Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán

Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán, các bạn cùng tìm hiểu để biết được phong tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa của người Á Đông nói chúng và người Việt Nam nói riêng. Tết đến Xuân về không chỉ là niềm khao khát của biết bao đứa trẻ để được xúng xính quần áo mới, được ăn bánh mứt và nhất là được nhận lì xì. Mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đó là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Bên cạnh đó là khao khát sự trường tồn cuộc sống, sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân, sự gắn kết trong cộng đồng, gia tộc và gia đình. Tết Nguyên đán còn là dịp để hướng về cội nguồn. Đó là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt, trở thành truyền thống tốt đẹp.

Tết Nguyên Đán - hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết. “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Tết Nguyên Đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”, là để phân biệt với “Tết Tây” (Tết Dương lịch).

Tết Nguyên Đán được tính từ ngày nào?

Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.

Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Nguồn gốc của Tết Nguyên Đán

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hoa Trung Quốc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, Tết Nguyên Đán cũng là một trong những nét văn hóa được du nhập trong thời điểm đó. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.

Đến thời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày Mồng một cho đến hết ngày mồng Bảy.

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Ý nghĩa của Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó chính là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà,… được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Tết Nguyên đán với ý nghĩa sâu xa và mang tính thiêng, trang trọng là tiễn đưa năm cũ, chào đón, chúc tụng năm mới sức khỏe con người tốt hơn, sinh kế khá hơn, hạnh phúc cá nhân – gia đình bền vững hơn và khởi đầu từ ý thức hệ nông nghiệp, sau dần tỏa rộng trong đời sống con người toàn xã hội, song vẫn mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp.

Người Việt cho rằng, Tết Nguyên đán là cơ hội để thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” một cách sâu sắc, cụ thể nhất. Giá trị hướng về cội nguồn là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm của người Việt với Tết Nguyên đán. Giá trị này đã trở thành nếp sống truyền thống tốt đẹp, bền vững.

Người ta tin rằng, vào dịp Tết Nguyên đán, tổ tiên cũng sẽ hiện diện trên bàn thờ gia tiên, ở nhà thờ họ để chứng kiến lòng thành của con cháu, và từ đó sẽ phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh, làm ăn ổn định và sống hạnh phúc trong tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, vợ chồng. Đó là ý nghĩa tâm linh của Tết Nguyên đán.

Khi thắp nén hương, bày mâm cỗ cúng dâng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán, người Việt mới thấy thỏa mãn và yên lòng trong cuộc sống tiếp theo khi bước vào năm mới.

Tết đến, người Việt chuẩn bị mọi điều kiện sống đầy đủ, có đạo đức, có truyền thống tốt. Chẳng hạn: ăn phải ngon, bổ dưỡng, khác hẳn ngày thường. Mặc phải đẹp, bất kể lứa tuổi nào, bất cứ giới nào: nam hay nữ, nông dân, thợ, kẻ sĩ hay chức sắc, lão bà hay lão ông.

Ai cũng thấy như phải gần gũi nhau hơn, nói những điều hay với ngôn ngữ chọn lọc. Chẳng hạn, Tết là phải chúc mừng nhau: sức khỏe, tuổi tác (trường thọ), chúc “làm ăn bằng năm, bằng mười năm ngoái”… Có phần ngoa ngôn, song vẫn êm tai và thực lòng. Cho nên, Tết đến, người ta vui vẻ, dịu hiền, là cơ hội để hòa giải những bất đồng, “giận đến chết đến Tết cũng thôi”.

Đó là giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ mà người Việt muốn đạt tới và thường đạt tới. Cho nên, những ngày trong dịp Tết Nguyên đán thực sự là những ngày vui vẻ, hạnh phúc cho tất cả mọi người.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán

Xem tháng sinh, biết ngay tính cách

Xem tháng sinh người sinh vào tháng nào sẽ được sao tháng ấy chiếu mệnh. Dựa vào đó mà dự đoán tương lai, tính cách, cơ hội tương đối chính xác.
Xem tháng sinh, biết ngay tính cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người sinh vào tháng nào sẽ được sao tháng ấy chiếu mệnh. Dựa vào đó mà dự đoán tương lai, tính cách, cơ hội tương đối chính xác.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Xem thang sinh, biet ngay tinh cach hinh anh
 
1. Tháng Giêng (Dần)
- Óc quan sát và khả năng thực hành rất tốt, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ.
 
- Giỏi nắm bắt thời cơ, tài vận tốt đẹp.
 
- Mưu sự cẩn trọng. Mọi sự nhắm trúng mới hành động, quyết không hành sự mù quáng.
 
- Quan hệ gia đình xã hội nói chung hòa thuận, tốt đẹp, được cấp trên nâng đỡ cất nhắc, đề bạt.
 
2. Tháng Hai (Mão) - Có óc thẩm mỹ hoặc nghệ thuật.
 
- Cá tính hiền, trầm lắng, cẩn trọng, lương thiện, bình tĩnh.
 
- Suy nghĩ kỹ càng, tỉ mỉ, nhanh nhạy, quan hệ con người tốt, đầy sáng tạo.
 
- Bề ngoài dễ bị đánh giá nhàn tản.
 
- Giỏi kiếm tiền và quản lý tài chính. Về già an vui.
 
- Thường phải ly hương mưu sinh lập nghiệp. Lục thân khiếm hòa, không đằm thắm.
 
3. Tháng Ba (Thìn) - Rất nhẫn nại trong bất cứ việc gì.
 
- Bất luận nam, nữ đều khá sành điệu trong ẩm thực nhưng chưa hẳn đã mập.
 
-Tâm hồn trong sáng, ham học hỏi, giỏi nhẫn nhịn.
 
- Khi còn trẻ không có gì nổi trội. Ngoài 40 tuổi, đa số phát tài, phát lộc dần dần giàu có. Cuối đời dư dả, phú quý.
 
4. Tháng Tư (Tỵ) - Đặc điểm nổi bật nhất là con người của công việc, vùi đầu vào công việc, đâu vào đó.
 
- Năng động, hiếu động, nóng nảy. Thường nóng -  lạnh thất thường.
 
- Luôn phấn chấn, ít ca thán.
 
- Thích chơi với người ngoài hơn người thân.
 
- Tự lực, tự cường, tự thân lập nghiệp, thành công ở tuổi trung niên.
 
5. Tháng Năm (Ngọ) - Chuyên tâm với nghề nghiệp, vững bước tiến lên.
 
- Thiện ác phân minh. Thông minh, nho nhã.
 
- Dám nhận thiếu sốt, sai lầm của mình. Biết sai là sửa. Đôn hậu, thiện tâm, hiếu thảo.
 
- Công bằng, chính trực, được mọi người tin tưởng quý mến. Luôn được quý nhân hỗ trợ.
 
- Hôn nhân thường không thuận, qua vài cầu vẫn không ổn.
 
6. Tháng Sáu (Mùi) - Thông minh, nhạy bén, ham hiểu biết, thích giao tiếp.
 
- Cảm thụ về tình cảm rất nhanh nhạy.
 
- Làm việc tích cực, chủ động, ít sợ khó khăn, trở ngại, quyết chí vươn lên. Tự thân lập nghiệp, đi trên đôi chân của mình.
 
- Dễ trở nên bất mãn với hiện trạng. Khát khao làm nhà cách tân, đổi mới.
 
- Suốt đời cơm áo đầy đủ, sung túc.
 
7. Tháng Bảy (Thân) - Thông minh, nhanh nhạy, nhân hậu, lương thiên, hành thiện tích đức.
 
- Đầy tính sáng tạo, làm việc cẩn thận, tỉ mỉ.
 
- Năng lực học tập tốt, là người chủ nghĩa hòa bình điển hình, không muốn gây gỗ với ai.
 
- Làm việc nhanh chóng, không rề rà.
 
- Suy nghĩ chu đáo.
 
- Nếu được bồi dưỡng, đào tạo tốt sẽ có triển vọng là nhà hoạch định chiến lược có tài.
 
- Cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ cho đến cuối đời.
 
8. Tháng Tám (Dậu) - Đầy cảm tính và khá tùy hứng.
 
- Rất lãng mạn.
 
- Theo đuổi cái hoàn thiện, hoàn mỹ. Là người điển hình của chủ nghĩa lý tưởng, cái gì cũng lý tưởng hóa có khi là ảo tưởng.
 
- Mua sắm theo ý thích, theo cảm hứng, bất chấp giá cả và việc sử dụng, phá tiền.
 
- Nhanh nhạy, biết nắm bắt thời cơ, năng động, có tài lẻ. Đa năng, đa tài, đa nghệ.
 
- Không giỏi xử lý mối quan hệ gia đình, thường bất hòa, đôi khi gây cấn, căng thẳng.

9. Tháng Chín (Tuất) - Trung thành tuyệt đối.
 
- Tích cực chủ động, hiếu động và rất đáng tin cậy.
 
- Trong chuyện yêu đương lại vội vàng, hấp tấp, nóng vội, chưa hiểu rõ đối tượng đã tỏ tình ý. Yêu vội cưới gấp nên dễ đổ vỡ.
 
- Quan vận và tài vận không mấy tốt đẹp.
 
10. Tháng Mười (Hợi) - Theo đuổi chủ nghĩa cầu toàn. Bao dung, độ lượng, tâm hồn rộng mở.
 
- Ham và giỏi suy nghĩ, óc tưởng tượng phong phú nhưng năng lực thực hành lại yếu. Xử lý công việc có tình lý.
 
- Quan hệ xã hội chan hòa nhưng vẫn giữ khoảng cách nào đó nhất định.
 
- Thích ẩn mình thế giới riêng tư của mình, tránh xa cõi trần, cô liêu trong sự ồn ào.
 
11. Tháng Mười Một (Tí) - Tài trí, nhanh nhạy. Công danh khá thuận.
 
- Khả năng diễn đạt tốt, có sức thuyết phục.
 
- Tính nóng nảy, có vẻ đùa giỡn, chọc ghẹo với quyền lực nên dễ vướng thị phi chốn quan trường.
 
- Nếu Tôi cường, cách cục đẹp sẽ có triển vọng là quân sư có tài.
 
- Nếu Can Thổ nhiều thì cá tính nóng vội, dễ làm người khác phật ý.
 
12. Tháng Mười Hai (Sửu) - Đa số đều có tính cách tích cực tiến công, phấn đấu ít mệt mỏi. Có thiện tâm, vui vẻ, được mến mộ.
 
- Thường thiếu tin tưởng vào người khác, cái gì cũng phải để mắt vào nên bận rộn, vất vả.
 
- Hay gặp rắc rối hoặc bị liên lụy bởi người thân, bạn bè nên cuộc sống ít thanh thản.
 
- Không đọng tài, tiền bạc hay bị hao tán.
 
Dự đoán tương lai theo tháng sinh khá chính xác bởi tháng sinh là một trong Bát tự và một trong Tứ trụ, đặc biệt quan trọng trong vận mệnh của một người.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tháng sinh, biết ngay tính cách

Nằm mơ thấy chó là điềm gì –

Chó là loài động vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 15.000 năm vào cuối Kỷ băng hà. VÀ là một loài thú cưng được nuôi trong các gia đình. Bạn vừa trải qua một giấc mơ với chú cho thân yêu của mình hay một chú chó chưa gặp lần nà
Nằm mơ thấy chó là điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy chó là điềm gì –

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, Phong thủy, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân, tu vi Phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân

Các cô nàng còn độc thân nên lưu ý những kiêng kỵ phong thủy sau đây trong bài trí nhà cửa để may mắn hơn trong tình duyên.

Muốn biết vận may và tiền tài của nữ gia chủ chỉ cần nhìn gian bếp. Nếu phòng bếp có cột đè lên kệ bếp sẽ không có lợi cho tiền tài. Nếu vừa mở cửa chính nhìn thấy bếp dễ hao tài. Vì thế khi mua nhà, các cô nàng còn độc thân cần xem kĩ vị trí phòng bếp.

Tài vị (vị trí của tài khí) chính là 2 góc phòng khách đối diện với cửa chính, đây là vị trí phong thủy quan trọng. Nếu bạn là cô nàng độc thân cần quan sát kĩ xem có đủ hai vị trí đó không. Bởi nếu không có đủ tài vị thì căn hộ của bạn không thể tích tụ được tài khí, gây hao tài tốn của liên miên.

Căn hộ dành cho người độc thân thường có diện tích nhỏ nên chỉ cần nhìn lướt qua là có thể bao quát được mọi thứ trong nhà. Phong thủy dành cho căn hộ của người độc thân cũng đơn giản hơn. Nhưng có một điểm quan trọng bạn cần chú ý, phong thuy khi mua nhà hoặc thuê nhà, cần chú ý không nên chọn những căn hộ khi mở cửa chính đã thấy ban công vì cách bố trí như vậy thường không thể giúp bạn tụ tài khí.

Trần nhà hoặc tường nhà nhất định không được ngấm nước. Nếu nhà thuê thì nên đổi phòng khác, nếu nhà mình thì phải gọi người vào sửa lại. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng xấu đến phương diện tình cảm, mà còn ảnh hưởng đến tiền tài của bạn.

Nếu trong nhà có ban thờ thì bên trái là thờ thần linh, bên phải là thờ tổ tiên. Nếu chỗ đặt bài vị của tổ tiên có dây điện, hay dính vào góc trần nhà cũng sẽ không có lợi cho nữ gia chủ.

Trần phòng ngủ không được trang trí quá rườm rà phức tạp, kẻo ảnh hưởng tới phương diện tình cảm của nữ chủ nhà. Trần phòng như vậy dễ khiến người yêu bạn có thiên hướng phân tâm hoặc ngoại tình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 kiêng kỵ phong thủy cần thiết với người độc thân - Phong thủy - Xem Tử Vi

Những loại cây nên trồng trước nhà để đón tài lộc, xua tà khí

Trong quan niệm thông thường, trồng cây ở phía trước nhà vừa tạo không gian sống xanh, vừa tạo không khí trong lành. Nhưng ít người biết, trồng cây phía trước nhà cũng cần lưu ý lựa chọn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong quan niệm thông thường, trồng cây ở phía trước nhà vừa tạo không gian sống xanh, vừa tạo không khí trong lành. Nhưng ít người biết, trồng cây phía trước nhà cũng cần lưu ý lựa chọn. Bởi chỉ một số ít loại cây có công dụng đảm bảo tài vận, sức khỏe cho gia chủ theo phong thủy.

 nhung loai cay nen trong truoc nha de don tai loc, xua ta khi - 1

Những loại cây nên chọn lựa trồng trước khuôn viên nhà. Ảnh minh họa

Trồng cây lớn dễ gặp xui xẻo

Trong thư gửi đến chuyên mục Phong thủy Đông Tây, anh Nguyễn Vĩnh Nguyên (Khu đô thị Linh Đàm – Hà Nội) có đặt câu hỏi: “Tôi đang hoàn thiện căn nhà mới mua trong khu đô thị mới. Phía trước nhà có khoảng sân chừng hơn 20m và tôi dự tính mua một gốc xoài lớn về trồng lấy bóng mát. Nhưng khi nói ý định này, một vài người bạn lại khuyên tôi không nên. Họ nói cây xoài khi lớn lên, mọc quá sum suê sẽ gây yếm khí, không tốt về phong thủy. Vậy nên trồng loại cây nào cho phù hợp”?

Thực tế, băn khoăn khi chọn loại cây hợp phong thủy trồng phía trước nhà của anh Nguyên cũng là mối quan tâm chung của nhiều gia đình. Theo chuyên gia phong thủy Hoàng Tuấn, điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi trồng cây phía trước nhà ngoài việc tạo không gian sống xanh còn đòi hỏi sự lựa chọn kỹ lưỡng và đáp ứng một số nguyên tắc. Chẳng hạn, gia chủ không nên trồng cây quá lớn trước nhà. Cây quá to, cành lá sum suê sẽ che hết ánh sáng vào nhà. Do đó, không gian trong nhà luôn tối tăm, thiếu dương khí. Đó là chưa kể về mặt quy luật tự nhiên, cành cây lớn khi bị chết khô, hoặc vào mùa mưa bão dễ gãy đổ, sẽ gây nguy hiểm nếu không may rơi xuống. Hơn thế, vào mùa lá rụng, chắc chắn lá cây úa vàng, phân hủy sẽ gây mất vệ sinh, ảnh hưởng sức khỏe.

Trong quan niệm phong thủy, cây lớn án ngữ trước nhà ngăn ánh sáng mặt trời cũng đồng nghĩa với việc “âm khí thịnh” và “dương khí suy”. Điều này rất không tốt cho việc làm ăn kinh doanh hay sức khỏe gia chủ. Người ta cũng kiêng kỵ việc cây lớn đang trồng bị chết khô hoặc gãy đổ, sẽ khiến gia chủ hao hụt tài lộc.

Vậy trường hợp gia đình bạn có cây lâu năm mọc sẵn trước cửa, ngăn ánh sáng thì hóa giải như thế nào? Đối với câu hỏi này, CGPT Hoàng Tuấn tư vấn các gia đình nên thắp đèn sáng trước nhà. Bên cạnh đó, có thể tham khảo ý kiến các KTS – CGPT để di dời cổng, đổi hướng cổng, cửa. Cây trồng trước nhà không nên để khô hoặc chết mà phải chăm sóc, tưới nước để cây xanh tươi. Nếu cây chết phải chặt đi và trồng thay thế cây khác. Nếu phía trước nhà mà có cây bị khô hoặc chết, gia chủ sẽ phải chịu nhiều chuyện buồn đau và sống cô đơn.

5 loại cây sinh tài lộc

Cây cau: Cau là loài cây có thân thẳng, thanh mảnh nên không ngăn nắng sớm, cũng như luồng ánh sáng cần thiết vào ngôi nhà. Bên cạnh đó, cau cũng không cản gió mát lành vào nhà. Không chỉ vậy, cau còn ít rụng lá không làm hỏng cảnh quan phía trước nhà.

Điều quan trọng hơn, cây cau khi được trồng trước nhà sẽ giúp tăng nguồn năng lượng dương, giảm năng lượng âm ảnh hưởng đến ngôi nhà, từ đó mang đến may mắn cho gia chủ.

Tre, trúc: Cây trúc ngụ ý trời đất trường xuân, trời đất dài rộng. “Trúc” gần âm với “chúc” có ý chỉ chúc phúc tốt đẹp. Theo phong thuỷ cổ truyền, thường cho rằng, trước và sau nhà có trúc là đem lại tốt lành cho cả gia đình.

Cây tre là biểu tượng của tuổi thọ bởi nó là loài thực vật luôn xanh tươi quanh năm trong bất cứ thời tiết nào và vẫn có thể phát triển trong những điều kiện rất khó khăn.

Treo một bức tranh vẽ theo lối truyền thống hình dáng cây tre lá xanh tươi trong phòng học hay văn phòng có thể gặp may mắn về việc học hành và công việc kinh doanh. Trồng tre, trúc trước cửa nhà, giúp gia chủ xua tan điềm xui rủi, đánh bay mọi thị phi và nhân điều may mắn lên gấp bội.

Dừa cảnh: Cây dừa cảnh sẽ mang đến điềm lành cho gia chủ đồng thời giúp thanh lọc không khí cho cả gia đình. Không chỉ vậy, dừa cảnh còn giúp công việc làm ăn của chủ nhà được thuận buồm xuôi gió, phát lộc, phát tài.

Tuy nhiên nó không mấy dễ kiếm và giá cả cũng không mềm mại. Nếu thực sự ưa thích, bạn hoàn toàn có thể trồng chúng trong nhà vì lợi ích thanh lọc không khí của dừa cảnh là vô cùng lớn. Nhưng, trước khi quyết định tậu một cây về nhà, hãy chịu khó học cách trồng và chăm chúng thật tỉ mỉ.

Cây thuộc họ cam, chanh: Gồm có chanh, quất, cam, quýt rất thích hợp đặt ở cửa ra vào. Đây là những loại cây mang đến nguồn tiền tài dồi dào cho gia chủ, đặc biệt là những dịp năm mới và đầu xuân. Hơn nữa, quả cam, chanh… giống như một kiểu “mộc nhãn” giúp chủ nhân tinh tường, nhìn ra được cơ hội làm ăn, dự đoán được các nguy cơ trong công việc để hóa giải.

Cây hoa hòe: Cây hoa hòe có mùi thơm rất dễ chịu. Ngoài công dụng là vị thuốc hữu ích trong y học, hoa hòe còn có ý nghĩa phong thủy mang lại cuộc sống sung túc, phú quý cho chủ nhân khi được trồng phía trước nhà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những loại cây nên trồng trước nhà để đón tài lộc, xua tà khí

Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí...
Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tiêu là một trong những nơi hiếm hoi ở Việt Nam còn để lại dấu tích của các bậc thiền sư nổi danh trong lịch sử như thiền sư Vạn Hạnh, Như Trí… Chùa Tiêu thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh được trụ trì bởi Ni trưởng Thích Đàm Chính. 

Chùa Tiêu Sơn thường gọi là Chùa Tiêu tên chữ là Thiên Tâm Tự, xưa còn có tên là chùa Lục Tổ, nằm ở sườn núi Tiêu, dưới chân núi là dấu tích dòng sông Tiêu Tương cổ. Từ lâu chùa đã nổi tiếng là danh lam cổ tự. Chùa Tiêu là chốn tu thiền huyền bí của người xưa và là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

Lịch sử: Chùa Tiêu Sơn gắn liền với lịch sử dựng nước của dân tộc. Linh khí đất Tiêu Sơn đã sản sinh cho dân tộc một người con ưu tú đó là vua Lý. Đây là một trung tâm Phật giáo lớn, nơi trụ trì của Quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tại ngôi chùa này, Thiền sư Lý Vạn Hạnh có công nuôi dạy Lý Công Uẩn, sau này khai lập vương triều nhà Lý và nền văn minh Đại Việt.

Kiến trúc: Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Ở giữa nhà bia đặt một tấm bia bằng đá nhám kích thước 60 x 40 x 25cm, mặt chính khắc bốn chữ “Lý gia linh thạch”. Bia trước ở vách núi, ba mặt bị đất cỏ che lấp, khi chuyển vào nhà bia, người ta mới biết mặt sau có khắc chữ Hán.

Chùa Tiêu Sơn có quy mô to lớn. Trong nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ kinh lớn của nhà Phật. Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự bỗng chốc đã biến thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14 ngọn tháp, là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ.

Năm 1992, nhân dân địa phương công đức tiền của dựng ngôi bảo tháp thờ vọng Lý Vạn Hạnh ở trước tòa tam bảo; lại dựng tượng vị thiền sư trên đỉnh núi Tiêu. Tượng Lý Vạn Hạnh tạo ở thế tọa thiền cao 8m, mặt hướng về phía kinh thành Thăng Long. Năm 2001 dựng lầu Bồ Tát giữa hồ nước lớn trước chùa. Năm 2002 dựng nhà Tổ. Năm 2003 dựng tam bảo theo kiến trúc xưa. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí, viên tịch năm Quý Mão (1723), là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Pho tượng táng tại tháp cổ chùa Tiêu đã gần 300 năm. Các nghiên cứu khoa học về văn bản chữ viết đã xác định thiền sư Như Trí là người có công trùng san và in nhiều bộ sách Phật học có giá trị về Phật giáo, văn học, triết học và văn hóa dân gian…

Nhà tổ trên Chùa Tiêu - Bắc Ninh
Nhà tổ trên Chùa Tiêu – Bắc Ninh

Với những giá trị như vậy, ngày 25.1.1991 chùa Tiêu đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử và nghệ thuật của Bộ VHTT-TT. Tới chùa Tiêu, khách thập phương không chỉ chiêm bái pho tượng thiền sư Như Trí đầy bí ẩn và cực kỳ quý giá ở Việt Nam mà còn không khỏi “ngỡ ngàng” trước ngôi chùa chưa bao giờ có hòm công đức, không đốt vàng mã, không tiếp nhận khách về chiêm bái đội quả với “mâm cao, cỗ đầy”…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tiêu - Bắc Ninh

Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Tết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng giống như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc.
Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

Chơi bài chòi ngày Tết

Cái tên “chòi” xuất phát từ hình thức chơi: Những người chơi bài ngồi trong 8 hay 10 cái chòi chia thành hai hàng đối nhau, ở một đầu và giữa hai hàng chòi là chòi hiệu. Trước mỗi chòi có treo mõ, một chiếc mành trúc và một đôi câu đối. Người ở chòi hiệu rút các quân bài ở ống bài ra, cứ mỗi quân bài lại hát một câu “thai” để mọi người ở các chòi đoán xem đó là con bài gì, cũng có khi người hiệu giảng luôn kiểu như rao bài ở tổ tôm điếm. Dưới đây là một số câu “thai”:

                        Một hai họ nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
                                                            (Con bài Tứ cẳng)

                        Ta bưng một đĩa mắm lầm
                        Vừa đi vừa hát té ầm xuống sông.
                                                            (Con bài Ông ầm)

                        Ngồi kề vực thẳm anh câu
                        Xẩy chân tụt xuống vực sâu cái ầm.
                                                            (Con bài Ông ầm)

                        Lòng thương chị bán thịt heo
                        Hai vai gánh nặng còn đèo móc câu.
                                                            (Con Móc câu)

                        Đi đâu ôm cháp đi hoài
                        Cử nhân không thấy tú tài cũng không.
                                                            (Con Học trò)
                        Tay bưng đĩa muối bát rau
                        Anh chấm em chấm cho mau kẻo hết dần.
                                                            (Con Nhà nghèo)
                        Ai đi ngoài ngõ ào ào
                        Nghe như ông tượng đạp vào, ông vô.
                                                            (Con Tứ tượng)
Câu hô bài có tiếng đệm và lời giải như:

                        Hượi mà hưới hượi
                        Một hai bận nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
                        Hai người thì có bốn chân
                        Đó là tứ cẳng bớ nàng, bớ anh!

Sau khi người hiệu có con bài hò thơ như vậy, chòi nào có con bài ứng vào với câu hò sẽ gõ 3 tiếng mõ và được trao 1 lá cờ nhỏ, khi trúng 3 lần câu hò ở chòi hiệu sẽ được trao lá cờ lớn hơn. Có khi người chòi nào đó hò câu thai và người chòi nào ứng được thì gõ mõ và đưa bài ra. Khi hò câu thai có đàn phách hòa theo.

Người thắng bài gọi là “ù” hay “tới”, mỗi ván bài có người tới là trống kẻng khua vang rồi đốt pháo thổi kèn, người hiệu mang khay phần thưởng đến chòi người tới và cắm 1 lá cờ đuôi nheo bằng giấy hồng trước chòi.

Bài chòi có 36 con bài gọi là bài trường vẽ theo lối tượng hình như con Tứ cẳng vẽ bốn chân, Tứ móc vẽ 4 móc, Tứ tượng vẽ 4 voi...

Hát bài chòi xưa thường tổ chức vào đình đám hội làng và dịp Tết. Bài chòi về sau không bó hẹp trong địa phương, những người hát bài chòi đi đến các nơi đông người như phố phường, chợ, bến xe... đến các hội làng, khao vọng. Người hát có thể hát các câu lẻ gọi là “bài chòi rời” hoặc hát các tích như Lục Vân Tiên, Thoại Khanh - Châu Tuấn, gọi là “bài chòi pho” hay “bài chòi vở”.
                       

Theo Tapchisonghuong


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Vì sao lại không nên quây kín ban công? –

Để tăng thêm diện tích sử dụng, ngăn chặn bụi bặm và khí bẩn từ ngoài xộc vào trong nhà, nhiều gia đình đã quây kín ban công lại. Theo phong thuỷ thì đây là điều tối ki vì như vậy là bạn đã vô tình bịt chặt cửa nạp khí, không có lợi cho sức khỏe mọi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

người cư trú trong nhà.

cay-xanh-phong-thuy-9

Khi quây kín ban công, cũng có thể coi là bạn đã quây kín một cửa chính của nhà, khiến không khí trong nhà tù hãm, hàm lượng oxy trong không khí giảm thiểu. Mặt khác, mọi khí xú uế sinh ra trong nhà như người ho, thở, khí, hơi đun nấu thải ra các khí độc hại lan tỏa khắp nhà không phát tán trao đổi kịp thời, lâu dần người sống trong nhà sẽ có các triệu chứng bệnh tật như váng đầu, lợm giọng, buồn nôn, mệt mỏi.

Tia cực tím trong ánh nắng mặt trời có tác dụng sát khuẩn, làm giảm thiểu nồng độ khuẩn bệnh trong phòng ốc. Khi quây kín ban công, ánh sáng mặt trời sẽ không lọt vào nhà được, khiến cho khuẩn bệnh sinh sôi nảy nở, đôi với trẻ nhỏ có thể bị suy dinh dưỡng, còi xương, chậm lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao lại không nên quây kín ban công? –

Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Quẻ Quan Âm thứ 80 Quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân đoán rằng làm việc phải có trước có sau, không nên thay đổi. Việc đã dự tính sẽ được trợ giúp
Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 80 được xây dựng trên điển cố: Trí Viễn đầu quân.

Quẻ thượng cát thuộc cung Mùi. Làm việc nên có trước có sau, đừng nên bất nhất thì sẽ có được sự tin tưởng mà không hỗn loạn. Những việc trong lòng dự tính cứ bình tĩnh mà thực hiện, sẽ có quý nhân đến trợ giúp.

Thử quái quý nhản tiềp dẫn chi tượng. Phàm sự hòa hợp đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân

Tương truyền vào thời kỳ Nam Bắc Triều, ở trang trại nhà họ Lý có một viên ngoại họ Lý, sinh được hai người con, người con trai tên là Lý Hòng Tín, người con gái tên lầ Lý Tam Nương. Lưu Trí Viễn (895 – 948), cũng gọi là Lưu Tri Viễn, là vị hoàng đế khai quốc của nhà Hậu Hán trong thời kỳ Ngũ Đại, sau khi lên ngôi hoàng đế đổi tên là Lưu Hạo) xuất thân nghèo khố, sau khi vào quân đội, đi chăn ngựa ở Tấn Dương, gặp Lý thị, vào làm rể trong Lý gia trang, thành hôn với Lý Tam Nương.

Không ngờ Lưu Trí Viễn vốn có mệnh làm thiên tử, sau khi lạy nhạc phụ nhạc mẫu, thì hai ông bà đều qua đời. Vợ chồng Lý Hồng Tín vốn đã oán giận Lưu Trí Viễn, thấy cha mẹ qua đời, sợ Lý Tam Nương sẽ phân chia gia sản với mình, liền đổ cho Lý Tam Nương tư tình mà đính hôn, làm bại hoại gia phong, muốn hại chết vợ chồng Lưu Trí Viễn và Lý Tam Nương. Vì vướng mắc quan hệ gia đình, sợ để lại tiếng xấu bất nhân bất nghĩa, hai người bèn đuổi Lý Tam Nương đến thôn Ma Oa gánh nước tưới gai, lại đẩy Lưu Trí Viễn đến khu vườn có con yêu tinh dưa tác quái để trồng dưa. Lý Tam Nương biết được mưu kế của họ, ra sức ngăn cản Lưu Trí Viễn đến vườn dưa, nhưng Lưu Trí Viễn cậy mình có võ nghệ, vẫn quyết đi một mình.

Khu đất mà Lưu Trí Viễn trồng dưa nằm ở vùng núi lớn tại Dương Địch xưa nối thông với hai đất Trịnh, Mật, tương truyền ở đó thường có một con quái thú màu đỏ ẩn hiện, không ai dám đi qua, mọi người gọi đó là “Bất Quá nhai” (núi không dám đi qua). Những thương nhân và tiểu thương của hai vùng Trinh, Mật qua đây đều phải đi đường vòng. Buổị tối ngày thứ ba sau khi Lưu Trí Viễn đến khu ruộng trồng dưa, thì yêu tinh dưa xuất hiện, chỉ thấy toàn thân màu đỏ, giống lao trông như một đám lửa lao đến. Lưu Trí Viễn vốn võ nghệ tài giỏi, ở nhà Lý Tam Nương cũng đã luyện được công phu luyện ngựa, bèn dậm đất nhảy bật lên, cưỡi lên lưng con quái thú, chạy qua chạy lại mười tám vòng, thì con quái thú đã thấm mệt, toàn thân toát mồ hôi, toàn là màu máu. Thì ra nó chính là con ngựa quý “Hãn huyết bảo mã” nổi tiếng.

Sau khi yêu tinh dưa bị Lưu Trí Viễn thuần phục, có vị tiên chỉ cho đào sâu ba thước tại mảnh đất trồng dưa, đào được ba báu vật là bộ áo giáp bằng vàng, cây thương bằng bạc và thanh kiếm bằng đồng, lại dặn dò anh hây đầu quân khởi nghiệp, chắc chắn sẽ có thành tựu.

Lưu Trí Viễn có được con ngựa quý và thanh kiếm báu, bèn từ biệt Tam Nương, đi đầu quân.

Sau khi Lưu Trí Viễn đi, Lý Tam Nương phải chịu sự dày vò của anh trai và chị dâu. Chị dâu bắt cô mỗi ngày phải gánh mười ba gánh nước, đêm đến phải đẩy cối xay đến sáng. Lúc này, Lý Tam Nương đã có thai. Một tối, anh trai của Tam Nương đưa cơm cho cô, thấy cô đi được một bước thì thở dốc đến ba lần, thực không đành lòng, liền bảo cô ăn cơm, còn mình thì đẩy giúp cối xay. Không ngờ chị dâu cũng đi theo đến đấy, thấy vậy thì giật phắt cái bát trong tay Lý Tam Nương, ném xúống đất. Lúc này Lý Tam Nương thấy đau bụng, rõ ràng là sắp chuyển dạ, nhưng chị dâu lại cho là giả vờ, cầm cái giằng cối xay định đánh. Sau thấy Tam Nương quả thực sắp sinh con, bèn kéo chồng chạy đi. Tam Nương đành phải tự mình sinh nở, dùng miệng để cắn dây rốn cho con, nên đặt tên con là “Giảo Tề Lang” (chàng cắn rốn). Tam Nương gọi người gia đinh già đến, ngay đêm đó đưa đến chỗ Lưu Trí Viễn để nuôi nấng.

Mười sáu năm sau, một hôm Lý Tam Nương đang múc nước ở giếng, có một con thỏ trắng mang mũi tên trên mình chạy đến, để lại mũi tên rồi đi. Sau đó có một vị tướng trẻ đuối đến, nói chuyện với Lý Tam Nương, mới nhận ra là mẹ đẻ của mình. Vị tướng trẻ đó chính là Giảo Tề Lang, nhưng cậu không dám nhận mẹ ngay tại đó, mà giả làm cháu. Sau đó về báo cho cha là Lưu Trí Viễn, mang quân về thôn Sa Đà, vợ chồng, mẹ con được đoàn viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Tướng tay nữ giới dễ lấy chồng giàu sang

Những người phụ nữ có các đặc điểm bàn tay dưới đây rất dễ lấy chồng giàu sang và hưởng cuộc sống an nhàn, hạnh phúc.
Tướng tay nữ giới dễ lấy chồng giàu sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tuong tay nu gioi de lay chong giau sang hinh anh
Hình minh họa

1. Trên ngón tay có vân tiền tài

Vị trí vân tiền tài trên bàn tay nữ giới nằm ở giữa ngón tay út và ngón tay đeo nhẫn. Đường vân này vừa nhỏ vừa mảnh, phải nhìn kĩ mới thấy. Đây là tướng tay dễ lấy chồng giàu sang, điều đáng mơ ước của bất cứ cô gái nào. Người này sống cuộc đời vinh hoa phú quý, không phải lo lắng về tiền bạc.
 
2. Đường tâm đạo dài, thẳng và không rối ren đứt đoạn
 
Đường tâm đạo hay còn gọi là đường tình cảm, đường tình duyên. Phần lớn nữ giới có đường tâm đạo dài, rõ ràng, thẳng và không bị rối hay đứt nét đều lấy chồng giàu sang, cuộc sống hôn nhân vô cùng hạnh phúc.

3. Đường tài vận đậm, rõ ràng

Đa số phụ nữ có đường tài vận đậm nét, sâu, rõ ràng đều có quý nhân phù trợ. Họ không những lấy được chồng giàu có mà hôn nhân hài hòa, hạnh phúc.

4. Lòng bàn tay sáng mịn và có sắc hồng hào

Nữ giới có đôi bàn tay như này không chỉ thành công trong sự nghiệp mà còn được đức lang quân yêu chiều, bảo vệ. Nếu lòng bàn tay thô ráp thì người này vẫn có công danh sự nghiệp và tiền tài tốt nhưng lấy chồng giàu sang hay không thì chưa chắc chắn.
 
5. Lòng bàn tay có nốt ruồi
 
Nốt ruồi trong lòng bàn tay phần lớn là nốt ruồi cát tường. Nó đại diện cho trí tuệ minh mẫn và tài phúc. Theo đó, việc kết hôn với một người đàn ông giàu có, môn đăng hộ đối với bạn là điều không khó.
 
6. Dưới đường tâm đạo có vân hình chữ thập
 
Vân chữ thập nằm ngay dưới đường tâm đạo đại diện cho tình yêu, hôn nhân thành công, hạnh phúc. Nếu sở hữu tướng tay này, bạn có nhiều cơ hội có được cuộc sống gia đình vui vẻ, hạnh phúc bền lâu và không phải lo toan về vật chất vì sẽ kết hôn với người chồng giàu có.
 
7. Đường hôn nhân dài gần tới phía dưới ngón áp út
 
Nữ giới có đường hôn nhân dài sát gần phía dưới ngón áp út thường hạnh phúc trong hôn nhân. Tỉ lệ được gả vào gia đình giàu sang là rất cao.
 
Theo XZ  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng tay nữ giới dễ lấy chồng giàu sang

Những con giáp bội thu bất ngờ trong tháng 10

Người tuổi Dậu, Dần và Tý sẽ bất ngờ có tiền, tình cảm trong tháng này nên hãy chớp cơ hội để bội thu nhé!
Những con giáp bội thu bất ngờ trong tháng 10

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tuổi Dậu

Thu hoạch bất ngờ của người cầm tinh con Gà trong tháng 10 có liên quan đến chuyện tình yêu và tiền bạc. Cơ hội để bạn kết thúc kiếp FA đã đeo bám mình dai dẳng này là rất cao, nếu chủ động tỏ tình, bạn sẽ không bao giờ phải nói lời hối tiếc. 

Hơn thế, trong tháng này, người tuổi Dậu gặp nhiều may mắn về tiền bạc, rất có thể sẽ trúng thưởng phần quà lớn, thậm chí là trúng số độc đắc nhé!

2013830112050996-4589-1443769364.jpg

2. Tuổi Dần

Vận đào hoa khá vượng, cộng thêm với vận quý nhân tăng mạnh nên trong tháng 10 này, người tuổi Dần sẽ gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực tình cảm. Vì thế, nếu người tuổi Dần nhận được nhiều lời tỏ tình cùng lúc cũng là điều dễ hiểu mà thôi.

3. Tuổi Tỵ

Món quà bất ngờ mà người tuổi Tỵ sẽ nhận được trong tháng 10 này chính là sự xuất hiện của quý nhân. Người này sẽ mang đến nhiều điều thú vị trong cả tình cảm và chuyện học hành, thi cử của bạn.

