dương chủ về phát tài, khi hóa Lộc cũng chẳng làm tăng danh vọng, mà ngược lại, nhờ vào danh vọng thì mới có được tiền bạc, ví dụ như nhờ nghe danh tiếng mà được mời làm việc.

Có lúc cũng chủ về được tài lộc không nhiều, chủ yếu thuộc về vinh dự. Ví dụ như được bằng khen,.v.v...

Do bản thân Thái Dương có tính chất "quý" mà không "phú", nên được tiếng tăm nhiều hơn tiền tài. Lúc Thái dương lạc hãm mà hóa Lộc, có lúc còn chủ về tán tài, ví dụ như được vinh dự nhận bằng khen, vì vậy mà tổ chức tiệc mừng, mời bạn bè thân hữu đến chung vui, nên phải chi tiêu tốn kém tương đối lớn. Xét ở góc độ tính toán tiền bạc, có thể nói "thu không bằng chi".

Khi Thái dương miếu vượng mà hóa Lộc, cũng có thể quản lý được chút tài sản, nhờ vậy mà làm tăng địa vị của mệnh tạo.

Các nguyên tắc thuật ở trên, tóm lại là "Thái dương chủ về Quý mà không chủ về Phú".

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Cự môn. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thái âm" để hội hợp với cung Mệnh, có Lộc tồn đồng độ. Đây là "phú cục", nhưng "phú" của nó là do sao Lộc trùng điệp ở cung Tài, chứ không phải do Thái dương hóa thành sao Lộc ở cung Mệnh, nhưng vẫn nhờ vào danh dự và địa vị của bản thân mệnh tạo mà có. "Thiên cơ Thái âm" không đủ sức giữ tiền bạc, hội sao Lộc lại chủ về có kiếm được tiền một cách thuận lợi, vì vậy dễ có cảm giác thỏa mãn, nhưng cảm giác thỏa mãn của mệnh tạo cũng là vì "quý" (có danh tiếng) chứ không phải vì "phú" (giầu có). Thái dương ở cung Ngọ tốt hơn ở cung Tý, vì ở cung Ngọ thì Thái dương và Thái âm đều miếu vượng (??? kiểm), còn ở cung Tý thì Thái dương và Thái âm đều lạc hãm (??? kiểm). Cho nên Thái dương ở cung Tý đắc tài lộc hơi ít mà quá trình kiếm tiền cũng khá hao tổn tinh thần. Nhưng Thái dương hóa Lộc ở cung Ngọ, ánh sáng chói lọi quá thịnh, dễ bị người khác giới để ý làm tăng thêm rắc rối khó xử về tình cảm, hơn nữa còn vì chi tiêu, gánh vác quá đáng mà dễ biến thành trống rỗng.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương độc tọa. Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung, ắt sẽ có Kình dương đồng độ. Thái dương hóa Lộc không bằng Thái âm hóa Lộc, chỉ chủ về "danh" lớn hơn "lợi". Cung Tài là Cự Cơ có thêm Kình dương, kiếm tiền ắt sẽ hao tổn tâm lực, hoặc chủ về phải nói năng vất vả. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi tốt hơn ở cung Sửu. Thái dương hóa Lộc ở cung Mùi có thể giải được tính "cô độc và hình khắc" của Thiên lương, khiến cho tình hình cạnh tranh trong sự nghiệp khá thuận lợi, làm tăng thu nhập.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Lộc, có Lộc tồn đồng độ hoặc đối nhau. Cung Quan là "Thiên đồng Thái âm" mà Thiên đồng hóa Kị. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung. Do Thái dương hóa Lộc còn hội Lộc tồn, cho nên chủ về "danh" trước rồi mới có "lợi" sau, danh khí càng lớn thì thu nhập cành nhiều. Nhưng, toàn bộ các tinh hệ đều là kết cấu lao tâm, phải vất vả và phải nói năng rất nhiều, mà kinh doanh làm ăn vẫn gặp nhiều tranh chấp. Cung Quan là Đồng Âm mà Thiên đồng hóa Kị, chủ về vui vẻ mà lại không vui vẻ, có phúc mà không hưởng được, điều này cũng tương ứng với các sao ở cung Mệnh. Thái dương hóa Lộc ở cung Dần ưu hơn ở cung Thân, vì Thái dương ở nơi vượng.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Lộc ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Thái âm so với "Thái dương Thiên lương" cùng là hóa Lộc mà khác nhau rất xa, chủ yếu là do Thái âm ở cung Tài, Thái âm lạc hãm thì tài khó mà tụ, cho nên "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu không bằng ở cung Mão. Nhưng toàn bộ các tinh hệ đều có sắc thái phục vụ, mà còn có danh lớn, vì vậy rất nên dựa vào "phúc ấm" để nâng cao tên tuổi. Bao gồm danh hiệu học vị, được nhiều người biết tiếng ở nơi làm việc, cho đến việc được nhiều người có tiếng tăm nâng đỡ, nếu không sẽ dễ chuốc đố kị. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì rất thích hợp nghiên cứu học thuật, cuộc đời sẽ có nguồn tiền tài vào không ngừng, như nước nhỏ mà chảy dài.

Thái dương độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Tài là Cự môn, có thể hội Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung mà Thiên đồng hóa Kị, có Lộc tồn đồng độ. Toàn bộ các tinh hệ của kết cấu này rất vượng tài lộc, nhưng Thái Dương ở "thiên la địa võng", tuy đời người tiến triển ổn định, nhưng vẫn khó tránh lao tâm, lao lực. Cự môn ở cung Tài có "sao Lộc trùng điệp", tuy chủ về "phú" và được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) giúp đỡ hay ủng hộ, nhưng vẫn khó tránh phải lao tâm và rất vất vả về nói năng. Điều này còn hợp với tính chất của Thiên đồng hóa Kị ở cung Quan. So sánh hai cung vị, ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, cung Thìn thì Thái dương nhập miếu, danh lợi đều ưu.

Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi. Cung Tài là Thiên lương. Cung Quan là Thái âm. Thái dương hóa Lộc ở cung Tị chủ về hưởng thụ, Hóa Lộc ở cung Hợi thì lạc hãm, cuộc sống đơn sơ. Nói về danh khí, ở cung Tị cũng hơn ở cung Hợi. Có điều Thái dương hóa Lộc thì bất kể thế nào, cũng phải nhờ vào danh tiếng mà kiếm tiền. Thiên lương ở cung Tài thì rất nên dựa vào phát minh sáng tạo mà thu lợi, hoặc nhờ thương hiệu, tiếng tăm cũng có thể trở nên giầu có. Nếu không, nên làm những công việc như kiểm toán, giám sát, bảo hiểm.

8- Cự Môn - can Tân hóa Lộc

Cự Môn chủ về điều tiếng thị phi, khi hóa thành sao Lộc, thì nhuyễn hóa thành nói năng để phục vụ. Cho nên ý nghĩa cơ bản là lợi về dạy học, luật sư, làm môi giới hoặc làm quảng bá. Ở xã hội hiện đại cũng có lợi về nghệ thuật biểu diễn, có thể khiến tài năng biểu diễn (nhất là ca xướng) được hoan nghênh.

Nhưng Cự Môn là "ám tinh", không hóa Lộc, cũng đã ưa thích che hào quang của người khác. Sau khi hóa Lộc còn có khuynh hướng biểu hiện bản thân, do đó sinh ra thị phi, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp. Người xưa cho rằng "Cự môn hóa Lộc" phú quý không được lâu", là vì luận định tính lý này.

Cự môn hóa Lộc, không ưa có Sát tinh đồng độ, có Sát tinh thì thành phá cách, ghét nhất là Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về bình địa nổi cơn sóng gió, thường thường là do bản thân gây ra.

Cự môn sau khi hóa Lộc sẽ có sắc thái đào hoa, nếu lại hội các sao đào hoa thì tình cảm càng dễ nổi sóng gió. Cự môn hóa Lộc ở bản cung cũng chủ về thích ăn uống, còn chủ về phần nhiều đau khổ vì tình.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Quan là Thái dương hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung, ắt sẽ kèm Đà la. Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ hay hội hợp, là cách "Thạch trung ẩn ngọc", tài lộc sẽ theo tiếng tăm địa vị mà đến, nhưng lúc trẻ ắt phải chịu qua gian khổ trước. Lúc này người Cự môn hóa Lộc thủ mệnh nên giấu bớt tài năng, không quá lộ sự sắc xảo, thì mới hợp với tính chất của "Thạch trung ẩn ngọc cách". Nếu không, địa vị càng cao thì thế sẽ càng nguy, càng dễ bị người ta bài xích, chèn ép. Cung Tài là Đồng Lương mượn để nhập cung, cũng chủ về tiền của theo danh dự và địa vị mà đến. Nếu cố ý kiếm tiền thì lại khó mà được.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Lộc ở cung Sửu lại có Lộc tồn trùng điệp. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung, mà Thái dương hóa Quyền, ắt sẽ kèm Lộc tồn. Nếu Văn Xương hóa Khoa hội hợp với cung Mệnh hoặc cung Tài, thì cung Tài sẽ hình thành Cách: "Dương Lương Xương Lộc" cát tường. Cách này ở bản tinh hệ, có lợi về làm việc trong chính giới. Nếu không thành Cách, do Thái dương và Cự môn được cát hóa, nên cũng có thể được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) xem trọng. Vì vậy rất thích hợp làm đại lý thương phẩm nước ngoài, hoặc làm việc cho công ty nước ngoài. Nếu không chỉ nên làm những nghề mang tính phục vụ, hoặc chuyên nghiệp. Người "thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở cung Mùi thì khó tránh hiếu động, trôi nổi, thường thay đổi hoàn cảnh công tác.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, có Thái dương hóa Quyền, còn Cự môn hóa Lộc ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội hợp với Kình Đà. Cung Tài mượn "Thiên cơ Thiên lương". Cung Quan mượn "Thiên đồng Thái âm". Trong các cung chỉ có cung Mệnh là mạnh, các cung khác đều yếu, tuy không giảm trợ lực, nhưng cũng bất lợi về hôn nhân, ở cung Thân càng nặng. Tiền bạc do danh dự và địa vị mà đến, vì vậy muốn tích lũy cũng không dễ. Bạn đọc có thể tham khảo thêm đoạn "Cự môn hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ" đã thuật ở trước. Riêng về nữ mệnh, gặp "Thái dương Cự môn" hóa Quyền và hóa Lộc ở cung Mệnh, thường chủ về kết hôn với người ngoại quốc (hay người ở phương xa), và đối với nữ mệnh đều được người ngoại quốc, hay người ở phương xa xem trọng.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Lộc ắt sẽ hội hợp với Lộc tồn thành cách "Lộc trùng điệp". Có điều cung Tài là Thiên đồng lại quá thích an nhàn hưởng lạc. Cung Quan mượn "Thái dương Thái âm" lại quá hiếu động, trôi nổi, nên cũng ảnh hưởng đến tài lộc của "Thiên cơ Cự môn", khó tránh phải lao lực, hoặc vất vả và nói năng, cũng thích hợp với những nghề cần miệng lưỡi, tài ăn nói. Nếu cung Tài ở cung Tị thì được "Lộc trùng điệp cách" tài khí khá vượng, chủ về tay trắng làm nên trở thành giầu có. Cách "Lộc trùng điệp" ở cung Tài ưu hơn "Lộc trùng điệp" ở cung Mệnh. Đây là đặc điểm của cách cục này.

Cự môn độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, hội Kình Đà, hoặc có Kình dương cùng bay đến, Thiên đồng ở đối cung. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền. Cung Quan mượn "Thiên cơ Thái âm". Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, vì vậy tuy hóa Lộc cũng không chủ về tài lộc dồi dào. Nếu có ý kiếm tiền thì sẽ gặp nhiều gian khổ. Nếu có thể nâng cao học lực, nhờ địa vị xã hội hoặc tiếng tăm mà kiếm tiền thì lại thích hợp. Cung Tài là Thái dương hóa Quyền, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc lợi lộc theo tiếng tăm, danh dự mà đến, thích hợp làm những nghề chuyên môn như giáo chức, luật sư,.v.v... cũng thích hợp với công việc bán hàng, chào hàng, hoặc phục vụ.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, Thái dương ở đối cung hóa Quyền. Cung Tài là Thiên cơ gặp Sát tinh. Cung Quan là Thiên đồng được Lộc tồn. Cự môn khó tương hội với Lộc và Quyền, ở cung Hợi ưu hơn ở cung Tị, vì mệnh Cự môn ở cung Hợi thì Thái dương ở đối cung miếu vượng hóa Quyền ở cung Thiên Di, cổ nhân cho rằng đây là: "danh chấn tha bang" (nổi tiếng ở nước ngoài) rất có lợi về đi du học. Thông thường tinh hệ này chủ về biến động thay đổi, hoặc liên tiếp thay đổi công việc, phải bôn ba ở đất khách, hoặc bản thân công việc đã có sắc thái lưu động, sau mới đắc lợi, nhưng về nghề thì vẫn nên có tính chuyên nghiệp, tính hưởng thụ (như quản lý nhà hàng khách sạn, hàng không) là tốt nhất.

9- Thiên Lương - can Nhâm hóa Lộc

Thiên Lương là sao "giám sát", chủ về sang quý thanh cao, nên không ưa hóa thành sao Lộc. Trong mười can Hóa Lộc, đây là trường hợp rất kị. Khi Thiên lương hóa Lộc sẽ tăng phiền phức quấy rối, còn bất lợi về kinh doanh làm ăn. Lúc này, nên chú ý tính chất của cung Giao hữu (cung Nô), đó là then chốt để luận đoán toàn Cục.

Hễ Thiên lương hóa Lộc, ắt sẽ bị người ta bài xích, chèn ép, chỉ trích, nhất là trường hợp Thiên Lương ở hai cung Tị hoặc Ngọ. Chỉ nên làn những nghề mang tính phục vụ, công khai tiền lương, như chuyên viên kế toán, cố vấn tài chính, phục vụ công cộng, không nên theo đuổi danh tiếng.

Thiên Lương chủ về hóa giải tai nạn, sau khi hóa Lộc, thời gian hóa giải thường bị kéo dài hơn, khiến cho mệnh tạo cảm thấy rắc rối đa đoan. May mà kết quả hóa giải rắc rối được hoàn mỹ, còn không để lại di chứng. Đây là thông bệnh của Thiên lương hóa Lộc.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương có Kình dương đồng độ, hoặc hội hợp với Kình Đà, nhóm tinh hệ này đã có sắc thái rắc rối thị phi. Ở cung Tý tốt hơn ở cung Ngọ, đây là do tình trạng miếu hãm của Thái dương. Cung Sự nghiệp (cung Quan) là Thiên đồng. Cung Tài là "Thiên cơ Thái âm", đều chẳng phải là các sao có sắc thái tích cực. Vì vậy nếu kinh doanh làm ăn, ắt chủ về gặp nhiều rắc rối, không bằng những nghề nghiệp mang tính chuyên môn để kiếm tiền. Nhưng khiếm khuyết đáng tiếc lớn nhất của mệnh tạo là ở cung Giao hữu (Nô). "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, bản thân dễ ăn của đút lót, ắt sẽ bị người dưới quyền chỉ trích. Mệnh tạo khéo léo xử sự như thế nào, điều này sẽ ảnh hưởng cực lớn đến vận mệnh.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên cơ. Cung Sự nghiệp (Quan) là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm. Nhóm tinh hệ này ưa Thiên lương ở cung Sửu, vì Thái dương ở cung Tị, Thái âm ở cung Dậu, chúng đều miếu vượng. Thái dương chủ về "quý" khi ở cung Quan, Thái âm chủ về "phú" khi ở cung Tài, bản chất là rất thích hợp. Cho nên địa vị và tài bạch của mệnh tạo đều không lo thiếu, khi Thiên lương thủ Mệnh ở cung Mùi thì tệ hơn nhiều. Nhưng hễ Thiên lương hóa Lộc, mỗi lần có khoảng thời gian rắc rối khó sử xảy ra, cần phải lưu ý đến Vũ khúc hóa Kị ở nguyên cục bị cát hóa ở đại hạn hay lưu niên xung khởi, đây là thời kỳ có bất hòa, tranh chấp về tiền bạc. Vũ khúc hóa Kị ở cung Điền, doanh nhân dễ vì xoay chuyển tiền bạc khó khăn mà đình chỉ công việc kinh doanh.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân mà Thiên lương hóa Lộc, hội Kình dương hoặc hội Đà la. Cung Quan là Thiên cơ. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này thiếu tính tích cực, vốn thuộc loại kết cấu an nhàn, yên tịnh. Có điều Thiên lương hóa Lộc gây ra biến đổi toàn cục, phần nhiều những tình huống rắc rối khó xử đều liên quan đến tiền bạc. Cung Nô là "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền, lại hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, nếu có Sát tinh hội hợp, thường thường là gặp tình cảnh "đầy tớ phản chủ", người dưới quyền là người tâm phúc do bản thân mệnh tạo chọn lựa đề bạt lại biến thành đại họa. Nếu cách kiếm tiền không chính đáng sẽ dễ bị thuộc cấp thừa cơ phản chủ.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên lương hóa Lộc. Cung Quan mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Cung Tài là Thái âm độc tọa. Nhóm tinh hệ này cũng không thích hợp làm ăn kinh doanh, chủ về tiền bạc phải dựa vào địa vị hoặc tri thức mới có. Nhưng Thiên lương hóa Lộc thì vẫn không tránh được chuyện bị thuộc cấp gây lụy. Đại hạn hoặc lưu niên xấu nhất cũng thường ở cung hạn Vũ khúc hóa Kị, chủ về người dưới quyền gây lụy, hoặc chủ về sức khỏe không tốt, cần phải xem xét các cung liên quan mà định, nhất là phải lưu ý đến cách "Linh Xương Đà Vũ".

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên lương hóa Lộc ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn". Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" ắt cũng sẽ gặp Sát tinh. Nhóm sao này tuy không phải là chính cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" nhưng cũng thích hợp làm công chức. Có điều trong 12 cung, hai cung Thìn và Tuất rất kị Thiên lương hóa Lộc, ngoài việc mượn lực của "Thái dương Cự môn" nhập cung Quan, thì không còn đạo "tìm cát tránh hung" nào khác. Cho nên Cơ Lương ưa ở cung Thìn hơn, vì Cự Nhật sẽ ở cung Dần, nếu cung chứa Cự Nhật gặp các sao Sát - Hình trùng trùng, thì thường vì tiền bạc mà xảy ra kiện cáo, tố tụng.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Thiên đồng ở đối cung, lại hội Lộc tồn trùng điệp. Cung Tài là "Thái dương Thái âm". Cung Quan phải mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung để hội hợp với cung Mệnh. Vấn đề lớn nhất của nhóm tinh hệ này là sức khỏe vì Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tật ách. Bản thân tinh hệ cũng thiếu tính tích cực, chỉ thích hợp với cảnh làm hưởng đồng lương để có tiền. Có điều vì mệnh tạo thường dễ cảm thấy thỏa mãn, thường ba phải dễ chấp nhận, nên khó xảy ra tình huống rắc rối khó xử. Ở hai cung này lại thường chủ về đất đai nhà cửa của ông bà hay cha mẹ để lại bị phá sạch, trường hợp Thiên lương thủ Mệnh ở cung Tị nặng hơn, nhưng rời xa quê hương lại tốt.

10- Phá Quân - can Quý hóa Lộc

Phàm là Phá Quân thủ Mệnh hoặc thủ cung Tài, sẽ xảy ra biến động thay đổi ở nhiều biên độ, mà sự biến động thay đổi cũng thường ra ngoài dự liệu. Khi được hóa Lộc hoặc có Lộc tồn, có thể khiến sự biến động thay đổi trở thành khá ổn định; trong tình huống xấu nhất cũng không đến nỗi xảy ra thất bại hoàn toàn. Hơn nữa, bất kể biến động hay thay đổi như thế nào, kết quả thường sẽ tốt hơn so với trước khi xảy ra biến động thay đổi. Do nguyên nhân này, nên Phá quân rất ưa hóa Lộc.

Hễ Phá quân hóa Lộc, cung Quan ắt sẽ có Tham lang hóa Kị, đây là điềm tượng sự nghiệp có biến động thay đổi. Tham lang hóa Kị thường thường sẽ có hiện tượng "vô tâm cắm liễu, liễu xanh um", cho nên rất ưa Phá quân hóa Lộc. Có điều cung Tài là Thất sát, cũng dễ trở thành biến đông thay đổi, cuộc đời ắt sẽ có một lần gặp cảnh khốn khó. Phá quân hóa Lộc chỉ có thể cải thiện, mà không thể tránh.

Phá quân độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ hội hợp Lộc tồn, thành cách "Lộc trùng điệp". Cung Quan là Tham lang hóa Kị. Cung Tài là Thất sát. Tinh hệ toàn cục vì Phá quân có cách "Lộc trùng điệp" nên tính chất biến thành tốt lành. Chỉ cần lưu ý "Tử vi Thiên phủ" đồng độ ở cung Phúc, nếu là "bách quan triều củng" thì quá thiên nặng về "thủ thành", không thích ứng với tính chất của Phá quân "Lộc trùng điệp". Trái lại, sẽ dễ có những phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ. Nếu "Tử vi Thiên phủ" là cách "tại dã cô quân", thì Phá quân "Lộc trùng điệp" lại có biểu hiện sống cô lập, cũng không nên. Vì vậy mấu chốt để luận đoán tinh hệ này là cung Phúc nên trung hòa.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Sửu hoặc Mùi, hội "Liêm trinh Tham lang" ở cung Quan có Tham lang hóa Kị. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát". Do bản chất của cung Quan, nên nhóm tinh hệ này chủ về khuếch trương sự nghiệp một cách quá đáng, đặc biệt là làm ăn trong lĩnh vực kinh doanh tiêu dùng, thường lập nhiều chi nhánh, làm tăng thêm tình huống rắc rối. Ngoài ra lại vì quá mải mê kiếm tiền, "thấy lợi quên nghĩa" khiến dễ xảy ra sự thay đổi trong quan hệ giao tế, thiếu trợ lực, đời người khó tránh quá vất vả. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" cũng chủ về tính toán cẩn thận, đồng thời lại có hào khí dám mạo hiểm, cần phải xem xét kỹ vận hạn để định nên làm hay nên dừng.

Phá quân đọc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp. Lực phát đông của nhóm tinh hệ này là ở Tham lang hóa Kị, hội Lộc tồn và Phá quân hóa Lộc, vì vậy thường hay sửa đổi mục tiêu tiến thủ mà không biết dừng lại. Thất sát thủ cung Tài ở nhóm tinh hệ này có đặc tính giỏi tính toán, khéo dùng tiền để tạo giao tình, lôi kéo người ủng hộ, do đó tính chất của Phá quân hóa Lộc sẽ phát lộ không xót chút nào. Cung Tật là "Thái dương Thiên lương", gặp Sát tinh là chỗ tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này. Vì vậy cần phải lưu ý vấn đề sức khỏe.

Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Phá quân hóa Lộc hội Kình dương hoặc Đà la. Tinh hệ này cũng là tổ hợp sao có tham vọng khá lớn, cho nên sự nghiệp của đương số cũng là cục diện lớn, phần nhiều có liên quan đến lĩnh vực giải trí, vui chơi, nghệ thuật hoặc tiêu dùng, hưởng thụ. Do tính chất của cung Tài, nên khi vận dụng tiên bạc, thường có tình huống như "Hàn Tín điểm binh", càng nhiều càng tốt, cần phải lưu ý đến đại hạn hoặc lưu niên để "tìm cách tránh hung".

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là "Tử vi Thiên tướng". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc. Cung Quan là tham lang hóa Kị. Phá quân ở "thiên la địa võng" thì lực biến động thay đổi không nhiều, nên cuộc đời tương đối ổn định, nhưng thường có biểu hiện gánh vác công việc quá mức, hoặc kiêm nhiệm nhiều chức vụ, đúng với hiện tượng "người giỏi thì làm nhiều". Cung Tài là Thất sát gặp sao Lộc (ở cung Tý còn là "Lộc trùng điệp") thu nhập tất phải nhiều. Khuyết điểm của tinh hệ này là sau trung niên, phần nhiều đều thích hợp với người khác để làm ăn, nhưng thường lại là kết quả xấu.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh, mà Phá quân hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Sát tinh. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" cũng gặp Sát tinh. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" mà Tham lang hóa Kị, lại cũng gặp Sát tinh. Ba cung chủ yếu đều gặp Sát tinh, trở thành điều tổn thương chí mạng của nhóm tinh hệ này, do đó cuộc đời gặp nhiều trắc trở, biến động thay đổi không như lý tưởng, mà còn thiếu trợ lực, khiến vất vả thậm tệ. Cung Tài quá không ổn định, vốn liếng tiền bạc không đủ để chống đỡ sự nghiệp, do đó tăng thêm áp lực về mặt tinh thần. Hơn nữa sau trung niên còn xảy ra nhiều tình huống rắc rối trắc trở, khiến cho đời người có nhiều điều đáng tiếc. Nhưng Phá quân hóa Lộc, dù sự nghiệp trắc trở, vẫn có thể duy trì thu nhập, đây là ưu điểm của tinh hệ này.

11- Phá Quân - can Giáp hóa Quyền

Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có thể khiến cho quá trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa Quyền thì không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.

Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện thanh thế. Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ có khuynh hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình huống này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn cảnh khách quan (ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản thân mệnh tạo không nắm chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy nghĩ của mình nói cho người khác nghe, người khác lại cho rằng bản thân họ đã có thành tựu và không ngừng thúc dục, thậm chí còn trợ giúp cụ thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến hành không xong.

Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên không tốt thì không được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không phối hợp, rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.

Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của Liêm trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu sao Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành sự việc.

Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham lang độc tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân. Cung Phu thê là Vũ khúc hóa Khoa hội "Tử vi Thiên phủ", lại hội "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu dạng này thường dễ xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân hóa Quyền (đồng độ với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là "Liêm trinh Tham lang" có Liêm trinh hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Thất sát" có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở tha hương.

Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Vũ khúc Thiên tướng" mà Vũ khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang. Phá quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực "xung kích" cực kỳ mạnh, thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không giữ một nghề. Cung Di là "Vũ khúc Thiên tướng", mà Vũ khúc hóa Khoa, còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất có lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất sát hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát.

Tinh hệ "Liêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn "Liêm trinh hóa Lộc".

Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài là Thất sát độc tọa (chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có sao Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi "công" mà không giỏi "thủ", thậm chí vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây là đạo "tìm cát tránh hung" cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là "Tử vi Tham lang" ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài là "Liêm trinh Thất sát" mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết: "Vũ khúc Phá quân Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái đặc biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương hóa Kị ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc. "Vũ khúc Phá quân" ở cung Hợi thì càng nặng.

12- Thiên Lương - can Ất hóa Quyền

Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.

Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức vụ quản đốc, giám đốc quản lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của một chuyên viên như chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật sư,.v.v...

Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ tá hội chiếu hoặc đồng độ, không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn tượng trưng cho địa vị. "Địa vị" nói ở đây không phải nói về "địa vị" do sự giầu có (xã hội ngày nay có phong khí xem trọng "phú" mà không xem trọng "quý", do đó mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói "địa vị" của người được tôn trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu học thuật, hoặc các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các lĩnh vực,.v.v...

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý nghĩa đã thuật ở trên. Bởi vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu niên, mà bỗng nhiên trở thành một giáo sư, một chuyên viên cao cấp,.v.v... nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như một thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể trong 10 năm đó sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên cũng chủ về đây là năm có thanh danh hơn.

Nhưng tính chất của Thiên lương cũng mang lại những tình huống rắc rối khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút, hoặc là lúc gặp nhiều phiền phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng giải quyết, đồng thời còn được trợ lực rất hữu dụng.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương, hội "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm hóa Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình dương Đà la. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính "cô khắc và hình kị" (như khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp,.v.v... ), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống thông thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về "tài bạch", về cơ bản có thể định nghĩa là "danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ nhất thì "tài bạch" cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên cơ và Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế, người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về "tài bạch" là do nhìn quá cao, hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" vốn là những sao thương hay "tâm trạng hóa" cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều không ổn định.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Kị (Hóa Kị ở cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung. Nếu thành cách "Dương Lương Xương Khúc" thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt cuộc cũng hóa giải được tai nạn.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên lương hóa Quyền thì đồng thời thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn "Thiên cơ hóa Lộc" đã thuật ở trên.

Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên đồng, cung tam hợp mượn "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm, còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh tạo gây ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của công việc.

13- Thiên Cơ - can Bính hóa Quyền

Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả của lối xử sự.

Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ thích hóa Quyền. Khi hóa Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh tạo trở nên uyển chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục đích.

Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ trong tình huống hóa Quyền mới có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng vẫn không chủ về có thực quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được người ta xem trọng, tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện trong thực tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.

Thiên Cơ mang lại sự biến động thay đổi, thoạt nhìn thì giống như được quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa làm sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả năng khống chế và làm chủ được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây là tổ hợp sao có tính chất khá xấu. Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần thiết, hoặc chủ về lạm quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức, thường muốn tiến thì lại thành thoái, cầu vinh thì lại bị nhục.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Thiên cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm mạnh thêm ý vị "quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên cơ thủ Mệnh ở cung Ngọ, quyền càng cao thì lộc càng trọng, thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không thiết thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất như đã thuật ở trên, thông thường chỉ chủ về có biến động theo chiều hướng tốt đẹp.

Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời người mà thôi.

Tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc. "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc tương hội, sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho "Cơ Nguyệt Đồng Lương cách" của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự nghiệp.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên đồng cư Tài và mượn "Thái Dương Thái Âm" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn đồng độ, hoặc có cách "Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc loại "Quyền Lộc" trùng điệp, hay "Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ, cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội "Thiên đồng Thái âm" thủ cung Tài, và mượn "Cự môn Thái dương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dễ hội hợp với Sát tinh. Nhóm sao có kết cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến động thay đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội, thì đây lại là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương" có tính chất tốt nhất. Ban đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất "phú quý không lâu bền" phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ hóa Quyền mà còn thành "Lộc Quyền Khoa hội", thì những biến động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến động thay đổi với biên độ lớn dẫn đến thành công.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tương hội "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy ra trắc trở một cách vô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến động thay đổi theo hướng cát lợi.

14- Thiên Đồng - can Đinh hóa Quyền

Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên Đồng hóa Quyền, nên cần phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trình bày các nguyên tắc thông thường.

Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai sáng, khi hóa Quyền có thể làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình "phá tổ thành gia" (phá tổ nghiệp phải tự lập), "ly tổ tự hưng" (rời quê hương tự làm nên) thì vẫn khó tránh.

Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa Quyền có thể biến thành năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm trong dục lạc, không còn thời gian nghĩ đến sự tiến thủ.

Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển thành tính dựa vào quyền thế, ưa đi đường tắt để cầu thành tựu.

Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận đoán, bởi vì lúc có các sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến mệnh tạo bị cuốn vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc. Hơn nữa đây không phải là bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định. Nhưng lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên phải tìm cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai sao Sát tinh và Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp của riêng mình, lúc này đời người mới có mục tiêu.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn "Thái âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" đồng độ thủ mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với Kình dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung Phu thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy được vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa ở cung Quan, thành cách "Lộc Quyền Khoa hội", thông thường đều là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ, cần đến tài ăn nói để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa Quyền ở cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường "Cơ Nguyệt Đồng Lương" không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp tác với người khác.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa Kị ở đối cung "kích phát", hội hợp Thiên lương và "Thái âm Thiên cơ" hóa Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung Ngọ, gọi là "phản bối", chủ về "qua cơn mưa trời lại sáng". Dù Thiên đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương, chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm.

Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La, Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn "Thái dương Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc để hội hợp, và hai sao hội hợp khác là "Thiên cơ Cự môn" hóa Khoa hóa Kị. Đây cũng thành cách "Lộc Quyền Khoa Kị" đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân, "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý vị "phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành, nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo "tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.

15- Thái Âm - can Mậu hóa Quyền

Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang lại tính chất Cát - Lợi. Ý nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát tài chính. Nhưng cần chú ý, "tài tinh" Thái âm khác với "tài tinh" Vũ khúc. Nếu so sánh, thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên "quyền tài chính" không phải là giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc một cách tốt nhất (ở xã hội hiện đại, người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính chất này).

Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ giúp cải thiện một số tính chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái, hoặc vợ và con gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như "sinh ly" thì biến thành "gặp nhau ít mà xa nhau nhiều",.v.v... Cần phải xem tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm bị hóa thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa thành sao Quyền, thì thường sẽ biến thành lực "kích phát" rất bất lợi.

Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút đặc biệt đối với người khác giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có lý trí, không giống như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình cảm.

Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có "thuật" chế ngự chồng, tuy chế ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận thấy đó là chế ngự chồng, mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh mà cung Phúc đức là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành cho chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái âm hóa Quyền hội với "Thiên cơ Thiên lương" cư Quan mà Thiên cơ hóa Kị, và mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp có Thái dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa Kị, chủ về sự nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất "danh lớn hơn lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, và mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì "Thái dương Thái âm" có thể gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa "chợt âm chợt dương", có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm hóa Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Cự môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện tượng đồng dạng.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái âm hóa Quyền chủ về ổn định, Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi "chế ngự" chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu "Thiên cơ Thái âm" ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.

Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái âm có thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái dương hóa Khoa cư Tài và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được "tiên cơ" để tiến hành phép "tìm cát tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân, thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép "tìm cát tránh hung" nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc cơ hội phát triển.

Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái dương hóa Khoa ở đối cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với "Thiên đồng thiên lương" cư Quan và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái âm ở hai cung độ này là rơi vào "thiên la địa võng", còn có bản chất không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó. Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa "đầu voi đuôi chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn lực, khác với Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi. "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở "Thiên la Địa võng". Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để định cát - hung.

Thái âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc tồn và đối nhau với Thiên cơ hóa Kị. Mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp "Thái dương Thiên lương" ở cung Quan mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay cung Hợi, đều là cách "Lộc gặp Thái âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái âm hóa Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.

16- Tham Lang - can Kỷ hóa Quyền

Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó, bất kể là ham muốn vật chất hay ham muốn dục tình đều như vậy.

Trên đời, không thể không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó Tham lang hóa Quyền luôn có ý thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực một. Hơn nữa, có thể còn có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân tâm.

Tham lang có thiên hướng trong "giao tế thù tạc", sau khi hóa Quyền thì biến thành ưa lấy "giao tế thù tạc" làm thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh, môi trường giao tế thù tạc lại không thể tránh được tình cảnh "phong hoa tuyết nguyệt", do bản thân Tham lang cũng nặng về dục tình, nên dễ xảy ra sự cố.

Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy sinh thân xác để theo đuổi mục đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, mà cung Phúc đức không có các sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp phải cạnh tranh càng tăng thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia đình vì không còn thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu thê, và cung Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị sẽ là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy cũng có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể thường được hòa hoãn hơn.

Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về phát đột ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà không chủ về phát tài. Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải xử sự cẩn thận, rất dễ thân bại danh liệt.

Tham lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và Thất sát hội hợp, đối cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền rất kị đồng độ với Văn khúc hóa Kị, tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.

Tham lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ khúc hóa Lộc đồng độ, xin tham khảo ở đoạn "Vũ khúc hóa Lộc".

Tham lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm trinh, hội hợp với Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư Tài. Tham lang ở cung Dần còn được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá nặng, "Vũ khúc Thiên phủ" mà Vũ khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên cuộc đời thường được biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị "vợ đoạt quyền chồng" quá nặng. Lúc cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về dễ bị người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay đổi.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham lang hóa Quyền, hội "Vũ khúc Phá quân" cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội "Liêm trinh Thất sát" cư Quan, lại gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất mạnh mẽ. Do cung Tài là "Vũ khúc Phá quân" mà Vũ khúc hóa Lộc, nên tài khí không yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại "trống rỗng". Tinh hệ Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc hóa Kị đồng độ hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.

Tham lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ khúc hóa Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của "Quyền Lộc tượng hội", khiến cho Tham lang ở "thiên la địa võng" có thể phá được cảnh khốn khó, đột nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách "tìm cát tránh hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của cung Phúc đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.

Tinh hệ "Liên trinh Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Quyền, đồng thời hội "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội "Tử vi Phá quân" ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn khúc hóa Kị cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.

17- Thái Dương - can Tân hóa Quyền

Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực sáng tạo và tài lãnh đạo, nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về chuyển biến có tính đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa vị.

Vấn đề "miếu vượng lạc hãm" có ảnh hưởng khá lớn đến Thái dương hóa Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có chức mà không có thực quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến thoái, thì dễ vì vậy mà dẫn đến thất bại.

Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường là biểu trưng cho tính độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ, thường vì xử sự chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin một cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng lớn.

Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì cần phải đồng thời quan sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ với đồng sự và người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với đời người.

Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc hội hợp, sẽ chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề bạt, cũng chủ về nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp đồng thời với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán thất bại.

Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính thức.

Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc cư Quan, và mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài.

Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.

Thái dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành "hữu hanh vô thực". Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.

Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.

Tinh hệ "Thái âm Thái dương" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Quyền, tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Tài để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc tồn.

Do "Thiên cơ Cự môn" ở cung Phúc đức, lúc Cự môn hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy mà sinh phá sản, thất bại.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Quyền ắt Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự môn hóa Lộc.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm độc tọa cư Tài, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Quan mà Cự môn hóa Lộc.

Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói "có tiếng thanh cao" là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng là đạo "tìm cát tránh hung" vậy.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.

Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái âm, tam phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình dương.

Thái dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá "Thiên la Địa võng", nhưng lại thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột. Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.

Thái dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều "triêu khí" (khí ban ngày), nhân sinh quan khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều "mộ khí" (khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng, rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm giác "không gặp thời", dễ biến thành tiêu cực.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao địa vị.

Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Cự môn độc tọa hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc hãm.

Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có, không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có cùng một ý vị như vậy.

18- Vũ Khúc - can Canh hóa Quyền

Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền sẽ làm tăng sự hiển hách của thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có biểu hiện cụ thể, nên sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết đoán.

Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện bạc tình, nên sau khi hóa Quyền sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với thủ đoạn của Tham Lang hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không cần biết phản ứng của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không có thâm ý. Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong giới kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có người đố kị.

Do Vũ khúc mang theo tính "cô độc và hình khắc", nên nữ mệnh không ưa hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không có duyên với con cái, biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự nghiệp.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm trinh độc tọa cư Tài, "Tử vi Thiên tướng" cư Quan, đối cung là Thất sát độc tọa.

Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên đồng hóa Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp để giảm sự vất vả của bản thân.

Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.

Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành "ngó đứt mà tơ vương", đồng thời còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung "Liêm trinh Phá quân" cư Tài, và hội "Tử vi Thất sát" cư Quan.

Vũ khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn nhất của họ.

Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến thân.

Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì "bà quản gia" được coi là "chức nghiệp".

Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển biến.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá quân, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" cư Tài mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư Quan.

Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ, "Lộc Quyền Khoa" hội hợp, thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý "Vũ khúc Thiên tướng" luôn luôn bị Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.

Nói "nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng, thì lại cần phải lưu ý đạo "tìm cát tránh hung".

Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ vỡ.

Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Quyền, đồng độ với Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la, đối cung là Thiên phủ đồng thời hóa Khoa, tam phương hội "Tử vi Phá quân" cư Quan và hội "Liêm trinh Tham lang" cư Tài.

Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào sự nghiệp.

Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.

Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối cung, tam phương có "Tử vi Thiên phủ" cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và "Liên trinh Thiên tướng" cư Tài.

Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối cung gặp "Hỏa Tham cách" hay "Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột. Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội có "Tử vi Tham lang" cư Quan, và "Liêm trinh Thất sát" cư Tài.

Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.

Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản tốt.

19- Tử Vi - can Nhâm hóa Quyền

Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích thân chủ trì xử lý chính sự, cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự nghiêm cẩn là không thể được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu không khí thường căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là một đặc điểm lớn nhất của Tử vi hóa quyền.

Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền rất vất vả, mà lại ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà mọi người ở bên cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền, đều cảm thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao mình quá vất vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây!

Hóa Quyền là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ gánh vác công việc rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực một mình đảm trách công việc. Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị nên không thích hợp trong kinh doanh làm ăn, nhất là khi mình tự chủ. Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền, bởi vì bản thân người Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh không thể tự chủ, phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền lại phải chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản thân. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những hậu quả bất lợi một cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao lưu thù tạc.

Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu ghét đều có tính kích động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng tăng, do đó thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát huy tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương bướng.

Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là bao dung chịu đựng, sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho nên dễ tha thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất ngờ.

Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương, có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ có biểu hiện tiêu xài lãng phí.

Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh. Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách "Phiếm thủy đào hoa" dễ có tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có tình.

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu không dễ bị túng thiếu.

Tinh hệ "Tử vi Phá Quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Quyền (ở cung Mùi còn gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Liên trinh Tham lang" ở cung Quan, và "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.

Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi có tính chất ít thận trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn, dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo "tìm cát tránh hung" chính là đừng tìm và không thể cầu "thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm ủng hộ và tán thưởng.

Do Tử vi có đặc tính "kích phát", "kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh cục này.

Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung Nô).

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Quyền thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan, và Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài. Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp Kình dương và Đà la.

Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử vi khi hóa Quyền thêm nặng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát huy.

Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên phủ hóa Khoa, một "công" một "thủ" có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn mỹ.

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là "cát" hay "hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục hành động hay là nên dừng lại.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn, tam phương hội cung có "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa Kị, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp "Vũ khúc Phá quân" hóa Kị, thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống bị tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan, nhưng về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc rối).

Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Quyền bị Kình Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá quân, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm trinh độc tọa cư Quan.

Nhóm tinh hệ này bị "Vũ khúc Thiên phủ" gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn của bản thân, trên thực tế thường thường lại không cần thiết phải trả giá quá đắt như vậy.

Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc trở.

Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Quan, và "Vũ khúc Tham lang" có Vũ khúc hóa Kị ở cung Tài.

"Tử vi Thất sát" vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì tính chất quyền lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.

Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát tường, có thể phát triển thành "cọp mà ăn thức ăn của mèo" hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.

Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng không được triển khai cục diện lớn quá.

20- Cự Môn - can Quý hóa Quyền

Cự Môn là sao điều tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến "điều tiếng thị phi" biến thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi. Cự môn không hóa Khoa cũng vì cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau thì cũng như nhau, chẳng thể tin được.

Cự Môn hóa Quyền thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như luật sư, ngoại giao, giáo dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ,.v.v... cũng nên suy tính đến những nghề biểu trưng cho trạng thái xã hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ, diễn viên,.v.v...

Nữ mệnh vốn không ưa Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm trạng của mình.

Cự Môn là "ám tinh", thường có khuynh hướng biểu hiện "cái tôi" (ngã), nhưng sau khi hóa Quyền thì lối biểu hiện "cái tôi" sẽ dễ khiến cho người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói, dễ làm cho người ta tiếp nhận sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn hóa Quyền có thể làm tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng sự ảnh hưởng địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà thu vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang cao.

Cự môn hóa Quyền hội Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) phù trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận của mọi người bề những cái bộc lộ biểu hiện của mệnh tạo. Khác với Thái dương hóa Quyền hội Cự môn hóa Lộc.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Tài.

Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách "Thạch trung ẩn ngọc", nhất là khi Cự môn ở cung Tý được Lộc tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về "Thạch trung ẩn ngọc cách", ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách "Thạch trung ẩn ngọc", thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí cao.

Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.

Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội chiếu.

Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.

Cần chú ý "Thiên đồng Cự môn" ở cung Sửu, thì cung Huynh đệ là Tham lang hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người hợp tác.

Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn nhân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung mượn "Thiên đồng Thái âm" nhập cung mà Thái âm ắt hóa Khoa ở cung Quan, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" nhập cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội chiếu.

Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.

Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc và Lộc tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự nghiệp.

"Thái dương Cự môn" trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Quyền ắt sẽ gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc tọa ở cung Tài.

Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách "Dương Lương Xương Lộc" để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.

Cự môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ "ám lực" (lực ngầm) mà chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được lâu dài.

Cự môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung Thìn gặp Lộc tồn), có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái dương độc tọa ở cung Tài, và mượn "Thiên cơ Thái âm" có Thái âm hóa Khoa để nhập cung Quan.

Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính chất lạc hãm ở "thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải qua gian khổ thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.

Điều đáng chú ý là "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm hóa Khoa, có thể thành cách "Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn xương Văn khúc, chủ về được nhạc gia nâng đỡ.

Cự môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tam phương hội hợp Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.

Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản của cha nuôi dưỡng.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.

21- Vũ Khúc - can Giáp hóa Khoa

Vũ khúc hóa Khoa không chủ về "khoa danh" (có danh tiếng trong khoa cử), khác với Hóa Khoa của Văn xương và Văn khúc. Khi Vũ khúc hóa Khoa chỉ chủ về có danh tiếng giới hạn trong một ngành nghề, hoặc trong một phạm vi nhất định, chưa chắc được đại chúng trong xã hội biết đến.

Cho nên Vũ khúc hóa Khoa không có ý vị được tuyên dương rộng rãi. Hơn nữa, một khi tuyên dương rộng rãi, sẽ dễ bị ở vào vị trí lúng túng, gượng gạo, khó xử, như bị người ta đả kích, đố kị,.v.v... Nữ mệnh càng dễ bị rắc rối về tình cảm, thường bị người đã có gia đình theo đuổi.

Ưu điểm lớn nhất của Vũ khúc hóa Khoa là làm tăng năng lực quyết đoán theo hướng tốt, chẳng bị rơi vào tình trạng võ đoán hoặc suy nghĩ nông cạn.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội hợp với Liêm trinh độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Quan. "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Ngọ còn gặp Lộc tồn, nên ở cung Ngọ có lợi hơn ở cung Tý.

Nhóm tinh hệ này rất ưa gặp sao Lộc, được "Khoa Lộc" là kết cấu tinh hệ tốt lành. Trong các tình hình thông thường, chủ về xử lý công việc thuận lợi, thích hợp với ngành nghề kinh tế tài chính, dễ được ngân hàng tín nhiệm, còn có biểu hiện tốt trong nghề nghiệp.

Do Liêm trinh hóa Lộc hội chiếu, nếu gặp các sao đào hoa, cũng chủ về dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm.

Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Khoa, đồng thời còn gặp Kình dương Đà la hoặc có Kình dương đồng độ. Tam phương hội hợp có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Tài chia ra một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền, và hội cung Quan có "Tử vi Thất sát" là kết cấu sao quyền lực.

Tinh hệ có kết cấu sao kiểu này, có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ thì mới phát huy được đặc tính của "Vũ khúc Tham lang" có thể phát đột ngột. Nếu không thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", thì đây là cách "Lộc Quyền Khoa hội" chủ về phát vượt lên nhưng không có ý vị phát đột ngột, mà là phát lâu dài.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm sao này, cũng là vận tốt, nhưng nên tránh bất hòa với thượng cấp và bậc trưởng bối, thường làm cho thượng cấp đố kị tài năng.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Khoa ắt có Lộc tồn hội hợp hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp có "Liêm trinh Thiên phủ" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, và Tử vi độc tọa ở cung Quan, đối cung Thiên Di có Phá quân hóa Quyền.

Nhóm sao này cũng là kết cấu "Lộc Khoa Quyền hội cách", do Tử vi ở cung Quan nên rất dễ ở địa vị lãnh đạo và có danh tiếng, cũng thích hợp tự mình phát triển kinh doanh. Có điều lúc đồng độ với Lộc tồn, ắt sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, do đó không nên phát triển riêng một cách độc lập quá sớm, nếu không sẽ dễ bị phá tán, thất bại.

Nhóm sao này thường thường cũng thành kết cấu thích hợp làm việc trong chính giới, lúc đó càn phải gặp các sao Phụ diệu, Tá diệu, nhưng lại không nên ở địa vị lãnh đạo. Ảnh hưởng của Phá quân hóa Quyền ở đối cung Thiên Di, chỉ chủ về có thể nắm thực quyền.

Đại hạn hoặc lưu niên rất ưa gặp nhóm tinh hệ này, chủ về bỏ cũ đổi mới, gặp cơ hội tốt.

Tinh hệ "Vũ khúc Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Khoa tuy sẽ gặp Kình dương Đà la hoặc đồng độ với Kình dương, nhưng đồng thời cũng sẽ hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá quân hóa Quyền ở cung Quan, và "Liêm trinh Tham lang" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài. Không những thành kết cấu "Lộc Quyền Hoa hội" tốt lành, mà còn là cách "cương nhu" phối hợp thích đáng.

Chỉ có một khuyết điểm bất lợi về Cha, chủ về không được "phụ ấm" (cha che trở), hoặc chủ về hai cha con gần nhau thì ít mà xa nhau thì nhiều, nhưng cũng chính vì vậy mà "kích phát" năng lực khai sáng sự nghiệp. Thích hợp với những ngành nghề như kinh tế tài chính, giải trí, vui chơi, nghệ thuật,.v.v... nhất là những ngành nghề giầu tính cạnh tranh.

Đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về có tính sáng tạo, càng có cạnh tranh càng có lợi.

Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp có "Tử vi Thiên phủ" ở cung Quan, và "Liêm trinh Thiên tướng" mà Liêm trinh hóa Lộc ở cung Tài, Vũ khúc ở cung Tuất còn được gặp Lộc tồn.

Nhóm tinh hệ này cũng là kết cấu "Khoa Lộc" tương hội, nhưng trừ phi thành cách "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", nếu không sẽ rất ngại bản thân "Tử vi Thiên phủ" ở cung Sự nghiệp có mâu thuẫn, cung Tài "Liêm trinh Thiên tướng" có ý vị bị động, tuy nhờ Vũ khúc hóa Khoa cũng chỉ chủ về được người ta trọng dụng nhất thời, mà không có trợ lực thực tế.

Nếu Vũ khúc hóa Khoa có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ cũng chủ về phát đột ngột, nhưng không lớn bằng "Hỏa Tham" hay "Linh Tham", mà còn dễ bị phá tán thất bại.

Tinh hệ "Vũ khúc Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Vũ khúc hóa Khoa mà Phá quân đồng thời hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Phá quân hóa Quyền".

22- Tử Vi - can Ất hóa Khoa

Tử vi rất ưa hóa Khoa, bởi vì đối với Đế tinh, nhiều lúc danh dự còn quan trọng hơn quyền lực. Sau khi hóa Khoa, Tử vi có thể cải thiện một số khuyết điểm, như cố chấp, độc đoán, yêu ghét tùy ý,.v.v...

Tử vi sau khi hóa Khoa chủ về tăng danh vọng ở phạm vi khá rộng, còn có sắc thái công chúng, hơn xa Vũ khúc hóa Khoa chỉ có tính cục bộ.

Chỉ cần không phải là "tại dã cô quân", sức ảnh hưởng của Tử vi hóa Khoa thường có tính quyền uy, dễ là được người khác tin phục.

Tử vi vốn có đặc tính "lấy tai làm mắt", ưa nghe lời xiểm nịnh, nhưng sau khi hóa Khoa, có thể phân biệt rõ thị phi, có điều khi xử sự vẫn có phong cách cá nhân mạnh mẽ.

Tử vi sau khi hóa Khoa, dù không có Xương Khúc hội hợp, cũng chủ về dễ tiếp thu tri thức, và có thể biểu đạt ý nghĩa ý nghĩa hiểu biết của mình. Cho nên nó ở trong số "sao Khoa" có tính chất khá thiết thực và tốt lành.

Tử vi hóa Khoa nếu còn được các sao Phụ diệu, Tá diệu, thì thích hợp làm việc trong chính giới, cổ nhân gọi là "nho thần", ắt sẽ có địa vị rất cao. Nếu gặp Sát tinh, thì chỉ có thể biểu hiện trong phạm vi cục bộ.

Nhưng phàm là Tử vi hóa Khoa, thì vất kể là có kết cấu tinh hệ nào, cũng đều dễ chuốc đố kị, chỉ không bị tổn thương mà thôi.

Tử vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Tham lang ở đối cung, tam phương hội cung có "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung Quan, và hội cung Tài với tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng".

Tử vi độc tọa vốn đã mang ý vị độc lập, chỉ có hóa Khoa, mà không có sao Cát hóa khác hội chiếu, còn không gặp Lộc tồn, nên chỉ chủ về có năng lực suy nghĩ độc lập, mà lại còn khéo phát huy phong cách cá nhân. Nói về cảnh ngộ đời người, dễ được người khác ủng hộ (ở cung Ngọ ưu hơn cung Tý, vì ngại Thái âm hóa Kị ở cung Tị là cung Giao hữu), nhưng vẫn là tổ hợp chủ về "danh lớn hơn lợi" chẳng túng thiếu, nhưng cũng không dư giả.

So đặc tính của hai cung Tý hoặc Ngọ, người ở cung Tý thì "tinh" (chuyên sâu), còn người ở cung Ngọ thì "bác" (uyên bác).

Ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có tính chất đã thuật ở trên, nhưng lại thường là điềm tượng có cơ hội thể hiện bản thân.

Tinh hệ "Tử vi Phá quân" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thất sát" ở cung Tài ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, và hội cung Quan là tinh hệ "Liêm trinh Tham lang".

Tử vi hóa Khoa của nhóm tinh hệ này chủ yếu làm mạnh thêm thanh thế của Phá quân, đồng thời còn có ý vị, vì tuy là cầu danh tiếng mà chủ động thay đổi. Nếu có Cát tinh hội hợp thì vì Danh mà thay đổi, sau khi thay đổi thì danh tiếng càng lớn, do đó lại cầu thay đổi tiếp. Thế là đương số không ngừng theo đuổi, không ngừng biến đổi, đời người tuy khó tránh vất vả, khổ lụy, nhưng bản thân đương số lại cảm thấy vẻ vang và thỏa mãn.

Nếu trong lúc đang thay đổi, bỗng nhiên họ dừng bước, thì trái lại, sẽ dễ vì phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ mà dẫn đến tổn thất phá tán, thất bại. Cũng do không ngừng cầu thay đổi, nên quan hệ giao tế cũng thay đổi luôn, cho nên khi Tử vi hóa Khoa cũng không thể cải thiện tính chất "vô tình vô nghĩa" của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về có biểu hiện vẻ vang rực rỡ và thay đổi.

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung là Vũ khúc độc tọa ở cung Tài và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Quan. "Tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tử vi và Thiên phủ vốn có tính mẫu thuẫn, vừa chủ động lại vừa bị động, vừa tiến công lại vừa phòng thủ. Sau khi Tử vi hóa Khoa thì Tử vi được tăng thêm sức mạnh, nhờ vậy mà giải quyết được tình trạng mẫu thuẫn của "Tử vi Thiên phủ". Một khi mẫu thuẫn được giải quyết, xung chiếu Thất sát, thì tính chất hóa thành quyền lực được phát huy. Cho nên tinh hệ này khi Tử vi hóa Khoa trở thành có trí tiến thủ, và năng lực quyết đoán cao được phát huy, đây là điều mà tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" vốn không có.

Như tinh hệ này lại có đặc điểm là ưa lộ sự sắc xảo, luôn muốn khoe tài năng, vì vậy mà thường bị người ta công kích. Còn cần đặc biệt lưu ý khi đến đại hạn hoặc lưu niên "Liêm trinh Thiên tướng" đừng cố xuất đầu lộ diện mà mang họa vào thân.

Nhóm tinh hệ này khi gặp ở đại hạn hoặc lưu niên thì không có bản chất này (?), chỉ chủ về bộc lộ những biểu hiện cá nhân, mà cần lưu ý không được nóng nảy.

Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội cung với "Vũ khúc Phá quân" ở cung Tài, và "Liêm trinh Thất sát" ở cung Quan.

Tinh hệ này vốn có sắc thái không ổn định, nhưng Tử vi hóa Khoa chỉ có tính chất nhờ thay đổi cải cách mà người ta biết tiếng, thậm chí ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.

Tinh hệ "Tử vi Thiên tướng" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Khoa, ắt sẽ đồng thời gặp Kình dương đồng độ, hoặc Kình Đà giao hội, có Phá quân độc tọa ở đối cung, tam phương hội cung có "Vũ khúc Thiên phủ" ở cung Tài và Liêm trinh độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này Tử vi rất ưa được hóa Khoa, vì Thiên tướng đồng độ với Tử vi nên Thiên cơ hóa Lộc và Thiên lương hóa Quyền tất sẽ giáp cung, chủ về người có tài năng đặc biệt. Ngoại trừ trường hợp Tử vi độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đây cũng là nhóm tinh hệ lợi về nghiên cứu học thuật.

Liên quan đến khuynh hướng của tài năng, phải xem xét các sao hội hợp có tính chất mạnh yếu như thế nào mà định. Nếu "Vũ khúc Thiên phủ" có lực mạnh thì giỏi quản lý tài chính, nếu Liêm trinh có lực mạnh thì có tài năng văn nghệ, nhưng có lúc cũng chủ về làm việc trong chính giới, lấy thỏa hiệp làm sở trường, chưa chắc đã có lập trường nhất định.

Tinh hệ "Tử vi Thất sát" thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tử vi hóa Khoa, đối cung là Thiên phủ, tam phương hội cung có "Liêm trinh Phá quân" ở cung Sự nghiệp, và "Vũ khúc Tham lang" ở cung Tài.

Tử vi và Thất sát đồng độ đã có sắc thái quyền lực, khi Tử vi hóa Khoa khiến cho quyền lực và danh dự đều được vẻ vang, rực rỡ, do đó đây cũng là kết cấu tinh hệ có tính chất tốt lành.

Khi quyền lực và danh dự vẻ vang rực rỡ, thì lại có khuyết điểm là: lý tưởng của đời người đặt ở vị thế quá cao, thế là theo đuổi lý tưởng không ngừng nghỉ, đời người khó tránh vất vả và khổ lụy. Ở tuổi vãn niên có lúc bỗng cảm thấy cuộc đời là hư ảo, rồi sinh buồn rầu, thích bàn luận triết lý.

Ngoài ra tinh hệ này cũng chủ về tình cảm vợ chồng thường có tì vết, nhưng mệnh tạo lại thích che dấu, không cho người ngoài biết.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tính hệ này, thường thường chủ về biến đổi quyền lực, thông thường là ở vận tốt.

23- Văn Xương - can Bính hóa Khoa

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn học nghệ thuật, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải cái được là hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong thi cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được thuyết trình phát biểu tác phẩm chuyên đề, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, mà trước thi cử một năm cũng có lợi.

24- Thiên Cơ - can Đinh hóa Khoa

Thiên cơ hóa Khoa không chủ về nghiên cứu học thuật, chỉ khi gặp Xương Khúc Khôi Việt hội hợp, mới có ý vị nhiên cứu học thuật. Cũng có thể khi Thiên cơ hóa Khoa có một số biểu hiện nhưng không liên quan đến học thuật, nhưng vẫn khiến cho người ta trọng dụng. Ví dụ như thắng một giải đua xe, đây là do ở xã hội hiện đại xem trọng về mức độ học lực có chuyên nghiệp và chuyên sâu hay không? cho nên bản chất của Thiên cơ hóa Khoa cũng được phát huy khá lớn.

Thiên cơ thuộc nhóm sao hiếu động, trôi nổi, tuy hiếu học nhưng không thiết thực, thậm chí thường hay có kỹ xảo, hoặc thường phô trương thái quá, thường thiếu và ít có những trải nghiệm thực tế,.v.v... tất cả đều là những khuyết điểm cơ bản của nó. Nhưng sau khi Thiên cơ hóa Khoa, có thể khiến cho những nghiên cứu trở thành thiết thực, mà còn có thiên hướng về khoa học kỹ thuật, toán học. Nhưng bất kể như thế nào, Thiên cơ hóa Khoa chỉ lợi về vạch kế hoạch, mà bất lợi về thực hành, cho nên có lợi nhất khi trở thành vai trò người tham mưu hay người cố vấn, hay môi trường các cấp cục, vụ, viện, phòng, ban, có chức năng tổng hợp và phân tích tin tức.

Thiên cơ hóa Khoa còn có tính chất xu phụ quyền thế, thấy sang bắt quàng làm họ, hễ có cơ hội thì liền làm quen, đầu tư quan hệ rất nhiều với những người nổi tiếng hay người có vị thế quyền lực cao, để bản thân cũng được nhiều người biết.

Lúc Thiên cơ hóa Khoa có tứ Sát tinh đồng độ, thì thích hợp nghiên cứu về khoa học tự nhiên như toán lý, khuynh hướng công nghệ thông tin, máy tính,.v.v... cuộc sống thường ngày cũng hay bộc lộ tính cách hướng theo những trào lưu mới.

Thiên cơ hóa Khoa có sao Văn hoặc sao "Không" đồng độ, thì có khuynh hướng tìm đến những vấn đề thần bí, nên thích hợp nghiên cứu tôn giáo, triết học, thuật số, hay những bộ môn học thuật mang tính "tương cận."

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Cự môn sẽ đồng thời hóa Kị. Tam phương hội cung có Thái âm độc tọa cũng hóa Lộc ở cung Sự nghiệp, và "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài. Đây là kết cấu tinh hệ hội tụ đủ tứ hóa diệu.

Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị, cho nên tính chất của "Lộc Quyền Khoa hội cách" sẽ phát huy biến thành cách "dùng lời nói để kiếm tiền". Cự môn ở cung Ngọ thì Thái dương ở cung Tuất không có năng lực giải "ám". Cự môn ở cung Tý thì Thái dương ở cung Thìn, lại có năng lực giải "ám" khá tốt. Do đó có thể nói Thiên cơ hóa Khoa ở cung Tý chuốc nhiều thị phi hơn ở cung Ngọ. Nhưng ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" thì ở hai cung đều như nhau.

Phàm là Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, cần phải quan sát nhóm sao "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Tài bạch, xem chúng có năng lực sáng tạo hay không?, hay có sắc thái lưu lạc, rời xa người thân hay không?. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến tính chất của Thiên cơ hóa Khoa ở cung Mệnh.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên lương, có Kình dương đồng độ, hoặc bị Kình Đà chiếu xạ. Tam phương hội hợp là Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp, và Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch.

Do ảnh hưởng của Cự môn hóa Kị ở cung Sự nghiệp và hội với Sát tinh, Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung này chỉ thích hợp với những ngành nghề như công nghệ, quảng bá. kế, thiết kế. Có điều là dù trước hay sau, thì vẫn thiếu khí khái của người "một mình đảm trách công việc".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, có lúc chỉ là biểu hiện khi được xu nịnh ắt sẽ trổ tài vặt. Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ cũng có tính chất này, nhưng biểu hiện khá tốt, hơn nữa còn có nhiều điểm mang lại lợi ích thực tế, còn Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi thì không được như vậy.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hau cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Lộc. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Lộc".

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên cơ hóa Khoa thì Cự môn đồng thời hóa Kị, lại còn gặp Sát tinh. Tam phương hội hợp có Thiên đồng hóa Quyền ở cung Tài bạch, và phải vay mượn mượn tinh hệ "Thái dương Thái âm" để nhập cung Sự nghiệp, có Thái âm hóa Lộc.

Tinh hệ kết cấu dạng này cũng tụ lập đủ tứ hóa diệu, nhưng do Thiên cơ và Cự môn đồng độ, có Hóa Khoa và Hóa Kị cùng bay đến, do đó có khác với Thiên cơ hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Ngoại trừ việc phải nhấn mạnh tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền" ra, thì vẫn rất khó tránh khỏi thị phi, hao tâm tổn thần, phải vất vả nói năng cũng là đặc trưng của nó.

Tinh hệ này cũng có sắc thái trôi nổi, không thiết thực, cho nên nhất là phái nữ không nên có mệnh cục này thủ Mệnh.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tổ hợp sao này, cần phải đề phòng điều tiếng thị phi, "khoa trương" và "điều tiếng" sẽ cùng đến, nhất là "khoa trương" có tính chất xu phụ thường bị người ta chỉ trích.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên cơ hóa Khoa, tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, trong đó chia nhau một hóa Quyền một hóa Lộc, và phải bị vay mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp, mà Cự môn lại hóa Kị.

Nhóm tinh hệ này cũng hội đủ tứ hóa diệu, nhưng do cung Sự nghiệp bị buộc phải vay mượn "Thái dương Cự môn" có Cự môn hóa Kị, cho nên ý vị "dùng lời nói để kiếm tiền" càng mang đậm sắc thái này, khi theo những ngành nghề luật sư, pháp luật, pháp lý, tư pháp,.v.v... thì trái lại sẽ chủ về có danh vọng. Nếu theo nghiên cứu chuyên về học thuật, thì chỉ nên theo những ngành khoa học kỹ thuật, công nghệ, đối với các ngành chuyên nghiệp mang tính chuyên sâu cao sẽ rất khó thâm nhập.

Do Thiên cơ hóa Khoa, cũng có thể làm công tác kế hoạch, lập chương trình, vẫn phù hợp với sắc thái "miệng lưỡi", như lập chương trình quảng bá, quan hệ công cộng, nghệ thuật biểu diễn,.v.v...

Tinh hệ này bất lợi về hôn nhân, thường chủ về thông hôn với người ở nơi xa (do phải đi việc ở nơi xa mà nảy sinh tìm cảm) hay với người ngoại quốc, hoặc chủ về gia thế của người phối ngẫu không tương xứng, mà người phối ngẫu cũng có sắc thái "dùng lời nói để kiếm tiền" tương hợp.

Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cần phải chú ý cung "Thái dương Cự môn" đồng độ, xem có gặp các sao Hình Hao hay không? nếu có, thì có thể vì kế hoạch sai lầm mà chuốc điều tiếng thị phi rất nghiêm trọng.

Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ đồng thời có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Lộc. Tam phương hội cung có "Thiên đồng Cự môn" ở cung Tài bạch, phân ra một sao hóa Quyền một sao hóa Kị, và vay mượn "Thái dương Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Nhóm tinh hệ này có cách cục cao hay thấp, là do tính chất của Thái dương và Thiên lương đồng độ quyết định, ở cung Mão thì tốt hơn ở cung Dậu, sẽ gây ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Tị cũng tốt hơn cung Hợi.

So sánh hai cung độ, thì cung Hợi chỉ chủ về hư danh, cung Tị được thiết thực hơn. Tam phương hội "Thiên đồng Cự môn", nên không chủ về "dùng lời nói để kiếm tiền", mà chỉ chủ về "có điều thầm kín khó nói về tình cảm" ràng buộc rất sâu đậm.

Tinh hệ này biểu trưng cho hiện tượng "chậm phát", nhất là ở cung Hợi thì càng nghiệm. Then chốt chủ yếu là ở vận trình Phá quân nhập cung Mệnh của vận hạn. Do vì Thiên cơ có tính chất hiếu động, trôi nổi, còn Phá quân thì chủ về khai sáng, có thể khai sáng thành công hay không? phải xem các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp mà định.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thông thường chủ về danh dự và tài lộc song thu, nhưng phải không gặp các sao Sát - Hình thì mới đúng.

25- Thái Dương - can Mậu hóa Khoa

Thái dương chủ về "Quý" nên ưa hóa Khoa. Có điều phải ở cung miếu vượng mới chủ về có danh dự và địa vị trong xã hội. Nếu Thái dương hóa Khoa nhập cung hãm địa, thì chỉ có hư danh, nhất là dễ vì chính cái "hư danh" mà bị gây liên lụy.

Hóa Khoa làm tăng năng lực hướng ngoại của Thái dương, do đó thường làm người ta để ý và đố kị. Vì vậy, cần xem xét cung Huynh hệ và cung Giao hữu gây ảnh hưởng như thế nào đến mệnh tạo? sẽ quyết định là Cát hay là Hung đối với Thái dương hóa Khoa thủ Mệnh.

Nếu Thái Dương hóa Khoa hội Thiên lương, mà còn có các sao Sát - Kị - Hình hội chiếu, thì cổ nhân định lệ đây là tổ hợp tinh hệ "phục độc" (dùng độc dược). Ở thời hiện đại, có thể nhuyễn hóa thành sử dụng ma túy, mua bán ma túy, hoặc bị bệnh mà uống nhầm thuốc, thậm chí phác đồ điều trị còn bị sai lầm. Cần phải quan sát toàn Cục để định tính chất cụ thể.

Thái Dương thủ Mệnh hóa Khoa, cung Phúc đức ắt sẽ là Thiên Cơ hóa Kị, do đó có thể biết, khi cầu danh sẽ bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt tinh thần. Lúc luận đoán nên xem xét tính chất của tình trạng bị quấy nhiễu gây khó khăn này. Kết cấu tốt nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn về mặt nghiên cứu học thuật. Kết cấu xấu nhất là bị quấy nhiễu, gây khó khăn do điều tiếng thị phi.

Chỉ khi gặp Văn Xương và Văn Khúc giao hội, thì Thái Dương hóa Khoa mới có lợi về "điển thí", cổ nhân gọi đây là cách "đan trì". Nhưng dù không gặp Xương Khúc, thông thường Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về thông minh, nhân sinh đắc ý là do cảm giác thành tựu và được nhiều người biết đến mà có.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, gặp Kình dương đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Lương xung chiếu, tam phương tương hội Cự môn độc tọa ở cung Sự nghiệp, và phải mượn "Thiên cơ Thái âm" nhập cung Tài bạch để hội hợp, mà Thiên Cơ hóa Kị và Thái Âm hóa Quyền.

Thái Dương sau khi hóa Khoa, sẽ làm mạnh thêm năng lực giải "ám" của Cự Môn và bản chất "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương, đồng thời còn mang lại danh tiếng. Nhưng những tác dụng này, lại có sự khác nhau giữa hai cung Tý và Ngọ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Tý, tác dụng lớn nhất chỉ là giảm bớt tính "thị phi" của Cự Môn và giảm bớt tính "cô độc và hình khắc" của Thiên Lương. Ví dụ như tính chất bất lợi ban đầu đối với người cha có thể là "tử biệt", thì sau khi Thái dương hóa Khoa sẽ biến thành "sinh ly", còn tác dụng mang lại tiếng tăm thì chỉ giới hạn trong một phạm vi nhỏ.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Ngọ, cũng có thể giảm bớt tính "thị phi" và tính "cô độc và hình khắc" của Cự môn và Thiên lương, nhưng tác dụng lớn nhất mang lại đó là danh tiếng có tính chất quảng đại công chúng. Có điều, lúc nổi tiếng sẽ làm cho sự nghiệp có vẻ lớn lao, nhưng thực ra bên trong lại trống rỗng. Đây chính là khuyết điểm của Thái Dương hướng ngoại một cách thái quá.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà có Thái dương hóa Khoa thì Thái âm ắt sẽ hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa quyền".

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Khoa, tam phương tương hội mượn "Thái âm Thiên đồng" có Thái âm hóa Quyền để nhập cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Thiên lương" để nhập cung Tài bạch có Thiên cơ hóa Kị. Tổ hợp tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Dương hóa Khoa ở hai cung này, tác dụng chủ yếu chỉ làm tăng mạnh sức thuyết phục của ngôn từ, và khiến cho Hóa Kị của tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Tài bạch chủ về lao tâm tổn thần, mà không chủ về "thị phi" hoặc phạm sai lầm, do đó cũng làm mạnh thêm tính chất "dùng lời nói để kiếm tiền".

Tinh hệ này có lúc còn biểu trưng cho "thiên tài về ngôn ngữ", chủ về học nói tiếng nước ngoài và tiếng địa phương khác rất dễ dàng (nhưng chỉ về "nghe nói", chứ không phải "đọc viết" tiếng nước ngoài).

Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tinh hệ này, cần chú ý đến cơ hội khi thuyết phục người khác, và thường thường nhờ vào đó mà gặp được hoàn cảnh thuận lợi.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái Dương hóa Khoa (Mệnh ở cung Dậu có thể gặp Lộc Tồn ở cung Tị). Tam phương tương hội với Thái Âm hóa Quyền ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Kết cấu tinh hệ này chỉ chủ về làm tăng độ danh tiếng, và khiến cho phạm vi nổi tiếng mở rộng. Ví dụ như một vị Giáo sư, danh tiếng của ông vốn chỉ được biết đến trong nội bộ, nhiều lắm cũng chỉ được biết đến trong giới học thuật. Nhưng khi gặp Thái Dương hóa Khoa lại có thể khiến cho danh tiếng của ông lan tỏa rộng ra xã hội, cho dù không phải là người trong nghề, thậm chí không ở trong giới học thuật, cũng biết có vị giáo sư này. Đây là tác dụng của Thái Dương hóa Khoa.

Thái Dương hóa Khoa ở cung Mệnh tương hội Thái Âm hóa Quyền, thì Thái Âm không còn chủ về "tài khí", mà chỉ chủ về lợi ích do danh tiếng mang lại, còn Hóa Quyền chỉ làm tăng tính ổn định của nó.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường có lợi về thi cử, hoặc có lợi khi cạnh tranh, nhờ vào đó mà mang lại lợi ích (ví như đoạt giải thưởng).

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ hoặc Kình dương Đà la giao hội, đối cung là Thái âm hóa Quyền, tam phương tương hội với Cự môn độc tọa ở cung Tài bạch, và mượn "Thiên đồng Thiên lương" để nhập cung Sự nghiệp.

Hai cung Thìn và Tuất vốn là "Thiên la Địa võng", khi Thái Dương hóa Khoa thì không cần đột phá, đối với ánh sáng chói lọi của Thái Dương thì "thiên la địa võng" cũng không thể làm lu mờ. Vì vậy thường thường có cơ hội thoát ra khỏi những cảnh ngộ không hay.

Thái dương ở cung Thìn là mặt trời mọc, lúc Hóa Khoa thì càng thêm chói lọi, cho nên những biểu hiện mong muốn bộc lộ ra bên ngoài được thuật lợi và dễ dàng hơn, nhưng cũng dễ chuốc lấy đố kị. Thái dương ở cung Tuất là mặt trời lặn về Tây, dù có Hóa Khoa, thì muốn biểu hiện cũng chỉ được cái nhỏ, hơn nữa những cái mong muốn biểu hiện này, cũng chỉ thuộc về hư danh. Vì vậy cũng chỉ có thể lợi dụng vào hư danh để mưu cầu phát triển.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chỉ chủ về có những biểu hiện được bộc lộ ra bên ngoài và nhờ vào đó mang lại lợi ích.

Thái Dương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng cung hoặc vây chiếu, đối cung là Cự Môn. Tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa hóa Quyền ở cung Quan, và hội hợp với Thiên lương độc tọa ở cung Tài bạch.

Do đối nhau với Cự Môn, nên Thái Dương hóa Khoa cũng chủ về "thiên tài ngôn ngữ", nhưng lại không chủ về ngôn từ có sức thuyết phục, chỉ biểu hiện là giỏi biện luận. Nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể phát triển thành tài ăn nói ở các phương diện như ca xướng, người điều khiển dẫn chương trình, nghệ thuận biểu diễn,.v.v...

Thái dương hóa Khoa ở cung Tị thì thanh danh khá thực tế, hóa Khoa ở cung Hợi thì chỉ có hư danh (ví dụ như giáo sư thâm niên, thanh danh vốn chỉ nhờ lâu năm, chứ không phải nhờ có biểu hiện đặc biệt).

Cự Môn đồng thời còn mang lại điều tiếng thị phi, khi Thái Dương hóa Khoa ở cung Tị cũng được hóa giải một cách dễ dàng hơn.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, cũng chủ về có biểu hiện lý tưởng, và nhờ vào đó mà thu được lợi ích.

26- Thiên Lương - can Kỷ hóa Khoa

Thiên lương là sao sang quý, Hóa Khoa khá hợp với khí chất của nó. Vì vậy có thể làm mạnh thêm khí chất hành động một mình, tuyệt đối không bị cuốn theo dòng nước.

Thiên Lương hóa Khoa còn làm tăng thêm trí tuệ, khiến khả năng lãnh ngộ có thể được tăng lên, do đó cũng làm tăng năng lực quan sát, nên cũng có lợi về thi cử, nhất là phạm vi thi cử chuyên nghiệp.

Sau khi Thiên Lương hóa Khoa, lại có nguy cơ tự sùng bái cá nhân mình, vì vậy chẳng thể mang lại lợi ích một cách thực tế, hoặc chỉ thu được lợi ích một cách có giới hạn.

Thiên Lương vốn có bản chất "tiêu tai giải nạn", sau khi Hóa Khoa, bản chất này càng rõ nét, có thể chuyển nguy thành an khiến cho vấn đề được giải quyết tận gốc, từ đó quét sạch những phiền phức kéo dài lâu ngày. Ví dụ người hay bị đau dạ dày, vì bị xuất huyết nên được điều trị triệt để, nhờ vậy không bị đau dây dưa nữa.

Lúc Thiên Lương "tiêu tai giải nạn", thường thường khó tránh phải dùng biện pháp mạnh, khiến cho người ta cảm thấy đau khổ. Nhưng sau khí Hóa Khoa, biện pháp sẽ ôn hòa, đau khổ cũng ít hơn.

Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh thích hợp với những ngành về y học, trị liệu, công tác xã hội, đây là mưu sinh bằng cách "tiêu tai giải khó" cho người khác, nhờ vậy cũng giảm bớt những khó khăn của bản thân.

Người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Thái Dương vây chiếu, tam phương tương hội có Thiên đồng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và "Thiên cơ Thái âm" ở cung Tài bạch. Thiên Lương ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, vì vậy có thể thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

Người thành cách "Dương Lương Xương Lộc", do Thiên Lương hóa Khoa sẽ làm mạnh thêm bản chất "Dương Lương Xương Lộc". Cho nên có lợi về thi cử, có lợi về cạnh tranh. Dù không gặp Văn xương Văn khúc mà không thành Cách, thì vẫn có lợi về thi cử và cạnh tranh, nhưng mức độ thì không bằng người thành cách "Dương Lương Xương Lộc".

Tinh hệ này cũng thuộc cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", người Thiên Lương hóa Khoa thủ Mệnh vốn đã có bản chất phục vụ, một khi có địa vị xã hội cao tất nhiên sẽ rất quý danh dự, chỉ ngại nhất khi xử sự trong quan hệ giao tế, lại thường sử lý quá nguyên tắc một cách không cần thiết.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối nhau với Thiên Cơ, tam phương tương hội với Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch, và Thái Dương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Cung độ của thiên Lương ắt sẽ gặp Kình Dương.

Thiên Lương bị ảnh hưởng của Thiên Cơ ở đối cung, tâm trạng vốn không ổn định, sau khi hóa Khoa tâm trạng sẽ biến thành ổn định.

Do Thái Dương và Thái Âm cùng chiếu, có lúc sẽ khiến Thiên Lương biến thành hay do dự hoặc ở trong tình cảnh phải lưỡng lự.

Nhưng vì ảnh hưởng của Kình Dương, khi Thiên Lương hóa Khoa nhiều khi sẽ biến thành không câu nệ vào nguyên tắc, cho nên không tốt bằng Thiên Lương hóa Khoa ở hai cung Tý hoặc Ngọ.

Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội Thiên cơ độc tọa ở cung Sự nghiệp, và Thái Âm độc tọa ở cung Tài bạch. Đây là cách thuần túy "Cơ Nguyệt Đồng Lương". Ở cung Dần được hội Lộc tồn.

Do Thiên Lương đồng độ với Thiên Đồng, khiến cho Thiên Lương hóa Khoa tăng thêm phong cách cá nhân, hoặc có phong thái tiêu sái của bậc danh sỹ, cho nên rất thích hợp làm cố vấn, có địa vị mà không cần phải làm hay phụ trách công tác thực tế, hoặc thích hợp với những nghề nghiệp tự do có tính chuyên nghiệp.

Nếu gặp Văn Khúc hóa Kị cùng bay đến, có thể là văn sỹ giang hồ hay "hào môn thanh khách" (kẻ làm khách của nhà giầu thời xưa).

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thiên Lương hóa Khoa, tam phương hội có Thái âm độc tọa ở cung Tài bạch, mượn "Thiên đồng Cự môn" để nhập cung Sự nghiệp. Kết cấu này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh, không cần thành cách "Dương Lương Xương Lộc" đã có tính chất cạnh tranh, đồng thời do Thiên Lương sau khi hóa Khoa đã giảm bớt tính "cô độc và hình khắc", vì vậy sức mạnh của Thái Dương càng được phát huy, giúp cho sự tăng thanh danh và biểu hiện bản thân.

Tinh hệ này thích hợp cho giới nghiên cứu học thuật, bởi vì bản thân "Thái dương Thiên lương" đã có sắc thái giữ nguyên tắc, mà nghiên cứu học thuật là xác lập nguyên tắc hoặc xác lập định nghĩa. Cho nên "Thái dương Thiên lương" không thiên về văn nghệ, dù gặp Văn Xương cũng chỉ nâng cao năng lực lý giải và khảo cứu.

Nếu có Văn Khúc hóa Kị đồng độ, thì nên nghiên cứu học thuật một cách khách quan, nếu không ắt sẽ nảy sinh nhiều tranh luận.

Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Lương hóa Khoa (ở cung Tuất được hội Lộc tồn), tam phương tương hội "Thiên đồng Thái âm" ở cung Tài bạch, vay mượn "Thái dương Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp.

Do đồng độ với Thiên Cơ, với tính chất do dự và không ổn định, cho nên tinh hệ này trái ngược với tinh hệ "Thái dương Thiên lương" chủ về hướng ngoại mà không hướng nội. Vì vậy thích hợp với ngành nghề như quảng bá, quan hệ công cộng, ngoại vụ,.v.v... Hóa Khoa chủ về "danh khí", giúp cho biểu hiện về công việc.

Nếu theo những ngành nghê như nội vụ, quản lý, thiết kế,.v.v... thì cần phải phát huy phong cách cá nhân một cách đầy đủ, thì mới có thành tựu.

Thiên Lương độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Thiên Đồng, tam phương hội "Thái dương Thái âm" ở cung Tài bạch, mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung Sự nghiệp để hội hợp. Cung Mệnh ắt dẽ gặp Đà La.

Tinh hệ này có kết cấu phức tạp, cho nên sắc thái quảng bá và văn nghệ giảm nhiều, tính chất của Thiên lương nhuyễn hóa thành mạo hiểm. Hóa Khoa chỉ làm tăng danh vọng trong nội bộ, không nên dương danh ở bên ngoài, nếu không ắt sẽ mang lại tai nạn và nguy hiểm.

Nhưng do Thiên Lương hóa Khoa, nên cho dù có tai ách cũng dễ chịu đựng, còn có thể chuyển "nguy" thành "an".

28- Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

Các tính chất còn lại tham khảo ở mục "Văn Xương hóa Khoa"

29- Thiên Phủ - can Nhâm hóa Khoa

Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa, còn các phái khác thì Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là Tả phụ và Hữu bật.

Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc lịch sử của nó, do đó tốt nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng lưu truyền tùy theo môn phái.

Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân hàng, uy tín là điều tối trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho rằng khi Thiên Phủ hóa Khoa cũng không phải là vô lý.

Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực kỳ đơn giản, nó không giống như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ có bản chất "lưỡng trùng", đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng lực cho sự biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là làm tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất "lưỡng trùng" đã thuật ở trên. Bởi vì "kho tiền" mà có uy tín thì đương nhiên phải rất ít khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo dựng được uy tín.

Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại "kho trống", "kho lộ" vốn chủ về gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là "kho lộ" hay "kho trống", cũng biến thành không thể gian xảo.

Tinh hệ "Vũ khúc Thiên Phủ" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ với Kình dương hoặc có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội là Liêm trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và "Tử vi Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Tử vi hóa Quyền.

Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kị chủ về "nhập xuất" tài chính gặp khó khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm, do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.

Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phòng the đối với nhân tình).

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là "Liêm trinh Thất sát", tam phương tương hội là Thiên tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn "Tử vi Tham lang" nhập cung Tài bạch để hội cung mà Tử vi hóa Quyền.

Do Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, vì ảnh hưởng của "Tử vi Tham lang" ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ "tín".

Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị " cấp phó". Thích hợp với những nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ lực.

Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn như "Từ vi Tham lang", "Vũ khúc Phá quân", "Liêm trinh Thất sát", những hành động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này, có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn biến thực tế.

Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con cái.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.

Tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc hóa Kị độc tọa ở cung Tài bạch, và "Liêm trinh Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp.

Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến thành gây liên lụy phản tác dụng. Nhưng trong kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn Hóa Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy bị giảm thấp, nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.

Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm kín.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là "Vũ khúc Thất sát" mà Vũ khúc hóa Kị, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Liêm trinh Tham lang" để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc tồn.

Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng "Liêm trinh Tham lang" ở cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành những phiền phức khó xử trong lòng.

Cung Thiên Di có "Vũ khúc Thất sát" mà Thiên phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất, đây là đặc điểm của tinh hệ này khi Thiên Phủ hóa Khoa. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên hưởng lương.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.

Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa ở cung Tài bạch, và "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị. Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.

Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.

Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất là các công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.

Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ "ngó đứt mà tơ vương".

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự nghiệp.

Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Vũ khúc Tham lang" nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.

Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ, nên vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.

Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo "xu cát tị hung" là cần phải kinh doanh thiết thực và sống có tiết chế một cách thích đáng.

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.

30- Thái Âm - can Quý hóa Khoa

Trong các tình hình thông thường, Thái Âm hóa Khoa là biểu trưng cho sự tu dưỡng phát triển tài năng "nhân văn", thiên hướng nghiêng về văn học nghệ thuật, khí chất nhàn nhã, thông minh tài trí.

Thái Âm nhập miếu mà Hóa Khoa, còn chủ về uy tín và danh tiếng, nếu có Văn tinh hội hợp, ắt sẽ xuất thân từ điển thí mà có Danh; nếu có các Sao đào hoa hội hợp, thì danh tiếng thuộc lĩnh vực giải trí, vui chơi, văn nghệ biểu diễn; nếu có các Sao tiền tài hội hợp, thì có danh vọng và uy tín trong giới làm ăn kinh doanh.

Thái Âm lạc hãm mà Hóa Khoa, ắt sẽ mang lại khuyết điểm, như bất lợi đối với người thân phái nữ, vẫn có những tính chất giống như nhập miếu mà Hóa Khoa, nhưng danh vọng thì nhỏ hơn.

Nữ mệnh gặp Thái Âm hóa Khoa thì thích hợp hơn nam mệnh, có thể làm tăng tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, quan tâm chăm sóc đến gia đình nhiều hơn, đối với nam mệnh thì giảm bớt tính cách hướng nội mà tăng khả năng hướng ngoại.

Thông thường, Thái Âm hóa Khoa cũng có lợi về hôn nhân; nam mệnh lấy được vợ xinh đẹp; nữ mệnh lấy được chồng có năng lực làm việc, quan tâm chăm sóc đến vợ con hơn, hoặc chồng có tài hoa chói lọi. Nhưng Thái Âm hóa Khoa thì Tham Lang ở cung Phụ Mẫu ắt sẽ hóa Kị, là biểu trưng cho hiện tượng thông thường "tài cao thì chuốc đố kị". Cho nên cần phải quan sát các đại hạn xem có rơi vào tình huống bị áp chế hay không? Nếu thấy gặp phải nhiều tình huống này, thì có tài mà không gặp thời.

Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu; tam phương tương hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

Trong tinh hệ này, Thái Âm hóa Khoa có sao Lộc là kết cấu tốt lành, nếu lại được Văn Xương, Văn Khúc hội chiếu, thì đây là cách "Lộc Văn củng mệnh", chủ về có vợ đẹp, khoa cử công danh thuận lợi. Ở thời hiện đại thì thích hợp nghiên cứu học thuật.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, nam chủ về phong thái nho nhã, nữ chủ về thích trang điểm làm đẹp. Cho nên đều tạo được "hảo cảm" với người khác, nếu có tinh thần sung mãn thì toàn mỹ.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, chủ về tài lộc thuận lợi toại ý, nhưng không biểu trưng cho việc sáng lập sự nghiệp.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái Âm hóa Khoa ắt sẽ đồng độ với Đà La, hoặc hội với Kình dương Đà la; tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên cơ Cự môn" để nhập cung Tài bạch có Cự môn hóa Quyền.

Do Thái Âm đồng độ với Thái Dương, nên lực của Hóa Khoa có biểu hiện kém hơn, không hiển hách bằng Thái Dương hóa Khoa, vì vậy chỉ có hư danh về mặt danh nghĩa, mà không có lợi ích thực tế.

Thái Dương ở cung Sửu có sức ảnh hưởng nhỏ, do đó Thái Âm hóa Khoa ở cung Sửu tốt hơn ở cung Mùi, ở cung Sửu khi Thái âm hóa Khoa sẽ được thực tiễn hơn. Mượn "Thiên cơ Cự môn" để hội hợp mà Cự Môn hóa Quyền, cho nên thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền", có thể phát huy năng lực phục vụ của tài nói chuyện.

Nhưng nữ mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này thì bất lợi về hôn nhân, đối với nam mệnh có thể mượn lực của Thái Âm hóa Khoa để bổ khuyết.

Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái Âm hóa Khoa (ở cung Thân còn hội Lộc tồn). Tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp.

Trong tổ hợp này, nếu Thái Âm không Hóa Khoa, thì đây là mệnh rời xa quê hương, sau khi Hóa Khoa sẽ khiến cho bản chất vốn hiếu động trôi nổi của hai sao Thiên cơ và Thái âm trở thành ổn định, có thể phát triển ở bản địa, mà còn tạo lập được danh tiếng. Có điều, nguồn tiền tài vẫn gặp nhiều sóng gió, trắc trở, ở cung Thân thì tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa làm mạnh thêm sắc thái thích hợp về công việc nội vụ, vì vậy nên làm về ngạch hành chính.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, Thái Âm sau khi Hóa Khoa đều có thể cải thiện tính chất vốn bất lợi ở cung Phu Thê.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về được người ta tán thưởng những biểu hiện của bản thân mệnh tạo, quan trọng nhất là nắm bắt được cơ hội để phát vượt lên.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối nhau với Thiên Đồng; tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa ở cung Tài bạch, và Thiên Lương độc tọa ở cung Sự nghiệp. Kết cấu tinh hệ này, "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Mão không bằng ở cung Dậu, vì ở cung Mão thì lạc hãm, và không thành cục "phản bối" (không gặp sao Lộc, Thái dương ở cung Hợi lại đồng độ với Đà la). Cho nên Thái Âm hóa Khoa ở cung Dậu dễ được người ta trọng dụng, còn ở cung Mão thì trở thành tự sùng bái cá nhân mình.

Tinh hệ có một ưu điểm, bất kể ở cung Mão hay ở cung Dậu, đều chủ về làm tăng phong thái của mệnh tạo, có phong cách cá nhân đặc biệt. Nhưng ở thời hiện đại, nhóm sao này, lại thường có khuynh hướng "đồng tính luyến ái", khi Thái Âm hóa Khoa sẽ làm tăng lực hấp dẫn càng mạnh thêm.

Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chỉ chủ về tâm tình vui vẻ.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn gặp Lộc tồn), gặp Thái Dương ở đối cung độc tọa; tam phương tương hội với Thiên Cơ độc tọa ở cung Tài bạch, và "Thiên đồng Thiên lương" ở cung Sự nghiệp.

Thái Âm nếu không hóa Khoa, thì ở cung Tuất ưu hơn ở cung Thìn. Nhưng sau khi Hóa Khoa có thể chủ về nắm quyền về hình pháp, quân đội hay cảnh sát, ở cung Tuất vẫn tốt hơn.

Thái Âm hóa Khoa ở cung Tuất thì cung Di là Thái dương ở cung Thìn, hội Lộc tồn và chia ra một sao Hóa Quyền một sao Hóa Khoa, kết cấu này vận trình sáng sủa hơn xa Thái Âm ở cung Thìn, vì vậy nên rời xa quê hương để phát triển chủ về dễ được quý hiển. Đây là sự khác biệt rất quan trọng giữa hai cung Thìn và Tuất.

Nhưng bất kể trong tình huống nào, Thái Âm ở "thiên la địa võng" đều ưa Hóa Khoa, có thể đột phá "thiên la địa võng" mà tỏa ánh sáng, dẫn tới đời người ắt sẽ có biểu hiện tốt, hơn nữa còn có thể cải thiện sự bất lợi về hôn nhân.

Thái Âm độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Đà la đồng độ hoặc hội Kình dương Đà la; đối cung với Thiên Cơ, tam phương hội hợp với "Thái dương Thiên lương" ở cung Sự nghiệp, và mượn "Thiên đồng Cự môn" nhập cung Tài bạch có Cự môn đồng thời hóa Quyền.

So sánh hai cung, ở cung Tị không bằng ở cung Hợi, Hóa Khoa chỉ hơi cải thiện khuyết điểm lúc lạc hãm. Ở cung Hợi có thể theo ngành nghề chuyên về kế hoạch, vạch kế sách, thiết kế, phần nhiều đều có biểu hiện tốt, cũng thích hợp với kế hoạch tài vụ, có thể thành danh.

Nhưng Thái Âm ở hai cung này đều rất dễ xảy ra đau khổ vì tình, nhất là nữ mệnh gặp Thái âm thủ Mệnh ở cung Tị, thường thường nỗi đau khổ trong lòng suốt đời sẽ không thể quên

Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, ở cung Hợi thì có lợi ích thực tế, ở cung Tị thì chỉ được hư danh.

31- Thái Dương - can Giáp hóa thành sao Kị

Lúc Thái Dương và Thái Âm hóa Kị đều có biểu hiện tổn hại các mối quan hệ nhân tế. Thái Dương chủ về người thân phái nam, Thái Âm chủ về người thân phái nữ.

Ở một phương diện khác, do Thái Dương chủ về "quý", Thái Âm chủ về "phú". Cho nên Thái Dương hóa Kị sẽ gây ảnh hưởng đến địa vị, ví dụ như bất hòa với thượng cấp, bị thượng cấp đè ép. Thái Âm hóa Kị thì ảnh hưởng đến tài lộc, ví dụ như vì ly hôn mà tổn thất tiền của.

Về phương diện tổn hai nhân tế, biểu hiện cụ thể bao gồm: ly biệt, bệnh tật mà chết, thị phi, đố kị, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau, kiện tụng,.v.v...

Về phương diện sự nghiệp, biểu hiện cụ thể là lo lắng mất ăn mất ngủ và tranh chấp.

Thái Dương ở cung lạc hãm rất ngại hóa thành sao Kị, lúc miếu vượng thì có tốt hơn. Lấy bất lợi về Cha để làm ví dụ, miếu vượng thì có thể là "sinh ly", lạc hãm thì có thể chuyển thành "tử biệt", hoặc có hai dòng Họ (vì cha mất, mẹ có chồng khác).

Do Thái Dương chủ về "quý", cho nên lúc Hóa Kị còn chủ về danh dự bị tổn hại. Theo quan điểm của cổ nhân, phụ nữ lấy "trinh liệt" làm danh dự, cho nên Thái Dương hóa Kị thường chủ về bị lừa dối về tình cảm, hoặc bị kẻ cường bạo cưỡng hiếp.

Thái Dương cũng đại biểu cho sức khỏe của bản thân, khi Hóa Kị thì sức khỏe không tốt, cần xem xét các tổ hợp tinh hệ mà định tính chất cụ thể.

Thái Dương hóa Kị ở bản cung là cung độ ít gặp tai nạn nhất, chỉ chủ về dễ bị người ta áp chế làm cho tâm tình không vui. Nam mệnh cần lưu ý đại hạn thứ hai, dễ mang lại họa hoạn nhỏ, về sức khỏe nên phòng bệnh tim mạch và bệnh về mắt.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tý là lạc hãm, hóa Kị có tính chất không tốt, nên giấu bớt tài năng, chọn sách lược thủ thành, hơi lộ sự sắc xảo lập tức bị trắc trở. Lúc chưa gặp thời cơ nên tự ngầm tu dưỡng (như tự bồi dưỡng trình độ để có cơ hội thăng chức, chuyển nghề). Về sức khỏe nên đề phòng bật tật ở mắt, đầu choáng mắt hoa, tuổi già đề phòng bệnh phủ tạng.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Sửu, khi gặp Thái Dương hóa Kị thì đời người lên xuống vô thường, tuổi trẻ ít có duyên với Cha, ít được thượng cấp quan tâm và đề bạt. Còn ngại có Đà La đồng độ, dễ biến thành tiêu cực, hoặc chần trừ lần nữa mà làm mất cơ hội. Nếu cung Phụ mẫu gặp Cát tinh, thì nên đề phòng vì đối với cha mẹ nuông chiều mà thành ỷ lại.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Dần, có Lộc tồn đồng cung, lúc Thái Dương hóa Kị chủ về đời người gặp nhiều điều tiếng thị phi, thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", cũng là Đạo "xu cát tị hung" vậy. Cuộc đời sau khi trải quan nhiều trắc trở mới ổn định, hơn nữa còn bị một trận tai nạn nghiêm trọng, và không có duyên với cha mẹ.

Tinh hệ "Thái Dương Thiên lương" ở cung Mão, có Kình dương đồng độ, lúc Thái Dương hóa Kị là "biến cảnh", chủ về tuổi trẻ phải trải qua gian nan trắc trở mới thành hữu dụng, nhưng vẫn không có duyên với cha mẹ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp "biến cảnh" lại có lợi về cạnh tranh, có thể thắng lợi vào lúc cuối.

Thái Dương hóa thành sao Kị ở cung Thìn, là rơi vào "Thiên la Địa võng", chủ về có khoảng ngăn cách giữa hai đời rất sau nặng, mà mệnh tạo còn phải tự lập không được Cha Mẹ che trở. Lúc trẻ còn gặp thêm Văn xương Văn Khúc hóa thành sao Kị ở lưu niên hay đại hạn, thường thường chủ về bỏ dở việc học hành.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tị, gặp Đà la, cũng chủ về dùng "lời nói để kiếm tiền".

Thái Dương hóa Kị ở cung Ngọ, bất lợi đối với Cha, phần nhiều là "sinh ly" hay "tử biệt", còn khó được cấp trên tin tưởng đề bạt. Ngoài ra còn chủ về nội tâm tróng rỗng, dễ đau khổ về tình cảm. Sự nghiệp lớn lao nhưng trống rỗng. Theo đạo "tìm cát tránh hung" là phải phát triển một cách thiết thực, không được khoa trương, nhất là lúc đến đại hạn hoặc lưu niên có Thái Dương song hóa Kị, thường dễ bị thất bại. Về sức khỏe thì nên đề phòng bệnh tật ở mắt, huyết áp cao, tắc nghẽn mạch máu (vascular thrombosis), trúng phong.

Tinh hệ "Thái dương Thái âm" đồng độ ở cung Mùi, có Kình dương Đà la giao hội, mà Thái âm lạc hãm còn Thái Dương thì lại hóa Kị, kết cấu này ít duyên phận với cha mẹ, gặp thêm Hỏa tinh Linh tinh thì dễ bị cha mẹ bỏ rơi. Nữ mệnh chủ về trưởng tử yểu mạng, hoặc sinh không đủ tháng, vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều. Thái Dương hóa Kị ở cung này, còn chủ về quan hệ giao tế phần nhiều không được như ý, cần phải tự tìm lối đi, không được sinh tâm lý ỷ lại.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở cung Thân, có Lộc tồn vây chiếu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về hôn nhân bất lợi, cũng bất lợi về đời sống tình cảm. Nữ mệnh càng dễ bị đàn ông gây phiền lụy, nên kết hôn với người ở nơi xa hay người ngoại quốc. Về phương diện sự nghiệp có oán trách rất lớn, cho dù theo những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền" cũng gặp nhiều thị phi rắc rối không thể tự giải quyết, mức độ ảnh mang tính cộng đồng xã hội.

Tinh hệ "Thái dương Thiên lương" ở cung Dậu, mà Thái Dương hóa Kị, chủ về rất chủ quan và thiếu nguyên tắc, tuy có Thiên Lương hóa giải, cũng dễ vì tính chủ quan mà gây nên rắc rối rất phiền phức. Theo đạo "tìm cát tránh hung" thì nên theo nghiên cứu học thuật đối với bộ môn ít được chú ý, hoặc những nghề mà ít người làm, thì có thể thuận lợi toại ý hơn.

Thái Dương hóa Kị ở cung Tuất là cung độ rất yếu, lúc còn nhỏ có thể "sinh ly" hay "tử biệt" với cha, đường đời nhiều gập gềnh, thường hay bất đắc trí. Về sức khỏe nên phòng bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh về mắt.

Thái Dương hóa Kị ở cung Hợi chủ về không có duyên với cha mẹ, trước 30 tuổi cuộc đời nhiều chìm nổi, sau 30 tuổi mới phát vượt lên, thường thường có thể tay trắng làm lên. Về sức khỏe dễ mắc bệnh ở mắt và ở khoang miệng. Nữ mệnh không nên lấy chồng trong giới kinh doanh làm ăn, nếu không chồng dễ thay đổi tình cảm.

32- Thái Âm - can ẤT hóa thành sao Kị

Thái Âm hóa Kị, ý nghĩa phổ biến nhất là bất lợi đối với người thân phái nữ, nhất là ở cung vị lạc hãm thì càng đúng.

Nói "bất lợi" ở đây, không nhất định là bệnh tật hay tử vong, có lúc chỉ biểu hiện là thiếu duyên phận với nhau, hai bên khó thông cảm cho nhau, hoặc vì hoàn cảnh khách quan mà hai bên ít có cơ hội gặp nhau. Cần phải xem xét kỹ các sao Sát - Hình - Kị hội hợp thực tế mà định.

Gặp Thái Âm hóa Kị, cũng biểu trưng cho tình huống rắc rối về tình cảm, thường chủ về trong lòng có ẩn tình khó sử. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, Văn xương, Văn khúc, thì đây là điềm tượng tình yêu không bình thường, nam mệnh phần nhiều chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái".

Thái Âm hóa Kị ở cung miếu vượng, thì ảnh hưởng đến tình hình lợi lộc, thường thường biểu hiện là trong đời người có một thời kỳ cảm thấy mình rất có tài mà không gặp thời. Nếu Thái âm hóa Kị ở cung lạc hãm, thì đây là điềm tượng không tốt; trái lại, sẽ ưa gặp Sát tinh "kích thích", chủ về có thể theo ngành công nghệ. Cổ nhân gọi là "thợ", nhưng ở thời hiện đại, cũng chủ về những ngành khoa học kỹ thuật.

Thái Âm hóa thành sao Kị ở cung Tý, đồng độ với Thiên Đồng. Đối với nữ mệnh thì rất ưa trang điểm, chải chuốt, làm đẹp, nhưng tính cách điệu nghệ thuật không cao, thường dễ bị người ta phê bình cách thức trang điểm của bản thân đương số.

Đối với nam mệnh thì có nội tài, dễ được người khác giới để mắt, nhưng lại thiếu duyên phận. Về hôn nhân, nam mệnh và nữ mệnh đều nên nhờ người giới thiệu, và nên kết hôn muộn, nếu không sẽ chủ về duyên phận không đủ.

Khi gặp hoặc Văn xương, hoặc Văn khúc, thì thường là văn sỹ nghèo nàn, thất chí, nhưng cũng có chút thanh danh.

Về sức khỏe phần nhiều chủ về bệnh ở mắt, như bệnh nốt ruồi bay, nếu có thêm các sao Sát Hình nặng, thì có thể bị mù.

Thái Âm hóa Kị ở cung Sửu, là Thái âm và Thái dương đồng cung. Vì Thái Âm hóa Kị nên gây lụy cho Thái Dương, khiến tăng thêm vất vả khổ lụy, và không có duyên với cha mẹ.

Cuộc đời và sự nghiệp có tính lưu động khá lớn, dễ thay đổi nghề, mà nghề thường thường cũng là loại "lao tâm tổn thần", cũng chủ về có lúc cuộc sống dễ chịu thì lại không có tinh thần làm việc, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp.

Thái Âm hóa Kị ở cung Dần, là "Thiên cơ Thái âm" đồng độ với Đà la, Thiên cơ đồng thời hóa Lộc. Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, thì tình hình tiền bạc trong tương lai khá nghiêm trọng. Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kị ở cung Mão, khá bất lợi về hôn nhân, tình hình dễ xuất hiện nhất là vợ chồng gặp nhau ít mà xa nhau nhiều, nhất là đối với nữ mệnh, nên kết hôn muộn. Nam mệnh thì phần nhiều sự nghiệp chìm nổi thất thường, chỉ thích hợp làm công hưởng lương, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, tự kinh doanh làm ăn sẽ dễ xảy ra trắc trở và thất bại.

Thái Âm rất ngại hóa Kị ở cung Thìn, hội Sát tinh, cần phải rời xa quê hương để phát triển, nếu ở bản địa sẽ gặp nhiều áp lực. Nếu có các sao Sát - Hình đồng độ, thì có lợi khi rời xa quê hương có thể làm những ngành nghê thủ công để mưu sinh, ở thời hiện đại có thể làm những nghề về khoa học kỹ thuật. Nam mệnh và nữ mệnh, hôn nhân đều bất lợi, nên kết hôn muộn.

Thái Âm hóa Kị ở cung Tị, cũng nên chủ động rời khỏi quê hương để phát triển. Cung Di là Thiên cơ hóa Lộc hội Thiên mã, là cách "Lộc Mã giao trì", nếu xuất ngoại ắt sẽ sáng sủa phát đạt.

Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, an Mệnh tại cung Tị này đều bất lợi đối với người thân phái nữ. Cho nên nam mệnh hôn nhân không tốt đẹp, thường thường phải tái hôn mới sống đến bạc đầu.

Tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" đồng độ ở cung Ngọ, mà Thái Âm hóa Kị, cần phải xem xét tình hình của tinh hệ hội hợp mà định. Nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, sẽ chủ về rời xa quê hương, hoặc chủ về "song trùng phụ mẫu".

Thái Âm hóa thành sao Kị ở bản cung, thường thường bị ảnh hưởng về sự nghiệp, chủ về có biên độ lên xuống thất thường rất lớn, vì vậy nên làm những công việc có tính thiết thực, cũng chủ về có khuynh hướng "đồng tính luyến ái" như Thái Âm hóa Kị ở cung Tý.

"Thái Âm đồng cung với Thái Dương" ở cung Mùi, mà Thái Âm hóa Kị, còn Thái dương cũng bắt đầu ngả về chiều, cho nên bất lợi đối với cha mẹ, bất lợi nhất là người thân phái nữ. Nếu Sát tinh quá nặng, cũng chủ về Mẹ sống cảnh góa bụa.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, thường thường đều có tính bên ngoài thì "cương" mà bên trong thì "nhu", cho nên phần nhiều đều gặp trắc trở về sự nghiệp và tình cảm (ngược lại: ngoại nhu nội cương?).

"Thái âm Thiên cơ" đồng độ ở cung Thân, mà Thái Âm hóa Kị, cũng có tình hình "cọp mà ăn thức ăn của mèo". Tham khảo thêm ở đoạn thuật "Thiên Cơ hóa Lộc".

Thái Âm hóa Kị ở cung Dậu, nữ mệnh rất bất lợi về tình cảm, thường chủ về làm "nhị phòng" hay "kế thất", nếu không khó có thể sống với nhau đến bạc đầu. Đối với nam mệnh chủ về lang bạt tha hương rồi mới tay trắng làm nên, nhưng vẫn chủ về "danh" lớn hơn "lợi", mức độ thu nhập tăng theo địa vị xã hội, và không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Dễ được phái nữ yêu thích, nên cũng gặp nhiều rắc rối khó xử về tình cảm, do vậy lãng phí rất nhiều thời gian của đời người.

Thái Âm hóa Kị ở cung Tuất, không có ảnh hưởng xấu, Thái Dương ở Thìn đối cung là ánh sáng đang hiển lộ, Thái Âm đối nhau ở xa xa, là cách ưu mỹ. Nên Thái Âm hóa Kị chỉ chủ về thiếu phúc ấm của cha mẹ, nhưng lại biểu trưng cho "tay trắng làm nên".

Thái Âm rất ưa hóa Kị ở cung Hợi, là "biến cảnh". Thái Âm lúc này tỏa sáng, khi Hóa Kị chỉ chủ về đời người phải trải qua một giai đoạn đau khổ, nhờ vào đó mà thành tựu được sự nghiệp.

Nhưng "tam phương tứ chính" có các sao hội hợp phần nhiều có tính "lưu động", cho nên bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về dễ gặp rắc rối khó xử về tình cảm, thường vì có khuynh hướng yêu đương lãng mạn (nên gia đình khó tránh khỏi sứt mẻ hay đổ vỡ).

33- Liêm Trinh - can Bính hóa thành sao Kị

Trong Đẩu Số, Liêm Trinh hóa thành sao Kị là sao có sức ảnh hưởng khá lớn, tính chất khi hóa Kị cũng khá phức tạp.

Liêm Trinh hóa Kị, chủ về biểu trưng cho tình cảm trắc trở, bao gồm tình cảm đối với lục thân và tình cảm nam nữ. Hơn nữa, nói "trắc trở" là do Liêm Trinh khi hóa Kị thường có tính chất ảnh hưởng lâu dài và không gì hóa giải được.

Đồng thời, Liêm Trinh hóa Kị còn biểu trưng cho tâm trạng "đau buồn", nếu gặp các sao "khoa văn" thì đây là nỗi đau buồn có tính văn hóa tư tưởng, thường diễn hóa ở mức độ thâm sâu. Nhưng lúc có Sát tinh cùng bay đến, thì trở thành là không đắc ý về tư tưởng nhân sinh.

Do tính chất diễn hóa đã thuật ở trên, nên Liêm trinh hóa Kị còn là điềm tượng bị lừa dối, đặc biệt là khi bị "lục thân lừa dối", cho nên nói Liêm Trinh hóa Kị biểu trưng cho tình cảm trắc trở. Trong đó tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" đối nhau với Phá quân ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị thì chủ về tình cảm trắc trở càng lớn. Lúc gặp thêm các sao Sát - Hình tụ tập, có thể có khuynh hướng tự sát.

Mở rộng tính chất về tình cảm trắc trở, lại thường bị "làm ơn mắc oán", hoặc do bản thân không tự lượng sức mình khiến cho lòng tự tôn bị tổn thương.

Một tính chất quan trong khác của Liêm Trinh hóa Kị là: bệnh tật có liên quan đến máu, còn chủ về vì tai nạn bất ngờ hay do phẫu thuật mà gây ra chảy máu. Ở nữ mệnh là biểu trưng vào lúc mang thai hoặc vào lúc sinh con. Ở cung Tật Ách thì biểu trưng cho bệnh về máu hoặc bệnh về tính dục.

"Liêm trinh Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị, đồng độ với Kình dương, hoặc hội với Kình Dương Đà la, đối cung là Phá Quân, tam phương tương hội với "Tử vi Thiên phủ" và Vũ khúc độc tọa.

Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người ta kiềm chế, tuyệt đối không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có Hỏa tinh đồng độ, chủ về tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên hợp tác với người khác.

Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái là, không những có thể kiếm tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành, không thể quá gấp cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá tính "tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì tính "tự ái" không đúng lúc đúng chỗ, mà biến thành "hợp lực" đạp đổ kết quả thành tựu đã đạt được.

"Liêm trinh Thất sát" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam phương hội hợp với "Tử vi Tham lang" và "Vũ khúc Phá quân".

Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở cung Mùi không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn, đời người khá thuận lợi toại ý.

Cũng do Liêm Trinh hóa Kị, nên "Liêm trinh Thất sát" ở hai cung độ này không thích hợp theo võ nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc. Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời người gặp nhiều gian khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.

Tinh hệ này cũng chủ về tính "giao du thù tạc", thường chịu lãng phí tiêu tiền và lãng phí thời gian về phương diện này, nhưng sự lãng phí này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều tốn tiền chỉ do ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là đặc điểm của tinh hệ này.

Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình dương hoặc Đà la, tứ chính là Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp là "Vũ khúc Thiên phủ" và "Tử vi Thiên tướng".

Do Liêm Trinh hóa Kị, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách "Hùng tú Kiền nguyên".

Tinh hệ của bản cung có sắc thái "ưu uất", nhưng trưng diện khá sa hoa, thường ứng xử vui vẻ lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người phối ngẫu oán trách.

Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản thân mệnh tạo, trong cuộc đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có duyên là đặc điểm của tinh hệ này.

"Liêm trinh Phá quân" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Tử vi Thất sát" và "Vũ khúc Tham lang".

Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng hơn ở cung Dậu. Cho nên đạo "tìm cát tránh hung" là phải xem xét Lưu niên để tiến thoái hợp thời cơ.

"Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề phòng sự cố giao thông, cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng xảy ra bất trắc. Xem xét các sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.

Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có một thời kỳ tiền bạc qua tay rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh.

"Liêm trinh Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Đà La đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội với Tử vi độc tọa và "Vũ khúc Thiên tướng".

Liêm Trinh hóa Kị ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa Kị trong "Thiên là Địa võng" sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn giữ được sự cởi mở, tốt nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.

Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.

Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau, nên phần nhiều có ngoại tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.

"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội "Tử vi Phá quân" và "Vũ khúc Thất sát".

Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao "văn" nhuyễn hóa trở thành có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm, mệnh tạo thường lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.

Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài chính một cách hiệu quả, do đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái rồi ra bằng tay phải.

Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc thái bôn ba phiêu bạt nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời người quá nhiều sương gió, không ổn định.

34- Cự Môn - can Đinh hóa thành sao Kị

Cự Môn không ưa hóa thành sao Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi". Sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất này, khiến cho một đời người thêm nhiều rắc rối trắc trở.

Cự Môn sau khi Hóa Kị, cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra rắc rối phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự Môn hóa Kị tại Mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê có hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiêu sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không như lý tưởng hằng mong ước. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự toàn mỹ, vì vậy sinh ra sự thất vọng bất mãn. Hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển, thì mệnh tạo thường trong tình cảnh rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà la đồng độ, khuynh hướng này càng bộc lộ rõ hơn.

Cự Môn hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên Cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, tam phương tương hội với Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền.

Cự Môn hóa Kị trong tinh hệ này, có một đặc điểm là thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực "kích phát". Sự cố trắc trở đang trong quá trình phát triển thì bỗng nhiên ngưng lại, nhưng mỗi lần gặp trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục được hoàn thiện và hoàn mỹ hơn. "Thấy hung nhưng thực ra là cát" là một đặc điểm của tinh hệ này.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài, hoặc lúc tình cảm trở thành sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly.

Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại thành sức mạnh "kích phát".

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Cự môn hóa Kị thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Quyền. tham khảo ở đoạn thuật "Thiên đồng hóa Quyền".

"Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, tam phương mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" trong đó một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền.

Tinh hệ này thành cách "Tứ Hóa hội hợp", nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, cho nên không thích hợp với nữ mệnh đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh đều chủ về thiếu duyên với Cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp.

Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với những nghề "dùng lời nói để kiếm tiền", như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ có "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự Môn hóa Kị ắt Thiên cơ hóa Khoa. tham khảo ở mục "Thiên cơ hóa Khoa".

Cự Môn độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Tuất ắt sẽ gặp Lộc tồn), Thiên Đồng của đối cung hóa Quyền, tam phương tương hội với Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa.

Cự Môn hóa Kị ở "Thiên la Địa võng" lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy hung mà thực ra là cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, rắc rối, thị phi, nhưng kết cục lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh khỏi phải trải qua gian khổ, tâm tư nhiều lo nghĩ.

Nếu gặp thêm Hỏa tinh, Linh tinh, hoặc Địa không Địa Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo lại ưa giải quyết khó khăn giúp cho người khác, nên sự nghiệp tuy ổn định có chiều hướng tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh.

Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương tương hội với Thiên Đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ độc tọa hóa Khoa.

Thông thường tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, khi Cự môn hóa Kị ở cung Hợi càng nhẹ hơn. Nhưng tình trạng điều tiếng thị phi, sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng.

Nam mệnh ắt lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt lấy được chồng có sự nghiệp tốt. Bàng nhân thiên hạ nhìn bề ngoài đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng bên trong họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người đều ngạc nhiên.

35- Thiên Cơ - can Mậu hóa thành sao Kị

Thiên Cơ vốn có tính linh động, sau khi hóa Kị sức linh động giảm bớt, chủ về gặp chướng ngại, hoặc vì một số nhân tố khách quan và chủ quan, dẫn đến mất cơ hội tốt.

Thiên Cơ có tính chất kế hoạch, sau khi Hóa Kị sẽ biến thành kế hoạch sai lầm.

Thiên Cơ vốn có tính chất suy nghĩ, sau khi Hóa Kị thì biến thành lo toan nghĩ ngợi, thậm chí thành ra lo lắng. Vì vậy lúc Thiên Cơ hóa Kị ở cung Tật Ách, có đặc trưng mất ngủ, suy nhược thần kinh, "Can vị bất hòa", "Tâm Thận bất giao", tình hình nghiêm trọng là "trúng phong".

Lúc Thiên Cơ hóa Kị có Sát tinh đồng độ, đặc biệt dễ mắc bệnh mang tính thần kinh, như co dật thần kinh mặt, kinh phong,.v.v...

Đối với nữ mệnh, Thiên Cơ hóa Kị phần nhiều chủ về vì tâm trạng xung động nhất thời mà xa chân lỡ bước.

Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho sự cố bị người ta phỉ báng, nói xấu, bêu rếu, hai bên công kích lẫn nhau, cạnh tranh không lành mạnh, nếu mệnh tạo "hao thần tổn khí" quyết đối phó, thì càng khiến sóng gió dễ nổi lên, tốt nhất nên "dĩ bất biến ứng vạn biến" thì tự nhiên sóng yên biển lặng.

Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý thì bị Kình dương Đà la chiếu xạ, ở cung Ngọ thì đồng độ với Kình dương), tứ chính đối cung là Cự Môn độc tọa, tam phương tương hội với "Thiên đồng Thiên lương" và Thái Âm độc tọa hóa Quyền.

Tổ hợp tinh hệ của hai cung này, chủ về cách suy nghĩ của mệnh tạo khó giải quyết vấn đề, một sự cố đơn giản có thể biến thành cục diện phức tạp, vì vậy mà kế hoạch sai lầm. Do tính chất này, còn có thể mở rộng thành tình trạng "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", hoặc làm việc không có phương pháp, thiếu mạch lạc, lớp lang.

Thương thường, khi Thiên Cơ hóa Kị còn biểu trưng cho là "kinh sợ", hoặc bị uy hiếp, trong thương trường thì đột nhiên bị cạnh tranh không lành mạnh, trong chính giới thì hai bên công kích lẫn nhau.

Lúc có các sao Sát - Hình cùng chiếu, chủ về điềm tượng di chứng của bệnh tật, như bán thân bất toại, tứ chi tổn thương tàn tật. Ở cung Ngọ nặng hơn ở cung Tý.

Thiên Cơ độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu thì gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với Thiên Đồng đọc tọa và Cự Môn độc tọa.

Do đối nhau với Thiên Lương, nên tinh hệ này chủ về tình trạng gặp rắc rối, phiền phức, tuy nhiên cuối cùng cũng hóa giải được, nhưng phải hao tổn tinh thần rất nhiều.

Liên quan đến sự cố phiền phức đột nhiên xuất hiện, thường thường có liên quan đến việc vạch kế hoạch sai lầm, vì vậy nội tâm càng nhiều lo lắng.

Tinh hệ này còn chủ về những rắc rối khó xử trong tình cảm và hôn nhân. Nam mệnh thì người phối ngẫu ưa lộ sự sắc sảo, nữ mệnh thì dễ bất hòa với chồng.

"Thiên cơ Thái âm" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Thiên cơ hóa Kị thì Thái âm hóa Quyền. Tham khảo ở đoạn thuật "Thái âm hóa Quyền".

"Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu sẽ gặp Lộc tồn), tam phương hội hợp với Thiên Đồng độc tọa, và mượn "Thái dương Thái âm" để nhập cung, trong đó Thái Âm hóa Quyền còn Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ vốn đã có tính chất "phá phách", khi Thiên Cơ hóa Kị sẽ làm mạnh thêm tính chất "phá phách" này. Do đó chủ về không theo đuổi một ngành nghề nào chuyên nhất, đứng núi này trông núi nọ, mệnh tạo thường cảm thấy mình có tài mà không gặp thời.

Tinh hệ này còn chủ về trong quan hệ giao tế, thường hay "nói năng lỡ lời", mà thường thường bị thất thố vào những lúc quan trọng.

Do "Thiên cơ Cự môn" đồng cung, cho nên thích hợp làm công việc có tính chất "nhờ miệng lưỡi để kiếm tiền".

"Thiên cơ Thiên lương" đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên Cơ hóa Kị đồng độ với Đà la, hoặc bị Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Thái âm" mà Thái Âm hóa Quyền, và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Do có Thái Âm và Thái Dương hóa thành sao Cát hội chiếu, các Sao hội hợp lại không phải là "vô lực" (Cơ Lương ở cung Thìn thì càng tốt), cho nên tinh hệ này chủ về Thiên Lương phải hao tổn sức lực để hóa giải những gì Thiên Cơ hóa Kị gây ra. Biểu trưng cụ thể là có sắc thái "rời xa người thân", "lưu lạc", "tính hiếu động trôi nổi", "do dự không quyết đoán", "xử sự sai lầm gây nên sóng gió trắc trở",.v.v...

Tinh hệ Cơ Lương vốn có năng lực "dự cảm", nhưng sau khi Thiên Cơ hóa Kị, sẽ rất dễ vì quá "dự cảm" mà biến thành quá lo lắng, dẫn đến quyết đoán sai lầm, nhất là ở cung Tuất thì càng đúng.

Thiên Cơ độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thái Âm hóa Quyền, tam phương hội hợp với "Thiên đồng Cự môn", và mượn "Thái dương Thiên lương" nhập cung mà Thái Dương hóa Khoa.

Tinh hệ này thường chủ về "cơ quan dùng lầm", bao gồm sự nghiệp và tình cảm. Cho nên hễ tâm bình thường mà xử sự, thì không xảy ra sóng gió, trắc trở. Nếu tâm không bình thường, thì sẽ nổi sóng gió ngoài dự liệu của mọi người.

Thiên Cơ độc tọa ở cung Hợi còn chủ về hư danh, về tình cảm rất dễ bị quấy nhiễu gây khó khăn.

Ngoài ra tinh hệ này còn chủ về dễ bị uy hiếp, và bị áp lực vô hình. Nếu Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ với Thiên Cơ hóa Kị, thì nên đề phòng lúc vãn niên sẽ bị "trúng phong".

36- Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.

37- Thiên Đồng - can Canh hóa Kị

Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là "tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.

Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.

Thiên Đồng còn là sao "tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về "tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho "Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo đuổi "lý tưởng" rất lao khổ. Nếu có các sao Sát - Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.

Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng "suy nhược thần kinh", cũng tức là nói "âm hư", "khí hư" mà cổ nhân đã nói.

"Thiên đồng Thái âm" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Thiên lương", và mượn "Thái dương Cự môn" để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.

"Thiên đồng Thái âm" ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng "suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.

Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.

Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và "Thái dương Thiên lương" mà Thái Dương hóa Lộc.

Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến "điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị "trúng phong", thậm chí có thể "bán thân bất toại".

Do có tinh hệ "Thái dương Thiên lương" hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.

"Thiên đồng Thiên lương" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.

Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.

Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng "suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.

Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc "đố kị", "điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố tránh "điều tiếng thị phi" mà ra, đúng với câu nói "càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và "Thái âm Thiên cơ".

Hai cung Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách "phản bối", có thể không thành cách "phản bối" nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.

Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị "vô tình cắm liễu, liễu xanh um".

Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.

Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với "Thiên cơ Cự môn", và mượn "Thái dương Thái âm" nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Kình dương hoặc Đà la.

Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng "tâm trạng không ổn định".

Nhưng có lúc "tâm trạng không ổn định" này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.

38- Văn Xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư,.v.v... đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kị, cần phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.

39- Vũ Khúc - can Nhâm hóa Kị

Vũ khúc là sao "tiền tài", lúc hóa thành sao Kị sẽ biểu trưng cho tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người khác mà phải ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà phải mở rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không dự toán được, khiến tiền bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa Kị.

Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo dài, hoặc tiến hành một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến tình hình chi tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham Lang, chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.

Vũ Khúc chủ về "quyết đoán", sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành "quyết liệt", có nghĩa là khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì thường quá cứng rắn, nên dễ bị trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân cho rằng đây là tinh hệ "không có lạc thú phòng the", ở thời hiện đại đây là điềm tượng hôn nhân đổ vỡ.

Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về phẫu thuật. Lúc hội hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội hợp với Tạp diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát - Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.

Do Vũ Khúc hóa Kị có đặc tính "quyết đoán", do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau răng.

Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị không cát tường.

"Vũ khúc Thiên phủ" đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa Kị thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ - can Nhâm hóa Khoa.

"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc hóa Kị, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Phá quân" và "Tử vi Thất sát" mà Tử vi hóa Quyền.

Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà "lực bất tòng tâm" (bao gồm cả năng lực tài chính), vì vậy xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại hỏng.

Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, v.v... thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kị, nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.

Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách "xu cát tị hung".

"Vũ khúc Thiên tướng" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kị, đối cung là Phá Quân, tam phương là "Liêm trinh Thiên phủ" mà Thiên phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa Quyền.

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều hội Sát tinh.

Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất bại.

Đạo "xu cát tị hung" là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến hành.

Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.

"Vũ khúc Thất sát" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc tồn), đối nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với "Liêm trinh Tham lang" và "Tử vi Phá quân" mà Tử vi hóa Quyền.

Tính chất cơ bản của tinh hệ này là "cô độc và hình khắc", cho nên không thích hợp với nữ mệnh, chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ về không có hôn lễ chính thức.

Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đặc điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.

Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.

Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham Lang, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thiên tướng", và "Tử vi Thiên phủ" mà Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình dương Đà la hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.

Thìn và Tuất là "Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền thức.

Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.

Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo đáp.

Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.

"Vũ khúc Phá quân" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với "Liêm trinh Thất sát" và "Tử vi Tham lang" mà Tử vi hóa Quyền.

Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có kết cục xấu.

Vũ Khúc hóa Kị ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung, thành cách "Kình Đà giáp Kị", tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh hoạn.

Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng "lực bất tòng tâm" và khuynh hướng lãng phí.

Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.

40- Tham Lang - can Quý hóa Kị

Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa thành sao Kị là "đoạt tình". Vì vậy, nhẹ thì không như lý tưởng, nặng thì cảm thấy trắc trở về tâm lý. Nhưng thông thường không bị tổn thất về vật chất.

Tham Lang hóa Kị mang lại bất lợi có tính chất khá ôn hòa, thường chỉ là tranh cãi ồn ào, hoặc tâm trạng không yên, tâm trạng không yên có lúc kéo dài, vì vậy mệnh tạo dễ đi tìm kiếm sự kích thích.

Tham Lang vốn đã có ý vị trang sức, trang hoàng, làm dáng, khi Tham Lang hóa Kị sẽ làm mất đi phép lịch sự, hoặc có phần "đức" không tốt. Có lúc, cũng là trang sức, trang hoàng, làm dáng không được như lý tưởng, không tìm ra được cách sửa sang cho hợp sở ý, ví dụ như thích sửa sang cho đẹp chỗ ở nhưng khi trang trí, trang hoàng bố cục nội thất, thì việc lại rối tung rất khó thỏa mãn theo ý tưởng của chính mình.

Lúc "giao tế thù tạc", ảnh hưởng của Tham Lang hóa Kị mang lại sẽ là tốn tiền một cách vô ích, dùng tiền chi phối "quan hệ thù tạc" mà không được ai để mắt đến, không được bạn bè chú ý, cũng không được người ta gọi là hào sảng.

Lúc có các sao đào hoa, hoặc các sao "khoa văn" đồng độ, Tham Lang hóa Kị là biểu trưng cho biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thường biểu hiện bản thân trong giao tế, nhưng không xảy ra sự cố có tính chất đào hoa.

Tham Lang hóa Kị cũng chủ về vất vả, có đặc tính "không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", lòng ham muốn tạo dựng sự nghiệp cực nặng, thường không lo nghĩ quan tâm đến gia đình, còn ưa mở rộng kinh doanh nhiều phương diện, khiến càng vất vả khổ lụy, lúc thu hoạch kết quả thì lo lắng đến kết quả không được như ý tưởng ban đầu.

Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Tử vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kị ở hai cung này lại chủ về "tài nghệ", nhưng bất lợi về tình cảm. Nhất là nữ mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh hướng "ngó đứt mà lòng còn tơ vương", không thể dứt khoát được.

Trong 12 cung Tham Lang hóa Kị ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế đó, sự nghiệp và tiền bạc đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không được như lý tưởng mà thôi.

"Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kị ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương tương hội với "Liêm trinh Phá quân" mà Phá quân hóa Lộc, và "Tử vi Thất sát".

Tham Lang hóa Kị ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì đáng ngại, chỉ chủ về đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy trong nghề nghiệp. Tuy vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.

Tham Lang hóa Kị độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp Lộc tồn), đối cung là Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tham Lang hóa Kị ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cũng chủ về có tiền của bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình dương và Đà la, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng "bị lưu đầy", thời cổ đại khi "bị lưu đầy" còn bị săm đóng "dấu chữ" lên mặt, do đó ý vị mở rộng là "phá tướng" hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp tinh hệ này chủ về bị người có gia đình theo đuổi.

"Tử vi Tham lang" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Vũ khúc Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Liêm trinh Thất sát".

Tinh hệ này "tam phương tứ chính" đều gặp Sát tinh.

Tham Lang hóa Kị sẽ giảm bớt ý vị "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm tăng năng lực phát triển sự nghiệp. Khi gặp hóa Kị chỉ là không được như ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát triển chậm.

Tinh hệ này còn có sắc thái "tham việc" do đó thường kiêm nhiều nghề, hoặc có ý thích cùng một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng gian khổ trong đời người.

Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.

Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), đối cung là Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.

Tinh hệ này ở cung Thìn thì "Lộc trùng điệp" có thể thành Cách. Ngoại trừ cách "Hỏa Tham" và "Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ năng của bản thân để tạo dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có "Lộc trùng điệp", nhưng cũng có thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả. Về phương diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường không lãng phí thời gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho sự nghiệp mà thường làm lỡ mất lương duyên.

"Liêm trinh Tham lang" đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi (ở cung Hợi có Đà la đồng độ, ở cung Tị có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với "Tử vi Phá quân" mà Phá Quân hóa Lộc, và "Vũ khúc Thất sát".

Tham Lang hóa Kị ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường biểu trưng cho đau khổ về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành nỗi thống khổ trong nghệ thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.

Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều có tính xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có khuynh hướng mạo hiểm, dễ thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép "xu cát tị hung".

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của bốn mươi hóa diệu

Nhà ở gần chùa, đền… hoặc nghĩa địa có tốt hay không? –

Rất nhiều người cho rằng, ở gần các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ... sẽ được thần linh che chở. Song, theo phong thủy, thì đó là việc tối kỵ bởi: những nơi này thường có âm khí nặng nề nhất do phần lớn các đấng thầ
Nhà ở gần chùa, đền… hoặc nghĩa địa có tốt hay không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều người cho rằng, ở gần các công trình tôn giáo tín ngưỡng như đình, đền, chùa, miếu, nhà thờ… sẽ được thần linh che chở. Song, theo phong thủy, thì đó là việc tối kỵ bởi: những nơi này thường có âm khí nặng nề nhất do phần lớn các đấng thần linh tối cao, âm linh, ma quỷ đều tập trung nương náu và các vùng đất có công trình tôn giáo tín ngưỡng đều thuộc đất âm sát.

mo1

Mặt khác, các công trình tôn giáo tín ngưỡng đều thuộc những nơi công cộng, thường tập trung đông đúc con nhang đệ tử và tín đồ, ngày ngày nghi ngút khói hương, vang vọng tiếng mõ, chuông, xen kẽ là những lời cầu nguyện… môi trường nơi đây bề ngoài có vẻ thanh tịnh nhưng thực chất thiếu sự yên tĩnh, tạo nên khung cảnh âm u, bởi vậy đó không phải là nơi cư trú lý tưởng.

Với lòng mong muôn được tổ tiên phù hộ độ trì, nhiều người đã xây nhà ngay gần nghĩa địa. Điều này về mặt tâm linh có thể đúng, song theo phong thuỷ thì không nên bởi cạnh mộ phần, nghĩa địa, âm khí thường rất nặng nề, khiến dương khí của người sông ngày một hao tổn và rất dễ ốm đau. Đặc biệt, khi đau Ốm, nhìn thấy mộ phần của tổ tiên, con người rất dễ nghĩ quẩn khiến bệnh không những không thuyên giảm mà ngày càng xấu đi.

Vì vậy, dù phải từ bỏ một ngôi nhà cao tầng với đầy đủ tiện nghi nhưng ở gần các công trình tôn giáo tín ngưỡng hoặc nghĩa địa để sông trong một ngôi nhà nhỏ cách xa những nơi đó cũng là việc nên làm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà ở gần chùa, đền… hoặc nghĩa địa có tốt hay không? –

Công trình kiến trúc sinh thái học có quan hệ như thế nào với phong thủy? –

Kiến trúc sinh thái học là nghiên cứu môi trường kiến trúc nhân loại với sinh thái học quan hệ cộng sinh của sinh vật trong giới tự nhiên, là tìm hiểu hoạt động sinh mệnh trên địa cầu có thể cân bằng duy trì tiếp tục sinh thái học phát triển kéo dài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đến các chi nhánh của lĩnh vực kiến trúc học.

Kiến trúc sinh thái học một mặt coi nơi quy tụ của nhân loại là chính thế quy luật cộng sinh còn bằng thuộc hệ thống sinh thái tự nhiên: một mặt coi sinh thái tự nhiên là kiến trúc kết cấu cụ thể và hệ thống hữu cơ sản sinh sức ảnh hưởng đối với nhân loại. Do đó, yêu cầu của con người trong khi quy hoạch xây dựng, nên tham khảo kết cấu công năng của môi trường sinh thái tự nhiên và các ảnh hưởng đối với con người, từ đó lợi dụng hợp lý để cải tạo, điều chỉnh và thuận ứng với môi trường sinh thái kiến trúc đó.

1-9b6fe

Chính vì thế mà một học giả phương Tây nghiên cứu kiến trúc sinh thái học rất ngạc nhiên khi nghiên cứu về văn hóa phương Đông. Lý luận phong thủy học truyền thống của Trung Quốc kéo dài phát triển mấy nghìn năm, quan điểm môi trường, tự nhiên, kiến trúc này lại cùng với trào lưu tư tưởng mới của kiến trúc sinh thái học đương đại sản sinh cộng hưởng với lịch sử.

Khi con người xuất hiện đã sản sinh ra kiến trúc học. Con người có bản năng sinh tồn, cần thiết tìm đến một loại để tránh gió tránh mưa, phòng chống lại những điều có hại, nếu chỉ dựa vào hang động tự nhiên thì không thể đáp ứng được nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người. Thế là xuất hiện sơ sài những căn nhà do con người xây dựng nên. Đó là những hình thái nguyên sơ của kiến trúc do con người tạo nên nhằm chống lại các thiên tai và các tác hại của môi trường tự nhiên.

Cùng với sự phát triển văn minh của nhân loại, con người dần dần nâng cao yêu cầu đối với xây dựng kiến trúc nhà ở, ngoài việc yêu cầu kiến trúc nhà có tính thực dụng, tính an toàn ra, còn tăng thêm yêu cẩu về tính mỹ quan, tính kín đáo… và còn hy vọng rằng nhà ở hài hòa với môi trường xung quanh, có ích cho sức khỏe của con người sống trong căn nhà đó. Năm đầu của Tây Chu, Chu Vũ Vương muốn xây dựng kinh đô ở Lạc Ấp bèn mời Chu Công xem hình thế phong thủy (tức điều tra cơ bản về kiến trúc phong thủy) càng cho thấy rằng: nhu cầu kiến trúc, môi trường đã thể hiện rõ nhu cầu đối với bộ môn Phong thủy.

Cùng với sự phát triển tính da dạng của kiến trúc nhân loại, kiến trúc nhà dân và kiến trúc cung đình, kiến trúc miếu mạo và kiến trúc cung thiên, quan hệ về yêu cầu đối với môi trường sinh thái là không giống nhau. Các kiến trúc này có vị trí địa lý không giống nhau, chất liệu kiến trúc không giống nhau, nhân tố hình thái kiến tạo, quy mô, phong cách, phương vị và màu sắc… sẽ ảnh hưởng và có tác dụng không giống nhau đối với thân phận nghề nghiệp khác nhau, tin tức sinh mệnh khác nhau của con người, đồng thời cùng sản sinh những hiệu ứng tốt xấu không giống nhau.

Nội hàm của phong thủy học và một trong các sứ mệnh chính là: Phải dung hoà giữa nội hàm hợp lý của phong thủy học truyền thống với kiến trúc sinh thái học đương đại, tức là nghiên cứu phương vị, hình thái, tư liệu, màu sắc… của kiến trúc có hiệu ứng chính phụ đối với sức khỏe thân thể và sự nghiệp phát triển không giống nhau của con người, cùng nghiên cứu cục diện tổ hợp các yếu tố của kiến trúc có ảnh hưởng tốt xấu đối với hệ sinh thái tự nhiên; nắm bắt điều chỉnh, ưu hoá yếu tố kiến trúc và kết cấu cách thức đó, khiến cho tin tức sinh mệnh cơ thể con người và chính thể sinh thái tự nhiên ngày càng hài hoà, đồng bộ, càng có lợi cho phương pháp khoa học. Người tìm kiếm công trình kiến trúc, sinh thái tự nhiên là tam vị nhất thể của quy luật khách quan cộng sinh hài hoà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công trình kiến trúc sinh thái học có quan hệ như thế nào với phong thủy? –

Một số điểm cần lưu ý khi xem hạn năm

Những ai tự biết mình thiếu nhiều sự hỗ trợ thì cho dù gặp năm chỉ có những tiêu chí xung xấu nhẹ cũng không nên chủ quan coi thường vì rất có thể gặp sự cố xung xấu bất ngờ.
Một số điểm cần lưu ý khi xem hạn năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1- Khi coi hạn năm, người dự đoán trước tiên là căn cứ vào Đại vận đang hành của đương số (kể cả theo phương pháp Tử Bình hoặc Tử Vi). Nếu Đại vận đang hành tốt đẹp mà gặp được Tiểu hạn (năm coi hạn) cùng tốt đẹp thì năm đó nhiều tốt đẹp thuận lợi may mắn. Nếu Đại vận mờ ám xấu xa thì cho dù cung Tiểu hạn có tốt đẹp cũng bị triết giảm nhiều may mắn thuận lợi. Trường hợp cả Đại-Tiểu vận đều mờ ám xấu xa thì năm đó rất dễ phát sinh nhiều sự cố xấu. Cũng phải kết hợp Sao lưu động chiếu của năm Tiểu hạn để biết mức độ ảnh hưởng tốt-xấu của năm coi hạn.

2- Căn cứ vào đặc tính Ngũ Hành của các Sao tọa thủ, để biết nó ảnh hưởng mạnh trong mùa nào, ví dụ tháng 1-2 thuộc Hành MỘC, vậy xem có những Sao nào thuộc Hành MỘC (tọa thủ trong cung Tiểu hạn, cung xung chiếu và 2 cung trong Tam hợp với cung Tiểu hạn), đương nhiên là nếu những Sao thuộc Hành MỘC này sáng sủa thì sẽ có nhiều sự phù trợ tốt theo đặc tính của nó, và nếu nó bị mờ ám thì cũng tác họa mạnh theo đặc tính của nó chủ yếu là vào mùa Xuân (các tháng 3-6-9-12 thuộc Hành Thổ).

3- Sách có cấu “Nhất mộ, nhì phòng, tam Tứ trụ” có nghĩa là Đại-Tiểu hạn do Tứ trụ mà có, (nếu coi theo phương pháp Tử Bình) hoặc cung nhập Đại hạn-tiểu hạn theo Tử Vi (lá số) chỉ đứng hàng thứ 3 (thứ yếu). Nhất mộ là căn cứ theo cung Phúc Đức, nếu sáng đẹp là mồ mả Tổ Tiên tốt đẹp, đương số được hưởng Phúc, mọi hung họa chỉ thoáng qua vì cung Phúc sáng có uy lực hóa giải hung họa rất mạnh, cho dù rơi vào Đại-Tiểu vận xấu cũng không đáng ngại. Nhì phòng có nghĩa là Phong Thủy nhà ở nếu được tốt đẹp thì cũng có sự hỗ trợ tốt đẹp tương tự như cung Phúc sáng đẹp. Nếu Phong Thủy nhà ở bị phạm nhiều sát kỵ thì khi rơi vào Đại-tiểu vận xấu thì “dậu đổ bìm leo” khó tránh khỏi tai họa.

4- Ảnh hưởng nhân-quả của “Hậu Thiên” tức là những tiêu chí tàng chứa trong Tứ trụ hoặc lá số là những tiêu chí thuộc “Tiên Thiên” do Trời định, nhưng qua thời gian hành vận đương số đã làm nhiều việc có sự ảnh hưởng căn bản đến các tiêu chí Tiên Thiên. Nếu làm nhiều điều thiện thì các tiêu chí xung xấu được giảm đi nhiều, tất nhiên là nếu làm nhiều điều xấu thì những tiêu chí hung họa cũng tăng theo tỉ lệ thuận. Cho nên khi coi hạn năm cho những người càng lớn tuổi thì các tiêu chí thông tin ở các cung Tiểu hạn không có độ chuẩn xác cao so với thực tế vì đã có sự can thiệp của Hậu Thiên tác động làm cho các tiêu chí Tiên Thiên sai lệch đi, ví dụ như thấy 2 cung Đại-Tiểu hạn rất mờ ám, đáng lẽ là năm đó sẽ phải xảy ra bệnh tật-hoặc tai nạn nặng nhưng vì người đó suốt trong cuộc đời đã làm thiện tích đức nhiều nên đã hóa giải được xung xấu này nên năm đó bình an vô sự.

Sở dĩ chúng tôi cần phân tích những yếu tố trên để những ai chẳng may gặp Đại-Tiểu hạn thấy có nhiều xung xấu thì cũng không nên quá lo lắng nếu như tin chắc rằng mình có nhiều yếu tố đẹp hỗ trợ. Những ai tự biết mình thiếu nhiều sự hỗ trợ thì cho dù gặp năm chỉ có những tiêu chí xung xấu nhẹ cũng không nên chủ quan coi thường vì rất có thể gặp sự cố xung xấu bất ngờ.

Vui lòng nhấn vào đây để order Xem hạn năm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một số điểm cần lưu ý khi xem hạn năm

Tiết Lập Hạ là gì

Tiết Lập Hạ là một trong 24 tiết khí, là thời điểm đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ. Theo tín ngưỡng dân gian, rất nhiều các vấn đề liên quan đến
Tiết Lập Hạ là gì

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lập Hạ là một trong 24 tiết khí, là thời điểm đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ. Theo tín ngưỡng dân gian, rất nhiều các vấn đề liên quan đến tiết Lập Hạ đáng được lưu tâm.


Tiet Lap Ha la gi hinh anh
 
Lập Hạ thuộc 24 tiết khí, đó chính là thời điểm Mặt trời tạo với Xích đạo góc 450, cũng chính là những giây phút đầu tiên khi mùa hè đến. Theo dân gian, tiết Lập Hạ bắt đầu khoảng mùng 5 hoặc 6 tháng 5 dương lịch và kết thúc vào khoảng 21 (hoặc 22) tháng 5, vào lúc này nhiệt độ bắt đầu tăng cao, lượng mưa cũng sẽ dần tăng lên.

6 sai lầm ai cũng mắc phải khi xem tuổi kết hôn
Trước khi kết hôn, xem tuổi hay còn gọi là xem bát tự hợp hôn là thủ tục không thể thiếu. Nhưng có những sai lầm khi xem tuổi kết hôn mà rất nhiều người mắc

Tiết Lập Hạ được chia thành 3 khoảng thời gian dễ nhận biết và có thể giải thích bằng hiện tượng thiên nhiên, thời gian đầu là xuất hiện tiếng kêu của ếch nhái ngoài ruộng đồng. Sau đó do nhiệt độ của mặt đất tăng cao nên giun chui xuống mặt đất, đó chính là giai đoạn thứ 2. Cuối cùng, tại những ngày cuối cùng của tiết Lập Hạ cây cối phát triển mạnh mẽ, chờ ngày thu hoạch
  Khi tới tiết Lập Hạ, dân gian ta có thói quen bái thần linh, ăn những món ăn mới, tặng đồ ăn cho người khác và uống những ấm trà mới. Các món ăn nổi bật thường được thưởng thức vào tiết Lập Hạ là trứng gà luộc, xôi đỗ đen, cháo, mận và các loại đậu.
Tiet Lap Ha la gi hinh anh 2
 
Do nhiệt độ khi vào tiết Lập Hạ dần dần tăng lên nên cần chú ý bảo vệ sức khỏe. Các căn bệnh liên quan đến tim mạch, đặc biệt người già nên cẩn thận với bệnh cao huyết áp. Ngoài ra, các bệnh liên quan đến ánh nắng mặt trời như: cháy nắng, say nắng,… cũng nên đề phòng.
=> Tra cứu: Lịch âm 2016, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết Lập Hạ là gì

Khi 12 chòm sao gặp ma, bản chất hiện nguyên hình

Khi 12 chòm sao gặp ma là chủ đề khá thú vị mà chắc hẳn cung hoàng đạo nào cũng tò mò muốn biết phản ứng của mình ra sao.
Khi 12 chòm sao gặp ma, bản chất hiện nguyên hình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây cũng là tình huống tạo ra nhiều bất ngờ để các bạn bộc lộ tính cách thật của mình.  

Mục lục (Click vào đây để tới nội dung muốn xem nhanh nhất)

  1. Khi Bạch Dương gặp ma
  2. Khi Kim Ngưu gặp ma
  3. Khi Song Tử gặp ma
  4. Khi Cự Giải gặp ma
  5. Khi Sư Tử gặp ma
  6. Khi Xử Nữ gặp ma
  7. Khi Thiên Bình gặp ma
  8. Khi Bọ Cạp gặp ma
  9. Khi Nhân Mã gặp ma
  10. Khi Ma Kết gặp ma
  11. Khi Bảo Bình gặp ma
  12. Khi Song Ngư gặp ma

 

 

1. Khi Bạch Dương gặp ma

 

Khi 12 chòm sao gặp ma, bạn có biết phản ứng của Bạch Dương thế nào không? Với tính cách thường ngày, nhiều người sẽ tưởng Bạch Dương nhà ta là người can đảm lắm. Miệng luôn tỏ mạnh mẽ thậm chí còn hùng hổ hô hào đi dọa ma mọi người hay đầu têu những trò bắt ma.

Nhưng thực ra, nếu có ma thật hiện nguyên hình, chòm sao này sẽ là người bỏ chạy đầu tiên. Bạch Dương có biết Những điều nên tránh để không bao giờ gặp ma.

 

Khi 12 chom sao gap ma, ban chat hien nguyen hinh hinh anh 2
 

 
 

2. Khi Kim Ngưu gặp ma

 

Kim Ngưu sống khá thực tế, thực dụng và vốn chỉ tin vào những vấn đề mang tính khoa học, nghiên cứu. Nhưng nếu bị dọa ma bất ngờ, Kim Ngưu có thể mất bình tĩnh và phản ứng đầu tiên là hét toáng lên theo phản xạ và cũng để đuổi con ma đi xa.

 

3. Khi Song Tử gặp ma

 

Là một trong 12 cung hoàng đạo khi gặp ma rất thích thú, luôn tìm tòi ma hình thành ra sao. Vì vậy khi chạm mặt con ma, Song Tử chắc chắn sẽ ngắm nghía "độc" vật này từ đầu đến chân, thâm chí đưa nó về nhà để nghiên cứu thêm và khoe khoang với mọi người.

 

4. Khi Cự Giải gặp ma

 

Nếu bị dọa ma bất ngờ chắc chắn Cự Giải yếu đuối sẽ lăn đùng ra ngất. Nhưng nếu may mắn gặp một con ma hiền lành thần thiện, có khi Cự Giải lại nhẹ nhàng và hành động đúng như bản chất luôn biết quan tâm, chăm sóc cho mọi người, đối với một con ma cũng không phải ngoại lệ. Có thể bạn chưa biết Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có những loại "MA" nào?

 

Khi 12 chom sao gap ma, ban chat hien nguyen hinh hinh anh 2
 

 

5. Khi Sư Tử gặp ma

 

12 chòm sao làm gì khi gặp ma, cụ thể là Sư Tử? Những người thuộc cung Sư Tử thường rất dũng cảm, đây là tố chất bẩm sinh mà hiếm cung hoàng đạo nào khác có thể sở hữu. Nếu bị dọa bất ngờ rất có thể Sư Tử sẽ la hét, gào rú theo phản xạ. Nhưng ngay cả trong trạng thái ấy, Sư Tử cũng rất sẵn sàng chiến đấu với con ma bằng cách quờ quạng chân tay, còn hơn là chịu nhục trước sinh vật này.

 

6. Khi Xử Nữ gặp ma

 

Miệng thì lúc nào cũng xem ma mãnh là mấy trò nhảm nhí, nhưng nếu gặp thần thì hồn bay phách lạc chính là từ miêu tả đúng nhất phản ứng của Xử Nữ. Vốn là người nhút nhát, việc gặp ma đối với họ còn khủng khiếp hơn cả ngày tận thế. Nhưng không giống như các chòm sao khác bỏ của chạy lấy người, Xử Nữ sẽ cẩn thận ôm theo hết tư trang rồi mới thoát thân. Có thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ.

 

7. Khi Thiên Bình gặp ma

 

Thiên Bình vốn ít lo lắng, thoải mái, vô tư, nhưng khi gặp ma thì chắc chắn cũng sẽ cứng đơ người bất động, nhắm tịt mắt mặc cho con ma muốn làm gì thì làm, chỉ mong được tha mạng mà thôi.

 

Khi 12 chom sao gap ma, ban chat hien nguyen hinh hinh anh 2
 

 
 

8. Khi Bọ Cạp gặp ma

 

Bọ Cạp thường ngày vốn thích tìm hiểu mấy trò bí ẩn, huyền ảo về tâm linh nên với họ ma quỷ không phải chuyện qua bất ngờ. Giả sử có bị bất ngờ thì họ cũng sẽ đụng chân đụng tay vì thấy bực mình khi bị hết hồn mà thôi.

 

9. Khi Nhân Mã gặp ma

 

Nếu gặp ma bất ngờ có thể Nhân Mã sẽ hơi shock và giật mình lúc ban đầu. Tuy nhiên với bản tình tò mò và ham vui vốn có, Nhân Mã sẽ định thần lại và coi đây là cơ hội được chơi đùa hiếm hoi, có khi còn cùng con ma đi dọa dẫm người khác.

 

Khi 12 chom sao gap ma, ban chat hien nguyen hinh hinh anh 2
 

 
 

10. Khi Ma Kết gặp ma

 

Phản ứng của 12 chòm sao khi gặp ma như thế nào, nhất là Ma Kết? Cung hoàng đạo này vốn là những người thông minh, bình tĩnh, thản nhiên. Nên khi gặp ma, họ cũng trơ mặt ra không biểu hiện. Mặc dù sợ đến mức mềm chân tay nhưng vẫn cố tỏ ra lạnh lùng, không quan tâm để khiến con ma nản chí mà bỏ đi.

Thông minh là vậy nhưng Ma Kết đã biết cách phân biệt Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào hay chưa?

 

11. Khi Bảo Bình gặp ma

 

Bảo Bình là con người của những tính cách độc đáo với cái đầu lạnh và trái tim thép, có khi chính con ma lại phải chạy thật nhanh nếu không muốn trở thành đối tượng bị Bảo Bình dọa lại bởi những gì chòm sao này đang tính toán.

 

Khi 12 chom sao gap ma, ban chat hien nguyen hinh hinh anh 2
 

 
 

12. Khi Song Ngư gặp ma

 

Song Ngư là đối tượng không con ma nào dù thật hay giả muốn dọa dẫm. Bởi Song Ngư trước tình huống bất ngờ và đau tim này có lẽ sẽ khóc không ngừng nghỉ đến mức con ma chẳng biết xử lý thế nào, nên dọa tiếp hay không.

 

Trên đây là những phát hiện vui vui dựa trên tính cách của của các chòm sao trong tình huống khi 12 cung hoàng đạo gặp ma. Dù bạn thấy đúng hay không thì cũng nên đọc kỹ và cẩn thận nếu định thử áp dụng dọa ma bạn bè nhé!

 

Hoài An

  Muốn hạnh phúc, hãy chọn người yêu như 4 chòm sao nam chung tình 3 chòm sao đáng ghét, dễ bị bỏ ngoài mọi cuộc chơi Có thể bạn chưa biết về những chòm sao thuộc nhóm Đất
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khi 12 chòm sao gặp ma, bản chất hiện nguyên hình

Nhóm các hiện tượng cận tâm lý

I/ NHÓM I: 1- THẦN GIAO CÁCH CẢM Thần giao cách cảm là biệt tài nắmbắt ý nghĩ người khác. Khi người nhận không cần viện tới ngũ quan vẫn biết đượcngười khác nghĩ gì, thậm chí từ một khoảng cách rất xa. Theo các tác giả ngoạiquốc, hiện khó tìm thấy một nhà khảo cứu nào ngờ vực hiện tượng đó. Ngay từ vàichục năm về trước loạt thực nhiệm do H.Puthoff và R.Targe (viện khảo cứuStanford Mỹ tiến hành hồi 1974-1975 về khả năng truyền đạt ý nghĩ giữa đôi bạn,một đang du lịch tại Đông Âu, một vẫn ở tại Wisconsin (Tây Bắc Mỹ) đã gặt háiđược những kết quả đầy sức thuyết phục. Không ít người siêu phàm như WolfMessing, Uri Gheller… Chẳng những đọc được những ý nghĩ của người khác, mà còn“chi phối” được đầu óc họ, bắt họ nghĩ theo hướng mình vạch ra.
Nhóm các hiện tượng cận tâm lý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2- TRỊ LIỆU TỪ XA (TELTHERAPY)

Đây là biệt tài chỉ vẽ cho bệnh nhân cách dùng thuốc và phương pháp chạy chữa từ xa, sau khi chuẩn bệnh từ xa (telediagnosis)

Hiệp hội khảo cứu và phổ biến tri thức ở Mỹ đã triển khai một chương trình hội thảo và giảng dạy rộng khắp về các phương pháp trị bệnh phi truyền thống và hướng dẫn hoạt động cho hơn 1.400 nhóm khảo cứu. Nhờ các chuyên gia này giúp sức, tất cả chúng ta đều có thể học đọc, học viết, làm tính mau hơn, phân biệt màu sắc chuẩn xác hơn, suy nghĩ minh mẫn hơn…Một trong những bí quyết của họ là khơi dậy nơi chúng ta những tiềm năng tự điều chỉnh và tự chữa trị chưa được dùng tới, còn nguyên trong cơ thể.

Một minh chứng rực rỡ nhất là biệt tài của bác sĩ tâm lý trị liệu A.Cashpirovski. Minh chứng tương phản là hiện tượng “Thư ếm” rất phổ biến tại Phi Châu, Nam Mỹ, Úc Châu và quần đảo Caraibe. Kẻ bị thư ếm bỗng nhiên ngã bệnh và truớc ngày chết ít lâu mới biết được rằng mình bị một phù thủy, thuật sĩ hoặc một thầy cúng nào đó nguyền rủa và ám hại mình.

3-TRỊ LIỆU BẰNG NĂNG LƯỢNG SINH HỌC (BIOTHERAPY)

Biệt tài này thường gặp ở các nhà ngoại cảm tài ba. Họ chỉ cần sờ nhẹ lên thân thể chúng ta là biết ngay nội quan nào đang bị nhiễm bệnh và giúp chạy chữa mà không cần dùng thuốc. Theo các nhà khảo cứu, giới ngoại cảm sở dĩ làm được điều huyền diệu đó chung qui chỉ nhờ họ truyền sang cơ thể bệnh nhân một nguồn năng lượng sinh học thiên phú (hoặc họ hấp thụ được từ vũ trụ) giúp điều hoà trạng thái năng lượng bị trục trặc trong cơ thể bệnh nhân.

Những năm gần đây giới thầy thuốc và sinh học đã dốc nhiều công sức vào việc phát hiện bí quyết trị liệu của các nhà ngoại cảm. Tại Munich (CHLB) Đức một viện chữa trị bằng năng lượng sinh học đã thành lập nhằm soi sáng nhiều vấn đề thú vị, nhất là tìm hiểu những bí thuật gia truyền của nền y học phương đông trong lĩnh vực này và kết hợp thật nhuần nhuyễn hai nền khoa học Đông -Tây.

Người nổi danh hơn cả về nghệ thuật trị liệu này là nhà nữ ngoại cảm người Giorgia Djuna Davitashvili. Bà chẳng những cứu chữa được hàng ngàn người bệnh mà còn truyền giảng phép trị liệu của bà cho hàng chục nhà ngoại cảm cùng chí hướng. Bà từng được cả đức Giáo Hoàng La Mã John Paul đệ nhị tiếp như một vị thượng khách tại Vitican hồi sang thăm y theo lời mời của công chúng và giới khoa học gia.

4- PHẨU THUẬT BẰNG TÂM NĂNG (PSYCHICHIRURGIE)

Đây là những ca mổ không cần dao, gây mê như xưa nay. Tuy vậy nhà phẫu thuật vẫn cắt bỏ được những khối u hoặc cơ quan thương tổn bằng hai bàn tay trần và giúp vết mổ mau liền miệng ngay sau khi mổ, đồng thời không để lại vết sẹo nào trên thân thể.

Lối phẫu thuật này rất phổ biến tại Viễn Đông, Đông Nam Á nhất là Philippines. Nhiều bác sĩ danh tiếng Âu Mỹ và Nhật Bản đã tới tận nơi tìm hiểu hiện tượng nhưng chưa nhất trí về cách lý giải.

Chẳng hạn nữ bác sĩ S.Seutmann (CHLBĐ) đã gửi gần 1.000 bệnh nhân mà Tây Y thúc thủ sang Philippines chữa trị. Bà đã đích thân chứng kiến hơn 7.000 ca mổ và chính bà cũng đã mổ tim bởi nhà phẫu thuật bằng tâm năng lừng danh nhất, ông Tony Apawa vẫn theo bà, bí quyết của các nhà phẫu thuật Philippines là dùng năng lượng tâm lý để tác động tới người bệnh. Họ giúp người bệnh tự đặt mình vào trạng thái cơ thể huy động toàn bộ tiềm năng của cơ thể, khiến đẩy nhanh tốc độ chữa trị. Nhưng một bác sĩ nổi danh khác cũng người Đức, ông F.Karger (viên Mark Plan) thì cho rằng giới phẫu thuật Philoppoines đều là những người có biệt tài dị thường về tâm động lực (Psychokinese) trong điều kiện học được giám sát sít sao.

II/ NHÓM II:

Nếu 4 hiện tượng vừa giới thiệu thuộc nhóm 1 thì 2 hiện tượng dưới đây có thể xếp vào nhóm II.

1- TÂM ĐỘNG LỰC: (PSYCHONINÈSE)

Hiện tượng này gặp ở những người có biệt tài nội năng tâm lý (tức ý nghĩ) tác động lên các đồ vật từ xa, khiến chúng di chuyển hoặc biến dạng. Dẫn chứng rực rỡ nhất là chàng thanh niên Mỹ gốc Do Thái Uri Gheller. Ngoài nhiều biệt tài dị thường (đọc và sai khiến được ý nghĩ người khác, thư ếm…) anh còn có thể làm lệch kim la bàn, bẻ cong nhiều đồ vật bằng kim loại đựng trong những bình lọ bịt kín, thậm chí chận đứng được một hạn tàu đang lướt sóng giữa biển. Phân tích các thử nghiệm, giới khoa học gia Mỹ thuộc viện khảo cứu Stanford cho rằng hiệu quả do năng lượng tâm lý gây nên trong trong trường hợp này rất giống với hiệu ứng đốt nóng bằng sóng cao tần tại những điểm được ánh mắt Gheller chú mục, cả nhiệt kết lẫn các thiết đo bằng tinh thể lỏng đều cho thấy nhiệt độ tăng cao tại các điểm chung quanh.

2- DÒ TÌM BẰNG BIỆT TÀI CẢM XẠ.

Hiện tượng này được biết tới từ thời cổ dưới cái tên thuật Phong Thủy. Những người có biệt tài đó chỉ cần dùng một cành liễu, một mẫu dây dẫn hoặc một khung kim loại trong tay là họ có thể dò tìm được những mỏ quặng, những kho vàng, những mạch nước ngầm…nằm sâu dưới lòng đất hàng chục mét dễ dàng. Giới chuyên gia khảo cứu hiện tượng đã tiến hành hàng ngàn thực nghiệm, đo đạc góc quay và độ lệch (theo chiều dọc hoặc ngang) của dụng cụ và đi đến kết luận: các “radar sinh học” của các thầy “Phong Thủy hiện đại” trong nhiều trường hợp đã tỏ ra nhạy cảm lạ thường, không thua kém gì các thiết bị quan trắc Địa lý hiện đại khi nắm bắt các sóng phản hồi từ họ phát ra.

Vì vậy nếu biết sử dụng biệt tài của họ, công việc thăm dò mỏ khảo sát địa tầng có thể tiết kiệm được hàng triệu Mỹ kim kinh phí và rút ngắn đáng kể thời gian dò tìm các nguồn tài nguyên trong lòng đất.

III/ NHÓM III:

Thuộc nhóm cuối cùng có 4 hiện tượng chính: thấu thị, tiên tri, hoá thân và thoát xác.

1-BIỆT TÀI THẤU THỊ

Những người có biệt tài này thường dễ dàng thu nhận được các thông tin về các vật thể và biến cố ở cách họ rất xa ngay vào thời điểm biến cố đó đang diễn ra. Hiện tượng này chẳng có gì là huyền bí cả, nếu ta thừa nhận rằng mọi thứ trong ngoại giới đều có những thông tin mà khoa học hiện chưa biết, nhưng với những người được tạo hóa ban tặng cho một năng lực cảm nhận siêu nhạy thì đó lại là chuyện rất dễ dàng. Chẳng khác nào chúng ta những người bình thường vẫn dùng ngũ quan để nhận biết mọi vật quanh mình !

2-BIỆT TÀI TIÊN TRI

Đây là biệt tài giúp các nhà tiên tri nắm bắt được những thông tin về các biến cố hoặc các đặc điểm trước lúc chúng diễn ra hoặc sẽ diễn ra trong tương lai. Không ít dự báo của giới tương lai học hiện đại chứng tỏ càng thu thập được nhiều thông tin về hiện tại trên phạm vi càng bao quát, nhãn lực thấu thị càng mạnh càng rành rẽ về quan hệ nhân quả thì càng dễ đưa ra những tiên đoán mầu nhiệm. Nguyên do thật giản dị: mọi chuyện sắp xảy ra đều phôi thai ngay từ hiện tại và đều là hậu quả của quá khứ gần hoặc xa…

3- HIỆN TƯỢNG HÓA THÂN

Hiện tượng này thường gặp ở những người có biệt tài hiếm có: Họ tự “đưa mình vào trạng thái ý thức năng động” nên có thể hành động như thể người khác (chứ chẳng phải chính họ) hành động.

Sách vở hiện nay hay nói tới những ca trong đó người sống tựa hồ chỉ là những hiện thân của những người đã chết từ lâu. Đây là hiện tượng khó hiểu nhất và ít được chấp nhận nhất, bởi lẽ có người không chịu mở rộng quan điểm về sự sống và hai nhân tố thông tin và năng lượng cả sự sống trên thế gian.

Các khoa học gia Ấn Độc tại viện khảo cứu tâm lý và bệnh học tâm thần ở Bangaloe đã thử tiến hành tìm hiểu 250 ca hóa thân được ghi nhận từ năm 1976. Về mỗi ca học đã thăm dò ý kiến của ít nhất 20 nhân chứng. Thông thường sự “hóa thân” hay gặp ở trẻ em từ 3-7 tuổi.

Nhiều người quen nghĩ: chính học thuyết của Đức Phật là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng hiện tượng hóa thân. Thật ra hiện tượng này không chỉ gặp tại Ấn Độ mà còn gặp tại nhiều nước khác trên thế giới.

4-HIỆN TƯỢNG THOÁT XÁC

Ở đây con người bỗng rơi vào một trạng thái kỳ lạ: họ có cảm giác như thể nhìn thấy rõ thân xác mình từ bên ngoài và có biệt tài di chuyển.

Theo thống kê đây là hiện tượng nảy sinh ngoài ý muốn, không cần bất cứ một nỗ lực nào hết và thường diễn ra lúc ta bị lạnh cóng nhiều ngày hoặc trong những khoảnh khắc sau lúc cơ thể vừa trải nghiệm hiện tượng chết lâm sàng, từng được nhà tâm lý Mỹ R.Moody đề cập tới rất cụ thể trong cuốn Life After Life nổi danh.

Nhiều võ sư Yoga chủ động nhịn thở và những người cố ý dùng ma tuý cũng có thể dễ dàng thoát xác trong một thời gian ngắn.

IV/ VÀI LỜI KẾT LUẬN

Hầu hết các hiện tượng cận tâm lý dị thường vừa giới thiệu bên trên đang được nhiều học giả tập trung khảo cứu suốt mấy thập niên qua.

Một số khoa học gia hy vọng có thể lý giải bằng việc tìm hiểu sâu thêm các đường kênh thông tin nhờ trường sinh học. Nhiều sự kiện cho thấy giữa trường sinh học và các hiện tượng điện tử vốn có những điểm tương đồng.

Tuy vậy, những hiện tượng tỏ ra mâu thuẫn với quan niệm về bản chất điện từ của trường sinh học, chẳng hạng trường sinh học không tác động lên giấy ảnh hoặc mật độ năng lượng không tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách từ nguồn phát đến nguồn thu.

Vì vậy một số khoa học gia chủ trương tìm con đường khác và họ nhận thấy cần chia sẽ các luận điểm của pháp môn Yoga về các Chakra, tức huyệt đạo (trung tâm giám sát các hệ thống năng lượng khác nhau trong cơ thể). Khảo sát đáng chú ý hơn cả theo hướng này là của một học giả Nhật ông H.Motoyama. Ông sáng chế một thiết bị cực nhạy để ghi nhận phản ứng của các đường kinh lạc qua bộ dẫn điện của da tại các điểm tương ứng, khi thầy thuốc dùng trường sinh học của mình để tác động tới các huyệt đạo có liên quan với các đường kinh lạc đó của bệnh nhân. Theo tác giả, một trong những kết quả chính gặt hái được sau một loạt thực nghiệm là nêu lên được mối liên hệ mật thiết giữa “psy” năng lượng hệ kinh lạc (có liên quan tới các huyệt đạo tương ứng) cũng như hệ thần kinh giao cảm của cả thầy thuốc lẫn người bệnh. Những khảo cứu tương tự cũng được tiến hành tại Ý, Mỹ.

Những hiện tượng về tâm lý thoạt nhìn tưởng như huyền hoặc, đó thật ra chẳng có gì là kỳ bí nếu nhìn chúng dưới gốc độ thật sự thấu thị nghĩa là tránh định kiến và nhắm mắt đi theo lối mòn của thuyết duy vật dung tục tầm thường.




Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhóm các hiện tượng cận tâm lý

Đĩa thất tinh – 7 quả cầu trong phong thủy –

Đĩa gồm 7 quả cầu với 7 màu sắc (hoặc chất liệu) khác nhau, trong đó quả ở giữa thường lớn hơn 6 quả xung quanh. Thông thường được chế tác bằng các loại đá quý như thạch anh, đá mắt mèo, hắc ngà, ngọc Đông Linh… Một trong những bí quyết cải biến Phon

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đĩa gồm 7 quả cầu với 7 màu sắc (hoặc chất liệu) khác nhau, trong đó quả ở giữa thường lớn hơn 6 quả xung quanh. Thông thường được chế tác bằng các loại đá quý như thạch anh, đá mắt mèo, hắc ngà, ngọc Đông Linh…

iqm1301034290

Một trong những bí quyết cải biến Phong Thuỷ chính là kích hoạt cát khí của sao Bát Bạch trong phòng khách, văn phòng. Vượng khí của sao Bát Bạch trong vận 8 sẽ mang lại quan hệ gia đình thuận hoà, thăng tiến về công danh tài lộc và may mắn.

Ở bàn trà hoặc bàn làm việc rất cần có đĩa ngọc Thất tinh gồm 7 viên đá quý thạch anh trên đĩa tròn. Những viên đá tròn mang lại cát khí rất lớn, xua được tà khí, âm khí vốn là mầm mống phát sinh tai hoạ, bệnh tật. Đặt ở bàn khách, bàn trà giúp cho chủ nhân quan hệ rộng rãi, nhiều quý nhân giúp đỡ về công danh tài lộc, tránh kẻ tiểu nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đĩa thất tinh – 7 quả cầu trong phong thủy –

Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Chàng trai trẻ 28 tuổi kể lại giấc mơ của mình như sau: Trong mơ, tôi thấy mình đang vẽ tranh nơi đồng xanh bao la. Hôm đó, hình như là một ngày đầu hạ, hoa cỏ đua nhau khoe sắc dưới ánh nắng hè. Lúc đấy, một bé gái từ đâu chạy đến gần chỗ tôi, em nh
Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy đôi mắt: Sẽ có tình yêu chân thật –

Xây nhà ở nơi có "long mạch" sẽ sinh vượng khí

Từ xưa đến nay, hầu hết mọi người đều quan niệm xem địa làm nhà là rất quan trọng, bởi trong đất có nước và khí mà 2 thứ đó đều ảnh hưởng đến cuộc sống vạn vật và con người. Có những nơi địa khí độc, mạch nước độc khiến cho người sống ở đó hao kiệt, mòn mỏi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo nhận định của các chuyên gia phong thủy, trong tự nhiên có một dòng khí lưu thông và xoay tròn xoắn ốc trong trái đất. Đến khi dòng khí lưu thông ra gần bề mặt trái đất thì nơi đó đất đai màu mỡ, cây cỏ xanh tốt, khí hậu mát mẻ trong lành, thời tiết ôn hòa. Con người sống ở đây sẽ thấy dễ chịu, thoải mái. Còn nếu khí trượt ra ngoài vỏ trái đất hoặc di chuyển sâu vào trong thì đất đai nơi đó sẽ khô cằn

Phần lớn những nhà phong thủy là những người biết tiếp thu những kinh nghiệm của con người trong cuộc sống tích lũy được cộng với sự quan sát tinh tế. Các nhà phong thủy biết xem vầng sáng quanh mặt trăng để đoán thời tiết và biết xem cả màu sắc, hay xem chân cột để đoán được độ ẩm của đất, đồng thời cả những mối tương quan về mặt đời sống, xã hội của con người để đưa ra lời dự đoán, nhận định cho một ngôi nhà, cuộc đất.

tìm long mạch để xây nhà
Những nơi mà cây cỏ xinh tươi tốt lành, chính là nơi có “long mạch”,
địa điểm này rất lý tưởng để dựng nhà ở. Ảnh minh họa.

Có thể nói, việc quan sát cả nội và ngoại cảnh rất quan trọng cho việc đoán định một cuộc đất. Dưới đây là một vài cách để nhận ra khí của đất theo quan niệm của phong thủy.

Nếu như cây cỏ xanh tươi thì ở khu vực đó khí vượng. Nhưng nếu có những khoảng đất vàng, nâu hoặc không có cây gì mọc ở trên một sân cỏ hoặc một vùng thì tức là khí ở đó đã không độc. Muốn tìm “long mạch”, đầu tiên hãy chọn vùng cây cỏ xinh tươi tốt lành, nơi đó chính là địa điểm lý tưởng để dựng nhà.

Sân phải có nhiều cây cỏ hoa lá là khí vượng. Không nên mua đất cằn cỗi, ở đó cây cỏ khô héo hoặc nơi hoa lá dị dạng, không nở được.

Song, trên thực tế không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chọn được một cuộc đất ưng ý trong một môi trường lý tưởng mà thông thường sẽ có những khuyết điểm nhất định nào đó. Khi đó chỉ có biện pháp cải tạo để có một môi trường tốt hơn.

(Theo Báo xây dựng online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xây nhà ở nơi có "long mạch" sẽ sinh vượng khí

Đảnh lễ chúng Tăng

Kính lễ Pháp là những lời dạy vàng ngọc của Phật. Nhưng đảnh lễ Tăng một cách như nhiên thì không phải ai cũng làm được bởi nhiều lẽ khác nhau.
Đảnh lễ chúng Tăng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo.

Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật. Kính lễ Phật là đương nhiên vì Ngài là bậc Giác ngộ, phước trí vẹn toàn. Kính lễ Pháp là tất nhiên vì đó là những lời dạy vàng ngọc của Phật. Nhưng kính lễ Tăng một cách như nhiên thì không phải ai cũng làm được bởi nhiều lẽ khác nhau.

Vấn đề ở chỗ cần phân biệt giữa Tăng (Sangha, Tăng-già) và cá nhân một vị Tỳ-kheo. Tăng hay chúng Tăng là một đoàn thể gồm ít nhất bốn vị Tỳ-kheo trở lên, sống chung hòa hợp và thanh tịnh. Một hay hai hoặc ba vị Tỳ-kheo dù giới đức, phạm hạnh đến mấy thì không phải chúng Tăng. Đông nhiều các vị Tỳ-kheo mà không hòa hợp và thanh tịnh thì cũng không phải là chúng Tăng. Cho nên, chúng Tăng thì luôn luôn thanh tịnh, tốt đẹp nhưng vị Tỳ-kheo thì có thể thế này hay thế khác. Do vậy, khi đảnh lễ chúng ta luôn quán niệm là lễ lạy chúng Tăng, mà chúng Tăng thì luôn thanh tịnh trang nghiêm nên thành tựu vô lượng phước đức. Đức Thế Tôn đã dạy, “nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng” như sau:

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng Tăng, nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng. Thế nào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp;

Thánh chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các pháp;

  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu chánh định;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu trí tuệ;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu tuệ giải thoát;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu giải thoát tri kiến;
  • Thánh chúng của Như Lai hay hộ trì Tam bảo;
  • Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại đạo dị học;
  • Thánh chúng của Như Lai là bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.

– Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này, được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Lễ Tam bảo, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.478)

Một người Phật tử bình thường, có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, Phật dạy “muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này”. Trong trường hợp một số ít Phật tử, chưa có hoặc không có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, thiết nghĩ “nên tư duy về mười một pháp này” sâu sắc và bền bỉ hơn. Phật cũng không “bênh” các đệ tử xuất gia và cũng không “ép” các đệ tử tại gia của Ngài trong việc kính lễ này. Các pháp vốn như vậy! Chúng Tăng thì hòa hợp và thanh tịnh nên kính lễ Tăng-già thì phước đức vô lượng.

Thế nên, luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo. Nhờ quán niệm như vậy nên mình luôn kính lễ chúng Tăng một cách nhiệt thành mà lòng không một mảy may phân biệt, xét đoán. Và cho dù, trên con đường học đạo, chúng ta có nghe hoặc từng gặp một vài vị Tỳ-kheo chưa xứng danh, mình vẫn vẹn nguyên lòng tin tưởng và kính trọng với Tăng bảo.

Nhờ “tư duy về mười một pháp này” mà hàng Phật tử, cũng như Tăng Ni luôn tin tưởng vào chúng Tăng, một lòng hướng về Tăng-già để trọn đời quy mạng. Nhờ đó, công đức và phước báo của mình ngày một đong đầy. Đó là chánh tư duy.

Dẫu cho có những vị Tỳ-kheo danh chưa xứng với thực, dẫu cho có những người giả làm Tỳ-kheo để trà trộn vào Tăng đoàn với ý đồ riêng thì niềm tin thanh tịnh của chúng ta vào Tăng-già vẫn bất hoại, kiên cố như kim cương, không bao giờ thay đổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đảnh lễ chúng Tăng

Chùa Keo - Gia Lâm - Hà Nội

Chùa Keo Hà Nội, có tên chữ là Báo Ân Trùng Nghiêm tự. Làng Keo, có tên cổ là “Cổ Giao” thuộc huyện Long Biên, huyện Gia Lâm, Tp. Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Keo Hà Nội, có tên chữ là Báo Ân Trùng Nghiêm tự. Làng Keo, có tên cổ là “Cổ Giao” thuộc huyện Long Biên, quận Giao Chỉ ngày xưa, nay thuộc xã Kim sơn, huyện Gia Lâm, Tp. Hà Nội. Bởi làng xưa có nghề truyền thống nấu keo da trâu và nghề làm sơn gỗ, đặc biệt là sơn son thếp vàng, nên dân làng thường gọi là làng Keo, khi dân làng xây chùa lấy tên là chùa Keo, có tài liệu nói rằng (trước kia thôn Giao tự và thôn Giao tất hợp nhất và gắn bó với nhau như keo, nên tên làng gọi là làng Keo).

Tương truyền rằng: ngày xưa khi ở đất Luy Lâu đã tạc xong 4 pho tượng Phật là tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) nhưng còn có việc tô tượng chưa xong, nhiều thợ ở các nơi đến sơn nhưng không làm được vì sơn cứ chảy tuột đi khi quét lên. Đến lượt Hiệp thợ Keo thấy một khúc gốc thừa khi tạc 4 pho tượng. Hiệp thợ Keo xin về, 4 tràng trai khiêng không nổi, nhưng chỉ 2 người thợ làng Keo khiêng rất nhẹ nhàng và đi thẳng về làng, thấy chuyện lạ, làng quyết định tạc tượng và pho tượng Pháp Vân đã ra đời giống hệt pho tượng ở chùa Dâu nhưng kích thước nhỏ hơn.

Chùa có tất cả 47 pho tượng Phật, đều mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ 17 – 18, trong đó tượng bà Keo là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Chùa còn giữ 6 tấm bia đá, 1 cổ chuông được đúc thời Cảnh Thịnh (1794), 1 Khánh đồng, 8 Đạo sắc phong cùng nhiều đồ thờ tự, có một số cổ vật mang phong cách thời nhà Lê.

Chùa được trùng tu nhiều lần nên mang nhiều phong cách pha chộn. Tam quan được xây bằng gạch theo kiểu nghi môn thời Nguyễn, tòa Thượng điện là kiểu nhà 4 mái, các góc đao nay chỉ còn trang trí đao đơn, hình cách điệu, kiến trúc mở cửa đầu hồi (ít gặp ở những ngôi chùa cổ), bộ vì tòa Thượng điện làm kiểu chồng giường, đầu các con giường điểm xuyết chút hoa có phong cách nghệ thuật của thế kỷ XVII. Tòa Hậu cung và tháp Tam phẩm mang phong cách thời Nguyễn. Đáng lưu ý là tượng Quan Am Thiên Thủ Thiên Nhãn, là sản phẩm của thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ được tấm bia thời Hoàng Định (1616).

Vườn tháp chùa keo
Vườn tháp Chùa Keo – Hà Nội

Chùa trải qua nhiều đời trụ trì song sách sử trong chùa không còn. Năm 1995, Thành hội Phật giáo Hà Nội bổ nhiệm Đại đức Quảng Thiện trụ trì chùa Keo. Năm 1997, sư trụ trì trùng tu khu tháp Tổ, năm 1998 Thượng điện, năm 2002, Nhà Tổ, năm 2006, nhà Mẫu và Tam bảo. Tháng 3/2009, tất cả các hạng mục công trình đều hoàn tất. Chùa Keo Hà Nội được công nhận di tích lịch sử – văn hóa năm 1993.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Keo - Gia Lâm - Hà Nội

Kiêng kỵ phòng bếp và phòng ngủ cạnh nhau –

Hiện tượng: Phòng ngủ nếu ở cạnh phòng bếp, khí trường của phòng ngủ sẽ bị nóng làm cho người trong nhà dễ bị bực bội, cáu giận, ảnh hường không tốt tới sức khỏe. Phương pháp hóa giải: Phía bên dưới chân giường có thể trải một tấm thảm màu vàng. Chún

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Phòng ngủ nếu ở cạnh phòng bếp, khí trường của phòng ngủ sẽ bị nóng làm cho người trong nhà dễ bị bực bội, cáu giận, ảnh hường không tốt tới sức khỏe.

phong thuy phong ngu-1

Phương pháp hóa giải: Phía bên dưới chân giường có thể trải một tấm thảm màu vàng.

Chúng ta đều biết màu vàng thuộc Thổ. Hỏa sinh Thổ. Thổ có thể tiết Hỏa. như vậy tiết ra khí Hỏa sát để hóa giải. Đương nhiên nêu phía dưới tấm vải có thể đặt 36 đồng tiền có hiệu quả sẽ càng tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ phòng bếp và phòng ngủ cạnh nhau –

Nằm mơ thấy lội bùn là điềm gì? –

Trong cuộc sống có rất nhiều hiện tượng bí ẩn mà chúng ta cần phải giải mã và tìm hiểu xem bên trong chúng giấu những điều gì, có thể là từ những điều đơn giản đến phức tạp. Những giấc mơ cũng là những điều như vậy, chúng đến với cuộc sống của chúng
Nằm mơ thấy lội bùn là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy lội bùn là điềm gì? –

Con số trong phong thủy và ý nghĩa tốt xấu khác nhau

Con số trong phong thủy có ý nghĩa khác nhau. Điều này giải thích tại sao mọi người lại phải chọn con số phong thủy cho biển xe, sim điện thoại...
Con số trong phong thủy và ý nghĩa tốt xấu khác nhau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Con so trong phong thuy va y nghia tot xau khac nhau hinh anh
 Ảnh minh họa

Trong phong thủy, tất cả số chẵn đều được tính là âm, còn tất cả số lẻ là dương. Mỗi con số mang biểu trưng cho những may mắn và xui xẻo khác nhau. Dưới đây là nội dung cụ thể về con số trong phong thủy.
 

Số 1



Số 1 được coi là con số thần thánh trong văn hóa phương Đông, nó tượng trưng cho đỉnh tối cao. Chỉ có thần thánh mới được nắm giữ con số phong thủy mãi mãi. Do đó, không ai có thể nắm giữ vị trí số 1 lâu dài. 
 
Ngoài ra, người ở vị trí số 1 luôn là độc nhất và không có ai khác, nên họ có thể bị cô đơn, luôn có cảm giác cô lập một mình.

Số 2

  Trong phong thủy, số 2 mang nghĩa tích cực, tượng trưng cho sự gắn kết của các mặt đối lập và tin tưởng lẫn nhau. Trong tiếng Hán, phát âm của con số phong thủy này gần giống với từ có nghĩa “đơn giản”. Điều này ngụ ý rằng, chúng ta có thể đạt được điều mong muốn một cách dễ dàng. 
 
Do đó, đây là con số thường thấy ở những sự kiện trọng đại như cưới hỏi, sinh nhật…Ngoài ra, số 2 còn tượng trưng cho Thái Lưu, có nghĩa là nguồn gốc của mọi sự vật hiện tượng.
 

Số 3



Con số này thuộc số dương. Nó có nghĩa như một lời tuyên bố về sự sống. Do đó, số 3 thường liên quan tới sự tăng trưởng và vĩnh cửu. 
 
Trong phong thủy, số 3 được sử dụng để làm gia tăng may mắn như đặt ba đồng xu dưới gốc cây để hút tiền tài cho gia đình…
 
Con so trong phong thuy va y nghia tot xau hinh anh
Ảnh minh họa

Số 4

  Trong tiếng Hán, cách phát âm của số 4 tương tự như từ có nghĩa là “tử (chết)”. Do đó, phương Đông không coi trọng con số này và phải tránh nó bằng mọi giá. 
 
Ngoài số 4, những số có chứa con số này cũng cần tránh, đó là số 24 (có nghĩa là “dễ chết”), số 74 (có nghĩa là “đi chết đi”).
 

Số 5
 

Trong phong thủy, số 5 là con số trung tình, không quá tốt và cũng không quá xui xẻo. Ngoài ra, nó còn là con số bí ẩn, đại diện cho các vòng tuần hoàn: 5 yếu tố vũ trụ (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ); 5 hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc và hướng Trung tâm). 
 
Tuy nhiên, ở một số nơi, người ta tránh dùng số 5 vì nó mang ý nghĩa “không có gì”. Phát âm của số 5 trong tiếng Hán tương tự như chữ có nghĩa là “không có gì”.
 

Số 6

  Ở phương Đông, số 6 là số may mắn, biểu tượng của sự thịnh vượng và giàu có. Trong tiếng Hán, phát âm của con số phong thủy này gần giống với từ có nghĩa là “lộc”.
 
Ngoài ra, số 6 là gấp đôi của số 3, đó là điềm lành. 3+6=9 đã tạo thành nhóm ba con số may mắn. Trong bài trí phong thủy nhà ở, số 3, 6 và 9 được vận dụng để hóa giải những khu vực xấu hoặc những hướng xấu.

 

Số 7

  Con số này được coi như là số thánh. Trong truyền thuyết, số 7 xuất hiện với tần số dày đặc như Thất tinh (7 ngôi sao), Thất kiếm (7 thanh kiếm)…liên quan đến yêu ma quỷ quái. 
 
Những số kết hợp với số 7 sẽ không mang lại may mắn:
 
Số 78: Phát âm gần giống như “Thất bát” nên không phù hợp dùng trong kinh doanh buôn bán.
 
Số 74: Có nghĩa là “cái chết đến gần”.
 

Số 8

  Trong phong thủy, số 8 là số vô cùng may mắn và được nhiều người yêu thích, ứng dụng để mang lại sự thịnh vượng. 
 
Trong tiếng Hán, số 8 được phát âm gần giống với từ có nghĩa là “phát”. Nó có nghĩa là “nở hoa”, “phát triển” hoặc “giàu có”. Số 8 cũng là hiện thân thứ tự trong tự nhiên: trong bát quái, trong tám hướng của la bàn. 
 
Những con số kết hợp với số 8 mang ý nghĩa may mắn, thịnh vượng:
 
Số 28: Có nghĩa là làm giàu dễ dàng và nhanh chóng
 
Số 68: Có nghĩa là lộc phát
 
Số 168: Có  nghĩa là dù thế nào vẫn phát lộc, vẫn giàu có
Con so trong phong thuy va y nghia tot xau hinh anh 2
Ảnh minh họa

Số 9



Trong phong thủy, số 9 là con số của hạnh phúc, thuận lợi và trường tồn đẹp đẽ. Nó gần như là hình ảnh cho sự viên mãn tròn đầy.
 
Những kết hợp với số 9 mang lại may mắn:
 
289: Có nghĩa là rất dễ giàu có mãi mãi
 
99999: Có nghĩa là bách niên giai lão
ST  
Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Chọn sim số đẹp, thuận phong thuận thủy Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con số trong phong thủy và ý nghĩa tốt xấu khác nhau

Sao Phượng Các

Hành: Thổ Loại: Đài Các tinh Đặc Tính: Công danh, vinh hiển lâu dài Tên gọi tắt thường gặp: Phượng Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long T...
Sao Phượng Các

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThổLoại: Đài Các tinhĐặc Tính: Công danh, vinh hiển lâu dàiTên gọi tắt thường gặp: Phượng
Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Long Trì và Phượng Các. Gọi tắt là bộ sao Long Phượng. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Phượng Các ở Mệnh thì nhan sắc rất đẹp, da mặt hồng hào, thanh tú, nhất là đối với phụ nữ.
Tính Tình

  • Thông minh, có chất văn.
  • Ôn hòa, nhân hậu, điềm đạm, cởi mở.
  • Đoan trang trong nết hạnh.
Công Danh Tài Lộc
  • Thi đỗ cao, có khoa giáp lớn, nhất là ở Mão Dậu.
  • Làm tăng thêm tài lộc, điền sản (Long Trì chỉ nhà cửa, ao hồ).
  • May mắn trong hôn nhân (dễ yêu, dễõ cưới, vợ chồng tương đắc).
  • May mắn cả trong việc sinh nở (dễ sanh, sinh dễ nuôi).
Với các nghĩa trên, Phượng Các là sao tương đối vẹn toàn về nhiều mặt nhan sắc, tính hạnh, tài lộc, gia đạo.
Ý Nghĩa Phượng Các Và Các Sao Khác
  • Phượng Các, Thai Phụ: Thăng quan, thi đỗ.
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ hay Phi: Đắc thời, có hỷ sự đến nhanh chóng về tình duyên, thi cử, quan lộ.
  • Phượng Các, Thiên Lương: Nữ mệnh có chồng danh giá, hiền.
  • Phượng Các, Xương Khúc, Khôi Việt, Tả Hữu: Đây là bộ sao "hiền thần", chuyên phò tá cho Tử Phủ. Cách này giúp đắc quan mau lẹ, cao quý.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ danh giá hoặc có điền sản.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phúc Đức
  • Phú quý.
  • Dòng họ khá giả.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Điền Trạch
  • Phượng Các, Mộ: Có nhà đất rộng rãi, có di sản.
  • Phượng Các, Thai, Bát Tọa: Có nhà lầu cao sang, nhà có ao hồ.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về việc cầu công danh, chức vụ, thi cử, bằng khen.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn là người có danh chức, đắc lực.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp quý nhân, được người mến chuộng.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tật Ách
  • Chủ đau bệnh về lỗ tai, thận.
  • Phượng Các nếu gặp với các sao Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, nếu không thì đời hay bị vu oan, giá họa, nói xấu, dèm pha, oán trách, nhà cửa hay bị mối mọt, đồ đạc mau hư, tầm thường.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tài Bạch
  • Gia tăng sự tốt đẹp về mưu cầu tài lộc, tiền bạc hoặc được thừa hưởng di sản, địa ốc, tiền trợ cấp, tiền hưu bổng và chính mình cũng chu cấp cho người khác, làm việc từ thiện.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Tử Tức
  • Dễ sinh con, sinh con đẹp, dễ nuôi.
  • Sinh quý tử, thông minh, tuấn dật.
Ý Nghĩa Phượng Các Ở Cung Phu Thê
  • Vợ chồng đẹp đôi, tương đắc, việc cưới xin dễ dàng.
Phượng Các Khi Vào Các Hạn
  • Phượng Các, Riêu, Hỷ: Có dạm hỏi, đưa đến hôn nhân.
  • Phượng Các, Cáo, Ấn: Thi đỗ.
  • Phượng Các , Thiên Mã: Có dời nhà cửa.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Phượng Các

Pha lê phong thủy giúp điều tiết dòng khí trong nhà

Hiện nay, nhiều vật phẩm bằng pha lê được sử dụng làm đồ trang trí trên bàn làm việc, phòng khách...
Pha lê phong thủy giúp điều tiết dòng khí trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



Theo KTS Bùi Nghiệp, Công ty Cổ phần Nhà Xuân, trong phong thủy, những đồ bằng pha lê như quả cầu, con cá heo... mang hành thổ. Vì vậy, đối những người cần bổ khuyết hành thổ sử dụng sẽ rất tốt. Hành thổ thường dùng để tăng cường cho các cung như Tây Nam, Đông Bắc khu vực trung tâm nhà.

Ngoài ra, đối với những vị trí bị xung đối như hai cửa đối nhau, hành lang đâm vào cửa phòng chủ nhà có thể treo cầu pha lê trong hoặc loại vát cạnh nhằm mục đích điều tiết các dòng khí tránh xung sát. Trong trường hợp trong nhà có những khu vực năng lượng bị tù đọng, bức bí cũng có thể đặt đồ pha lê. Lúc này, pha lê đóng vai trò tăng cường thêm sinh khí cho các khu vực đó, từ đó giúp ngôi nhà hoàn thiện hơn. Khi sử dụng vật phẩm pha lê có thể chiếu đèn vào để tăng cường năng lượng.

Riêng với những đồ dùng pha lê có hình sắc nhọn hay tam giác, hình kim tự tháp còn chứa thêm hành Hỏa. Sự sắc nhọn lại dễ gây ra sát khí khó sử dụng, vì thế cần sự tư vấn cụ thể trong từng tình huống của các chuyên gia.

(Theo Kienthuc)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Pha lê phong thủy giúp điều tiết dòng khí trong nhà

Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

Tương sinh của ngũ hành tức là chỉ quan hệ tương hỗ sinh sôi, tương hỗ thúc đẩy trong ngũ hành. Quy luật này mà: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tương sinh của ngũ hành tức là chỉ quan hệ tương hỗ sinh sôi, tương hỗ thúc đẩy trong ngũ hành. Quy luật này mà: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.

Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

Theo các kiến thức về phong thủy mà chúng tôi tổng hợp được thì sự tương sinh của ngũ hành như sau:

Mộc sinh Hỏa: Mộc có tính ôn nóng, lửa nằm phục ở trong gỗ, khi khoan châm vào thì bật ra,nên Mộc sinh Hỏa.

Hỏa sinh ra Thổ: Hỏa nóng có thể đốt cháy Mộc, Mộc cháy thành tro, tro là bản thể của Thổ, nên Hỏa sinh ra Thổ.

Thổ sinh ra Kim: Kim nằm trong đá ở núi, do ẩm ướt mà sinh ra, tích tụ Thổ thành núi, núi tất có đá, nên Thổ sinh ra Kim.

Kim sinh ra Thủy: Khí thiếu âm, ẩm nóng mà thoát hơi nước ra ngoài, nung Kim cũng chảy thành nước, cho nên đá núi cũng thấm nước, nên Kim sinh ra Thủy.

Thủy sinh ra Mộc: Vì nước ẩm ướt mà có thể sinh ra rong rêu cây cỏ,… nên Thủy sinh ra được Mộc.

Trên đây là 5 loại ngũ hành chính, vậy trong những loại này thì được phân chia như thế nào? Bạn có thể tham khảo thêm bài viết Phương pháp xác định loại ngũ hành theo năm sinh

Hàng ngày bằng mắt thường chúng ta có thể nhìn thấy: Khi đốt cháy cây củi sinh ra lửa, lửa thiêu cháy vạn vật đều sinh ra tro đất, luyện từ trong đá mà ra kim loại, kim loại hóa lỏng chảy thành nước, nước tưởi cho cây thì cây sinh trưởng.

Những hiện tượng tự nhiên như vậy là biểu hiện bên ngoài rất sợ lược mà mắt thường ta nhìn thấy nhưng nó cũng là một nhân tố hình thành tương sinh của Ngũ hành. Khi xác định quan hệ tương sinh từ một mối liên bên trong sự vật, theo thời tiết mà phân tích thì thấy.

Mùa xuân sinh ra mua hạ, mùa hạ sinh ra mùa thu, thu sinh ra đông, đông sinh ra xuân, … cứ thế một vòng tuần hoàn lại tiếp tục, chẳng có khi nào kết thúc. Nhìn từ thứ tự vận chuyển của trời đất thì cũng có quan hệ tương sinh, trời đất có vạn vật, có sự sống, nguyên do là nhờ có nước, nước là nguồn sống trên địa cầu, có nước mới có điều kiện sống chủ yếu cho động thực vật sinh trưởng, thực vật sinh trưởng tức là có Mộc. Rừng rậm tự bốc lửa cháy rừng, hoặc người ta khoan vào cây để lấy lửa, nhiên liệu đầu tiên của loài người chủ yếu là cây cối, trong cây sinh ra lửa, do có cây tồn tại thì mới có lửa, cho nên ta nói Mộc sinh ra Hỏa.

Hỏa là nguồn nhiệt lượng trên địa cầu, địa cầu là thế giới có băng tuyết, chỉ có lửa mới hình thành được đất. Kim thạch lộ ra dưới lòng đất , là sự biến hóa của khí đất, cho nên ta nói là Thổ sinh ra Kim. Hầu như mọi vật bị thiêu cháy đều sinh ra tro hoặc thành cái hư vô, duy chỉ có kim thạch bị nhiệt luyện thì hóa lỏng chảy ra nước, cho nên nói Kim sinh Thủy. Tương sinh tóm tắt thành những câu thơ như sau:

Tương sinh quy luật ngũ hành

Nước nhiều ẩm ướt cây xanh mọc liền

(Thủy sinh Mộc – màu xanh)

Củi khô nhóm lửa đỏ lên

(Mộc sinh Hỏa – màu đỏ)

Than tro tích tụ tăng thêm thổ hoàng

(Hỏa sinh Thổ - màu vàng)

Đất mòn lộ trắng đồng gang

(Thổ sinh Kim -  màu trắng)

Luyện kim chảy nước loáng vang đen xì

(Kim sinh Thủy  - màu đen)

Xem thêm: Các học thuyết về phong thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính chất tương sinh của ngũ hành biểu hiện như thế nào?

Xem tướng miệng biết mối quan hệ trong gia đình –

Xem tướng miệng biết mối quan hệ trong gia đình. 1. Phụ nữ – Miệng đẹp, môi đỏ, răng trắng cho thấy vợ chồng yêu thương lẫn… 1. Phụ nữ - Miệng đẹp, môi đỏ, răng trắng cho thấy vợ chồng yêu thương lẫn nhau, gia vận tốt đẹp, con cái ngoan ngoãn. - Miện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tướng miệng biết mối quan hệ trong gia đình. 1. Phụ nữ – Miệng đẹp, môi đỏ, răng trắng cho thấy vợ chồng yêu thương lẫn…

ac06649a_dangmoi1

1. Phụ nữ

– Miệng đẹp, môi đỏ, răng trắng cho thấy vợ chồng yêu thương lẫn nhau, gia vận tốt đẹp, con cái ngoan ngoãn.
– Miệng lệch bên trái, hõm bên phải cho thấy, vợ chồng không hòa thuận, con cái không hợp cha mẹ.
– Khóe miệng trễ xuống dưới, chủ nhân là người cô đơn khi về già, xung khắc với con trai.
– Môi trên quặp vào môi dưới thường là người có tính cách hay tâm lý thiếu ổn định.
– Miệng có đường vân thẳng đứng (không phải vân môi), khóe miệng trễ xuống, chủ nhân cả đời vất vả, hay gặp rủi ro, về già cô đơn, con cái không hòa thuận, đi làm nơi xa.
– Hình dạng của miệng giống ống bễ (miệng nhọn, không thu lại, môi vẩu hở răng, khóe miệng trễ xuống) cho thấy, chủ nhân xung khắc với con gái, về già cô đơn.

2. Nam giới

bi-quyet-cham-soc-da-mua-dong-cho-nam-gioi1

– Nam giới có hình dạng của miệng lệch sang trái thường là người xung khắc với vợ. Nữ giới có miệng lệch sang phải thường là người xung khắc với chồng.
– Râu ria mọc xung quanh, che lấp miệng, chủ nhân không được hưởng phúc con cái. Nếu 65 tuổi, râu vẫn đen, tóc đen, chủ nhân xung khắc con gái, cuối đời vất vả.
– Khóe miệng có vân ngắn rẽ thành nhiều nhánh, chủ nhân về già cô độc, ít có duyên với con cái.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng miệng biết mối quan hệ trong gia đình –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd