Huyệt oa là một trong bốn thế huyệt cơ bản. Bài viết cung cấp cho bạn đọc những thông tin cơ bản về loại huyệt này, giúp bạn dễ hơn trong lựa chọn huyệt mộ cho
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc
Huyệt oa còn gọi là “huyệt quật” (huyệt lỗ, huyệt hang), “huyệt miệng mở”, “huyệt bồn”, là 1 trong 4 loại huyệt cơ bản (oa, kiềm, nhũ, đột) chỉ vầng sáng vành khuyên ở trung tâm đất mộ, có hình huyệt mộ lõm tròn. Các nhà phong thủy cho rằng, nếu long mạch có thế rõ ràng, tiền nghênh hậu ủng thì tinh thần tôn quý, táng huyệt oa đại cát. Huyệt oa là huyệt dương kết. Nó xuất hiện cả ở đồng bằng và miền núi. Tuy huyệt oa có hình lõm, nơi lõm này vẫn cần phải bằng phẳng, cao hơn xung quanh nếu không sẽ là nơi tích thủy gọi là “thủy lý miên” (ngủ trong nước). Nếu trong huyệt có nổi các chỗ như bong bóng thì cát gọi là “thủy lý tọa” (ngồi trong nước). Các nhà phong thủy học chú trọng độ ẩm của huyệt mộ. Phép táng huyệt oa nên chú ý độ sâu vừa phải. Nếu quá sâu thì bị âm sát, nếu quá nông thì sinh khí tản. Sách “Kham Dư mạn hứng” viết: “Rộng hẹp sâu nông nếu hợp cách, gia chủ no ấm mãi mãi”. Huyệt oa kỵ nghiêng, dốc, lệch. Nếu lệch hoặc dốc thì không thành huyệt oa. Gia chủ tọa ở thế huyệt này thì họa khôn lường. Huyệt oa phải cong, tròn như tổ chim, hai bên trái phải không được lệch dốc. Nếu thấy hình xẻng hót rác, lở, lõm là hình sa hung (xấu). Sách “Kham Dư mạn hứng” nói: “Không nên chôn vào huyệt oa giả. Khuyết một bên gọi là mộ huyết không vong. Nếu thấy lở, phá, lõm, lệch, vỡ, gia chủ con cháu chết yểu”. ST
Từ góc độ kinh tế học, những nơi phồn hoa của một thành phố, thường là nơi thương phẩm giao dịch hoạt động sôi động nhất, phồn thịnh nhất. Người ta tập trung ở đó, ở mức độ lớn chính là vì lựa chọn những sản phẩm. Cửa hàng được mở ra ở những địa đoạn
phồn hoa thì sản phẩm có thể tiếp cận trực tiếp với khách hàng, thu hút khách hàng sẽ có tác dụng thúc đẩy tiêu dùng rất tốt, việc làm ăn trở nên đắt hàng.
Ngược lại, nếu cửa hàng được mở ra ở những địa đoạn khuất nấp thì giống như là tránh mặt khách hàng. Cửa hàng mở cửa kinh doanh mà rất ít người lui tới xem hàng, cửa hàng lạnh tanh, thậm chí vắng teo. Theo cách nói của phong thủy, người đại diện cho sinh khí, không có người tới thăm, cửa hàng đã thiếu đi sinh khí. Sinh khí ít, chính là âm khí thịnh. Việc làm ăn của cửa hàng không khởi sắc chính là âm khí quá vượng. Một cửa hàng mà âm khí quá vượng, không chỉ là làm ăn sẽ bị thua thiệt, nghiêm trọng hơn là sẽ làm tổn hại đến nguyên khí của chủ cửa hàng, khiến cho ngành nghề này sẽ phá sản.
Thị trường là nơi quan trọng để sinh tài, muốn tài vận hưng thịnh, phong sinh thủy khởi thì cần phải tìm ra nơi có phong thủy tốt vừa sinh vượng cho chủ nhân lại vừa tụ khí.
Từ góc độ phong thủy thấy rằng: Màu sắc bên trong cửa hàng cần phải kết hợp bố cục với Ngũ hành mệnh của chủ cửa hàng, hướng quay mặt cửa hàng và thuộc tính ngũ hành của sản phẩm bán để tiến hành kinh doanh.
Đoán tính cách qua tướng mạo: - Người nghĩa Hiệp: Là người có lông mày thô,mắt sáng,ánh mắt nhìn thẳng,tiếng nói mạnh khỏe rõ ràng. - Người Khẳng khái: Là người có chân mày đẹp,trán rộng,ánh mắt dứt khoát,mũi cao và thẳng. - Người Trung Hậu: Lông mày
Mách bạn chọn vị trí xây nhà đẹp trên mảnh đất không vuông
Có một mảnh đất đẹp đã khó, chọn vị trí làm nhà trên mảnh đất đó còn khó hơn. Tham khảo bài viết dưới đây nếu bạn còn đang đắn đo chưa biết nên đặt nhà ở chỗ
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem thước lỗ ban online, xem hướng nhà theo tuổi chuẩn xác
Mảnh đất hình vòng cung Lô đất với đường vòng cung ở mặt tiền hiển nhiên có vẻ mạnh mẽ, nó sẽ thu hút tiền bạc và thành công trong sự nghiệp cho người cư ngụ. Vị trí làm nhà trên mảnh đất hình vòng cung ở trọng tâm là tốt nhất. Nếu mảnh đất có đường vòng cung ở sau nhà mà nhà ở giữa trung tâm hoặc nằm ở phía sau lô đất thì người cư ngụ sống yên lành. Nếu căn nhà lại nằm phía trước của lô đất thì người cư ngụ sẽ không ổn định trong nghề nghiệp và thường bệnh hoạn, ốm đau. Mảnh đất hình bình hànhMảnh đất này được coi là một mảnh đất tốt. Trong trường hợp này, hãy xây nhà tại trung tâm mảnh đấy hay là phần phía trước sẽ giúp cho sự nghiệp phát đạt mau chóng. Nếu nhà nằm vào phần đất phía sau thì nghề nghiệp của người cư ngụ sẽ phát triển chậm. Mảnh đất hình thoiMảnh đất hình thoi có góc cạnh như một viên kim cương sẽ rất tốt. Mảnh đất này lại càng tốt hơn nếu có đường song song với cạnh của mảnh đất và cổng vào nhà nằm trên một cạnh, tức là không mở ra phía góc. Trong trường hợp cổng ra vào phải đặt vào góc và ngôi nhà lại làm quay cửa hướng về góc đó (hoặc bất cứ một góc nào), để cân bằng lại thế đất thì trồng cây cao, to hay cột cờ, hoặc cột đèn pha ở phía sau nhà. Tuy nhiên, người cư ngụ vẫn còn có thể bị vướng hoặc thu hút vào việc thưa kiện hay tai nạn lớn. Làm nhà trên mảnh đất hình tam giácMảnh đất hình này có cửa ra vào nhìn ra góc sẽ không tốt mà nên quay cửa hướng ra một cạnh nào đó của mảnh đất. Vị trí chọn làm nhà trên mảnh đất nên xế vào một góc như kiểu mảnh đất hình con sò thì sẽ giữ được tiền bạc. Còn nếu nhà xây vào chính giữa, cửa đối với một góc đất thì nguồn thu nhập của người trong nhà sẽ ngày càng giảm sút và cuối cùng có thể trắng tay. Nếu chủ nhà khác vào ở kế tiếp thì tình trạng này vẫn tiếp tục, không thể cứu vãn được. Trong trường hợp này, có thể khắc phục bằng cách trồng một cột cờ hay cây vào góc đối diện với cổng. Mảnh đất hình bán nguyệtMảnh đất hình dạng này là rất tốt. Trong mảnh đất này, vị trí tốt nhất tốt nhất để xây nhà là ở giữa mảnh đất nhái theo hình dạng nửa đồng tiền cổ để đem lại tiền của dồi dào. Mảnh đất có hình dạng như lưng lạc đàĐối với mảnh đất hình dạng này thì căn nhà nên xây ngay tại trung tâm mảnh đất đó nếu đủ chỗ (phía trước mảnh đất phải rộng gấp 2 chiều cao căn nhà). Vị trí xấu là đặt nhà ở hai cái bướu lạc đà. Nếu căn nhà xây nơi bướu trái thì gia đình sẽ gặp nhiều đau thương và nếu xây nhà nơi bướu phải thì con cái sẽ gặp trở ngại trong đời sống. Trong trường hợp này, gia chủ nên xây thêm phần phụ cho gia đình (cách giải cho bướu trái – tức là xây thêm phòng nhỏ về phía bướu) và xây thêm phần phụ cho con cái (cách giải cho bướu phải – tức là xây thêm phòng nhỏ đối diện với bướu). ST
I. THỬ PHÁT HỌA HAI Ý NIỆM THANH VÀ TRỌC Trong tướng học Á Đông, Thanh và Trọc là hai ý niệm vô cùng súc tích và là hai ýniệm căn bản để giải đoán quí tiện cát hung, thành bại, thọ yểu của con người. Thanh Trọc chi phối hết các nét tướng của con người. Có thể nói mọi lãnh vực quan sát của tướng học Á Đông đều hướng về việc tìm tòi phân biệt những điểm Thanh, Trọc rồi dựa vào đó mà luận đoán. Nhưng trước hết Thanh, Trọc là gì ?
a) Thanh: Từ ngữ Thanh chỉ tất cả các nét tướng tốt của con người, từ tướng cơ thể đến tướng tinh thần, từ nét tướng động tĩnh và cả những nét tướng phối hợp động, tĩnh bao gồm cái tốt về phẩm và về lượng dưới đủ mọi dạng thức. Nếu nói về Sắc da, Thanh có nghĩa là hữu tình, ưa nhìn, không đậm, không nhạt. Trong trường hợp này việc thẩm định tính chất Thanh nặng về chủ quan và trực giác hơn là khách quan và thị giác hiểu theo nghĩa thông thường. Nói về giọng nói, Thanh có nghĩa là trong trẻo, Âm lượng vừa phải, không quá lớn đến đinh tai nhức óc, không chua như dấm, không xoáy vào tai người nghe như kim châm,... nhưng không quá nhỏ như tiếng dế, tiếng ong. Giọng nói thanh tao, hảo cảm, vui tai không phải vì lý luận hữu lý mà vì tính chất ấm áp hay trong trẻo, rõ ràng, không rè, không chát.
Nói về cử chỉ, Thanh có nghĩa là cử chỉ mực thước, quý phái không sỗ sàng, cương nhu thích nghi. Đó là cử chỉ của loại người gọi là hào hoa, phong nhã, theo đúng nghĩa trong sạch của nó. Nói về bộ vị hay người bộ vị Thanh kết hợp lại tạo thành một cơ thể hay cơ cấu cân xứng, linh động, có sinh Khí về cả phẩm lẫn lượng một cách có thẩm mỹ. Cặp Lông Mày được gọi là Thanh khi sợi Lông Mày không lớn hơn sợi tóc, dài và mọc cách nhau thế nào để kẻ quan sát cách xa đó một hay hai thước nhìn thấy được phần da của chân Lông Mày, Sắc Lông Mày đen xanh và mượt. Mũi Thanh là Mũi ngay thẳng và cao, không lệch, Gián Đài và Đình Úy không quá lớn. Đầu Mũi không quá mập. Chẳng hạn Mũi tiêm đồng, Mũi thông thiên được coi là Thanh, Mũi sư tử, Mũi túi mật treo bị coi là Trọc.
Nói về thân hình, loại người hình mộc (loại Giáp Mộc) được coi là Thanh, người trọng Thổ bị xem là Trọc. Nói về thần Khí, kẻ Mắt lồi, mục quang hung hãn, hoặc lòng đen, tròng trắng mờ đục thì không Thanh. Trái lại, ánh Mắt sáng, êm dịu, tinh anh, đồng tử trong suốt như pha lê, tròng đen lòng trắng rõ ràng, thuần khiết không mờ đục, không có tia máu xÂm phạm được coi là thần Thanh, Khí sảng. Nói về tổng quát, nếu có sự phối trí tương xứng theo một hòa điệu giữa các thành phần trong bộ vị cơ thể thì gọi là Thanh.
Thí dụ: phía sau đầu và trước mặt, phía phải và trái khuôn mặt cân xứng và thích nghi với thân mình được xem là Thanh, trong phép phối hợp ngũ hành của cơ thể, người thuần túy một hình hay bác tạp nhưng không xung khắc được xem là Thanh. Chẳng hạn thân hình nặng nề, chắc nịch, mặt Mũi thô kệch nhưng Mắt sáng, mày tươi, giọng trong trẻo thì phần sau đó gọi là Thanh trong cái Trọc của toàn thể thân hình.
Nói về động tĩnh, nếu có hòa hợp động và tĩnh tức là phần động trội hơn phần tĩnh nhưng không làm mất thế quân bình, phần phẩm hơn phần lượng, nhưng không vượt ra ngoài tiêu chuẩn đều được gọi là Thanh. Đó là trường hợp những kẻ gầy yếu, lùn, nhỏ nhưng thần thái tuấn tú, chân tay thô kệch nhưng bước đi nhẹ nhàng Thanh thoát. Nói về tâm tướng, những người cao thượng hoằng đại khiến người nhìn như quên đi sự thiếu sót của hình hài chỉ thấy sự cao khiết khoáng đạt của tâm tính thì đức tính đó được xem là Thanh.
b) Trọc: Ngược lại với Thanh là Trọc, chỉ tất cả những gì không hợp tiêu chuẩn mà đi quá đà, thông thường người ta cho những gì thái quá là Trọc nhưng trong tướng học muốn cho chính xác phải kể cả những gi bất cập đều là Trọc. Chẳng hạn như:
- Khuôn mặt trung bình mà Mũi thì quá lớn, Chuần Đầu quá mập, Gián Đài và Đình Úy quá nảy nở như các loại Mũi sư tử, Mũi túi mật treo là Trọc. - Hình Thổ, quá nặng nề, chậm chạp là Thổ Trọc - Giọng Mộc cao nhưng không trong trẻo là giọng Mộc Trọc - Sắc da trắng nhưng khô, không tươi nhuận, như phấn mộc gọi là Sắc Trọc - Tâm tính hẹp hòi không tương xứng với thân thể khôi ngôi hung vĩ là Tâm Trọc - Âm Dương Ngũ hành bất điều hòa, chẳng hạn như Âm thác, Dương sai gọi là Âm Dương Trọc... Dưới nhãn quan tướng học Thanh là quý, Trọc bị coi là hạ tiện. Thanh chỉ về quý, thọ, vinh hiển, thành đạt, còn Trọc thì ngược lại. Tuy nhiên đó chỉ là tổng quát, trong phép đoán tướng, người ta còn phải đi sâu vào từng chi tiết nhỏ và hết sức tinh tế để phân biệt đâu là Thanh hay Trọc căn bản, đâu là Thanh hay Trọc phụ thuộc chiết trung theo luật thừa trừ để tìm ra phần khả thủ.
II. TƯƠNG QUAN THANH TRỌC Trong thực tế ít khi gặp một cá nhân thuần túy Thanh hay thuần túy Trọc mà thường lẫn lộn cả Thanh lẫn Trọc. Chỉ khác nhau về tỷ lệ: có kẻ Thanh ít Trọc nhiều, có kẻ Thanh nhiều Trọc ít mà thôi. Về điểm này ta phân biệt hai trường hợp chính: 1. Thanh trung hữu Trọc: Thanh trung hữu Trọc là một trường hợp bộ vị, một số bộ vị tạo thành từng đại bộ phận hay toàn thể con người hay từng nét tướng tổng quát bao gồm cả tâm tính lẫn hình tướng trong thì có vẻ hoàn mỹ nhưng quan sát kỹ thì thấy trong số hiện ra nhiều khuyết điểm khiến cho cái đẹp, cái tốt của một cá nhân không được hoàn hảo.
Ví dụ: - Tai có Luân Quách nhưng thiếu Sắc Khí - Mặt mày sáng sủa, thân thể khôi vĩ, nhưng nhìn vào không oai vệ hay khiến người dễ chán. - Đàn ông quyền thấp, tiếng nói có vẻ nữ nhi. - Mặt đầy đặn, phối hợp tương xứng với Ngũ Quan nhưng đấu Mũi bị lệch. - Răng tuy trắng, đều, Khít nhưng không bóng bẩy. - Miệng tuy rộng nhưng không có lăng giác, Mũi không hồng, răng thưa. - Lông Mày tuy đẹp nhưng sợi Lông Mày mọc thưa, ngang hoặc tráp với phương vị cố hữu. - Mày tuy cao nhưng sợi thô hắc ám. - Mặt tuy sáng nhưng lộ chân quang. - Râu tuy đẹp nhưng không tương xứng với tóc và Lông Mày. - Người tuy đúng cách cục nhưng Sắc hôn, Khí ám. - Người tuy to lớn, mập mạp trông có vẻ phúc hậu nhưng thịt bệu, da khô, tóc cằn..
Người có đặc điểm kể trên thì thoáng qua thấy có vẻ Thanh nhã nhưng tương hợp coi đó là Thanh trung hữu Trọc vì trong cái đẹp có lẫn cái xấu.
2. Trọc trung hữu Thanh: Những người có hình dạng cục mịch thô lỗ hay mặt mày méo lệch, Tam Đình, Ngũ Nhạc bất quân xứng nhưng nếu có: - Mắt sáng mà mục quang ẩn tàng. - Thiên Đình cao rộng, sáng sủa. - Phía trong vành Tai màu hồng tươi nhuận hay Tai mọc cao quá Lông Mày, Sắc bề ngoài trắng hơn da mặt, hay Luân Quách phân minh. - Lông Mày tươi mịn. mọc cao và không gián đoạn. - Hoặc người nhỏ yếu, thấp lùn nhưng tiếng nói sang sảng như tiếng chuông ngân hay Thanh tao như những hạt ngọc rơi rớt trên mâm bạc. - Có tướng ngũ tiểu hoặc ngũ lộ nhưng phẩm chất các phần lộ đó đều tốt đẹp. - Người khẳng khiu nhưng dáng dấp hiên ngang, đi như rồng bay cọp bước, Khí phách hoằng đại...
Suy rộng ra, khi nhìn một cá nhân qua nhiều bộ vị, ta thấy hình dáng màu Sắc của chúng thoáng qua thì thô bỉ, nhưng đi sâu vào chi tiết, ngắm lâu lại thấy hữu tình hoặc hảo cảm, quan sát một cá nhân ta thấy khuôn mặt, thân hình, tiếng nói.... không gây hảo cảm lúc ban đầu, nhưng tổng hợp tất cả lại hoặc là thấy có sự sinh động đặc thù hoặc cử chỉ động tác linh hoạt, phong nhã, tính tình quả cảm, trung hậu khiến ta sinh lông nể phục về sau đều được gọi là Trọc trung hữu Thanh.
Ngày 8 tháng 2 hàng năm là ngày vía Phật Di Lặc, một trong những vị Phật quen thuộc và được chúng sinh tôn sùng. Thờ Phật Di Lặc sao cho đúng, cùng tìm hiểu nhé
Ngày 1 tháng 1 âm lịch hàng năm là ngày vía Phật Di Lặc, một trong những vị Phật quen thuộc và được chúng sinh tôn sùng. Với nét mặt rạng rỡ, thân hình đầy đặn, tai to mặt lớn, thờ Phật Di Lặc còn được coi là Thần Tài mang tới may mắn, phúc lộc và sung túc.
Di Lặc nguyên ngữ theo tiếng Phạn có nghĩa là “vô năng thắng”. Theo kinh sách nhà Phật, Di Lặc Bồ Tát trải qua 4000 năm tuổi thần tiên tu trong nội viện, tương đương 56 triệu năm nhân gian. Sau khi giáng thế tu tập dưới tàng cây trở thành Phật, là Hiền Kiếp Ngàn Phật ngũ vị. Phật giáo có câu chuyện Tam Thế Phật, lại phân thành Hoành Tam Thế Phật, Thụ Tam Thế Phật. Thụ Tam Thế Phật, đời trước là Già Diệp Phật, đời hiện tại Thích Ca Mâu Ni Phật, đời tương lai là Phật Di Lặc. Kinh Phật ghi chép, Phật Di Lặc là vị Phật được kế thừa Phật vị của Thích Ca Mâu Ni, gọi là Vị Lai Phật.Hiện nay, trong tất cả các ngôi chùa đều có thờPhật Di Lặc với tạo hình là vị sư có dáng người mập mạp, bụng to tròn, cổ đeo chuỗi tràng hạt, nét mặt tươi cười, tai to, thân khoác thiên y, tay phải cầm cành hoa sen, tay trái cầm nhành hoa vô ưu, ngồi kiết già trên tòa đài sen.
Cũng vì vị Phật này tướng phúc hậu, nét mặt tốt lành nên nhiều nơi coi là một vị Thần Tài, thờ cúng tại gia hoặc đặt tượng ở nhà với mong muốn làm ăn phát đạt, thịnh vượng và mọi chuyện hanh thông như ý.Tuy nhiên, cần phải nhớ Phật Di Lặc là một vị Phật chứ không phải Thần Tài, mà trước Phật thì không thể cầu xin tiền tài danh vọng hay những thứ vật chất khác. Hơn thế nữa, Thần Tài có thể cúng cỗ mặn còn Phật thì lại tuyệt đối cấm kị. Nên nắm rõ điều này để thờ cúng đúng chuẩn.Ngày 1 tháng 1 âm lịch là ngày sinh của Phật Di Lặc, trong dịp này chúng Phật tử và những người hướng Phật nên đi lễ chùa, cung dưỡng Phật Di Lặc và làm nhiều việc thiện, kết nhiều thiện duyên để tâm thanh tịnh, hưởng phúc báo.
► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc
Phóng sinh một lần, phúc báo đời đời, nghiệp lành khai nởHọc Phật: Chăm dưỡng thai nhi cũng là tích phúc, hành thiệnHọc Phật: Giải thoát sân hận, tiến gần hạnh phúc Trần Hồng Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Thanh Vân (##)
Mơ thấy tìm nhà trọ: Hy vọng có được mối quan hệ mới hay mong muốn giải tỏa nỗi cô đơn –
Nhà trọ như là một căn hộ công cộng. Những ai ra vào nhà trọ đều có chung nguyện vọng giống nhau, vì thế, nó có thể cung cấp cơ hội và không gian mới cho tính sáng tạo của con người. Nếu người nằm mơ thấy mình đang trú trong một phòng trọ, hiểu rõ hà
Bao thư tượng trưng cho việc giao lưu, chuyển tải tin tức. Do vậy, mơ thấy bao thư thường là điềm lành báo trước những sự việc như kết thêm bạn mới; hóa giải
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả
Ảnh minh họa
Thương nhân mơ thấy bao thư, dự báo sẽ nhận được thông tin phản hồi hữu ích từ phía khách hàng. Lúc này cần tăng cường hợp tác để thu về lợi lộc lớn.Bao thư dài thường được dùng trong trường hợp đặc biệt. Mơ thấy bao thư dài là ngụ ý người nằm mơ đang mong muốn vươn tới địa vị cao hơn.Bao thư có màu vàng và xanh tượng trưng cho hạnh phúc. Nam giới đã kết hôn mơ thấy loại bao thư này là tin tốt lành, báo rằng cuộc sống gia đình của người đó đang êm đềm..Nam, nữ chưa kết hôn mơ thấy bao thư màu vàng, xanh dự báo sắp bước vào cánh cửa hôn nhân.Khi mơ thấy bao thư rách là điềm không hay, ám chỉ rằng bạn sẽ mất liên lạc với người thân hoặc gia đình có chuyện không vui.
Theo Giấc mơ & Vận mệnh con người trong cuộc sống Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Quỳnh Mai (##)
Người mà bát tự có Thủy vượng thì ngũ hành khuyết Hỏa, cần phải điều chỉnh cho hài hòa. Có thể sử dụng một số biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh dưới đây.
Xem tử vi mà bát tự không cân đối thì là không tốt. Người mà bát tự Thủy vượng thì ngũ hành khuyết Hỏa, cần phải điều chỉnh cho hài hòa. Có thể sử dụng một số biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh dưới đây.
Ngũ hành gồm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 yếu tố tự nhiên có quan hệ đăng đối, sinh khắc với nhau. Lá số tử vi của một người mà vượng ngũ hành này thì tất phải khuyết thiếu ngũ hành kia, đều là không tốt, mất đi sự cân bằng. Điều này khiến cho số mệnh của người đó gặp bất lợi về phương diện tương ứng với ngũ hành khuyết thiếu, ngũ hành không lưu thông.Ngũ hành lưu thông thì sinh vượng khí, phát tài khí. Bát tự Thủy vượng thì tức là khuyết Hỏa thì cần thỉnh Tài Thần thêm vào bùa hộ mệnh Âm Dương Ngũ Hành để thúc giục Âm Dương Ngũ Hành bảo hộ nguyên thần, bình an cát tường, tăng cường vận khí. Nên mang bùa theo người hoặc treo ở nơi làm việc, phòng ngủ, có tác dụng trấn trạch, hóa sát, bảo hộ. Bùa dựa vào ngũ hành khuyết thiếu. Thiếu yếu tố nào thì bổ sung yếu tố đó để lấy lại cân bằng trong số mệnh. Xem lá số tử vi khắc cha mẹ, tự thân lập thânLá số tử vi của phụ nữ lấy chồng giàu sangPhá Quân lâm cung Nô Bộc - đừng quá tin bạn bè Biện pháp phong thủy cải thiện số mệnh tiếp theo là tiến hành thay đổi ngũ hành bát quái. Chủ yếu là ở phòng khách, phòng ngủ tăng cường ngũ hành mà bát tự của mình bị thiếu để lưu thông sinh khí, điều tiết âm dương cho hài hòa. Ví dụ như, bát tự khuyết Hỏa mà phía Nam ngôi nhà tương ứng với ngũ hành Hỏa, nên trang trí màu đỏ ở vị trí này, sẽ có lợi cho bản mệnh, hóa giải Thủy vượng, tăng cường Hỏa khí.
Ngũ hành lấy cân bằng là cát lợi, nên phải điều chỉnh độ mạnh yếu của ngũ hành một cách tương xứng, hài hòa. Ví như, năm sinh Thủy vượng thì trrong cuộc sống hàng ngày không nên bổ sung ngũ hành Thủy, tránh cho Thủy khí quá phát.
► Xem ngày tốt xấu để tiến hành các việc đại sự
Luận giải lá số Thái Dương đóng tại cungNgười có số nhờ chồng vì lá số Thân cư Phu ThêXem ngay cách tránh lỗi mùa sinh trước khi có em bé Thái Vân Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Khánh Linh (##)
Khoa Tử Vi Đẩu Số đặt căn bản trên 118 vì sao gồm chính tinh và phụ tinh. Những sao này được phân bố trên 12 cung của một lá số theo các quy tắc đã định dựa vào ngày, tháng, năm và giờ sinh của mỗi người. Chính tinh có những đặc tính và ảnh hưởng mạnh mẽ hơn phụ tinh cho nên những cung quan trọng như Mệnh, Tài, Quan, Phúc rất cần có chính tinh tọa thủ, nhất là Mệnh. Tuy nhiên, cũng có những lá số mà Mệnh không có chính tinh nào tọa thủ, hay chúng ta thường gọi là Mệnh Vô Chính Diệu (VCD).
Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi. Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoạt ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ. Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại.
Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành. Người VCD tính tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay. Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoảng tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn. Là mẫu người có tài, có trí, họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh”. Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao.
Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người. Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:
1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.”. Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp.
Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi. Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt-xấu lẫn lộn cho nên không được trọn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu. Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất.
Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ”. Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát. Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di). Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ. Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh.
Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần”, có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.
2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rỡ. Khoa Tử Vi gọi là “Mệnh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa”. Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không”. Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh. Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu.
Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện”. Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi. Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người. Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD.
Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành. Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó. Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?
5 cái bánh bao – 5 câu chuyện đáng ngẫm để thấu tỏ lòng dạ con người
Qua câu chuyện những chiếc bánh bao, ta có thấy được trong những bối cảnh khác nhau thì lại dẫn con người đến những suy nghĩ hoàn toàn khác trong cuộc đời
Trong cuộc sống này, đôi khi chỉ một hành động nhỏ thôi, nhưng nếu đặt trong những bối cảnh khác nhau thì nó lại đưa người ta đến những suy nghĩ hoàn toàn khác. Câu chuyện từ 5 cái bánh bao này sẽ cho bạn biết sự “bất thường” trong suy nghĩ của con người.
1. Cái bánh bao thứ nhất
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân bày biện rất nhiều đồ ăn ngon. Người này từ cảm thấy mang ơn rất nhanh chuyển sang phẫn nộ. Anh ta giương đao giết chết người nông dân, bởi vì, anh ta phát hiện người nông dân có nhiều đồ ăn ngon như thế mà lại không cho anh ta.
Suy nghĩ 1: Cùng một hành vi mà kết quả hoàn toàn khác nhau, cũng bởi cái đôi mắt này. Nếu tự mình chứng kiến những gì mình có được, sẽ thấy biết ơn; còn một khi thấy những gì mình không có, sẽ sinh tâm oán hận.
Suy nghĩ 2: Việc nông dân cứu người bằng bánh bao với nước, và việc anh ta chỉ có hai bàn tay trắng vốn không có liên hệ. Thế nhưng, theo cách giáo dục hiện nay, sự hào hiệp chỉ được đánh giá cao khi người đó trắng tay, và đó mới là cao thượng. Trên thực tế, tấm lòng lương thiện tồn tại ở mọi nơi trong cuộc sống, là điều rất đỗi bình thường, mỗi người đều có thể chia sẻ sự thiện lương, chứ không phải cần chờ đến khi trắng tay như người nông dân trong trường hợp A.
Suy nghĩ 3: Cảm ơn hay oán hận thường do tiểu tiết quyết định mà quên đi bản chất. Nếu chịu nhìn vào bản chất, dẫu tình huống A hay B, kết quả đều nên là sự biết ơn người cứu mạng, có lẽ sự hàm ơn này chỉ giữ được khi con người còn lý tính.
2. Cái bánh bao thứ hai
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Thế nhưng về sau, mọi người mới phát hiện người được cứu này là một tham quan đang bị truy nã. Thế là, rất nhiều người oán hận người nông dân, cho rằng anh ta đang “trợ Trụ vi ngược”.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Thế nhưng về sau, mọi người mới phát hiện người được cứu này là một người lương thiện đã từng nhiều lần giúp đỡ người khác. Thế là, rất nhiều người tán thưởng người nông dân, cho rằng anh ta đã làm được một việc thiện to lớn.
Suy nghĩ 1: Cứu người còn muốn chất vấn xem thân phận người được cứu, rồi dựa trên tiêu chuẩn của chính mình mà quyết định nên cứu người nào, người nào không. Thế nên, rất nhiều người có suy nghĩ “thêm một chuyện chi bằng bớt một chuyện”, gặp người nào cũng không cứu.
Suy nghĩ 2: Nếu như mọi người dưới hai tình huống này, đều có thể duy trì tâm thái ngưỡng mộ đối với người nông dân thì sự thiện lương sẽ được phát triển bền bỉ. Ngược lại, dưới sự ảnh hưởng của nịnh bợ, cảnh giác, dè chừng… sẽ khiến sự thiện lượng ngày càng lụi tàn.
3. Cái bánh bao thứ ba
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân này, chỉ tay qua nhà một người nông dân khác và nói: “Nhìn đi, nhà đó là chuyên làm bố thí cứu người, sang đó mà xin!” Người đói khát vất vả lắm mới đến được nhà người đó, người nông dân nhà này mở cửa ra, áy náy nói: “Tôi không có gì để ăn cả”. Thế là, người trong cả thôn đều oán hận người nông dân này, mà không có ai chỉ trích người nông dân đầu tiên cả.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân này, chỉ tay qua nhà một người nông dân khác và nói: “Nhìn đi, nhà đó là chuyên bố thí cứu người, sang đó mà xin!” Người đói khát vất vả lắm mới đến được nhà người đó, người nông dân nhà này mở cửa ra, nói: “Tôi chỉ có nửa cái bánh bao thôi”. Thế là, người trong cả thôn đều khinh bỉ người nông dân này, mà không có ai chỉ trích người nông dân đầu tiên đến mà không cứu cả.
Suy nghĩ 1: Đối với người có tâm lương thiện, tiêu chuẩn của người đó sẽ tự nhiên không ngừng nâng cao lên.
Suy nghĩ 2: Đối với người có tư tâm, sự kỳ vọng của người đó sẽ hạ xuống thấp nhất, cho nên sẽ dẫn đến thất vọng.
Suy nghĩ 3: Người không có nhân cách đạo đức sẽ tự khắc đánh rơi sự thiện lương, thẳng tay đóng cửa đối với kẻ đói khát.
4. Cái bánh bao thứ tư
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng. Đồng thời, đối với bất kể hành vi nào của người nông dân, anh ta đều không cần biết thiện ác, toàn lực hỗ trợ. Người nông dân mất đi tấm gương, cho rằng hết thảy những gì mình làm đều là đúng. Về sau, vì phạm sai lầm lớn mà hủy hoại một đời.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người được cứu đến nhà người nông dân, mới thấy rằng trong nhà người nông dân trống trơn không có gì cả, anh ta cảm động rơi nước mắt, quỳ gối không dậy nổi. Từ đó về sau, người này thân mang ơn cứu mạng, đem hết tấm lòng trợ giúp cho người đã cứu mạng. Thế nhưng, đối với hành vi của người nông dân, anh ta chỉ ủng hộ việc thiện, còn việc ác thì thẳng thắn chỉ ra, người nông dân vất vả chăm chỉ cày cấy, không ngừng trau dồi đạo đức, dần trở nên thịnh vượng, quảng bá sự thiện lương đến muôn người.
Suy nghĩ 1: Cách trả ơn khác nhau sẽ dẫn đến kết quả khác nhau.
Suy nghĩ 2: Tư duy chính thường bất cứ lúc nào cũng muốn bảo trì; nói thẳng, góp ý thường là cách tốt hơn.
Suy nghĩ 3: Kỳ thật, sau khi ăn xong cái bánh bao, uống một chén nước, rồi quay người rời đi, cũng là một kiểu cảm ơn. Rất nhiều khi, người cứu người, chỉ là một việc nên làm thôi, cũng không có ý hy vọng nhận được tán thưởng, ca ngợi hay là hồi báo.
5. Cái bánh bao thứ năm
A. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Người trong thôn chứng kiến được nên ca ngợi anh ta đã làm được một chuyện đại thiện. Về sau, ngay cả gặp phải chuyện chính mình không thể giúp được, người nông dân này cũng chủ động ra tay tương trợ.
B. Một người đói sắp chết, lảo đảo chạy đến nhà một người nông dân. Người nông dân cho anh ta một cái bánh bao, một chén nước, người đói khát vậy là được cứu. Có người nghi ngờ hành động đẹp của người nông dân, thậm chí nghi ngờ người đói khát này là do người nông dân tìm người đóng vai. Về sau, anh ta gặp người cần giúp đỡ, đã nhanh chóng lẩn mất từ phía xa xa, sợ lại bị chửi bới.
Suy nghĩ 1: Ca ngợi hay chửi bới, thường sẽ ảnh hưởng đến hành vi của người khác, hành vi của những người tâm trí không đủ thành thục.
Suy nghĩ 2: Nếu như muốn một hành vi nào đó nhận được một đánh giá thống nhất, chỉ có thể khiến chính mình bị điên đầu thôi.
Suy nghĩ 3: Người gặp chửi bới liền muốn trốn tránh, vĩnh viễn chỉ có thể là người nhu nhược.
Suy nghĩ 4: Người nông dân nên nhanh chóng quên đi chuyện cái bánh bao và chén nước kia, cũng nên quên hẳn đi những gì người khác nói, tĩnh tâm làm việc của chính mình, làm một người nông dân vui vẻ.
Quan Âm Bồ Tát là nam hay nữ? Có lẽ nhiều Phật tử và chúng sinh hướng Phật đều gặp khó khi trả lời câu hỏi này. Để cung cấp thông tin khách quan, tổng hợp cho quý độc giả, ## xin đưa ra một vài dẫn chứng từ kinh sách nhà Phật.
► Tra cứu: Lịch âm và Lịch vạn niên 2017 chuẩn xác tại Lichngaytot.com
Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, tay cầm bình nước tay cầm hoa sen, tọa trên đài sen, phổ độ chúng sinh, giải tai ách kiếp. Bất cứ ai cũng từng một lần quỳ trước Phật đài của ngài, cầu mong bình an, tốt lành, tai qua nạn khỏi, nhân duyên tốt đẹp. Nhưng thực sự Quan Âm Bồ Tát là nam hay nữ?Ở nhiều chùa, Quan Thế Âm được tạo hình nữ nên người ta mặc định vị Bồ Tát này là nữ giới, giống như mẹ hiền che chở chúng sinh, nghe thấu những ai oán khổ đau và hóa độ điều ác, kết thêm duyên lành. Phần khác là do trong Phật giáo, Quan Âm bảo hộ cho phụ nữ và trẻ nhỏ, lại thường được coi là vị Bồ Tát độ hóa nhân duyên cho nữ giới, giúp phụ nữ chậm duyên muộn chồng hay hiếm muộn đường con cái nên mặc nhiên được nhận định là nữ.Tuy nhiên, không ít nơi tạo hình Quan Âm là nam, đặc biệt là các bức tượng Quan Thế Âm theo trường phái của Ấn Độ. Từ đó nảy sinh thắc mắc cho chúng sinh về giới tính của vị Bồ Tát được xưng tụng là một trong Tứ đại Bồ Tát của Phật giáo (cùng với Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát).Theo kinh Bi Hoa, Đức Phật gọi Quan Thế Âm Bồ Tát là “Thiện nam tử”, vì lẽ này mà có ý kiến Đức Bồ Tát là nam giới. Để hóa độ chúng sinh, chuyển tâm ác thành tâm thiện, thể hiện sự từ bi và nhân từ của mình mà Quan Âm hóa thành dung mạo nữ giới.
Tuy vậy, theo đúng giáo lý nhà Phật thì Bồ Tát không phân nam nữ, không tách biệt giới tính. Phật giáo Mật tông giải thích, Quan Âm được dung hòa từ hai yếu tố, từ bi và trí huệ, được thể hiện thành hai hiện thân là nữ và nam. Theo Phẩm Môn, khi muốn cứu vớt hoặc giác ngộ chúng sinh, Quan Âm Bồ Tát có thể hóa thành 32 sắc tướng dưới diện mạo của cả nam và nữ tùy theo đối tượng chúng sinh cần độ hóa. Vì thế mới có chuyện lúc ngài là nam, lúc ngài là nữ, tùy duyên hiện thân, không phải là hình dạng cố định.Ở Việt Nam, hầu hết tượng Quan Thế Âm tại các đền chùa đều được tạo hình nữ giới, một phần là do ảnh hưởng của đạo Mẫu. Tín ngưỡng dân gian của dân tộc Việt có sức sống mạnh mẽ, bền bỉ qua hàng ngàn năm, bất cứ tôn giáo nào khi du nhập vào đều phải tích hợp và dung hòa, kể cả một tôn giáo lớn như Phật giáo.Khi Phật giáo gặp tín ngưỡng thờ Mẫu tại Việt Nam, Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi với tấm lòng nhân hậu, rộng mở luôn che chở cho chúng sinh yếu thế cũng có những nét tương đồng với Mẫu – người mẹ bảo vệ đứa con, mang tới sự yêu thương, nguồn vui cho con trẻ. Vì vậy mà Quan Thế Âm Bồ Tát có tạo hình là nữ, hay còn gọi là Phật bà Quan Âm. Phật giáo vốn không coi trọng hiện thân, chỉ chứng lòng đức độ, Quan Âm Bồ Tát là nam hay nữ không quan trọng, quan trọng là chúng Phật tử hiểu và học theo những điều hướng thiện, tu theo những điều hóa độ mà Bồ Tát chỉ dạy để thoát khỏi bể khổ, có đời an vui. Đó mới là ý nghĩa chân chính của việc thờ phụng Quan Thế Âm Bồ Tát. Khắc ghi 12 đại nguyện nhớ ngày Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia 19/9 âm lịchTháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P1)Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P2)
Thuyết Cửu tinh cho rằng, hàng năm có 9 ngôi sao phi tinh (Cửu tinh) thay nhau xâm nhập vào nhà theo hướng nhà. Dựa vào tính chất lành dữ của Cửu tinh có thể
Cửu tinh gồm 4 sao Cát tinh là Nhất Bạch, Lục Bạch, bát Bạch, Tứ Lục và 5 sao Hung tinh là Ngũ Hoàng, Nhị Hắc, Tam Bích, Cửu Tử, Thất xích.Nhất Bạch thuộc Thủy, quẻ Khảm, khi đắc vận thì gia chủ thăng quan tiến chức, thành đạt, đắc lộc; khi thoái vận thì phá tài, gây bệnh, nạn đào hoa, ly hương. Nhị Hắc thuộc Thổ, quẻ Khôn, lúc tốt thì khỏe mạnh, tôn quý, bá nghiệp; khi xấu thì là sao đại hung, tan cửa nát nhà, mắc bệnh hiểm nghèo, tai họa, tử vong. Tam Bích thuộc Mộc, quẻ Chấn, khi đắc vận thì ăn nói lưu loát, nổi tiếng, đắc lộc; khi thoái vận thì cãi cọ, kiện cáo, hao tài. Tứ Lục thuộc Mộc, quẻ Tốn, khi đắc thì văn chương tài hoa, tài lộc dồi dào; khi thoái thì gặp họa tửu sắc. Ngũ Hoàng thuộc Thổ, khi tốt thì uy danh lừng lẫy, tài lộc lên; khi xấu thì tai họa, bệnh tật, nguy hiểm đến tính mạng, tan cửa nát nhà. Lục Bạch thuộc Kim, quẻ Càn, là sao chủ quản tiền của, khi đắc thì đinh tài đều vượng; khi thoái thì thất tài, khuynh gia bại sản. Thất Xích thuộc Kim, quẻ Đoài, lúc tốt thì đắc tài đắc lộc; lúc xấu thì gặp trộm cướp, kiện cáo. Bát Bạch thuộc Thổ, quẻ Cấn, phát thì vinh hoa phú quý; lụi thì thất tài, ôn dịch. Cửu Tử thuộc Hỏa, quẻ Ly; đắc vận nhân duyên tốt đẹp, xây cất thuận lợi; thoái vận thì gây nạn đào hoa, tổn đinh phá tài, bệnh tật đau ốm. Khi 3 ngôi sao tài tinh là Nhất Bạch, Lục Bạch và Bát Bạch cùng hội ở cửa gọi là “tam đai tài tinh”, tiền của tụ vào nhà khiến hưng gia nhất nhì thiên hạ. Khi phạm phải thoái vận sát tinh của Cửu tinh sẽ gây bất lợi cho ngôi nhà, hóa giải theo nguyên tắc sinh khắc của ngũ hành. Dùng vật Hỏa hóa giải Mộc Tam Bích, Mộc Tứ Lục vì Mộc sinh Hỏa. Dùng vật Mộc hóa giải được Thủy Nhất Bạch vì Thủy sinh Mộc. Dùng vật Thủy có thể hóa giải Kim Lục Bạch, Kim Thất XÍch vì Kim sinh Thủy. Dùng vật Kim hóa giải Thổ Bát Bạch, Thổ Nhị Hắc, Thổ Ngũ Hoàng vì Hỏa sinh Thổ. Dùng vật Thổ hóa giải Hỏa Cửu Tử.
ST Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong. Hành Thủy phát huy khá hi
Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong.
Hành Thủy phát huy khá hiệu quả trong các công trình du lịch – nghỉ ngơi – giải trí. Ngôi nhà ở mà thiếu hành Thủy thì xem như khiếm khuyết yếu tố nuôi dưỡng cho hành Mộc và hạn chế tính Hỏa vượng. Hành Thủy được hành Kim sinh ra, gặp hành Thổ thì bị khắc chế bớt.
Tuy nhiên người xưa cũng nói “nhất Thủy nhì Hỏa” – hành Thủy luôn đóng vai trò kích hoạt nguồn khí trong môi trường sống nhưng cũng đứng đầu trong các hiểm họa thiên nhiên mà con người luôn phải biết chung sống một cách cẩn trọng. Hành Thủy trong chọn lựa nơi cư trú và tổ chức cảnh quan
Khí của cuộc đất về cơ bản chính là do Thủy khí tạo nên. Thủy thế có uốn lượn nhu hòa thì mới gia tăng lợi ích cho cư dân. Ngược lại, nhà xây sát bên những con sông lớn mà nước chảy xiết, thẳng tuột hoặc có những khúc cua quẹo gấp thì lại bất lợi vì không phù hợp với nhịp sinh học của con người và sinh vật trong vùng. Tính chất “bên lở bên bồi” cũng khiến cho tuy chung một dòng nhưng hai bên bờ sông sẽ có tính chất thổ nhưỡng và trường khí khác nhau, cần tìm hiểu kỹ khi lựa chọn thổ trạch.
Nếu biết khai thác Thủy khí đúng mức trong quy hoạch tổng thể, kết hợp giữa đường cong và đường thẳng thì sẽ vừa tránh được Trực Xung thẳng hàng vừa tạo tuyến giao thông – cảnh quan hài hòa tốt với môi trường thiên nhiên hơn, nhất là đối với những đô thị có đặc trưng cảnh quan sông nước như Sài Gòn – TP HCM.
Do châu Á, phương Đông vốn thuộc Mộc, kiến trúc luôn nương nhờ thiên nhiên nên hành Thủy (sinh Mộc) được ưa chuộng khi bố cục cảnh quan, từ lối đi quanh co đến bờ ao giếng nước, từ non bộ hồ cảnh đến tranh sơn thủy nội gia, làm nên đặc trưng văn hóa cư trú của dân vùng nông nghiệp lúa nước.
Thời hiện đại, trong nhà ở và công trình phục vụ du lịch (nghỉ ngơi, giải trí…), Thủy khí được phát huy như một yếu tố làm dịu đi các góc cạnh, tăng tính Mộc (che chở nuôi dưỡng, Thủy sinh Mộc) như các khu resort rất chuộng cách bố trí xoay quanh hồ bơi trung tâm.
Ở phương Tây, sân vận động Allianz Arena tại Munich (Đức) cho kỳ World Cup vừa qua là một tổ hợp hình khối dạng Kim – Thủy khá giản đơn mà lại độc đáo. Nhà hát Opera ở Sydney (Úc) cũng là một ví dụ về công trình đặc trưng hành Thủy với những mái cong gợn sóng tương thích với thể loại công trình biểu diễn và rất hài hòa với cảnh quan biển trời xung quanh. Thủy khí – bao nhiêu cho vừa?
Có quan niệm cho rằng hễ nhà ở càng nhiều gió và nước thì càng tốt về Phong Thủy – phong là gió, thủy là nước mà (?!). Cách lý giải này khiến nhiều người khi chọn đất xây cất thường hay thích gần vùng sông nước, hoặc cố gắng đưa nước vào nhà mà quên rằng nước cũng có nhiều dạng, cần phải khéo chọn lọc khu vực và kỹ thuật xây dựng phù hợp, nhất là trong điều kiện khí hậu nước ta vốn là nóng ẩm, lại thường xuyên có mùa mưa và nhiều vùng lũ lụt, độ ẩm cao dễ gây hư hại công trình và ảnh hưởng đến sức khoẻ người cư ngụ.
Những khu vực có bố trí mặt nước mà để tù đọng chính là nguyên nhân gây ra ô nhiễm, bất lợi cho môi trường sống. Thủy khí chỉ tốt khi dòng nước được luân chuyển và trong lành, sinh vật, hoa lá tươi tốt chung quanh.
Đối với nhà nhìn ra mặt trước có sông – hồ – ao tức là đã được một Thủy Minh Đường tốt (khoảng rộng thoáng đãng đón nhận ánh sáng và sinh khí). Nhưng vì dòng nước luôn chuyển động nên cần có một Thổ Minh Đường để đảm bảo khoảng cách nhất định (Giới Thủy – căn cứ theo dòng chảy mạnh hay nhẹ, sông rộng hay hẹp).
Trên khoảng Thổ Minh Đường này cần trồng thêm cây xanh vừa có tác dụng bám rễ giữ đất vừa tạo cảnh quan. Gió và Nước là hai yếu tố quan trọng và cần điều tiết vừa phải, chọn lọc lấy phần trong lành nhất để hữu dụng bền lâu.
Vận dụng Thủy khí trong bài trí nhà ở
Để tạo Thủy khí tốt, nhà ở thường sử dụng các dạng vật chất cụ thể hoặc ẩn dụ đặc trưng của hành Thủy. Ví dụ cuộc đất xây dựng thường hay có hình vuông hoặc hình ống, khi tạo lối đi từ ngoài vào nhà nên tuân theo quy luật Thủy Đáo Cục – thế nước chảy đến uốn khúc mềm mại – tức là cách tiếp cận không trực tiếp mà thông qua đường uốn lượn.
Tại điểm nút giao thông như sân, tiền sảnh và cửa chính, có thể bố trí các tiểu đảo trồng cây, non bộ hoặc hồ bán nguyệt (dạng Kim Thủy liên hoàn) để vừa giảm Trực Xung Đối Môn, vừa tạo một khoảng đệm cần thiết trước khi khách bước chân vào nhà.
Đối với nội thất, Thủy khí biểu hiện qua cách dùng vật liệu thủy tinh (gương, kính) nhằm giúp ngăn cách, tạo sự kết nối không gian các phòng. Có thể sử dụng vách ngăn bẳng kính trong hoặc mờ, kính kết hợp thác nước nhân tạo, hoặc dùng gương phản chiếu để nới rộng không gian và tăng tầm quan sát tại các vị trí khuất như đầu cầu thang, cuối hành lang hoặc góc phòng.
Thủy khí còn khá phù hợp khi đưa vào không gian phòng ngủ, phòng trẻ em hoặc nơi thư giãn (những không gian tĩnh, thuộc Mộc) để Thủy dưỡng Mộc, bằng cách tạo các vật dụng dạng uốn lượn mềm mại như bàn ghế dạng Thủy trang trí hoa văn trên tường, đóng trần uốn khúc, lát gạch họa tiết mềm mại hoặc bông sắt dạng gợn sóng.
Đôi khi trong một không gian sinh hoạt chung chỉ cần một chậu thủy tinh nhỏ đổ nước thả hoa tươi cũng đủ để tăng thêm sự mềm mại và tính thiên nhiên vào nội thất, bổ sung Thủy khí hữu hiệu.
Tất nhiên xét về Ngũ hành, khoa học Phong thủy luôn đòi hỏi sự hài hòa và bổ sung lẫn nhau, không quá thiên về một hành nào để trường khí nơi cư ngụ được cân bằng và phát triển bền vững.
Nhâm Tý nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1912, 1972 và 2032 Cung CHẤN. Trực CHẮP Mạng TANG ĐỐ MỘC (cây dâu) Khắc ỐC THƯỢNG THỔ Con nhà THANH ĐẾ (quan lộc, tân khổ) Xương CON CHUỘT. Tướng tinh CON HEO
Ông Tử Vi độ mạng
Nhâm Tý số mạng như vầy, Phong sương cũng lắm tha phương cũng nhiều. Số này cách trở quê hương, Đi ra xứ khác sanh phương nên nhà. Số phải khắc khẩu mẹ cha, Ở gần cắng đắng đi xa thì buồn. Số này cách trở lương duyên, Thay nhà đổi bạn truân chuyên lắm bề. Chẳng nhờ cốt nhục họ hàng, Tự mình lập nghiệp cửa nhà mới nên. Tiền vận chẳng đặng thành thơi, Trở về vận cuối an nhàn tấm thân. Nhâm Tý nhờ có quới nhân, Tu nhân tích đức phước Trời ban cho.
CUỘC SỐNG
Tuổi Nhâm Tý thuộc mạng Mộc, tuổi nhỏ cuộc đời hay lắm gian truân, cũng như một cây khi đơm bông kết trái, thì người khác hưởng, cuộc sống không được dồi dào từ lúc nhỏ. Không bao giờ được thảnh thơi, thường lao tâm khổ trí, tuổi càng cao càng nhiều lo nghĩ không lúc nào bằng. Bởi vậy số Nhâm Tý chỉ được hưởng sự an nhàn vào khoảng độ từ 49 tuổi trở đi mà thôi. Cuộc sống nhiều lao nhọc sôi động bất thường, ít khi có cơ hội phát triển về nghề nghiệp. Cuộc sống chỉ ở mãi trong mức độ trung bình.
Tuổi Nhâm Tý suốt đời lo nghĩ lao tâm khổ trí, tuy được an nhàn về bản thể, nhưng tâm não nhiều lo nghĩ. Cuộc sống chỉ ở mức trung bình về tài lộc cũng như về đường con cái. Con cháu nên danh mau lẹ nhờ có phúc đức. Sống hưởng thọ trung bình từ 57 đến 60, nếu làm phúc đức thì hưởng thêm niên kỷ.
TÌNH DUYÊN
Tuổi Nhâm Tý về vấn đề tình duyên thì buổi đầu khe khắt, sau mới thành có nhiều thay đổi lương duyên vào lúc tuổi nhỏ. Nếu sanh nhằm những tháng này thì có nhiều thay đổi lương duyên hay ít ra trong việc vợ chồng xảy ra lắm buồn phiền, đó là Nhâm Tý sanh nhằm những tháng 1, 3, 7, 6 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu sanh vào tháng này thì phải qua 3 đời vợ, đó là những tháng 5, 7 và 11 Âm lịch; nếu sanh nhầm những tháng này phải qua 2 đời vợ, đó là những tháng Giêng, 3, 4, 6, 8 và 12 và nếu sanh vào những tháng này thì tình duyên chung thủy, đó là những tháng 2, 9 và 10. Trên đây là tháng sanh của sự quyết định lương duyên; nếu nhờ đúng tháng tháng sanh mà chưa thực hiện đúng như trên, thì chắc chắn sẽ còn có thêm nữa vậy.
GIA ĐẠO, CÔNG DANH
Cuộc đời với công danh trầm lặng, dường như là bước công danh không có nhiều may mắn lắm, không tạo được một sự vững chắc về vấn đề nay, phần gia đạo lúc nhỏ có nhiều thay đổi, hay khác biệt về lối sống, nhưng qua 36 tuổi trở đi thì êm ấm và yên vui. Những việc nhỏ nhặt xảy ra không đáng kể. Việc to tát về xích mích gia đạo dường như không bao giờ xảy ra cả.
Sự nghiệp không mấy vững chắc vào những năm ở giữa cuộc đời, nhưng qua 47 tuổi thì có vài thành công nhỏ để tạo cuộc sống cho đến ngày nay. Tiền tài rất ít nhưng không thiếu kém quá đỗi, có thể tạo được rất nhiều nhưng thường hao hụt.
NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN
Nên chọn những tuổi này rất hợp cho sự làm ăn: Bính Thìn, Giáp Dần, Canh Thân. Những tuổi này làm ăn thì phát đạt vì hợp với Nhâm Tý.
LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG
Tuổi Nhâm Tý nếu lựa chọn được những tuổi này thì sống cao sang quyền quý, đó là những tuổi: Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Thân, Quý Hợi, Canh Tuất, những tuổi này rất hạp và tạo được hiển vinh.
Những tuổi này kết hợp với Nhâm Tý chỉ tạo được cuộc sống trung bình mà thôi: Quý Sửu, Đinh Tỵ, Kỷ Mùi, Tân Hợi, Nhâm Tuất, Ất Sửu, Ất Tỵ,
Tuổi Nhâm Tý Nếu gặp phải những tuổi này thì cuộc sống rất bần tiện và cơ cực: Tân Dậu, Kỷ Dậu.
Nhâm Tý sanh vào những tháng này có nhiều vợ hay thường đau khổ về đ àn bà, đó là những tháng 1, 3, 7, 11 và 12 Âm lịch.
NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ
Nhâm Tý đại kỵ với những tuổi này: Nhâm Tý, Ất Mão, Mậu Ngọ, Giáp Tý, Đinh Mão, Canh Mão và Bính Ngọ. Gặp những tuổi này thì sanh cảnh biệt ly hay tuyệt mạng.
Về vấn đề làm ăn cũng như về lương duyên, khi gặp phải những tuổi kỵ như đã nói ở trên, thì tất cả công việc đều có thể bị rắc rối phiền phức và thất bại. Cần phải xem sao Hạn để cùng kiến và van vái Phật, Trời mỗi năm tuổi của bạn đều thay đổi vì sao, đó là luật tuần hoàn. Thí dụ như năm Bính Ngọ, bạn gặp hạn Tam Kheo, sao La Hầu. Trường hợp năm nào bạn gặp sao hạn thì phải cúng sao thế nầy: Tháng nào cũng được như thường thì nên cúng vào ngày 8 tháng Giêng, tháng 4, 8 và 12 Âm lịch, đốt chín ngọn đ èn, chín chén nước lã, lạy về hướng Bắc, thì được giải sao hạn ngay.
NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT
Tuổi Nhâm Tý xuất hành vào ngày lẻ, giờ chẵn, tháng chẵn thì có lợi hơn những ngày giờ khác.
VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM
Từ 20 đến 25 tuổi: Năm 20 tuổi có nhiều cay đắng trong cuộc đời nhưng phần tình duyên nhiều tốt đẹp, 21 tuổi có phần hay đẹp về công danh, làm ăn khá được tốt, 22 tuổi năm nầy cẩn thận về tiền bạc cũng như về cuộc sống, 23 tuổi không nên đi xa, làm ăn có phần thất bại, bổn mạng yếu, 24 tuổi nhiều trở lực, 25 tuổi tạm yên, không có gì xảy ra quan trọng.
Từ 26 đến 30 tuổi: Khoảng thời gian nầy rất tốt đẹp cho sự làm ăn, 26 tuổi kết quả tốt đẹp về việc phát triển làm ăn, 27 tuổi nhiều hy vọng về tài lộc, 28 tuổi kỵ tháng 3 những tháng khác đều tốt, 29 tuổi nhiều kết quả và có triển vọng tốt đẹp, cuộc sống hoàn toàn hay đẹp. 30 tuổi có phúc đức, năm nầy tài lộc dồi dào.
Từ 31 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi trung bình kỵ đi xa hay làm ăn lớn, 32 tuổi có nhiều triển vọng tốt đẹp trong nghề nghiệp và cuộc đời, 33 và 34 hai năm nầy, bổn mạng có phần suy yếu, đề phòng bịnh tật, 35 tuổi năm khá hay về hay về số mạng và cuộc đời.
Từ 36 đến 40 tuổi: Năm nầy nên thận trọng, tuổi 36 sao bản mệnh chiếu mạng không được tốt về bổn mạng, hao tài, 37 tuổi có nhiều hy vọng tốt đẹp về nghề nghiệp và cuộc đời, 38 tuổi, trừ tháng 2, 6 và 10 có hao tài ngoài những tháng khác yên tịnh, 39 tuổi đỡ khổ, năm nầy làm ăn thâu nhiều tài lộc, kỵ tháng 4 có đau bịnh, đi xa có tai nạn, 40 tuổi tài lộc có phần hao hụt, nên cẩn thận về tiền bạc.
Từ 41 đến 45 tuổi: Năm 41 tuổi, tạm được, kỵ tháng 4, 6, 8, 9 và 11 những tháng nầy bất lợi. Năm 42 và 43 tuổi, hai năm có nhiều trở ngại trong việc làm ăn. Năm 44 và 45 tuổi, hai năm có nhiều tiền bạc cũng như về tài lộc và cuộc sống.
Từ 46 đến 50 tuổi: Năm 46 tuổi, được tốt, hy vọng tốt đẹp về tài lộc và cuộc đời. Năm 47 và 48 tuổi, hai năm gia đạo có nhiều rối rắm trong gia tộc có đại nạn. Năm 49 và 50 tuổi, hai năm bình thường, việc làm ăn phát triển chậm chậm..
Từ 51 đến 55 tuổi: Năm 51 tuổi, không được tốt đẹp lắm, bổn mạng yếu. Năm 52 và 53 tuổi, hai năm nầy được khá tốt đẹp, việc làm ăn nên cẩn thận về tiền bạc. Năm 54 và 55 tuổi, không nên đi xa hay làm ăn lớn, bổn mạng yếu.
Từ 55 đến 55 tuổi: Năm 55 tuổi, bị hạn nặng gặp sao La Hầu và hạn Tam Kheo, cần phải lo liệu và cẩn thận trong mọi công việc, nhất là bản thân có nhiều bất an. Năm 56 và 57 tuổi, vượt qua được tuổi 55 thì 56 và 57 yên tịnh, cuộc sống an nhàn, sợ không vượt qua khỏi tháng 8, 9 và 10 năm Bính Ngọ.
Từ 58 đến 60 tuổi: Năm 58 tuổi, không được vững vàng lắm cho gia đạo, bản thân, có thể mang nhiều đại họa cho cuộc sống. Năm 59 tuổi, tạo được nhiều tình cảm mến thương, tóm lại những năm nầy, có nhiều tình cảm, con cháu thương mến nhiều cầu lấy phúc đức làm căn bản cho cuộc sống may ra còn có thể tăng thêm niên kỷ.
Tốc độ suy nghĩ của 5 chòm sao dưới đây nhanh đến nỗi khiến mọi người kinh ngạc. Đây là một ưu thế nhưng cũng sẽ là trở ngại nếu không biết tận dụng đúng lúc,
Hạng 1. Sư Tử Tốc độ suy nghĩ của Sư Tửkhông thua gì thần sấm, thần chớp. Cậu ấy có thể không phải là người đưa ra đáp án đúng nhất nhưng sẽ luôn là người trả lời nhanh nhất. Biết nắm bắt thời cơ nhưng nếu Sư Tử chịu nhìn nhận vấn đề một cách sâu hơn thì chắc chắn đây cậu ấy sẽ là người rất thành công trong mọi việc. Hạng 2. Bạch Dương
Suy nghĩ nhanh chớp nhoáng chính là ưu thế của Bạch Dương. Tuy nhiên, điều này đôi lúc lại gây hậu quả không ngờ cho cậu ấy. Tại Bạch Dương suy nghĩ ngay lập tức khi nghe thấy âm thanh sau đó mới cập nhật tiếp hình ảnh nên thường nhận được thông tin thiếu chính xác, thường chủ quan, một chiều. Hạng 3. Song Tử
Là một trong những chòm sao tư duy nhanh, Song Tử suy nghĩ nhanh nhưng còn có phần hơi hấp tấp. Nếu mọi thứ chỉ là một đường thẳng thì không sao nhưng chỉ một biến cố bất ngờ xảy ra, Song Tử có thể sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Bạn nhanh chóng đưa ra đáp án A, để rồi ngay sau lại nhận ra nó sai, rồi lại đổi thành B. Cứ mãi như vậy nên thành ra lâu có hiệu quả. Hạng 4. Song Ngư
Song Ngư là người nghĩ ra vấn đề rất nhanh. Những ý tưởng của cậu ấy thường đi trước thời đại khá lâu vì vậy để thấy được thành quả của Song Ngư bạn phải theo dõi họ trong một thời gian dài. Song Ngư không quá hấp tấp trong suy nghĩ vì cậu ấy vẫn luôn đòi hỏi một chút yếu tố “an toàn” cho mọi thứ. Hạng 5. Nhân Mã
Nhân Mã le te thường thì sẽ rất nhanh nhảu, phát biểu trước khi kịp suy nghĩ. Tuy nhiên, chòm sao tư duy nhanh này lại là những người đặc biệt chậm tiêu trong lĩnh vực tình cảm. Dù ai có ý này ý nọ, có gợi ý mãi Nhân Mã cũng khó lòng nhận thấy, hoặc có thể cố tình giả bộ nghĩ không ra. Theo Mật ngữ 12 chòm sao
Tìm hiểu về đặc tính cơ bản của sao Vũ Khúc trong Tử Vi
Tên sao
Đẩu phận
Âm dương ngũ hành
Hóa
Chủ
Tứ hóa
Văn Khúc
Bắc đẩu (trợ tinh)
Âm thủy
Thiệt biện (tài ăn nói)
Khoa giáp
Kị: tị, Tân: Khoa
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Văn Khúc là âm thủy, là trợ tinh của chòm Bắc Đẩu, hóa khí là "thiệt biện" (tài ăn nói), chủ về khoa giáp, thiên về các lãnh vực nhưng hùng biện, triết học, tướng mệnh, ca hát văn nghệ; là một trong lục cát tinh. Sao Văn Khúc nếu đóng ở cung mệnh, cung thân, chủ về đào hoa, trên thân thường có nốt ruồi lạ, là người thông minh lanh lợi, có tài ăn nói, giỏi biện luận, cá tính hơi cô độc, nhưng có tài nghệ trong lịnh vực biểu diễn.
Sao Văn Khúc rất thích ở nhưng cung vị miếu vượng và đồng cung với sao Lộc Tồn. Nếu tại cung vị tam phương tứ chính có sao Văn Xương hội chiếu, gọi là cách "Lộc Văn củng mệnh", chủ về phú quý, nhờ văn chương mà có tiền tài, có biểu diễn xuất sắc về mặt tài nghệ. Nếu không gặp sát tinh, tất là người giàu có nổi tiếng.
Sao Văn Khúc cũng ưa Hóa Khoa, có thể tăng thêm tài hùng biện và tài năng trong lĩnh vực nghệ thuật như âm nhạc.
Nhưng nếu sao Văn Khúc lạc hãm, tài năng và nghệ thuật sẽ rất khó phát huy, Văn Khúc thuộc âm thủy, mang tính đào hoa, lại là sao an theo giờ sinh, nên tính chất đào hoa hay tay đổi rất rõ nét. Vì vậy khi sao Văn Khúc lạc hãm gâp Hóa Kị ắt sẽ chủ về tài năng nghệ thuật khó bộc lộ, mà dễ gặp rắc rối thị phi ở các phương diện tình cảm, tiền bạc, lời ăn tiếng nói, nếu lại gặp Liêm Trinh, Hỏa Tinh, Linh Tinh, thì nên lưu ý dễ vì tiền bạc mà làm lỡ thời cơ. Nếu gặp các sao đào hoa như Hồng Loan, Thiên Hỷ, Thiên Riêu, Đào Hoa, thì đường tình càng thêm bất lợi, cẩn thận đề phòng chuyện thương tâm.
Sao Văn Khúc ưa đồng cung với sao Vũ Khúc, nếu cùng ở cung Hợi, chủ về học vấn uyên bác. Nếu cùng ở cung Tuất, có thể giảm bớt tính cách cô độc của Vũ Khúc, và tính đào hoa của sao Văn Khúc.
Sao Văn Khúc là sao văn, chủ về ăn nói vì vậy không nên đồng cung với sao Cự Môn vốn chỉ về miệng lưỡi thị phi. Đối với nữ mệnh lại càng bất lợi chủ về trắc trở về đường tình cảm. Nếu sao Văn Khúc độc tọa tại cung Tuất, tại tam hợp hội chiếu hai sao Thái Dương, Cự Môn, gọi là cách "Đào Hoa cổn lãng" (hoa đào dào dạt), dù nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về đào hoa như sóng cuồn cuộn ập đến, nên đường tình cảm sẽ vô cùng sóng gió và trắc trở.
Chúng tôi có nhiều dịp gặp gỡ, trò chuyện cùng một số nhà nghiên cứu văn hóa, khảo cổ học. Trong những câu chuyện về văn hóa tâm linh, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, còn nhiều người vẫn hiểu một cách mơ hồ khi thực hiện hành vi văn hóa tín ngưỡng, chính vì thế nên việc giới thiệu cho người dân biết được nguồn gốc, ý nghĩa của tục thắp hương tổ tiên, thần, thánh, Phật... là điều cần thiết.
Loài người đã thắp hương cách đây gần 6.000 năm
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa và khảo cổ học thì chúng ta chưa thể khẳng định được cái nôi của tục thắp hương cho tổ tiên, thần linh... là ở đâu. Tuy nhiên, từ những tư liệu khảo cổ học cho thấy, tục thắp và dâng hương cho tổ tiên, thần linh có từ cách đây gần 6.000 năm.
PGS.TS Trình Năng Chung, Viện Khảo cổ học Việt Nam cho biết: “Trong một khu mộ thuộc thời đại đá mới ở vùng Punjab, Ấn Độ người ta đã phát hiện được những lọ gốm bên trong có tro than của một loại chất đốt có mùi thơm. Đây có lẽ là dấu tích sớm nhất về tục đốt hương dành cho người quá cố. Khu mộ có niên đại cách ngày nay 5.700 năm. Ngoài ra, trong các đền thờ của vua chúa Ai Cập cổ đại có tuổi gần 5.000 năm cách nay cũng phát hiện được nhiều hình chạm khắc tường miêu tả cảnh dâng hương lên các vị thần.
Từ những tư liệu này, các nhà khảo cổ học đã đi đến kết luận đây chính là dấu hiệu của việc thắp hương thờ cúng người chết và thần linh. Ở Trung Quốc, trong một khu mộ thời Chiến Quốc (2.500 năm cách nay) ở vùng Chiết Giang, người ta đã phát hiện những chiếc đỉnh gốm, bên trong bị ám khói do một loại thực vật có hương thơm bị đốt. Còn ở Việt Nam, trong truyền thuyết vùng đất Tổ Phú Thọ có nhắc đến việc các Vua Hùng có nghi thức dâng hương khấn trời đất, thần linh trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Điều này đưa đến giả thuyết rằng, tục thắp hương của người Việt cổ đã có cách đây khoảng gần 4.000 năm”.
Dân gian quan niệm thắp hương là sự kết nối giữa con người và thần thánh...
Bí ẩn số 3
Tục thắp và dâng hương đã đi vào đời sống văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, rất gần gũi, thiêng liêng.
Khi tìm hiểu thông tin về tục thắp hương, chúng tôi đã nhận được nhiều lý giải thú vị về con số 3. Theo lý giải của PGS. TS Trình Năng Chung thì “trong thuyết âm dương lưỡng hợp, số lẻ tượng trưng cho cõi dương, số chẵn tượng trưng cho cõi âm. Số dương nhỏ nhất là 1, số âm nhỏ nhất là 2, cộng hai số nhỏ của âm và dương bằng 3 (1 + 2 = 3). Đây là con số tượng trưng cho sự hòa hợp giữa âm và dương, là sự phát triển bền vững trường tồn, may mắn, thuận lợi. Trong đó, bội số của 3 là 9, tượng trưng cho đỉnh cao hạnh phúc, an lành viên mãn.
Do vậy, trong khi thực hành hành vi thắp và dâng hương trong lễ cúng tổ tiên, thần, thánh người ta thắp hương theo con số lẻ là 1, 3, 5, 7, 9. Tuy nhiên, khi thắp hương người ta thường thắp 3 nén, vừa đủ gói trọn triết lý sâu xa con số 3 như trên đã diễn giải. Trong thực tế, có người thắp 1 nén hương khi thờ cúng cũng được, nhưng đây chưa phải là con số đẹp, mà phải là 3 nén. Điều cốt yếu là chính ở lòng thành người thắp và dâng hương”.
Trong tang ma, khi thắp hương cho người chết thì có sự khác biệt so với thắp hương cho tổ tiên. Theo quan niệm dân gian cho rằng, người mới chết chỉ được thắp 2 nén hương, bởi từ lúc chết đến 3 ngày sau, linh hồn vẫn còn ở lại chốn trần gian. Vì vậy, 3 ngày sau khi chết người ta mới thắp 3 nén hương với ý nghĩa rằng, linh hồn người chết đã siêu thoát.
Nhà Phật quan tâm đến “tâm hương” hơn là thắp bao nhiêu nén hương.
Nói về sự khác biệt trong quan niệm thắp 3 nén hương khi cúng tổ tiên, thần, thánh... Hòa thượng, Đại đức Thích Tâm Kiên, Trụ trì chùa Một Cột giải thích: Đối với nhà Phật, việc thắp hương có đôi chút khác biệt so với chúng sinh. Theo đó, người đến chùa thắp hương có thể thắp 1, 2 hoặc 3 nén... cũng được. Sở dĩ có điều này là do nhà Phật quan niệm việc thắp hương là xuất phát từ cái tâm của con người, chỉ cần tâm hướng Phật thì tấm lòng được thanh thản... Vì điều này nên nhà chùa thường không đặt ra luật lệ nào đối với chúng sinh khi dâng hương cửa Phật.
Đại đức Thích Tâm Kiên cho rằng, mặc dù nhà Phật không đặt ra luật lệ chặt chẽ đối với chúng sinh khi lên chùa thắp hương, nhưng xét quan niệm văn hóa truyền thống thì người dân nên thắp 3 nén hương khi lên chùa là đẹp nhất, nó tượng trưng cho sự kết nối giữa người trần với Đức Phật, giúp tâm hồn thanh tịnh, trong sáng hơn.
“Trong quy định của nhà Phật có 5 loại hương chính là giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. 5 loại hương này được phân theo cấp độ cao thấp khác nhau. Thấp nhất là giới hương dùng để tâm hồn con người tự trút bỏ những ác ma, tham sân, si... cao nhất là giải thoát tri kiến hương, đây là loại hương chỉ có những người tinh thông giáo lý nhà Phật, một lòng hướng Phật mới có được và loại hương này chỉ có trong tâm mỗi người chứ không thể tìm thấy ở ngoài”.
Người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu AB thường là người có tâm hồn bay bổng, giàu trí tưởng tượng. Chính vì vậy nên họ luôn mơ đến một không gian lãng mạn và đẹp đẽ,
hai người cùng say mê đắm chìm trong hương vị ngọt ngào của tình yêu.
(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)
Tuy nhiên, khi gặp được "một nửa" mà mình đang kiếm ở ngoài đời thực thì họ lại cảm thấy buồn vì người này khác xa với người trong mộng. Cũng chính vì lý do này mà họ thản nhiên chia tay với nửa kia và đi tìm tình yêu mới. Điều này có thể sẽ làm đối phương đau khổ, buồn chán nhưng cũng có nhiều trường hợp, "nửa kia" tự rút lui mà người tuổi Ngọ cũng không cảm thấy đau khổ hay buồn chán.
Khi yêu, họ cũng sẽ thổ lộ tất cả tình cảm thầm kín của mình với đối phương và công khai mối quan hệ với mọi người xung quanh. Họ cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc khi chuyện tình của họ được nhiều người biết đến.
Những người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu này có tính cách phóng khoáng, không thích bị bó buộc, thậm chí nhiều người còn không mấy hứng thú với cuộc sống hôn nhân, gia đình. Chính vì vậy, nhiều cặp vợ chồng chỉ có được hạnh phúc trong thời gian đầu, càng về sau hôn nhân của họ càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn.
Để duy trì mái ấm gia đình, những người tuổi Ngọ thuộc nhóm máu này nên tìm những người bạn đời có tính cách tương đồng với mình. Có vậy gia đình mới hy vọng có được hạnh phúc bền vững, dài lâu.
Cô Thần Cô có nghĩa là mồ côi (mồ côi cha sớm gọi là "cô") , còn có nghĩa là cô độc, (như "cô lập vô trợ" trơ trọi một mình không ai giúp), không cùng hòa hợp, đứng riêng một mình, trơ trọi Thần có nghĩa là bầy tôi, kẻ thuộc dưới quyền, đồng thời có nghĩa là thiên thần, thần thánh hoặc tinh thần, thần khí.
Quả Tú Quả có nghĩa là góa chồng, hoặc phụ nữ năm mươi tuổi mà chưa có chồng cũng gọi là quả. Tú có nghĩa là ngôi sao. Hai sao này đại đa số các sách cho là hành Thổ, nhưng Việt Viêm Tử cho là hành Hỏa, Cô Thần thì Dương Hỏa, Quả Tú thuộc Âm Hỏa. Cô Thần chỉ đóng ở Tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) và Quả Tú chỉ đóng ỏ Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi).
Cô Quả có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nhưng cần xét kỹ vì Cô Quả cũng giống như Tả Hữu, là trợ tinh nhưng cường độ yếu hơn, gặp cát thì phù cát, gặp hung thì phù hung, theo hung tinh mà tác hại nhưng ảnh hưởng không mạnh mẽ. Đây là đặc điểm cần chú ý, chớ nên gặp Cô Quả thì cho là xấu, phải xét kỹ, nếu gặp nhiều hung tinh thì xấu thêm một chút, gặp nhiều cát tinh thì hóa cát thêm một chút vì cường độ chi phối không mạnh lắm và chỉ có ý nghĩa mạnh thiên về tinh thần khi ở Mệnh, Thân, Phối và Hạn, thiên về vật chất khi ở Điền Tài. Chú ý đặc tính của Cô Quả chỉ có nghĩa khi tọa thủ và đủ bộ (hai sao này luôn luôn tam hợp chiếu với nhau), còn hội chiếu, nhất là chỉ có một sao chiếu thì ý nghĩa bị giảm thiểu rất nhiều. Tính chất cô độc của Cô Quả tăng lên khi đồng cung với Đẩu Quân, Lộc Tồn, Vũ Khúc.
Cô Quả hội với nhiều quí tinh, văn tinh thì là bậc học thức uyên thâm, tính tình nghiêm trang, cẩn thận. Hội với phú tinh và quyền tinh gặp thêm nhiều sao tốt thì là bậc đứng đầu thiên hạ vì cô còn có nghĩa là trội lên hết tất cả. Ở cung Tài Điền và Quan Lộc sáng sủa là hợp cách nhất khiến cho công danh, tiền tài, điền sản được bền vững hơn.
Thủ tại Mệnh, Thân thì : Khó tính, kỹ lưỡng, mình làm việc gì cho chính mình thì ưng ý, còn người khác làm thì không cảm thấy hài lòng. Có khả năng ăn uống khó tính, không thích thì không ăn. Sống nội tâm, thường có sở thích riêng nào đó. Không chia Sẻ tình cảm, không thổ lộ tình cảm, khó ai hiểu được tính ý của bản thân cho dù là người rất thân với mình như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái. Bạn bè thì có thể có nhiều, và thông thường có nhiều bạn, nhưng bạn thân thì ít. Giao thiệp rộng rãi, nhưng chỉ là giao thiệp mà thôi, ít kết thân, kỹ lưỡng trong vấn đề chọn bạn (Cho dù có Tả, Hữu đồng cung cũng ít bạn thân). Nếu ai không hợp ý thì thông thường sẽ xa lánh không giao thiệp hoặc không thèm quan tâm đến. Lạnh lùng (rõ nét khi đồng cung với Vũ Khúc). Thường ít người thích do lạnh lùng, khó tính.
Trên vấn đề hôn nhân tình cảm thì thường chậm trễ bắt nguồn từ sự khó tánh của bản thân, sự kén chọn, nếu có Đào Hồng chiếu thì vẫn có người theo đuổi nhưng lại quá kén chọn bỏ qua nhiều dịp. Gặp thêm Vũ Khúc thì càng rõ nhưng cần phân biệt rằng Vũ Khúc ảnh hưởng mạnh hơn Cô Quả. Nữ nhân Vũ Khúc, Kình, Quả đồng cung thì dễ không chồng do quá khó tính. Nam nhân có Cô Thần, nữ nhân có Quả Tú thủ Mệnh, nếu không được cát tinh hóa giải, thì dễ đưa đến đơn độc, khắc cha mẹ, hoặc khắc vợ chồng, hoặc khắc anh em như không ở gần cha mẹ, vợ chồng anh em, ly cách với họ, hoặc không vợ không chồng không con, hoặc góa vợ, góa chồng (Nam kỵ Cô, Nữ kỵ Quả). Nếu Nam Quả nữ Cô thì đỡ xấu nhiều hơn, có con thường chỉ tối đa là hai người, thường là hoặc nam hoặc nữ và con cái không gần với cha mẹ. Đồng cung với Vũ Khúc thì gia tăng tính cô độc. Mọi cát tinh, nhất là hành Mộc, dều có thể hóa giải tính chất cô độc của Cô Quả, càng nhiều cát tinh thì càng hóa giải mạnh.
Các bộ sao kết hợp Cô hay Quả gặp Vũ Khúc: nữ Mệnh gặp thì tối kỵ, lận đận về đường chồng con. Quả Tú Đào Hoa gặp Thiên Mã: nữ Mệnh thì tình duyên lận đận, số phận chìm nổi lênh đênh. Cô Thần, Thiếu Dương đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: sáng suốt, nhân hậu. Cô Thần gặp Hồng Loan, Thiên Không đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: từ thiện, đạo đức.
Cô Quả tại các cung: Hai sao này ảnh hưởng đến tinh thần là chủ yếu khi đóng ở Bào, Phụ Mẫu, Tử Tức, Thiên Di, Phối, Nô, Phúc Đức. Vì có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nên nếu không gặp cát tinh (chú ý điều này) thì có hại cho việc cầu hôn nhân, cưới hỏi, đoàn tụ, gây bất lợi cho cá nhân trong quan hệ ngoài xã hội, trong gia đình như trong tương quan giữa cá nhân với bạn bè, người giúp việc, người hôn phối, cha mẹ, con cái, anh em, họ hàng.
Cung Nô Ít bạn thân cho dù thông thường có nhiều bạn bè, bạn bè thường không hiểu nhau. Nô tốt thì bạn bè nhiều nhưng không quan hệ lâu dài được phải xa cách bạn bè vì một lý do gì đó, bạn bè tụ rồi tan.
Huynh Đệ Anh em mỗi người mỗi ý nhưng cũng không có nghĩa là xung khắc. Chủ giảm số lượng anh em, không có nghĩa là không có anh em, nhưng anh em dễ xa cách nhau. Không hay thổ lộ tình cảm với anh em hoặc anh em không hiểu tính mình. Huynh Đệ xấu hoặc không cát tinh thì hoặc hiếm anh em (hai người là nhiều, nhiều hơn thì không hợp tính, hoặc không ở gần nhau), không nhờ cậy được anh em, hoặc ở xa cách anh em, hoặc anh em bất hòa. Huynh đệ tốt thì cũng được anh em giúp đỡ, thông thường nhiều anh em nhưng anh em ly tán.
Phụ Mẫu Thường con cái và cha mẹ mỗi người một ý nhưng chưa hẳn là khắc nhau. Phụ Mẫu xấu thì hoặc không hợp tính với cha mẹ, cha mẹ và con cái không hiểu tính nhau, hoặc không được cha mẹ giúp đỡ, hoặc có cha hoặc mẹ chết sớm (khi có hung sát tinh tại Phụ Mẫu). Phụ Mẫu tốt thì cha mẹ lại hay quan tâm đến con cái, được cha mẹ quan tâm nhưng thường sớm xa cách cha mẹ (Phụ Mẫu có Cô Quả Tuần hay Triệt án ngữ là một cách sớm ly hương hoặc xa cách cha mẹ một thời gian).
Phối Thông thường chậm hôn nhân, hoặc sống độc thân, hoặc vợ chồng không hiểu tính nhau, không hợp ý nhưng không có nghĩa là xung khắc. Phối xấu thì bất hòa, chửi nhau, hoặc sống với chồng vợ cảm thấy lẻ loi, cô đơn, không chia xẻ tình cảm, nếu gặp hung sát tinh thì có thể đưa đến vợ chồng sinh ly hoặc tử biệt, hoặc vợ chồng phải xa cách một thời gian, hoặc vợ chồng ít khi gặp nhau, không ỏ gần nhau, lâu lâu mới gặp gỡ. Phối tốt thì cũng tốt nhưng vợ chồng thường ít chia sẻ tình cảm cho nhau, không hợp tính nhưng không xung khắc. Nếu vợ chồng sống hợp nhau thì thông thường lại không có con cái .Vũ Khúc gặp Cô Quả thì cho dù có rất nhiều sao tốt vợ chồng cũng không hợp tính.
Tử Tức Giảm số con nhưng chưa hẳn là hiếm con hoặc khắc con. hông thường hay chăm sóc cho con cái. Tử Tức xấu thì hoặc ít con (thường chỉ hai con là nhiều), hoặc muộn con, hoặc con không gần cha mẹ, hoặc không hợp tính với con, hoặc xa con khi con còn nhỏ, hoặc con lớn lên không ở gần cha mẹ. Tử tức tốt thì con cái cũng đông và tốt như thường,có nhiều quí tinh thì con đỗ đạt và rất chăm sóc con cái.
Phúc đức Gây ra sự ngăn cách giữa bản thân và họ hàng, thông thuờng không hợp tính với họ hàng nhưng không có nghĩa là khắc. Họ hàng hoặc ít người, hoặc không gần gũi họ hàng. Phúc Đức tốt thì cũng không nhờ cậy họ hàng được cho dù họ hàng khá giả.
Thiên Di Ra ngoài ít bạn thân nhưng thông thường có nhiều bạn, thông thường có quan hệ rông rãi, nhưng ít kết bạn thân, chọn lọc kỹ lưỡng. Di xấu thì ít được người giúp đỡ, thường phải tự lực là chủ yếu. Di tốt thì cũng được người giúp.
Tài và Điền Là sao giữ của, tiền của không bị hao tán, điền sản bền vững nhưng không có nghĩa là bần tiện keo kiệt. Thông thường ăn tiêu dè xẻn. Tài và Điền sáng sủa thì của cải điền sản rất bền vững. Tài Điền xấu thì giảm xấu đi một chút.
Quan Tùy theo tốt xấu mà gia giảm đi một chút.
Hạn Đại Hạn có Cô Quả thì thông thường khó lập gia đình nhưng tiểu hạn có Sát Phá Tham gặp Đào Hồng Cô Quả Thiên Mã thì hết đơn côi, nghĩa là lập gia đình Cô Quả thủ mà Hồng hoặc Đào chiếu thì được người theo để ý nhưng lại kén chọn, không ưng ý.
Tử Vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi, đứng bậc chí tôn còn gọi là đế toà (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như cổ ca viết:
Tử Vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi, đứng bậc chí tôn còn gọi là đế toà (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như cổ ca viết:Tử Vi nguyên thuộc thổQuan lộc cung chủ tinhHữu tướng vi hữu dụngVõ tướng vi cô quân(Sao Tử Vi vốn thuộc thổChủ quan tước quyền vịCó bề tôi thì mới hữu dụngNhư vua mà không triều đình)Những sao tá tinh đứng ở đâu? Ở hai bên hoặc theo tam hợp chiếu gọi là giáp hay hiệp, hoặc đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi đứng giữa hai cung bên có Tả Phụ Hữu Bật Xương Khúc. hoặc Tử Vi cùng Tả Hữu đứng chung một cung, hoặc tam hợp xung chiếu là Tả Hữu.Tử Vi thiếu Tả Hữu là cô quân. Vua phải có quần thần mới thành quyền lực, mới uy nghi. Quần thần là những sao nào? Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên Mã.Nếu không có quần thần lại còn gặp nhiều hung tinh tức là đế ngộ hung đồ (vua gặp kẻ cướp) hoặc “quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” (vua bị đám gian thần tiểu quân uy hiếp). Đế tinh trở nên vô dụng còn gặp nguy hại nữa.Hung đồ tiểu nhân là những sao nào? Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Tham Lang, Tuần Triệt. Đừng quên rằng những sao kể trên chỉ là hung đồ tiều nhân đối với Tử Vi thôi. Ở một số trường hợp khác, chúng lại thành cực tốt.Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: Quần thần khánh hội, phú quí song toàn (vua tôi hợp hội giàu sang)Cách này là cách Tử Vi gặp đầy đủ sao phò trợ, như Tả Hữu làm tướng súy, Thiên Tướng Xương Khúc làm phụ tá, Khôi việt làm quan truyền lệnh, Thiên Phủ làm quan coi kho, binh lương, Lộc Mã làm quan giữ sổ bộ phong chức tước.Trong “Chư tinh vấn đáp”, Trần Hi Di tiên sinh viết: “Tử Vi là đế hoa ở mọi cung đều có khả năng giáng phúc tiêu tai, hóa giải những hung ác của các sao khác, khả dĩ chế ngự Hỏa Tinh, có năng lực biến Thất Sát thành quyền, hợp cùng với Thiên Tướng, Thiên Phủ đều thành sang quí, nếu không thế lực thì cũng giàu có, dù gặp Tứ Sát phá vẫn xem là trung cục hoặc bình thường chứ không đến mức thấp kém, hạ tiện.Sang đến “Cổ Ca” lại thấy một câu khác: “Tụ hội với Kình Dương Hỏa Linh biến thành loại ăn trộm, ăn cắp vặt”. Thế là thế nào? Hai câu mâu thuẫn nhau? Thật ra không mâu thuẫn. Tử Vi phải đi cùng với các sao tốt khác đã, rồi gặp Tứ Sát mới là trung cục. còn như gặp toàn sát tinh không tất nhiên thấp kém, hạ tiện.Trường hợp Tử Vi đứng một mình tại Ngọ cung và Tí cung (đứng Ngọ đẹp hơn) tất có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu lên hội họp, sách gọi bằng cách Cực Ưỡng Ly Minh (Cực là tên gọi khác của Tử Vi, Ly là cung Ngọ). Cách Cực Ưỡng Ly Minh dù không đến nỗi ra cái thân phận cô quân.Chỉ xem thê cung mà thấy nhiều đào hoa tinh thì dễ bị vợ lừa. Vào số nữ thì khác, thường chỉ là chồng kém mình trên địa vị học vấn hoặc tiền bạc. Phủ, Tướng trong cách “Cực Ưỡng Ly Minh” đã góp phần nào cho sự cân bình lực lượng chống với hung sát tinh. Căn cứ vào câu phú: “Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ”, Tử Vi Tí Ngọ gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì cán cân lực lượng ngã về Tử Vi, ác thế lực cũng phải nhường bước.Tử Vi thủ Mệnh an ở NgọKhông Sát tinh chức có tam côngTử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào Thiên La địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất vả.Tử Vi Phá Quân, Tử Vi Thiên Tướng thủ Mệnh nữ, việc trăm năm không suôn sẻ, lận đận chồng con. Tử Vi Phá Quân đóng Mệnh bị Liêm Tham Tỵ hoặc Hợi xung chiếu. Tử Vi Thiên Tướng đóng Mệnh, Phu cung Tham Lang hội Liêm Trinh ở Dần hoặc Thân. Liêm Tham là hai sao mang tính chất sắc tình rắc rối, bởi vậy nên vấn đề gia thất không êm.Bây giờ bàn riêng về Tử Vi Phá Quân. Tử Vi Phá Quân đi cặp chỉ thấy ở hai cung Mùi và Sửu. Phá Quân là sao xung phong hãm trận, đi với Tử Vi được tính như vị tướng dũng mãnh. Tử Vi ra hiệu lệnh, Phá Quân thi hành.Muốn khống chế Phá Quân, Tử Vi cũng cần một trí lực cao. Do đó Tử Phá đóng Mệnh bất luận nam hay nữ đều là con người quyết đoán, chí phấn đấu sôi nổi, can trường lì lợm, phiêu lưu, không thủ cựu, có đời sống hiếu động nhiều màu sắc.Số trai Tử Phá dễ đi vào chính giới hay quân giới nếu gặp cơ duyên. Được Hóa Quyền Tả Hữu Kình Dương là thành công. Tuy nhiên cuộc sống bôn ba thăng trầm. Tử Phá ra kinh doanh cũng đắc lực nhưng không bền vì nguyên tắc tiền bạc cần phải an định mới tụ để phát triển lớn.Tử Phá nữ mệnh, người đàn bà tháo vát, ngang ngạnh, bướng bỉnh, dám làm dám chịu, riêng về tình ái rất tùy tiện, tính dục mạnh. Sách mới có câu:Tử Phá Tham Lang vi chí dâmKìa nữ mệnh xem tướng cách cuộcTử Phá Tham hội ước đa dâmTử Phá và Tử Vi Tham Lang (tức các Đào hoa phạm chủ). Nam mạng Tử Phá mà tuổi Sửu, Mùi, Thìn, Tuất vào quân giới chính trị hay hơn các tuổi khác (Qua kinh nghiệm thôi, sách vở không nêu lý do tại sao).Tử Phá nữ mệnh đối với hiện đại tốt hơn thời xưa vì hiện đại người đàn bà được trọng qua sự nghiệp hơn là qua hôn nhân theo quan niệm tự do phóng khoáng là hạnh phúc.Về cách Tử Vi Tham Lang đóng Mão và Dậu, cách này cổ thư gọi bằng Đào hoa phạm chủ. Tử Vi là chủ, Tham Lang là Đào hoa. Tham Lang ví như Đắc Kỷ, Tử Vi ví như Trụ Vương. Tham Lang như Tây Thi, Tử Vi như Phù Sai.Tử Tham nữ mạng đa tình hiếu dâm. Tử Vi nam mạng dễ rơi vào lụy tình, bẫy tình, dại gái, mê gái. Sách có câu: Tử Tham Mão Dậu gặp Kiếp Không, Kình Đà Linh Hỏa thường đi vào đường tu hành. Tu hành nên hiểu theo nghĩa khác nhau. Lão kỹ đầu thiền về già đi tu, hương nhang thờ cúng cũng kể làm thoát tục. Nhiều chồng rút cuộc nằm không cũng kể là tăng. Cả đời toàn gặp thất bại, lấy cho lắm vợ cuối cùng ngồi trơ thân cụ, đây là kết quả của Tử Tham Tứ Sát Kiếp Không trong Mệnh cung của lá số.Tử Tham Tứ Sát tâm thần sinh ra chán nản thường trực. Không cứ phải cạo trọc đầu hay khoác áo nhà tu mới là thoát tục, mới là tăng lữ.Cách Tử Tham nếu chỉ gặp Hỏa hay Linh tinh tránh được Kình Đà Không Kiếp thì tốt hơn. Trong khi cách Tử Vi Phá Quân gặp Linh Hỏa lại không tốt mà gặp Kình Đà lại hay, như câu phú: Tử Phá thủ Mệnh ngộ Dương Đà, tiện khứ kinh thương (hội Dương Đà vào kinh thương hoạnh phát)Cổ nhân còn đưa ra câu phú sau đây: Tử Vi ngộ Phá Quân ư Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ cung, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu(Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm bề tôi bất trung, làm con bất hiếu)Tử Vi Thiên Tướng tại Thìn hay Tuất đều gặp Phá Quân ở Tuất hay Thìn. Còn Tử Vi Sửu Mùi đương nhiên đứng bên Phá Quân.Tử Phá Sửu Mùi vào quân giới, chính trị đạt ước nguyện, hai giới này sự phản phúc bất trung chẳng khác gì chất dẫn hỏa chỉ chờ có lửa liền bốc cháy, bởi vậy không nên dùng người mang số Tử Phá làm tâm phúc.Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào ngả chiều ấy.Còn vấn đề làm con bất hiếu? Bản chất con người Tử Phá không bao giờ chịu ước thúc trói buộc, làm việc chỉ hoàn toàn tự ý, vì lợi hay vì vợ dụ mà bất hiếu do cái lòng ích kỷ và ba phải.Số nữ Tử Phá thủ mệnh bậc làm cha mẹ phiền lòng hơn Tử Tướng. Số nam ngược lại Tử Phá bướng, phiêu lưu, gây tai tiếng, gây xáo trộn, phá rối kỷ cương nhưng một ngày nào đó thành công.Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền không được.Tử Vi Thiên Tướng không thành công bằng Tử Phá. Sách ghi câu:”Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú quí hư danh”. Hư danh là không thực, hão huyền.Nói đến Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung. Cách này hiện lên chỉ ở hai cung Dần và Thân. Phú ghi mấy câu:Tử Vi Nam Hợi Nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh thân phú quí đồngTử Vi Thiên Phủ toàn y Phụ Bật chi côngTử Phủ đồng cung chung thân phúc hậuTử Phủ, Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khíCâu thứ nhất Tử Vi Nam Hợi không có Thiên Phủ đồng cung, đó là cách Tử Vi Thất Sát với cung xung chiếu là Thiên Phủ. Chỉ có Dần cung mới đứng cùng Thiên Phủ thôi.Vậy thì số gái Tử Phủ mà tuổi Nhâm Giáp giàu sang là bởi tại tuổi Giáp Lộc Tồn đóng Dần, hội với Hóa Lộc đứng bên Liêm Trinh và Hóa Khoa đứng với Vũ Khúc. Hội đủ Khoa Quyền Lộc: tuổi Nhâm Quyền Khoa ngay tại mệnh và Lộc Tồn nhị hợp từ Hợi. Câu hai còn như gấm thêm hoa, đã Khoa Quyền Lộc còn cả Tả Hữu càng đẹp, đã sang trọng giàu có còn quyền thế.Câu ba ý chỉ dù không phải là tuổi Giáp Nhâm cũng có đời sống bình ổn vững vàng. Câu bốn nói Tử Phủ đồng cung tại Thân tốt hơn tại Dần, vì Thân thì Thái Dương Thái Âm đắc địa trợ giúp cho vận trình, trong khi ở Dần, Thái Dương Thái Âm vào thế hãm (chỉ riêng cho tuổi Giáp).Có một luận cứ đáng ghi nhận nói: Tử Phủ đồng cung hội tụ cả hai chủ tinh Bắc và Nam đẩu, như vậy thái quá nên dễ cô đơn. Trường hợp Mệnh Phụ Mẫu, Phu chịu ảnh hưởng Cô Thần Quả Tú càng nặng dễ ly hôn, góa bụa hoặc sớm khuyết cha mẹ.Chuyển qua cách Tử Vi Thất Sát. Cách này chỉ hiện lên ở hai cung Tỵ và Hợi. Trần Đoàn tiên sinh viết: Tử Vi năng hóa Thất Sát vi quyền. Tử Vi đứng bên Thất Sát thế vị oai nghiêm, hùng tâm vạn trượng, như vị hoàng đế xuất chinh có bầy tướng giỏi.Tử Vi Thất Sát khả năng hành động cũng như khả năng suy tưởng kế hoạch đều giỏi, tham vọng cao , vào bất cứ lãnh vực nào học vấn, kinh doanh, chính trị, quân sự, kỹ nghệ đều được. Thành tựu lớn hay nhỏ, cao hay thấp còn tùy thuộc các phụ tinh. Nếu nhiều phụ tinh tốt thì chức trọng quyền lớn, địa vị chức nghiệp khả kính.Tử Vi Thất Sát có Hóa Quyền thế lực càng lớn. Phú nói: Tử Vi Thất Sát Hóa Quyền phản tác tinh tường (Tử Sát mà gặp Hóa Quyền lại thành hay đẹp). Tại sao dùng hai chữ phản tác? Bởi tại Tử Vi không Thất Sát mà chỉ Hóa Quyền tự mình không điều khiển được Quyền sẽ đưa đến hung hiểmTử Vi hợp với Lộc Khoa Khôi Việt Tả Hữu hơn đứng riêng với Hóa Quyền. Tử Vi Thất Sát thủ Mệnh gặp Tuần Triệt ưu thế bị giảm nhiều, thành công với hư vị, không có thực quyền. Như phú nói: Tử Vi Thất Sát gia không vong, hư danh thụ ấm.Tử Vi Thất Sát vào số Nữ thường được chồng nể vì do tài điều khiển gánh vác. Nhưng Tử Sát nam mạng thì vợ quán xuyếnVai trò Thiên Phủ từ cung xung chiếu của cách Tử Vi Thất Sát chỉ là phụ họa vào cái tốt đã sẵn thôi. Về hình thái và tính nết của Tử Vi có những điểm sau: Tử Vi người đầy đặn, mặt vuông vắn hoặc tròn. Tử Vi có một sở đoản trên tính tình, ưa nghe lời phiến động, khoán nịnh, đôi lúc kiêu căng và dễ phụ hội với kẻ quyền thế, hay biến tâm, bản chất tương đối trung hậu nhưng khí lượng hẹp hòi, thiếu anh hùng bản sắc.Có khuynh hướng năm thê bảy thiếp.Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có đoạn viết:Tử Vi viên hội cát tinh lâmNhị hạn phùng chi phúc lộc hưngThương nhân đắc ngộ đa tài phúQuan quí phùng chi chức vụ thăngTử Vi nhập hạn bản vi tườngChỉ khứng tam phương Sát Phá LangDân thứ phùng chi đa bất lợiQuan viên lạc hãm hưu kinh thươngNghĩa là:”Vận hạn gặp sao Tử Vi, thương nhân phát tài, làm quan thăng chức. Tử Vi là sao đem may mắn đến. Nhưng nếu gặp thêm với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì lại không tốt. Kẻ dân giã bất lợi, người chức vị khó khăn. Sát Phá Tham đây là Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham ở cung vận hạn. Không hẳn gặp những sao ấy sẽ bất lợi với khó khăn. Vì Tử Sát, Tử Phá thường gây ra biến động. Thời xưa con người sợ biến động, nhưng thời nay biến động là cần thiết.Thấy Tử Sát, Tử Phá ở vận trình hoặc tiểu hoặc đại vận mà hay tốt lên thì mừng chứ sao lại lo ngại. Những câu cổ ca trên không lấy gì là đúng cho hiện đại.Về sao Tử Vi còn thấy những câu phú khác không ghi trong toàn thư mà của những nhà tướng số đời sau ghi lại qua kinh nghiệm.- Đế toạ ly cung Tam Kỳ Hình Ấn Khôi Xương Hồng Bật, mỹ mạo tài hung, hạn hữu Cự Sát Đà Linh, Chu Du cam hận mệnh vong (Tử Vi đóng Ngọ hội hợp với Khoa Quyền Lộc, Hình Ấn, Khôi Xương là người tài giỏi, tướng mạo khôi ngô, nếu gặp vận hạn có Cự, Sát, Đà, Linh (Cự Môn, Đà La, Linh Tinh hoặc Thất Sát, Đà La, Linh Tinh) thì giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết) - Đế lạc nhàn cung, gia Khúc Xương đa ngôn giảo hoạt (Tử Vi đóng Tí Mão Dậu hội tụ Xương Khúc thì giảo hoạt và ưa nói quá sự thực)Trong khi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: ”Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo” nghĩa là Tử Vi có Quyền Lộc nên danh có của nhưng nếu gặp thêm Dương Đà nữa thì tâm chất bất nhân vô đạo.- Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ (Tử Vi mà gặp Kiếp Không, Hồng Đào tại Mệnh tất không thọ) - Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, đế vô quyền nan giải hung tinh hạn ngộ (Tử Vi Thiên Phủ tại Mệnh bị Tuần Không, vua thành vô quyền khó giải cứu cho vận gặp hung tinh) - Dần mộc, Phủ Vi hội Tam Kỳ, Kình Bật cư lai, Mệnh xuất võ do văn quyền hành cứ phục chúng nhân, mạc phùng Không Kiếp hư vô (Dần cung, Tử Vi Thiên Phủ có Khoa thêm Kình Dương Hữu Bật có văn tài nhưng lại theo nghiệp võ, thành công người đời kiêng nể, nhưng nếu bị Không Kiếp lại thành sôi hỏng bỏng không) - Tử Phá mộ cung vô ưu họa ách, vận lai Phụ Bật nguyên vọng đắc như cầu, Thân kiêm Hồng Lộc Hóa Khoa khánh hội long vân (Tử Vi Phá Quân ở Sửu Mùi Thìn Tuất không lo những họa tai lặt vặt, tới vận gặp Tả Hữu thì mưu sự thành tựu, nếu cung Thân lại được Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hồng Loan cảnh thêm hay). - Đế toạ Thiên La Thân cư Triệt xứ, Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí đa trái thê nhi (Tử Vi đóng Thìn, cung Thân bị sao Triệt án ngữ, tuổi Giáp tuổi Kỷ suốt đời không toại chí, còn khổ vì vợ vì con) - Tứ Sát Tốn cung, đề huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát. Hạn hội Hồng Khoa Ấn Mã dị lập chiến công. (Tử Vi Thất Sát ở cung Tỵ gặp Hỏa Tinh và sao Tuyệt thành người đa sát nếu có Hồng Loan, Hóa Khoa, Quốc Ấn, Thiên Mã hội tụ làm võ tướng dễ lập công to) - Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Long Phượng Khoa Quyền Lộc Ấn, quần thần khánh hội chi cách gia Kình Kiếp loạn thế nan thành đại sự (Cách quần thần khánh hội Tử Phủ Vũ Tướng Long Phượng Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Ấn nếu bị Kình Dương Địa Kiếp gặp thời loạn bất thành đại sự) - Tử Tham Tả Hữu hội trungCó người con gái trốn chồng theo trai(Ở cách này Tả Hữu biến chất, tuy nhiên Tử Tham Tả Hữu còn phải thêm cả Tang Hổ nữa thì mới liều như thế) - Tử Tham Khôi Việt phương ĐoàiLong thần kỳ đảo ai ai cúng dường(Tử Tham đóng ở Dậu cung gặp Khôi Việt dễ đi vào nghề thầy chùa thầy cúng) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Chùa Cầu không chỉ là biểu tượng của phố cổ Hội An nổi tiếng mà nó còn là một công trình kiến trúc độc đáo, đậm chất tâm linh.
Là một trong những địa danh nổi tiếng, Chùa Cầu Hội An gây ấn tượng không chỉ bởi lối kiến trúc độc đáo mà còn những bí ẩn mà công trình này mang trong mình. Chùa Cầu (hay còn gọi là Cầu Nhật Bản) được xem là linh hồn, là biểu tượng của người dân Hội An. Đây cũng là công trình kiến trúc độc đáo, gồm hai cá thể là cầu và chùa được xây dựng bắt ngang qua một lạch nước rộng gần 10m chảy ra sông Thu Bồn.
Chùa Cầu - Biểu tượng nổi tiếng của phố cổ Hội An
Cầu có chiều dài gần 18m. Kết cấu các phần của cây cầu được thiết kế khá công phu, tỉ mỉ theo kiểu ‘thượng gia hạ kiều’ (trên là nhà, dưới là cầu, tức cầu có mái che) gồm 7 gian, trong đó 5 gian giữa nằm trên mặt nước, 2 gian hai đầu nằm trên bờ phía Tây và phía Đông được thiết kế như cổng dẫn vào. Trên cửa chính của Chùa Cầu có một tấm biển lớn chạm nổi 3 chữ Hán là ‘Lai Viễn Kiều’, do năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn Kiều, với ý nghĩa là ‘Cầu đón khách phương xa’. Tương truyền, chiếc cầu do người Nhật cất lên vào đầu thế kỷ 17, còn ngôi Chùa do người Minh Hương (cộng đồng người Hoa vốn sinh sống vào đời nhà Minh đã chạy sang Việt Nam khi nhà Thanh lên nắm quyền) xây dựng vào năm 1653 để thờ Bắc Đế Trấn Vũ. Trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn dưới thời vua Tự Đức (1847 – 1883) chép rằng: “Cầu ở xã Cẩm Phô về phía tây phố Hội An, huyện Diên Phước, nước khe chảy về phía Nam đổ vào sông Cái, cầu bắc ở trên. Tương truyền cầu này do người khách buôn Nhật Bản bắc, dưới cầu xây đá, trên lát ván, gác mái gồm bảy gian lợp ngói”.
Theo đó các thương nhân người Nhật Bản tại Hội An đã góp tiền xây dựng cầu vào khoảng thế kỷ 17. Theo truyền thuyết, những người Nhật đầu tiên sinh sống gần chùa Cầu thường xuyên nhìn thấy trên mặt sông xuất hiện sống lưng con quái vật Namazu (một loài thuỷ quái mà người Việt gọi là con Cù, người Nhật gọi là Mamazu, người Hoa gọi là Câu Long). Trong văn hóa thần thoại Nhật Bản, Namazu là một con cá trê có cơ thể khổng lồ. Do vậy, mỗi khi di chuyển, đuôi của nó quẫy mạnh khiến Trái đất rung chuyển. Thần Kashima trị thủy quái Namazu. Namazu được miêu tả là bị các thần linh giam giữ trong lớp bùn dưới các hòn đảo của Nhật Bản, khi các vị thần không cảnh giác, Namazu sẽ quẫy cơ thể và gây nên những trận động đất kinh hoàng. Chỉ có thần Kashima, vị thần của sấm sét và kiếm đạo, mới có đủ khả năng chế ngự con cá trê khổng lồ này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng khi thần Kashima mệt mỏi hay phân tâm thì Namazu lại có cơ hội quẫy mình, gây ra các trận động đất, thậm chí có cả núi lửa phun trào, gây ra đại họa. Người dân tin rằng, quái vật khổng lồ Namazu trừng phạt sự tham lam của con người. Bằng cách gây ra những trận động đất, Namazu muốn con người phân chia của cải ngang bằng nhau. Vì vậy, Namazu còn được coi là thần của cải.
Thủy quái Namazu được cho là có kích thước rất to lớn, có đầu ở Nhật Bản, lưng vắt qua khe ở Hội An và đuôi kéo dài tới Ấn Độ. Mỗi khi con thuỷ quái đó quẫy mình thì nước Nhật bị động đất và Hội An không được yên ổn để người Nhật, người Hoa, người Việt được bình yên làm ăn buôn bán. Do vậy những người Nhật định cư ở Hội An đã tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế đất và xây dựng cầu ở nơi đây, tượng trưng cho thanh kiếm đâm ngay xuống sống lưng thủy quái, khiến nó không thể gây ra động đất thiên tai nữa. Phía tây cầu còn được đặt 2 tượng khỉ đá, phía đông đặt 2 tượng chó đá. Đây cũng là một nét đặc trưng trong văn hóa xứ Phù Tang (Nhật Bản) như: mái ngói mềm mại, uyển chuyển với độ dốc thấp, những cột vuông, nền cầu lát vát hình vòng cung, nhưng “Thần Khỉ” và “Thần Chó” (những con vật người Nhật luôn quý trọng) thờ ở hai đầu cầu. Khỉ và chó là những con vật mà người Nhật sùng bái thờ tự từ cổ xưa. Vì vậy người Nhật dựng tượng thần Khỉ và thần Chó để trấn yểm con quái vật Namazu, người dân gọi đây là Thần Hầu và Linh Cẩu.
Quái vật Namazu trong truyền thuyết
Một thuyết khác cho rằng những bức tượng khỉ và chó xuất hiện trên cầu vì công trình này được động thổ vào năm Thân, hoàn thành vào năm Tuất. Ngoài ra ở nơi Thần Hầu và Linh Cẩu trấn giữ còn được khắc những dòng chữ Hán. Đôi câu đối chữ Hán ở phía cửa Đông của cầu như sau: ‘Thiên cẩu song tinh an cấn thổ, Tử vi lưỡng tỉnh định khôn thân’. Tạm dịch là: ‘Hai sao thiên cẩu trấn an đất cấn, Hai tướng tử vi định giữ cung khôn’ Đôi câu đối chữ Hán ở cửa phía Tây của cầu có nội dung: ‘Ngoạn nguyệt khách du châu vĩ điện, Khán hoa nhân đáo mã đề lôi’. Tạm dịch là: ‘Khách ngắm trăng thuyền nhanh như chớp, Người xem hoa vó ngựa sấm vang’. Cho đến năm 1633, tình hình Nhật Bản có biến động, Nhật Hoàng ban bố lệnh đóng cửa không quan hệ giao thương với nước ngoài, đồng thời yêu cầu những người Nhật kiều đang sống và buôn bán ở nước ngoài phải hồi hương. Phố Nhật Bản tại Hội An dần rơi vào thời kỳ suy tàn và chùa Cầu được giao lại cho người Việt cai quản.
Năm 1644, Trung Quốc xảy ra biến động, nhiều người nhà Minh vì sợ nhà Thanh truy sát nên mới vượt một chặng đường dài đến đất Hội An để xin Chúa Nguyễn Phúc Lan gia nhập quốc tịch Việt Nam và thành lập nên làng Minh Hương tại cảng thị Hội An. Sau đó, chúa Nguyễn đã giao cầu Nhật Bản cho người Minh Hương quản lý và có nhiệm vụ chăm lo sửa chữa cầu. Những người Minh Hương cũng tin rằng dưới chân cầu này là hang ổ loài thủy quái dữ tợn, khi gặp điều kiện sóng to, gió lớn, nước dâng cao mới tỉnh giấc trở mình quẫy đuôi làm nước sông dâng ngập cả phố cổ gây nhiều thiệt hại cho dân làng. Để yểm trừ, người dân cho xây dựng thêm ngôi chùa nhỏ nằm sát cầu để thờ Bắc Đế Trấn Vũ.
Tại chùa Cầu, tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ ở vị trí trung tâm của chánh điện. Bắc Đế Trấn Vũ (hay Huyền Vũ Thánh Quân, Đãng Ma Thiên Tôn, Huyền Thiên Bắc Đế) là một trong những vị thần lớn được tôn sùng trong Đạo giáo của Trung Quốc. Bắc Đế Trấn Vũ tượng trưng cho sao Bắc cực, thống trị phương Bắc, kiêm quản lý các loài thủy tộc nên cũng được coi là thủy thần hay hải thần. Tượng Bắc Đế Trấn Vũ được thờ tại Chùa Cầu. Tượng của Bắc Đế thường không mang giày dép, chân đạp lên một con rùa và một con rắn, được lý giải theo nhiều cách khác nhau. Một số người cho rằng, con rùa và con rắn chính là những thiên tướng trên trời, dưới quyền cai quản của ngài. Một số người lại cho rằng con rùa và con rắn đó chính là những con quái vật đã bị ngài thu phục và đạp dưới chân, gọi là là Linh Quy và Thần Xà, tượng trưng cho sự trường tồn và trí tuệ.
Ở Hội An, từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch thường xảy ra lũ lụt kèm theo giông bão. Mỗi khi lũ dâng, những dãy nhà ven sông thường ngập chìm trong biển nước, phải đến 3 – 4 ngày sau, thậm chí cả tuần nước mới rút. Bắc Đế Trấn Vũ là vị Thần có khả năng trị thủy, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những cơn địa chấn diễn ra ở Hội An, ổn định về mặt phong thổ, giúp cho cư dân làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió. Do đó, người Minh Hương thờ Bắc Đế Trấn Vũ làm chỗ dựa về mặt tinh thần của mình trong quá trình định cư tại vùng đất mới, giúp họ yên lòng vượt qua những khó khăn và có thêm niềm tin trong công cuộc mưu sinh. Không chỉ là một công trình chứa đựng những giá trị kiến trúc đặc sắc, Chùa Cầu còn là nơi giao thoa của 3 nền văn hóa Nhật – Việt – Hoa. Dù những câu chuyện huyền bí xung quanh Chùa Cầu chưa có được những lời giải thích rõ ràng, nhưng người dân Hội An vẫn luôn tin rằng nơi đây được xây dựng để trấn yểm một con thủy quái, thờ tự vị thủy thần với ước vọng ngăn chặn, đẩy lùi được những cơn địa chấn, lũ lụt, giúp cho cư dân tại đây làm ăn buôn bán được thuận buồm xuôi gió.
ST.
Vong hồn, ma quỷ, yêu tinh và Thần Phật khác nhau như thế nào?10 điềm báo tâm linh khiến tài vận gia đình không ngóc đầu lên đượcCó thể bạn chưa biết: Sự thật về MA QUỶ Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Cát Phượng (##)
Trong cuộc sống, có những thứ bạn được nhận, nhưng cao cả nhất vẫn là tấm lòng của người mẹ. Mẹ là người có thể chấp nhận hy sinh cả cuộc đời mình cho bạn
Tấm lòng của người mẹ không phải ai cũng hiểu thấu, nhất là người đó lại là mẹ kế của mình. Từ bao giờ, như một thói quen ăn sâu tận trong tâm thức, nó rất ghét, ghét cay ghét đắng bà mẹ kế, người đàn bà tật nguyền suốt đời phải ngồi trên chiếc xe lăn, đã thế bà ta lại bị bỏng nặng, khuôn mặt đỏ ửng hằn những vết sẹo loang lỗ hệt như 1 cương thi, chỉ nghĩ đến thôi cũng đủ sợ mất hồn…
Thời thơ ấu
Từ lâu nó rất ghét bà mẹ kế. Vì ghét bà ấy, nó ghét lây sang ba nó, nó nghĩ hoài, nghĩ mãi. Không hiểu bà ta bỏ bùa mê thuốc lú gì mà ba nó lại rước gánh nặng ấy về. Thà nuôi 1 con vật giữ nhà còn có ích hơn. Đời này thiếu gì đàn bà để ba nó phải làm như vậy, khiến nó xấu hổ đến nỗi chưa bao giờ dám dẫn bạn về nhà.
Thế nhưng cuộc đời đúng là tréo nghoe, trêu ngươi con người, nó càng ghét bà ấy chừng nào thì bà ấy càng thương nó chừng ấy, bà ấy càng thương nó thì ba nó càng thương bà ta nhiều hơn. Hài không tả nỗi vì gia đình nhà nó.
Hồi còn nhỏ tính nó đã tinh nghịch, phá phách, lại háo thắng, 1 lần đánh nhau với thằng nhóc con nhà hàng xóm tơi bời, nguyên do chỉ vì thằng kia trêu nó có bà mẹ dễ thương, xinh đẹp. Nỗi uất ức bao ngày qua cố kìm nén nay được nhỏ kia khơi dậy. nó đánh thằng kia tăm tối mặt mày, sứt đầu mẻ trán đến nỗi cha mẹ nhận không ra, ông hàng xóm dẫn con sang tận nhà mắng vốn luôn cả ba nó, bảo rằng ông không biết dạy con. Kết quả là nó bị ba ”dạy dỗ” cho trận đòn thừa sống thiếu chết.
Lúc ấy mẹ kế còn đi được nhưng khó khăn lắm, phải lê lết, chống nạn. Thấy ông giận dữ ước chừng có thể vồ lấy nó ăn tươi nuốt sống, bà nhoài người đưa thân ôm nó đỡ trận đòn roi. Nào ngờ không những không chút tấm lòng cảm kích biết ơn, nó dùng chút sức lực yếu ớt còn lại vùng vẫy, xô bà lăn nhoài xuống đất.
”Bà khỏi giả nhân giả nghĩa trước mặt ba tôi đi, thấy tôi bị vậy bà vui lắm chứ gì, bà cướp ba khỏi tay mẹ tôi, khiến mẹ tôi chết, khiến gia đình tôi tan cửa nát nhà. Vậy chưa đủ sao. Bà còn muốn gì nữa, nhìn lại bà coi, người không ra người, ma chẳng ra ma, bà đi chết đi”. Nó nói không chớp mắt như lập trình sẵn, đôi mắt đỏ ngầu hằn sâu tia lửa hận. Suy nghĩ của 1 thằng nhóc con mấy lớn khiến ba nó và bà vô cùng ngạc nhiên. Bà hoàn toàn nín lặng.
“Đồ trời đánh”… Ba nó thét lên
“Anh đừng nói con như vậy mà, nó còn nhỏ chưa hiểu gì đâu” ….Bà đỡ lời, nước mắt rơi hối hả.
Ông càng đánh nó càng im lặng, mặt cứ nhơn nhơn như thể trêu ngươi, chọc tức 2 người.
Thời gian trôi nhanh, nó ngày càng lớn dần theo năm tháng, tiếp nối nỗi hận thù với bà cũng tăng dần đều theo tỉ lệ thuận.
Về phần bà, bị hoại tử đến nỗi liệt cả 2 chân, không thể đi được. Người người thấy bà ai cũng đau lòng, thương xót. nó thì cười, cho đó là điều tất nhiên, là quả báo. Rồi nó học đại học, họa hoằn lắm tết nhất mới miễn cưỡng mò về nhà, vì gặp bà, thấy mặt bà nó lại chướng tai gai mắt, khó ưa.
Giữa kỳ 1 năm 2.
Đang cắm bút ôn bài thi giữa học kỳ, gần 12h đêm nó nhận được điện thoại của ba nó.
“Con hả? Đến bệnh viện với ba gấp, Mẹ con bệnh nặng lắm, phải chuyển tuyến lên thành phố”… Ba nó nói trong gấp gáp.
“Dạ, ba thông cảm, giờ con bận học thi rồi ba ơi, không đi được đâu”.. Nó nói chống chế nhưng trong lòng mừng rơn, bà đâu phải mẹ tôi đâu, đáng lắm.
“Không đi được hả con?”
“Dạ….”
Cứu người hơn cứu hỏa, biết nó chẳng giúp được gì nên ba nó đành tặc lưỡi cúp máy.
3 ngày sau…
“Con nghe ba…?”
“Mẹ con mất rồi. ba đang làm thủ tục với bệnh viện đưa mẹ về quê an nghỉ. Con về nhà ngay nhé.”
Ngày mai con thi ba ơi, lý do quá chính đáng mà. Nó lại đưa ra lý do, có lẽ lương tâm nó bị quỷ cướp mất rồi, nếu còn là con người, nó có thể xin nghỉ rồi mai mốt thi lại cũng được, chí ít cũng một lời chua xót với người đã khuất chứ.
Cuối cùng cũng thi xong, lần này nó bỗng háo hức muốn về nhà kì lạ.
Bắt xe đò về nhà, nhìn lên bàn thờ nó thập phần ngạc nhiên, kế bên tấm ảnh mẹ ruột nó là bức chân dung một người phụ nữ, so với mẹ nó thì người kia nhìn trẻ, đẹp hơn gấp bội phần.
“Chứ ảnh mẹ kế đâu mà ba trưng tấm hình này?” nó hỏi
“Đó… Mẹ con đó”
Nó há hốc mồm, mắt trợn tròn.
“Chuyện dài lắm, con thắp nhang cho mẹ rồi đi tắm rửa…”
“Để con tắm rửa rồi thắp sau cũng được mà ba”… Nó chống chế, vẫn còn hận bà ấy nhiều đến vậy, ngay cả 1 nén nhang với người đã khuất cũng nỡ lòng tính toán.
“Thôi được rồi, con ngồi xuống đây ba kể con nghe chuyện này”, ba chỉ nó ngồi xuống ghế đối diện với vẻ mặt nghiêm nghị.
“Con hận Mẹ lắm phải không?”
“Dạ không, sao ba nghĩ vậy?” Mẹ nào ở đây, nó thầm nghĩ.
“Từ đầu tới cuối đừng nghĩ con làm vậy là con đúng. Nhầm rồi, nhầm to rồi con ạ. Tất cả chỉ con có lỗi, con sai, sai hoàn toàn và người con suốt đời phải mang ơn chính là người đang ngồi trên bàn thờ kia đang nhìn con mà không phải mẹ ruột con.”
“Con không hiểu ý ba muốn nói gì?” Nó bắt đầu thấy hồi hộp lẫn tò mò về điều ba nó sắp nói ra. Ba nó từ từ, chậm rãi kể.
Sự thật nghẹn lòng
“Ngôi nhà mình đang sống thực ra là nhà của mẹ kế con, mạng sống của con là do bà ấy cứu…Ngày xưa ba với mẹ ruột con yêu nhau thắm thiết, cưới nhau tuy nghèo nhưng vô cùng hạnh phúc. Khi con hơn 1 tuổi bỗng mẹ con thay lòng đổi dạ, không chịu nổi cuộc sống cơ cực nên bỏ mặc ba con mình theo người đàn ông khác, một lần mẹ con đi với người kia thì cả 2 cùng bị tai nạn rồi qua đời. Ba vẫn mang danh nghĩa là chồng của mẹ con nên phải làm tròn trách nhiệm của 1 người chồng, người cha lo phần hương hoả.
Ngày mẹ con mất ba sống tưởng như đã chết, dẫu rằng mẹ không còn thương nhưng ba vẫn yêu mẹ con nhiều lắm, đầu óc lúc nào cũng bần thần, vô định.
Quãng thời gian ấy, để tìm quên nỗi nhớ của người chồng mất vợ, nỗi đau vì bị vợ cắm sừng cùng những lời bàn tán, dị nghị của người đời, lúc mẹ bỏ ba con mình, con cứ khóc hoài khi đêm khuya khát sữa giật mình tỉnh giấc lần tìm hơi mẹ, ba chỉ biết ngập trong cơn say của rượu.
Một ngày nọ con lên cơn sốt phải nằm viện cả tháng trời, mẹ kế con lúc ấy là một y tá xinh đẹp, nhiều người thầm thương trộm nhớ muốn kết tóc xe duyên nhưng bà chưa chịu. Thấy con thông minh, dễ thương, lại nhìn ba cực khổ bỏ công bỏ việc chăm lo cho con nên bà đem lòng thương cảm. Ngày ngày bà ấy giúp ba săn sóc con, tới khi con về nhà điều trị, hôm nào bà cũng qua thăm hỏi, thuốc men.
Rồi ba và bà ấy có cảm tình với nhau, yêu nhau lúc nào không hay.
Khi gia đình bên ấy biết chuyện thì ra sức cấm cản, thứ nhất do gia đình mình nghèo, thứ 2 ba đã qua 1 đời vợ, thứ 3 nữa là vợ chết, họ sợ bà ấy quen ba rồi sẽ nhận lại kết cục của mẹ con.
Ba cũng suy nghĩ nhiều lắm. Sợ đi thêm bước nữa sau này con riêng con chung con chồng con vợ về sau con sẽ chịu khổ, ba đã nhiều lần buông tay, nhưng bà không chịu, vẫn 1 lòng với ba, nhìn cách bà ấy yêu thương con như con ruột ba tin tưởng, không thể kìm lòng.
Mẹ với ba cưới nhau mà không hoa không đèn, không mâm cao cỗ đầy, không bạn bè, bà con hai họ. Thiệt thòi lắm.”
Nói đến đây mắt ông chớm đỏ, giọng ông khuất nghẹn như khựng lại.
“Thế thì có liên quan gì tới con hả ba?”
“Mẹ chấp nhận từ bỏ công việc về ở với ba con mình trong ngôi nhà ván đơn sơ lụp xụp mà ngày trước ba với mẹ con từng sống. Từ một tiểu thư đài cát, danh gia vọng tộc, ngập trong nhung lụa gấm vàng, nay phải thay đổi bản thân sống cùng ba con mình trong cơ cực.
Hôm ấy ba có việc ra ngoài, con nghịch ngợm, mãi chơi làm đổ cây đèn dầu, gặp tiết trời mùa hè hanh khô, cộng thêm nhà ván dễ bắt lửa, lúc ba về tới nơi thì hoảng hồn nghe mọi người hô hoán, tìm cách dập lửa. Trong nhà lúc ấy chỉ có 2 mẹ con. Mẹ vừa thoát ra ngoài sân đã hỏi con đâu.
Khi nghe con còn ở trong bà đã chạy ngược vào.
Khi mẹ bế con ra khỏi nhà lúc ấy con đã bất tỉnh vì ngạt khói, nhờ mẹ dùng trọn thân mình che chở con mới thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, mặc cho người mẹ lúc ấy bị bắt lửa phừng phực như một ngọn đuốc sống.
Nhờ đưa vào bệnh viện cấp cứu kịp thời nên giữ được tính mạng nhưng khuôn mặt, hai chân mẹ kế con bị bỏng hoàn toàn. Trong cơn mê sảng bà ấy vẫn cứ gọi tên con thống thiết.
Ngày ra viện, gia đình bà ấy hận ba con mình lắm, nhưng vì thương mẹ kế con nên đã tạo điều kiện, cho nhà để ba, con, và mẹ con về sống. Hi vọng cha con mình chăm lo bà ấy như chuộc lại lỗi lầm. Nhưng con trước giờ thì…”
“Sao ba mẹ không nói cho con biết?” Từ mẹ lần đầu được phát âm rõ ràng mấp máy trên môi nó.
“Mẹ bắt ba hứa không nói cho con biết.”
“Sao mẹ lại làm thế với con hả ba…?“. Nước mắt nó đã rơi.
“Nhãn quan của người mẹ mách bảo cho bà ấy biết, con là đứa yêu rất đậm mà hận ai đó cũng rất sâu. Thà cứ để con hiểu lầm còn hơn để con biết sự thật, chắc chắn hình tượng mẹ ruột trong lòng con sẽ phôi phai, và trọn suốt đời con sẽ hối hận, cảm thấy có lỗi vì những gì con gây ra khiến bà phải hứng chịu. Lúc nào bà ấy cũng hi sinh bản thân mình vì con.
Ba hối hận vì từ đầu đã không đủ dũng cảm nói ra sự thật. Để đến khi bà ấy nằm viện, sắp sửa lìa đời cứ muốn gặp con 1 lần mà không được…”
Ông từ từ đi lại tủ quần áo lấy ra 1 chiếc áo len: “Cái áo này lúc gần mất mẹ đã tự tay đan cho con, còn dặn dò ba nhắn với con là trời chuẩn bị vào đông lạnh lắm, chỉ mang áo khoác ngoài sẽ không đủ ấm, con sức khoẻ yếu rất dễ cảm lạnh. Ra đường phải mặc vào.”
Ông đưa tận tay nó rồi đập vào ngực nó thì thầm: “Ba đã không muốn nói, sao con bắt ba phải vậy…”
Nó đứng yên bất động, từng giọt nước mắt lại tuôn trào hối hả. Trong cơn nghẹn đắng, lần đầu tiên sau nhiều năm nó gào to thật to.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi.
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự tu hành cho toàn thể chư Tăng Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được ban tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả Tăng Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỉ chấp nhận.
Vì trước kia Hòa thượng Giám đốc và Phó giám đốc ở Ấn Quang, khi thành lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy của các ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của Phật giáo Việt Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi thiền định dưới cội bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác, dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những người làm ăn bất chánh không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo, họ bỏ điều bất chánh trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy nói Bụt trúng hay nói Phật trúng? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật được trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những vị Sư Ấn Độ. Ngày xưa ở miền Bắc vùng Luy Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật, và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo Phật có mặt trên đất nước Việt Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ không phải từ Trung Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật? Ở Trung Hoa từ đời Tống đến đời Minh có in những Tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ Hán rồi tặng cho Việt Nam. Đời Trần được tặng một Tạng kinh và sau này chúng ta cũng có thỉnh thêm những Tạng kinh từ Trung Hoa. Chữ Buddha người Trung Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như vậy Phật là phát sanh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt Nam là Phật hay Phật-đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng, chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ, trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở sáng trí tuệ được nhiều hay ít? Có người khi nghe đến trí tuệ dường như sợ nên thường xưng Ngu tăng hay Phàm tăng như để nói lên sự khiêm nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ.
Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ. Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Giác tha là đem trí tuệ đó đánh thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình. Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ bi gượng thôi.
Nếu một vị Tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh, không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng cách nào? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi trong đạo Phật là thế nào? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni là ba môn tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng Tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà thôi. Trong kinh Phật nói: “Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn.” Người học Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A-hàm Phật dạy: Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải gặp Tăng Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng Ni dạy Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không, có đúng với lẽ thật chân lý không? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai dạy lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm Sơ đẳng, tôi học lý nhân quả luân hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử Ấn Độ tôi thấy lý nghiệp báo luân hồi không phải mới có từ thời đức Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng: “Đạo Phật ăn cắp lý nghiệp báo của Áo nghĩa thư làm của mình.” Đọc đến đó tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy, của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A-hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi.” Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo nghĩa thư có nói về nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo nghĩa thư, mới đặt ra bốn giai cấp. Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm Thiên nên được kính trọng nhất, còn các giai cấp khác được sanh từ ngực, từ bụng, từ bàn chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến người dân càng khổ, đó là điều thứ nhất.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
– Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại:
– Đệ tử các ông chết các ông cầu cho họ sanh về cõi lành được không?
Các vị Bà-la-môn đáp:
– Được.
Lúc đó Phật nói thí dụ:
– Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được không?
Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp:
– Có người cầm chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy giếng được không?
Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu, Phật nói:
– Cũng vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên, dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được.
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp? Nghiệp lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có Ngũ thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa là sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm người. Tu Thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn Áo nghĩa thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn nghi, không còn mặc cảm nữa.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo nghĩa thư đã có thuyết nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận. Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân, thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy? Bởi kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ như vậy.
Luân hồi là gì? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không? Tôi nói hai phần:
1- Vật chất: Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước, gió, lửa hợp thành. Những gì là đất? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt, răng, xương… những thứ cứng là đất. Những gì là nước? Mồ hôi, máu mủ tức chất ướt là nước. Những gì là gió? Hơi thở vào ra, vào ra là gió. Những gì là lửa? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất nước gió lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn thứ đó đi đâu? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết, không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2- Tinh thần: Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài. Phật dạy Nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thật không nghi ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế gian, nhưng tại sao lại ham tu? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán v.v… Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác. Điểm đó ở đâu ra? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại sao không biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn, như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần: Một là Hữu sư trí, tức trí học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình, không do học. Đó là Tam vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới, Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi định sau. Nhờ thiền định nên Trí vô sư phát sanh là tuệ.
Tại sao thiền định được Trí vô sư? Khi thiền không nghĩ gì cả nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy. Trong kinh có kể lại: Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định, Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ Vô lậu là không còn rơi, không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí. Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao? Đức Phật ngày xưa chủ trương đi khất thực là vì sao? Khất thực tức là gieo duyên với chúng sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật dạy tu sĩ phải nhận của đàn-na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi? Để người đó gởi mình, mình nhận nợ.
Trả nợ có hai cách:
Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó. Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hóa giúp đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho giải thoát, về Cực lạc, bỏ mọi người ở lại ra sao thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không? Mình tu giải thoát nhập Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ. Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là A-na-hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu-đà-hoàn. Nếu mình tới Bồ-tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình, như vậy có buồn không? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha thiết tu một đời này để về Cực lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ, nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí: bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quí an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền. Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các sư có làm ra xu con nào đâu? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn-na thí chủ chớ đâu phải tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí? Nên Phật dạy tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay, cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn? Bố thí tài chỉ giúp người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no. Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con. Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ khổ nữa. Như vậy cái nào hơn?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng Ni không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy, còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí: bố thí tài và bố thí pháp thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng, thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người, tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô úy là sao? Vô úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ: Sợ ma, sợ rắn, sợ cọp… đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân hồi: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời, thì ngạ quỉ là loại quỉ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ quỉ hai cấp. Mình cao hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết và hết sợ đó là bố thí vô úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát chết, chư Thánh tăng chết, Phàm tăng, Phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố thí chánh pháp và bố thí vô úy luôn.
Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý. Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-thù cỡi sư tử, Bồ-tát Phổ Hiền cỡi voi… tôi sanh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử cỡi voi, như vậy các Ngài có từ bi không? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý. Vì đức Phật Thích-ca là vị Giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-thù.
Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá thứ hai là Phổ Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi. Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi. Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa phải có đủ trí tuệ vượt bực, hạnh nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật Di-đà thì bên phải có Bồ-tát Quan Thế Âm, bên trái có Bồ-tát Đại Thế Chí. Đức Phật Di-đà ở cõi Cực lạc là chỗ sạch vui. Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quan Thế Âm. Vì chúng sanh khó độ nên chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật Di-đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải có đại chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hi sinh sự ổn định của mình, chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Nên tôi nhắc Tăng Ni phải có tâm biết thương những người chờ đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quí vị thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá trị thật đáng quí. Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
Chọn tầng chung cư hợp tuổi hợp mệnh cho 12 con giáp
Đất chật người đông, nhu cầu mua nhà chung cư ngày càng nhiều.Vậy 12 con giáp nên chọn tầng chung cư hợp tuổi như thế nào để an cư lạc nghiệp, phát lộc phát tài
Thời buổi dân số gia tăng, người người đổ về thành thị. Đất chật người đông nên nhu cầu mua nhà ở chung cư ngày càng nhiều. Vậy 12 con giáp nên chọn tầng chung cư hợp tuổi mình như thế nào để an cư lạc nghiệp, phát lộc phát tài? Việt Nam là nước dân số trẻ, với số dân tập trung đa số ở các đô thị lớn. Quỹ đất có hạn, khả năng kinh tế của người trẻ cũng không quá dư dả, vì thế nên mua hoặc thuê nhà chung cư để ở là một lựa chọn được khá nhiều người ủng hộ.
Ngoài cân nhắc về vị trí, giá cả, môi trường sống thì không ít người khi mua nhà chung cư đều muốn chọn tầng sao cho hợp phong thủy, nhưng không phải ai cũng biết tuổi mình, mệnh mình thì nên chọn tầng chung cư hợp tuổi như thế nào để cuộc sống hạnh phúc, tấn tài tấn lộc.
Vậy 12 con giáp nên chọn tầng chung cư nào thì thích hợp nhất. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ một số thông tin hữu ích về vấn đề này, hy vọng có thể giúp cho các bạn phần nào trong hành trình chọn mua hay thuê cho mình một tổ ấm.
Theo ngũ hành, ta có thể chia các tầng chung cư có đuôi số tương ứng như sau:
Số 1, 6: hành Thủy
Số 2, 7: hành Hỏa
Số 3, 8: hành Mộc
Số 4, 9: hành Kim
Số 0, 5: hành Thổ
Như vậy, chúng ta có thể căn cứ vào ngũ hành tương sinh tương khắc để mua được căn nhà chung cư ưng ý nhất, bạn có thể tham khảo thêm Bảng xem mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi để biết tuổi mình thuộc mệnh gì. Nhà dùng để ở và nhà cho thuê, đầu tư bất động sản lại có những con số khác nhau, mời các bạn theo dõi nội dung chi tiết sau đây để biết cách chọn tầng chung cư hợp tuổi của mình nhé.
Để tới nội dung muốn xem nhanh nhất, mời bạn click vào Mục lục có nội dung tương ứng dưới đây.
MỤC LỤC
Tuổi Tý
Tuổi Sửu
Tuổi Dần
Tuổi Mão
Tuổi Thìn
Tuổi Tị
Tuổi Ngọ
Tuổi Mùi
Tuổi Thân
Tuổi Dậu
Tuổi Tuất
Tuổi Hợi
Tuổi Tý
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 5, 8 hoặc 0 như tầng 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19…
Mời bạn tham khảo thêm: Kiến thức phong thủy quan trọng cho nhà chung cư.
Tuổi Sửu
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14, 18…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17…
Tuổi Dần
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2, 4, 7 hoặc 9 như tầng 2, 4, 7, 9, 12, 14…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Tuổi Mão
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2, 4, 7 hoặc 9 như tầng 2, 4, 7, 9, 12, 14…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Có thể bạn quan tâm: Nguyên tắc phong thủy bất di bất dịch khi chọn nhà chung cư.
Tuổi Thìn
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17…
Tuổi Tị
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0, 1, 5 hoặc 6 như tầng 1, 5, 6, 10, 11…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Tuổi Ngọ
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0, 1, 5 hoặc 6 như tầng 1, 5, 6, 10, 11, 15, 16…
Bạn đã biết Những điều đại kị khi ở chung cư là gì chưa?
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Tuổi Mùi
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Tuổi Thân
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1, 2, 6 hoặc 7 như tầng 1, 2, 6, 7, 11, 12…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Tuổi Dậu
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1, 2, 6 hoặc 7 như tầng 1,2, 6, 7, 11, 12…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Mời bạn đọc thêm: Khắc phục những lỗi phong thủy "chết người" của nhà chung cư.
Tuổi Tuất
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Tuổi Hợi
Nhà mua hoặc thuê để ở
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 5, 8 hoặc 0 như tầng 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18…
Nhà mua để đầu tư bất động sản hoặc cho thuê
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19…
Với những đô thị lớn, có quá nhiều tòa nhà bao bọc nhau thì việc chọn tầng nhà cao sẽ giúp gia đình bạn có tầm nhìn thoáng đãng và không gian sống đẹp hơn. Tuy nhiên, khi xét đến yếu tố thực dụng, thuận tiện cho nhu cầu đi lại và sức khỏe khi có sự cố xảy ra thì tầng thấp hơn lại phát huy tác dụng. Dù chọn tầng chung cư để mua ở hay đầu tư, hãy cân nhắc kĩ giữa yếu tố sử dụng và phong thủy để có được cho mình một căn nhà thực sự là tổ ấm gia đình.
An An
Lưu ý phong thủy khi chọn nhà chung cưTreo gương bát quái hóa giải nhà chung cư đối diện nhau là hạ sáchCăn hộ chung cư hợp phong thủy cho các cặp vợ chồng trẻ (phần 1) Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:
Đoan Trang(##)
Tính cách phụ nữ - Đoán tính cách phụ nữ qua hình dáng vòng ba
Một khuôn mặt xinh xắn, một dáng hình thon thả và vòng 3 săn chắc, gợi cảm là điều mơ ước của rất nhiều chị em phụ nữ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có được 'của trời cho' ấy. Vậy thế nào là một đôi mông đẹp, có tướng cách tốt theo tiêu chuẩn của thuật xem tướng ?
Theo quan niệm của nhân tướng học, một đôi mông đúng tướng cách phải lấy tiêu chuẩn bình mãn làm đầu. Bình mãn có nghĩa là mông phải tròn trịa, đầy đặn, không cần phải to nhưng tối kỵ là mông cong.
Phụ nữ tướng cách tốt cần có đôi mông tròn, đều đặn, tương xứng với thân mình. Nếu mông quá to là người tính nóng nảy, không chịu nhún nhường người khác. Nếu mông lép thì đôi chân lại trở nên thiếu cân đối, người đó khó mà an nhàn sung sướng được.
Phụ nữ có đôi mông nhỏ thường ưa sống nội tâm; tính cách lúc nóng như lửa, lúc lại lạnh như băng; đầu óc minh mẫn, khả năng phán đoán linh hoạt và tư tưởng sắc bén. Về tình yêu, người này thường dễ rung động nhưng tình duyên không phải lúc nào cũng được suôn sẻ.
Phụ nữ có đôi mông hơi lớn thì tính tình độ lượng và hào phóng. Trong chuyện tình cảm, người này yêu hết lòng và dám hy sinh tất cả vì người mình yêu. Tuy nhiên, đôi khi cũng vì bản tính này mà họ dễ bị dụ dỗ, lừa gạt. Cuộc sống của người này khá suôn sẻ, đủ ăn đủ mặc, không có gì phải lo lắng.
Tướng người phụ nữ nhỏ bé và không có mông thì tuy học vấn cao nhưng thành công ít, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Phụ nữ mập tròn mà không có mông thì hiếm muộn về đường con cái, cuộc sống dễ trở nên cô độc, buồn nản.
Về màu sắc của da mông, giữa nam và nữ cũng có sự khác biệt nhiều. Đàn ông da mông nên có màu nâu mới khỏe mạnh, nếu nam mà mông trắng bệch thì tính cách mềm yếu, nhu nhược như đàn bà. Nhưng phụ nữ thì da mông phải thật trắng hồng mới đầy đủ nữ tính.
Có những ngày sinh may mắn dành riêng cho từng con giáp. Những người được sinh ra vào ngày hoàng đạo được trời ban cho tài năng xuất chúng - một số rất thông minh, và một số có thể sống trọn đời bình an. Bạn có biết liệu mình có phải sinh ra vào ngày may mắn? Có điều gì đặc biệt mà bạn nên biết về ngày hoàng đạo của mình?
Tuổi Tí
Ngày may mắn: Mùng 4, 13, và 30 âm lịch
1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 âm lịch của bất kì tháng nào trong năm Tý sẽ rất thông minh và hợp theo con đường nghiên cứu. Những người này sẽ tìm được một người bạn đời tốt và luôn trân trọng mình. Họ sẽ sống một cuộc sống ổn định ở tuổi thanh niên, có con cái hiếu thảo và của cải dồi dào ở độ tuổi trung niên, và sống một cuộc sống hạnh phúc khi về già.
2. Những người người sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Tý sẽ được ban phước lành vô hạn và may mắn. Họ rất dễ đạt được thành công lớn trong sự nghiệp của mình. Những người này cũng sống lâu với của cải dồi dào.
3. Người sinh ra vào ngày 30 âm lịch rất liêm chính và thông minh. Họ luôn muốn làm việc thiện, Cuộc đời của họ chẳng bao giờ phải chật vật lo nghĩ về cơm áo gạo tiền. Họ sẽ sống một cuộc sống giàu có ở độ tuổi trung niên. Những người sinh ngày 30 âm cũng sẽ tận hưởng tuổi già vui thú với con đàn cháu đống.
Tuổi Sửu
Ngày may mắn: 13 và 27 âm lịch
1. Những đứa trẻ sinh ra vào ngày 13 âm lịch trong năm Sửu sẽ có một tương lai vô cùng hứa hẹn. Chúng và con cái đời sau không phải lo lắng về kinh tế. Khi gặp khó khăn sẽ luôn có quý nhân giơ tay ra cứu giúp họ vượt qua cơn khốn cùng.
2. Ngày 27 âm cực kì may mắn với người sinh vào năm Trâu. Người nam thì trung thực, thẳng thắn, hào phóng và luôn sẵn sàng làm tất cả mọi việc bất chấp khó khăn. Họ sẽ giàu có và cưới được người vợ đẹp. Người nữ sinh ngày 27 thì thông minh và lanh lợi. Họ sẽ có cuộc sống bình an trọn đời.
Tuổi Dần
Ngày may mắn: 16 và 27 âm lịch
1. Những người tuổi Dần sinh vào ngày 16 âm lịch sẽ có một cuộc sống phong phú và đầy màu sắc. Họ sẽ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có. Nhờ đó, họ dễ dàng có khả năng để tìm được một mối quan hệ hoàn hảo.
2. Nếu bạn tuổi Hổ và sinh vào ngày 27 thì không cần phải lo lắng về sự nghiệp của mình. Trong công việc, bạn luôn được quý nhân phù trợ. Bạn cũng sẽ có một cuộc hôn nhân hạnh phúc với nhiều con trai và cháu trai.
Tuổi Mão
Ngày may mắn: 26, 27, và 29 âm lịch.
1. Những người may mắn sinh ra vào ngày 26 âm lịch trong năm Mão hay đạt được địa vị cao và được mọi người tôn trọng. Kỹ năng chuyên môn mang lại cho họ thu nhập cao.
2. Sinh ra ngày 27 thì con người sẽ thông minh thiên về học thuật. Họ sẽ mang lại vinh dự cho tổ tiên. Họ cũng sẽ sống một cuộc sống giàu có và có thể trông đợi vào một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
3. Những em bé chào đời vào ngày 29 cực kì may mắn. Lớn lên, các bé trai nên đi theo con đường kinh doanh vì có lộc về tiền tài. Các bé gái thông minh, tốt bụng, và có khả năng quản lý tiền bạc cực kì tốt.
Tuổi Thìn
Ngày may mắn: Mùng 1 và 16 âm lịch
1. Những người tuổi Thìn vốn có cuộc đời sung sướng hơn các con giáp khác nhưng những người sinh ra vào ngày mùng 1 hàng tháng càng gặp nhiều may mắn. Họ sẽ có một sự nghiệp thuận lợi và có tiềm năng trở thành quan chức cấp cao.
2. Những người sinh ra vào ngày 16 âm lịch thông minh hơn những người bình thường. Họ đạt được cả danh tiếng và sự giàu có do sự siêng năng và sự ham học hỏi kiến thức mới.
Tuổi Tỵ
Ngày may mắn: Mùng 1 và 23 âm lịch
1. Các bé sinh vào ngày mùng 1 trong năm Tỵ sẽ có một cuộc đời bình an và hạnh phúc.
2. Những người tuổi Rắn sinh vào đúng ngày 23 sẽ được ban cho lòng dũng cảm và trí tuệ. Trong suốt cuộc đời của mình, họ sẽ đạt được sự tôn trọng của nhiều người.
Tuổi Ngọ
Ngày may mắn: Mùng 5 và 20 âm lịch
1. Những người sinh vào ngày mùng 5 có thiên phú về nghệ thuật. Dù cho có khó khăn, họ cũng sẽ vượt qua và đạt được thành công trong sự nghiệp.
2. Người tuổi Ngọ sinh ra vào ngày 20 có một cuộc sống phong phú. Về già, họ sẽ tận hưởng cuộc sống bình an bên con cháu.
Tuổi Mùi
Ngày may mắn: Mùng 7 và ngày 30 âm lịch
1. 'Những con dê' sinh vào ngày mùng 7 rất hiền lành và khoan dung. Họ luôn nhận được sự quan tâm của hàng xóm và đồng nghiệp.
2. Những người sinh ra vào ngày 30 âm lịch trong năm con Dê rất may mắn và tài năng. Do đó, họ dễ dàng thành công trong cuộc sống.
Tuổi Thân
Ngày may mắn: 14 và 28 âm lịch
1. Người tuổi Khỉ sinh vào ngày 14 sẽ sống một cuộc sống giàu có nhờ sự giúp đỡ từ cha mẹ và quý nhân.
2. Những em bé chào đời vào ngày 28 đã được sinh ra dưới một ngôi sao may mắn. Các bé sẽ có khả năng lãnh đạo thiên bẩm và hợp với những công việc chức quyền, người nổi tiếng.
Tuổi Dậu
Ngày may mắn: mùng 4 và 26 âm lịch.
1. Người sinh ra vào ngày mùng 4 sẽ tạo dựng được danh tiếng ngay từ khi còn trẻ. Cuộc sống xa hoa sẽ kéo dài đến tận tuổi trung niên.
2. Người tuổi Gà sinh ra vào ngày 26 được trời phú cho tài kinh doanh. Họ luôn tìm ra cách tốt nhất để đầu tư và làm số tiền có trong tay sinh sôi nảy nở.
Tuổi Tuất
Ngày may mắn: Mùng 7 và 28 âm lịch
1. Những người tuổi Tuất sẽ sống lâu do sức khỏe hơn người khi được sinh ra vào ngày mùng 7.
2. Sinh ra vào ngày 28 âm lịch trong bất kì tháng nào của năm Tuất, mọi người đều sẽ được chòm sao may mắn chiếu mệnh, Họ sẽ có địa vị xã hội cao và một gia đình lớn.
Tuổi Hợi
Ngày may mắn: 17 và 24 âm lịch
1. Những người sinh ra vào ngày 17 vượt qua người bình thường cả về trí thông minh và lòng dũng cảm. Do đó họ sẽ nổi tiếng vì tính cách cao quý và uy tín của mình.
2. Người sinh ra vào ngày 24 đạt được sự tôn trọng của đủ mọi người từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Nhờ vào khả năng chuyên môn của mình, cuộc sống của họ sẽ luôn dư dả.