71eda3df4f228e61adafdf66cfa5f7-8371-1602

4. Tuổi Sửu

Nếu để ý, người tuổi Sửu sẽ thấy ví tiền của mình có vẻ dày hơn tháng trước. Đó là kết quả từ việc bạn đã mầy mò thử sức với việc kinh doanh mới đó.

5. Tuổi Mão

Tháng 10 này, người tuổi Mão sẽ “bội thu” về mặt tình cảm. Mối tình đơn phương dai dẳng bấy lâu của bạn sẽ chấm dứt tuyệt đối, thay vào đó là niềm hạnh phúc ngập tràn khi đối phương chủ động bày tỏ tình cảm với bạn.

Mr.Bull (Theo DYXZ)

1018e9dc-5179-47c4-9f53-d31997-3494-1945 Điểm danh những con giáp ưa nịnh ngọt

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp bội thu bất ngờ trong tháng 10

Nhị, xui xẻo kết hôn đích tổ hợp

1. phu thê cung vị hữu dụng, lại bị hình, xung,phá, hại, hoặc lục hợp, ám hợp hắn tinh( Phối ngẫu tinh lấy ngoạiđích tinh), hoặc tạp thấu, nhiều hiện. Này đó đều là hôn nhân khôngtốt lắm đích tổ hợp. Bất hảo tới trình độ nào, có thể không lyhôn, nhưng lại muốn xem phu thê cung phá hư tới trình độ nào. Như pháhư giác nhẹ, thì hôn nhân bất hảo, không nhất định ly hôn; như phá hưquá nặng, thì nhất định nên ly dị.
Nhị, xui xẻo kết hôn đích tổ hợp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

2. phu thê cung vốn là bát tự trung vô dụng chi thần, làm kị thần không có chế, hoặc tác dụng thần lại bị phá hư, tỏ vẻ phối ngẫu không thể trợ giúp chính mình, hoặc cảm tình rất kém cỏi.

3. bát tự trung không thích tỉ kiếp tranh phu, hoặc tỉ kiếp tranh thê, như ngộ tranh người, nhẹ người có người thứ ba vấn đề, trọng người nhất định ly hôn.

Càn: Mậu kỷ ất đinh

Tuất mùi tị hợi

Này tạo ất mộc nhật chủ sinh vu mùa hè, được hợi thủy cùng mùi thổ cây, vi sống mộc, sống mộc hỉ dụng thủy, hỏa thổ đều vi kị. Tị hỏa trung ngậm mậu thổ thê tinh, vì vậy làm vợ tinh được chính vị, cục trung hỏa thổ có xu thế, xung khứ dụng thần hợi thủy. Thê làm kị thần, nói rõ phu thê cảm tình bất hảo, thê không được lực. Phu thê cảm tình cả đời bất hảo, thê còn phải đường nước tiểu bệnh, hàng năm cũng hoa không ít tiền. Ngồi xuống thương quan, bị thê trông nom.

Nhàn chú: Sống mộc nhất định phải dụng! Ất mộc thấy hợi cùng mùi vi sống mộc, nhất định phải dụng hợi! Tị xung phá hủy hợi, hôn xui xẻo!

Khôn: Tân quý mậu ất

Mão tị ngọ mão

Này tạo phu cung vi ngọ hỏa ấn tinh, có phu tinh mão mộc sinh phu cung, vốn xác nhận hảo hôn nhân, nhưng phu tinh cùng phu cung trong lúc đó tướng phá, cũng nên tỏ vẻ phu thê không cùng rồi. Phu thê trong lúc đó thường ồn ào, nhưng không có ly hôn. Ngọ vốn là nhà, vừa vỡ biểu không muốn về nhà, một hồi khứ nhân tiện ầm ĩ, nguyên nhân vốn là50 niên đại người, mùi cách, như thế hiện đại nói, khẳng định cách. Lưỡng mão phá ngọ, vốn là nhiều hôn tổ hợp.

Khôn: Giáp mậu kỷ canh

Thìn thìn dậu ngọ

Này tạo niên thượng giáp mộc vi phu tinh, ngồi chi thìn dậu hợp, phu tinh hợp đến phu cung, vốn là hảo hôn nhân. Nhưng cục trung tỉ kiếp Lâm lập, phu tinh ngồi xuống vừa là tỉ kiếp, vi tỉ kiếp tranh phu chi tượng, cho nên phu không thương nàng, cùng bên ngoài phụ nữ thân mật. Nhưng thìn dậu chi hợp mùi phá hư, không có ly hôn.( Quan sát vừa người, nhưng tỉ kiên nhiều hiện tranh phu, tranh đích rất lợi hại, phu bên ngoài phụ nữ nhiều lắm, tỉ kiên chỉ cần cùng phu tinh có liên quan hệ là được, không nhất định phải cùng phu cung có liên quan hệ, giáp ngồi thìn rồi, bây giờ cũng không ly hôn, nguyên nhân nhật trụ cùng niên trụ thiên địa hợp bán rồi, cung vị hợp rất chặt, nhưng hôn nhân rất kém cỏi.)

Tỉ kiên tranh phu đích vài loại có thể:

1, tìm đích lão công vốn là cách qua hôn đích.

2, lão công có gặp ở ngoài.

3, chính mình làm tiểu đích hoặc bị bao.

4, ly hôn.

5, từng đích đối tượng. Này tạo vốn là lão công có gặp ở ngoài ý.

Nhàn chú: Giáp vi phu tinh, nhưng nguyệt lệnh mậu ở chính giữa, phu có gặp ở ngoài, nhưng nguyên nhân giáp thìn cùng kỷ dậu thiên địa hợp, phu cung không phá hư, không có ly hôn!

Khôn: Mậu giáp kỷ tân

Thân dần mùi mùi

Giáp kỷ, giáp vi phu, mậu vi kiếp, ngồi xuống thân dần vọt, cố lão công nhất định là cách qua hôn đích, sau đó sẽ tìm nữa đích nàng. Nếu như giáp dần, mậu thân thay đổi vị trí, thì nhất định là tranh đích ý tứ rồi. Này tạo hôn sau khi lão công không có gặp ở ngoài. Dần thân xung, cũng đại biểu sửu mùi xung, cho nên vốn là hảo hôn nhân. Nhàn chú: Dần nhập mùi khố, thân dần một xung chẳng khác đem dần vọt tới mùi trong rồi, mùi khai khố rồi! Mậu thân mang tượng, thân vọt dần, chính là mậu đồng dần ra đi, cho nên, nói mậu vốn là giáp đích tiền thê, không phải đào hoa! Lão công nhập tới rồi cung, nhị hôn hảo, không thành vấn đề!

Càn: Đinh nhâm giáp ất      

Dậu tử tử hợi     

tân canh kỷ mậu đinh bính

hợi thú dậu thân mùi ngọ

Này tạo giáp mộc sinh vu mùa đông, có gốc, muốn hỏa đến ấm áp, có thể thấy được ngồi chi thê cung đích tử thủy vi bát tự viện kị. Nhâm thủy cũng là phu thê cung, biểu có hôn nhân. Thê cung vi kị thần người hôn nhân một bực như nhau bất hảo, gia tăng chi bát tự không có tài, lấy đinh hỏa thương quan làm vợ tinh, bị khắc không có khí, lão bà hình như có như không có, hôn nhân bất hảo. Nhưng nguyên nhân phu thê cung không có bị phá phá hư, cho nên đến bây giờ không có ly hôn.( Ngồi xuống đích đều là tật xấu, tử không sinh mộc, phản phiêu mộc, nhưng giáp còn có cây, thương quan làm thê, thê tuy có nhưng nhược, có chẳng khác không có, hôn nhân bất hảo, nhưng mùi cách, nguyên nhân nhân tiện [một người/cái] thê tinh, mà không có phá hư thê cung gì đó, biểu tái không người nào thích hắn, cố mùi cách, thê cung vốn là kị thần.)

Nhàn chú:57 năm đích đến phía sau hôn tốt chút, tẩu hỏa mà! Đinh vi dụng tại niên thượng, quá yếu, phỏng chừng không ở nhà ở đây, phát huy không được nhiều tốt đẹp tác dụng!

Càn: Ất canh đinh quý

Dậu thìn mùi mão

Này tạo thê cung mùi trong đất ngậm ất mộc, ất canh hợp, thê cung viện hợp canh kim tài tinh làm thê tinh xem. Mão thìn hại, mão dậu xung, tài tinh cùng chủ vị quan hệ không cùng, nói rõ thê tử rất có cá tính, khó có thể khống chế, mão vốn là thê cung đích kéo dài, tính phó cung, nhưng không nhắc tới bên ngoài có [một người/cái]. Hai người thường nháo không cùng. Nhưng thê cung cùng thê tinh cũng rất an tĩnh, cả đời sẽ không ly hôn. Như thế đinh mão nhật thê cung gặp hại, thì nhất định cách. Bây giờ đích tình huống vốn là hại trật, cho nên chỉ là quan hệ không cùng mà thôi. Chưa vào thìn mộ, biểu lão bà rất lợi hại, lão bà trông nom hắn, khống chế hắn.

Đổi thành càn: Ất canh đinh quý

Dậu thìn mão mùi 

cái này nên cách.

Nhàn chú: Nơi này thê cung phá hủy, như vậy nên cách rồi!

Càn: Nhâm kỷ đinh kỷ

Dần dậu sửu dậu

Một cung lưỡng tinh, [hai người/cái] lão bà. Này tạo thê cung sửu thổ, có lưỡng dậu tài tinh nhập mộ, song thê chi mệnh. Lưỡng dậu không phải một người, biểu ngoài có tình nhân. Nguyệt thượng biểu thê, thời thượng vẻ mặt người, có trước sau đích thời gian trình tự. Sẽ không công khai, ngoại nhân đều biết nói, lão bà không biết. Nhưng thê cung an tĩnh, vẫn chưa phá hư, nếu như là đang cổ đại, nhất định là một thê một thiếp, hiện đại xã hội pháp luật cấm trọng hôn, cho nên hắn trừ thê tử ở ngoài, còn có tình nhân thân mật. Nhàn chú: Nơi này thê cung không phá hư, một cung lưỡng tinh, một thê một thiếp!

Khôn: Quý đinh quý quý

Mão tị sửu hợi

Này này đây tiền nói đích bán trang phục đích, này tạo phu cung vốn là sửu thổ sát tinh, được chính vị vốn là chính phu. Nguyệt thượng tị hỏa tài tinh( Trung ngậm mậu bính vốn là đào hoa) trung ngậm mậu thổ chính quan, tại lệch vị, củng nhập của nàng phu cung, vi lệch phu( Ngồi thẳng vị chính là chính phu, lệch vị chính là lệch phu, không lấy tinh đích chính lệch định). Thực tế nữ tử này trừ trượng phu ở ngoài, bên ngoài còn có tình nhân; sửu thổ lân kiếp tài, lão công bên ngoài cũng có tình nhân, hai người phân chiếm đa số năm, nhưng nguyên nhân phu cung mùi phá hư, hai người không có ly hôn. Mão mộc sinh tị hỏa, biểu trang phục sinh ý, âm mộc sinh hỏa chi tượng. Bính vốn là đào hoa, đổi lại tượng đinh cũng là đào hoa, nàng bản thân đích đào hoa nhiều, lão công cũng có đào hoa, sửu trung ngậm quý, tỉ kiếp tranh phu rồi( Chú: Xung hợp đào hoa đích đều là đào hoa đích lão bà). Tị mặc dù cùng phu cung hợp, nhưng ngồi trật, cho nên vốn là đào hoa.

Nhàn chú: Sửu vi phu, tị hợp nhập phu cung, bên trong mậu vi đào hoa, bính= mậu cũng là đào hoa, lấy sửu thổ phu vi Thái Cực điểm xem: Sửu trung ngậm tỉ kiếp, lão công cũng có tình nhân, nhưng cung không phá hư, cách không được!

Càn tạo: Quý đinh đinh bính

Mão tị tị ngọ

bát tự không có tài, lấy cung xem thê, tạp rồi, mà tị phục ngâm, hai lần hôn!

Càn tạo: Quý đinh đinh ất

Mão tị tị tị

cái này hôn sẽ không cách, nguyên nhân cung tuy nhiều, nhưng không tạp!

Càn tạo: Ất kỷ quý tân

Mùi mão dậu dậu

Một thê một thiếp, hai người vốn là biểu tỷ muội, lão Đại không sinh, lão Nhị sinh một nữ một nhân, đồng cư một thất! Nơi này mão mộc không vào mộ, không xung thì nhập mộ! Đỉnh lên chức ví dụ

Thứ hai lễ, nhiều hôn đích mệnh lý

Nhiều hôn đích mệnh lý tổ hợp là đang xui xẻo hôn nhân đích trụ cột thượng càng tiến thêm một bước, phu thê trong lúc đó đích mâu thuẫn không thể điều hòa, tất nhiên làm cho ly hôn đích kết quả. Chúng ta nơi này đem ly hôn đích vài loại tình huống nhóm đi ra, dễ dàng cho mọi người học tập.

1. phu thê cung gặp hại, phu thê cung mặc phu thê tinh đích cái kia chữ, nhất định ly hôn, hoặc phối ngẫu tử vong.( Có thể xung)

2. phu thê cung nhiều hiện, tạp hiện thời, như có phu thê tinh vừa nhiều hiện, thì đa số hội ly hôn.

3. phu thê cung rơi phu thê tinh thời, không thích hắn hợp, kể cả lục hợp, ám hợp, hợp lại nhân tiện dễ dàng hợp đi, ly hôn người chiếm đa số.

4. bát tự trung như ngộ tỉ kiếp tranh phu, hoặc tỉ kiếp tranh thê, phối ngẫu sẽ có người thứ ba vấn đề, tái ngộ phối ngẫu cung bị phá hư, tất nhiên ly hôn.

5. ngồi chi phu thê cung đích phu thê tinh được vị thời xem lệch chính, nam mệnh chính tài vi chính tinh, thiên tài vi lệch tinh, nữ mệnh chính quan vi chính tinh, thất sát vi lệch tinh. Lệch tinh có thể chế, chính tinh không thể chế. Chính tinh bị quản chế, hôn nhân dễ xuất vấn đề.

6. nguyên nhân phu thê cung bị phá hư mà ly hôn người, xem phá hư nó gì đó, [có mấy người/cái] chính là mấy lần hôn nhân; nguyên nhân phu thê tinh nhiều hiện mà ly hôn người, [có mấy người/cái] phu thê tinh mấy lần hôn nhân.

Khẩu quyết: Nam mệnh thực thương vi đào hoa.

Nhâm

Tị thân thân

Hợp lại thì có hai lần hôn nhân

Nhâm

Thân dậu

Không sợ cung nhiều, nhưng tinh thêm xuất hiện rồi, nhân tiện nhiều hôn.

Kỷ bính

Hợi dần

Chính tinh được chính vị, hợp lại sẽ cách.

Khôn: Canh

Hợi dần

Chế đích ý tứ. Lệch tinh có thể chế. Xem tình huống.

Bính tý, kỷ hợi (Nam nữ), đinh hợi, mậu tý. Thuần túy, dường như khủng hoảng, vừa động nhân tiện chịu không được.

Càn: Nhâm canh nhâm quý

Dần tuất thìn mão

Phu thê cung ngồi khố, hỉ hình xung. Không phải nhiều nữ nhân. Mão vốn là đào hoa. Một hại, sẽ không có đào hoa. Không chịu sinh.

Càn: Kỷ bính canh kỷ

Hợi dần thìn mão

Hại mão, không có đào hoa. Hợi hợp dần nhập thìn vốn là lão bà. Vốn là hảo hôn nhân. Nhàn chú: Mão vi đào hoa, hại điệu bên ngoài, không có đào hoa!

Chu: Mậu nhâm kỷ kỷ

Thìn tuất mùi mão

Khố hỉ hình xung, hảo hôn nhân. Nhàn chú: Thổ vi tài, ngồi khố hỉ hình xung!

Càn: Ất bính giáp giáp

Mùi tuất tử tuất

Hại khứ kị thần, hảo hôn nhân. Bính vốn là đào hoa. Có thể có đào hoa. Nhàn chú: Tử vi kị chế rồi, không rời hồn, nhưng là không thế nào hảo! Mùi vi lão bà, mặc thê cung! Thực thương vi đào hoa, làm quan đích! Chế ấn được quyền, thính cấp cán bộ !

Nhạc Phi: Quý ất giáp kỷ

Mùi mão tử tị

Mùi làm một thê, kỷ vi nhị thê; một hưu rồi, nhị lão bà xinh đẹp!

Khôn: Tân Giáp Ất Bính (Diana)

Sửu Ngọ Mùi Tuất         

Ất Bính Đinh Mậu Kỷ

Mùi Thân Dậu Tuất Hợi

Này tạo vốn là anh Vương phi Diana tạo, đầu tiên xem niên thượng tân sửu vi phu tinh, phu cung mùi xung sửu, vốn là phu cung chế khứ phu tinh đích tổ hợp. Ất mộc thấy hỏa vi xinh đẹp, bính tân hợp, phu luyến ngoài mạo mà tìm nàng. Lại nhìn nguyệt thấu giáp mộc tỉ kiếp, tân nên hợp quá khứ thời đầu tiên nên gặp phải giáp đến tranh phu, tân kim phu tinh bị giáp mộc viện đoạt, cho thấy Tra Nhĩ Tư vương tử có khác viện hoan. Giáp mộc cao thấu, nói rõ vương tử đích ngoài giá thú tình mọi người đều biết. Xem có thể không ly hôn, muốn xem phu thê cung ổn không yên rồi, nguyên nhân phu cung phá hủy. Cố nhất định cách. Phu cung mùi thổ bị tuất thổ hình phá hư, đại vận sẽ đi tuất vận, cho nên cuối cùng ly dị, vốn mùi muốn dồn sửu, nhưng tam hình phá hủy, cố mùi không thể chế sửu, nguyên nhân chế không được rồi, cố cách. Không lâu chính mình tai nạn xe bỏ mình (Đinh sửu năm). (Sửu tuất vốn là hình mở, hỏa vượng sẽ không bị diệt.)

Cái này tổ hợp vốn là đoản thọ đích tổ hợp, đây là tử mộc sợ đốt, hỏa vượng sau lúc sẽ chết rồi, nhân tiện tượng lưu tinh giống nhau, dễ dàng nổi danh, cũng đoản thọ. Loại này tổ hợp tử đích phần lớn vốn là ngôi sao, như tam mao, trương quốc quang vinh, Mai tươi đẹp phương chờ. Mộc nhật chủ đích người, hỏa nhật chủ đích người, đều có loại này tượng, phải chú ý xem. Đinh sửu vi ứng kì, là bởi vì nguyên cục trung đích một điểm âm khí xuất hiện bị chế rồi, mà hình vượng rồi hỏa, tuất tại thời thượng chủ xe, mùi tuất hình, tuất trung tân vi gặp ở ngoài đích đào hoa, nhưng tuất trung tân nhỏ hơn tân sửu, cố là nhỏ nhân vật, thật vi của nàng huấn mã sư, nguyên nhân hình khai sau khi bính tân tự hợp rồi, cố cũng bị bạo quang, bính vi ảnh thị, tin tức chờ. Tuất vi ca múa thính, cố nàng cùng phu là đang vũ hội thượng nhận thức đích, bính chủ hai tròng mắt đại.

Nhàn chú: Mùi vọt sửu vốn cát, nhưng thú hình phá hủy mùi, cung phá hủy ! Còn nữa ất mùi một trụ không thể bị phá hư; tử mộc ngộ hỏa vượng sớm tử ! Thú vận hỏa vượng lấy dương chế âm, một điểm âm khí không có, cũng sẽ tử! Đinh sửu ứng kì! Giáp vi đại, lão bà, tạp Minna.

Trương Quốc Vinh:

Bính Ất Bính

Thân Mão Tuất

Càn: Quý Đinh Đinh bính

Mão Tị Tị ngọ

Bát tự không có tài, cung vị xem lão bà. Nhưng [hai người/cái] tị sẽ không dụng cách, tị ngọ chính lệch thê cung hỗn tạp, hai lần hôn nhân. Nếu như vốn là ất giờ Tỵ, cũng là một lần hôn nhân.

Khôn: Bính Tân Tân quý

Ngọ Sửu Mão Tị

Này tạo phu tinh vi niên trụ bính ngọ, nguyệt can thấu tân hợp phu tinh, vi tỉ kiên tranh phu, trượng phu nhất định sẽ có gặp ở ngoài. Chúng ta lại nhìn phu cung, phu cung mùi phá hư, có thể phu cung cùng phu tinh đích quan hệ xuất hiện rồi vấn đề. Cung mão phá ngọ, đây là thứ nhất; còn có lại càng không tốt vốn là sửu ngọ chi hại, phu tinh bị hại ngã, phu cung mão mộc càng không thể sinh ngọ phát hỏa, cho nên nhất định ly hôn. Lần thứ hai hôn nhân nhìn lên chi tị hỏa, có mão mộc tương sinh mà không có thương khắc, cho nên lần thứ hai hôn nhân mới có thể qua được hảo. Thực tế nữ tử này cùng phu sớm đã phân chiếm đa số năm, sau khi vu ất dậu năm ly dị, giáp thân năm nhận thức một vị tân đích bạn trai, hai người quan hệ tốt lắm.(Mặc dù mão ngọ phá, nhưng mão sinh tị, tị vi bính, cố bính vi phu, bính tân hợp, tỉ kiếp tranh phu, phu có gặp ở ngoài, nhưng nguyên nhân tân sửu ngay cả thể rồi, ngọ sửu hại, mão ngọ phá, cố nhất định cách. Mão sinh rồi tị, tị vi người thứ hai trượng phu. Tị cùng bính vốn là hai người, nguyên nhân bính ngồi ngọ rồi, như bính ngồi thìn, thì nguyên nhân bính hư thấu rồi chích biểu vi bạn trai, không nhắc tới phu. Nguyên nhân mão sinh rồi tị, cố người thứ hai phu hảo, mà cùng thực thần tự hợp, biểu có thể chơi thân, cổ võ ngoài ly hôn. Ất dậu năm [đóng/tắt] tài cánh cửa, ly hôn, giáp thân năm nhận thức tân đích bạn trai.)

Ất Dậu Năm, Ất Canh ợp, Tuất Dậu hại, cách rồi. Bính Tuất năm thứ ba (???) một trượng phu xuất hiện.

Khôn: Kỷ Canh Giáp Mậu

Dậu Ngọ Tuất Thìn

Này tạo vốn là phu cung tuất thổ hại phu tinh dậu kim, vốn là điển hình đích nhiều hôn chi mệnh. Dậu vi người thứ nhất trượng phu, đã ly hôn (Dậu tuất mặc dù hại, nhưng giáp kỷ hợp, cố nhất định là kết rồi sau lúc tài cách đích, 99 năm cách); ngọ vốn là phó cung, cố người thứ hai trượng phu vốn là nguyệt can canh kim, canh cùng nhật chủ giáp mộc tướng xung, thêm hư rồi, cũng qua không lâu. Người thứ hai quý mùi năm kết đích hôn, trước mắt người thứ hai đã phân cư, ất dậu năm chạy đến nước ngoài rồi, không bóng dáng rồi, rất nhanh sẽ ly dị, phỏng chừng năm nay (Bính tuất năm) sẽ cách, nguyên nhân bính canh vọt. Người thứ ba trượng phu vốn là ngồi chi tuất thổ, được vị có thể tố công, ngồi xuống tuất khố hỉ hình xung, thìn tuất vọt, cố thứ ba cho dù trượng phu hảo, vốn là nàng chính thức đích trượng phu, hội trắng đầu đến già. Tuất khố mở, cố vốn là phát tài đích bát tự, nội thực (Thương), tố xí nghiệp đích, vừa tố mặt tiền, thêm tố xí nghiệp, người cũng xinh đẹp, hiền tuệ, có tiền, vốn là một người đứng đắn, không có đào hoa. Nhàn chú: Phu thê cung mặc phu thê tinh, khắc phu rồi! Phụ nữ năng lực cường, có tiền có mạo cố gắng thủ phụ nói đích, chính mình làm cho xí nghiệp ! Giáp kỷ hợp, dậu vi đệ nhất lão công; canh ngọ một trụ ngọ thú bán hợp hoặc ngọ vi phu cung dẫn ra tới, cho nên, canh vi thứ hai phu! Giáp canh một xung, nhị phu vi hải ngoại người Hoa, ất dậu tuổi già công đi, bính thú năm cách rồi, lúc này đoản; dự trắc: Bính thú năm thú vi người thứ ba lão công, lão Tam được chính vị, yên ổn rồi ! Vọt thìn, tại môn hộ thượng xác nhận mặt tiền đến tiền, thêm nội thực thần, thêm vi xí nghiệp !

Khôn: Bính Bính Tân Canh

Ngọ Thân Dậu Dần

Ất Giáp Quý Nhâm Tân Canh

Mùi Ngọ Tị Thìn Mão Dần

Này tạo tất nhiên ủy chuyên thành viên chi nữ, có tiền, có quyền, có xu thế, nguyên nhân tỉ kiếp tranh phu, phu có gặp ở ngoài, bính can vượng, hợp đến nhật chủ, chủ phu. Phu cung thấy lộc, phu tinh niên thượng bính ngọ, nguyệt lệnh thấy kiếp tài thân, thân thượng thêm cái bính, nói rõ chính mình đích lão công bị người khác đoạt, mà phu cung thấy lộc thêm tỏ vẻ bây giờ một người qua. Chờ người thứ hai lão công dần mộc xuất hiện, thời gian nhân tiện dường như chậm. Thực tế vốn là quý tị vận ất hợi năm ly hôn( Đại hạn tạp ở, phải tại35 tuổi tiền cách, vốn tị vận tốt lắm, tị hợi một xung nhân tiện cách rồi), hợp đến kiếp tài rồi là nam nhân theo nữ nhân khác chạy, bây giờ độc thân qua, nguyên nhân hợp rồi lộc rồi, thìn dậu hợp, ấn hợp lộc, cùng lão mẹ cùng nhau qua. Lộc ấn tướng tùy theo có phúc khí. Không ai có thể tiến vào, qua thìn vận mới được, nguyên nhân có dần trung bính, cố lần thứ hai hôn nhân là có đích, lộc cũng làm tài xem, tài vận tốt lắm. Canh ngồi dần vi tuyệt địa, sẽ tìm đi một lần hôn đích. Nhàn chú: Bính bính ngọ ngay cả thể, tỏ vẻ một người! Lão đầu công! Chính phu cung vi dậu vi tỉ kiếp, tránh phu! Thân vi phó phu cung, trên đầu đỉnh lão công, thân vi kiếp vốn là nàng người! Lão công đích đào hoa! Phu có gặp ở ngoài, chính mình không có đào hoa! Ấn lý ứng tại nhâm vận cách đích, nguyên nhân nhâm đến thân đến! Nhâm bính một xung nhân tiện cách rồi! Nhưng tại tị vận đích ất hợi năm nhân tiện cách rồi, đại hạn định tại nguyệt trụ cách, không có biện pháp! Nhâm thìn vận vi thương quan vận, tìm không được lão công đích, tìm cũng sẽ cách! Này đoạn thời nhật xác nhận độc thân! Phu cung thấy lộc cũng là một người qua, lộc hợp ấn, lộc ấn tướng tùy theo, hưởng thụ! Cũng là theo lão mẹ cùng nhau qua tượng! Nhâm thìn vận, thìn hợp dậu tài( Lộc cũng vi tài), rất có tiền bát tự! Ngoài phụ cũng vi mà ủy thư ký! Qua thìn vận, ứng có thứ hai hôn đích! Dần trung chi bính, canh ngồi dần vi tuyệt địa, tử lão bà đích? Dần trung có bính mang nam hài đích?

Khôn: Quý Tân Mậu Đinh

Sửu Dậu Ngọ Tị

Nhâm Quý Giáp Ất Bính Đinh Mậu

Tuất Hợi Tử Sửu Dần Mão Thìn

Này tạo không có quan sát tinh, có thể tài tinh quý thủy vi phu tinh, vì sao ? Nguyên nhân quý hợp nhật chủ, tướng hợp có thể tỏ vẻ kết thân. Nhưng phu cung ngọ nhưng lại hại ngã phu tinh, nói rõ lần đầu tiên hôn nhân nên thất bại. Kết quả 2000 năm canh thìn năm ly hôn, 2002 năm nhâm ngọ năm lần thứ hai hôn nhân. (Nhật can thiên can ngũ hợp, nhưng địa chi hại, sớm hôn nhất định cách. Này tạo hợp rồi niên thượng đích quý, quý vi phu, 20 tuổi tiền nhân tiện kết rồi, nhưng nguyên nhân sửu ngọ mặc, cố 99 năm cách ??. Nguyên nhân tẩu đích đều là quan sát vận, cố rất nhanh thêm kết rồi, bất hảo. Bát tự không có phu thê tinh, nhưng đại vận có, kêu lên vận phu thê. Biểu vận qua nhân tiện xong hết rồi. Giáp tý vận, tử sửu hợp, tử ngọ xung, tỉ kiếp tranh phu, tử vận 2000 năm canh thìn năm thêm kết ??, sửu vận khẳng định cách, nguyên nhân mặc ngọ rồi. Hai lần sau lúc sẽ không kết rồi, quý cùng sửu trung quý, hai lần hôn nhân, tị dậu củng sửu, vốn là đào hoa (Chú: Là chỉ sửu vi đào hoa ?), sửu vận củng tị, lén lút đích, lấy sau khi đều là đào hoa, lộc bán đào hoa rồi, sửu trung có kỷ, phu khẳng định vốn là đã kết hôn đích. Nhàn chú: Bát tự không có quan, lấy tài quan sát chi nguyên thần tài vi phu ! Mậu quý hợp, quý tài vi đệ nhất phu, thêm đinh = ngọ, tị dậu sửu hợp, cho nên, sửu vi thứ hai hôn! Sửu trung có kỷ, phu khẳng định vốn là đã kết hôn đích đệ nhất hôn, tại niên thượng rất sớm hôn, nhưng phu thê cung mặc phu thê tinh quý thủy, cho nên, đệ nhất hôn nhất định cách! Canh thìn năm thìn đến quý đến, vốn là năm ly hôn ! Nhâm ngọ năm tử nước trôi rồi ngọ hỏa, giải rồi hại, vốn là năm thêm kết hôn! Có thể đoán được, tại sửu vận khẳng định hội cách ! Nguyên nhân mặc phu thê tinh! Tị vi lộc vi phụ nữ thân thể, tị dậu sửu hợp, dậu vi thương quan, sửu vi tỉ kiếp mà trung ngậm tài, vốn là phụ nữ đích đào hoa, nguyên nhân lấy sau khi tái khó có bình thường hôn nhân!

Khôn: Đinh Nhâm Bính Kỷ

Tị Tử Ngọ Hợi

Lưỡng cung lưỡng tinh. Này tạo phu cung ngồi nhận, phu tinh nhâm tử bị chúng tỉ tranh. Tử ngọ tướng xung, ban đầu hôn nhất định cách. Kết quả người nam nhân đệ nhất đồng cư rồi thật nhiều năm, kết hôn theo cũng vỗ, cũng không kết thành, cuối cùng chia tay rồi. Còn có [một người/cái] nữ mệnh cùng này mệnh hết sức tương tự, đinh mùi năm, nhâm tử nguyệt, bính ngọ nhật, kỷ hợi thời, cũng là lần đầu tiên hôn nhân ly dị. Nhàn chú: Tỉ kiếp tránh phu, cung tinh nhiều hiện, nhất định nhiều hôn! Ngọ vi chính cung, tị vi phó cung, lưỡng cung; nhâm tử một trụ làm một tinh, hợi vi một khác tinh, lưỡng tinh lưỡng cung! Gia tăng chi, tỉ kiếp đông đảo, nhiều kết hôn cấu! HongKong nữ đích.

Khôn: Kỷ mậu nhâm quý

Dậu Thìn Thân Mão

Kỷ Canh Tân Nhâm Quý Giáp Ất

Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Thú Hợi

Này tạo phu cung vi thân kim, thêm xuất hiện dậu kim, phu cung nhiều hiện. Lại nhìn phu tinh mậu kỷ thổ cũng nhiều hiện, thuộc về phu cung cùng phu tinh nhiều hiện đích tình huống, cho nên phải có nhiều lần hôn nhân. Bây giờ lần thứ hai hôn nhân cũng ly dị rồi. Người thứ nhất bị đỉnh rồi, người thứ hai bị hợp rồi. Người thứ nhất vốn là đánh cuộc đồ, người thứ hai làm cho hắn dưỡng. [hai người/cái] lão công cũng hoa hắn đích tiền. Nhàn chú: Thân dậu lưỡng cung, kỷ mậu lưỡng tinh! Kỷ dậu quý mão mang tượng, mão vi tài, quý cũng vi tài, kỷ vi đệ nhất thua cuộc100 vạn; mậu vi lão Nhị, gì sự tình mặc kệ, ăn của nàng còn muốn đánh chửi nàng! Tẩu thân vận tìm người thứ ba, thân trung có mậu thổ, cứ việc bên trong đích mậu ngậm đích ít, ứng cũng không tệ lắm! Mặt trời lên cao thân ấn vi phòng ở, mão vi tài, thân mão hợp, vi mướn cánh cửa mặt! Mão vi thương quan, nhưng rơi không, cùng nữ nhi, quan hệ hảo!( Không không bị sinh, không bị khắc!)

Khôn: Bính nhâm giáp giáp

Thân Thìn Thìn Tuất

Tân Canh Kỷ Mậu Đinh Bính

Mão Dần Sửu Tử Hợi Thú

Này tạo lấy thìn thổ vi phu cung, thân kim vi phu tinh, hai người tướng củng hợp, vốn chúc hảo hôn nhân. Nhưng chúng ta chứng kiến mệnh trung có lưỡng thìn, vốn là phu cung lưỡng hiện; trừ thân kim ngoại tuất trung còn có một tân kim, phu tinh cũng lưỡng hiện, cho nên nhất định là nhiều hôn mệnh. Thực tế lần đầu tiên hôn nhân ly dị, lần thứ hai hôn nhân qua rất khá. Nhàn chú: Lưỡng cung thìn, lưỡng tinh thân và thú trung tân, thú vọt thìn mở khố, nhị hôn tốt lắm!

Hai lần hôn nhân khẩu quyết: Lưỡng phu cung, một phu tinh hợp( Tam hợp, lục hợp, ám hợp đều là), nam mệnh cũng đồng xem.

Khôn: Kỷ mậu giáp quý

Dậu thìn thìn dậu 

Nhàn chú: Này bát tự không vi tư liệu thượng bát tự, sắp xếp bàn có lầm, ứng vi phía dưới địa bàn

Khôn tạo: Kỷ đinh giáp quý

Dậu mão thìn dậu không vong( Dần mão)

Đại vận: Mậu thìn kỷ tị canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi

Mới vu:1971 1981 1991 2001 2011 2021 2031 2041

Tam đến bốn lần hôn nhân, cách đích ứng kì vi xung, hôm nay năm bính tuất năm thìn tuất xung, canh thìn năm kết đích hôn, nguyên nhân thìn tới rồi, hiện đã phân cư. Nàng vốn là đạo du. Nhàn chú: Đây là một cung lưỡng tinh, tỉ kiếp mão mặc phu cung, khẳng định có nữ nhân tới xuyên vào đủ! Nhiều hôn chi tượng.

Khôn: Nhâm quý nhâm tân

Tử sửu dần hợi

Này tạo lấy sửu thổ quan tinh vi phu, dần sửu ám hợp, vốn là phu tinh hợp đến phu cung, vốn chúc hảo hôn nhân. Nhưng thấy năm tháng tỉ kiếp đông đảo, vi tỉ kiếp tranh phu tượng, phu bên ngoài nhiều nữ nhân. Năm tháng tử sửu tướng hợp, ngoài lực lượng lớn hơn dần sửu chi hợp, cố ngoài hôn nhất định cách. Quả nhiên vu đinh sửu năm ly hôn, có một hài tử, có tiên thiên tính chất bệnh tim, thủy đem hỏa khắc rồi, dần thực chủ hài tử, không vong rồi, phản chém làm nam hài. Sau khi thêm vu nhâm ngọ năm khác giá. Tượng này tạo nếu như vãn hôn, tránh được miễn ly hôn, dần hợi hợp tỏ vẻ lần thứ hai, mà lần thứ hai hôn nhân hảo. Nàng bản thân dễ được can úc chi bệnh, dễ trường ngật đáp. Nguyên nhân dần hợi hợp, đem ẩm ướt khí hợp tới rồi can trung. Sửu vốn là người thứ nhất, tân hợi vốn là người thứ hai. Nhàn chú: Sửu quan vi đệ nhất phu, tân ấn vi thứ hai phu! Nguyên nhân tân hợi mang tượng, hợi dần hợp rồi! Dần vi thực vi nữ, thấy không vi nhân, dần trung bính hỏa diệt, nhân cố tình bẩn bệnh! Nhị hôn hảo! Một hôn tỉ kiếp tránh phu, đinh sửu năm ly hôn, nhị hôn vốn là online nhận thức đích, thời thượng vi phương xa, người này nghiễm đông đích, nhâm ngọ năm xa giá Thượng Hải!

Càn: Đinh nhâm tân đinh

Mùi dần sửu dậu

Này tạo thê cung sửu thổ, mà thê tinh vốn là dần mộc, dần sửu ám hợp, vốn là hảo hôn nhân đích tổ hợp. Nhiên dần mộc nhưng lại nhập mộ vu mùi, sửu mùi thêm xung, như vậy dần sửu ám hợp chi cục đã được phá hủy, biểu thê đi, cho nên ly hôn thành tất nhiên. Thực tế nhâm ngọ năm ngọ mùi hợp, sửu ngọ hại, ly hôn rồi. Nếu như không có dần sửu hợp, thì không có chuyện, sửu mùi xung phản tỏ vẻ thê nên nhập thê cung. Bây giờ còn lại là phản rồi.

Càn: Giáp bính kỷ canh 

Thìn dần hợi ngọ  

Đinh mậu kỷ canh tân nhâm quý

Mão thìn tị ngọ mùi thân dậu

Này tạo ngồi xuống hợi thủy thê tinh được chính vị, không thích nguyệt thượng dần mộc đem thê tinh hợp đi, vốn là điển hình đích nhị hôn chi tượng. Hành kỷ tị vận, tị cây đuốc thê tinh hợi nước trôi tẩu, ly hôn rồi. Canh ngọ vận ngọ hợi ám hợp đến thê cung, vốn là người thứ hai lão bà. Ngọ hỏa vốn là kỷ thổ lộc thêm sinh kỷ thổ, cho nên người thứ hai lão bà đối với hắn hảo. Ngọ vốn là chính mình, cố lần thứ hai nhân tiện ổn định ở. Hắn ở trên tiểu học13 tuổi thời, cùng hắn đích sư phụ xảy ra quan hệ (So với hắn lớn hơn). Hác đoạn hắn là thiếu niên thành thân không được hôn. Nhàn chú: Chính tinh được chính vị sợ hợp, tẩu tị vận cách rồi, lão bà theo người chạy! Tị hợi xung thê tẩu, tị dần hại, công việc đã đánh mất! Thứ hai hợi ngọ ám hợp, kỷ= ngọ, lộc ý, hợp lưu lại rồi, ổn định! Giáp = dần, dần hợi hợp lại, giáp quan trung bao hàm phụ nữ (Có hay không vốn là thìn trung tài?) thiếu niên hư thân (14 tuổi) không được nhà (Mão mặc thìn, chích biểu hư thân, không nhắc tới lập gia đình?), niên thượng quan tinh vi trưởng bối.  (Vi sư phụ ? Quan cũng vi sư phụ).

Càn: Ất canh tân nhâm

Tị thìn mão thìn

Niên thượng tài đi ra sớm, mà ất vốn là mão thấu tới rồi niên thượng,16 tuổi thời, tìm một 20 tuổi hơn đích phụ nữ. Ất tị, thê cung mão sinh đích quan (Tị), tỏ vẻ có liên quan hệ, nhưng ất canh hợp, biểu không phải hắn đích lão bà, phải gả cho người khác nguyên nhân mão thìn mặc, nhâm vốn là thìn trung lộ ra tới, nhâm vốn là thương quan, (Chú: Con gái cung ngồi khắc con gái tinh gì đó), thêm mão thìn hại, lão bà sẽ không sinh hài tử, muốn mượn phúc sinh tử. Hác đoạn: Tự lưu mà trong ngươi không loại, tập thể mà trong ngươi hạt loại. Nhàn chú: Này mệnh lệ vi tư liệu ngoại đích. Mão= ất, ất tị mang tượng, tị sinh rồi mão cùng thê cung có liên quan liên rồi, là có tính chất quan hệ rồi! Ất vi phụ nữ, tại niên thượng vi đại, trước hợp rồi canh, nói rõ đầu tiên là người khác đích lão bà, thêm thìn mão hại, người này giá không được chính mình! Mão vi lão bà, mặc con gái cung thìn, lão bà không sinh dưỡng ! Nam mệnh quan sát vi con gái, con gái cung ngồi thương thực và thương thực khố, cũng là khắc con gái đích! Tị tại niên thượng, do ất mộc viện sinh, cho nên, mượn phúc sinh tử !

Càn: Kỷ Đinh Nhâm Quý   

Dậu Mão Ngọ Mão   

Đại vận: Bính dần ất sửu giáp tý quý hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi

mới vu: 1969 1979 1989 1999 2009 2019 2029 2039

Này tạo thê cung ngồi thẳng tài, nhật chủ thêm hợp nguyệt can chính tài, bởi vì đinh ngồi xuống mão mộc cùng ngọ hỏa tướng phá, nói rõ đinh mão một trụ cùng ngọ không thể kiêm sắc mặt, như vậy đinh mão vốn là một người, ngọ vừa là một người. Mệnh trung hai lần hôn nhân chi tượng. Thực tế kỷ mão năm kết hôn, tìm chính là đồng sự, canh thìn năm ly hôn. Nhàn chú: Ngọ trung đinh vi chính tài ngồi thê cung, vi chính tinh được vị. Đinh mão tương sinh, mão ngọ phá, cho nên, cứ việc đinh= ngọ nhưng này không nhắc tới cùng người, ứng vi hai người! [hai người/cái] thê tinh, đinh vi trước, tại nguyệt lệnh vi đồng sự, giáp tý vận kỷ mão năm kết ứng đã tới đinh đến, mão đến ứng nguyệt lệnh mão đến, vốn là năm kết hôn! Canh thìn năm thìn mặc mão cũng chính là phá hủy đinh ! Ly hôn!

Càn: Giáp bính tân giáp 

Thìn tử mão ngọ 

đại vận: Đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn tân tị nhâm ngọ quý mùi giáp thân

mới vu:1974 1984 1994 2004 2014 2024 2034 2044

Này tạo mão mộc làm vợ tinh được chính vị, thiên can lộ ra giáp mộc, cũng là thê tinh, giáp mộc ngồi chi thìn thổ nhưng lại cùng thê cung mão tướng hại, giáp cùng mão vốn là bất đồng đích phụ nữ, cố vốn là một nhiều hôn đích mệnh, niên thượng giáp vốn là lần đầu tiên, ngắn ngủi, mão vốn là lần thứ hai, thời gian trường, cũng bất hảo, thời thượng giáp vi lần thứ ba, cả đời hôn nhân sẽ không hảo. Tẩu mậu dần vận kỷ tị năm, giáp kỷ hợp, dần tị hại, giáp mộc bị kỷ thổ hợp khứ, này tuổi già bà chạy theo người khác.

Nhàn chú: Mão thiên tài vi lệch tinh ngồi thẳng vị, giáp ất mộc cộng cây, đằng la hệ giáp, giáp mộc cũng làm vợ tinh, mão thìn mặc, mão ngọ cũng phá, cho nên, nơi này giáp cùng mão không phải cùng người! Khác năm thời thượng đích lưỡng giáp nguyên nhân cung vị xui xẻo đích quá xa cũng không phải một người. Niên thượng giáp vi lão Đại, mão vi lão Nhị, thời thượng giáp vi lão Tam; tị năm mặc dần, cũng chính là mặc giáp, lão bà theo người chạy! Nhị hôn tử mão phá, ngọ mão phá, cũng sẽ không tốt! Nhưng cách không được, phu thê cảm tình bất hảo!( Đoạn sư: Cách không được, chẳng lẽ nơi này lưỡng giáp cùng người? Không có lần thứ ba hôn?) tòng đại vận xem: Thìn vận thêm hại thê cung, sợ là hôn thêm bất hảo! Tam hôn có khả năng đích!

Càn: Ất canh nhâm canh

Mùi thìn tử tuất

Này tạo không có minh đích tài tinh, lấy thương thực làm vợ tinh, cho nên niên thượng thương quan ất mộc làm vợ. Ất canh hợp, bị canh kim khắc hợp; ất chi cây mùi nhưng lại nhập thìn mộ, mùi bị thê cung tử thủy hại ngã, lần đầu tiên hôn nhân nhất định là không tới đầu đích. Nhập mộ biểu có hôn nhân quan hệ, cũng biểu tử vong. Thê tinh có khắc mộ lưỡng thương, tỏ vẻ tử vong ý. Thực tế đệ nhất đảm nhận thê tử bệnh tử, nhâm ngọ năm lấy thứ hai cho dù thê tử. Ngọ trung tòng tuất trung dẫn ra tới. Tử vi chính cung, thìn vi phó cung. Nếu như không có thìn, ất mùi không phải thê tử. Nhàn chú: Bát tự không có tài lấy thực thương làm vợ tinh, nơi này ất ngồi mùi, mùi trung đích đinh cũng có thể biểu thê tượng, ất ngồi mộ, không cát, biểu lão bà sẽ chết khứ! Tử vi chính thê cung, thìn vi phó thê cung nguyên nhân thìn tử bán hợp; chính cung lâu dài, phó cung ngắn ngủi! Chưa vào rồi thìn khố, cu
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhị, xui xẻo kết hôn đích tổ hợp

Giải mã bí ẩn “Kinh Dịch” (Phần 1)

Lọat bài “Giải mã bí ẩn Kinh Dịch” được thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ hơn những bí ẩn trong Kinh Dịch, đưa ra những bí ẩn chưa hề được công bố ra trước đây, cũng như ý nghĩa của Kinh Dịch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tác giả tổng hợp thêm kiến thức và bài viết của các đồng môn vốn hiểu rõ Dịch lý là Thần Quang, Tiểu Nham, Chính Ngộ để đưa ra bài viết này.

Ý nghĩa của Kinh Dịch

Mọi thay đổi nơi thế giới con người đều do thiên tượng biến hóa mà thành, thiên tượng chính là thể hiện của thiên ý, Kinh Dịch cho phép con người biết được thiên ý mà hành xử. Khi con người thông qua Kinh Dịch dự đóan được tương lai thì con người sẽ tin rằng mọi việc chính là đã được an bài trước cả rồi, sự việc kia chưa xảy ra nhưng đã biết trước được sẽ xảy ra như thế. Khi Kinh Dịch đóan trước được tương lai con người sẽ tin rằng mọi việc đều là theo thiên ý, đều đã được an bài trước cả như thế rồi, vậy nên thuận thiên mà làm mới là tốt, mới là hợp với ý trời. Từ đó con người tin rằng có trời đất, thiện có thiện báo, ác có ác báo từ đó tâm tính con người nâng cao lên

Những danh nhân ngày xưa đều dựa vào thiên ý mà làm thì tất thành, còn như làm trái với thiên ý thì dù có giỏi Kinh Dịch và tài năng đến đâu cũng không thành. Gia Cát Lượng là một điển hình. Vị quân sư nhà hậu Hán giỏi đến thế đã sớm biết nhà Hán sẽ phải diệt nhưng nể tình Lưu Bị vẫn ra giúp Lưu Bị nhằm khôi phục nhà Hán. Gia Cát Lượng cũng biết trước rằng đấtt nước sẽ chia 3, vì thế giai đọan đầu giúp nhà Hán thì Lưu Bị có thế yếu nhất nhưng vẫn giành chiến thắng hết trận này đến trận khác để lên làm vua nước Thục. Nhưng Gía Cát Lượng chỉ làm được đến đây thôi, vì sau đó nhà Hán sẽ phải diệt vong, đó là thiên ý, vì thế dù Gia Cát Lượng có tài giỏi đến đâu thì cũng không giúp thêm được gì cho nhà Hán, 7 lần xuất quân ra Kỳ sơn, dù giành thắng lợi lớn nhưng rồi cũng phải rút quân trở về. Dù đã dồn được cha con Tư Mã Ý và châm lửa thiêu cháy tòan đại quân nước Ngụy, nhưng 1 cơn mưa đến kịp lúc đã cứu được cha con Tư Mã Ý, đó chính là thể hiện ngọn lửa tài năng nhiệt huyết của con người không thể thắng được cơn mưa của trời vậy.

Bắt đầu từ Chu Văn Vương thời nhà Chu, Trung Quốc có rất nhiều nhà tiên tri, đều là thông qua «Kinh Dịch» mà dự ngôn biến hóa thiên tượng trong mấy trăm, thậm chí mấy ngàn năm sau. Chẳng hạn «Càn Khôn Vạn Niên Ca» của Khương Tử Nha nhà Chu, «Mã Tiền Khóa» của Gia Cát Lượng thời Tam quốc, «Thôi Bối Đồ» của Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong triều Đường, «Mai Hoa Thi» của Thiệu Ung triều Tống, «Thiêu Bính Ca» của Lưu Bá Ôn triều Minh, v.v. Những dự ngôn của họ đối với đại thiên tượng trong thời đại đặc thù ngày hôm nay đều được lưu truyền trong dân gian.

Thế nhưng con người ngày nay đều xem Kinh Dịch như một công cụ để xem bói thay đổi đời, nghĩ rằng số mình xấu thế này, nếu đi xem bói có thể cải số được. Thực ra số mệnh con người đã định để trước cả rồi, vậy đi xem bói có thể thay đổi đường đời được không? Kinh Dịch có thể biết trước được tương lai nhưng không phải là công cụ để làm cho con người thay đổi số phận của mình. Kinh Dịch chính thể hiện sự tồn tại của trời đất, mọi việc nơi thế gian đều do thiên ý tạo thành vậy

Kinh Dịch xuất hiện chính là để con người tìm hiểu Thiên ý, thiên tượng, thiên cơ. Bởi vì là an bài, nên những biến hóa thiên tượng lớn đều được thu nhỏ thành quẻ tượng, hào tượng giản đơn trong «Kinh Dịch»; thiên tượng hiển lộ cho con người, để con người thuận theo Thiên ý.

Nói về chữ “Dịch” trong Kinh Dịch (dựa theo bài của Thần Quang)

Nếu như tách chữ, thì chữ “Dịch” (易) là do “nhật” (日) và “vật” (勿) ghép thành. Từ tượng hình mà xét, “nhật” tượng trưng mặt trời, “vật” tượng trưng mặt trăng. Từ học thuyết Âm-Dương của Đạo gia mà giảng, “nhật” là Dương, “nguyệt” là Âm. Do đó xét theo tượng hình thì chữ “Dịch” (易) là do Âm-Dương hợp thành.

Tuy nhiên, nội hàm của “Dịch” không phải chỉ dừng tại đó, mà tiến thêm một bước nữa, chúng ta sẽ thấy trong “Dịch” ẩn tàng ảnh tượng của Thái Cực.

Đạo nói: Nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.

Nhật nguyệt luân chuyển, Âm-Dương giao thế, là sự việc đơn giản nhất trong Thiên Địa. Tuy nhiên trong cái giản đơn này hàm chứa vạn sự vạn tượng.

Người xưa nói, trong một giọt nước thấy thế giới. Phật Thích Ca Mâu Ni nói, trong một hạt cát có tam thiên đại thiên thế giới.

Như trên đã nói, từ chữ “Dịch” (易) này có thể nhìn ra ảnh tượng Thái Cực. Từ hoành quan mà giảng, Thái Cực của Đạo gia chính là một vũ trụ. Từ vi quan mà giảng, ảnh tượng Thái Cực trong chữ “Dịch” có thể nói là ảnh thu nhỏ vũ trụ Thái Cực của Đạo gia. Do đó, biến hóa thiên tượng trong vũ trụ đều phản ánh trong chữ “Dịch” này.

Khoa học hiện đại đã vô cùng phát triển, có thể thông qua máy vi tính để tiến hành phân tích phép toán với một lượng số liệu lớn, thậm chí có thể dự báo được thời tiết và kinh tế. Tuy nhiên đối với biến hóa của thiên tượng thì khoa học quả là bất lực.

Ánh Sáng
(theo tindachieu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã bí ẩn “Kinh Dịch” (Phần 1)

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thìn 1976 –

Rồng là con vật linh thiêng có vị trí tối cao trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt. Rồng đại diện cho sức mạnh, quyền lực siêu nhiên, hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao quý nhất của con người. Thời xưa, chỉ có vua chúa mới được so sánh với rồng
Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thìn 1976 –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rồng là con vật linh thiêng có vị trí tối cao trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt.

Rồng đại diện cho sức mạnh, quyền lực siêu nhiên, hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao quý nhất của con người. Thời xưa, chỉ có vua chúa mới được so sánh với rồng.

Rồng là đại biểu của tuổi Thìn, được xếp vị trí thứ 5 trong 12 địa chi. Xét ở góc độ thời gian là khoảng từ 7 giờ đến 9 giờ; về phương vị là hướng Đông, Đông Nam. Nếu lấy 4 mùa để phân chia là vào khoảng tháng 4 dương lịch – tức tháng 3 âm lịch. Và người tuổi Bính Thìn sinh từ ngày 31/1/1976 đến ngày 17/2/1977.

Những người tuổi Thìn thường có tính cách vui vẻ, hoạt bát, thông minh và năng động. Họ có giác quan nhanh nhạy, biết phân biệt phải trái- đúng sai. Người tuổi rồng rất ngay thẳng, tuy nhiên đôi khi hơi kiêu ngạo và thiếu kiên nhẫn. Phụ nữ tuổi Thìn thường tự tin thái quá. Người tuổi Thìn rất ghét thói đạo đức giả, ngồi lê đôi mách. Họ là những người dũng cảm, kiên cường, không ngại khó khăn, không chịu dưới quyền người khác.

Điểm mạnh của người tuổi Thìn: quyết đoán, hào hiệp, cao thượng, tinh tế, hoài bão và lãng mạn.

Điểm yếu của người tuổi Thìn: lập dị, nóng nảy, cố chấp, không thực tế.

Đặc biệt cũng như những tuổi khác, Những người tuổi này có thể dùng đá phong thủy, linh vật phong thủy để thu hút tài lộc về mình, tuy nhiên dùng bằng cách nào, những loại nào thì không phải ai cũng biết. Nên hãy cùng chúng tôi khám phá câu trả lời trong bài viết Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thìn 1976.

Nội dung

  • 1 1. Sinh năm 1976 mệnh gì? hợp màu gì?
  • 2 2. Bính Thìn 1976 trồng cây gì? hợp con số nào?
  • 3 3. Bính Thìn hợp tuổi nào
  • 4 4. Phật bản mệnh tuổi Bính Thìn
  • 5 5. Đá phong thủy tuổi Bính Thìn 1976
  • 6 7. Linh vật & Vật phẩm phong thủy cho tuổi Bính Thìn 1976
  • 7 8. Bính Thìn hợp hướng nào
    • 7.1 8.1. Hướng tốt, hướng xấu cho nam tuổi Bính Thìn 1976
    • 7.2 8.2. Hướng tốt, hướng xấu cho nữ tuổi Bính Thìn 1976

1. Sinh năm 1976 mệnh gì? hợp màu gì?

Bính Thìn sinh năm 1976 mệnh Thổ (Sa Trung Thổ).

Mệnh Thổ hợp màu gì?

Dựa vào đặc tính của mệnh Thổ và quy luật tương sinh tương khắc của Ngũ hành, mệnh Thổ hợp với màu sắc của hành Hỏa, vì là Hỏa sinh Thổ, được tương sinh, những màu tương sinh là màu đỏ, cam, tím. Mệnh Thổ cũng hợp với màu sắc của hành Thổ, được tương hợp, những màu tương hợp là màu vàng, màu nâu đất, nâu nhạt.

Mệnh Thổ không hợp màu sắc của hành Mộc, bị tương khắc, vì Mộc khắc Thổ, màu này là màu xanh lá cây. Mệnh Thổ cũng không hợp màu hành Thủy, vì Thổ khắc Thủy, các màu này là màu đen, xanh nước biển.

Ngoài ra, người mệnh Thổ cũng không nên chọn các màu sắc thuộc hành Kim là màu trắng, xám, ghi, vì Thổ sinh Kim. Các màu sắc này không khắc mệnh Thổ nhưng làm mệnh Thổ bị suy yếu.

2. Bính Thìn 1976 trồng cây gì? hợp con số nào?

Con số may mắn của người tuổi Bính Thìn là 1, 7 và 6. Con số không may mắn với người tuổi Bính Thìn là số 9, 8 và 3.

Tuổi Bính Thìn hợp trồng cây thường xuân, cây phi yến, cây lan dạ hương.

3. Bính Thìn hợp tuổi nào

Tam hợp: Bính Thìn hợp với tuổi Tý (Chuột) và tuổi Thân (Khỉ). Những cặp đôi này sinh ra để dành cho nhau, họ có thể cùng nhau xây dựng một gia đình hòa thuận và hạnh phúc. Đặc biệt người tuổi rồng rất biết quan tâm đến người bạn đời, cả hai đều dịu dàng và biết chăm sóc đối phương. Cùng chung rất nhiều sở thích, họ có thể vừa là cặp đôi hạnh phúc, vừa đóng vai một người bạn thân thiết.

Tứ hành xung: Bính Thìn không hợp với tuổi Sửu (Trâu), tuổi Mùi (Dê) và tuổi Tuất (Chó). Mâu thuẫn và xung đột giữa những tuổi này rất khó giải quyết, nếu không thể xoa dịu, những mâu thuẫn này sẽ cháy âm ỉ khiến họ dần coi nhau như kẻ thù. Cái tôi cá nhân quá cao chính là nguyên nhân của những rạn nứt.

4. Phật bản mệnh tuổi Bính Thìn

Người tuổi Bính Thìn được sự phù hộ độ trì của Phật Bản Mệnh Bồ Tát Phổ Hiền.

Bồ Tát Phổ Hiền tên tiếng Phạn là Samantabhadra hoặc là Vishvabhadra, dịch âm là Tam Mạn Đà Bồ Tát, còn được dịch là Biến Cát.

“Phổ” có nghĩa là tất thảy, ở khắp nơi, “Hiền” có nghĩa là tối diệu thiện. Phổ Hiền nghĩa là nguyện hạnh do tâm Bồ đề khởi lên được phổ chiếu khắp nơi, thuần nhất, diệu thiện.

Bồ Tát Văn Thù đại biểu cho trí, tuệ, chứng, nắm giữ trí tuệ và chứng đức của chư Phật.

5. Đá phong thủy tuổi Bính Thìn 1976

Tuổi Bính Thìn sinh năm 1976, có ngũ hành năm sinh là Sa trung Thổ, hợp các loại đá quý màu đỏ, tím, cam, như đá mắt hổ nâu đỏ, đá thạch anh hồng, thạch anh tím, garnet ngọc hồng lựu và đá quý màu vàng, nâu, như thạch anh tóc vàng, mắt hổ vàng, etc.

Đá mắt hổ: đá mắt hổ có tác dụng giữ vững tinh thần, tích tụ tài bảo; tăng cường ý chí và lòng dũng cảm, niềm tin, giúp những người nhút nhát trở nên mạnh mẽ. Đeo vòng tay đá mắt hổ có tác dụng tăng cường sức sống, phù hợp với những người thân thể yếu đuối, bệnh lâu ngày không khỏi. Hơn nữa, còn giúp tăng cường trí lực, hiểu thấu đáo mọi vấn đề, kiên trì và giữ vững nguyên tắc.

Thạch anh hồng: Năng lượng của thạch anh hồng giúp tăng sự sáng tạo, mang lại cảm giác thư thái, đặc biệt cho những người làm trong lĩnh vực nghệ thuật.

Thạch anh tím: Thạch anh tím tạo sự sảng khoái, tư duy sáng tạo, đặc biệt tốt cho người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Leonardo Da Vinci đã từng nói ” năng lượng diệu kỳ của thạch anh tím giúp giải phóng con người ta khỏi giới hạn, chúng giải phóng bộ não, kích thức sự sáng tạo, và dẫn lối con người đến ánh sáng của chân lý”.

Garnet ngọc hồng lựu: Trong truyền thuyết của người Thổ, Garnet ngọc hồng lựu là một trong bốn viên đá mà chúa đã ban tặng cho vị vua của đế chế Solomon.

Lưu ý

Các loại đá quý đa sắc có thể đeo cho tất cả các mệnh như tourmaline đa sắc, thạch anh đa sắc, đá melody (super seven)…
Các loại đá quý không màu như kim cương, zircon không màu… có thể đeo cho tất cả các mệnh
Các loại đá quý có nguồn gốc hữu cơ như ngọc trai, ngà voi, mai rùa có thể đeo cho tất cả các mệnh
Ruby (hồng ngọc) cũng là loại đá quý đặc biệt phù hợp với tất cả các mệnh.

7. Linh vật & Vật phẩm phong thủy cho tuổi Bính Thìn 1976

Phật Tổ Như Lai
Phật Di Lặc
Phổ Hiền Bồ Tát (Phật bản mệnh tuổi Thìn)
Tỳ Hưu
12 con giáp
Vòng tay phong thủy
Thiềm thừ (Cóc tài lộc)
Chúa gê-su…

8. Bính Thìn hợp hướng nào

8.1. Hướng tốt, hướng xấu cho nam tuổi Bính Thìn 1976

Nam Bính Thìn sinh năm 1976

Cung mệnh: Càn thuộc Tây tứ trạch

Mệnh nạp âm: Sa trung Thổ


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng Tây Bắc (Càn): Được Phục vị, Phù Bật Thủy tinh.
Hướng Đông Bắc (Cấn): Được Thiên y, Cự Môn Thổ tinh.
Hướng Tây Nam (Khôn): Được Phúc Đức, Vũ Khúc Kim tinh.
Hướng nhà, giường ngủ, cửa bếp, bàn thờ: Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nam.
Nhà vệ sinh, bếp: Ất, Đinh
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Tây tứ mệnh.

Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Đặt một bình hoa to trong phòng khách và phòng ngủ, treo các loại tranh ảnh hình chim hạc theo hướng sao tốt.

Về mặt trí tuệ: Đặt một bức tượng Phật, Tâm kinh theo hướng Phúc Đức, Phục vị hoặc đặt tháp Văn Xương theo hướng sao tốt.

Về mặt công danh sự nghiệp: Đặt ấn quan bằng ngọc đẹp, treo một xâu tiền cổ hướng Phúc Đức, Phục vị.

Về mặt tài lộc: Đặt một bể cá cảnh ở hướng Tây Nam, treo tranh Sơn thủy.

8.2. Hướng tốt, hướng xấu cho nữ tuổi Bính Thìn 1976

Nữ tuổi Bính Thìn sinh năm 1976

Cung mệnh: Ly thuộc Đông tứ trạch

Mệnh nạp âm: Sa trung thổ


Hướng tốt theo Bát trạch:

Hướng chánh Đông (Chấn): Được Sinh khí, Tham lang mộc tinh.
Hướng nhà, bàn thờ, giường ngủ, hướng cửa phòng bếp: Nam, Đông, Đông Nam.
Nhà vệ sinh, bếp nấu: Dậu, Tân, Càn, Hợi.
Chọn vợ, chồng hoặc đối tác làm ăn: Thuộc Đông tứ mệnh.

Sử dụng và bài trí các linh vật theo la bàn phong thủy để được may mắn và bình an:

Về mặt sức khỏe: Nên treo từ 3 đến 4 ngọn Trường minh đăng, trồng một cây Vạn niên thanh ở cung Sinh khí và cung Thiên y.

Về mặt trí tuệ: Đặt một bức tượng hoặc ảnh của Bồ Tát, Tâm kinh, tháp Văn Xương 9 tầng theo hướng sao tốt.

Về mặt công danh sự nghiệp: Nên đặt một quả cầu thủy tinh, ấn thăng quan theo hướng sao tốt.

Về mặt tài lộc: Đặt một con cóc vàng ba chân, thờ thần tài, treo một xâu tiền Ngũ đế theo hướng sao tốt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cẩm nang phong thủy tuổi Bính Thìn 1976 –

Tục thả cá chép ngày 23 tháng Chạp có ý nghĩa gì?

Theo tục lệ cổ truyền, cứ đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm là mọi nhà đều làm lễ cúng ông Công ông Táo lên chầu trời và có tục thả cá chép ngày 23 tháng Chạp
Tục thả cá chép ngày 23 tháng Chạp có ý nghĩa gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo tục lệ cổ truyền, cứ đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm là mọi nhà đều làm lễ cúng ông Công ông Táo lên chầu trời. Ngoài mâm cỗ, các gia đình sẽ chuẩn bị cá chép để thả ra sông, hồ gần nhà...


Tuc tha ca chep ngay 23 thang Chap co y nghia gi hinh anh
 

Ý nghĩa tục lệ cúng ông Công ông Táo?

  Theo truyền thuyết kể lại rằng: "Hàng năm, Táo quân được ông Trời phái xuống trần gian theo dõi và ghi chép những việc làm thiện - ác của loài người.   Sau đó, cứ vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, Táo quân lại cưỡi cá chép hóa rồng lên Thiên đình báo cáo tất cả việc làm tốt và chưa tốt của con người trong một năm để Thiên đình định đoạt công tội, thưởng phạt phân minh cho tất cả loài người". Đến đêm Giao thừa, Táo quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc trông coi bếp lửa gia đình.   Bởi thế, cứ đến ngày Tết ông Công ông Táo là người Việt lại làm lễ thả cá chép ngày 23 tháng Chạp. Người dân thường chuẩn bị một đôi hoặc 3 con cá chép sống, thả trong chậu nước, cúng cùng các đồ lễ khác.   Sau khi cúng xong sẽ đem "phóng sinh" ở sông, ao, hồ, nghĩa là để đưa ông Táo về trời.   Ngoài ra, trong tâm thức người Việt, "cá vượt Vũ môn" hay "cá chép hóa rồng" còn mang ý nghĩa của sự thăng hoa, biểu tượng của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới thành công, biểu trưng cho nhân cách thanh cao tiềm ẩn hoặc hướng đến một kết quả tốt đẹp. Ngoài ra, tục thả cá chép trong ngày 23 tháng Chạp còn thể hiện sự từ bi quý báu của người Việt.   Phóng sinh cá chép ngày Tết ông Công ông Táo không chỉ là một nét đẹp văn hóa, mà còn thể hiện sự từ bi quý báu của người Việt Nam.  

Thả cá chép ngày 23 tháng Chạp đúng cách

  Theo quan niệm dân gian, cá chép phải được thả trước giờ Ngọ (12h trưa ngày 23 tháng Chạp) thì mới kịp lên thiên đình. Do vậy, ngay từ tối ngày 22 đến sáng sớm 23 tháng Chạp, người người đã bắt đầu thả cá ra sông, suối, hồ nước gần nhà.   Thả cá chép thế nào cho vừa đúng ý nghĩa tâm linh, vừa đúng mục đích tái tạo nguồn lợi bảo vệ môi trường không phải ai cũng hiểu biết đầy đủ. Nhiều người không phải thả cá mà đổ, ném, quăng cá hoặc ném luôn cả túi ni lông chứa nước cá xuống ao, hồ.   Như vậy không chỉ làm ô nhiễm môi trường mà còn thể hiện thái độ bất kính, sai ý nghĩa, chuẩn mực với phong tục cổ truyền thiêng liêng của dân tộc.   Thả cá chép đúng là thả từ từ, nhẹ nhàng xuống sông hồ để cá còn có cơ hội được sống. Nhiều người cẩn thận còn thắp hương cầu khấn những điều tốt lành cho bản thân, gia đình rồi mới từ từ để cá chép bơi xuống mặt nước với lòng thành kính, thiêng liêng nhất. Có như vậy mới mong tìm được sự bình an trong tâm linh và bảo vệ môi trường sống xung quanh.  
► Mời các bạn xem sao hạn, xem tuổi xông đất 2017 để mang lại may mắn cho gia chủ

Theo Vietnamnet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục thả cá chép ngày 23 tháng Chạp có ý nghĩa gì?

Độ dài ngắn ngón tay giữa bật mí tương lai tốt xấu

Chỉ thông qua độ dài ngắn của ngón tay giữa, bạn sẽ biết được phần nào đó về tính cách, công danh và tình duyên của mình.
Độ dài ngắn ngón tay giữa bật mí tương lai tốt xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách xác định độ dài của ngón tay giữa

Nguyên tắc: Trai tay trái, gái tay phải

1. Trước tiên, đo độ dài của đốt tay thứ 3 (Như hình vẽ), ví dụ số đo là 3 cm.

2. Đô độ dài đốt tay thứ nhất và hai, ví dụ số đo là 4 cm.

3. Đo độ dài từ phần dưới đốt tay thứ 3 đến cổ tay, ví dụ số đo là 12 cm.

4. Độ dài tiêu chuẩn ngón tay giữa được tính như sau: 3÷4×12=9

5. Tiêu chuẩn đánh giá: Nếu độ dài toàn ngón tay giữa lớn hơn 9 cm, có nghĩa là quá dài. Ngắn hơn 9 cm là quá ngắn.

unnamed-3707-1425565393.jpg

1. Ngón tay giữa quá ngắn

Về tính cách: Theo Nhân tướng học, dù là nam hay nữ, người có ngón tay giữa quá ngắn thường thiếu sự kiên trì, dễ bị kích động và làm việc theo cảm tính. Do đó, chủ nhân của tướng tay này nên học cách tiết chế cảm xúc, suy nghĩ thấu đáo trước khi đưa ra quyết định của mình, tránh rơi vào tình trạng bị người khác chê cười.

Về công danh, sự nghiệp: Người có độ dài ngón tay giữa khiêm tốn thường khởi nghiệp khó khăn, mất mát nhiều hơn là đạt được. Đặc biệt, gặp phải năm khắc bản mệnh, may mắn chưa thấy đâu thì vận rủi đã ùn ùn kéo tới. Tuy nhiên, về trung vận họ cũng gặt hái được những thành công nhất định.

Về tình cảm: Người có ngón tay giữa ngắn thường rất hiếu khách và hành động theo cảm tính. Họ thường đặt tình cảm lên trên lý trí nên dễ bị người xấu lợi dụng. Theo đó, trong tình yêu, người có tướng tay này khá lận đận.

2. Ngón tay giữa quá dài

Về tính cách và tình cảm: Phần lớn những người có kiểu tay này đều vô cùng tự tin, dễ vượt qua những trở ngại và cú sốc về mặt tình cảm. Bằng cách thức của riêng mình, họ luôn hóa giải mọi chuyện lớn thành nhỏ, nhỏ thành không có, đơn giản hóa mọi vấn đề.

Nam giới có tướng tay này thường tôn sùng chủ nghĩa đại trượng phu, khí phách oai hùng, thích giúp đỡ mọi người xung quanh. Nếu là nữ giới, họ tự tin tới mức lúc nào cũng coi mình là trung tâm của mọi sự chú ý. Họ mạnh mẽ và khả năng ngoại giao khá tốt.

Về công danh, sự nghiệp: Nam nữ có ngón tay giữa dài thường dễ thành công trong sự nghiệp. Ở họ hội tụ đầy đủ sự tự tin và tính quyết đoán. Hơn thế, họ xử lý mọi việc bằng lý tính nên ít vấp phải những trở ngại về mặt tinh thần. Đó là bí quyết giúp chủ nhân sở hữu kiểu tay này “công thành danh toại”.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Độ dài ngắn ngón tay giữa bật mí tương lai tốt xấu

Sao Suy

Hành: Thủy Loại: Hung Tinh Đặc Tính: Sự sa sút, yếu đuối Phụ Tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: T...
Sao Suy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Hung TinhĐặc Tính: Sự sa sút, yếu đuối
Phụ Tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.

Ý Nghĩa Suy Ở Cung Mệnh
Sao Suy ở Mệnh là người có tài khéo, thích hợp với ngành có sự tỉ mỉ, chính xác, có hoa tay. Sao Suy còn chủ sự suy yếu, sa sút, không thành đạt, yếu đuối về thể xác, bất định, hay lo, đưa đến lao tổn.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Suy

Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

Xem tử vi bản mệnh có Thương Quan ở Tứ trụ thì trong họa có phúc, trong phúc có họa, nguy nan khó đoán định.
Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tử vi bản mệnh có Thương Quan ở Tứ trụ thì trong họa có phúc, trong phúc có họa, nguy nan khó đoán định.


Xem tu vi cho nguoi co Thuong Quan o Tu tru hinh anh 2
 
Trong tử vi, Tứ trụ bao gồm giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh, quyết định nhiều tới số mệnh của cuộc đời một người.    Xét về Thương Quan trong tử vi:   Hàm nghĩa: người bà, vận động, tài ăn nói, nghệ thuật, sáng tác, thanh danh, con cái.   Ưu điểm: dũng cảm, lãng mạn, tự do, thông minh, to gan, linh hoạt, tranh luận   Nhược điểm: mất chức, thi trượt, vô kỷ luật, tùy hứng, thị phi, phản loạn, khắc chồng.   Năm sinh có Thương Quan thì chủ tổ tiên có cuộc sống gian nan, cha không bằng ông, người có tâm lý phản loạn, dễ phải bươn chải từ sớm, không kế thừa tổ nghiệp.    Năm làm Thương Quan vượng mà không có gì khắc chế thì người cha có tính tình táo bạo. Năm làm Thương Quan hỉ dụng thì ngày nhỏ gia đình tốt; vi tắc thì ngày nhỏ gia cảnh bần hàn. Thân nhược đặc biệt kị Thương Quan, người có cố tật, nếu không sửa được sẽ giảm thọ, có Kiêu Ấn thì sẽ hóa giải được. Năm xưa phạm Thương Quan thì khó có con. Tổ vượng phụ suy, đời cha không bằng đời ông.   Năm thượng thương Quan khắc cha mẹ, không quá tuổi 25 thì mệnh ngạch cha mẹ không còn, trừ khi cả đời vất vả.    Hướng dẫn xác định số mệnh có Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân tốt lành
Trong khoa học tử vi, Cát thần Phúc Tinh Quý Nhân sẽ mang tới may mắn và hứa hẹn một tương lai tốt đẹp, nhiều thành công. Cùng

Thương Quan ở tháng sinh thì là người có thiên phú nghệ thuật, tài buôn bán, thông minh trí tuệ, năng lực hành động vượt trội. Nguyệt lâm Thương Quan, anh em bất hòa, hôn nhân bất lợi, nữ mệnh có can của tháng sinh vướng Thương Quan thì duyên phận cực kém. Thương Quan cường vượng, dễ đắc tội với người khác, giúp người mà không được báo đáp. 
  Thương Quan được lệnh thì không đủ ôn nhu, thêm Kiêu Ấn chủ lời nới không có thiện ý. Người này cao ngạo, lập dị, thích phủ định người khác, cậy mạnh hiếu thắng, tâm phục khẩu không phục. Thương Quan áp chế thân quá mức thì nghèo khó, tự cho là thông mình. Anh em ít, có anh em cũng không giúp đỡ được nhiều. Thái độ làm người thanh cao ngạo mạn, khôn khéo, tháng sinh lâm Thương Quan có Thân vượng thì có vận tài lộc tốt.  
Xem tu vi cho nguoi co Thuong Quan o Tu tru hinh anh 2
 
Thương Quan ở ngày chủ sự nghiệp tốt nhưng hôn nhân kém, người nữ dễ ly hôn. Tính cách thanh cao, tự phụ, gấp gáp, nhạy bén, quết đoán nhưng quan trường lại không có lợi. Nữ mệnh vô cùng nữ tính nhưng lại không khuất phục bạn đời, khắc chồng. Sinh vào ngày bản khí Thương Quan , nam mệnh dễ ly hôn. Sinh ngày Thương Quan có Kiêu Ấn là mệnh quý, có Kiếp Tài thì nghèo khó.
  Như vậy, ngày lâm Thương Quan nhìn chung là không tốt, nữ khắc phu nam khắc thê, tai họa bất ngờ. Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi cho người có Thương Quan ở Tứ trụ

Ý nghĩa sao Đại Hao - Bại tinh chủ sự phá tán

Sao Đại Hao vơí Tuyệt đồng cung: Xảo quyệt. Nếu Mệnh vô chính diệu thì càng giả trá và rất keo kiệt, tham lận, là một bại tinh chủ sự phá tán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Đại Hao - Bại tinh chủ sự phá tán

Ý nghĩa sao Đại Hao - Bại tinh chủ sự phá tán

Hành: Hỏa

Loại: Bại Tinh

Đặc Tính: Phá tán

Tên gọi tắt thường gặp: Hao 

Là một sao phụ tinh, một trong những sao bộ đôi Tiểu Hao và Đại Hao. Gọi tắt là Song Hao. Cũng là Sao thứ 10 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Phân loại theo tính chất là Hao Tinh, Bại Tinh. Cũng là một trong 6 sao của bộ Lục Bại Tinh gồm các sao Tiểu Hao, Đại Hao, Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư (gọi tắt là Song Hao Tang Hổ Khốc Hư).

Vị Trí Ở Các Cung của sao Đại Hao:

Đắc địa: Dần, Thân, Mão, Dậu.

Hãm địa: Tý, Sửu, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Tuất, Hợi.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Mệnh:

Tướng Mạo: Cung Mệnh có sao Đại Hao, thì lùn, đẹt, ốm.

Tính Tình: Người thường hay thay đổi chí hướng, nghề nghiệp, tính hào phóng, thích tiêu pha, ăn xài lớn, hay ly hương lập nghiệp, thích đi đây đi đó hoặc làm các nghề lưu động, di chuyển.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Với Các Sao Khác:

Sao Đại Hao, Tiểu Hao, Cự Môn, Thiên Cơ: Rất giàu có, tiền bạc thừa thãi vô cùng.

Sao Đại Hao gặp Hỏa, Linh: Bị nghiện (ghiền).

Sao Đại Hao với Tuyệt đồng cung: Xảo quyệt. Nếu Mệnh vô chính diệu thì càng giả trá và rất keo kiệt, tham lận.

Sao Đại Hao gặp Tham Lang đồng cung hay xung chiếu: Hiếu sắc, dâm dật nhưng rất kín đáo.

Sao Đại Hao gặp Hóa Kỵ: Vất vả, túng thiếu.

Sao Đào, Hồng, Đại, Tiểu Hao: Tốn tiền nhân tình.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Phụ Mẫu:

Cha mẹ không được sống gần quê cha đất tổ, phải thay đổi nơi ăn chốn ở, nghề nghiệp.

Đại Hao, Hóa Kỵ thì cha mẹ vất vả.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Phúc Đức:

Đại Hao ở cung Phúc Đức có nghĩa là bần hàn, giòng họ ly tán, tha hương lập nghiệp. Đại Hao rất kỵ ở cung này.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Điền Trạch:

Không có điền sản (nếu thêm Không, Kiếp càng chắc).

Dù có cũng phải bán, hoặc phải hao tốn tài sản.

Gặp Không, Kiếp đắc địa thì điền sản được mua đi bán lại rất mau.

Hao tổn vì dọn nhà cửa, thay đổi chỗ ở, hoặc một kiểng hai hoa.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Quan Lộc:

Làm việc có tính cách lưu động, thường hay thay đổi chỗ làm hay đổi nghề nghiệp.

Đại Hao gặp Hóa Quyền: Người dưới khinh ghét.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Nô Bộc:

Bị tôi tớ trộm cắp, làm hao tốn của cải hoặc bị người dưới, bạn bè ăn chận.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Thiên Di:

Sao Đại Hao ở cung Thiên Di có nghĩa là khi ra ngoài tốn tiền, thường phải tha hương lập nghiệp, thay đổi chỗ ở nhiều lần.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Tật Ách:

Giải trừ được tai nạn, nhưng nếu có thêm các sao xấu như Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì vì đam mê một thứ nào đó mà sinh ra bệnh tật.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Tài Bạch:

Trừ phi đắc địa, vì bản chất của Đại Hao là hao tán, cho nên đóng ở cung nào làm giảm cái tốt của cung đó. Đặc biệt Đại Hao rất kỵ những cung Tài, Điền, Phúc. Về điểm này, Đại Hao nghịch nghĩa với Đẩu Quân.

Sao Đại Hao ở cung này có nghĩa là tán tài, hao tài, nghèo túng, có dịp phải ăn tiêu luôn.

Đại Hao gặp Đào, Hồng: Tốn tiền vì gái.

Nếu Đại Hao gặp Phá hay Tuyệt thì bị phá sản. Đại Hao gặp Không, Kiếp cũng bị phá sản.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Tử Tức:

Sinh nhiều nuôi ít.

Con cái không được ở gần cha mẹ.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Phu Thê

Đi xa mà gặp duyên nợ, việc cưới xin dễ dàng.

Đà La, Thiên Hình, Thiên Riêu thì người hôn phối phong lưu, tài tử.

Ý Nghĩa sao Đại Hao Ở Cung Huynh Đệ:

Anh chị em ly tán, mỗi người một chí hướng.

 Sao Đại Hao Khi Vào Các Hạn:

Có dịp hao tài tốn của hoặc vì tang khó, bệnh tật hay bị mất trộm.

Có sự thay đổi hoặc nghề nghiệp, hoặc chỗ làm, hoặc chỗ ở, hoặc đi ngoại quốc.

Nếu có ốm đau, thì mau hết bệnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Đại Hao - Bại tinh chủ sự phá tán

Người thực sự có hiếu với cha, mẹ không nhiều. Vì sao?

Người thực sự có hiếu kính với cha mẹ như đất trong móng tay so với địa cầu. Chúng ta phảm làm ngay những việc cần làm cho cha mẹ để khỏi hối hận về sau.
Người thực sự có hiếu với cha, mẹ không nhiều. Vì sao?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vấn đề đáng nói là đối với những người con tuy có hiếu, mong muốn được thể hiện đạo hiếu nhưng rồi cũng không làm được gì nhiều cho các đấng sinh thành

Một thời, Thế Tôn trú tại Rajàgaha, trên núi Gijjhakùta. Rồi Thế Tôn lấy một ít đất trên đầu móng tay và bảo các Tỷ kheo:

Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, cái nào là nhiều hơn, một ít trên đầu móng tay hay là quả đất lớn này?

Bạch Thế Tôn, cái nhiều hơn là quả đất này, còn ít hơn là đất trên đầu móng tay.

Cũng vậy, này các Tỷ kheo, ít hơn là các chúng sinh có hiếu kính với mẹ, với cha và nhiều hơn là các chúng sinh không hiếu kính với mẹ, với cha.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 12, phẩm Bánh xe lược thuyết, phần Hiếu kính mẹ-Hiếu kính cha [trích], NXB Tôn Giáo 2002, tr.675)

LỜI BÀN:

Hiếu kính với cha mẹ là một lẽ đương nhiên, gần như bất cứ người con nào cũng biết niệm ân và hết lòng hiếu dưỡng song thân để đáp đền ân nghĩa sinh thành. Thế thì vì sao Thế Tôn lại khẳng định “ít hơn là các chúng sinh có hiếu kính với mẹ, với cha và nhiều hơn là các chúng sinh không hiếu kính với mẹ, với cha”?

Có thể nói từ trong tâm khảm, không ai mà không thương kính cha mẹ. Nhưng để thực hiện song hành tâm hiếu và hạnh hiếu một cách trọn vẹn thì không mấy ai làm được. Ở đây, chúng ta không bàn đến hạng người mang tội đại nghịch (giết cha, giết mẹ) hay những kẻ nghịch tử chỉ báo hại và làm khổ cha mẹ. Vấn đề đáng nói là đối với những người con tuy có hiếu, mong muốn được thể hiện đạo hiếu nhưng rồi cũng không làm được gì nhiều cho các đấng sinh thành.

Vì sao? Có đến 1001 lý do để biện giải cho điều ấy. Cho dù những lý do ấy có xác đáng đến mấy và dẫu cho cha mẹ hoàn toàn thông cảm, hy sinh thì chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng những gì mình đã làm cho cha mẹ thật sự quá ít so với thâm ân sinh dưỡng như biển trời. Sống ở đời, có lòng hiếu đã khó, thực hiện nó lại càng khó hơn bởi không phải ai cũng có đầy đủ phước duyên để phụng dưỡng và kính thờ cha mẹ như ý của mình.

Cuộc sống vốn phức tạp và đầy biến động, mải lao theo những việc quan trọng, cấp thiết hơn nên niềm riêng về cha mẹ tạm thời gác lại. Điều này cũng dễ dàng cảm thông nhưng trớ trêu thay là không có cái gì chờ đợi chúng ta cả. Rồi chuyện sẽ đến đã đến và chúng ta không kịp trở tay, chỉ còn ôm niềm ân hận là chưa làm được nhiều cho cha mẹ thì người đã đi rồi. Tư duy và chiêm nghiệm về lời dạy của Thế Tôn để thấy mình vẫn chưa tròn câu hiếu đạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người thực sự có hiếu với cha, mẹ không nhiều. Vì sao?

Phương pháp xác định loại Ngũ hành theo năm sinh

Trong ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ thì còn được phân ra các nhánh như trong thổ thì có ốc thượng thổ, thành đầu thổ, bích tượng thổ,.... Trong hỏa thì có sơn đầu hỏa, phú đặng hỏa,... Cùng tìm hiểu xem năm sinh của bạn thì mang ngũ hành gì? ý nghĩa như thế nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì Thiên can Địa chi nguyên lấy ý nghĩa từ cây cối, cho nên ý nghĩa nguyên thủy của nó còn có cách nói rất thú vị. Trong văn hóa Ngũ hành cổ đại đã từng dùng vòng Giáp Tý để biểu thị quy luật sinh trưởng của muôn loài.

Phương pháp xác định loại Ngũ hành dựa vào năm sinh là nội dung trọng yếu của thuật bói toán cổ đại. Nhưng khi sử dụng nó, cũng không phải cô độc một mình nó mà phải xem xét tới quy luật của 12 Chu kì của Ngũ hành và tổng thể Ngũ hành can chi của năm. Theo can chi năm sinh khác nhau thì có diễn giải khác nhau:

Phương pháp xác định loại Ngũ hành theo năm sinh

Với ngũ hành thuộc Kim

Hải Trung Kim: Vàng che đây khí ấp ủ ở trong nước, ở kho báu long quan, bảo vật trong bụng của con giao long. Giáp Tý thuộc Hải trung Kim: Kim sinh Thủy, Thủy sinh mộc, khi gặp việc có thể rất thô lỗ; Ất Sửu cũng là mệnh Hải trung Kim nhưng đây lại là vàng ở trong kho, có tính nết rất đặc thù.

Kim Bạc Kim: là vàng mềm yếu, chén bát sáng sủa, tăng sang trọng trong cung vua. Nhâm Dần là Kim bạc Kim: Thủy sinh Mộc, Kim khắc Mộc, Quý Mão Kim bạc kim: tương tự như Nhâm Dần.

Bạch lạp Kim: vàng nằm trong mỏ, vàng vừa mới thu chính khí, ngọc miếng ở Côn Sơn, vàng ở Lạc Phố lưu lại. Canh Thìn thuộc Bạch lạp Kim: vàng tụ lại từ khí, thân thể có vượng tướng, chú ý làm việc có chừng mực; Tân Tị Bạch Lap Kim: Vàng tự sinh, Kim trường sinh tại Tị, có sức sáng tạo.

Sa Trung Kim:Vàng ở trong cát nhưng khác xa với cát, mới hình thành trên đất, chất quý hiếm ẩn trong cát. Giáp Ngọ thuộc sat rung kim là vàng cứng rắn, sự nghiệp có tiền đồ. Kỷ Mùi sa trung kim: thuận lợi trong thăng quan tiến chức.

Kiếm phong Kim: Vàng ở mũi kiếm đã tuốt khỏi vỏ, bạch để ty quyền, vừa ra lò qua tôi luyện. Nhâm Thân thuộc Kiếm phong Kim: là vàng trước của quan cực vượng, có tiền dồ phát triển, chú ý khi còn nhỏ thương tật ốm đau. Quý Dâu Kiếm phong kim: Có cơ hội làm nghề thương mại.

Thoa xuyến Kim: Vàng để luyện trang sức, làm cho bộ mặt thêm đẹp, tăng hào quang. Canh tuất thuộc Thoa xuyến Kim: vàng tự trưởng thành, hành sự cần chú ý lòng tin. Tân Hợi thuộc thoai xuyến Kim: trung niên cần đề phòng bệnh tật.

Ngũ hành thuộc Mộc.

Tang thác Mộc: Hình dáng của công còn cong chưa vươn ra, âm thinh, gốc rễ đẹp đẽ. Nhâm Tý thuộc Tang thác mộc: Cha mẹ đối với mình thật là quan trọng. Quý Sửu thuộc tang thác mộc: Dễ công tác trong nhành thương nghiệp.

Tùng Bá Lộc: Cây thu ánh mặt trời mà lớn, gom tuyết nhặt sương, giúp trời che đất. Canh Dần thuộc Tùng bá Lộc: là cây trong gió rét, có phát triển những phải gánh vác nhiều việc nặng nề. Tân Mão thuộc Tùng bá Lộc: tương tự như Canh Dần.

Đại Lâm Mộc: Cành lá rậm rạp, tất nhiên sẽ thành rừng, cành cây với tới trăng, chắn mây che mặt trời. Những mệnh thuộc Đại Lâm Mộc: Mậu Thìn ( có tài thương nghiệp), Kỷ Tị (Vì là cây củi nên luôn đề phòng tai biến bởi bệnh tật).

Dương Liễu Mộc: Cây thịnh về mùa hạ tính hơi mềm yếu, lòng thong uyển chuyển, tơ bò nhằng nhịt. Nhâm ngọ thuộc Dương liễu mộc: Con cái rất tốt, bản thân tính tình thẳng thắn. Quý Mùi: Có năng lực kinh doanh thương mại.

Thạch Lựu Mộc: Cây mọc ở đất vàng vị, có tính cay, cay như gừng, hoa đỏ như lửa vì là Kim nên mài làm thành khí cụ.Canh Thân thuộc Thạch lựu mộc: Mộc tuyệt ư thân, lúc còn nhỏ phải giữ gìn đề phòng tai nạn. Tân Dậu: Dễ bị dày vò, nên tìm việc thiện mà làm được thì vui vẻ.

Bình Địa Mộc: Cây ẩn trong đất, bắt đầu ra cành lá, cần có sương mưa. Mậu tuất thuộc Bình Địa Mộc: cây lúc mới mọc không cần có sức mạnh, phải đối mới. Kỷ Hợi: Có người giúp đỡ, hào nhà với người nên thành thân.

Ngũ hành thuộc Thủy

Giản hạ Thủy: Đất ẩm ướt, nước chảy trong đất, quanh núi có sóng nước nhỏ, tuyết sương mờ ảo. Bính tý thuộc Giản hạ Thủy: bạn bè tương đối nhiều. Đinh Sửu: Nước được tích tụ lại cho phúc, cần cận trọng trong khi hành sự.

Đại khuê thủy: Nước có thế mạnh cuồn cuộn chảy về đông, sóng to đập vào bờ kinh khủng, sóng nổi dữ dội. Giáp Dần, Ất Mão thuộc Đại khuê thủy.

Trường Lưu Thủy: Thế nước từ hướng đông nam đổ về kho đầy ăm ắp, cuồn cuộn vô biên, dạt dào bất tận, dạt dào bất tận. Nhâm Thìn thuộc trường lưu thủy: là nước không bao giờ cạn, Thìn là cái kho, dễ lên nhanh xuống nhanh. Quý Tị: Thích hợp nhiều nơi, yêu mến sự nghiệp.

Thiên Hà Thủy: Khí đang thăng giáng, mưa nước nóng, loại nước chỉ có độc nhất ở trên trời, tung tóe mọi nơi, tràn đầy khắp chốn. Bính Ngọ thuộc thiên hà thủy: nữ đa tình. Đinh Mùi: Chịu khó làm việc nên thường có thành quả lao động xứng đáng.

Tuyền trung Thủy: Nước yên tĩnh chảy ra không hết, hút cũng không tận, nguồn lạnh sạch sẽ, lấy để nuôi sự sống mãi mãi không cạn. Giáp Thân thuộc Tuyền trung thủy: Có thành tựu. Kỷ Dậu: Công việc có thể thay đổi.

Đại hải Thủy: nước biển lớn, nước nạp vào không đầy, lấy đi không cạn, chứa đựng nước của mọi sông đổ dồn về, mênh mông vô bờ. Nhâm Tuất, Quý Hợi thuộc Đại hải Thủy.

Ngũ hành thuộc Hỏa:

Tích lịch Hỏa: Hình ở Thủy vị, lửa rồng thần, một tia hào quang, chớp đả kim xà. Mậu Tý thuộc Tịch lịch hỏa: lửa ở trong nước, nhờ nước mà thành lửa, sự nghiệp thành đạt. Kỷ Sửu thuộc Tích nịch Hỏa: chú ý phòng tai nạn.

Lưu trung Hỏa: Lửa trong lò, lửa gặp củi thì bốc, thiên hạ làm lò, rực sáng vũ trụ, tôi luyện càn khôn. Các năm thuộc lưu trung hỏa: làm văn thư tương đối khá, nghiên cứu cũng có kết quả. Đinh Mão: nội tâm phức tạp, tổng thể như ý.

Phúc Đăng Hỏa: lửa chiếu sáng tránh sự tối tăm, ngọc đài sán lạn, không có mắt trời mà bẫn sáng sủa. Các năm thuộc phúc đăng hỏa: Giáp Thìn có thành đạt được người khác tôn trọng, Ất Tị : thời trung niên phát đạt.

Thiên thượng Hỏa: Lửa ở trên trời, lửa thông minh ở trên trời, làm ấm áp sông biển, rực rỡ vũ trụ. Mậu Ngọ và Kỷ Mùi thuộc thiên thượng hỏa.

Sơn hạ Hỏa: lửa ở trên núi, lửa nhỏ chiếu sáng gần, cây cỏ gặp được thì tốt tươi, hoa quả rực rỡ.Bính Thân thuộc sơn hạ hỏa: thời niên thiếu có hung, cuộc sống có thể theo ngành thương mại,  Đinh Dậu: Có thể thay đổi ngành nghề.

Sơn Đầu hỏa: lửa trong sáng ngoài tối, cháy xém, thiêu mãi hoa mắt. Giáp Tuất Sơn Đầu hỏa: Thời trung niên phát đạt. Kỷ Hợi Làm nhiều việc thiện.

Ngũ hành thuộc thổ:

Bích tượng Thổ: Đất dấu hình che thể, ở trong phòng không ưa đối ngoại, dựa dẫm vào rường cột, vui nhà cửa riêng. Canh Tý thuộc Bích tượng Thổ: Sự nghiệp phát triển, Tân Sửu: Tích đất cho phúc, làm thiện cho người.

Thành đầu Thổ: Đất có thể thành vật, vì dân lập quốc, xây dựng đê điều, lũy ngọc nhà trời, thành vàng nhà vua. Mậu Dần: có tai ương phải giải trừ. Kỷ Mão: Theo nghề hành chính hoặc kinh doanh thương mại cũng tốt.

Sa trung Thổ: Đất pha cát đến cùng dương khí, sóng nhỏ tích lũy dần lại, sóng lớn dồn bồi lên mà thành. Bính Thìn: bạn bè nhiều, trung niên phát đạt. Đinh Tị: Tổ tiên có đức để lại.

Lộ bàng Thổ: Đất có hình có chất, trồng cấy mọi thứ cây, đất rộng liên tiếp nhau, đồng bằng rộng lớn. Canh Ngọ: Đa mưu túc trí, Tân Mùi: Có nhiều thành đạt.

Đại Dịch Thổ: Đất thông đi mọi hướng, vật lớn đã thành, đường cái thênh thang, bao la bằng phẳng. Mậu Thân: Thời thanh niên khấm khá, Kỷ Dậu: Sự nghiệp phát đạt.

Ốc thượng Thổ: Đất được thế thành công, sự nghiệp mỹ mãn. Bính Tuất: Đất vì phúc hậu, người vì chính trực, Đinh Hợi: Hưng vượng phát đạt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp xác định loại Ngũ hành theo năm sinh

Lại một lần nữa chữ L ngược gây thảm án ở Thanh Hóa?

Và một lần nữa, yếu tố phong thủy của ngôi nhà trong thảm án Thanh Hóa được đem ra bàn luận, khi mà “vô tình” nó lại có liên quan tới Đoạn Hổ Sát – chữ L ngược.
Lại một lần nữa chữ L ngược gây thảm án ở Thanh Hóa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gần đây, dư luận rúng động vì vụ án mạng kinh hoàng ở thành phố Thanh Hóa, cướp đi sinh mạng của 4 người. Và một lần nữa, yếu tố phong thủy của ngôi nhà được đem ra bàn luận, khi mà “vô tình” nó lại có liên quan tới Đoạn Hổ Sát – thế nhà chữ L ngược.


Tuần vừa qua, báo chí liên tiếp đưa tin về vụ việc gia đình anh Ngô Lê Hà, trú tại số nhà 218, Trần Phú, thành phố Thanh Hóa mất mạng ngay trong chính ngôi nhà của mình. Nhiều người nghiêng về giả thuyết do nợ nần nên anh đã sát hại vợ con và tự sát.
 
Cơ quan chức năng vẫn đang trong quá trình thu thập chứng cứ và điều tra vụ việc, nhưng điều trùng khớp là phong thủy của ngôi nhà này có điểm tương đồng “chết người’ với hai ngôi nhà trong hai vụ án mạng kinh hoàng xảy ra ở Bắc Giang và Bình Phước từng khiến dư luận hoang mang.

Lai mot lan nua chu L nguoc gay tham an o Thanh Hoa hinh anh
Tiệm vàng ở Bắc Giang và xưởng gỗ ở Bình Phước đều có chữ L ngược phạm phong thủy

Theo phong thủy Loan Đầu Hình Pháp, thế nhà chữ L ngược là một trong 32 thế nhà đại sát, còn có tên là Đoạn Hổ Sát. Nó như cái máy chém hay dao phay chực chờ lao xuống gia đình gia chủ, gây họa thương vong, đổ máu. Vị trí hung nhất là chỗ “lưỡi dao”. Vô tình, cả ba vụ án mạng trên thì người thiệt mạng đều sống trong căn nhà có lưỡi dao chờ chực chém xuống này.
 
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy nhìn thấy dáng cổng của gia đình ở Bình Phước và dáng ở khung cửa trên tầng của chủ tiệm vàng Bắc Giang có đều có hình dáng chữ L ngược. Thậm chí, trong vụ thảm án ở Bình Phước, nhà xưởng trong khuôn viên gia đình cũng bố trí theo hình chữ L với “lưỡi dao” hướng về phía nhà chính nên hung lại càng hung, số người thiệt mạng lên tới con số 6.
 
Sau khi quan sát ngôi nhà trong thảm án ở Thanh Hóa, điểm khiến người ta giật mình là kiến trúc phía trước của nhà cũng ở thế Đoạn Hổ Sát, mà nguy hại hơn là nó lao thẳng xuống nhà, nên tất cả người trong nhà đều không thoát được. 

Lai mot lan nua chu L nguoc gay tham an o Thanh Hoa hinh anh
Ngôi nhà trong vụ thảm án ở Thanh Hóa cũng có chữ L ngược "máy chém"

Những lý thuyết trên chỉ dựa trên kiến thức phong thủy – bộ môn khoa học tâm linh vi diệu, nhưng không ai có thể phủ nhận hệ quả nhãn tiền của nó ngay trong 3 vụ thảm án trên. Phong thủy nhà ở là một trong những điều tối quan trọng, hãy cẩn trọng ngay với chính ngôi nhà mình đang sinh sống để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra.

► Mời các bạn xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

XEM THÊM: Chữ L ngược và hai vụ thảm sát rúng động dư luận

Tổng hợp

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lại một lần nữa chữ L ngược gây thảm án ở Thanh Hóa?

9 thứ kém may mắn này rất có thể đã hiện diện trong nhà bạn

Hãy cẩn thận khi sơn cửa màu đen, tường nhà màu xanh lá cây… bởi theo phong thủy, chúng là những thứ dễ mang đến xui rủi và tai ương cho gia đình bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ai cổ súy cho mê tín dị đoan, tuy nhiên, theo phong thủy, có một số điều bạn không nên làm hay giữ trong nhà bởi chúng có thể đem đến vận xui, tước đi may mắn của gia đình mình. Dưới đây là 9 thứ kém may mắn rất có thể đã hiện diện trong nhà mà bạn cần điều chỉnh ngay:

1. Đồng hồ hư

Không chỉ mang ý nghĩa xấu theo phong thủy, theo quan niệm của nhiều nước phương Tây, những chiếc đồng hồ báo thức bị hư hỏng là điềm báo của cái chết. Do đó, nó thường được xem là thứ đem đến vận rủi, bạn không nên lưu trữ trong nhà.

2. Cửa sơn màu đen

Theo phong thủy, màu đen là màu sắc của sự sang trọng, quý phái, còn một cánh cửa sơn đen chính là một trong những thứ góp phần đem đến những điều may mắn cho gia đình bạn. Tuy nhiên, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì nếu cánh cửa sơn đen đó hướng về phía Bắc.

3. Gương

Không phải chỉ những chiếc gương bể mới mang đến vận xui. Người xưa quan niệm rằng những chiếc gương có thể đánh cắp linh hồn của bạn. Vào thời Victoria, người dân Anh thường chôn gương theo người chết để linh hồn họ không thể thoát ra ngoài mà quấy phá người sống. “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, vì vậy, đừng nên treo quá nhiều gương trong nhà bạn nhé!

4. Lịch cũ

Không chỉ lịch cũ, mà lịch mới nếu để sai ngày tháng cũng không tốt. Đó là điềm báo về sự trôi qua của thời gian cho nên nếu bạn dùng lịch sai cách, người ta tin rằng điều đó sẽ ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của bạn.

5. Chén đĩa sứt mẻ

Khi phát hiện chén/đĩa/ly… có dấu hiệu sứt mẻ, bạn cần nhanh chóng vứt bỏ chúng đi. Nguyên nhân là vì theo phong thủy, chén bát là thứ tượng trưng cho sự giàu có của gia đình bạn. Khi bạn tiếp tục ăn uống trên những chiếc chén đĩa sứt mẻ, phải chăng bạn đã sẵn sàng đón nhận khó khăn, thất bại?

6. Cây trồng có gai

Hãy suy nghĩ lại nếu bạn đang có dự định mang xương rồng về nhà trong thời gian tới. Bởi theo phong thủy, trồng các loại cây có gai (trừ hoa hồng) chính là rước luồng năng lượng tiêu cực và kém may mắn vào nhà.

7. Cây trồng chết/khô

Nếu bạn quên tưới nước và để cây trồng héo úa thì đó cũng là thời điểm bạn nên nói lời tạm biệt với chúng. Ngay cả việc trữ hoa khô trong nhà, thậm chí chỉ là một nắm nhỏ cũng được coi là xui rủi.

8. Tường màu xanh lá cây

Hãy hạn chế sơn tường màu xanh lá cây. Ở Anh và Mỹ, đây được xem là màu không may mắn kể từ năm 1700, khi nhà hóa học Thụy Điển sử dụng asen để sơn xanh các bức tường và nhuộm vải đã tạo ra một chất độc gây chết người.

9. Ghế lắc để trống

Đây hẳn là tin xấu cho các bà mẹ bởi ghế lắc là đồ vật rất được ưa chuộng khi nhà bạn có trẻ con. Theo quan niệm của người Ai-len, chiếc ghế lắc trống sẽ mời gọi ma quỷ đến ngồi. Và khi chiếc ghế lắc thường xuyên tự động di chuyển có nghĩa là có một thế lực khác đã “định cư” tại đó nên có thể mang đến chết chóc hoặc sự xui rủi cho gia đình bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 thứ kém may mắn này rất có thể đã hiện diện trong nhà bạn

Sự tích tơ hồng

Sự tích tơ hồng trên đã gây sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số. Sợi dây vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau.
Sự tích tơ hồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị thần linh chú về hôn sự theo tin tướng của dân ta là ông Tơ hồng cũng còn gọi là Nguyệt lão. Nhiều khi Nguyệt lão bị phụ nữ hóa biến thành bà Nguyệt.

Nguyệt lão được hình dung trong quảng đại quần chúng là một ông già đầu bạc đang se những sợi chỉ tơ màu hồng. Hình dung này do sự tích của Vi Cố đời Đường cấu tạo nên.

Truyện Vi Cố thường được nhắc lại như sau:

Dưới đời nhà Đường có một nho sinh học hành uyên bác tên gọi Vi Cố. Một ngày kia Vi Cố dạo chơi dưới trăng, được gặp một ông già đang giở từng trang một quyển sách, bên cạnh có chiếc đẫy đầy chỉ tơ hồng.

Vi Cố hỏi, ông già đáp quyển sách đó ghi những lứa đôi của mọi cặp trai gái, còn những sợi tơ hồng dùng để buộc những cặp này lại với nhau. Ông già nói thêm: “- Dù cách biệt vì địa vị xã hội, dù gặp bao nhiêu khó khăn, cuối cùng số mệnh vẫn thắng và kẻ nào phải phối ngẫu với kẻ nào vẫn là do duyên số”.

Thấy ông già nói vậy, Vi Cố muốn biết người sau này sẽ sánh duyên với mình là ai. ông già liền chỉ vào một cô bé hai tuổi, con một mụ hành khất trong ngôi chợ gần đó và bảo đó là người vợ tương lai của họ Vi. Thấy vậy Vi Cố tự nhủ:

Có thể như vậy được chăng. Vợ ta, con một mụ ăn mày!

Sau đó Vi Cố thuê người giết chết cô bé. Kẻ hung đồ đã dùng dao đâm vào sọ đứa trẻ, nhưng nhát đâm không trúng mà chi sượt qua lông mày cô bé gây thương tích chỗ ấy. Mười bốn năm sau, Vi Cố thi đỗ, được bổ làm quan và được vị Tiết độ sử gả con gái cho.
Cô dâu có một vết sẹo nhỏ trên lông mày. Vi Cố hỏi vợ, được nàng cho biết khi nàng 2 tuổi bị một kẻ hung đồ đâm hụt. Quan Tiết độ sử có chứng kiến vụ hành hung này, động lòng trắc ẩn, nhận nàng làm dưỡng nữ. Thì ra, lời ông già xe tơ đã ứng nghiệm. Họ Vi kết duyên với con mụ hành khất tại chợ nơi xưa.

Sự tích trên đã gây trong quần chúng sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số và sợi dây Tơ hồng vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau. Và ông già se tơ được gọi là Nguyệt lão, vì Vi Cố đã gặp ông ta ở dưới trăng và ông cũng có tên là Tơ hồng vì ông se những sợi chỉ tơ màu hồng.

Tin tưởng ở ông Tơ hồng, trai gái đến tuổi lành duyên đều cầu khấn ông giúp cho được duyên may phận đẹp. Trong ca dao Việt Nam thường nhắc nhiều tới vị thần linh chủ về hôn sự này:

“Bắc thang lên tới Trăng già,
Chỉ hồng đâu tá, mượn và bốn dây?
Để ta xe kết đấy, đây,
Xe chim loan phượng với cây ngô đồng,
Xe tố nữ với anh hùng
Xe trang thục nữ bạn cùng thi nhân…”
Trai gái cầu khẩn ông Tơ hồng cho được duyên may phận đẹp, nếu tình duyên ngang trái, họ cũng quay trở lại oán than Nguyệt lão!
“Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!”

hoặc:

“Ông Tơ sao khéo đa đoan
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên!”
Và cũng đã có những vần ca dao châm biếm về Nguyệt lão: Ông đã vụng xe tạo nên những cặp vợ chồng niên ký chênh lệch:
Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi lại trói vào đây,
Hỏi ông Nguyệt lão: “Nào dây tơ hồng?”
“Nào dây xe Bắc, xe Đông?”
“Nào dây xe vợ xe chồng người ta?”
“Vụng xe, xe phải vợ già,
“Tôi thì đến cửa đất nhà ông lên!”


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích tơ hồng

Lơ là phong thủy tủ quần áo, tài lộc thất thoát

Vì không chú trọng hoặc lơ là việc sắp xếp tủ quần áo theo phong thủy nên tài lộc của gia chủ bị thất thoát đáng kể.
Lơ là phong thủy tủ quần áo, tài lộc thất thoát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


 

Theo quan điểm phong thủy, tủ quần áo cũng như các vị trí khác trong ngôi nhà, cũng cần phải được sắp xếp đúng yếu tố phong thủy thì nguồn năng lượng tích cực mới lưu thông đều, không bị ứ đọng, theo đó tài vận mới hưng vượng.
 
Dưới đây là một vài lỗi phong thủy sắp xếp tủ quần áo các gia đình hay mắc phải. Những lỗi tuy nhỏ nhưng vô hình chung đã ngăn cản nguồn năng lượng lưu thông khiến ngôi nhà khó tụ tài và ít may mắn.
 
1. Tủ quần áo quá nhiều bụi bẩn
 
Một chiếc tủ quần áo dính đầy bụi bẩn không những gây mất mĩ quan mà còn cản trở nguồn năng lượng tốt đang lưu thông trong ngôi nhà. Do đó, nên thường xuyên lau dọn cả phía trong và ngoài tủ quần áo để rước tài lộc vào nhà.

Lo la phong thuy tu quan ao, tai loc that thoat hinh anh
Ảnh minh họa

2. Để quần áo chật kín trong tủ

 
Nếu để quần áo quá nhiều và lộn xộn sẽ tạo cảm giác chật chội, bí bách. Nguyên tắc đúng khi sử dụng tủ quần áo là nên để khoảng trống 50%. Như vậy sẽ nhìn rõ ràng các đồ vật và dễ dàng tìm thấy món đồ cần thiết. 
 
Ngoài ra, nên bỏ những vật không còn sử dụng nữa để tạo thêm không gian chứa đồ. Có thể đặt một chiếc gương ở góc tủ để tạo cảm giác rộng rãi hơn.

3. Không chú trọng yếu tố phong thủy khi sắp xếp tủ quần áo
 
Chiếc tủ quần áo hợp phong thủy, thúc đẩy tài vận và sự may mắn sẽ được sắp xếp cơ bản như sau: quần áo công sở ở bên trái tủ, đây được coi là vị trí của trí tuệ và thành công; đồ đi chơi, dự hội hoặc mặc ở nhà nên để ở giữa tủ, bởi nơi này dành cho sức khỏe và sự nổi tiếng; quần áo cá nhân yêu thích nên đặt ở góc phải tủ để tăng khả năng sáng tạo; phía trên tủ có thể để quần áo trái mùa nhưng phải gọn gàng ngăn nắp.

4. Sắp xếp quần áo lộn xộn
 
Đây là lỗi mà rất nhiều người mắc phải, điều đó cũng ảnh hưởng đến tài vận. Nên sắp xếp và phân loại quần áo theo hệ thống nhất định ví dụ căn cứ vào chức năng, màu sắc hoặc sở thích. Như vậy tủ quần áo lúc nào cũng ngăn nắp, gọn gàng, thúc đẩy các nguồn năng lượng lưu thông tốt.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lơ là phong thủy tủ quần áo, tài lộc thất thoát

Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí.
Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày nay có quá nhiều kiểu đèn điện đẹp mắt, bày bán khắp các khu phố nhưng khi ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống vẫn không thể phai nhạt trong tâm trí chúng ta.  
Mỗi dịp Tết trung thu khắp những con phố nhỏ rộn ràng khúc hát: “Chiếc đèn ông sao sao năm cánh tươi màu. Cán đây rất dài cán cao quá đầu. Em cầm đèn sao em hát vang vang. Đèn sao tươi màu của đềm rằm liên hoan! Tùng rinh rinh, tùng tùng tùng rinh rinh..."

Đã từ lâu mặt nạ giấy bồi, đèn Trung thu hình ngôi sao là những món đồ không thể thiếu đối với trẻ em trong dịp Tết trung thu ngày trước. Ngày nay, tuy nhiều loại đồ chơi hiện đại xuất hiện nhưng những món đồ chơi này vẫn có một ý nghĩa đặc biệt với trẻ nhỏ.
 
Để làm một chiếc đèn Trung thu hoàn toàn bằng thủ công, người thợ phải làm nhiều công đoạn chi tiết và phức tạp, từ chẻ tre, vót tre, cắt khung, làm xương đèn, lắp cán đến in hoa văn, màu sắc trên giấy kính… mới tạo thành một chiếc lồng đèn hoàn chỉnh.

Tre làm lồng đèn phải là tre già ngâm với nước muối nhiều ngày để chống mối mọt, sau đó phơi khô, chuốt nan tùy theo kích cỡ của từng loại đèn. Giấy dán lồng đèn có nhiều màu, khi căng ra dán người thợ cần phải khéo léo để giấy thẳng góc và không bị rách.
 
 Tham khảo: Nét đẹp phong tục truyền thống trong Tết Trung Thu đất Việt
 

Y nghia cua den Trung thu truyen thong
 
Những công đoạn, như: chẻ tre, cột khung, ráp hình đã được chuẩn bị trước hàng tháng trời. Đến khi giáp Tết trung thu người ta chỉ cần dán dấy, nhấn nhá thêm vài nét vẽ nữa là hoàn thành. Từng chiếc lồng đèn hình con bướm, con cá, giỏ hoa, xe tăng… đủ màu sắc và ngộ nghĩnh được gia chủ treo lên trước cửa tiệm đã thu hút mọi ánh nhìn của người qua đường.

Làm lồng đèn là một nét đẹp văn hóa có từ lâu đời. Nét đẹp đó chỉ có thể duy trì nếu mỗi thế hệ biết giữ gìn, trân trọng. Đó là truyền thống kết tinh từ tình yêu, sức sáng tạo, từ đó nuôi dưỡng lòng tự hào, hướng thiện trong mỗi con người.
 
Những đồ chơi này tuy không được gắn những con chíp điện tử để có thể phát sáng hoặc phát ra một đoạn nhạc như đồ chơi hiện đại ngày nay, nhưng chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với trẻ em. Đặc biệt là trước đây, nhiều gia đình thường tự làm những chiếc đèn Trung thu cho con cái, điều này mang lại những kỷ niệm vô cùng đẹp đẽ với con trẻ.
 
 Tham khảo: Ý nghĩa Tết Trung thu truyền thống của Việt Nam
 
Neu duoc tu tay lam den Trung thu se tang su sang tao cua tre
 
Lựa chọn Tết Trung thu để tạo kỷ niệm đẹp với con cái là một điều tuyệt vời. Con trẻ bao giờ cũng hiếu kỳ, thích khám phá. Cho nên các con sẽ vô cùng háo nức khi cùng cha mẹ làm lồng đèn. Nhờ đó, bé biết hy vọng vào một điều gì đấy, giống như việc chờ đợi ngày chiếc lồng đèn hoàn thành. Đơn giản vì trong tâm trí trẻ thơ, chúng tin rằng chiếc đèn lồng này là duy nhất và chỉ dành cho mình.   Đây là một dịp để gia đình quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui của ngày hội. Sau khi chiếc lồng đèn “ra lò”, mọi người trong gia đình hãy cùng nhau thắp đèn, hát 1 bài vui nhộn hay kể một câu chuyện ý nghĩa nào đó. Chắc chắn, kỷ niệm ngọt ngào này sẽ luôn được các thành viên nhớ về mỗi khi gặp chuyện không vui trong cuộc sống.   Việc mua lồng đèn có sẵn sẽ khiến trẻ cảm thấy chúng quá dễ có được, thậm chí trẻ sẽ không biết quý trọng những gì mình đang có, lại còn muốn đòi mua liên tục ba bốn cái khác nhau. Tuy nhiên lồng đèn do tự tay trẻ làm ra sẽ được trẻ giữ rất kỹ. Bởi lẽ trẻ cảm nhận được tình yêu, sự tâm huyết của mọi người dành cho trẻ. Thậm chí qua khỏi mùa Trung thu, trẻ vẫn giữ chiếc lồng đèn để tiếp tục thắp sáng trong những đêm thường.   Khi quan sát hoặc tự làm lồng đèn sẽ giúp trẻ có tư duy nhạy bén hơn. Đứa trẻ nào cũng rất tò mò, vậy nên nó sẽ xem xét lỹ lưỡng mọi thứ mà nó cảm thấy lạ. Và biết đâu trẻ sẽ “sáng chế” ra những chiếc lồng đèn mà hiện nay chưa có trên thị trường.   Dù thành quả thế nào, cuối cùng thì chiếc lồng đèn này vẫn là chiếc đèn lồng độc nhất trên hành tinh. Giống như tình cảm gia đình thiêng liêng được duy trì qua mỗi thế hệ.

Kate Nguyễn
Cách làm bánh Trung thu không ai giống ai của 12 chòm sao Top 4 con giáp may mắn nhất trong dịp Tết Trung Thu 2017 Tết Trung Thu tụng chú Nguyệt Quang Bồ Tát tán tai, cầu an

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của đèn Trung thu truyền thống

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd