Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Chùa Trung Hành là một ngôi chùa lớn, có bằng chứng nhận di tích lịch sử cấp quốc gia tọa lạc trên phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng.
Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trụ trì nơi đây là đại sư Sư Phúc. Chùa Trung Hành đến nay được xây dựng khang trang và thu hút nhiều lượt khách tham quan từ khắp mọi miền tổ quốc. Đặc biệt là vào ngày lễ chính được tổ chức Vào ngày 17-1 âm lịch hàng năm.

Chùa Trung Hành có tên chữ là Hưng Khánh Tự. Chùa Trung Hành thuộc phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Chùa được xây dựng khá lâu, quy mô bề thế, phong cảnh thanh u, cổ kính. Chùa đã được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1993.

Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân kiệt – nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại trên văn bia, gia phả các dòng họ. Theo lịch sử ghi chép lại thì chùa được khởi dựng từ khá sớm khoảng thời Lý – Trần. Song dấu vết vật chất còn để lại có niên đại sớm nhất là thời nhà Mạc (thế kỷ 16).

Chùa có quy mô khá lớn, có bố cục kiến trúc hình chữ 工 – Công: tam quan – gác chuông, tòa Phật điện, nhà thờ tổ, vườn bia, mộ tháp. Có thể nói chùa Trung Hành còn bảo lưu khá hoàn chỉnh về bố cục các công trình kiến trúc và quy hoạch không gian của một ngôi chùa làng thời Mạc điển hình ở Hải Phòng.

Dưới mái chùa cổ kính này, đang bảo lưu nhiều pho tượng Phật quý bằng gỗ, mang đậm phong cách dân gian với các đồ án trang trí nghệ thuật được thờ tại tòa phật điện như các pho tượng phật: Tam Thế, A Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền, Hộ Pháp,…

Đặc biệt tại đây còn lưu giữ pho tượng vị hoàng đế nhà Mạc. Tượng hoàng đế tạc bằng đá, pho tượng được đặt ở cuối Phật điện, toàn thân phủ một lớp sơn dày, trông thoáng qua giống như tượng gỗ.

Lễ hội ở chùa Trung Hành diễn ra từ ngày 16 – 18 tháng giêng âm lịch. Xưa có tục múa roi diễn lại khí thế xung quân, diệt giặc của quân đội thời Ngô Quyền. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân và du khách đến dự lễ và thưởng thức các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Trung Hành - Hải Phòng

Làm phù dâu, phù rể trong đám cưới liệu có mất duyên?

Theo các tài liệu dân gian đã để lại thì quan niệm mất duyên đã có từ lâu đời và nhằm chỉ đến những người ế, hay những người phụ nữ không lấy chồng hay đàn ông lớn tuổi mà không có vợ. Theo một số lời truyền miệng để lại thì khi làm phù dâu, phù rể có nghĩa là bạn đã bán duyên của mình cho cặp vợ chồng sắp cưới nhằm chúc họ trăm năm hạnh phúc.
Làm phù dâu, phù rể trong đám cưới liệu có mất duyên?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  >> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Tục lệ phù dâu, phù rể trong đám cưới.

Tục lệ xưa cần có phù dâu vì hôn nhân cưỡng ép, do cha mẹ định đoạt, nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục", con gái mười ba tuổi về nhà chồng đã biết gì đâu! do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.

Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.

Phù dâu, phù rể trong đám cưới ngày nay.

Đám cưới ngày xưa phải có phù đâu, không định lệ, và cũng không có danh từ "Phù rể". Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toàn là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Rất nhiều người, ngay cả cô dâu chú rể và thậm chí là chính bản thân phù dâu phù rể cho đến tận sau đám cưới cũng không hề biết được vai trò chính xác của họ. Không chỉ là bê khay rượu, mâm trầu, mà họ còn có những công việc khác ý nghĩa hơn, đem lại nhiều niềm vui hơn cho hai nhân vật chính. Trước và trong ngày cưới, cô dâu chú rể ắt hẳn phải chịu nhiều áp lực bởi nhiều yếu tố, từ những công việc chuẩn bị cho đến những bất ổn về mặt tâm lý khi sắp “phải” sống chung với “ai đó”. Nhiều người không hề bị ảnh hưởng, nhưng một số bạn lại có khả năng lâm vào trạng thái khủng hoảng, thậm chí có thể dẫn đến những trường hợp tương tự như “cô dâu chạy trốn”. Lúc này mới là lúc phù dâu phù rể cần phát huy nhiệm vụ cao cả của mình. Vì nhiệm vụ của họ là trợ giúp cô dâu chú rể trong mọi tình huống, từ chia sẻ cảm xúc, tìm hiểu dịch vụ tới sát cánh bên nhân vật chính trong suốt buổi lễ.  Những "nhân vật phụ" đó là sẽ người cùng lo lắng các công việc tổ chức đám cưới cho các cặp đôi. Họ sẽ có nhiệm vụ giúp đỡ cô dâu chú rể hết mình, từ việc đưa cô dâu đi spa thư giãn, cùng cô dâu chia sẻ cảm xúc, cùng đi chọn váy, trở thành phụ tá trong buổi chụp ảnh cưới và làm mọi điều cô dâu nhờ. Cũng tương tự, phù rể sẽ là nhân vật quan trọng với chú rể, chỉ đứng ở vị trí thứ 2 sau cô dâu. 

Số lượng của phù dâu và phù rể thường không giới hạn, cũng không quy định theo số chẵn hay số lẻ mà tùy vào quy mô đám cưới. Nhưng dù chọn bao nhiêu người, cô dâu và chú rể sẽ chọn cho mình một phù dâu chính và một phù rể chính. Đây sẽ là hai người gắn bó với uyên ương nhất. Vì vậy, cặp đôi thường nghĩ đến những người bạn, anh chị em thân thiết, gắn bó và hiểu rõ họ nhất.

Nhiệm vụ của phù dâu, phù rể trước đám cưới:

1. Góp ý giúp cô dâu chú rể chọn váy và vest cưới đẹp, phù hợp với dáng người cũng như phong cách tiệc.

2. Khi có sự khủng hoảng về mặt tinh thần, phù dâu phù rể là chỗ dựa cho cô dâu chú rể, giúp họ bình tĩnh, lấy lại cân bằng và sự vui vẻ bằng những hoạt động giải trí như xem phim, đi spa hoặc làm những gì họ thích, đồng thời xử lý những công việc đang còn dang dở như đặt tiệc, đặt ban nhạc, trang trí lễ…

3. Nếu có tiệc độc thân, phù dâu phù rể cũng sẽ là người chung vai sát cánh đứng ra giúp hai nhân vật chính tổ chức.

Nhiệm vụ của phù dâu, phù rể trong ngày cưới:

1. Hỗ trợ cô dâu thay váy cưới, quần áo và trang điểm cũng như chỉnh trang tóc tai gọn gàng. Giúp họ luôn đẹp từ đầu cho đến kết thúc lễ và tiệc. Nếu cô dâu mặc váy đuôi dài thì phù dâu sẽ là người giúp cô dâu nâng đuôi váy tiến đến đài lễ.

2. Sửa soạn, trang trí lặt vặt trong ngày cưới và liên hệ với các dịch vụ đã đặt vì lúc này 2 nhân vật chính không thể làm gì được khác ngoài việc chuẩn bị cho sự xuất hiện của mình.

3. Làm “hậu cần” về mặt lương thực nhằm đảm bảo cô dâu chú rể không bị ”lả” người khi tiếp khách. Vì bạn biết đấy, thường thì cô dâu chú rể không thể ăn được gì trong thời gian này.

4. Xếp chỗ ngồi cho khách

5. Giúp gia đình cô dâu chú rể dọn dẹp (nếu cần)

Ngoài ra, phù dâu phù rể còn có một nhiệm vụ quan trọng khác là khuấy động không khí tiệc và khuyến khích mọi người “chơi hết sức, vui hết mình”. Có như thế buổi tiệc mới diễn ra thành công.

Quan niệm “mất duyên” khi làm phù dâu, phù rể.

Theo các tài liệu dân gian đã để lại thì quan niệm mất duyên đã có từ lâu đời và nhằm chỉ đến những người ế, hay những người phụ nữ không lấy chồng hay đàn ông lớn tuổi mà không có vợ. Theo quan niệm mất duyên thì người bị mất duyên sẽ không còn cơ hội được gặp ý chung nhân của mình. Bởi họ đã làm mất đi sợi tình duyên tơ hồng do ông tơ, bà nguyệt se duyên, dẫn đến họ không có cơ hội gặp được nửa kia của mình.

Theo một số lời truyền miệng để lại thì khi làm phù dâu, phù rể có nghĩa là bạn đã bán duyên của mình cho cặp vợ chồng sắp cưới nhằm chúc họ trăm năm hạnh phúc. Tuy nhiên, thông tin này, không có thông tin chính thống hay sử sách nào ghi lại mà chỉ do người dân truyền lại khác nhau. Chính vì điều này, khiến nhiều cô gái, chàng trai rất ngại nhận lời làm phù dâu phù rể cho bạn bè hay anh em trong họ nhà mình. Rất nhiều cô gái, chàng trai đã yêu nhau hay gặp được người bạn đời của mình trong những khi nhận lời làm phù dâu, phù rể trong đám cưới.

Các cách “giữ duyên” của các phù dâu, phù rể.

Với đám cưới hiện đại ngày nay, cô dâu chú rể chuẩn bị thêm các món quà nhỏ xinh xắn để tặng những người trợ giúp đắc lực của mình. Tặng phẩm kỷ niệm ấy không nhất thiết phải đắt tiền, tốn kém mà mang ý nghĩa tinh thần nhằm thể hiện tình cảm thân thiết của những người bạn dành cho nhau.

Chắc hẳn các cặp đôi đều mong muốn món quà kỷ niệm đáng yêu ấy sẽ luôn gợi nhớ trong tâm trí bạn bè những kỷ niệm vui và khoảnh khắc hạnh phúc đáng nhớ của ngày trọng đại sau khi đám cưới kết thúc.

Hi vọng qua những chia sẻ trên, các cặp đôi sẽ không phải đối mặt với sự ngần ngại “mất duyên” khi mời các chàng trai, cô gái làm phù dâu, phù rể trong lễ ăn cưới của mình nữa.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm phù dâu, phù rể trong đám cưới liệu có mất duyên?

Màu sắc trong Phong thủy và Thời trang

Màu sắc trong phong thủy đại diện cho 5 yếu tố cơ bản của ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ lấy bản mệnh của con người làm trung tâm. Phối màu theo thuyết phong thủy & ngũ hành sinh khắc làm cân bằng giữa con người và môi trường xung quanh.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong là Gió và Thuỷ là Nước. Khái niệm Phong Thuỷ có lịch sử hàng nghìn năm. Người ta áp dụng kiến thức Phong Thuỷ trong kiến trúc, đo đạc, mỹ học, năng lượng sinh học, chiêm tinh... Thuật Phong Thuỷ được sử dụng rất rộng rãi, đặc biệt trong việc xây nhà từ lúc đào móng tới khi khánh thành, với từng chi tiết nhỏ nhất liên quan tới số mệnh con người.

Còn với thời trang - lĩnh vực khi nhắc tới là người ta nghĩ đến các nhà thiết kế, trang phục đẹp, những siêu mẫu trên tạp chí - liệu có sự kết hợp nào giữa kiến thức Phong Thuỷ cổ xưa với thời trang hiện đại ngày nay?

tien-bac-va-hanh-phuc

Thời trang Phong Thuỷ là kỹ thuật thiết kế và may mặc mới, bắt nguồn từ cảm hứng nghệ thuật cổ xưa của người Trung Quốc về cách sắp xếp, bố cục màu sắc trang phục kèm theo phụ kiện. Theo đó, các mẫu trang phục được thiết kế sao cho hoà hợp, cân bằng giữa môi trường và lợi ích con người.

Người ta coi Phong Thuỷ thể hiện ở năm màu là trắng, đen, đỏ, vàng và xanh. Năm màu – ngũ sắc này là những yếu tố cơ bản của vũ trụ và có thể được ứng dụng trong cuộc sống. Quy luật phối màu tuân theo thuyết tương sinh tương khắc trong ngũ hành. Cân bằng âm dương giữa con người là trung tâm và môi trường xung quanh làm nhiệm vụ nâng đỡ con người.

Màu sắc có thể ảnh hưởng tới tâm tính và cảm xúc. Màu sắc trang phục không chỉ tác động tới người mặc, mà còn ảnh hưởng tới những người xung quanh, hay còn gọi là hiệu ứng tâm lý màu sắc. Đây chính là một phần trong thuật Phong Thuỷ khi xem xét mối tương quan với thời trang.

Ví dụ như màu sắc tối thường gợi lại cảm giác huyền bí, nhưng cũng làm người đối diện cảm giác bất an vì sợ hãi, hăm doạ. Màu lam nhạt lại nói rằng, chủ nhân bộ trang phục là người khá mềm mỏng và thân thiện. Màu sắc rực rỡ thì có ý nghĩa sôi nổi, mong muốn xung quanh chú ý.

Nếu mang trang phục với màu sắc khiến chính người mặc không thoải mái, thì có nghĩa là màu sắc đó không phản ánh đích thực con người bên trong của chủ nhân bộ trang phục.

Thời trang Phong Thuỷ không chỉ phổ biến ở màu sắc quần áo, mà còn thể hiện ở cách phối màu trong văn phòng, ngôi nhà của bạn. Ví dụ màu nâu sẫm phù hợp với nhà bếp, trong khi màu lam nhẹ thích hợp hơn với phòng trẻ em hay studio nghệ thuật.

Màu sắc mạnh thường rất phổ biến ở những không gian tập trung đông người, trong khi màu trung tính là ý tưởng hay với phòng tắm.

Ý nghĩa của những sắc màu trang phục

Màu Xanh :

Màu xanh là màu của sinh sôi, phát triển. Vì thế, nó là màu sắc lý tưởng cho trang phục nếu người vận nó làm nghề giáo viên, hay đòi hỏi kỹ năng chuyên môn. Nó cũng tốt để thể hiện một con người tích cực, luôn hướng đến cái mới mẻ, không theo lối mòn. Hãy tránh vận bộ xanh nếu có cảm giác không thể nào ngơi nghỉ.

Màu Vàng:

Màu vàng rực rỡ là niềm vui hân hoan, màu vàng nhẹ lại là sự ổn định và vững chắc. Vận quần áo màu vàng khi muốn thể hiện sự rõ ràng, sáng sủa, cũng như là màu trang phục lý tưởng khi đưa ra các quyết định. Tránh màu này nếu cảm thấy mệt mỏi.

Màu Đỏ:

Đây là màu sắc lý tưởng để thu hút sự chú ý. Hãy mặc trang phục màu đỏ nếu đi tới cuộc thử giọng, thể hiện tác phẩm nghệ thuật hay muốn trở thành một phần không thể thiếu được ở đám đông. Hãy tránh màu này khi cảm thấy bực bội, bồn chồn.

Màu Đen:

Màu đen gợi cảm giác huyền bí, sâu kín và sức lực ghê gớm. Mang trang phục màu này khi muốn là người chỉ huy uy quyền hoặc thể hiện sự bí ẩn. Nhưng người mặc hãy tránh xa màu đen nếu bị mọi người hoài nghi về động cơ hay khi muốn được đối xử công bằng.

Màu Trắng:

Không gì mang lại cảm giác tin tưởng, tín nhiệm như màu trắng. Vận trang phục trắng khi muốn sự xuất hiện thực sự tỉ mỉ, cẩn trọng, hiệu quả và hoàn hảo. Tránh xa màu trắng nếu muốn tạo ra hình ảnh khoan hoà, dễ chịu. Màu trắng có thể thúc đẩy những âu lo, vì thế, hãy cẩn thận khi lựa chọn trang phục.

Màu Ánh Kim:

Những màu ánh kim như vàng, đồng, bạc gợi cảm hứng của sự sáng tạo. Không gì tốt hơn màu này cho trang phục nếu người mặc bận rộn với dự án mang tính nghệ thuật nào đó. Màu ánh kim dễ gợi cho người khác sự bình phẩm, vì thế hãy tránh mang trang phục màu này nếu là người nhạy cảm, hay bị tổn thương.

Ngoài màu sắc, ứng dụng kiến thức Phong Thuỷ vào thời trang, người ta còn nói tới Trí. Trí chính là năng lượng tỏa ra từ con người và tác động tới xung quanh. Trí có ảnh hưởng rất lớn đến suy nghĩ và cảm giác. Nó cũng chỉ lối dẫn đường trong sự tương tác giữa một cá nhân với thế giới xung quanh. Người ta tin rằng, Trí được quyết định bởi một phần màu sắc trang phục, đặc biệt là chất liệu, màu và kiểu dáng. Những chất liệu lý tưởng thường là cotton, lụa, lanh, len và da. Điều quan trọng cần lưu ý là, trang phục len và da không nên bó sát cũng như tiếp xúc với da.

Âm và Dương:

Da, len và lụa đều xuất phát từ nguồn gốc động vật, nên được cho là mang đặc tính Dương, thể hiện hành động, tổ chức và sự năng động. Nếu muốn tìm tới năng lượng Âm thay thế, thì tìm tới cotton và lanh (xuất phát từ thực vật). Những chất liệu Âm này thường mang đến sự giao tiếp, tính sáng tạo và độ nhạy cảm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc trong Phong thủy và Thời trang

Thôn Bát Quái - di sản trăm năm của Gia Cát Lượng

Thôn Bát Quái do hậu duệ đời thứ 27 của Gia Cát Vũ Hầu xây dựng năm 1300 hé lộ nhiều điều thú vị về trận pháp này.
Thôn Bát Quái - di sản trăm năm của Gia Cát Lượng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia Cát Lượng – nhà quân sự, địa lý phong thủy tài ba nổi tiếng khắp Á đông đã để lại cho đời Bát quái đồ - trận pháp thâm sâu và chứa nhiều bí mật.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

Thon Bat Quai - di san tram nam cua Gia Cat Luong hinh anh
 
Thôn Gia Cát hay Bát Quái, tọa lạc tại thị trấn Lan Khê được mệnh danh là "Trung Quốc đệ nhất thôn" thu hút hàng triệu khách du lịch mỗi năm không chỉ bởi những câu chuyện về vị quân sư nổi tiếng thời tam Quốc mà còn vì cấu trúc rất độc đáo của nó. 
 
Mô phỏng theo trận đồ Bát quái của Gia Cát Lượng, thôn lấy hồ Chuông (chung trì, nửa nước nửa đất) hình thái cực làm trung tâm, 8 con đường từ hồ tỏa ra thành "nội bát quái". Phía ngoài thôn lại đắp 8 tòa núi nhỏ hình thành "ngoại bát quái" bao bọc. 
 
Thon Bat Quai - di san tram nam cua Gia Cat Luong hinh anh 2
 
  Từ con đường vành khuyên ven hồ có 8 ngả đường chính dẫn ra các hướng thông với vành đai ngoài, tạo thành tám cung Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Càn.   Đường vành đai ngoài bao bọc thôn Bát Quái cao hơn mặt bằng chung của thôn, mỗi một cung lại có một gò đất khá cao, đứng từ trên gò có thể quan sát khá rõ toàn cảnh của thôn và cũng là mô hình biến hóa khôn lường của Bát Quái trận. Gia Cát Đại Sư (cháu đời thứ 27 của Gia Cát Lượng) trước khi qua đời có để di huấn là không được thay đổi nguyên dạng.   Trải qua hơn 800 năm dâu bể, lượng người trong thôn tăng lên nhiều, nhưng tổng thể cửu cung bát quái không hề thay đổi.   Trong thôn có đền thờ Thừa tướng Gia Cát Lượng, hoa viên, 3 nhà bia, 18 sảnh đường, 18 giếng, 18 ao, hơn 200 phòng ốc đều là kiến trúc cổ đời Minh, Thanh rất độc đáo.   Con cháu Gia Cát đời đời đều theo lời giáo huấn của tổ phụ "không làm lương tướng, tất làm lương y" nên nhiều đời theo nghề thuốc.   Các nhà trong thôn mặt đối nhau, đuôi liền nhau, đường nối nhau, rất thoáng mà kỳ thực kín đáo. Địa hình xung quanh nhìn giống như cái nồi, bốn phía cao, giữa thấp. Người ngoài vào thôn, nếu không có người quen dẫn đường thì lẩn quẩn không biết lối ra.   Được xây dựng từ thời Nam Tống, nhưng kiến trúc các công trình, nhà cửa của thôn Bát Quái còn bảo tồn gần như nguyên vẹn những đặc điểm nổi bật của kiến trúc thời nhà Minh. Giữa những ngôi nhà cổ có rất nhiều ngõ ngách nhỏ, nhà nọ thông sang nhà kia, khúc khuỷu quanh co, chỗ tưởng ngõ thông hóa ra lại là ngõ cụt, biến hóa tài tình dường như không theo quy luật nào.   Nhà thư pháp Gia Cát Cao Phong, cháu đời thứ 42 của Gia Cát Lượng cho biết, trong thôn "đêm không cần đóng cửa, ngoài không nhặt của rơi".   Năm 1925, chiến tranh ác liệt dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn. Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, đại quân kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này.

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thôn Bát Quái - di sản trăm năm của Gia Cát Lượng

La Tấn - Đường Yên: Cặp đôi Nhân Mã phim giả tình thật

Cặp tiên đồng ngọc nữ mới nổi của Cbiz đang làm điên đảo trái tim fan hâm mộ, câu chuyện về cặp đôi Nhân Mã La Tấn - Đường Yên.
 La Tấn - Đường Yên: Cặp đôi Nhân Mã phim giả tình thật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cặp tiên đồng ngọc nữ mới nổi của Cbiz đang làm điên đảo trái tim fan hâm mộ, câu chuyện của cặp đôi Nhân Mã La Tấn - Đường Yên đã khiến báo chí tốn không ít giấy mực.
 

La Tấn sinh ngày 30/11/1981, Đường Yên sinh ngày 6/12/1983 nên cả hai cùng có mặt trời Nhân Mã và mặt trăng Ma Kết. Sự tương đồng trong cả mặt trời và mặt trăng khiến tình yêu của cặp đôi này vừa có nhiều điểm thuận lợi cũng có nhiều khó khăn gấp đôi hơn so với bình thường. Nhìn lại hành trình 6 năm quen biết nhau La Tấn và Đường Yên có rất nhiều duyên phận nhưng cũng gặp phải rất nhiều trở ngại mới có thể đến được với nhau.
 La Tan - Duong Yen Cap doi Nhan Ma phim gia tinh that hinh anh
 
Năm 2011, La Tấn và Đường Yên cùng đóng chung Loạn thế giai nhân. Trước tin đồn tình cảm, La Tấn đã công khai phủ nhận: 'Khi đã thân quen rồi thì như hai người bạn trai với nhau'. Nhân Mã là cung hoàng đạo mang yếu tố nam tính nhiều hơn nữ tính nên các cô gái Nhân Mã thường có tính cách thẳng thắn, mạnh mẽ, vui vẽ chứ không quá bẽn lẽn, rụt rè. Vì cá tính của Đường Yên rất phù hợp với tính cách phóng khoáng của La Tấn cho nên họ đã nhanh chóng thân thiết dù mới gặp nhau không lâu.   Năm 2013, Đường Yên và La Tấn lại tiếp tục tái ngộ trong bộ phim Nữ đặc công X. Khoảng thời gian này Đường Yên vừa mới chia tay Khưu Trạch nên cô rất đau buồn và ủ rũ. La Tấn đã luôn luôn ở bên an ủi, động viên, giúp đỡ Đường Yên vượt qua khoảng thời gian khó khăn.

 La Tan - Duong Yen Cap doi Nhan Ma phim gia tinh that hinh anh
 
Bản đồ sao của La Tấn có mặt trời Nhân Mã và mặt trăng rơi vào Ma Kết nên anh là một người đàn ông bên ngoài rất ngọt ngào, lãng mạn, bên trong lại chính chắn, chu toàn biết lo nghĩ cho người khác. Cha của Đường Yên cũng rất hài lòng với La Tấn. Ông còn mang đồ ăn cho cả hai người khi họ đóng phim. Khoảng thời gian này cả La Tấn, Đường Yên vẫn một mực nói với báo chí hai người chỉ là bạn bèn. Sự kín đáo, thận trọng của Ma Kết khiến cả hai không muốn công khai tình cảm.   Duyên phận tiếp tục mở lối cho Đường Yên, La Tấn khi họ tiếp tục đóng chung hai bộ phim Người tình kim cương và Cẩm tú vị ương. Tình yêu giữa hai Nhân Mã luôn rực rỡ, đắm say và nồng cháy. Không bao giờ có thứ gì lưng chừng giữa một cặp cung Lửa cả. Bởi vậy khi tình yêu đã đủ chín mọng, đủ sức mạnh để vượt qua được bão tố thị phi thì La Tấn đã dũng cảm công khi tình yêu thương to lớn anh dành cho Đường Yên.

 La Tan - Duong Yen Cap doi Nhan Ma phim gia tinh that hinh anh
 
La Tấn đã hứa sẽ che chở, bảo vệ cho Đường Yên cả đời. Nhân Mã là người rất trọng tín nghĩa, lời hứa nên một khi họ đã nói là làm. Có thể thấy Đường Yên đã rất hạnh phúc, vui vẻ khi ở bên La Tấn. Trong những bức ảnh hẹn hò mới nhất của hai người trên môi cô lúc nào cũng nở nụ cười rạng rỡ. Sau rất nhiều đau khổ tình trường, Đường Yên đã tìm thấy một bờ vai vững chắc cho riêng mình.   Mặc dù một cặp đôi Nhân Mã này sẽ phải đối diện với những khoảng thời gian khó khăn khi họ bất đồng quan điểm, cứng đầu không ai chịu nhường ai. Nhân Mã nổi tiếng là những kẻ bốc đồng, hành động nông nổi và ích kỉ. Tuy nhiên sự chính chắn của mặt trăng Ma Kết sẽ giúp cho đứa trẻ Nhân Mã kìm hãm được tính bốc đồng, tự do thái quá.
 
Chúc cho tình yêu của cặp đôi Nhân Mã La Tấn - Đường Yên sẽ sớm có kết thúc viên mãn bằng một đám cưới hạnh phúc.

ST.

Selena Gomez - Cô nàng Cự Giải đa sầu đa cảm Cô nàng Kim Ngưu mạnh mẽ và thông minh: Nguyễn Hoàng Kiều Trinh Hai thế giới (W): Cuộc chiến bùng nổ giữa các cung hoàng đạo

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: La Tấn - Đường Yên: Cặp đôi Nhân Mã phim giả tình thật

Sao Hóa Lộc

Hành: Mộc Loại: Phúc tinh Đặc Tính: Tiền bạc, phú quý, vui mừng Tên gọi tắt thường gặp: Lộc Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa...
Sao Hóa Lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: MộcLoại: Phúc tinhĐặc Tính: Tiền bạc, phú quý, vui mừngTên gọi tắt thường gặp: Lộc
Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Vị Trí Của Sao Hóa Lộc

  • Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Dần, Mão.
  • Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu.
Hóa Lộc ở hãm địa, ít phát huy cái hay về tính tình, tài lộc, phúc thọ.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Hóa Lộc là râu. Vì Hóa Lộc chủ sự phong phú cho nên có nghĩa là nhiều râu, một đặc tính thể chất của phái nam. Do đó, còn có nghĩa là có nhiều nam tính.
  • Hóa Lộc, Tham Lang: Râu rậm, râu quai nón.
  • Hóa Lộc, Phi Liêm: Râu tóc dài, đẹp.
Tính Tình
Sao Hóa Lộc có hai ý nghĩa nổi bật nhất về mặt tâm tính:
  • Nam tính, thẳng thắn, lương thiện.
  • Năng khiếu sành về ăn uống.
Người có sao Hóa Lộc thủ Mệnh rất tinh tế trong việc ẩm thực, biết nhiều món ăn lạ, biết các thứ rượu ngon, có thể biết cả việc nấu nướng, biến chế sành điệu. Đó là người có vị giác linh mẫn, thưởng thức mùi vị các thực phẩm. Nếu đi với Tấu Thư, vị giác này càng vi diệu thêm. Đây là bộ sao rất cần cho người làm bếp, người nấu rượu ngon.
Nếu có thêm Xương Khúc hay Hóa Khoa thì đó là người sáng tác các sách gia chánh, dạy nấu ăn, chế rượu...
Công Danh Tài Lộc
Hóa Lộc là một sao tài, chủ sự phong phú về tiền bạc. Nếu đóng ở cung Tài thì hợp vị, tượng trưng cho lợi lộc về tiền bạc, sự giàu có dưới mọi hình thức (có tiền, có điền sản, có lộc ăn).
Về điểm này, Hóa Lộc đồng nghĩa với Lộc Tồn. Nếu được chính tinh sáng sủa hội họp, thì đây là một đại phú, một thế lực tài phiệt lớn.
Chính vì các nghĩa đó cho nên Hóa Lộc nói lên khả năng tạo ra tiền bạc dễ dàng và mau chóng, sự may mắn đặc biệt về tiền bạc. Thường thì đây là sao của những nhà kinh doanh, buôn bán lớn, phú thương làm giàu nhờ mậu dịch, óc thương mại phong phú và chính xác.
Đóng ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa là có cơ hội, nhiệm vụ giữ tiền, làm những công việc liên quan đến tiền bạc như thuế vụ, ngân khố, ngân hàng, kế toán. Ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa như nghề nghiệp tài chính và kinh tế.
Phúc Thọ Tai Họa
  • Hóa Lộc đơn thủ có nghĩa dư dả, giàu có. Nếu đi kèm với Tử, Phủ, Khoa, Quyền tất được hưởng phú và quý cao độ.
  • Giá trị phúc thọ của Hóa Lộc chỉ mạnh khi có cả bộ Tam Hóa đi liền (Khoa, Quyền, Lộc) hay có Tử, Phủ hội họp hay Nhật, Nguyệt sáng hội chiếu.
Những Bộ Sao Tốt
  • Hóa Lộc, Thiên Mã: Giàu có và có tài năng, thịnh đạt về công danh, giữ chức vụ cao cấp có bổng lộc cao, được người trọng nể vì tiền bạc và cả quyền tước.
  • Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền: Đây là bộ sao Tam Hóa đầy đủ nhất của con người, có nghĩa vừa có văn hóa, quyền hành, vừa có tiền bạc. Nhờ ba yếu tố căn bản đó, phúc thọ con người được tăng tiến mau lẹ, tai họa bị giảm thiểu đến tối đa. Bộ sao này có hiệu lực cải xấu thành tốt trên cả ba phương diện học vấn, quyền uy và tài lộc. Cái tốt này có tính chất liên tục, phúc sẽ đến liên tiếp, bất luận cho phái nam hay nữ.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, Thất Sát: Đây là một cách võ tướng có quyền hành lớn, hiển đạt.
  • Hóa Lộc, Cơ Lương đồng cung: Người giàu có, triệu, tỷ phú, đại tư sản; người hay bố thí, đem của làm việc xã hội.
  • Hóa Lộc, Lương ở Tý, Ngọ: Người có tài năng xuất chúng, sự nghiệp lớn lao và danh tiếng lừng lẫy.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Tướng Quân: Anh hùng, quyền quý, giàu sang.
  • Hóa Lộc, Thiên Tướng: Đẹp trai, có nhiều nam tính, có sức thu hút quyến rũ phụ nữ.
Những Bộ Sao Xấu
Bất luận sát tinh nào đi với Hóa Lộc đều phá hầu hết lợi điểm của sao này, đặc biệt là Tuần, Triệt, Không, Kiếp.
  • Hóa Lộc, Không, Kiếp: Bị phá sản, hoặc khi có khi phá. Nếu Không Kiếp đắc địa thì thủ đắc tài lộc hết sức bất ngờ và mau chóng. Nếu Không Kiếp hãm địa đi với Hóa Lộc có nghĩa làm tiền bằng các phương pháp ám muội và táo bạo như buôn lậu, tham nhũng, sang đoạt, khao của... hoặc bị người sang đoạt, cướp của.
  • Hóa Lộc, Tam Không (mệnh vô chính diệu): Giàu sang nhưng không bền, phải có lúc bại sản một lần trong đời.
  • Hóa Lộc và Lộc Tồn đồng cung: Hai sao này khắc hành (Lộc thuộc Mộc, Tồn thuộc Thổ) nên xung khắc; có tiền nhưng thường hay bị tai họa vì tiền.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có của cải, giàu có, lương thiện.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc.
  • Hay có quý nhân giúp đỡ.
  • Trong họ hoặc cha mẹ có nghề lạ lùng, khéo tay về thủ công hoặc có nghề ăn uống, chế biến sành điệu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Điền Trạch
  • Làm gia tăng lợi ích về việc mưu cầu nhà cửa, có nhiều nhà cửa.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về công danh, quan chức, thi cử, có nhiều bổng lộc, có quí nhân giúp đỡ.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã thì làm nghề thương mại thì phát tài, hoặc dễ được thăng chức, dễ có việc làm, sớm có công danh.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, đồng nghiệp tốt, được người chân tay thân tín trung thành, đắc lực.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, nhờ bạn thân mà làm nên sự nghiệp.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, nhờ vợ mà trở nên giàu có.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp được quý nhân nâng đỡ hoặc hay được mời ăn uống, tham dự lễ lộc, có lộc ăn.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được bệnh tật, có quý nhân giúp đỡ về tiền bạc, nhưng nếu có thêm sao Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì khổ sở vì tiền, bị sang đoạt, mất trộm, phá sản, nhưng đôi khi cũng có lộc bất ngờ nhưng không bền mà lại hay sinh tai họa.
  • Nếu gặp các sao tốt như Thiên Đồng, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, đau ốm gặp thầy thuốc giỏi, có tai nạn thì được người cứu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tài Bạch
  • Sao Hóa Lộc đóng trong cung Tài thì làm gia tăng sự thuận lợi về việc mưu cầu tiền bạc, làm ăn phát tài hoặc được thừa hưởng di sản, gia tài, thích ăn uống.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Thiên Cơ, Thiên Lương hay Lộc Tồn là số giàu có, triệu phú, tỷ phú, đại tư bản.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, Đà La, được hưởng của thừa tự của người trong họ, được chia gia tài.
  • Hóa Lộc, Ân Quang, thịnh đạt về công danh.
  • Hóa Lộc, Đại Hao, kiếm được nhiều tiền rồi cũng hết sạch.
  • Hóa Lộc, Mộ, may mắn bất ngờ về tiền bạc.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tử Tức
  • Làm gia tăng số lượng con cái.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có của hoặc có tài, phong lưu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em đông người, khá giả.
  • Hóa Lộc, Tướng Quân, Lộc Tồn, anh chị em có người quyền quý.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, anh chị em có người buôn bán mà làm giàu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Lộc

Thơ về tướng phụ nữ khắc sát chồng con –

Xem tướng. Đàn bà khắc sát chồng con, Mặt dầy miệng rộng, trán còn lằn ngang, Xoáy tóc trước trán mấy hàng, Mặt nhọn gân nổi lại càng xấu xa… Đàn bà khắc sát chồng con Mặt dầy miệng rộng, trán còn lằn ngang Xoáy tóc trước trán mấy hàng Mặt nhọn gân n
Thơ về tướng phụ nữ khắc sát chồng con –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thơ về tướng phụ nữ khắc sát chồng con –

Sao Hóa Quyền

Hành: Mộc Loại: Phúc tinh Đặc Tính: Tiền bạc, phú quý, vui mừng Tên gọi tắt thường gặp: Lộc
Sao Hóa Quyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Hóa là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ.
Vị Trí Của Sao Hóa Lộc

  • Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Dần, Mão.
  • Hãm địa ở các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu.
Hóa Lộc ở hãm địa, ít phát huy cái hay về tính tình, tài lộc, phúc thọ.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Hóa Lộc là râu. Vì Hóa Lộc chủ sự phong phú cho nên có nghĩa là nhiều râu, một đặc tính thể chất của phái nam. Do đó, còn có nghĩa là có nhiều nam tính.
  • Hóa Lộc, Tham Lang: Râu rậm, râu quai nón.
  • Hóa Lộc, Phi Liêm: Râu tóc dài, đẹp.
Tính Tình
Sao Hóa Lộc có hai ý nghĩa nổi bật nhất về mặt tâm tính:
  • Nam tính, thẳng thắn, lương thiện.
  • Năng khiếu sành về ăn uống.
Người có sao Hóa Lộc thủ Mệnh rất tinh tế trong việc ẩm thực, biết nhiều món ăn lạ, biết các thứ rượu ngon, có thể biết cả việc nấu nướng, biến chế sành điệu. Đó là người có vị giác linh mẫn, thưởng thức mùi vị các thực phẩm. Nếu đi với Tấu Thư, vị giác này càng vi diệu thêm. Đây là bộ sao rất cần cho người làm bếp, người nấu rượu ngon.
Nếu có thêm Xương Khúc hay Hóa Khoa thì đó là người sáng tác các sách gia chánh, dạy nấu ăn, chế rượu...
Công Danh Tài Lộc
Hóa Lộc là một sao tài, chủ sự phong phú về tiền bạc. Nếu đóng ở cung Tài thì hợp vị, tượng trưng cho lợi lộc về tiền bạc, sự giàu có dưới mọi hình thức (có tiền, có điền sản, có lộc ăn).
Về điểm này, Hóa Lộc đồng nghĩa với Lộc Tồn. Nếu được chính tinh sáng sủa hội họp, thì đây là một đại phú, một thế lực tài phiệt lớn.
Chính vì các nghĩa đó cho nên Hóa Lộc nói lên khả năng tạo ra tiền bạc dễ dàng và mau chóng, sự may mắn đặc biệt về tiền bạc. Thường thì đây là sao của những nhà kinh doanh, buôn bán lớn, phú thương làm giàu nhờ mậu dịch, óc thương mại phong phú và chính xác.
Đóng ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa là có cơ hội, nhiệm vụ giữ tiền, làm những công việc liên quan đến tiền bạc như thuế vụ, ngân khố, ngân hàng, kế toán. Ở cung Quan, Hóa Lộc có nghĩa như nghề nghiệp tài chính và kinh tế.
Phúc Thọ Tai Họa
  • Hóa Lộc đơn thủ có nghĩa dư dả, giàu có. Nếu đi kèm với Tử, Phủ, Khoa, Quyền tất được hưởng phú và quý cao độ.
  • Giá trị phúc thọ của Hóa Lộc chỉ mạnh khi có cả bộ Tam Hóa đi liền (Khoa, Quyền, Lộc) hay có Tử, Phủ hội họp hay Nhật, Nguyệt sáng hội chiếu.
Những Bộ Sao Tốt
  • Hóa Lộc, Thiên Mã: Giàu có và có tài năng, thịnh đạt về công danh, giữ chức vụ cao cấp có bổng lộc cao, được người trọng nể vì tiền bạc và cả quyền tước.
  • Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền: Đây là bộ sao Tam Hóa đầy đủ nhất của con người, có nghĩa vừa có văn hóa, quyền hành, vừa có tiền bạc. Nhờ ba yếu tố căn bản đó, phúc thọ con người được tăng tiến mau lẹ, tai họa bị giảm thiểu đến tối đa. Bộ sao này có hiệu lực cải xấu thành tốt trên cả ba phương diện học vấn, quyền uy và tài lộc. Cái tốt này có tính chất liên tục, phúc sẽ đến liên tiếp, bất luận cho phái nam hay nữ.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, Thất Sát: Đây là một cách võ tướng có quyền hành lớn, hiển đạt.
  • Hóa Lộc, Cơ Lương đồng cung: Người giàu có, triệu, tỷ phú, đại tư sản; người hay bố thí, đem của làm việc xã hội.
  • Hóa Lộc, Lương ở Tý, Ngọ: Người có tài năng xuất chúng, sự nghiệp lớn lao và danh tiếng lừng lẫy.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Tướng Quân: Anh hùng, quyền quý, giàu sang.
  • Hóa Lộc, Thiên Tướng: Đẹp trai, có nhiều nam tính, có sức thu hút quyến rũ phụ nữ.
Những Bộ Sao Xấu
Bất luận sát tinh nào đi với Hóa Lộc đều phá hầu hết lợi điểm của sao này, đặc biệt là Tuần, Triệt, Không, Kiếp.
  • Hóa Lộc, Không, Kiếp: Bị phá sản, hoặc khi có khi phá. Nếu Không Kiếp đắc địa thì thủ đắc tài lộc hết sức bất ngờ và mau chóng. Nếu Không Kiếp hãm địa đi với Hóa Lộc có nghĩa làm tiền bằng các phương pháp ám muội và táo bạo như buôn lậu, tham nhũng, sang đoạt, khao của... hoặc bị người sang đoạt, cướp của.
  • Hóa Lộc, Tam Không (mệnh vô chính diệu): Giàu sang nhưng không bền, phải có lúc bại sản một lần trong đời.
  • Hóa Lộc và Lộc Tồn đồng cung: Hai sao này khắc hành (Lộc thuộc Mộc, Tồn thuộc Thổ) nên xung khắc; có tiền nhưng thường hay bị tai họa vì tiền.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phụ Mẫu
  • Cha mẹ là người có của cải, giàu có, lương thiện.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phúc Đức
  • Được hưởng phúc.
  • Hay có quý nhân giúp đỡ.
  • Trong họ hoặc cha mẹ có nghề lạ lùng, khéo tay về thủ công hoặc có nghề ăn uống, chế biến sành điệu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Điền Trạch
  • Làm gia tăng lợi ích về việc mưu cầu nhà cửa, có nhiều nhà cửa.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Quan Lộc
  • Gia tăng sự thuận lợi về công danh, quan chức, thi cử, có nhiều bổng lộc, có quí nhân giúp đỡ.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã thì làm nghề thương mại thì phát tài, hoặc dễ được thăng chức, dễ có việc làm, sớm có công danh.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Nô Bộc
  • Bè bạn, đồng nghiệp tốt, được người chân tay thân tín trung thành, đắc lực.
  • Hóa Lộc, Hóa Quyền, nhờ bạn thân mà làm nên sự nghiệp.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, nhờ vợ mà trở nên giàu có.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Thiên Di
  • Ra ngoài hay gặp được quý nhân nâng đỡ hoặc hay được mời ăn uống, tham dự lễ lộc, có lộc ăn.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tật Ách
  • Giải trừ được bệnh tật, có quý nhân giúp đỡ về tiền bạc, nhưng nếu có thêm sao Tuần, Triệt, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì khổ sở vì tiền, bị sang đoạt, mất trộm, phá sản, nhưng đôi khi cũng có lộc bất ngờ nhưng không bền mà lại hay sinh tai họa.
  • Nếu gặp các sao tốt như Thiên Đồng, Thiên Lương, Tử Vi, Thiên Phủ, đau ốm gặp thầy thuốc giỏi, có tai nạn thì được người cứu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tài Bạch
  • Sao Hóa Lộc đóng trong cung Tài thì làm gia tăng sự thuận lợi về việc mưu cầu tiền bạc, làm ăn phát tài hoặc được thừa hưởng di sản, gia tài, thích ăn uống.

  • Hóa Lộc, Thiên Mã, Thiên Cơ, Thiên Lương hay Lộc Tồn là số giàu có, triệu phú, tỷ phú, đại tư bản.
  • Hóa Lộc, Hồng Loan, Đà La, được hưởng của thừa tự của người trong họ, được chia gia tài.
  • Hóa Lộc, Ân Quang, thịnh đạt về công danh.
  • Hóa Lộc, Đại Hao, kiếm được nhiều tiền rồi cũng hết sạch.
  • Hóa Lộc, Mộ, may mắn bất ngờ về tiền bạc.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Tử Tức
  • Làm gia tăng số lượng con cái.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Phu Thê
  • Người hôn phối có của hoặc có tài, phong lưu.
Ý Nghĩa Hóa Lộc Ở Cung Huynh Đệ
  • Anh chị em đông người, khá giả.
  • Hóa Lộc, Tướng Quân, Lộc Tồn, anh chị em có người quyền quý.
  • Hóa Lộc, Thiên Mã, anh chị em có người buôn bán mà làm giàu.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hóa Quyền

Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ, tu vi Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ, tu vi Phong thủy phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ

Phong thủy phòng ngủ và những điều cấm kỵ là điều được nhiều người quan tâm bởi phòng ngủ chính là nơi gia chủ nghỉ ngơi và đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sức khỏe, may mắn, hạnh phúc gia đình. Dưới đây là những đồ vật không nên đặt vào phòng ngủ, tham khảo nhé!

Dao, kiếm

nhung-do-vat-khong-nen-de-trong-phong-ngu

Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ

 

Dao, kiếm là những thứ đại kỵ trong phòng ngủ vì sát khí rất nặng, dễ gặp áp lực công việc, đau đầu, bất an, thậm chí bị thương… vì vô ý đụng vào.

 

Nhiều người có sở thích sưu tầm dao, kiếm và coi đó là một thú vui của cuộc sống, thậm chí để thỏa ý thích họ còn bày chúng trong phòng ngủ để “tiện ngắm”. Tuy nhiên, theo phong thủy đó là những thứ đại kỵ trong phòng ngủ vì sát khí rất nặng, dễ gặp áp lực công việc, đau đầu, bất an, thậm chí bị thương… vì vô ý đụng vào.

Di ảnh người quá cố

Không nên đặt di ảnh người đã mất trong phòng ngủ vì dễ khiến cho gia chủ mộng mị, bóng đè, không tốt cho sức khỏe và giấc ngủ. Nên đặt di ảnh ở phòng khách, ban thờ hay một nơi yên tĩnh, sạch sẽ để tiện thờ phụng, cúng bái.

Di vật, cổ vật

Chúng ta biết rằng, di vật hay cổ vật là những đồ vật quý báu và có giá trị. Do vậy, ai cũng muốn trưng bày, cất giữ ở chốn riêng tư. Lúc này, phòng ngủ dường như là một lựa chọn thích hợp nhưng thực tế, điều đó khiến tâm trí gia chủ bất an, hay mơ kỳ quái và mất tinh thần làm việc…

 

Tượng Phật, thần

Với góc độ tín ngưỡng và sự tôn kính lễ giáo thì đặt tượng thần, Phật trong phòng ngủ là điều đại kỵ. Còn trong phong thủy thì đó lại là cách “cất giấu” tài lộc, may mắn, khiến công danh sự nghiệp của bạn luôn chỉ ở mức trung bình.

Bể cá

nhung-do-vat-khong-nen-de-trong-phong-ngu

Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ

 

Việc đặt bể cá, bồn rửa mặt, treo tranh vẽ hồ nước, sông, suối, biển… trong phòng ngủ dễ gây hiểu lầm, bất hòa, ngủ không yên giấc…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những đồ vật không nên để trong phòng ngủ - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 5

Hãy cùng tìm hiểu xem 3 con giáp nhiều tiền nhất trong tháng 5 này là ai nhé, bạn sẽ cảm thấy vô cùng bất ngờ nếu có mình trong đó.
3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 5

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Trong tháng này, tuy duy sáng tạo của người tuổi Tuất đạt tới mức đỉnh điểm. Bạn sẽ nghĩ ra nhiều trò hay ho để rinh về khoản tiền lớn cho mình. Khả năng “tiền đè chết người” rất cao, hãy chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận.

    1. Tuổi Tỵ   Người tuổi Tỵ không gặp nhiều may mắn trong khoảng từ đầu năm tới giờ. Nhưng, bước sang tháng 5, mọi thứ chuyển biến theo hướng vô cùng tích cực. Có thể nói, tháng 5 chính là tháng bắt đầu của vận khí tươi đẹp.  
3 con giap nhieu tien nhat thang 5 hinh anh
 
Sự nghiệp của con giáp này trong năm Khỉ gặp khá nhiều trờ ngại. Tuy nhiên, bắt đầu từ tháng 5 trở đi, vận thế sẽ thay đổi bất ngờ, không những gặp quý nhân tương trợ, gặt hái nhiều thành công, mà cả đường tình duyên cũng thăng cấp không ngừng.    Nhưng nên nhớ, làm gì cũng phải tự tin vào chính mình, tối kị việc bỏ dở giữa chừng, kiên định tới cùng, nắm bắt cơ hội, tài lộc phát càng thêm phát. Đây là một trong những con giáp nhiều tiền nhất tháng 5, rất đáng ngưỡng mộ.   2. Tuổi Ngọ  
3 con giap nhieu tien nhat thang 5 hinh anh 2
 
Thích tự do bay nhảy, yêu cuộc sống hòa bình, tự do tự tại là điểm thường thấy ở người tuổi Ngọ. Bước vào tháng 5, cũng là đầu mùa hạ, người tuổi Ngọ gặp được nhiều quý nhân tương trợ, vận thế vượng phát bất ngờ.    Dù là việc lớn hay nhỏ, nếu nỗ lực theo đuổi tới cùng, chắc chắn bạn sẽ thành công. Sợ tới lúc “tiền đè chết người” rồi bạn lại phải lo cách quản lý tài chính của mình.   3. Tuổi Tuất  
con giap tien de2
 
So với những con giáp khác, vận thế của người tuổi Tuất trong năm Bính Thân rất khả quan. Nhất là khi bước vào tháng 5, tài vận của con giáp này không ngừng tăng mạnh. Tuy không được nhiều quý nhân giúp đỡ, nhưng tự bản thân họ cũng luôn cố gắng để đạt được mục tiêu đã đề ra.    Trong tháng này, tuy duy sáng tạo của người tuổi Tuất đạt tới mức đỉnh điểm. Bạn sẽ nghĩ ra nhiều trò hay ho để rinh về khoản tiền lớn cho mình. Khả năng “tiền đè chết người” rất cao, hãy chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận.  
► Xem thêm: Quiz vui để biết những điều thú vị về bạn

Ngân Hà    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp nhiều tiền nhất tháng 5

Các lễ hội ngày 10 tháng 2 Âm Lịch - Hội Chử Đồng Tử

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 10 tháng 2 âm lịch Hội Làng An Thái,Hội An Hòa,Hội Yên,Hội Rước Nước Trên Sông Hồng,Hội Chử Đồng Tử...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 10 tháng 2 Âm Lịch - Hội Chử Đồng Tử

Các lễ hội ngày 10 tháng 2 Âm Lịch - Hội Chử Đồng Tử

1. Hội Làng An Thái

Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: làng Yên Thái, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: Nhằm ton vinh Vũ Phục - Chiêu Ứng Đại Vương và Thuận Chính Phương Dung công chúa (Ông Dầu, Bà Dầu).

Nội dung: mở đầu là hội lễ tế Thành Hoàng, tiếp đó là các hoạt động vui chơi hấp dẫn: thi nấu xôi dẻo, thịt bò thui, cơm nếp, gà mái, ghẹ luộc; ngoài ra còn có các trò chơi đu tiên, thi cây hoa, cây cảnh xuân.

2. Hội An Hòa

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành Phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh Lý Nhân Tông, Vạn Phúc phu nhân, Tứ Nàng phu nhân (con vua Lý Nam Đế), Bạch Hạp tam giang.

Nội dung: Hội An Hòa có phần lễ và phần hội. Phần lễ có tế nam quan, tế nữ quan. Phần hội có chơi cờ tướng, thi chọi gà.

Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh Bạch Hạc Tam Giang, Túc Chinh công chúa.

Nội dung: ngày hội có kết chạ với các làng lân cận - phần tế lễ có phần dâng hương để cúng thành hoàng làng, với lễ vật chỉ cúng bằng cơm tẻ, muối vừng. Phần hội có chơi trò trận giả ném cát.

3. Hội Yên

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn hai vị tướng tài giỏi của Việt vương Triệu Quang Phục là Trương Hống và Trương Hát.

Nội dung: Hội Yên diễn ra lễ cầu mùa (cầu mong mùa màng bội thu), hát quan họ, chạy (kéo) chữ, chơi cướp cầu.

4. Hội Rước Nước Trên Sông Hồng

Thời gian: tồ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: xã Bình Minh, Mễ Sở, Dạ Trạch thuộc huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tưởng nhớ đức thánh Chử Đồng Tử, Tiên Dung.

Nội Dung: Lễ rước nước, năm nào cũng được tiến hành trên một dải sông Hồng. Theo tục lệ, nước dùng để cúng bái cho cả năm phải là nước được lấy ở giữa sông Hồng. Đi hầu các đám rước là một hoặc hai con rồng vàng lộng lẫy và uy nghi uốn lượn theo nhịp trống phách. Tiếp đó đến đội tế nữ của các bà, các cô xiêm áo rực rỡ, sau đó là bát bửu chấp kích, đội múa bồng vừa đi vừa đánh trống và vừa múa, rồi đến kiệu thánh và kiệu rước chóe để lấy nước sông Hồng.

Lễ rước là một nghi thức tâm linh rất đặc sắc biểu hiện tín ngưỡng cầu nước của những cư dân của nền văn minh lúa nước ven sông Hồng. Khi tận mắt chứng kiến mọi hoạt động trong lễ: múa rồng, rước cá, chèo thuyền, rước nước,... sẽ cảm nhận một điều là mọi hoạt động ấy đều có liên quan đến nước.

Thông qua nghi thức rước nước, người dân mong muốn được mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

5. Hội Chử Đồng Tử

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Đền Đa Hòa và đền Dạ Trạch, huyện khoái Châu tình Hưng Yên.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh Chử Đồng Tử và hai vị phu nhân Tiên Dung Công Chúa và Tây Sa công chúa.

Nội dung: lễ hội Chử Đồng Tử được tổ chức ở hai ngôi đền: Đền Hoa Đà và đền Dạ Trạch.

Đền Hoa Đà: Từ sáng sớm ngày mùng 10 tháng 2, cuộc rước kiệu của 8 xã được xuất phát từ nhiều hướng theo đê sông Hồng tiến về đền Đa Hòa. Đoàn rước của các xã mỗi khi gặp nhau đều có nghi thức chào nhau. Khi đoàn rước tới xã Đa Hòa (nơi có đền Đa Hòa) thì đoàn rước ở Đa Hòa sẽ ra nghên đón và nhập vào thành một đoàn rước lớn tiến về đền làm lễ. Sau khi an vị thánh tại ban thờ các tôn thần, tất cả mọi người sẽ ra sân đại tế để làm lễ khai hội. Sau lễ khai hội, dâng hương là các trò chơi dân gian, các trò chơi vui được diễn ra cả ngày lẫn đêm.

Tại Đền Dạ Trạch: Sáng ngày mùng 10 tháng 2, đoàn rước nước của xã Dạ Trạch và 4 xã bạn (Hàm tử, Yên Phú, Đông Tảo, Tứ Dân) được cử hành từ đền Dạ Trạch tiến về phía sông Hồng lấy nước.

Một cuộc trình diễn du thuyền trên sông và làm lễ lấy nước ở giữa sông Hồng. Kết thúc việc lấy nước đoàn rước lên bờ và rước nước về đền và tiến hành khai hội. Sau khi kiệu rước nước được đưa vào an vị trong đền các kiệu rước Thánh an vị tại sân đền, đội hình ổn định, các đại biểu đến dự đầy đủ. Đoàn rồng tiến qua cầu Tiến vào cửa đền cúi lạy Thánh sau đó lui ra, đoàn múa sinh tiền, múa nón biểu diễn trên cầu. Sau lễ khai hội có nhiều hoạt động vui chơi, múa hát... được tổ chức.

6. Hội Bà Thu Buồn

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh Bà Thu Buồn (người chăm).

Nội dung: Lễ hội vô cùng độc đáo với các phần tế lễ, đua thuyền tranh tài, rước cộ. Bên cạnh đó hội còn diễn ra các trò chơi vui dân gian như: hát hò khoan đối đáp Thu Bồn Đông, hô hát bài chòi tại chợ Tu Bồn, thi đấu thể thao, cờ người, làm bánh, thi dội nước, gùi nước, gánh nước, kéo co, bắn nỏ, đi cà kheo, thi bơi thuyền, chợ ẩm thực với đa dạng các món ăn dân tộc Cà Tu, Chăm... Đêm giữa hội có rước đuốc và thả hoa đăng trên sông, đốt lửa trại hát tuồng.

7. Hội Dinh Võ

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Đền Dinh Cô, thị trấn Long Hải, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Dinh Cô (một trinh nữ chết nước).

Nội dung: từ rạng sáng ngày mùng 10 tháng 2 người ta đã bắt đầu viếng Cô. Mỗi người thường cầm trong tay một cành huệ trắng tượng trưng cho sự thành khiết. Đêm ngày mùng 10 tháng 11 là đêm hội hoa đăng, ánh đèn sáng rực hòa cùng ánh trăng. Hàng vạn ghe thuyền quay mũi về Dinh chầu Cô, tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng thâu đêm.

Lễ chính được tổ chức từ rạng sáng ngày 12. Từ chính điện, đoàn người chỉnh tề cờ quạt ra bãi, lên thuyền, ra khơi làm lễ "Nghinh Cô" rất long trọng. Đặc biệt, trong lễ "Nghinh Cô" còn duy trì được hình thức diễn xướng "Hát bả trạo". "Hát bả trạo" có nghĩa là hát có nắm mai chèo, một thể loại dân ca nghi lễ phổ biến của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên (cũ) đến Bính Thuận. Ngư dân thường tổ chức hát bả trạo trong nghi lễ đưa ma Cá Ông. Ở Long Hải, hát bả trạo lại gắn với lễ "Nghinh Cô".

8. Hội Nghinh Ông

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Đình Thắng Tam, đường Hoàng Hoa Thám, phường 2, thành phố Vũng Tàu.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Cá Ông.

Nội dung: Lễ hội Nghinh Ông bắt đầu từ sáng sớm với một đoàn người gồm các vị kì lão, kỳ hương... Lên một chiếc ghe lớn (có trang trí hoa, cờ, bàn thờ và bài vị thủy tướng, có đoàn nhạc ngũ âm, chiêng, trống và đội múa lân rộn ràng) đi đến 1 địa điểm đã định để dâng hương, rượu. Sau đó, đoàn thuyền về rước Ông đến lăng, tiếp đến là các lễ cúng Tiền Hiền, Hậu Hiền, đọc văn tế, sắc phong, học trò dâng trà, hoa, rượu... Ngoài ra, trong lễ hội còn có các tiết mục: Võ thuật, múa lân, hát Bội... cùng với nhịp điệu hòa âm của chiêng, trống trong khói hương nghi ngút.

Lễ hội Nghinh Ông là dịp cho ngư dân cầu mong bình yên khi đi biển, đánh bắt được nhiều tôm cá, cuộc sống được no ấm và thịnh vượng, hạnh phúc trường tồn.

9. Lễ Kì Yên (Ở Đình Bình Đông)

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 14 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: Phường 7, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn các bậc dạy (tổ nghề) thôn trong.

Nội dung: Đình Bình Đông nằm trên bờ rạch Bà Tàng, là một trong hai ngôi đình có lượng khách tham quan, lễ bái đông nhất thành phố. Lễ Kỳ Yên thượng diễn ra các hoạt động như: lễ cúng tiên sư tưởng nhớ những bậc thầy dạy nghề trong thôn, lễ tụng kinh cầu an theo nghi thức Phật Giáo , hoàn sắc, lễ tế thần, lễ tế tiền Hiền, Hậu hiền là thế hệ khai hoang lập ấp và xây dựng các công trình phúc lợi cho thôn làng. Phần hội thì có hát bội cúng thần.

10. Hội Đền Sòng

Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 26 tháng 2 âm lịch (chính hội là ngày 25 tháng 2).

Địa điểm: phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

Đối tượng suy tôn: Nhằm tưởng nhớ tới bà mẫu Liễu Hạnh một trong tứ bất tử của người Việt Nam.

Nội dung: Ngày chính hội diễn ra từ 5 giờ sáng kết thúc vào khoảng 12 giờ trưa, nhưng tất cả mọi việc phải chuẩn bị từ trước đó một tháng.

Lễ hội Đền Sòng gồm cả phần lễ và phần hội.

Phần lễ chính là rước Thánh Mẫu từ Đền Sòng đến Đền Chín Giếng và tế nữ quan. Thủ tục trong lễ hội không nhiều nhưng được cắt đặt chặt chẽ và theo một qui trình nhất định. Vật lễ gồm hoa quả, bánh kẹo, xôi gà, xôi thịt. Một số địa phương quanh vùng còn làm nhiều thứ bánh như bánh chưng, bánh lá răng bừa, bánh nếp, bánh mật, bánh trôi đem tới dâng lễ.

Việc cúng lễ, theo tài liệu xưa ghi lại thuộc phụ nữ đảm nhiệm, gọi là Bà Đồng. Bà Đồng thường là những người sống độc thân từ hồi còn trẻ, tự nguyện làm nghề đồng và coi giữ ngôi đền Thánh Mẫu, hầu Mẫu, hầu Thánh bằng nhiều hình thức như lên đồng, nhảy đồng... còn đàn ông thường chỉ đánh đàn và hát chầu văn. Trong thời gian mở hội các bà đồng phải sống riêng biệt: ở ẩn và ăn chay để giữ cho lòng mình luôn thanh sạch.

Ngày nay việc cúng tế không chỉ do phụ nữ đảm nhiệm mà thuộc về các Bản hội. Có nhiều bản hội tới tế lễ như bản hội bà Sang, bà Toàn, ông Hào.v.v... Các bản hội thường tổ chức chuẩn bị và tập luyện trước kỳ khai hội khoảng một tháng. Ngoài ra còn có bản hội ở các tỉnh, thành phố khác về hội lễ như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định...

Trình tự cuộc tế lễ như sau: Già làng Cổ Đạm sau khi thắp một tuần nhang cáo yết cầu Thánh ban cho dân làng một năm an khang vật thịnh... thì bắt đầu tổ chức rước Mẫu. Tượng Thánh Mẫu được ngự kiệu từ chính tẩm rước qua cung Đệ nhị, Đệ tam và rước quanh đền. Việc rước này theo quan niệm của nhân dân là để cho Thánh Mẫu có thể quan sát lại cảnh vật, đất đai, sông núi xưa...

Đi trước đoàn rước là chiêng, trống, rồi đến bàn thờ đặt những lễ vật và đồ tế khí (chỉ có bà đồng mới có đặc ân được gánh trên vai những thứ thiêng liêng ấy). Trên bàn thờ bày biện đồ cúng tế, hòm đựng những đồ giấy màu vàng óng ánh và tô màu sắc tượng trưng cho quần áo, hoa khăn của Thánh Mẫu, tiếp theo sau là kiệu Thánh Mẫu. Mười sáu cô gái đồng trinh trang phục quần áo sặc sỡ đi giật lùi trước kiệu của Đức Thánh Mẫu. Sau kiệu cũng có mười sáu cô gái đồng trinh giơ cao những lư hương, tung hoa, cầm tán che cho kiệu. Các cô gái được chọn tham gia tế lễ đều là những thiếu nữ tuổi từ 14 đến 16 tuổi, nết na, xinh đẹp, gia đình hòa thuận, an khang. Sau khi rước Thánh Mẫu vào chính tẩm an vị, bắt đầu vào tế nữ quan, cuộc tế kéo dài tới nửa ngày.

Phần hội là những trò chơi như đánh vật, võ công, thi hát đối chầu văn. Trước kia các trò chơi tương đối phong phú như múa rồng, đánh cờ, đánh vật, đánh đu, leo dây, múa sư tử. Ngày nay do thời gian buổi lễ rút ngắn lại nên các trò chơi theo đó cũng giảm dần, chỉ giữ lại một số trò độc đáo.

Sau khi được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa, thắng cảnh Đền Sòng thuộc sự quản lí của Ban văn hóa thị xã Bỉm Sơn. Lễ hội Đền Sòng được thị xã đứng ra tổ chức qui củ hơn nhằm giảm bớt chi phí không cần thiết mà vẫn đảm bảo giá trị cổ xưa của nó.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 10 tháng 2 Âm Lịch - Hội Chử Đồng Tử

Vun vén hạnh phúc lứa đôi nhờ phong thủy

Những thay đổi nhỏ trong nhà cũng có thể mang đến cho bạn may mắn và mặn nồng hơn trong tình yêu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mở cửa trước

Mọi năng lượng, kể cả sự lãng mạn chảy vào nhà bạn qua cửa chính, vì vậy hãy mở rộng cửa thường xuyên hơn để đón nhận tình yêu. Nếu bạn muốn tìm kiếm tình yêu mới, hãy loại bỏ năng lượng trì trệ bằng cách dọn dẹp đống lộn xộn gần cửa, và chuẩn bị sẵn sàng cho ai đó đặc biệt gõ cửa nhà bạn.

2. Đặt hoa hồng trong phòng ngủ


Theo phong thủy, màu hồng là màu của tình yêu vô điều kiện, trong khi trắng là màu của sự khởi đầu. Đặt 2 bông hoa hồng không gai trong một lọ trắng trên chiếc bàn cạnh giường, hoặc nơi nào bạn có thể nhìn thấy như bàn trang điểm, tủ nhỏ... Những màu này kết hợp với hoa hồng – hoa của sự lãng mạn, sẽ thúc đẩy tình yêu nảy nở.

3. Đặt bát đựng quả lê trong bếp

Bếp vẫn được coi là trái tim của ngôi nhà, đặt những quả lê mọng nước trong một bát to trên bàn bếp sẽ tạo ra cảm hứng cũng như hành động để tìm kiếm một đôi hoàn hảo.

4. Tạo sự cân bằng trong các đồ nội thất


Hãy tạo nên một lời mời chào đối với phe khác giới, đặc biệt trong phòng đầu tiên mà khách sẽ bước vào. Nhìn quanh xem có gì đó thu hút sự chú ý của cánh đàn ông (chẳng hạn như mẫu hoa văn nam tính, phong cách trang trí ấn tượng).

Nội thất trong phòng ngủ cũng quan trọng. Nếu bạn độc thân và muốn thu hút bạn khác giới, hãy xem lại cách sắp xếp trong phòng: Liệu bạn chỉ có một chiếc ghế? Chồng gối xếp lệch một bên giường? Việc tạo ra cảm giác như có ai đó đang chung sống với mình sẽ giúp cho giấc mơ dễ thành hiện thực.

Còn nếu bạn đã có bạn đời, có thể làm tình yêu nồng nàn hơn bằng cách trải giường bằng ga màu đỏ. Theo phong thủy, màu đỏ là chất xúc tác của tình yêu.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vun vén hạnh phúc lứa đôi nhờ phong thủy

Có nên làm hồ cá dưới gầm cầu thang? –

Nhiều người cho rằng làm một hồ cá cảnh dưới gầm cầu thang là không tốt. Về nguyên tắc phong thủy, gầm cầu thang thuộc vùng âm, tối, nhiều bụi và ẩm tù đọng, không thuận lợi để bố trí các sinh hoạt hàng ngày vốn mang tính Dương và cần thoáng đãng. Do

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người cho rằng làm một hồ cá cảnh dưới gầm cầu thang là không tốt. Về nguyên tắc phong thủy, gầm cầu thang thuộc vùng âm, tối, nhiều bụi và ẩm tù đọng, không thuận lợi để bố trí các sinh hoạt hàng ngày vốn mang tính Dương và cần thoáng đãng.

be-ca-gam-cau-thang

Do đó, trong nhà ở phố thị, nếu vì diện tích eo hẹp thì có thể tận dụng không gian gầm thang để làm kho hay tủ đồ (cũng thuộc âm) hoặc phòng vệ sinh (tất nhiên phải tính toán khoảng thoát đầu dưới thang và chỉ là dạng vệ sinh phụ). Còn hồ cá hay hồ nước làm cảnh vốn thuộc hành Thủy, linh động và cần thoáng đãng hơn vì đây không chỉ là nơi nuôi cá mà còn dành cho việc nhìn ngắm, chăm sóc cá, tính dương nhiều hơn. Làm hồ cá dưới gầm thang dễ dẫn đến việc nơi này vốn ẩm càng thêm ẩm, góc chéo thang khó thao tác dọn rửa thường xuyên.

Tuy nhiên, nếu cầu thang thuộc loại thoáng (xương cá chẳng hạn) hoặc cầu thang ngoài trời thì yếu tố dương quang (ánh sáng mặt trời) được bổ sung, hoàn toàn có thể làm được hồ cá hay hồ nước bên dưới. Vì vậy, bạn cần xem xét cụ thể cấu trúc cầu thang để tìm ra cách thức làm hồ cá nhà mình sao cho phù hợp với phong thủy và tiện dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Hiện nay hầu như ít nhà nào còn làm hồ cá cảnh – non bộ dưới gầm thang vì những nguyên nhân kể trên, có chăng là dạng hồ khô kết hợp tiểu cảnh xếp đặt một cách nhẹ nhàng, dễ thay đổi khi cần thiết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên làm hồ cá dưới gầm cầu thang? –

Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Vùng kín trên cơ thể là chỗ riêng tư ít người để ý, song lại tiết lộ khá nhiều điều về vận thế con người. Cùng thử xem tướng vùng kín để đoán biết tương lai nh
Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vùng kín trên cơ thể là chỗ riêng tư ít người để ý, song lại tiết lộ khá nhiều điều về vận thế con người. Cùng thử xem tướng vùng kín để đoán biết tương lai bạn nhé.  


Xem tướng vùng kín: "Núi đôi"

 
Xem tuong vung kin - Tuong Nguc
 

Về hình dáng "núi đôi": 


1. Tròn đầy: Trước tiên nói về vẻ bề ngoài, nếu vòng này càng tròn trịa thì càng tốt, nếu có thể tròn đầy như 2 bát ăn cơm úp ngược thì đó là tướng phụ nữ lấy được chồng “đại gia”, điều kiện kinh tế rất tốt. Còn nếu chỉ tròn dạng bán nguyệt, hai bên cân nhau thì đường hôn nhân rất tốt, quan hệ vợ chồng hòa hợp, tuy không phải tướng “quý phu nhân” nhưng vợ chồng đồng tâm, vận trình sẽ dần khởi sắc.
  2. Nhỏ, hình dáng như trứng ốp la: Người phụ nữ vận phu thê rất tốt, sẽ tìm được cho mình người chồng vô cùng tương xứng, cuộc sống sau hôn nhân thuận lợi, được chồng yêu chiều, con cái ngoan ngoãn hiếu thảo, cũng không xảy ra bất đồng với bố mẹ chồng mà ngược lại quan hệ còn rất tốt, cuộc sống bình an hạnh phúc.   3. To đầy: Nếu sở hữu "núi đôi" to đầy, viên mãn thì đó cũng chính là thân hình ma quỷ, tuy đẹp nhưng không lành. Người này đường tình cảm thường gặp nhiều trắc trở. Nếu có thể lấy người hơn mình 10 tuổi trở lên hoặc đã qua một lần đò, hoặc đàn ông nước ngoài thì cuộc sống sẽ không đến nỗi nào. Còn ngược lại, nếu kết hôn với người đàn ông không đủ mạnh mẽ thì mối quan hệ vợ chồng, con cái, gia đình đều không được tốt, cuộc sống kém hạnh phúc.
 
4. To vừa phải, hướng ra bên ngoài: Đây còn được gọi là "núi đôi" Đông Tây, hướng ra ngoài và cách xa nhau. Người này cung phu thê không được tốt, khó tìm được người chồng như ý, duyên phận với gia đình cũng không được sâu sắc. Sau khi kết hôn rất dễ có kẻ thứ ba xen vào phá vỡ hạnh phúc gia đình.   5. Gầy nhỏ: Người có "núi đôi" như thế này thì tâm địa thường hẹp hòi, tính cách có phần bi quan tiêu cực, có tâm cơ. Người này khá nhỏ mọn, hay ghi thù, các mối quan hệ xã hội không được tốt, khả năng sinh sản cũng kém, khó về đường con cái. Cuộc sống của họ thường vất vả, họ là người bảo thủ trong chuyện tình cảm, cũng không có nhiều đào hoa, tuy cũng có người theo đuổi nhưng thường gặp nhiều trắc trở, đối tượng yêu đương cũng là người gầy yếu.   6. Nhọn vểnh: Đây là người khá cứng rắn và mạnh mẽ, có tham vọng gây dựng sự nghiệp. Họ làm việc rất giỏi, giải quyết mọi chuyện đâu ra đấy, là người phóng khoáng, có quan hệ xã giao tốt. Duyên con cái khá vượng. Họ đòi hỏi cao về chất lượng cuộc sống, tuy kiếm tiền vất vả nhưng thường rất thoải mái chuyện tiền bạc. Trong chuyện tình cảm, họ khá cẩn trọng, song là người đào hoa, được nhiều người khác phái để ý. Tuy nhiên, quan hệ giữa họ thường phát triển thành tình bạn nhiều hơn là tình yêu. Người này kết hôn khá muộn, họ cũng là người nắm thế mạnh trong gia đình. Đối tượng yêu đương của họ cũng là những người khá tài giỏi, tinh anh trong xã hội.   8. Mềm phẳng: Người có "núi đôi" thế này thường khá nhỏ nhen, cũng là người nhút nhát. Họ cũng có chính kiến nhưng không được vững vàng, hay tính toán chuyện thiệt hơn, các mối quan hệ xã hội khá lạnh nhạt, duyên phận con cái cũng bình thường. Họ có cuộc sống khá sung túc và ổn định, tình cảm hài hòa. Họ cũng có người theo đuổi nhưng không dễ để họ mở lòng mình, đối tượng yêu đương của họ cũng là người khá bình thường.   9. Rủ xuống: Người có vòng này rủ xuống thường không có chí tiến thủ, tính cách chậm chạp lề mề. Họ thường ít nói, có nhiều ý tưởng nhưng không mấy khi thực hiện, chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi người khác, đường con cái không vượng. Họ sống khá bi quan, chán nản, hay dựa dẫm vào người khác. Trong chuyện tình cảm, đây là người bị động, vận đào hoa kém vượng. Họ dễ tin người và trao tình cảm cho người khác quá dễ dàng nên hay bị tổn thương. Sau khi kết hôn, họ là người vợ rất biết nghe lời. Đối tượng yêu đương của họ là người bình thường, có phần bận rộn.
Tuong nguc vua phai
 

10. Nhỏ: Phụ nữ có "núi đôi" nhỏ có tính hy sinh trong tình yêu nhiều hơn phụ nữ có "núi đôi" lớn. Họ là mẫu người mẹ hiền vợ đảm. Song nếu quá nhỏ, thậm chí bằng phẳng nên sẽ ảnh hưởng đến đường con cái.
  11. Nhỏ mà vểnh: Người này tuy không có nhiều cơ may lấy chồng đại gia, sau khi kết hôn chồng họ cũng chưa chắc đã phất lên, nhưng đó sẽ là người chồng chu đáo, chung thủy, luôn chăm sóc cho vợ.    12. To mà bẹt: Sau khi kết hôn, họ sẽ có đời sống kinh tế sung túc, giàu có, tuy nhiên tình cảm vợ chồng càng ngày càng lạnh nhạt, song quan hệ mẹ con lại rất tốt, thường vì con cái mà giữ quan hệ hôn nhân.   13. Vừa phải, to đều nhau: Nếu hai bên "núi đôi" cân, to đều nhau thì không cần phải quá to cũng thể hiện tình cảm vợ chồng rất tốt, gia đình đoàn kết, cuộc sống hạnh phúc yên bình. Ngược lại, nếu "núi đôi" không cân thì rất dễ gặp phải cảnh vợ chồng đồng sàng dị mộng.   14. Hình quả chanh: Cô gái này là người lạc quan yêu đời, hài hước tự trào, luôn khiến cho cuộc sống trở nên vui vẻ và tràn ngập tiếng cười. Họ không mong muốn gì nhiều, chỉ cần cuộc sống bình lặng, không quá nhiều sóng gió là được.   15. Hình quả dưa hấu: Nếu vòng này của phụ nữ vừa to vừa tròn như quả dưa hấu, tựa như đã làm mẹ thì đây là người phụ nữ được chồng rất yêu chiều, nâng niu, song không có quá nhiều hứng thú với chuyện gối chăn.   16. Hình quả dứa: Người này rất thông minh, có thể tự mình gây dựng sự nghiệp. Cô gái này cũng rất lãng mạn và chung thủy. Dù đối phương là người như thế nào, chỉ cần cô gái này đã xiêu lòng thì sẽ không dễ dàng từ bỏ.   17. Hình quả bưởi: Người này không quá nhiệt tình với chuyện vợ chồng. Tuy nhìn bề ngoài bốc lửa khiến người ta dễ nhầm tưởng ham muốn chuyện ấy cao song kì thực, họ là mẫu phụ nữ truyền thống, khá ngây thơ và xấu hổ với chuyện đó. Họ thương yêu bạn đời của mình, sự chu đáo dịu dàng thường sẽ lớn hơn ham muốn về chuyện đó.   18.Hình quả cam: Cô gái này khá thận trọng trong chuyện tình cảm, sẽ không nhanh chóng quyết định chuyện hôn nhân đại sự. Họ rất tự tin, cũng có mục tiêu phấn đấu của riêng mình, thích kết bạn song không dễ ngả vào lòng người khác. Đây không phải là người có nhiều hứng thú với chuyện yêu.   19. Hình quả anh đào: Người phụ nữ có núi đôi nhỏ như trái anh đào không chỉ rất quyến rũ mà còn rất vui vẻ, dễ hưng phấn. Họ thích vui chơi, cũng là người rất thông minh. Đây là một nửa tuyệt vời mà ai cũng mong muốn, ham muốn trong đời sống vợ chồng của họ cũng khá cao.


nguc nho
 
  20. Hình quả lê: Người có núi đôi này không kiên định trong chuyện tình cảm, dễ vướng vào các mối quan hệ tay ba hay chuyện ngoại tình.
 

Về nhũ hoa:

  1. Đầu núm cong: Đây là người nhút nhát, hay sợ sệt, dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến của người khác, không đủ quyết đoán. Không phải là một người mẹ tốt nhưng là người tình quyến rũ.   2. Đầu to mà vuông: Người này đường tài lộc vô cùng tốt, con cái khỏe mạnh thông minh, hoạt bát đáng yêu.   3. Quầng rất to: Đây là người rất coi trọng đời sống tinh thần, yêu cầu cao đối với sự hài hòa trong suy nghĩ của hai vợ chồng.   4. Đầu nhỏ mà dài: Người này làm gì cũng phải dựa vào sức mình, tự lực cánh sinh chứ hiếm khi được người khác giúp đỡ.   5. Đầu thụt vào trong: Theo Đông y thì đây là dấu hiệu của khí huyết hư tổn, nên chú ý chăm sóc sức khỏe.   6. Đầu có nhiều lông to và thô: Người phụ nữ này tính tình khá nóng nảy, không biết thông cảm cho người khác.   7. Đầu có 2 hoặc 3 sợi lông: Đây là người thông minh, có đầu óc tư duy, sống lý trí, làm việc bình tĩnh. Họ cũng là người dĩ hòa vi quý, không thích đua tranh. Con cái được nuôi dạy tốt, có khí chất nho nhã hơn người.   8. Đầu có 1 sợi lông: Người này rất có chính kiến, tuy nhiên đường tài lộc gặp vài khó khăn, trở ngại. Đường tình cảm khá trắc trở, thích hợp lấy chồng muộn.   9. Có nốt ruồi ở 2 bên trái phải quầng: Đây là người coi trọng quá trình chứ không quan tâm đến kết quả. Họ không thể sống thiếu tình yêu, thậm chí có phần si mê mù quáng nên dễ trở thành nhân vật chính trong cuộc tình ngang trái.

10. Đầu núm cứng: Đây là người thông minh và giỏi tư duy, sống tích cực, giỏi xã giao, thích hợp làm các nghề liên quan đến ngoại giao. Có tướng vượng phu, cũng được quý nhân giúp đỡ nhiều. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc mĩ mãn, ham muốn trong đời sống vợ chồng cao.

Mời bạn đọc thêm: Bí mật nốt ruồi trên ngực kiều nữ.


mong san chac
 
 


Về nốt ruồi trên núi đôi:


1. Có nốt ruồi ở phía bên trên quầng núi đôi: Sức khỏe không được tốt lắm, nên chú ý ăn uống điều độ, tránh thức khuya, nếu không có khả năng cao mắc các bệnh về gan thận.   2. Có nốt ruồi ở phía bên dưới quầng núi đôi: Chức năng sinh lý không tốt, tử cung hay bộ phận nhạy cảm dễ có bệnh.   3. Bên trái có nốt ruồi: Ngực trái tượng trưng cho dương khí, đời sống tình cảm của chồng hay người yêu của họ sẽ có nhiều trắc trở. Có thể hai người sẽ phải yêu xa.   4. Bên phải có nốt ruồi: Ngực phải tượng trưng cho âm khí, gia đình chồng hay người yêu có lục đục.  
5. Có nốt ruồi trên ngực: Đây được gọi là nốt ruồi đào hoa ở cả nam và nữ, người có nốt ruồi ở núi đôi thường dễ gặp phải đào hoa kiếp, cuộc sống tình cảm phong phú nhưng dễ phá tài phá sắc. Đây cũng là người khá háo sắc và dễ dàng đắm chìm vào chuyện tình cảm không chính đáng.
  6. Có nốt ruồi bên trên ngực phải: thường thích những người đàn ông lớn hơn mình nhiều tuổi hoặc đã từng có gia đình.   7. Có nốt ruồi trên ngực trái: Thích những người đàn ông ít tuổi hơn mình rất nhiều, coi trọng chuyện đụng chạm thể xác, thích sự thân mật gần gũi với người khác giới.    8. Có nốt ruồi đỏ trên ngực: Đây là nốt ruồi may mắn, chủ nhân của nó là người nhiệt tình phóng khoáng, đào hoa, tốt về đường con cái.  

Xem tướng vùng kín: Vòng 3

Xem tuong vung kin - Tuong mong
 
1. Vòng 3 cong đầy đặn: Người có tướng mông cong đầy, cảm giác nhiều thịt thì đường tài lộc cực kì vượng phát, ham muốn chuyện ấy cũng rất cao. Đây là người có cá tính, có sức quyến rũ lớn. Họ không thích hợp ghép đôi với những người đàn ông bảo thủ và gia trưởng, sẽ khiến cho mối quan hệ đắm chìm trong mâu thuẫn và xung đột.
  2. Vòng 3 gầy: Nhìn mông xem tướng phụ nữ, phần mông gầy mỏng, ít thịt, hai bên mông lõm vào, đây là tứớng người phụ nữ cá tính bình thường, cũng không có nhiều tài cán, sợ khó sợ khổ, lại hay so đo tính toán nên khó có được bạn bè tri kỉ, cuối cùng cũng chẳng làm nên sự nghiệp gì. Người này số cả đời vất vả, làm nhiều mà hưởng chẳng được bao nhiêu, hôn nhân nhiều trắc trở, khó khăn đường con cái, hậu vận phúc mỏng, tiền bạc thiếu thốn, sức khỏe suy yếu, nhiều bệnh tật.   3. Vòng 3 nhỏ mà chắc: Đây là tướng người vất vả khi còn trẻ, tài lộc không nhiều lại có phần nhỏ nhen, hẹp hòi. Từ trung vận, vận thế bắt đầu tốt dần lên, cũng có sự nghiệp của riêng mình, nếu có thể đem những kinh nghiệm tích lũy từ thời trẻ vận dụng vào hiện tại và kiên trì với mục tiêu đã định thì sẽ được báo đáp đủ đầy. Người này khá hẹp hòi trong chuyện tình cảm, cũng hay suy nghĩ linh tinh, ghen tuông vô cớ.   4. Vòng 3 to nhỏ không đều: Nếu một người có cặp mông độ to nhỏ mất cân đối thì cuộc đời gặp khá nhiều chuyện trắc trở, nếu là nữ giới có thể khó có con. Họ thích đầu tư, mơ về giấc mộng đổi đời chỉ sau 1 đêm. Họ không thích hợp tự mình lập nghiệp, nên hợp tác với người khác thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Mông trái to hơn mông phải, người này nên kết hôn sớm. Mông phải to hơn mông trái, cuộc đời phải đối diện với nhiều khó khăn, nhiều quyết định trọng đại (với nam giới thì là các vấn đề về sự nghiệp, với nữ giới thì là các vấn đề về sinh nở).   5. Vòng 3 phẳng bẹt: Người phụ nữ mà mông phẳng bẹt, thiếu đường cong là người có cá tính mạnh, có chủ kiến, không dễ tiếp nhận ý kiến của người khác, thích làm mọi chuyện theo ý của mình. Họ độc đoán, lại không dễ tin người, chuyện gì cũng ôm vào mình nên là mệnh khổ. Đây là nét tướng đại kị với phụ nữ, bởi người mông phẳng thường phải chịu cảnh cô đơn lẻ loi khi về già, duyên phận con cái mỏng, thậm chí không có con cái, tình thân cũng chẳng đậm đà.


mong to
 
  6. Vòng 3 dầy, có độ đàn hồi: Người này có sức sống vô cùng dồi dào, cũng là người thông minh, thường có cơ hội kiếm tiền rất tốt. Nếu mông dầy mà cong vểnh thì khá ham thích chuyện nam nữ.   7. Có nốt ruồi ở vòng 3: Dù là nam hay nữ thì người có nốt ruồi ở mông vận đào hoa đều cực vượng, xung quanh nhiều bạn bè khác giới, tuy nhiên nếu không kiểm soát tốt thì dễ gặp nhiều trắc trở trong đường tình cảm, vướng vào mối tình tay ba hoặc tình một đêm. Đường tài lộc của người này cũng khá suôn sẻ và thuận lợi. Nốt ruồi màu nhạt thì nhân duyên tốt, nốt ruồi màu càng đậm thì càng dễ bị soi mói, tiểu nhân ngáng đường. Nốt ruồi ở mông phần ngồi tiếp giáp với ghế thì tốt, tài vận sự nghiệp hanh thông. Nốt ruồi thiên về hai bên mông, gần với eo thì dễ gặp phiền phức vì chuyện tình cảm, người khác cảm mến nhưng không có duyên thành đôi lứa. Nói chung người có nốt ruồi ở mông tới trung vận sẽ dần ổn định, con cái hiếu thuận, vạn sự như ý, tuổi thọ cũng khá cao.   8. Hai bên cạnh vòng 3 có khoảng hõm vào: Dù là nam hay nữ thì đây đều là người có khả năng yêu cao, giỏi chuyện nam nữ, song khá tùy tiện trong chuyện tình cảm, dễ mắc phải mâu thuẫn trong tình cảm.

Có thể bạn quan tâm: Biết tuốt đàn ông qua tướng mông.
  9. Vòng 3 không có thịt: Người này duyên phận với con cái mỏng, thường không có nhiều con. Thời trẻ mưu sự khó thành, khó làm nên nghiệp lớn, tiền bạc cũng không nhiều, khi về già cô độc lẻ loi. Người này sức khỏe kém, thiếu kiên trì nhẫn nại. Nữ giới không có chính kiến, rất chăm chỉ làm việc nhưng không giữ được tiền trong tay. Nếu béo mà mông vẫn không có thịt thì cả sự nghiệp và tài lộc đều khó khăn, đường hôn nhân tình cảm cũng không được thuận lợi.   10. Vòng 3 to nhão: Người này tài vận không tồi, tiêu tiền cũng rất phóng khoáng. Là mẫu phụ nữ của gia đình, mẹ hiền vợ đảm, chẳng những hiền hậu dịu dàng mà còn thấu hiểu lòng người. Nhân duyên rất tốt, chuyện tình cảm vô cùng thuận lợi.    

Xem tướng vùng kín: Tam giác mật

Xem tuong vung kin - Vung tam giac
 
1. Vùng tam giác ít lông: Người mà vùng tam giác ít lông được gọi là “Tam chi tiễn”. Còn nếu không có lông, nữ giới được gọi là “Bạch hổ”, còn nam giới được gọi là “Thanh Long”. Bạch Hổ mà gặp Thanh Long thì đại cát đại lợi. Nếu gặp phải Tam chi tiễn thì vô cùng bất lợi, người này có thể hại bạn đến tán gia bại sản, tai họa liên miên.   2. Lông vùng tam giác vừa thẳng, vừa dài, vừa đen: là tướng sát chồng hoặc vợ, quan hệ tình cảm bất chính, tuy phú quý nhưng không được lâu dài.   3. Lông vùng tam giác màu vàng, mềm: Là tướng quý nhân. Theo tướng số, lông ở vùng tam giác mà rậm rạp như cỏ hay cứng như đinh thì đều là tướng thấp hèn.   4. Nữ giới có nốt ruồi ở vùng kín: Nốt ruồi ở vùng tam giác thì trái chủ quý, phải chủ lộc. Nữ giới là người có số đào hoa, cũng có ham muốn trong chuyện tình cảm cao.   5. Nam giới có nốt ruồi ở vùng kín: Người này có số sinh quý tử, nếu không có con thì là số đào hoa, tình cảm thay đổi thất thường. Ở "cậu nhỏ" có nốt ruồi dễ lăng nhăng, gửi con khắp chốn.   6. Nữ giới mà có nốt ruồi ở môi thì thường chỗ kín cũng có nốt ruồi, đường tình cảm gặp nhiều trắc trở.   7. Hậu môn: Hậu môn kín, hai mông khép lại không nhìn thấy hậu môn thì là tướng giàu, có của ăn của để. Hậu môn lộ thì nghèo, không giữ được tiền.    An An 
Bí mật gì ẩn giấu sau nốt ruồi ở cổ Nhìn ngực đàn ông đoán vận giàu 28 kiểu mông phân rõ vận mệnh sang hèn (P1)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng vùng kín biết ngay giàu sang phú quý

Nằm mơ với bệnh sởi –

Bệnh sởi là loại bệnh phát bên trong, sau mới nổi những nốt mụn, bên trong có nước. Vài tuần sau khi mọc, những mụn này mới đóng vẩy. Sởi là bệnh truyền nhiễm chủ yếu do tiếp xúc. Trong giấc mơ, có người bị bệnh này thường thấy cá mà lại không phải c
Nằm mơ với bệnh sởi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ với bệnh sởi –

Nghiệp báo truyền sáu đời, phúc trạch 800 năm

Lấy lịch sử làm gương, có thể biết được thăng trầm hoặc nghiệp báo của lịch sử. Ở đây có sự thăng trầm của triều đại và cũng có hưng vượng của gia tộc.
Nghiệp báo truyền sáu đời, phúc trạch 800 năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tống Thái Tông mưu hại huynh đệ Tống Thái Tổ, làm nhiều việc bất nghĩa, gây hại cho đời sau, con cháu bị tuyệt hậu hai lần, phải chịu nỗi nhục cả hoàng tộc bị bắt làm nô lệ nước Kim. Ngược lại, Phạm Trọng Yêm là một minh thần Bắc Tống, ông sống thanh đạm suốt một đời, và con cháu đời sau rất hưng vượng, phú quý tám đời, vậy bí quyết nằm ở đâu?

Chiếm đoạt giang sơn cải biến sách sử, Tống Thái Tông chịu nghiệp báo sáu đời

Mặc dù Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa nhiều lần cải biến sách sử, nhưng rất nhiều chân tướng lịch sử khó có thể bị chôn vùi. Ông giết anh trai để chiếm ngôi, giết chết con trai của huynh trưởng, giết chết người em trai làm thái tử Triệu Đình Mỹ, đều là vì muốn mình là người thừa kế ngai vàng duy nhất. Ông ta còn bắn chết Hoa Nhị phu nhân, đầu độc Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục, hãm hại hoàng hậu Tiểu Chu, còn đầu độc nguyên Ngô Việt Quốc Chủ Tiền Thục…

Ông ta tưởng rằng làm thế thì có thể nắm giữ giang sơn mãi mãi, không ngờ báo ứng cho những việc ác giống như một tấm lưới trời chụp lên gia tộc của ông.

Con trai cả của Thái Tông bị điên, con trai thứ làm người kế vị, kết quả là bị bệnh chết, con trai thứ ba đăng cơ chính là Chân Tông. Con cái của Chân Tông lần lượt bị chết yểu, chỉ còn lại một người con trai chính là Nhân Tông sau này. Nhân Tông không có con, dòng dõi chính bị tuyệt hậu. Ông đã nhường ngôi cho con trai của hoàng thúc, lại truyền tiếp đến đời thứ hai, đời thứ ba thì xảy ra nỗi nhục của Tĩnh Khang, hậu duệ của Thái Tông – hoàng thất kinh thành đều bị bắt làm nô lệ ở nước Kim, hậu cung bị ép thành kỹ nữ (trong đó có mẹ đẻ và vợ của Triệu Cấu), chỉ có Triệu Cấu trốn thoát, đã lập ra Nam Tống. Con cái đều chết, Triệu Cấu lại bị quân nước Kim dọa cho không đứng dậy nổi, từ đó tuyệt hậu. Sử sách ghi chép rằng, được Mẫu Nguyên Hựu thái hậu báo mộng, ông không tìm người thừa kế còn lại của Thái Tông mà tìm hậu duệ của Tống Thái Tổ làm hoàng tử, trả lại ngai vàng cho hậu duệ của Thái Tổ.

Đừng tưởng rằng khi xưa Thái Tông có thể đứng trên Vương Pháp, hành ác cũng có thể không chịu trừng phạt, nhưng đạo đức ước chế tất cả, Thiên lý rõ ràng, thiện ác tất báo.

Ưu quốc vi dân tạo phúc, chỉ dòng tộc Phạm Trọng Yêm phồn thịnh

Phạm Trọng Yêm là một vị minh thần thời Bắc Tống, ông còn là một nhà văn học, nhà quân sự tài ba. Tác phẩm “Lạc Dương lâu ký” của ông được coi là tuyệt tác thiên cổ, đạt đến cảnh giới “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi nhạc nhi nhạc”(lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ), trở thành phong thái lý tưởng của bậc danh sỹ Trung Hoa.

Phạm Trọng Yêm mồ côi cha từ nhỏ, quyết tâm học tập trong cuộc sống thanh khổ, sau khi đỗ tiến sỹ, ông luôn lo lắng và tạo phúc cho bách tính trăm họ.

Khi làm huyện lệnh Hưng Hóa (nay là thành phố Hưng Hóa tỉnh Giang Tô) ông chăm lo đê điều. Một lần, một đợt thủy triều lớn đã cuốn đi hơn trăm người dân, ông đứng trên ngọn thủy triều chỉ huy tu sửa đê điều. Không lâu sau, con đê dài hàng trăm mét đã vắt ngang bờ biển Hoàng Hải. Diêm điền và nông điền đều được bảo vệ, dân cư trở về quê cũ làm ăn sinh sống, từ đó mọi người gọi con đê biển này là “Phạm Công Đê”, đến nay con đê này vẫn còn tồn tại.

Phạm Trọng Yêm không chấp hành, không phục tùng với những sai lầm của triều đình, vì thế ông đã bị giáng chức khỏi kinh thành bốn lần, nhưng vẫn không thay đổi bản chất. Ông cầm quân đánh đuổi Tây Hạ, giữ vững kinh thành. Sau khi triều đình đại bại, nhờ chiến lược của ông nên mới có được hiệu quả. Quân địch đều khâm phục tài cầm quân của Phạm Trọng Yêm, cuối cùng đã giải hòa. Phạm Trọng Yêm đã chỉ đạo xóa bỏ chính sách không đúng đắn, cải cách toàn diện, xã hội đổi mới, khi đó gọi là “Khánh lịch tân chính”. Sau khi bị giáng chức vì những lời gièm pha, ông vẫn luôn nghĩ cho bách tính trăm họ.

Khi Phạm Trọng Yêm ngã bệnh sắp ra đi, cả triều đình trên dưới đều thương tiếc. Nhân dân cả nước khóc thương, ngay cả dân tộc thiểu số Tây Hạ cũng ăn chay mấy ngày liên tục và tập trung lại để tưởng niệm ông. Triều đình đã tặng cho ông danh hiệu cao nhất của một bậc văn nhân: “Văn chính”.

Phạm Trọng Yêm sống lương thiện suốt cả cuộc đời, lúc ra đi gia đình nghèo khó. Nhưng ông đã lưu lại phúc đức cho con cháu đời sau. Con trai ông là Phạm Thuần Nhân, sau này cũng làm tể tướng. Trung Quốc có câu “Giàu không quá ba đời”, nhưng dòng họ Phạm Trọng Yêm hưng vượng hơn 800 năm, đến thời Dân Quốc, Phạm gia vẫn là một dòng họ nổi tiếng. Đây đúng là một minh chứng chân thực cho việc tích đức hành thiện, tạo phúc báo cho đời sau.

Ngày nay, nhiều quan chức, quân cảnh của ĐCSTQ đã bức hại không thương xót với các học viên Pháp Luân Công, đàn áp tàn nhẫn các dân tộc thiếu số hòa bình như người Tây Tạng và người Duy Ngô Nhĩ… đều lấy lý do rằng Đảng yêu cầu làm vậy, tưởng rằng coi thường pháp luật thì sẽ không bị trừng phạt, sẽ không bị báo ứng. Chúng ta hãy nhìn lại Tống Thái Tông coi thường Vương Pháp, hãy nhìn xem con cháu đã bị ác báo sáu đời như thế nào, đó là tiếng chuông cảnh tỉnh của lịch sử.

Lấy lịch sử làm gương, có thể biết được thăng trầm của lịch sử. Ở đây có sự thăng trầm của triều đại và cũng có hưng vượng của gia tộc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghiệp báo truyền sáu đời, phúc trạch 800 năm

Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có. - Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém. 2. Về giầu hay nghèo. Giầu h

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

coi-boi-khuon-mat

1. Về thọ yểu: Được thể hiện ở ấn đường. Nếu sáng láng như gương bằng phẳng đầy đặn thì sống lâu mà kiến thức rộng. Nếu được mắt sáng (Thổ tinh) thì còn giầu có.
– Nếu ấn đường mà lõm và tối thì yểu tướng mà còn hèn kém.

2. Về giầu hay nghèo.
Giầu hay nghèo thể hiện ở mũi. Mũi mà đầy, thẳng sáng, đầu mũi tròn đẹp, láng mượt thì không thể không giầu có. Mà không thiên lệch thì giầu có lâu dài.
– Nếu mũi cong keo gầy khô, sắc xám xỉn, thiên vẹo thì nghèo hèn. Mũi quặp nhọn thì phá sản.
– Nếu mũi hếch ngửa lộ lỗ mũi thì không thể giầu mà không có ăn là chắc chắn.

3. Về tình thân sơ.
Tình thân là cha mẹ, anh em, họ hàng. Nó được thể hiện ở hai hàng lông mày.
– Nếu dài mượt thì đông anh em mà tình cảm thân thiện, cha mẹ song toàn, đức độ. Họ hàng đông đúc.
– Nếu hai lông mày ngắn, thưa (tức cung La hầu và Kế đô) khô héo thì ít anh em, cha mẹ kém.
– Lông mày dài quá mắt thì anh em họ hàng bình yên, sum họp vui vầy.
– Lông mày mà xoắn xoáy thì anh em bất hòa.
– Lông mày giao nhau thưa vuông thì xấu: ít anh em.
– Lông mày ngắn mà xẻ thì anh em không yên vui.

4. Về hạnh phúc vợ chồng, đôi lứa.
Hạnh phúc lứa đôi lệ thuộc hai phía nhưng nếu tướng số đã có thì cả hai giới lấy nhau sẽ trùng hợp để thể hiện cuộc sống lứa đôi có hạnh phúc hay không.
– Nếu gian môn (ở gần lỗ tai ngang dái tai) còn gọi là Quan Ngũ vĩ mà sáng tươi không ngấn vằn thì vợ chồng đoan chính, thủy chung.
– Nếu gian môn ù sưng, đen, tôi, vằn ngấn thì bất hạnh, gian dâm.

5. Về con cái.
Xem con cái nhìn vào Quan Luỵ Trường (dưới con mắt) còn gọi là ngọ tằm (nổi cao dưới mắt như con tằm dâu ngủ).
– Nếu sáng tươi đầy cao thì con cái làm ăn khá giầu sang, danh giá.
– Nếu nơi đó sâu lõm, tối đen thì con cái bi lụy, khốn khó.
– Nếu sắc khí hồng hào tươi mượt sinh con quý tử (giầu sang vinh hiển).

6. Về nhà đất.
Nhìn vào đôi mắt ta biết người có nhà đất ruộng vườn.
– Đôi mắt thanh tú mượt có nhà hoặc đất đai nhiều.
– Mi mắt khô thô thì nhà tổ phụ để cho cũng tan mất.
– Mắt tròn nhỏ, mắt to không lộ thì cửa nhà đầy đủ.
– Mắt bé híp thì vô gia, điền địa kém.

7. Về chức tước.
Nhìn thấy hai cung Nhật giác và Nguyệt giác (phía trên hai hàng lông mày phía trán).
– Nếu cao đầy sáng sủa ngay thẳng: Tài ba, tước vị.
– Nếu có ngấn đứt đoạn thì lận đận công danh; nếu ở đó lại bằng hay hõm sâu là thường dân.

8. Về phúc đức.
Trên khuôn mặt của con người đều thể hiện những nét đặc trưng phúc hậu hay hiểm ác.
– Gương mặt vuông vức, mặt trái xoan: thể hiện nét hiền từ, phúc hậu. Người có nhân đức, nhìn dễ mến, dễ gần.
– Gương mặt chuột (mặt choắt vuốt nhọn), mặt như mặt ngựa (mặt hẹp dài quá khổ) đôi mắt lúng liếng, lé (nhìn nghiêng ngó dọc): Người hiểm độc, mưu sâu hay lừa thầy phản bạn.

9. Về di trú.
Trong cuộc sống không mấy ai ở nguyên một nơi. Họ hoặc dời quê quán đi nơi khác, hoặc đi đây đi đó… Nhiều người suốt đời nay đây mai đó, không nhà cửa, bôn ba thì có người giầu nhưng cũng có người tay không vẫn hoàn tay không… Tất cả thể hiện ở cung “Thiên thương” hay “Thiên ri” nằm cuối đuôi lông mày khoảng giữa với tóc mai:
– Nếu sáng sủa, đầy đặn thì đi xa có lợi, rời quê sinh sống thì tốt, có nhà cao cửa rộng được người quý trọng.
– Nếu nổi cao như bờm ngựa thì sang trọng có danh giá, đi lại bốn phương.
– Nếu thấp hãm đen thì đi xa bất lợi, vô gia cư.
– Nếu liền lông mày với tóc mai thì tha phương cầu thực.

10. Về tật bệnh.
Con người phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử”. Đó là lẽ thường tình. Nhưng quá trình sống thì ai mà chẳng một đôi lần bệnh. Có người mang tật nguyền rất sớm. Có người mắc bệnh mạn tính, bệnh hiểm nghèo…
Bệnh tật tai ách đều được thể hiện trên gương mặt về biểu tượng. Đó thuộc “bất biến” và thuộc “duy biến”. Còn “thường biến” là thuộc y biểu (biểu hiện về mặt y-lý). Về mặt biểu tướng thì bệnh tật thể hiện ở Sơn căn. (Cuông mũi giáp chân mày).
– Nếu nơi ấy sáng láng đầy đặn thì ít bệnh tật oái oăm.
– Mũi dọc dừa thì ít bệnh hiểm nghèo.
– Mũi không cao không thấp thì ít bệnh tật.
– Sơn căn có đường “gân xanh” vắt ngang (thường thấy ở trẻ) thì bé hay ốm quặt quẹo, nuôi nấng, vất vả. Về mặt y-biểu thì khi có bệnh sắc khí Sơn căn biến đổi trước rồi sắc khí mặt thay đổi sau.
Ví dụ: Sơn căn đỏ chót bị bệch nội tiết (rõ nhất ở khu đầu chóp mũi).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng khuôn mặt đoán phúc phận –

Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành
Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Thiên trảm sát (thiên phong sát): Khu vực kinh doanh đối diện với 1 khe hở giữa các tòa nhà sẽ hình thành "phong sát". Điều này khiến tài vận lên xuống thất thường.

(Ảnh minh họa)

Ở Trung Quốc, nếu thiết kế cửa hàng phạm phải "thiên phong sát", có thể treo xâu tiền gồm 6 loại tiền cổ qua các triều đại (Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang) để hóa giải.

2. Hướng thủy chạy nghịch: Chỗ buôn bán trước mặt có con đường đi, từ chỗ cửa của cơ sở cao chạy xuống thấp hẳn mà chạy đi. Phong thủy gọi là “thủy long phản tẩu”, tài vận không tốt, không thích hợp mở cửa hàng.

3. Mặt đối ngõ nơi chết chóc: Trước mặt đối diện với cảnh chết chóc, sự nghiệp không có lối ra.

4. Hãn đinh bổng (đuổi nhân tài): Nếu như phía trước cửa chính hoặc cửa sổ của cửa hàng có cột đèn, hộp đèn lớn thì cửa chính đã phạm phải "hãn đinh bổng", đuổi nhân tài đi. Vì thế, khi lựa chọn cửa hàng cần lưu ý điểm này.

5. Rồng nước bò ngược: Khi vừa bước ra khỏi cửa hàng, thấy con đường lớn, hướng gần cửa thì cao sau đó thấp dần về phía trước, đó gọi là "Rồng nước bò ngược", bất lợi cho việc kinh doanh, buôn bán.

(Tổng hợp)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cửa hàng và hình dáng con đường (P2)

Những mẩu chuyện vui Tử Vi: mất hạnh-phúc vì sao đào-hoa; kén vợ, kén chồng ...

Bài viết những mẩu chuyên vui tử vi của tác giả Phong Nguyên về sao đào hoa, kén vợ, kén chồng. Đây là bài viết rất thú vị!
Những mẩu chuyện vui Tử Vi: mất hạnh-phúc vì sao đào-hoa; kén vợ, kén chồng ...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của tác giả Phong Nguyên

Qua những bài đã đăng trong KHHB dưới mục “Tạp ghi về khoa Tử-vi” do tôi phụ trách, quý bạn chắc chỉ thấy tính cách khô khan, lý thuyết, đôi khi hơi “già”. Nay trong bài này, để phù hợp với nội dung của báo xuân KHHB, tôi xem “trẻ trung hóa” khoa tử-vi qua một vài chuyện vui có thực để quý bạn khỏi mệt tinh thần nhân dịp đầu xuân.

1) MẤT HẠNH PHUC CHỈ VÌ SAO ĐÀO HOA

Tôi có quen một đôi vợ chồng cũng khá về tử vi, hiện đã có năm sáu người con. Hai vợ chồng sống rất hạnh phúc bên nhau, nhưng năm vừa qua đã xảy ra chuyện “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt” chỉ vì một chuyện hiểu lầm nặng nề về tử vi. Nguyên do là tại một sao nhỏ bé “Đào-Hoa” mà thôi. Người vợ có thói quen là mỗi năm, có khi mỗi tháng, đều nghiền ngẫm lá số của chồng để kiểm soát vấn đề chung tình, ngoài những vấn đề liên quan đến công danh, sự nghiệp. Sở dĩ bà ta quan tâm dến khía cạnh tình cảm đó chỉ vì mạng của đức lang quân có Riêu, Mộc, Cái, hội Đào Hoa, nhị hợp mà tiểu hạn lại gặp Đào Hồng, Xương Khúc, Song Hỉ, Khôi Việt là những sao rất ư là lãng mạn, đa tình. Khổ hơn nữa là trong thời gian ông chồng chưa lập gia đình thì ông ta rất được lòng phái yếu (ứng nghiệm theo đại hạn) cho nên bà ta càng tin chắc mình đã tìm hiểu lá số của chồng không sai trật. Vì vậy năm vừa qua bà ta theo dõi mọi hành vi, thái độ của chồng, nhưng không bắt gặp được trường hợp nào gọi là ngoại tình cả. Thành ra bà ta tối ngày chỉ còn biết ghen bóng, ghen gió đến nỗi khi thấy ông chồng sửa sang nhà cửa bà cũng đay nghiến là chồng giả vờ lo cho gia đình để che đậy những điều ám muội. Thậm chí mấy người bạn gái của cậu em trai chồng ( cậu này rất đào hoa nên không thiếu gái theo) năng lui tới cũng bị bà kiểm soát chặt chẽ. Thế rồi đến một tháng nọ (theo bà ta tính tức là nguyệt tiểu hạn trùng phùng ở cung có các sao lãng mạn kể trên) tình cờ ông chồng vì công tác phải đi xa một ngày, bà liền bỏ nhà về sống với cha mẹ ruột vì nghĩ ôngn chồng đã đi theo “mèo” rồi. Đến khi ông chồng về nhà thấy tình cảnh như vậy bèn chạy tới nhà cha mẹ vợ năn nỉ vợ trở về, nhưng trình bày cách nào vợ cũng không nghe, cứ một mực tin là tử-vi rất chính xác và chồng nói dối. Vì bà vợ tử-vi không thua kém chồng nên ông chồng đành chạy đi kiếm tôi giảng hòa bằng tử-vi (vì dù sao tôi cũng khá hơn họ). Sau cả tiếng đồng hồ nghiên cứu lá số của cả hai vợ chồng tôi bất giác bật cười là không ngờ bà vợ lại đoán lầm như vậy, mặc dầu thường ngày bà ta cũng khá lắm. Sau đây tôi xin nêu lại cuộc tranh luận giữa tôi và bà ta:

Mở đầu cuộc tranh luận, bà ta nói:

- Bác thấy không, với mạng “ba mươi lăm” như vậy và với quá khứ minh chứng qua tử-vi cũng như trên thực tế là nhà tôi rất nhiều bồ, thì trong giai đoạn hiện tại đang ở đại hạn có Hồng, Riêu, Xương Khúc, Hỷ Thần và năm nay lại nhằm đúng tiểu hạn tương phùng có đủ hết Đào Hồng, Song Hỷ, Khôi Việt, Xương Khúc thì nhà tôi nhất định phải ngoại tình, chỉ có điều là tôi không bắt được quả tang.

Tôi đã biết trước thế nào bà ta cũng đưa đại khái những yếu tố đó ra để kết tội chồng nên tôi bình tĩnh trình bày:

- Chị lý luận về Tử-Vi như vậy nghe cũng được lắm, nhưng ít ra chị cũng phải để ý trước hết là không bao giờ tiểu hạn cứ 12 năm lại giống nhau vì còn tùy theo gốc đại hạn, dù là cùng một cung, cùng các sao, nhưng còn biết bao nhiêu yếu tố khác nữa không giống nhau (như các phi tinh thay đổi ngũ hành của năm coi tiểu hạn)… Bây giờ để chị khỏi nhức đầu, tôi chỉ cần nêu đại hạn và tiểu hạn ra thôi. Tôi công nhận đại hạn trước kia anh nhiều bồ vì hồi đó các sao đa tình, đào hoa kể trên hoàn toàn ảnh hưởng tới anh mặc dầu các sao đó chiếu vào cung huynh đệ (đại hạn ở đó) nhưng em trai của anh lúc đó còn bé, làm sao mà có gái theo được, do đó anh “xơi” hết các sao đó là đúng. Nay gặp đại hạn khác (ở cung Tử - Tức) có Xương, Khúc, Hồng, Hỉ, Riêu và tiểu hạn ở cung xung chiếu (cung Điền) tuy có đủ hết các sao đa tình mà chị kể ra, nhưng sự việc không thể xảy ra giống như trước được. Bây giờ Đào Hồng, Khôi Việt, Song Hỷ lại ảnh hưởng cho người em, cho nhà cửa, cho con cái. Do đó, chị thấy em trai của anh nhiều gái thương yêu, rồi anh ưa sửa nhà cho đẹp đẽ, phong quang, còn con cái thì học hành thông minh, dễ thi đậu mà không biết chừng chị còn có tin mừng nữa. Ngoài ra, anh mạng Hỏa lại sinh cung Tử-Tức (thổ) và cung Điền (thổ) nên lại càng chắc chắn anh chỉ chú trọng, lo lắng cho gia đình, con cái, nhà cửa, còn hơi sức đâu đi “ theo gái”.

Tôi nói đến đây, thì chị vội ngắt lời, với vẻ mặt tươi như hoa liếc trộm chồng đang nở nang mặt mày:

- Thôi bác nói như vậy là đủ rồi! Nói nữa tôi đến phải “ độn thổ” trốn đi mất. Tôi không hiểu tại sao bây giờ tôi đóan tử vi dở quá vậy. Xin lỗi đã làm phiền bác một cách “vô duyên” như vậy, nhưng dầu sao cũng là một bài học hay về tử vi cho tôi.

Từ đó tôi thấy hai vợ chồng lại ăn ở thuận hòa với nhau như trước có lẽ còn mặn nồng hơn nữa, và hai người cùng chuyên chú nghiên cứu tử vi hơn vì biết mình còn yếu kém.

2) KÉN VỢ, CHỒNG THEO TỬ-VI

Bàn về những chuyện tìm ý trung nhân theo Tử vi, tôi đã gặp nhiều trường hợp rất tức cười, đôi khi hơi “lẩm cẩm” nhưng đôi khi cũng tội nghiệp. Nếu kể hết ra có lẽ phải hết cả cuốn sách. Nay tôi chỉ xin nêu ra một vài trường hợp điển hình để giúp những bạn nào biết Tử-vi mà đang kén vợ (hoặc chồng) có một ý niệm khách quan về vấn đề này.

a) Hình dáng:

Tôi có một người cháu trai có năng khiếu về Tử-vi nhưng chưa có căn bản vững chắc, thế mà bất cứ tính một chuyện gì, nhất là chuyện hôn nhân, là đều tự nghiền ngẫm lá số của mình chẳng thèm tham khảo ý kiến của ai, kể cả tôi là chú. Năm ngoái cháu tôi có yêu một cô con nhà gia giáo, có nhan sắc mặn mà, có học thức khá, tính tình lại đoan trang gia chánh nữ công cũng giỏi. Đôi bên thương yêu nhau nhất mực và tính đi tới hôn nhân, nhưng độ một hai tháng sau tự nhiên tôi thấy cháu tôi có vẻ lo buồn, chán nản và không thấy nói gì tới vấn đề hôn nhân. Tôi thắc mắc nên có hỏi lý do và cháu tôi đã tâm sự với tôi là khi tính tới chuyện hôn nhân cháu tôi có bảo cô đó đưa ngày giờ sanh để xem tử vi trước khi quyết định dứt khoát. Cháu tôi buồn bã nói với tôi rằng lá số của cô ta không truyền tinh với lá số của mình đồng thời hình dáng lại không ứng với cung Thê của mình cho nên cháu tôi tin chắc là không thể kết hôn với cô đó được, mà nếu có liều lấy đại sợ rằng không có hạnh phúc.

Vì biết cháu tôi còn non nớt về tử vi mà lại hay tin tử vi tuyệt đối nên tôi có bảo cháu tôi đưa lá số của cháu tôi và của cô đó để kiểm lại. Sau khi coi kỹ cả hai lá số tôi thấy ngay là cháu tôi lầm lẫn nhiều, nhưng để khỏi chạm tự ái của cháu tôi về khả năng tử vi tôi giải thích lần lần bằng cách đặt ra những câu hỏi.

Đầu tiên tôi hỏi:

- Tại sao cháu cho rằng lá số của cô ta không truyền tinh với lá số của cháu?

Cháu tôi trả lời:

- Đây chú coi, cung thê của cháu có cách Sát Phá Liêm Tham hội Tử Phủ (Tử Sát đồng cung …..thê) còn cung mạng của cô ấy có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương đồng cung với cung mạng và các trung tinh cũng không truyền qua, như thế làm sao cô ta là vợ của cháu được!.

Tôi lại hỏi thêm:

- Tại sao cháu dám chắc là lá số này đúng là của cô ta, giờ sanh có chính xác không?

Sau một giây phút suy nghĩ, cháu nói:

- Kể ra giờ sanh tuy chính xác nhưng vì sinh đúng 5 giờ sáng nên cháu dã phải lập 2 lá số, một cái là giờ Mão, một cái giờ Dần, để tìm xem cái nào ứng với thực tế. Cháu thấy cái giờ Mão đúng nhiều, nhất là về hình dáng, tính tình. Giờ Mão Đồng Lương tại mạng thì mới cao, có Đào Hồng, Khoa Quyền Lộc mới có nhan sắc và con nhà gia giáo khá giả, đồng thời mới có học thức. Còn giờ Dần mạng có Vũ Sát đồng cung thì chưa cần xét đến các sao khác cũng thấy là người Thấp (vì cháu theo câu “ Vũ khúc bé nhỏ hình kim) và mặt lớn ( Thất Sát mắt lớn dọi đèn), như vậy là quá khác với hình dáng.

Nghe đến dây, tôi liền chỉ vào lá số của cô ta và nói:

- Trước hết chú phải nhấn mạnh với cháu rằng cháu không thể căn cứ vào câu phú tả hình dáng theo từng ngôi sao vì công thức đó rất ít khi đúng, thực ra phải căn cứ ngay vào một bộ sao tọa thủ (như Vũ Sát hoặc Đồng Lương trong trường hợp này). Chú đã kinh nghiệm người nào có Vũ Sát bao giờ cũng cao chứ không bé nhỏ, chỉ có điểm hơi gầy, nhất là trong trường hợp này có thêm Song Hao. Đồng Lương cũng cao nhưng hơi mập nhất là thêm Quyền Lộc, Đào Hồng thì người càng mập nhiều hơn. Còn cô ta hình dáng đâu có mập, người chỉ gọi là thanh tú. Ngoài ra tính tình cô ra đoan trang, trầm tính, ít nói thì lại càng ứng với Vũ Sát, chứ còn Đồng Lương Đào Hồng, Hỷ thì lém lỉnh và đa tình lắm. À quên, chú không nói thêm là cô ta lại không trắng mấy, nước da chỉ ngăm ngăm, thì làm sao mà ứng vào bộ sao sau này được! Còn cháu bảo mắt cô ta không lớn thì không phải Thất Sát, như thế cũng không đúng, vì chú nghiệm thấy Thấy Sát đồng cung với bất cứ chính tinh nào cũng đều không chủ về mắt lớn nữa, chỉ riêng có ở cung Dần hay Thân. Thất Sát độc thủ thì người đó mắt chỉ hơi lộ một chút, chứ chẳng lớn gì. Đấy là chưa kể tới ngũ hành của bản mạng có khắc hay không, vì nếu khác thì chẳng chịu ảnh hưởng của Thất Sát nữa. Do đó chú kết luận lá số giờ Dần mới đúng với cô ta và như thế tức là truyền tinh với lá số của cháu rồi vì mạng cô ta lúc đó có cách Sát Phá Liêm Tham, đúng như cung Thê của cháu.

Sau khi chăm chú nghe tôi nghe tôi giải thích, cháu tôi có vẻ vẫn chưa chịu thua và bắt bẻ liền:

- Cháu thấy chưa thỏa mãn về lời giải đoán của chú, vì cung thê của cháu có Tử Sát mà Tử-Vi thì “mặt đỏ lưng dầy”, như thế tức là cô ấy không ứng vào các sao ở cung thê của cháu, dù cho rằng lá số giờ Dần của cô ta đúng.

Tôi biết cháu tôi vì tự ái nên cố cãi thêm, do đó tôi thản nhiên trả lời:

- Cháu lại mắc lần nữa cái lối là cứ căn cứ vào câu phú về một sao tả hình dáng. Vả lại dù có căn cứ vào từng chính tinh cũng phải so với ngũ hành của bản mạng. Như trường hợp cô ta mạng thủy chỉ hợp với sao Thất Sát chứ không ăn gì sao Tử-Vi (thổ), tuy nhiên nói chung Tử - Sát cũng vẫn chủ về cao và gầy đồng thời nước da ngăm ngăm chứ không đỏ hay hồng hào gì. Thôi, chú chẳng muốn nhấn mạnh thêm nữa mà chỉ kết luận chắc chắn cô đó sẽ là vợ cháu, còn cháu muốn tiến tới hay không tùy ý, chứ không mai mốt lại đổ thừa tại chú. Nhưng dù sao chú vẫn tin chắc là vợ chồng cháu sau này sẽ thương yêu nhau, khăng khít lắm vì có Long Phượng, Quang Quý, Hóa Khoa chiếu cung Thê, đấy là chưa bàn tới cung phu của người vợ tương lai của cháu.

Tôi nói đến đây thì cháu tôi vui mừng lộ ra mặt và không còn cãi nữa, nhưng có lẽ vì tự ái nên chẳng nói chẳng rằng gì cả.

Độ một tháng sau, bất chợt một hôm cháu tôi đến báo cho tôi biết là gia đình quyết định cho tiến tới hôn nhân với sự ưng ý của cháu tôi. Thế tồi đám cưới hoàn tất êm đẹp và hiện giờ hai vợ chồng ăn ở thuận hòa với nhau và đã có hai con.

b) Cao số

Có thể nói rằng hầu hết các cô (các cậu thì ít hơn) đang ở trong giai đoạn kiếm người bạn trăm năm nếu gặp đại tiểu hạn có Đào Hồng, Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên -Không Hóa kỵ thì rất lo lắng, cho rằng khó có thể lập gia đình được. Kể ra gặp trường hợp như trên thì đáng ngại thật, nhưng tôi đã từng được theo dõi những người đã thành hôn trong giai đoạn có các sao liệt kê trên đây. Tôi chỉ xin đưa một thí dụ theo lá số và diễn biến cuộc đời của một người bạn gái rất thân hồi xưa.

Tôi hãy còn nhớ rõ mạng cô ta có Phá Quân cư thân hội Đào Hồng, Thiên- Không, Xương Khúc, Khôi Việt mà cung Phu quân có Tử- Vi cư Ngọ hội Tả- Hữu, Cô – Quả, Hình Kỵ…. Thường ngày tôi vẫn nói đùa (nhưng thật ra là nói thực, theo Tử-Vi) với cô ta là vấn đề hôn nhân và tình ái đối với cô ta rất là trắc trở, có thể là “trăm mối tối nằm không” mất, dù cho rằng cô ta được nhiều người thương yêu và trung thành nhất mực. Rồi một hôm, không hiểu cô đã đi coi Tử-Vi ở đâu mà thấy cô ta mắt đỏ hoe nói với tôi rằng cô ta đang yêu một người và đang định đi tới hôn nhân nhưng ông thầy Tử-Vi quả quyết với cô ta là không thể thành được vì cô ta quá cao số và nhất là đại hạn đang có nhữung sao ngăn trở chia ly. Tôi bèn lấy lá số của cô ta ra coi lại kỹ càng và sau một giây phút đắn đo, e ngại tôi bảo là cô ta sẽ lấy chồng năm đó được. Sở dĩ tôi dè dặt vì trước hết sợ cô ta đặt quá nhiều hy vọng mà không thành thì tội nghiệp, sau nữa là thấy cách giải đoán của mình hơi “ngang” thì dễ bị trật vì có nhiều yếu tố trái ngược, nào là đại hạn có Cô Quả, Hình, Kỵ, hội Thiên Không, nào là vị hôn phu của cô không có hình dáng và khả năng đúng với cung Phu của cô (anh ra gầy mà cao lênh khênh đâu có hợp với Tử-Vi cư Ngọ độc thủ- giá mà có Liêm Trinh ở Dần hay Thân mà cung Phu ở đó thì ứng nhưng đó là thí dụ- hơn nữa anh chỉ là một thư ký tầm thường đâu hợp với cách Tử Phủ Vũ Tướng với Tử vi cư Ngọ, chưa kể các trung tinh khác).

Thế rồi, sau đó hai ba tháng cô ta đã lấy được người cô yêu và cả hai vợ chồng đến cám ơn tôi rối rít, tỏ ra rất phục tài tôi. Lúc đó tuy thấy cách đoán thí nghiệm của mình đúng thì mừng, thế mà tôi lại không thoải mái vì trong thâm tâm nghĩ rằng cặp này không sống bền với nhau. Tuy vậy tôi đâu có dám nói sự thật đau lòng đó, vả lại cũng sợ mình thí nghiệm cách giải đoán “ngông” lần nữa lỡ lại sai thì rất tai hại. Chuyện tốt trật còn đỡ, chứ chuyện xấu mà không đúng thì đến bị “đập tráp” mất. Vì thế, sau khi xã giao vài ba câu chuyện, hai vợ chồng ra về với vẻ mặt thơ thới, hân hoan, đâu có ngờ trong thâm tâm tôi nghĩ vậy.

Thật tình tôi đã căn cứ kỹ càng vào tử-vi nên mới đoán là cô bạn tôi lấy được người đó trong năm ấy chứ đâu có phải là đoán bừa bãi. Đây tôi xin nêu lý do tại sao tôi dám kết luận như trên: Khi mạng cô ta có Đào Hồng, Thiên Không, Xương Khúc, Khôi Việt thì dầu sao cũng phải trải qua một hai lần hôn nhân, đó là chưa kể những mối tình vụn vì nguyên hai sao Đào Hoa, Thiên Không thôi cũng đủ khổ về hôn phối ( Đào hoa thuộc Mộc bị Thiên Không là Hỏa đốt cháy tiêu huống chi Thiên Không còn là sao làm cho mất hiệu lực của sao khác), lại có Hồng Loan tại cung Mệnh chủ hai đời chồng, thêm Xương Khúc chủ lãng mạn, đa tình, mơ mộng, còn Khôi Việt chủ về sự chung tình thì làm sao có thể coi thường được vấn đề tình yêu để cho bớt khổ đau. Khi mạng đã có cách như vậy thì nhất định phải kết hôn lần đầu ở đại hạn xấu để cho mối tình đầu (Hoặc người chồng đầu) không lâu dài chứ nếu lấy chồng trong đại hạn tốt thì không có gì trở ngại cho hạnh phúc ban đầu và như thế trái với cách ở mạng. Nhất là trong trường hợp của cô ta được mấy đại hạn kết tiếp đều tốt, do đó lại càng không thể chờ đến khi gặp giai đoạn tốt mới lấy chồng mà trái lại phải thực hiện trong đại hạn xấu để cho ứng hợp. Ngoài ra, cung Phu có Tử- Vi cư Ngọ hội Tả- Hữu Đào Hoa (tam hợp chiếu về, đồng thời cũng chiếu Mệnh) cũng chứng tỏ mình phải qua một hai lần hôn nhân, nếu không thì chính chồng nhiều vợ. Nhưng được điều may bù lại là với cung Phu như thế (còn có thêm Quang Quý, Long Phượng, Thai Tọa, Khoa Quyền Lộc….) thì nhất định được người chồng sau quyền quí, tài ba lỗi lạc. Tuy vậy tôi cũng không dám nói, dù điểm này là điểm tốt, vì đã nói ra điểm sau là phải nói luôn điểm trước.

Bẵng đi được mấy năm sau, tình cờ một hôm tôi gặp cô bạn tôi đi xe hơi với một người khác trông rất bảnh, sang trọng và hai người có vẻ âu yếm nhau lắm. Tôi chưa kịp kêu thì cô bạn tôi đã vội bảo người đàn ông ngồi bên ngừng xe lại và cô vội giới thiệu với tôi là người đó là chồng cô, vì người trước đã tử trận. Cô ta còn “la” thêm bằng cách khoe là chồng sau của cô đang làm giám đốc một xí nghiệp và rất thương yêu cô ta. Sau đó cô trách móc tôi đã xui dại cô ta lấy chồng trong đại hạn xấu để cô đau khổ mất mấy tháng trời vì cô đơn. Tôi làm thinh không nói và chỉ đùa một câu bằng tiếng Pháp: ”Tout est bien qui finit bien” (1) với cô ta vì cô ra hay dùng câu này với tôi. Tôi quên chưa nói thêm là ông chồng này hình dáng bệ vệ, đẹp trai, da mặt hồng hào, phúc hậu thật là ứng với Tử-Vi cư Ngọ quá xá. Nếu không ứng vào Tử-Vi thì rất có thể cô ta lại phải có chàng thứ ba. Vì thế, lúc đó tôi đã chia vui với cô bạn tôi bằng cách nói rằng cô ta đã mở đầu một giai đoạn sung sướng ít nhất là gần hết cuộc đời. Hiện nay tôi vẫn thường gặp hai vợ chồng cô ta, chẳng biết lời đoán cuối cùng của mình có linh ứng về sau hay không.

Qua mấy mẩu chuyện vui trên đây tôi ước mong quí bạn không thấy khô khan như những bài của tôi đã đăng trong KHHB và hy vọng quí bạn có thể dựa vào đó mà có một ý niệm về cách giải đoán tử-vi, một khoa tuy rất hữu ích và lý thú cho cuộc sống nhưng cũng rất tai hại nếu mình không biết cách sử dụng đúng mức. Tôi sẽ cố gắng viết một bài riêng biệt về tướng mạo, tính tình và một loạt bài về cách giải đoán có tính cách linh động, uyển chuyển và mới mẻ, để giúp quý bạn đang ham học hỏi tử-vi, đồng thời cũng để bổ túc cho những mẩu chuyện vui mà các bạn vừa đọc.

Nhân djp Xuân về kính chúc quí bạn được nhiều yếu tố tốt đẹp về tiểu hạn Quý Sửu và những yếu tố này sẽ được thể hiện trong năm mới.

(1) Chung cuộc tốt là tốt

(2) Cô ta lấy người chồng sau đúng đầu đại hạn tốt và hai đại hạn kế tiếp lại còn hay hơn.

KHHB số 34


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những mẩu chuyện vui Tử Vi: mất hạnh-phúc vì sao đào-hoa; kén vợ, kén chồng...

Cái chết oan nghiệt của Trương Phi: Lưu Bị, Khổng Minh đứng sau 'giật dây'

Nhà nghiên cứu Trung Quốc Uông Hoành Hoa chỉ ra, trong "Tam Quốc diễn nghĩa", tác giả La Quán Trung đã thực hiện một số "thủ thuật che đậy sự thực", nhằm phù hợp với quan niệm chính thống "Lưu chống Tào".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Và một trong những 'quan niệm' thực tế, khác với trong "Tam Quốc diễn nghĩa", đó là cái chết đầy oan nghiệt của Trương Phi.

Trên thực tế, cái chết của Trương Phi do bị ám sát, bên cạnh nguyên nhân từ bản thân Phi là "bạo mà vô ơn", thì Lưu Bị và Gia Cát Lượng được cho là những "hung thủ giấu mặt" sắp đặt âm mưu trong một thời gian dài.

Trương Phi (? - Mất năm 221) là danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Cái chết oan nghiệt của Trương Phi: Lưu Bị, Khổng Minh đứng sau 'giật dây' - anh 1

Mãnh Tướng Trương Phi

Trương Phi tự là Ích Đức, hay thường được gọi là Dực Đức, người Trác Quận (nay là Trác Châu, địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc).

Ông sinh trưởng trong một gia đình giàu có, làm nghề bán rượu, thân hình to lớn, dung mạo oai phong, được học hành cả võ nghệ lẫn sách vở.

Trương Phi viết chữ rất đẹp và là một họa sĩ, ông có sở trường vẽ tranh mỹ nhân.

Trương Phi - Hữu dũng, vô mưu

Nhằm giúp cho Lưu Thiện được thuận lợi đăng cơ, bảo vệ thiên hạ của Lưu gia, Lưu Bị đã quyết định "qua cầu rút ván", thanh trừng các "anh em" khác họ là Quan Vũ, Trương Phi.

Lưu Bị đã âm mưu loại trừ Quan Vũ, liệu có khả năng sẽ bỏ qua Trương Phi?

So với Lưu Bị và Quan Vũ, Trương Phi không có lập trường chính trị rõ ràng. Ông không có xuất thân bần hàn như Lưu Bị, cũng không có tư tưởng diệt cường hào như Quan Vũ.

Trương Phi tòng quân thuần túy vì tinh thần "nhiệt huyết hào tình", cho rằng đại trượng phu thì nên ra giúp nước.

Thêm nữa, con người Trương Phi "quá mức đơn giản". Ông lầm tưởng rằng con cháu của mình cũng cam tâm ở "chiếu dưới", vĩnh viễn trung thành với gia tộc họ Lưu.

Cái chết oan nghiệt của Trương Phi: Lưu Bị, Khổng Minh đứng sau 'giật dây' - anh 2

Trương Phi tòng quân thuần túy vì tinh thần "nhiệt huyết hào tình"

Ông cũng lầm tưởng rằng "anh cả" Lưu bị sẽ mãi mãi giữ trọn lời thề nhân nghĩa, coi ông là "huynh đệ khác họ".

Trên thực tế, mô hình huynh đệ kết nghĩa "đồng sinh cộng tử" như La Quán Trung xây dựng chỉ phù hợp với thời đồng tâm hiệp lực đánh thiên hạ, không hợp với thời Hoàng đế chuyên quyền nắm thiên hạ.

Đây có phải là 'dấu hiệu' dẫn đến cái chết đầy oan nghiệt của Trương Phi?

Âm mưu hiểm độc của Lưu Bị

Lưu - Quan - Trương đã "cùng nhau" dựng nên triều đình Thục Hán, thì hậu duệ của bọn họ về lý thuyết phải cùng hưởng quyền kế thừa Hoàng vị, chỉ cần tuân thủ nguyên tắc "lập trưởng không lập ấu, lập hiền không lập ngu".

Cái chết oan nghiệt của Trương Phi: Lưu Bị, Khổng Minh đứng sau 'giật dây' - anh 3

Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi kết nghĩa huynh đệ tại vườn đào. Ảnh minh họa.

Lưu Bị trong vai trò là huynh trưởng, đồng thời cũng là người có lợi ích bị đe dọa trực tiếp, đương nhiên sẽ không để mô hình chính trị "lý tưởng" đó uy hiếp quyền kế vị và thống trị của Lưu Thiện, phá hủy huyết thống "Hoàng gia chính tông" của ông.

Chưa cần nói tới việc đăng cơ làm Hoàng đế Trung Nguyên, cho dù chỉ dừng ở ngôi Hán Trung Vương hay Hoàng đế Tây Thục, khả năng Lưu Bị chia sẻ thiên hạ với 2 họ Quan, Trương cũng không thể xảy ra, nhất là khi Lưu Thiện hoàn toàn không có năng lực cạnh tranh.

Vốn đã có sẵn ý đồ thoát khỏi mô hình "chính trị huynh đệ", Lưu Bị đã ngấm ngầm mượn tay Đông Ngô triệt hạ Quan Vũ, rồi dùng danh nghĩa "tầm thù" để hóa giải lời thề "đồng sinh cộng tử".

Lưu Bị là cao thủ dùng người. Ban đầu, Bị mượn tay Quan Vũ, Trương Phi để "cất cánh". Đến khi đại công sắp thành, lại muốn mượn tay người khác để loại trừ hậu hoạ.

Người được Lưu Bị "chọn mặt gửi vàng" không ai khác ngoài quân sư Gia Cát Lượng.

Đòn hiểm của Khổng Minh

Gia Cát Lượng cũng không phụ sự kỳ vọng của Lưu Bị. Với sở trường "tâm lý chiến" của mình, ông đã khuếch đại khiếm khuyết trong tính cách của Quan Vũ và Trương Phi bằng những "viên đạn bọc đường".

Với Trương Phi, Khổng Minh cho ông lĩnh quân mai phục, diễn màn "tiếng thét trên cầu Đương Dương đẩy lui trăm vạn Tào binh", chính là giúp Phi khoe được cái "dũng" của mình.

Đến khi Khổng Minh muốn "diệt" Quan Vũ, Trương Phi, ông chỉ cần "thổi phồng" cái Tôi của 2 vị danh tướng này lên.

Khi Quan Vân Trường nhận được địa vị "ngũ hổ thượng tướng đệ nhất dũng" mà Lượng phong tặng đã nói - "Kẻ hiểu ta chính là Khổng Minh".

Nhưng Quan Công không ngờ được đó chính là "độc dược" mà Gia Cát Lượng gieo vào đầu ông, mà tưởng rằng bản thân đích thực là uy chấn thiên hạ rồi.

Trương Phi nhận được 3 xe rượu ngon của Gia Cát Lượng gửi tặng, cũng tưởng rằng bản thân là "trí thần - tửu thần" vô địch thiên hạ, đánh đâu thắng đó.

Thực chất, cả Quan Vũ và Trương Phi đều đã vui vẻ bước vào "con đường diệt vong" mà Khổng Minh bày sẵn rồi.

Kết cục cay đắng sau cái chết của Trương Phi

Lưu Bị xưng đế 3 năm không hề nhắc đến chuyện báo thù cho Quan Vũ, khiến Trương Phi "mất phương hướng", rồi đến một ngày đột nhiên hạ chỉ phát binh phạt Ngô.

Trong 3 năm đó, Trương Phi đã sớm trở thành "sâu rượu", ý chí tiêu tán, đâu còn là đại tướng lẫy lừng của Thục Hán.

Việc Lưu Bị "nuôi" Trương Phi thành một kẻ nát rượu rồi ra lệnh "cấm rượu" trước ngày phạt Ngô được các học giả hiện đại đánh giá là một "đòn độc" rất cao tay.

Trương Phi là người "ưa mềm không ưa cứng", lệnh cấm của Lưu Bị chỉ khiến Phi càng ham rượu, mà Trương Phi càng ham rượu thì càng lộ rõ tính bạo ngược.

Theo nhiều học giả Trung Quốc, việc Trương Phi bị ám sát trong quân chỉ là màn cuối trong vở kịch mà Lưu Bị và Khổng Minh đã dựng sẵn, khiến Trương Phi "vì ngu dốt mà tự hại mình".

Còn Lưu Bị khi nghe tin thì "òa khóc", có lẽ là khóc vì quá vui mừng.

Trang Ly (T/h)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cái chết oan nghiệt của Trương Phi: Lưu Bị, Khổng Minh đứng sau 'giật dây'

Chùa Xá Lợi - Thành Phố Hồ Chí Minh

Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đầu tiên của thành phố được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường
Chùa Xá Lợi - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Xá Lợi nằm tại số 89 đường Bà Huyện Thanh Quan, phường 7, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng của thành phố Hồ Chí Minh, ngôi chùa đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng theo lối kiến trúc mới.

Chùa được xây dựng để thờ xá lợi Phật tổ nên được đặt tên là chùa Xá Lợi. Đây là ngôi chùa có tháp chuông cao nhất Việt Nam. Chùa chính thức khởi công xây dựng ngày 5/8/1956 trên một diện tích 2500 m2. Chùa được xây dựng theo bản vẽ của hai kiến trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, với sự tham gia kỹ thuật của hai kỹ sư Lê Văn Hổ và Trương Văn Khoa cùng với sự đôn đốc thi công của hai kỹ sư Dư Ngọc Ánh và Hồ Tố Thuận. Chùa được khánh thành vào các ngày 2, 3, 4 tháng 5 – 1958.

Chùa Xá Lợi là được xây dựng theo lối kiến trúc mới, trên là bái đường, phía dưới là giảng đường. Trên nóc Chính điện là những đầu mái uốn cong truyền thống. Chùa có các hạng mục: cổng tam quan, ngôi chính điện, giảng đường, tháp chuông bảy tầng, thư viện, văn phòng Ban quản trị, khu tăng phòng, nhà trai đường, phòng khách, đoàn quán gia đình Phật tử, phòng phát hành kinh sách, nhà vãng sinh và các vườn cảnh.

Kiến trúc mang nét đặc trưng làm nên phong cách riêng của chùa Xá Lợi là ngôi Chính điện và tháp Chuông bảy tầng. Trên tường xung quanh Chính điện có 14 bộ tranh mô tả lịch sử cuộc đời đức Phật từ lúc Đản sanh đến khi nhập Niết bàn. Trên Chính điện còn có một tháp bằng ngọc, hình lá Bồ đề, bên trong đựng ngọc Xá Lợi của đức Phật Thích Ca. Tháp đựng Xá Lợi được tôn trí ở trên cao, ngay trước tượng Phật Thích Ca.

Mặt trước chùa là cổng Tam quan chính, nhìn ra đường Bà Huyện Thanh Quan. Cổng Tam quan phụ mở ra phía đường Sư Thiện Chiếu. Phía trong cổng Tam quan chính, bên trái là tháp Chuông bảy tầng cao 32m được khởi công xây dựng ngày 15 tháng 12 năm 1960 và khánh thành ngày 23 tháng12 năm 1961. Tầng cao nhất có treo một đại hồng chuông nặng 2 tấn, với tiếng chuông ngân nổi tiếng, từng được nhiều thế hệ biết đến qua bài vọng cổ “Tiếng chuông chùa Xá Lợi” do soạn giả Viễn Châu sáng tác. Bên trái chính điện có một cây Bồ đề do ông Trần Văn Hậu mang về từ Colombo. Cạnh cây Bồ đề có đài Bốt tát Quán Thế Âm Lộ Thiên.

Chùa Xá Lợi là ngôi chùa đặc biệt không có câu đối. Nhưng chùa lại có những pháp khí qúi giá khác: Bức hoành phi đề bốn chữ Hán tự “Đông thùy pháp vũ” do chính tay Từ Hy thái hậu viết; Một tháp bằng bạc trong đựng ngọc Xá lợi của Đức Hoạt Phật Chương Gia Đại Sư do Pháp sư Diễn Bồi mang từ Đài Loan sang tặng chùa; Một ngọn tháp bằng đồng lấy kiểu từ ngọn tháp cổ đã tìm lại được dưới đất sâu tại Ấn Độ hồi thế kỉ 18.

Chùa Xá Lợi là ngôi chùa Bắc tông duy nhất ở Việt Nam hiện lưu giữ pho kinh Pali viết trên lá buôn cổ xưa nhất. Pho kinh này đã trên một ngàn năm tuổi. Bản kinh dài 45 cm, rộng 6cm, hai đầu có dùi lỗ để xỏ chỉ xâu lại. Bìa kinh làm bằng gỗ, sơn son thép vàng, có trang trí hoa văn cầu kì. Pho kinh được bọc trong một khăn lụa ngũ sắc.

Tượng thờ tại chùa Xá Lợi rất đơn giản. Chùa chỉ thờ duy nhất một tượng Phật Thích Ca trên chính điện. Cách bài trí tượng thờ ở chùa Xá Lợi có nét gần gũi với Phật giáo Nam tông hơn. Chánh điện chùa Phật giáo Bắc tông thường tôn trí nhiều bệ thờ, nhiều tượng Phật. Nhưng ngược lại, chánh điện chùa Phật giáo Nam tông chỉ thờ một pho tượng Thích Ca mà thôi. Ngay cách trang trí cũng thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng vẫn không kém phần trang nghiêm, thành kính.

chùa xá lơi
Quang cảnh khuôn viên chùa

Ngôi chùa đối với người Việt Nam không những là nơi thờ tự mà còn là trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi sinh hoạt văn hóa nghệ thuật và hội hè của tất cả mọi người. Thư viện sách trong chùa hiện có trên 3000 đầu sách, trong đó có hai bộ Đại tạng king bằng chữ Hán rất có giá trị, đó là bộ Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh và bộ Tân Tu Tục Tạng. Thư viện mở cửa phục vụ ngày hai buổi suốt cả tuần. Từ thứ hai đến thứ năm dành cho bạn đọc người Việt, từ thứ sáu đến chủ nhật dành cho bạn đọc người Hoa.

Chùa Xá Lợi còn là ngôi chùa thường hay tổ chức lễ hằng thuận (lễ cưới) cho những cặp uyên ương là Phật tử và những ai muốn tổ chức lễ cưới theo nghi thức Phật giáo.

Nếu bạn muốn tĩnh tâm sau những ngày làm việc căng thẳng? Bạn muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc vừa cổ kính vừa hiện đại và tham gia vào những lễ hội tâm linh? Mời bạn đến viếng thăm chùa Xá Lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Xá Lợi - Thành Phố Hồ Chí Minh

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối
Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lý giải thế giới tâm linh là một trong những “ước mơ chưa thành hiện thực” của con người. Dù khoa học đang tiến bộ không ngừng, nhưng vẫn có những khoảng tối chưa thể chạm tới.


Cham toi the gioi tam linh bang khoa hoc hinh anh
 
Nước Nga từ lâu đã thành lập viện nghiên cứu "não bộ". Họ hy vọng việc nghiên cứu bộ óc sẽ khám phá ra những điều mới lạ, đồng thời mở được cả cánh cửa "Huyền môn" để lý giải thế giới tâm linh mà từ lâu loài người thường cho là vô cùng huyền bí.
 
Bề ngoài thế giới chỉ biết được mục đích của việc nghiên cứu này ở Moscow là tìm hiểu sự liên hệ giữa bộ óc và thiên tài, năng khiếu của một con người như thế nào. Nhưng bên trong là những nghiên cứu có liên quan đến các sự kiện vượt ra ngoài ảnh hưởng của trường vật lý mà con người đang sống đó là lý giải thế giới tâm linh.
 
Ví như bộ não của Edgar Cayce, một người bình thường như bao người khác nhưng vào năm 35 tuổi ông tự nhiên thấy rõ được quá khứ xa xăm của những người bị bệnh ngồi hay nằm trước mặt ông và khi đó ông đi vào giấc ngủ thôi miên.
 
Năm 1945, ông Cayce biết trước mình sắp qua đời nên ngỏ ý tặng Viện Nghiên cứu óc não bộ óc của mình để các nhà khoa học tại đây nghiên cứu. Các khám phá từ lâu cho biết bán cầu não phía bên trái là cơ sở quan trọng của tư tưởng trừu tượng, nơi đây có thể là phần quan trọng cho các hoạt động thuộc lãnh vực tâm linh huyền bí.
 
Mới đây, các nhà khoa học còn tìm thấy một bộ phận cơ thể kỳ diệu khác có liên quan đến hiện tượng tâm linh. Đó là tuyến tùng quả (Pineal gland) nằm trong hốc não. Một khám phá mà Nga trong năm 1995 đã tập trung nghiên cứu là năng lượng bộ não người chết còn khả năng phát điện một thời gian dài. Theo các nghiên cứu về óc não thì sau khi con người chết đi, dù họ đã sống được 100 năm, năng lượng bộ não của họ cũng chỉ mới sử dụng một hay hai phần mười mà thôi.
 
Năng lượng còn lại ấy sẽ tiếp tục lan tỏa, truyền đi trong không gian. Chính vì thế mà có hiện tượng "mã phát" mà các cụ xưa thường nói. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nga và Pháp thì hiện tượng gọi là mã phát chính là sự cộng hưởng giữa năng lượng hay điện não của bộ não người đã chết với năng lượng hay điện não người sống qua hiện tượng di truyền liên kết.
 
Phải chăng đây là lời giải cho những hiện tượng tâm linh huyền bí hay những khả năng vi diệu của con người. Đến nay, năng lượng não bộ con người vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu và trong tương lai, nhiều khám phá mới sẽ được công bố.
► ## giải mã giấc mơ theo khoa học tâm linh chuẩn xác

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải thế giới tâm linh bằng khoa học

Những người sinh năm Tý, cầm tinh con chuột –

Trực giác sắc bén, khả năng thích ứng với môi trường cao, đa tài đa nghệ, là người được trời phú cho tính lạc quan, đi đến đâu cũng được hoan nghênh. a. Tính cách Có một câu ngạn ngữ rằng: "Một hạt lúa mạch, nếu không rơi xuống đất thì nó vẫn chỉ là
Những người sinh năm Tý, cầm tinh con chuột –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những người sinh năm Tý, cầm tinh con chuột –

Nằm mơ thấy dao có ý nghĩa gì? –

Mơ thấy dao là điềm báo tốt hay xấu? Rất nhiều bạn thắc mắc về điều này. Hãy cùng chúng tôi giải mã giấc mơ để đoán biết những điều ẩn chứa đằng sau giấc mơ này nhé! Theo các chuyên gia về giải mã giấc mơ cho biết nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ th
Nằm mơ thấy dao có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy dao có ý nghĩa gì? –

Cách xem tướng nhận biết người phú quý giàu sang –

Tướng này có người sinh ra đã có, có người do tu tâm dưỡng tính, làm nhiều việc thiện, do gặp vận may, hay do đức của cha mẹ truyền lại mà có: + Khí trong, tiếng nói vang, trán cao, mắt sáng, mày thưa, tai dày, môi hồng, mũi thẳng, mặt vuông, lưng đầ
Cách xem tướng nhận biết người phú quý giàu sang –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem tướng nhận biết người phú quý giàu sang –

Tướng người cao quý –

Đại để tướng người cao quý toàn thân toát ra vẻ quý phái sang cả Những người như vậy diện mạo không hẳn là xinh đẹp, đôi khi còn dưới mức trung bình, nhưng hầu hết đều có một số nét tướng sau đây: Tướng người cao quý Đại để tướng người cao quý toàn
Tướng người cao quý –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người cao quý –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd