Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Thời nay, trong chuyện tình cảm rất nhiều người có “phương án dự phòng”, cũng vì lẽ đó mà một số sao nam cũng cam tâm tình nguyện làm kẻ thay thế.
Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời nay, trong chuyện tình cảm rất nhiều người có “phương án dự phòng” đặc biệt là các sao nữ, phải luôn có người ở bên mình và sẵn sàng chờ đợi mình thì mới yên tâm. Cũng vì lẽ đó mà cho dù biết mình chỉ là “phòng hờ” nhưng một số sao nam vẫn cam tâm tình nguyện.

 
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Chom sao nao tinh nguyen lam ke thay the hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Đầu bảng: Ma Kết

  Ma Kết phải được mệnh danh là “Thiên hạ đệ nhất soái ca”. Ma Kết đối với phái nữ luôn hết tâm hết lòng, dù biết rõ ràng mười mươi mình chỉ là “dự phòng” nhưng vẫn có thể chờ đợi cô ấy hàng giờ dưới mưa, khiến người khác phải cảm động rớt nước mắt. Tuy nhiên, cho dù là như vậy thì Ma Kết vẫn cam tâm tình nguyện, vui vẻ chịu đựng, bất kể đối phương có đáp lại hay không?

 

Nhì bảng: Cự Giải

  Với người mà mình yêu, Cự Giải tuyệt nhiên không bao giờ nổi nóng, cũng chẳng bao giờ đòi hỏi gì, chỉ cần cô ấy hạnh phúc là được. Cự Giải luôn yên lặng, đứng sau theo dõi và luôn xuất hiện đúng lúc cần thiết. Chính vì vậy, các cô gái thường lựa chọn một chàng trai Cự Giải như một giải pháp dự phòng hàng đầu.   Ba bảng: Song Tử   Song Tử có thể vì người mình yêu mà có thể đánh đổi tất cả cho dù người ấy có yêu mình hay không. Các Song Tử nam rất được các nàng chú ý nhưng với họ các Song Tử Nam chỉ có thể làm tri âm tri kỷ, có thể tâm sự mọi chuyện nhưng tuyệt đối không thể yêu đương.  
Chom sao nao tinh nguyen lam ke thay the hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Thứ 4: Bảo Bình

  Các Bảo Bình vẫn luôn cho rằng mình là cao thủ trong chốn tình trường mà không nghĩ tới mình chỉ là “kẻ thay thế” mà thôi. Họ luôn tỏ ra là không quan tâm tới chuyện tình cảm, thế nhưng tới khi biết chuyện thì lại đau thấu tim gan, tưởng mình có nhưng thực chất lại không phải.  

Thứ 5: Xử Nữ

  Các chàng trai Xử Nữ không bao giờ nói ra rằng “anh yêu em” nhưng thực tâm họ vẫn luôn sẵn lòng, có thể hi sinh mọi thứ, kể cả việc phải liều mạng vì cô gái để mong nhận được tình cảm. Nhưng thật đáng tiếc, nếu gặp phải một người con gái không hiểu được lòng mình thì Xử Nữ mãi mãi chỉ có thể là “kẻ đứng sau” mà thôi, lúc cần có thể cho mượn nhờ bờ vai, có thể cho ôm một cái nhưng tuyệt đối không thể hôn.  

Thứ 6: Kim Ngưu

  Các chàng trai Kim Ngưu thường quá nhát gan, sợ mình bị cự tuyệt tình cảm nên chẳng bao giờ nói ra, chính vì lẽ đó mà vẫn mãi chỉ là kẻ đứng sau, không thể vượt qua được ranh giới của tình bạn, tự mình biến mình làm “phương án dự phòng”. Bất kể là đối phương có hỏi “Anh có yêu em không?” thì các chàng trai Kim Ngưu tim đập chân run, không dám thừa nhận mà lại trả lời rằng “Không phải”.  
Lichngaytot.com

Tự do tự tại, 3 chòm sao độc lập yêu thích cuộc sống một mình Chòm sao nào khó buông bỏ quá khứ nhất? Điểm danh 3 chòm sao nữ bá đạo, thích là tự cầm cưa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao nào tình nguyện làm kẻ thay thế

Mơ thấy người thân –

Giấc mơ về một số người thân trong gia đình như ba mẹ, anh em trai hay chị gái sẽ dự báo cho bạn biết về tương lai hoặc phản ánh cuộc sống hiện tại. 1. Mơ thấy ba mẹ - Nếu mơ thấy mẹ mình, có thể bạn sẽ gặp may mắn, hạnh phúc trong chuyện tình cảm. -
Mơ thấy người thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy người thân –

Mơ thấy người yêu –

Mơ thấy hẹn hò, dạo chơi cùng người yêu Giấc mơ hẹn hò cùng người yêu cho thấy có sự phát triển trong quan hệ tình cảm của bạn và người ấy. Trong giấc mơ, bạn thấy mình hẹn hò cùng người yêu, điềm báo mối tình của bạn sẽ có kết quả tốt đẹp. Mơ thấy h
Mơ thấy người yêu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy người yêu –

Truyền thuyết dân gian về 14 chính tinh trong khoa Tử Vi

Một bài viết thú vị về truyền thuyết 14 chính tinh trong Tử Vi dựa theo các nhân vật của truyện Phong Thần. Mời các bạn đón đọc.
Truyền thuyết dân gian về 14 chính tinh trong khoa Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi nghĩa là hoa tường vi màu đỏ thẫm (tử: màu đỏ tía – vi: tường vi hoa). Từ cổ đại giống người thuộc phía Bắc sông Hoàng Hà dùng hoa màu đỏ để chiêm bốc. Hình ảnh việc chiêm bốc ấy giống hệt như chuyện Quỷ Cốc trước khi cho Tôn Tẩn Bàng Quyên xuống núi vào đời tranh đấu bảo mỗi người ngắt một cành hoa tường vi đưa lên thầy. Xem hoa phân âm dương Quỷ Cốc tiên sinh đã đoán biết trước vận mạng Tôn Tẫn bị bao nhiêu năm điêu linh cùng cực đến nỗi phải giả điên, ăn cả phân heo mới thoát khỏi tay tên phản bạn lừa thầy Bàng Quyên.

Trải qua nhiều đời, Tử vi chiêm bốc chuyển thành toán mệnh phương pháp. Phương pháp này đặt Tử Vi làm tên một ngôi sao đi tiếp với 13 sao nữa là: Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh, Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân. Rồi chia đời người ra làm mười hai cung là các cung: Mệnh, huynh đệ, phụ mẫu, phu thê, tử tức, quan lộc, thiên di, tật ách, tài bạch, nô bộc, điền trạch, phúc đức.

Mười bốn chính tinh tuân theo một cách tính có sẵn căn cứ vào giờ, ngày tháng, năm sinh mà an vào mỗi cung. Sao nào ở cung nào sẽ tiên đoán việc gì đó sẽ xảy ra cho đời người.

Tỉ dụ: Cung phu thê (vợ chồng), được sao Thái Âm, Thái dương thì người đàn ông hay đàn bà thường sẽ có một hôn nhân tốt. Trái lại, nếu thấy có sao Liêm trinh ở cung phu thê thường là bất lợi cho gia đạo.

Tỉ dụ: Cung tài bạch có sao Vũ Khúc tất tiền bạc dồi dào, nếu cung này gặp sao hung, hẳn nhiên sẽ vất vả nghèo khổ.

Tỉ dụ: Trên trần thế biết bao nhiêu bách triệu phú ông mà vẫn sống trong cảnh u sầu. Tại vì có hung tinh nằm ở cung Phúc Đức.

Mười bốn vị chính tinh thực ra chỉ là những ký hiệu cho một bài toán. Nhưng đối với dân gian để cho dễ nhớ, cũng như để răn đời, họ liền ghép những ký hiệu ấy vào các nhân vật sử mà thành câu chuyện truyền thuyết sau đây:

Đời Phong Thần, vương triều nhà Ân có ông vua cực tàn ác là vua Trụ. Một hôm, Trụ Vương đi săn gặp mưa lớn, để trú mưa liền vào miếu Cửu Thiên Huyền Nữ. Trụ Vương vốn thô bạo và hiếu sắc thấy pho tượng Cửu Thiên Huyền Nữ đẹp quá mê ngay, hạ lệnh cho quân sĩ vác tượng đó về sung vào đám tì thiếp của nhà vua. Mọi người tuy kính nể nữ thần nhưng họ còn sợ sự tàn ác của vua Trụ gấp bội, nên nhất loạt vâng lệnh mang tượng Cửu Thiên Huyền Nữ về cung.

Cửu Thiên huyền Nữ giận lắm mới hoá phép biến một con hồ ly trong rừng thành người đàn bà tuyệt sắc rồi sai đến mê hoặc Trụ Vương mà làm cho nhà Ân phải diệt. Người đàn bà tuyệt sắc ấy tên Đát Kỷ, vương phi sủng ái của vua Trụ. Quả nhiên, Trụ Vương say mê Đát Kỷ bỏ phế việc triều đình, gây xáo trộn trật tự.

Cùng lúc đó, trên trời đang thiếu nhiều thần linh, Ngọc Hoàng Thượng Đế rất mừng thấy Cửu Thiên Huyền Nữ quyết tâm diệt Ân. Ngài nghĩ một khi nước loạn tất sẽ có nhiều anh hùng, trung thần chết vì quốc nạn. Ngài phái Thái Bạch Kim Tinh lập tức ra Nam Thiên Môn cầm sổ chờ sẵn, trong cơn binh lửa đón những người chết về.

Ở phía Tây giang sơn nhà Ân có chư hầu quốc dòng họ Chu giầu có thịnh vượng, văn hoá cao. Sợ nhà Chu một ngày kia sẽ lấn áp mình nên Trụ Vương ý định ra tay trước mới mượn cớ mời vị lãnh đạo Chu quốc là Văn Vương tới họp. Chu Văn Vương tinh thông bát quái Dịch Lý của Phục Hi, trí tuệ bậc nhất thời bấy giờ. Trụ Vương nghĩ cứ bắt Văn Vương giết đi thì mọi sự sẽ đâu vào đấy. Khi Văn Vương đến nơi, vua Trụ cho bắt nhốt ngay chờ ngày hành quyết, kết tội Văn Vương phản nghịch.

Con lớn Văn Vương là Bá Ấp, đẹp tuấn tú, hiên ngang, đàn bà con gái trông thấy Bá Ấp một lần là thương nhớ khó quên. Bá Ấp rất có hiếu, nghe tin cha bị hại lòng xốn xang như lửa đốt, ngày đêm phóng ngựa đến gặp vua Trụ để minh oan cho cha mà không hề biết hậu ý của vua Trụ. Trụ Vương hứa ba ngày sau sẽ nói chuyện và lưu Bá Ấp ở trong cung.

Đêm khuya, Bá Ấp ngồi gảy đàn, tiếng đàn như nước chảy trên đá, buồn như chim đỗ quyên hót nhiều đến rớm máu mắt chan hoà khắp cung điện khiến Đát Kỷ tỉnh giấc lắng nghe rồi lần theo tiếng đàn mà tới buồng Bá Ấp. Nàng chỉ mặc trên người tấm áo lụa mỏng. Nhìn qua song cửa, Đát Kỷ trông thấy dưới ngọn bạch lạp, một chàng trai khôi vĩ, cao sang tuyệt bực đang chăm chú với phím đàn. Con hồ ly tay sai của Cửu Thiên Huyền Nữ, nó vốn tính cực dâm đãng nên chẳng chút ngần ngại mở cửa vào phòng Bá Ấp dùng cử chỉ lả lơi quyến rũ. Nào ngờ Bá Ấp chẳng những bất động tâm, chàng còn lớn tiếng mắng Đát Kỷ. Đát Kỷ bực bội vì không được thoả mãn cũng chửi lại Bá Ấp làm náo loạn cung đình, vệ binh kéo đến bắt giữ Bá Ấp. Đát Kỷ già mồm khóc lóc nói với vua Trụ rằng mình bị Bá Ấp làm xấu, nghe tiếng đàn nàng đứng ngoài song cửa bỗng Bá Ấp xấn tới ôm nàng kéo vào buồng. Trụ Vương cả giận, cơn ghen bừng bừng không cần hỏi han cơ sự thực hư thế nào nữa, hét quân mang Bá Ấp ra chém rồi băm thây ra viên thịt Bá Ấp nướng chả đem đến cho Văn Vương ăn.

Văn Vương trong ngục thất là người giỏi toán số đã biết rõ hết mọi chuyện xảy ra. Buổi sáng khi quân canh mang chả nướng vào, Văn Vương ung dung ngồi ăn hết dĩa chả. Trụ Vương thấy vậy cười ha hả nói: “Thằng đó đúng đồ hư danh, ăn thịt con mà cũng không biết thì có gì đáng sợ, không hiểu tại sao thiên hạ phục hắn về cái tài thần toán chiêm bốc”. Nói rồi Trụ Vương sai thả Văn Vương ra khỏi ngục.

Trên đường về Chu quốc, nỗi mừng thoát nạn không sao lấp được cái buồn cha ăn thịt con cho nên vẻ mặt bi thảm khôn tả. Đến nhà, Văn Vương tìm khu vườn cây xanh tốt, tự móc họng để nhả những miếng chả ra. Lạ thay, thịt Bá Ấp đã biến thành một động vật lông trắng muốt, đôi tai dài, mắt đỏ màu hồng ngọc chạy nhảy tung tăng trông hiền hậu dễ thương, đấy là con thỏ đầu tiên của thế giới. Nó cúi đầu chào Văn Vương rồi chạy vào đám cỏ xanh mất dạng. Thái Bạch Kim Tinh đưa tay đón bắt con thỏ đưa về trời. Giữa lúc ấy thì trên một ngôi sao, hoa tường vi nở đỏ bát ngát. Ngôi sao này là chủ tinh của một chòm sao. Do đề nghị của Thái Bạch Kim Tinh, Ngọc Hoàng Thượng Đế liền bổ nhiệm Bá Ấp về cai quản sao Tử Vi bởi lẽ Bá Ấp hội đủ ba tính chất: thiện lương, tôn quí và cao quí.

Văn Vương thề quyết trả thù cho con, ngày đêm nỗ lực xây dựng xứ sở, làm việc quá nhiều Văn Vương kiệt lực chết, việc diệt nhà Ân giao vào tay Vũ Vương, em của Bá Ấp.

Vũ Vương nối nghiệp cha, ngày ngày huấn luyện binh mã, chăm lo nông nghiệp, quốc lực tăng trưởng, nhờ vị quân sư là Khương Thượng, Vũ Vương đánh bại Trụ Vương tiêu diệt Ân triều.

Khương Thượng hiệu Tử Nha tục xưng Lã Vọng là người cao minh trí tuệ, lúc chưa đắc chí ngồi câu cá nơi sông Vị, nghèo khổ cùng cực bị mụ vợ già chửi mắng suốt ngày. Mãi đến chín mươi tuổi mới gặp Văn Vương mời về làm quân sư. Văn Vương chết, Khương Thượng giúp Vũ Vương phạt Trụ.

Bình xong thiên hạ, Vũ Vương phong cho Khương Thượng cai quản đất Tề. Lúc chết, Thái Bạch Kim Tinh mời về trời giao cho cai quản sao Thiên Cơ, bởi thế sao Thiên Cơ trong Tử Vi đẩu số tượng trưng cho trí tuệ, quyền biến cơ mưu.

Trụ Vương tuy là bạo quân nhưng chung quanh ông ta có nhiều trung thần, đáng kể nhất là Tỉ Can từng khuyên vua Trụ dứt bỏ con yêu tinh Đát Kỷ. Trụ Vương bực bội mắng Tỉ Can bất trung. Để tỏ lòng ngay thẳng, Tỉ Can nói với Trụ Vương: “Nếu bệ hạ không tin lời, thần xin đem tấm lòng son sắt dâng lên bệ hạ”. Nói xong cầm dao tự đâm vào ngực moi tim đưa cho Trụ Vương. Tỉ Can chết, Thái Bạch Kim Tinh thương lắm tới đón về trời giao cho cai quản tinh cầu sáng rực, cực quang minh chính đại là sao Thái Dương.

Khương Thượng, Bá Ấp, Tỉ Can đã xong, còn Văn Vương, Vũ Vương ra sao?

Vũ Vương lên ngôi thi hành thiên chính, sống rất thọ. Khi chết, Thái Bạch Kim Tinh nhận thấy công trạng vũ dũng đánh dẹp bạo quân rất xứng đáng với sao Vũ Khúc nên dâng sớ xin Ngọc Hoàng đặt Vũ Vương nơi ấy. Vũ Vương chẳng những là người dũng cảm lại giỏi về kinh tế khiến cho đời sống dân gian sung túc. Do vậy Vũ Khúc còn là sao chủ về tiền bạc giàu có trong Tử Vi đẩu số.

Thảo phạt Trụ Vương là Vũ Vương, nhưng nếu không có những công lao bước trước của Văn Vương thì đại sự cũng chẳng thành. Hầu hết các nhân vật tài giỏi giúp Vũ Vương đều do Văn Vương để lại. Thái Bạch Kim Tinh nhận thấy Văn Vương xứng đáng là một vị thần giỏi dung hoà xếp đặt, tính tình ôn thuận nên cho về cai quản ngôi sao Thiên Đồng.

Bên cạnh vua Trụ có tên đại gian thần là Phí Trọng dùng nịnh nót và gian kế đã giết chết nhiều trung thần của Ân triều để thoả mãn giấc mộng nắm đại quyền quốc gia. Khi Ân triều diệt vong, Phí Trọng bị Khương Thượng bắt đem chém đầu. Ngày hành hình trên trời thiếu thần trị nhậm sao Liêm Trinh, Thái Bạch Kim Tinh liền dùng Phí Trọng làm vị thần của mọi sự tà ác. Trong Tử Vi đẩu số, Liêm Trinh chủ về những sự việc lắt léo không ngay thẳng, tàn nhẫn.

Trụ Vương có một vị chính thức nguyên phối hoàng hậu họ Khương là người đàn bà hiền thục tài năng. Từ ngày Đát Kỷ xuất hiện, bà Khương hậu bị vua Trụ bỏ rơi, do sự xúi bẩy của Đát Kỷ, Trụ Vương giết luôn bà Khương hậu. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Khương hậu cho cai quản một tinh cầu đầy vật sản phì nhiêu là sao Thiên Phủ. Trong Tử Vi đẩu số, sao Thiên Phủ mang tính chất tài năng và từ bi.

Ân triều có ông quan trung nghĩa tên Hoàng Phi Hổ có người vợ họ Giả, nhan sắc diễm lệ, nức tiếng xa gần. Lệ triều đình hàng năm cứ đến ngày Tết nguyên đán, các quan phải cùng đi với phu nhân vào bái yết quốc vương. Giả phu nhân theo chồng vào cung. Đát Kỷ thấy Giả phu nhân nói chuyện duyên dáng lại đẹp nên đố kỵ, bảo vua Trụ mời bà ở lại dự dạ yến để lập kế hại.

Rượu say, Trụ Vương chẳng giữ lễ vua tôi gì nữa, chạy lại ôm lấy Giả phu nhân mà ép nài chuyện bậy bạ. Vốn là người đàn bà trọng tiết tháo, không chịu được nhục nhã, bà bỏ chạy cùng đường phải lao mình từ trên lầu cao xuống đất tự tử. linh hồn Giả phu nhân bay lên trời, Thái Bạch Kim Tinh đặt bà làm nữ thần của sự thanh khiết, cho đến trú ngụ nơi sao Thái Âm. Từ khi bà về tới thì tinh cầu này trở nên gọn ghẽ, sáng sủa và rất sạch.Thái Âm tinh trong khoa Tử Vi tượng trưng cho thanh khiết, sáng đẹp và ưa sạch sẽ.

Đát Kỷ, nữ yêu chủ chốt của nhiều biến cố, số phận ra sao?

Xuất thân là con hồ ly hầu hạ Cửu Thiên Huyền Nữ qua danh nghĩa ái nữ của một đại thần nên lọt vào cung đình, dùng tửu sắc mê hoặc Trụ Vương. Đát Kỷ gây nhiều tai hoạ, bị Khương Tử Nha xử tử hình. Thái Bạch Kim Tinh cho bắt vong hồn Đát Kỷ về phong làm thần dục vọng, ác liệt, hoang đàng để cai quản sao Tham Lang. Tinh cầu này đầy chó sói hung dữ không thần nào trị nổi chúng. Nhưng lúc Đát Kỷ tới nơi thì chúng reo mừng. Trong Tử Vi đẩu số, sao Tham Lang mang tính chất điếm đàng tửu sắc, ưa vung phí ăn chơi, tượng trưng người đàn bà phá hoại chồng con, vô tài, bất đức.

Khương Tử Nha ngoài bảy mươi tuổi mới lấy người con gái lỡ thì năm ấy cũng đã hơn năm mươi tuổi tên Mã Thiên Kim. Kể từ ngày chung sống gia cảnh cực thanh bần, nhiều bữa không có cơm ăn. Mã Thiên Kim là người đàn bà thô tục, lăng loàn, vụng về, chỉ vì nhờ chút tiền duyên nên lấy được Khương Thượng. Sau mười mấy năm, nghèo quá chịu không nổi, Mã Thiên Kim bỏ Khương Thượng. Lã Vọng bấm tay tính số biết lúc con vợ lăng loàn thô tục ra đi chính là lúc vận bĩ của ông cũng hết và Khương Thượng một sớm một chiều trở thành quân sư của Văn Vương.

Nghe tin, Mã Thiên Kim vừa tiếc vừa hối hận, thắt cổ tự ải. Lã Vọng nghĩ tình cũ nghĩa xưa, cho người làm tang ma tống táng, hồn phách Mã Thiên Kim được Thái Bạch Kim Tinh dùng làm nữ thần coi các việc thị phi, nỏ mồm quai mỏ cấp cho nhà ở nơi sao Cự Môn.

Trong đám trung thần bên cạnh Trụ Vương còn có Văn Thái Sư làm tể tướng và đại nguyên suý của Ân triều. Quân nhà Ân bị Chu quân đánh thua, Văn Thái Sư chết tại trận tiền. Vong hồn lên trời được Thái Bạch Kim Tinh cho cai quản sao Thiên Tướng.

Bất luận ai, theo lý ra phải sau khi chết mới được làm thần, chỉ duy Lý nguyên suý đại tướng của nhà Chu là Thái Bạch Kim Tinh theo lệnh Ngọc Hoàng, xuống mời về làm thần ngay lúc ông còn sống. Nơi trị nhậm của Lý nguyên suý là Thiên Lương tinh.

Hoàng Phi Hổ uất ức vụ vua Trụ làm nhục vợ mình gây ra cái chết oan uổng cho Giả phu nhân nên nổi lên đem binh mã đánh lại Trụ vương về rồi đầu hàng Vũ Vương. Ông đánh trận rất hăng thu được nhiều thắng lợi lớn. Cuối cùng Hoàng Phi Hổ chết thảm trong trận Thằng Trì. Thái Bạch Kim Tinh đón vong hồn Phi Hổ về cai quản sao Thất Sát và phong làm thần chiến tranh chuyên coi việc sát phạt.

Sau chót là Trụ Vương vì mê Đát Kỷ, hãm hại trung thần bị Vũ Vương khởi binh chinh phạt. Vũ Vương tấn công vào tận cung điện Trụ Vương. Hết đường chạy, Trụ Vương leo lên lầu cao nổi lửa đốt hết và chết trong đám cháy. Trụ Vương chết rồi, Thái Bạch Kim Tinh cho mang vong hồn về sao Phá Quân, phong làm thần phá hoại.

Tổng kết lại:

  1. Sao Tử Vi là Bá Ấp, thần của khí chất tôn quí.
  2. Sao Thiên Cơ là Khương Thượng, thần của trí tuệ, tinh thần.
  3. Sao Thái Dương là Tỉ Can, thần của quang minh, bác ái.
  4. Sao Vũ Khúc là Vũ Vương, thần của vũ dũng đại phú.
  5. Sao Thiên Đồng là Văn Vương, thần của dung hoà, ôn thuận.
  6. Sao Liêm Trinh là Phí Trọng, thần của tàn ác, lươn lẹo.
  7. Sao Thiên Phủ là Khương hoàng hậu, thần của tài năng, từ bi.
  8. Sao Thái Âm là Giả phu nhân, thần của tinh khiết, trinh tháo và sạch sẽ.
  9. Sao Tham Lang là Đát Kỷ, thần của dục vọng, vật chất.
  10. Sao Cự Môn là Mã Thiên Kim, thần của thị phi, nghi hoặc.
  11. Sao Thiên Tướng là Văn Thái Sư, thần của từ ái, trung trinh.
  12. Sao Thiên Lương là Lý Thiên Vương, thần cai quản, tổ chức, xếp đặt.
  13. Sao Thất Sát là Hoàng Phi Hổ, thần của uy nghiêm, quyết liệt.
  14. Sao Phá Quân là Trụ Vương, thần của phá hoại, tiêu hao.

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Truyền thuyết dân gian về 14 chính tinh trong khoa Tử Vi

Quý Tỵ mệnh gì –

Người sinh 1953, Quý Tỵ, có Ngũ hành năm sinh là trường Lưu Thuỷ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 2, sao Nhị Hắc, Tây tứ mệnh (Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu Đỏ, Hồng, Tím để đ
Quý Tỵ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý Tỵ mệnh gì –

21 nốt ruồi cực may mắn, 'hóa hung thành cát' trên cơ thể phụ nữ

Đây đều là những vị trí nốt ruồi cực tốt, không chỉ đem lại vận đỏ cho người sở hữu chúng mà còn phù hộ họ tai qua nạn khỏi, luôn có quý nhân phù trợ khi gặp nạn.
21 nốt ruồi cực may mắn,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi trên đỉnh đầu

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu

2. Nốt ruồi mọc trong lông mày

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-1

3. Nốt ruồi ở giữa trán

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-2

4. Nốt ruồi ở huyệt Thái Dương

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-3

5. Nốt ruồi ở tai

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-4

6. Nốt ruồi ở gò má

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-5

7. Nốt ruồi ở môi trên

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-6

8. Nốt ruồi ở môi dưới

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-7

9. Nốt ruồi ở gần cằm

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-8

10. Nốt ruồi ở sau gáy 

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-9

11. Nốt ruồi ở cổ bên phải

21-not-ruoi-cuc-may-man-hoa-hung-thanh-cat-tren-co-the-phu-nu-10

Xem tiếp trang sau

Alexandra V (theo F.C


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 21 nốt ruồi cực may mắn, 'hóa hung thành cát' trên cơ thể phụ nữ

Cách đặt tên liên quan đến số phận –

Bạn có thích tên và chữ cái đầu của tên mình? Hầu hết mọi người đều có và đôi khi những cái tên này còn ảnh hưởng đến quyết định của mỗi người. Chẳng hạn, người tên là Jack thì sẽ có xu hướng chuyển đến sống ở Jacksonville và cưới Jackie. Trong khi n

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có thích tên và chữ cái đầu của tên mình? Hầu hết mọi người đều có và đôi khi những cái tên này còn ảnh hưởng đến quyết định của mỗi người.

Thú-vị-cách-đặt-tên-con-độc-đáo-của-người-Mỹ-1

Chẳng hạn, người tên là Jack thì sẽ có xu hướng chuyển đến sống ở Jacksonville và cưới Jackie. Trong khi những ai tên Philip thì sẽ có khả năng đến Philadelphia sống và cưới cô tên là Phyllis. Các nhà khoa học gọi hiện tượng này là “hiệu ứng cái tên”.
Tuy nhiên, nếu bạn thích tên của mình quá, bạn có thể gặp rắc rối.

“Chúng tôi tìm thấy việc thích tên mình quá có thể ngấm ngầm hủy hoại thành công đối với những người mà chữ cái đầu của tên liên quan tới sự tiêu cực”, nhà nghiên cứu đứng đầu Leif Nelson tại Đại học California, Mỹ, cho biết.

Nhóm đã rút ra kết luận sau khi kiểm tra học vấn của các sinh viên MBA tại một trường đại học Mỹ. Các chữ cái A, B, C, D thường được dùng để chỉ trình độ học vấn từ cao xuống thấp. Nhóm tìm thấy những học sinh có tên bắt đầu bằng chữ C, hoặc D, thì có điểm trung bình thấp hơn những học sinh có tên bắt đầu bằng A, hoặc B. Tuy nhiên, điều thú vị là những sinh viên có tên bắt đầu bằng A, B, cũng không học tốt hơn những người khác mà tên của họ không thuộc nhóm dùng để chỉ kết quả học tập (I, F, G, H…).
“Vì vậy có tên liên quan tới kết quả tốt đẹp thì cũng không giúp bạn thành công hơn”, nhóm kết luận.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách đặt tên liên quan đến số phận –

Quẻ Quan Âm: Mai Khai Nhị Độ, hoa mai nở hai lần

Quẻ Quan Âm thứ 69 Mai Khai Nhị Độ đoán rằng mũi tên bắn lên không trung chưa hẳn không có mục tiêu, hoa mai khi mùa xuân đến lại sẽ nở bừng rực rỡ.
Quẻ Quan Âm: Mai Khai Nhị Độ, hoa mai nở hai lần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 69 được xây dựng trên điển cố: Mai khai nhị độ hay Mai nở hai lần.

Quẻ trung bình thuộc cung Mão. Đây là tượng chờ thời điểm chín mùi. Giống như khi khí xuân lặng lẽ đến gằng, hoa mai sẽ tự mà bừng nở.

Nhất tiễn xạ không, đương không bất không, đãi đẳng xuân lai, thái tại kỳ trung.

Điển cố quẻ Quan Âm: Mai Khai Nhị Độ

Đời vua Đường Túc Tông, có một Huyện lệnh tên là Mai Bá Cao, là vị quan thanh liêm chính trực. Khi Lư Khỏi nắm quyền, đã tin dùng kẻ gian tà, lại kết giao bè đảng. Khi Lư Khởi được thăng chức, các quan viên khác đều nhân cơ hội để nịnh hót, nhưng Mai Bá Cao lại vạch tội tố cáo Lư Khởi. Sau khi Mai Bá Cao đến kinh thành, gặp đúng lễ mừng thọ Lư Khởi, Mai Bá Cao hết lời mắng Lư Khởi trong bữa tiệc. Lư Khởi ôm hận trong lòng, vu cáo cho Mai Bá Cao câu kết với giặc Thát Đát mưu phản. Hoàng đế rất phẫn nộ, ra lệnh giết cả nhà Mai Bá Cao. Con trai của Mai Bá Cao là Mai Lương Ngọc may mắn thoát được kiếp nạn này.

Trong lúc nguy cấp, Mai Lương Ngọc đã trốn tránh khắp nơi, đói ngất bên ngoài một ngôi chùa, được hòa thượng trong chùa giữ lại, từ đó đổi tên thành Mục Tùng, ờ lại trong chùa. Vị hòa thượng đó tên là Trần Nhật Đông, là anh trai của Binh bộ Thượng thư Trần Nhật Thăng của triều trước. Trần Nhật Thăng rất kính trọng anh trai, cứ ngày mười lăm hàng tháng đều đến chùa thăm anh. Hôm đó, Trần Nhật Thăng lại đến chùa, thấy Mục Tùng lanh lợi đáng yêu, bèn yêu cầu Mục Tùng đến nhà mình trông hoa. Vì thế, Mục Tùng theo Trần Nhật Thăng đến phủ họ Trần, lại lấy tên là Hỷ Đồng, hàng ngày quét dọn và trồng hoa trong vườn. Kỳ thực Trần Nhật Thăng là bạn tốt xưa kia của Mai Bá Cao.

Hoa viên nhà họ Trần trồng rất nhiều loại hoa, vào lúc hoa mai nở rộ, Trần Nhật Thăng muốn mượn hoa mai để tế Mai Bá Cao. Nào ngờ tối hôm đó, một trận mưa tuyết lớn đổ về, khiến hoa mai trong vườn rụng hết. Trần Nhật Thăng trong lòng buồn phiền, bỗng chốc không còn mong muốn gì nữa, muốn bỏ nhà đi tu, mọi người hết sức khuyên giải. Con gái của Trần Nhật Thăng là Trần Hạnh Nguyên cũng khuyên cha không nên xuất gia, lại cầu trời xin hãy cho hoa mai nờthêm một lần nữa.

Mục Đồng tận mắt nhìn thấy tất cả, trong lòng rất đau buồn. Nhân lúc vắng người, bèn đến bên bàn thờ cha mình do Trần Nhật Thăng lập ra, quỳ xuống, khấn rằng: cầu xin ông trời hãy cho hoa mai nở lại, một là hiển ứng thành toàn, tránh cho người nhà họ Trần khỏi ly tán, hai là hiển ứng cho linh hồn trung nghĩa của cha. Lại viết một bài thơ lên tường:

Thốc thốc mơi hoa số trượng cao, Khấu càu phong lộ há thiên tào.
*
Tợc gia hoa mộc thành hôi thổ, Nhị thứ hoa mơi vạn cổ tao.

– (Khóm khóm hoa mai cao mấy sào, cầu xin mưa móc tự trời cao.
Họ hoa ngày trước thành tro bụi, Mai nở hai lần thực hiếm sao.)
Nào ngờ đến sáng sớm hôm sau, hoa mai khắp vườn lại đã nở tưng bừng.

Trần Nhật Thăng nghe người nhà bấm báo, vội vàng đến hoa viên, nhìn thấy khắp vườn hoa mai nở rộ, thì nước mắt tràn trề, cảm tạ trời cao có mắt, lại thấy có một bài thơ trên tường, rất ý vị; người nhà nhặt được một tấm bài vị, cầm lên xem, đó là bài vị tế Mai Bá Cao, lạc khoản đề là “Mai Lương Ngọc”. Qua một hồi hỏi han, mới biết anh chàng Hỷ Đồng này chính là Mai Lương Ngọc.

Con gái của Trần Nhật Thăng là Trần Hạnh Nguyên từ nhỏ đã định ước thành thân với Mai Lương Ngọc, Trần Nhật Thăng vội gọi con gái và Mai Lương Ngọc đến nhận nhau, lại nól chuyện đính ước năm nọ nói với hai người. Từ đấy, Mai Lương Ngọc ờ lại nhà họ Trần, chăm chỉ học hành, sau đó tham gia kỳ thi Điện, thi đỗ Trạng nguyên.

Tích truyện này có nguồn gốc từ vở kịch truyền thống ”Nhị độ mai”, còn vở kịch này lại lấy đề tài từ tiểu thuyết cổ điển cùng tên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Mai Khai Nhị Độ, hoa mai nở hai lần

Cấm kỵ phong thủy trang trí phòng cưới

Phòng cưới hợp phong thủy thì vợ chồng sau mới hạnh phúc, hòa hợp.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kết hôn là việc trọng đại của cuộc đời, do vậy khi trang trí phòng cưới cùng cần trang trí đẹp một chút, có không khí một chút, như vậy cuộc sống vợ chồng sau này mới hòa hợp, hạnh phúc. Nhìn từ góc độ phong thủy, khi trang trí phòng cưới có rất nhiều cấm kỵ mà nhiều người mắc phải. Sau đây là một số lời khuyên hữu ích.

1. Không nên đặt hoa cỏ, cây cảnh và bể cá trong phòng cưới

 cam ky phong thuy trang tri phong cuoi - 1

Bể cá với tính Thủy quá mạnh sẽ khiến ngọn lửa tình yêu của vợ chồng mới bị lụi tàn.

Những vật có tính Thủy quá mạnh như hoa cỏ, cây cảnh hay bể cá tốt nhất không nên đặt trong phòng ngủ của đôi vợ chồng trẻ, nếu không sẽ dễ khiến cho ngọn lửa tình yêu của hai vợ chồng bị nước khiến cho lụi tàn.

2. Không nên sơn phòng cưới ngay trước khi vào ở

Sơn chứa một lượng đáng kể fooc-man-đê-hit, một chất có thể gây ung thư. Chúng sẽ gây ảnh hưởng đến sức khỏe của hai bạn, thậm chí gây hại đến thế hệ sau. Trước khi quyết định vào ở nên sơn phòng trước một thời gian để lượng chất độc hại bay đi. Hiện nay một số công ty cũng cho ra đời loại sơn dành riêng cho phòng cưới, an toàn hơn với sức khỏe những cặp vợ chồng son.

3. Dưới giường không nên chất đồ lung tung

 cam ky phong thuy trang tri phong cuoi - 2

Đồ đạc chất dưới gầm giường dễ ảnh hưởng đến khí trường của căn phòng, khiến người ngủ dễ gặp ác mộng.

Dưới giường thường là nơi u ám không thoáng khí. Nếu đặt đồ linh tinh vào, dễ ảnh hưởng đến khí trường trong phòng, khiến người trong phòng dễ gặp ác mộng, ngủ không sâu. Ngoài ra, đồ đặt dưới gầm giường dễ mốc và sản sinh vi khuẩn, khi cô dâu mới dọn dẹp cũng rất khó khăn.

4. Không đặt quá nhiều đồ điện trong phòng

Phòng cưới tốt nhất không nên đặt quá nhiều đồ điện, một chiếc TV là đủ rồi. Phòng đặt quá nhiều đồ điện, trong phong thủy gọi là “hỏa trạch”, ảnh hưởng đến sức khỏe người trong phòng mà còn dễ gây xích mích giữa hai vợ chồng.

5. Tivi không nên chiếu thẳng vào chân giường

Bức xạ điện từ ở TV có hại cho sức khỏe con người, mà chân lại là trái tim thứ hai của con người. Nếu như TV đang ở chế độ chờ mà chiếu thẳng vào chân giường, tia bức xạ rất dễ ảnh hưởng đến hoạt động của kinh lạc và tuần hoàn máu, từ đó sinh nhiều bệnh tật.

6. Gương không nên đặt đối diện giường

Cấm kỵ này tin chắc rằng có nhiều người biết, nhưng lại không có nhiều người biết lý do tại sao. Gương đặt đầu giường thường rất dễ gây ảo giác hoặc ám ảnh nếu như bất giác tỉnh dậy đêm khuya, điều này khiến cho tâm trạng của cả hai bất an và sợ hãi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cấm kỵ phong thủy trang trí phòng cưới

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý

Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được.

– Năm sinh dương lịch: 1972, 2032, 2092

– Năm sinh âm lịch: Nhâm Tý

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

ban-tho-than-tai-tuoi-nham-ty

– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Nhâm tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.

– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Nhâm tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Nam (Diên Niên); Đông Nam (Sinh Khí); Bắc (Phục Vị); Đông (Thiên Y). Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y).

– Gia chủ tuổi Nhâm tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây (Họa Hại);Đông Bắc (Ngũ Quỷ); Tây Bắc (Lục Sát); Tây Nam (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Nhâm tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là:Nam (Họa Hại);Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh).

*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy

– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

 

– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ

 

– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.

– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.

– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.

– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.

– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.

– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.

– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Nhâm tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.

– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Nhâm Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

Mơ thấy hoa đào thì tình yêu tốt đẹp, mơ thấy hoa hồng thì cẩn thận tình địch xuất hiện.
Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi giấc mơ mang một ý nghĩa khác nhau. Ẩn ý trong giấc mơ về các loài hoa cũng khác nhau. Mơ thấy hoa đào thì tình yêu tốt đẹp, mơ thấy hoa hồng thì cẩn thận tình địch xuất hiện.


Giai ma giac mo mo thay hoa no hinh anh
Mơ thấy hoa hồng là tình địch sắp xuất hiện

 
  Mơ thấy hoa nở là ngụ ý quan hệ bạn bè có khả năng xa rời, người bạn thân của mình có tình yêu bận bịu hẹn hò mà không có thời gian dành cho bạn.

 
Gặp hoa đào nở rộ là ngụ ý toàn thể vận trình một bước tiến một bước lui. Gặp chuyện tốt lành thì có tiềm ẩn sự việc khiến bạn thất vọng. Lúc này bạn tốt nhất nên giữ bình tĩnh không nên quá lơ là mà gặp khó khăn bất ngờ.

 
Mơ thấy một vùng đầy hoa là ngụ ý tình cảm anh em hòa thuận, tốt đẹp, thời gian nửa năm sẽ không cãi cọ, mâu thuẫn.

 
Mơ thấy hoa cúc nở là ngụ ý tiền tài sắp nở rộ.


Giai ma giac mo mo thay hoa no hinh anh 2
Mơ thấy hoa đào là dự báo tình yêu tốt đẹp
Mơ thấy hoa đào bị gió thổi bay là ngụ ý tình yêu tốt đẹp, có thể kỳ vọng vào các buổi hẹn hò hạnh phúc. Bạn có thể đi xem phim, đi hát hay tham gia liveshow.

 
Mơ thấy hoa hướng dương nở rộ và đung đưa rất đẹp là bạn sắp được nửa kia chú ý.

 
Mơ thấy hoa trà nở là chuyện tình yêu phát triển, tâm lý hai người rất gần gũi phải ngày nào cũng gặp nhau khiến người khác lo lắng.

 
Mơ thấy hoa hồng nở thì cảnh giác, tình địch sắp xuất hiện.

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ mơ thấy hoa nở

Các lễ hội diễn ra trong ngày 26 tháng 6 âm lịch - Lễ Kì Yên

Lễ hội Kì Yên được tổ chức vào ngày 26 tháng 6 hàng năm tại Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội diễn ra trong ngày 26 tháng 6 âm lịch - Lễ Kì Yên

Các lễ hội diễn ra trong ngày 26 tháng 6 âm lịch - Lễ Kì Yên

Lễ Kì Yên (Lễ Vía Thần)

Thời gian: tổ chức vào ngày 26 tháng 6 âm lịch.

Địa điểm: Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Nguyễn Hữu Cảnh - một nhà hoạt động cách mạng Việt Nam.

Nội dung: trong lễ Kì Yên có cuộc đua thuyền, lễ xô giàn thí thực (tổ chức vào giờ Ngọ) để mọi người cùng tranh lấy đồ cúng tượng trưng cho sự ban phát của Thần linh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội diễn ra trong ngày 26 tháng 6 âm lịch - Lễ Kì Yên

Cách sắp xếp chuẩn phong thủy nhà bếp

Sắp xếp phong thủy nhà bếp không chỉ giúp ngôi nhà thêm gọn gàng, có tính thẩm mĩ mà còn giúp mang lại sức khỏe và sự thịnh vượng cho gia chủ.
Cách sắp xếp chuẩn phong thủy nhà bếp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sắp xếp phong thủy nhà bếp không chỉ giúp ngôi nhà thêm gọn gàng, có tính thẩm mĩ mà còn giúp mang lại sức khỏe và sự thịnh vượng cho gia chủ.

  Theo quan điểm phong thủy cổ xưa, bếp chính là trái tim của ngôi nhà. Nó đóng một vai trò quan trọng góp phần tạo nên sự thịnh vượng và nguồn tài lộc cho gia đình. Do đó, việc sắp xếp, bày biện, trang trí bếp chuẩn theo phong thủy là điều mà gia chủ nào cũng cần cân nhắc trước khi về nhà mới.
 
Tránh đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh
 
Nhà vệ sinh là nơi có nhiều vi khuẩn gây hại, rất dễ lây bệnh cho mọi người. Hơn nữa, theo quan điểm phong thủy, nơi này chứa nhiều khí xấu, tích tụ nguồn năng lượng không tích cực. Do đó, cần bố trí bếp tránh xa hoặc không được đối diện với cửa nhà vệ sinh.

Không đặt bếp hướng sát so với nhà
 
Hỏa môn của bếp cần đặt ở hướng lành, vừa trấn áp được hung khí lại hút được khí lành, giúp tài lộc của gia chủ có nguồn chảy vào hưng vượng. Trong phong thủy nhà bếp, nếu đặt bếp sát so với nhà sẽ khiến người trong nhà dễ mắc chứng suy thận, mắt kém, bị bệnh huyết áp.
 
Cach sap xep chuan phong thuy nha bep hinh anh
Ảnh minh họa
  Lưu ý: Nếu nhà ở hướng Đông thì sát ở cung Thân, nhà hướng Tây sát ở cung Tỵ, hướng nam sát ở cung Hợi, hướng Bắc sát ở cung Thìn…
 
Đặt bếp xa và không đối diện với phòng ngủ
 
Bếp nấu nướng sẽ sinh nhiệt và các khói dầu mỡ độc hại, không tốt cho sức khỏe người trong ngôi nhà. Nếu bố trí bếp ở gần hoặc đối diện phòng ngủ là phong thủy nhà bếp xấu, sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ và sức khỏe về lâu dài. 
 
Cach sap xep chuan phong thuy nha bep hinh anh 2
Ảnh minh họa

Tránh đặt bếp dưới xà ngang

Xà ngang áp phía trên sẽ gây hao tài tốn của cho chủ nhân ngôi nhà. Do vậy, không nên đặt bếp nấu nướng ngay dưới xà ngang, vừa tránh được cảm giác bức bối lại bảo toàn được tiền tài.

Ánh sáng và màu sắc trong không gian bếp phải hài hòa
 
Không gian bếp nên để ánh sáng và màu sắc hài hòa, tránh bị ẩm thấp, tối tăm hoặc bí bách. Phía dưới bếp không nên để đọng nước. Vì thủy hỏa tương khắc, khiến gia chủ dễ mắc các bệnh về khí huyết, thần kinh, rối loạn tâm lí và không tốt cho phụ nữ mang thai. 
 
ST
 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách sắp xếp chuẩn phong thủy nhà bếp

Trâu - con vật mang lại tài lộc dồi dào theo phong thủy

Trong phong thủy, biểu tượng con trâu được sử dụng khá phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau như hội họa, điêu khắc… Khi lựa chọn vật phẩm này để bài trí, bạn cần chú ý đến chất liệu tạo tác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Chất liệu

Trâu vốn được coi là con vật mang nhiều đức tính như hiền lành, bền bỉ, mạnh mẽ nên nó là biểu tượng của sự an lành, no đủ. Trong sơ đồ Bát Quái, trâu là quẻ Khôn, chủ về đất đai (Thổ), tức là sự thịnh vượng, bền vững.

Trong phong thủy, biểu tượng con trâu được sử dụng khá phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau như hội họa, điêu khắc… Khi lựa chọn vật phẩm này để bài trí, bạn cần chú ý đến chất liệu tạo tác.

Trâu bằng bột đá mạ vàng non mang Kim khí rất tốt cho tài lộc, có lợi cho các công việc kinh doanh, bất động sản hoặc đầu tư dài hạn. Ngoài ra, theo Blog Phong Thủy, trâu còn có thể dùng để chế hóa, trấn yểm các hung tinh như Nhị Hắc, Ngũ Hoàng, biến hung thành cát.

Nếu như có điều kiện tài chính thì bạn hãy bài trí 1 chú trâu bằng vàng bởi toàn thân linh vật có ánh sáng màu kim sẽ giúp sự nghiệp tiến nhanh chóng và tài lộc dồi dào.

Có thể sử dụng trâu bằng đồng hoặc đất nung, bột đá màu nhưng phải kết hợp với phương hướng bài trí cụ thể để phát huy tác dụng.

Tránh sử dụng biểu tượng trâu (thuộc hành Thổ) bằng gỗ (thuộc hành Mộc) vì theo ngũ hành Mộc khắc Thổ, khiến trâu không thể phát huy được linh khí. Ngoài ra, bạn nên chú ý đến phong thái của con linh vật này.

Còn với trâu chế tác bằng ngọc phỉ thúy rất được các vua quan phong kiến của TQ sử dụng, vừa có tác dụng phong thủy vừa để thể hiện và khẳng định sự giàu sang, tầng lớp của mình

2. Cách bài trí

Đặt trâu ở hướng Bắc hoặc Đông Bắc là thích hợp nhất. Tránh bài trí trâu ở hướng Nam hoặc Tây Nam.

Nên đặt trâu ở phòng khách, trên bàn làm việc, nơi các vượng tinh như Lục Bạch, Bát Bạch phối chiếu. Tránh đặt nơi ô uế, nhà vệ sinh, đặt trên bàn học, trên bàn thờ, nơi hung tinh Nhị Hắc, Tam Bích chiếu đến.

Biểu tượng này có tác dụng hỗ trợ người tuổi Tỵ, Dậu, Hợi, Tý, Sửu; người tuổi Mùi không nên sử dụng vì Sửu - Mùi xung khắc, con vật không phát huy được linh khí.

Ngoài ra bạn có thể :

- Dùng tranh vẽ con trâu, hoặc đặt biểu tượng con trâu làm bằng đất sét, pha lê, hay vật liệu thuộc hành Thổ khác ở khu vực Sửu trong nhà.

- Bạn có thể kích hoạt khu vực Sửu (hướng Bắc Đông Bắc) với các vật thể thuộc hành Thổ, vì Thổ là hành tố cơ bản của Sửu. Cũng có thể lắp đặt đèn chiếu sáng ở đây.

- Tuổi Sửu còn có 2 khu vực khác rất tốt, đó là khu vực Tỵ và Dậu. Hướng của Tỵ là Nam Đông Nam và hướng của Dậu là Tây. Hãy kích hoạt năng lượng chủ về tình yêu ở 2 hướng này.

(Theo Archi)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trâu - con vật mang lại tài lộc dồi dào theo phong thủy

Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Khác với những tuổi Mão hay tuổi Dần, người tuổi Tỵ thường gặp trở ngại về đường tình duyên trong năm tuổi của mình. Nếu có đi xa trong năm này, họ nên đi cùng
Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

với những người thân.

Nhìn bề ngoài, nữ giới tuổi Tỵ có số đào hoa rất cao. Nhưng trên thực tế, họ lại thường xuyên rơi vào tình cảnh đơn lẻ. Họ hay nhận được sự giúp đỡ của đồng nghiệp khác giới trong công việc. Những người này lại có tình cảm với họ. Lời khuyên cho những người phụ nữ tuổi Tỵ là nên mở rộng tấm lòng đón nhận tình cảm của người xung quanh. Nếu không, họ sẽ mất đi nhiều cơ hội để có được tình yêu đẹp.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Sức hấp dẫn của người tuổi Tỵ thường ít thể hiện qua trang phục hơn là ánh mắt và lời nói. Ánh mắt chăm chú, thân thiện của họ trong cuộc giao tiếp tạo ấn tượng mạnh cho người khác giới.

Theo phong thủy, những vật dụng sau đây đem lại cho người tuổi Tỵ may mắn và tình yêu: hoa lan lưỡi rồng, quả nhót, đá rubi.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)

 
 


 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá vận đào hoa của người tuổi Tỵ

Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi là những đặc điểm dễ nhận thấy của các cô nàng tuổi Dậu. Yêu một người con gái tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được
Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi là những đặc điểm dễ nhận thấy của các cô nàng tuổi Dậu. Yêu con gái tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được "phiêu lưu".


► Xem bói tình duyên theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Bat mi ly do nen chon con gai tuoi Dau lam vo hinh anh 2
Ảnh minh họa

Cô nàng tuổi Dậu luôn dũng cảm tiến về phía trước

  Con gái tuổi Dậu trời sinh bản tính cần cù, kiên trì không biết mệt mỏi. Bởi vậy, những cô nàng này luôn có chí tiến thủ, dám dũng cảm xông lên phía trước. Yêu một cô nàng tuổi Dậu, bạn sẽ luôn được phiêu lưu, "đi tắt đón đầu" mọi xu thế.  

Con gái tuổi Dậu cực kỳ ngăn nắp và cẩn thận

  Không chỉ thế, các cô gái tuổi Dậu luôn thân thiết ôn hòa, sống ngăn nắp đâu vào đấy, biểu hiện một đức tính cực kỳ cẩn thận và rất dè dặt. Thích chính xác và ham mê điều tra nghiên cứu. Giàu lòng thương người và đức tính từ thiện mạnh mẽ. Có cá tính ngang ngạnh, rất ghét sự ỷ lại vào người khác.  

Yêu nàng tuổi Dậu, gia đình sẽ luôn gắn bó bền chặt

  Yêu một cô nàng tuổi Dậu thường được "lời" to vì họ rất trân trọng và giữ gìn tình yêu. Đặc biệt trong gia đạo vợ chồng rất gắn bó thân thiết với nhau. Khi họ ăn ở với nhau đều hy vọng được phát triển. Nhìn chung người tuổi Dậu về quan hệ hôn nhân - tình yêu họ luôn luôn ở thế có lợi.
Bat mi ly do nen chon con gai tuoi Dau lam vo hinh anh 2
Ảnh minh họa

 

Phụ nữ tuổi Dậu có tài ăn nói và rất thu hút người khác giới

  Phụ nữ tuổi Dậu có khả năng thu hút người khác giới bởi vẻ ngoài xinh đep, tài ăn nói khéo léo. Phụ nữ tuổi Dậu cũng là người nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn và có dáng dấp, tính khí nam nhi. Các cô gái tuổi Dậu hay chủ động đi tìm tình yêu khi cần thiết và cũng rất trầm tĩnh ít lời khi hoàn cảnh không cho phép.   Thông thường cũng có khá nhiều người tuổi Đinh Dậu hay Quý Dậu thất bại trong tình yêu hoặc tình duyên đến quá muộn màng. Trong gia đình các bà chủ tuổi Dậu là người tỏ ra thích hoạt động hướng ngoại, nhưng trong thực tế họ cũng rất đảm đang với công việc gia đình nội chợ. Họ không hay trách mắng chồng con và ngược lại họ cũng không chịu nổi ai đó trách mắng mình. Họ yêu cầu một sự bình đẳng tuyệt đối trong tình yêu và hôn nhân.   Con gái tuổi Dậu kết duyên với người tuổi Sửu, tuổi Tỵ, tuổi Thìn thường là những cặp hôn nhân hạnh phúc mỹ mãn. Ngoài ra nếu kết hôn với các tuổi Tý, tuổi Hợi thì phần đông diễn ra có nhiều thuận lợi suôn sẻ. Còn nếu kết hôn với các tuổi khác như Mão, Thìn, Dậu, Thân... về cơ bản không hòa hợp, có nhiều trầm luân, khổ ải và không hạnh phúc.
ST.
Lấy vợ tuổi Heo, tha hồ mà giữ Chọn vợ phải chọn con gái tuổi Thân mới chuẩn Yêu người cùng tuổi, tại sao lại không nhỉ?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí lý do nên chọn con gái tuổi Dậu làm vợ

Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo tháng sinh

Sinh tháng Giêng: Người tuổi Dậu sinh vào tiết đầu xuân thường có sức khỏe tốt, giỏi giao tiếp, giỏi tính toán mọi việc, đời sống vật chất đầy đủ.
Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo tháng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh tháng Giêng: Người tuổi Dậu sinh vào tiết đầu xuân thường có sức khỏe tốt, giỏi giao tiếp, giỏi tính toán mọi việc, đời sống vật chất đầy đủ.

Sinh tháng 2: Sinh vào tiết Kinh Trập là người năng động, nhân nghĩa, cuộc đời thuận lợi; thành công trên con đường kinh doanh.

Sinh tháng 3: Sinh vào tiết Thanh Minh, là người rất thông minh, nhạy bén, có tài ứng biến linh hoạt. Người này được hưởng phúc tổ tiên, thành danh sớm, cuộc sống sung túc, con cháu đông vui.

(Hình minh họa)

 

Sinh tháng 4: Sinh vào tiết Lập Hạ, là người chí khí, có tài văn chương và năng lực chỉ huy. Do có tính kiêu ngạo nên không được lòng người, trong đời hay gặp nguy hiểm, hậu vận lành ít, dữ nhiều.

Sinh tháng 5: Là người hòa đồng, tính tình điềm đạm; tuy cuộc sống vật chất đầy đủ nhưng công việc không được như ý, hậu vận vất vả. Người này nếu chỉ nhờ vào phúc tổ tiên mà không tự mình vươn lên thì chỉ có được sự thành công ngắn ngủi.

Sinh tháng 6: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Tiểu Thử thường ít may mắn, mọi việc không thuận lợi, buồn nhiều, vui ít; nếu biết giữ mình sẽ tránh được những tai họa trong đời.

Sinh tháng 7: Sinh vào tiết Lập Thu, là người thông minh, nhạy bén, có ý chí, quyết đoán. Nếu biết cố gắng vươn lên sẽ có thu nhập cao và trở nên giàu có.

Sinh tháng 8: Là người thông minh, nhanh nhẹn, có ý chí vượt lên khó khăn gian khổ. Cuộc sống thường tốt đẹp, sự nghiệp thành công, danh lợi vẹn toàn.

Sinh tháng 9: Sinh vào tiết Hàn Lộ, là người tự lập, phong lưu, gặp nhiều thuận lợi. Nếu biết tự vươn lên trong cuộc sống thì con đường tài danh sẽ rộng mở, cả đời được vui vẻ, hưởng phúc.

Sinh tháng 10: Người tuổi Dậu sinh vào tiết Lập Đông có tài năng nhưng trong đời gặp nhiều chuyện không vui. Nếu muốn thành công phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác.

Sinh tháng 11: Người sinh vào tiết Đại Tuyết công danh, sự nghiệp không ổn định, số mệnh vất vả, gặp nhiều bất lợi, phải tự thân vận động.

Sinh tháng 12: Sinh vào tiết Tiểu Hàn, thường có tài năng hơn người, tuy vậy lại khó thành công trong sự nghiệp. Số này có lộc nhưng mệnh ngắn, khó được hưởng phúc trọn vẹn.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Dậu theo tháng sinh

Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống, Gieo quẻ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống, tu vi Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống, tu vi Gieo quẻ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống

Trước tiên ta làm quen với hình dáng và đặc điểm nhận dạng của đồng Càn Long thông bảo. Đồng Càn Long thông bảo được đúc bằng đồng, hình tròn và có lỗ vuông ở chính giữa. 1 mặt ghi bốn chữ "Càn Long thông bảo" bằng chữ Hán, mặt còn lại có họa tiết ký hiệu riêng của đồng tiền.

Trong phương pháp gieo quẻ dịch, người xưa đã quy định mặt có chữ "Càn Long thông bảo" là mặt ngửa, mặt còn lại là mặt sấp 

Trước khi bắt đầu gieo quẻ ta cần chuẩn bị sẵn giấy bút và ghi rõ năm tháng ngày giờ gieo quẻ, 1 cái đĩa hoặc 1 tờ giấy sạch để ta gieo 3 đồng xu đó xuống.

Khi gieo quẻ thì lấy 3 đồng tiền đặt trong lòng bàn tay, úp 2 tay lại, để im và suy nghĩ đến việc cần hỏi trong vòng 1 phút để cho từ trường của đồng tiền và từ trường của cơ thể ta liên thông với nhau. hoặc cũng có thể khấn 1 câu đơn giản như sau:

Vd: "con là..........ở tại..............xin thần linh chỉ cho con biết bao giờ thì khu vực con đang sinh sống có mưa"

Mục đích của việc này giúp cho tinh thần ta được tập trung, càng tập trung thì quẻ hiện càng rõ và càng ứng. hơn nữa có câu "trên đầu 3 tấc có quỷ thần". kính thần thì thần tại là vì vậy .

Khi đã tập trung ý niệm xong ta lắc đều 3 đồng xu lên, vừa lắc vừa tập trung ý niệm về việc hỏi, sau đó gieo cả 3 đồng xu xuống đĩa.

Nếu 1 đồng sấp là hào dương 

2 đồng sấp là hào âm 

3 đồng đều sấp là dương động

3 đồng đều ngửa là âm động

Gieo 6 lần như vậy thì thành quẻ

Để thuận tiện cho các bạn chưa biết dịch lý, khi gieo các bạn ghi rõ mặt của từng đồng xu ra. Ví dụ lần thứ nhất gieo được 2 đồng ngửa 1 đồng sấp thì các bạn ghi là “lần 1 N N S” trong đó chữ “N” là ngửa, chữ “S” là sấp. cứ như vậy gieo thành 6 lần.

Lần 1. N N N

Lần 2. N S S

Lần 3. S N N

Lần 4. S S S

Lần 5. N S N

Lần 6. S N N

Gieo xong là có căn cứ để luận giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp gieo quẻ dịch truyền thống - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Đặt tên hay cho con sinh năm Ất Mùi

Việc đặt tên hay cho con luôn chiếm nhiều thời gian và khiến các bố mẹ trăn trở nhiều điều, một vài gợi ý trong bài viết dưới đây sẽ giúp bố mẹ có thể lựa chọn
Đặt tên hay cho con sinh năm Ất Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc đặt tên cho con luôn chiếm nhiều thời gian và khiến các bố mẹ trăn trở nhiều điều, một vài gợi ý trong bài viết dưới đây sẽ giúp bố mẹ có thể lựa chọn cho các bé sinh năm con Dê những cái tên hay và hợp nhất.

Ten hay va y nghia nhat cho be sinh nam At Mui hinh anh
 

Đặt tên cho con trai


An Cơ (cuộc sống êm đềm và vững chắc); Anh Minh (luôn sáng suốt); Anh Tài (chàng trai tài đức và anh dũng); Bá Trúc (vững chãi, thanh tao như cây trúc cây tre); Bảo Định (chàng trai quý giá và luôn kiên định); Cao Minh (học rộng và sáng suốt); Chế Phương (luôn vượt qua những ngăn trở trong cuộc đời); Công Hào (tài trí xuất chúng); Công Lập (công bằng, ngay thẳng); Công Thành (công thành danh toại); Đắc Di (luôn tiến lên trong cuộc sống); Đăng Khánh (Ánh sáng tốt lành); Đức Huy (khiêm tốn, nhún nhường); Gia Hưng (nhà cửa được hưng thịnh); Hoàng Quân (vị minh quân); Hữu Phước (nhiều phúc trong cuộc đời; Đức Tuệ (đức hạnh và trí tuệ); Gia Vinh (gia tộc vinh quang)… Bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Đặt tên hay cho con trai
 

Đặt tên cho con gái

An Bình (luôn bình an); An Nhàn (cuộc sống êm đềm); Bạch Loan (xinh đẹp thanh cao); Bảo Châu (viên ngọc quý); Bảo Lan (loài hoa quý); Bích Hợp (dịu dàng); Cẩm Ly (quý giá); Cát Cát (luôn may mắn); Đài Trang (đài cát và đoan trang); Diễm Châu (viên ngọc sáng); Diệp Vy (cây lá xinh đẹp); Diệu Hạnh (điều kỳ diệu); Gia Linh (điều tốt lành); Hạnh Vi (luôn làm điều hạnh phúc); Hoàng Yến (chim hoàng yến – một loài chim quý); Hồng Hạnh (có phúc lớn và có đức hạnh); Huệ Lâm (nhân ái); Hương Thủy (dòng nước thơm); Huyền Ngọc (viên ngọc diệu kỳ); Khánh Chi (luôn may mắn); Khánh Quỳnh (niềm vui); Kiều Anh (đẹp kiều diễm)…

Bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Bí quyết đặt tên hay cho con gái để cả đời sung sướng
  Năm Ất Mùi sắp tới gần, hi vọng những thiên thần nhí sắp chào đời sẽ luôn mạnh khỏe, hay ăn chóng lớn và luôn vui vẻ, hạnh phúc nhé!

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
Đặt tên tốt để cải thiên đổi vận, thúc đẩy tài lộc Đặt tên con chuẩn phong thủy để có số mệnh tốt như thế nào? Cách đặt tên ở nhà cho bé thật ngộ nghĩnh và may mắn Những lưu ý quan trọng để đặt tên hay cho con gái Muốn đặt tên hay tên đẹp cho con, nhớ ngay 7 điều cấm kị
  Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho con sinh năm Ất Mùi

Trở thành thiện nam tín nữ để hưởng an lạc

Sống trên đời, quan trọng nhất không phải giàu sang mà là hạnh phúc, đẹp đẽ nhất không phải là dung mạo hơn người mà là thiện hơn người. Phật khuyên nên hướng
Trở thành thiện nam tín nữ để hưởng an lạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tới điều lành, trở thành thiện nam tín nữ.


Tro thanh thien nam tin nu de huong an lac hinh anh 2
 
Thiện nam tín nữ không chỉ là người theo Phật, tin Phật mà còn là người tin tưởng vào cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của sự hiền lương, sống theo chuẩn mực nhà Phật. Hiện nay, khi những ranh giới giữa tốt và xấu ngày càng mờ mịt, khi các giá trị đạo đức ngày một suy thoái, hãy nghe lời Phật khuyên, hướng mình tới sự trong sạch.   Một người trong sạch làm nên một xã hội trong sạch, một người là thiện nam tín nữ làm nên một cộng đồng thiện nam tín nữ. Dẫu không theo Phật giáo, thì cũng có thể theo những giá trị chân, thiện, mĩ tốt đẹp dưới đây để hoàn thiện bản thân, sống tốt hơn, bình an hơn.   Thiện nam tín nữ là những người không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ (nói dối), không hai lời, không ác khẩu, không xu nịnh, không tham dục, không oán giận, không thất đức.   Thái độ của Phật tử đối với tà ác nên thế nào?
Ý nghĩa của câu chuyện về 5 vị đạo nhân ở trong một miếu am vào lúc đêm khuya cho chúng ta biết cách mà người tu hành nên đối phó với tà ác

Không sát sinh thì không gây ra nghiệp báo, không trộm cắp thì không mất mát, không tà dâm thì không chuốc oán thù, không nói dối thì không chịu lừa gạt, không hai lời thì không hại người, không ác khẩu thì không chịu khẩu nghiệp, không xu nịnh thì không mắc nạn tiểu nhân, không tham dục thì giữ mình tự tại, không oán giẫn thì tĩnh tâm, không thất đức thì được nghiệp lành.
 
Tro thanh thien nam tin nu de huong an lac hinh anh 2
 
Nhà Phật có nhân quả, con người sống có trả có vay. Làm thiện nam tín nữ không phải để mang tiếng là đệ tử nhà Phật mà là để bản thân được thanh thản, sống vui vẻ, hạnh phúc, bình an. Bản thân mình sống đức hạnh thì tự mình sẽ cảm nhận được và cuộc đời cũng cảm nhận được. Vì thế, từ hôm nay, nếu chưa thiện thì hãy thiện, nếu đã thiện thì thiện hơn và giúp người khác cùng thiện.
  Đừng cho rằng vì khù khờ nên mới thiện lương, người thông minh nhất chính là người sống thiện, người hiểu sự đời nhất là người biết tích phúc đức, người khôn ngoan nhất là người biết hướng mình tới những giá trị tốt đẹp để thanh thản và an lạc. 
 
=> Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
  Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trở thành thiện nam tín nữ để hưởng an lạc

Xem tướng đôi mắt đoán vận khí và tâm lý –

Phụ nữ có phần đuôi mắt hơi cong lên, giống như lúc đang cười là người lạc quan, và rất thủy chung trong tình cảm. Họ thường được mọi người yêu mến. Khi bạn cười, lông mày giãn ra, mắt hơi híp lại, đuôi mắt cong lên, miệng như vầng trăng khuyết, thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ nữ có phần đuôi mắt hơi cong lên, giống như lúc đang cười là người lạc quan, và rất thủy chung trong tình cảm. Họ thường được mọi người yêu mến.

Khi bạn cười, lông mày giãn ra, mắt hơi híp lại, đuôi mắt cong lên, miệng như vầng trăng khuyết, thể hiện vận khí tốt và sắc mặt tươi vui. Chính vì vậy, bạn nên duy trì nụ cười, không những làm tinh thần phấn chấn mà còn tạo ra hình ảnh đẹp trong mắt người đối diện.

e30f1_snsdtiffany

Tiffany, nữ ca sĩ có đôi mắt cười nổi tiếng xứ Hàn

Mắt cười

Phụ nữ có phần đuôi mắt (thượng nhãn) hơi cong lên, giống như lúc đang cười là người lạc quan, làm việc cẩn thận, khoa học và rất thủy chung trong tình cảm. Họ thường được mọi người yêu mến, đặc biệt là nam giới.

Tuy nhiên, nhược điểm ở những phụ nữ này là nhiều tham vọng, dễ thù hận, ghen tuông.

Để đánh giá mức độ tính cách dạng mắt này, bạn nên chú ý kết hợp xem xét cả miệng của họ. Nếu góc miệng hơi cong và nhích lên, nhìn toàn bộ gương mặt như đang tươi cười thì các nhược điểm của họ sẽ giảm hơn.

Nếu đàn ông có dạng mắt này thường là bậc hảo hán. Do đó, trong nghệ thuật tuồng, các nhân vật anh hùng thường được vẽ lông mày và mắt xếch lên như lưỡi kiếm.

Mắt khóc

Phụ nữ có phần đuôi mắt (hạ nhãn) hơi xệ xuống, giống như hình chữ bát, nhìn như đang khóc, là người tốt bụng, tính tình dễ thương, nhiệt tình, biết nắm bắt cơ hội, thường được mọi người yêu mến và giúp đỡ.

Nếu phụ nữ có kiểu mắt này, khi cười mắt không còn vẻ buồn phiền, miệng tươi thường có vận mệnh tốt đẹp.

Tuy nhiên, khi cười nếu góc miệng của họ hơi xệ xuống lại là tướng xấu.

Tốt nhất hãy cố gắng khắc phục bằng cách không nên giữ nét mặt lạnh lùng, tránh để góc miệng xệ xuống.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đôi mắt đoán vận khí và tâm lý –

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Vật phong thủy tăng vượng khí phòng khách

Điểm qua các vật phẩm Phong thủy cùng các đặc điểm của chúng giúp tăng vượng khí trong phòng khách nhà bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Với những đồ vật khác nhau chúng mang những ý nghĩa và năng lượng cũng khác nhau. Hãy thử áp dụng những yếu tố phong thủy dưới đây, có thể chúng sẽ khiến bạn hòan toàn bất ngờ bởi tác dụng to lớn mà chúng đem lại cho không gian sống của bạn.

Tỳ Hưu

Nước: Những thác nước nhân tạo, bể cá thủy sinh, những bức tranh nưócsẽ góp phần làm tăng sinh khí cho ngôi nhà. Những thứ đồ trang trí này nên được đặt ở hướng ng hoặc Đông Nam. Nước sạch sẽ mang lại nguồn năng lượng âm còn nưốc chảy sẽ mang đến năng lượng dương.

Cây cối: Bất cứ loại cây trồng trong nhà nào cũng có tác dụng làm tăng vượng khí tự nhiên, làm giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn. Bạn nên trồng những cây lá kim ở góc phòng để tăng sự lưu thông không khí trong nhà.

Hoa: Hoa cũng có tác dụng làm tăng vượng khí tự nhiên. Những bông hoa sáng màu mang nhiều năng lượng dương trong khi các bông hoa màu nhạt có nhiều năng lượng âm hơn. Hoa chỉ có thể mang lại năng lượng có ích khi chúng còn tươi, bạn nên thay nước hằng ngày và thay thế những bông hoa khác ngay khi hoa cũ bị héo. Hoa lụa cũng có tác dụng khá tốt khi được sử dụng thay thê cho hoa tươi nhưng hoa khô thi không mang lại chút năng lượng hữu ích nào bơi vì chúng thiếu sinh khí.

Than củi: Những tác phẩm nghệ thuật bằng than củi sẽ là rất cần thiết để mang lại sự hài hòa cho căn nhà nếu nhà bạn có nguồn lửa như lò sưởi nướng, bếp ga... đặt ở hướng Tây hoặc Tây Bắc. Bạn cũng có thể cho than củi vào những chiếc bình đất nung và đặt gần nguồn lửa, than củi mang mệnh thổ nên có tác dụng kìm hãm hỏa.

Nến: Sử dụng nến sáp sẽ mang lại cho căn phòng một không khí thân mật, ấm cúng. Những cây nến nên được đặt ỏ hướng Nam, Tây Nam hoặc ng Bắc và khi được đốt cháy sẽ là nguồn cung cấp năng lượng rất tốt.

Chuông gió: Các loại chuông gió được làm bằng gỗ hoặc kim loại sẽ giúp phân tán các luồng khí đi khắp căn nhà và tạo bầu không khí thư thái, dễ chịu, chuông tự reo một cách tự nhiên bạn có thể treo chuông ồ cửa sổ, cửa đi, chúng sẽ tự rung lên khi gặp luồng gió.

Pha lê: Những đồ vật trang trí bằng pha lê lý tưởng trong phong thủy là những quả cầu, những khối pha lê đa diện được treo bằng dây treo. Bạn nên treo chúng ở cửa sổ nơi mà chúng có thể dễ dàng đón nhận ánh sáng và đưa ánh sáng tự nhiên, năng lượng của những tia nắng vào nhà. Mỗi phòng chì nên treo một quả cầu pha lê có thể ỏ hướng Tây, Tây Bắc, Bắc, Nam, hoặc Đông Nam.

Chuông: Kiểu chuông phù hợp nhất trong trang trí theo phong thủy là chiếc chuông tay có kích thưóc nhỏ. Bạn có thể rung chuông bất cứ khi nào cần tìm kiếm cảm giác sông động hơn, bởi tiếng kêu của chuông sẽ giúp kich thích và làm tảng động nguồn năng lượng và khí ứ đọng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phong thủy tăng vượng khí phòng khách

Xem tướng qua mũi –

Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất. Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con. Coi bói qua cái mũi giúp bạn có thêm những dự đoán thú vị. Mũi giữ vai trò rất quan trọng trên kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cái mũi là 1 trong những tướng số quan trọng nhất. Đối với đàn ông mũi biểu tượng về tiền tài còn đối với phụ nữ thì mũi biểu tượng về chuyện chồng con. Coi bói qua cái mũi giúp bạn có thêm những dự đoán thú vị.

Mũi giữ vai trò rất quan trọng trên khuôn mặt con người. Dù cho tai mắt miệng có hài hoà đẹp đẽ đến bao nhiêu mà mũi xấu xí lệch lạc thì khuôn mặt cũng xem như bị phá cách.

boi-qua-cai-mui

Theo một thuyết coi bói về nhân tướng học cuả người Nhật, mũi được chia thành 3 khu vực, mỗi khu vực biểu hiện rất rõ ràng cá tính cuả một người với ý nghĩa như sau:

  • Khu vực sống mũi: bao gồm Sơn Căn ( gốc mũi nằm giữa hai mắt ), Niên Thượng và Thượng Thọ, biểu hiện về những khả năng tiềm tàng của một người. Khi coi bói tùy theo khu vực này rộng hẹp phát triển ra sao mà người coi bói này có thể mạnh mẽ hoặc yếu kém.
  • Khu vực Chuẩn Đầu: biểu hiện cho trí lực, có liên quan rất lớn đến sự phát triển cuả trí óc và tinh thần của người coi bói.
  • Khu vực phụ trợ: tức là hai cánh mũi ( Giản Đài và Đình Uý) thể hiện cho năng lực hoạt động cuả một người.

Người coi bói cũng nên chú ý đến chiều dài và độ cao thấp cuả mũi. Một chiếc mũi được gọi là trung bình khi có chiều dài bằng 1/3 chiều dài cuả khuôn mặt. Còn để nhận biết mũi là cao hay thấp thì dùng cách so sánh sự cân đối giữa chiều cao của mũi với chiều cao lưỡng quyền hay chiều cao cuả cằm để nhận biết độ cao thấp.

Trong sách tướng nói rất nhiều về các tướng mũi, sau đây là một vài hình dáng thông thường của cái mũi để bạn có thể tham khảo khi coi bói.

boi-cai-mui

  • Coi bói mũi phú quý: Mũi cao, cánh mũi to dày, lỗ mũi rộng, chuẩn đầu tròn đầy. Người có dạng mũi thường sống trong giàu sang, sung sướng.
  • Coi bói với mũi dọc dừa : người coi bói có dạng mũi này là người có tính tình trung hậu, khoan hoà trong xử thế, thiên về văn chương nghệ thuật nên thường được danh tiếng hơn lợi lộc.
  • Coi bói mũi nghèo khó: Lỗ mũi lớn và quá lộ hay hếch lên.
  • Coi bói mũi hung ác: mũi có nhiều nếp ngang dọc, thân mũi cao gầy, lỗ mũi hẹp, Chuẩn Đầu nhọn trơ xương.
  • Coi bói mũi gian trá xảo quyệt: mũi nhỏ và ngắn, mềm, lỗ mũi hếch. Cánh mũi lệch hoặc cụp xuống như mỏ chim nhiều hâu.
  • Coi bói mũi đầy đặn, rộng từ trên xuống dưới Chuẩn Đầu khiến Gián Đài và Đình Úy bị thu hẹp: Người coi bói bình thường có thể được giàu sang.
  • Coi bói mũi đầy đặn, cao và rộng nhưng hơi thiếu chiều dài giống như mũi cọp: người có cá tính thiên về vật chất, ăn to nói lớn, thích danh vọng. Khi coi bói quan sát nếu có thêm Đình Úy và Giản Đài cân xứng thì có thể thành công về đường võ nghiệp hay binh nghiệp.
  • Coi bói mũi đầy đặn, phát triển cả bề cao lẫn chiều rộng, không bị phá cách: là tướng đại phú qúy, người coi bói có dạng mũi này là người rất thông minh, mưu trí và dũng cảm hơn người công thêm  tính tình trung thực, thẳng thắng giao thiệp rộng nên thường rất thành đạt trong công việc.

mui-Goo-Hye-Sun

  • Coi bói mũi thẳng nhưng hẹp ở phiá trên, khi đến Chuẩn Đầu mới phát triển, lỗ mũi lộ rõ: người coi bói có dạng mũi này là người có tính tình phóng khoáng, thích kết hợp bè bạn, vận số ở mức bình thường nhưng nếu đắc cách với ngũ quan thì có thể hưng vượng hậu vận.
  • Coi bói mũi dài nhưng không đầy đặn, bề ngang quá hẹp giống như thân cá kết hợp với phần Niên Thượng, Thọ Thượng nổi cao: người coi bói có dạng mũi này là người có cá tính nhỏ nhen, hay nghi ngờ người khác nên thiếu sự thân thiện, hường khó thành công trong cuộc sống.
  • Coi bói mũi gấp khúc nhiều đoạn: người có tính khí thất thường, kiến thức nông cạn, gặp nhiều nhiều trắc trở trong sự nghiệp. Khi coi bói quan sát thấy phần Lưỡng Quyền khuyết hãm thì càng xấu tướng hơn, không đủ tài sức đủ ăn đủ mặc.
  • Coi bói mũi hẹp ở phần trên nhưng đến Chuẩn Đầu thì nở nang quá mức, kéo theo hai canh mũi to: người coi bói với mũi này là người có tâm tính hời hợt, thường thích được người khác nịnh hót, sinh kê, vất vả.
  • Coi bói mũi nhìn khô khốc và xương xẩu: người có đời sống tình cảm nghèo nàn, gia đình bất hoà.
  • Coi bói mũi thon nhỏ nhưng Giản Đài và Đình Úy hơi trễ xuống dưới nhân trung: người coi bói có dạng mũi này là người có cá tính nhanh nhẹn, thích nhàn nhã chứ không thích làm việc nặng nhọc, cuộc sống đủ ăn chứ không giàu sang.

Một vài đặc điểm về sống mũi, lỗ mũi :

  • Coi bói  sống mũi lệch trái: Mẹ thọ hơn Cha
  • Coi bói với sống mũi lệch phải: Cha thọ hơn Mẹ
  • Coi bói sống mũi nhỏ và hẹp: là người thẳng tính nhưng lại quá cứng rắn, thường hay cố chấp, thiếu kiên nhẫn khi gặp khó khăn.
  • Coi bói sống mũi lớn nhưng cong vào khiến Chuẩn Đầu thấp hẳn xuống: người coi bói này có tính tình nhân hoà. Khi coi bói nếu thấy Lưỡng Quyền tốt thì có thể làm ăn thành công rất đễ dàng. Trường hợp Lưỡng Quyền phá cách thì tướng tốt cũng bị giảm sút nhiều, chỉ là người có ăn có mặc vưà đủ mà thôi.
  • Coi bói sống mũi có nốt ruồi: cần thận sự nghiệp bị gãy đổ nửa chừng.
  • Coi bói lỗ mũi nhỏ hẹp, Gián Đài và Đình Úy đầy đặn và cân bằng nhau: người coi bói này có tính tham lam hoặc keo kiệt.
  • Coi bói lỗ mũi rộng, Giản Đài và Đình Úy xẹp, đường nét không rõ: người thích nghe lời ngọt ngào, nịnh hót, chi tiêu phung phí.
  • Coi bói lỗ mũi rộng, Giản Đài và Đình Úy đầy đặn và cân bằng nhau: người coi bói này rất thông minh, trí tuệ hơn hẳn người khác, thích hợp với những công việc dùng đầu óc.

Mũi là dấu hiệu chủ yếu trên khuôn mặt thể hiện nguyên tố Kim và tượng trưng cho khả năng sở hữu sức mạnh.

mui-to-quang-thang

Người ra nói rằng ở Trung Đông thời cổ đại, mũi của các hoàng tử trẻ được kéo ra và được xoa bóp vì họ tin rằng không ai có thể làm vua mà lại không có một cái mũi thật to. Nếu nét này có kích thước lớn thì nó cũng thể hiện tham vọng và tính độc lập; mũi to quá cỡ lại là dấu hiệu cho thấy người nào đó có thể có tính tự cao tự đại và tự cho mình là trung tâm. Và nếu mũi bạn nhô ra khỏi mặt quá nhiều- nhô ra hơn khoảng 1 inch( khoảng 2,54cm) – thì đó là dấu hiệu cho thấy bạn là người đi tiên phong. Vì vậy, việc giải phẫu thẩm mỹ ở vùng mũi không những có thể làm hạn chế những trải nghiệm cuộc đời mà bạn có thể có ở tuổi 40 (như đã đề cập ở phần trước) mà nó còn có thể tác động đến khí chất của con người bạn nữa.

Khi coi bói, mũi không cần phải có kích thước lớn thì mới có thể chứa đựng một nét tinh túy thuộc nguyên tố Kim. Trong điều kiện hoàn hảo, nét mũi này là dấu hiệu thể hiện phẩm chất thuộc Nguyên tố Kim của một người có lý tưởng cao cả. Bạn rất coi trọng tầm nhìn của mình và khao khát sống một cuộc đời có ý nghĩa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua mũi –

Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Nếu Thìn và Dậu sống chung trong một nhà, ngôi nhà của họ sẽ rất gọn gàng và có nhiều điều thú vị. Thìn và Dậu dường như đối lập nhau về bản chất. Trong khi Thìn mạnh mẽ và sôi động, có lúc bốc đồng thì Dậu rất thực tế và thậm chí bảo thủ; trong khi
Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Thìn và tuổi Dậu có hợp nhau không? –

Tết Trùng Cửu mồng 9 tháng 9 âm lịch, những điều thú vị chưa biết

Tết Trùng cửu lấy sự lặp lại của hai số 9 để nói về sự trường thọ. Tết trùng cửu ở Việt Nam ngày nay ít người còn biết đến về một khá phổ biến xưa kia, mang
Tết Trùng Cửu mồng 9 tháng 9 âm lịch, những điều thú vị chưa biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong tục tập quán thì ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch hàng năm là ngày Tết cổ xưa của người Việt, gọi là Tết Trùng Dương hay còn gọi là Tết Trùng cửu, ngày tết hoa Cúc. nhiều nét đẹp về văn hóa.


► Tra cứu: Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Tet Trung Cuu mong 9 thang 9 am lich, nhung dieu thu vi chua biet hinh anh
 
Tết Trùng Cửu còn có một cách nói khác là ‘Từ thanh’, chính là ‘tạm biệt thảm cỏ xanh’. Sau ngày Trùng Cửu là mùa đông, cây cối không có sức sống, không thích hợp để đi chơi ở vùng ngoại ô. Vì thế, tết Trùng Cửu là cơ hội đi chơi sau cùng của mọi người khi thời tiết sang đông.

I. Nguồn gốc của Tết Trùng Cửu 

Có nhiều điển tích về ngày Tết này:   + Phong tục tập quán này bắt nguồn từ đời Hán. Ngô Quân thời Nam Triều trong “Tục Tề hài ký" có chép một câu chuyện: “Đời Hậu Hán (25-250) có Hoàng Cảnh, người huyện Nhữ Nam, theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: ” Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn”. Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy. Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.
 
Vì tích trên, nên về sau hàng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9 ÂL theo lịch âm dương, người ta bỏ nhà tạm lên núi, lánh nạn… Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ.   + Sách “Phong Thổ Ký” lại chép: Cuối đời nhà Hạ (2205-1818 trước D.L.), vua Kiệt dâm bạo tàn ác, Thượng Đế muốn răn nhà vua nên giáng một trận thủy tai làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, nhân dân chết đuối, thây nổi đầy sông. Nạn thủy tai đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân lo sợ, già trẻ gái trai đều đua nhau quảy thực phẩm lên núi cao để lánh nạn… Tục ấy thành lệ.   + Đến đời Hán Văn Đế (176-156 trước D.L.), vua cho dựng một đài cao 30 trượng ở trong cung, mỗi năm đến ngày mồng 9 tháng 9, nhà vua cùng vương hậu, vương tử, cung phi đem nhau lên đài ở cho qua hết ngày ấy. Sau đến đời nhà Đường (618-907) xem ngày mồng 9 tháng 9 thành ngày lễ tết gọi là Trùng Cửu. Các văn nhân thi sĩ mang bầu rượu túi thơ cùng nhau lên núi cao say sưa ngâm vịnh.

II. Các phong tục tập quán trong ngày Tết Trùng Cửu (Tết Trùng Dương)

1. Lên vùng cao   Nhân dịp tết Trùng Cửu, nhiều người thường đến vùng ngoại thành để leo núi, thưởng ngoạn phong cảnh, hít thở bầu không khí trong lành.   Người ta rủ nhau lên núi cao hay tháp cao, chỗ cao, tùy điều kiện sẵn có từng nơi để thưởng ngoạn phong cảnh , nhớ lại thời cổ đại đã từng phải “lên cao lánh nạn”. Ăn bánh “cao 糕” cũng để nhắc nhớ thời phải lánh lên cao, do lấy chữ đồng âm là “cao”. Bánh cao làm bằng bột gạo xay nước ngào đường đỏ hấp chín đổ thành 9 tầng như bảo tháp, tượng trưng cho đỉnh cao và số 9, bên trên còn nặn hình hai con dê nhỏ tượng trưng trùng dương, lại cắm trên đó một ngọn đèn nến tượng trưng đăng cao là trèo lên cao, và cắm một ngọn cờ giấy nhỏ màu đỏ tượng trưng cho cài lá châu du 茱 萸. Đó là cách làm thời cận đại ở vùng Phúc Kiến.   2. Ngắm hoa cúc và uống rượu hoa cúc   Tương truyền thời Tấn có ẩn sĩ Đào Uyên Minh 陶 渊 明 rượu vào là thơ ra, lại rất yêu hoa cúc, văn nhân mặc khách bắt chước ông ta lấy ngày trùng dương làm ngày ngâm vịnh. Đào Uyên Minh sống vào buổi giao thời Tấn – Tống, chính sự hủ bại, nên ông ta từ quan về quê Giang Tây ở ẩn trồng cúc, làm thơ, nhưng có tật là rượu vào hơi xỉn thì thơ mới ra. Lần đó nhằm ngày trùng dương, ông dạo ngắm hoa mà vì nhà nghèo không có rượu nên không tài nào xỉn được, ông vặt tạm hoa cúc nhai làm mồi mà vẫn không xỉn vì không có rượu vào. Đang lúc buồn thì bỗng có người đến gặp đem cho một bình rượu, đó là sai nhân do thứ sử Giang Châu là Vương Hoằng cử đến đem rượu nói là tặng Đào Uyên Minh. Đào Uyên Minh mừng rỡ mở bình uống cho đến say xỉn. Về sau người ta cho thêm hoa cúc, là loại thảo mộc vẫn làm đồ uống trị liệu, vào trong rượu nếp trùng dương.   Tuy câu chuyện Hoàng Cảnh đại chiến Ôn Thần chỉ là truyền thuyết nhưng việc đeo túi thơm đựng hạt thù du phòng ngừa bệnh dịch lại mang yếu tố khoa học. Ngày Trùng Cửu diễn ra vào lúc giao mùa từ mùa thu sang mùa đông. Đây cũng là thời gian xuất hiện nhiều muỗi gây bệnh truyền nhiễm. Thù du là một loại thảo dược có độc tính nhẹ, có mùi vị nồng, có thể dùng để xua đuổi côn trùng. Cho hạt thù du vào trong túi thơm hoặc cho vào trái hồ lô có khoan nhiều lỗ nhỏ để mùi của hạt lan tỏa trong không khí, tiêu diệt côn trùng. Kỹ thuật may túi thơm và chế tác hồ lô đựng hạt thù du vẫn tồn tại đến nay, tập tục đeo túi thơm đựng hạt thù du cũng còn được giữ gìn ở một số nơi.   Theo danh y đời nhà Minh tên Lý Thời Trân, hoa cúc có công dụng chữa trị nhiều bệnh như đau mắt, chóng mặt, nhức đầu, giải phong nhiệt. Rượu hoa cúc có thể giúp tránh bị trúng gió, khử nhiệt, bổ gan sáng mắt, tiêu viêm giải độc. Rượu hoa cúc có vị đắng, người xưa cho rằng, uống loại rượu này sẽ thêm tuổi thọ nên họ gọi đây là ‘rượu trường thọ’.   Ngoài uống rượu hoa cúc, ngắm nhìn hoa cúc là một trong những phong tục của tết Trùng Cửu. Hoa cúc được xem là loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng, đại diện cho tình bạn và nét nho nhã của danh sĩ. Cúc được xem là một trong bốn loài hoa quân tử: Mai - Lan - Cúc - Trúc.
3. Cài lá châu du   Phong tục này rất phổ biến thời Đường, hoặc giắt vào người hoặc bỏ vào túi vải đeo theo người để trừ tà, nhất là phụ nữ và trẻ em. Trái cây châu du là một vị thuốc, chất lượng tốt nhất là vùng đất Ngô tức vùng Giang, Triết ngày nay nên còn gọi là Ngô châu du, lại cũng còn gọi là cây dầu Việt , là loại cây nhỏ, cao hơn một trượng, lá như cái lông vũ, mùa hè nở hoa trắng, quả đặc có cơm béo ngậy màu vàng, quả sau thu thì chín màu tím đỏ, sách “ Bản thảo cương mục” nói cơm quả vị đắng cay mà thơm, tính ôn nhiệt, có thể trị hàn khu độc, người xưa quan niệm giắt lá nó vào người để trừ tà. Phong tục này học giả Chu Sở đầu thời Tấn viết trong “Phong thổ ký” là một phong tục của người Giang Nam.   Thời kỳ Lý – Trần, nho sĩ Việt Nam cũng tổ chức leo núi, uống rượu hoa cúc gọi là thưởng tết Trùng Dương. Bây giờ ít có nơi tổ chức tết trùng cửu.   “Năm ngoái giữa rừng không có lịch Nhìn hoa cúc nở biết trùng dương”   Câu thơ trên là của một Vị thiền tăng nổi tiếng của Việt Nam, gắn liền với một ngọn núi – núi Yên Tử – nơi phát tích một dòng thiền của Việt Nam – dòng thiền Trúc Lâm nổi tiếng với tứ quý ” Tùng, Cúc, Trúc, Mai “.
Tet Trung Cuu mong 9 thang 9 am lich, nhung dieu thu vi chua biet hinh anh 2
 

III. Ý nghĩa của ngày Tết Trùng Cửu trong cuộc sống hàng ngày

Cổ thi có câu: "Gặp ngày Trùng Cửu đăng cao". "Đăng cao" là lên chỗ cao. "Trùng cửu" và "Đăng cao" đều do điển tích trên.   Nhưng truyền thuyết thì cuối cùng cũng chỉ là truyền thuyết mà thôi. Các nhà nghiên cứu phong thủy cho rằng những câu truyện truyền thuyết của nguồn gốc các phong tục tập quán dân gian loại này, phần lớn đều có sau các phong tục dân gian. Người ta không hiểu những phong tục này vì sao lại sinh ra và lưu hành, nên mới dựng ra một câu chuyện để giải thích hoặc để kèm theo sau khi câu chuyện lưu truyền, và có ảnh hưởng rộng rãi trong dân gian. Trải qua một thời gian dài, người đời sau không tra lại, thế là giả thiết biến thành thật.   Kỳ thực: Tết Trùng Dương uống rượu cúc hoa, đeo cành thù du cũng có tác dụng giống như Tết Đoan Ngọ uống rượu hùng hoàng và treo cành xương bồ, trần ngải. Mục đích là phòng trừ bệnh tật, côn trùng. Sau ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, thời tiết có thời gian ngắn ấm lại. Trong thời gian trước Tết Trùng Cửu mưa thu lất phất, trời âm u, cái nóng vẫn chưa hết, mọi vật dễ trúng độc, con người vào lúc chuyển mùa dễ sinh bệnh tật, cảm cúm. Vì thế, vào thời gian này phải hết sức chú ý phòng côn trùng, phòng nóng lạnh. Mà rượu cúc hoa có tác dụng bình can( gan ), sáng mắt, giải nhiệt, tiêu độc, giải cảm. Mùi của cây Thù Du có tính cay nóng, đắng, hương thơm, có thể đuổi muỗi, sát trùng trị hàn ( lạnh ) , khử độc . Cả hai thứ ấy đều có những tác dụng này. Qua đó có thể thấy, vào tiết này, đeo thù du, uống rượu cúc hoa rất có lợi cho sức khỏe con người, chính là tác dụng quan trọng của cúc hoa và thù du đối với con người vào mùa thu.   Còn Việc trèo lên núi cao trong tiết Trùng Dương, vào tiết trời thu, trời xanh cao, lên núi đi chơi, có thể khiến tinh thần sảng khoái, trong lòng thư thái. Dân chúng lên núi còn có nguyên nhân về mặt kinh tế. Đó là tết Trùng Dương là lúc thu hoạch mùa màng xong xuôi, nông dân nhàn nhã. Lúc này cây thuốc hoa quả trên núi cũng bắt đầu già, chín, chính là dịp tốt để người ta thu hái. Phong tục dân gian lên núi vào những ngày dịp này cũng bắt nguồn từ đây. Còn tập trung vào một ngày tết Trùng Dương cũng có nguyên nhân của nó. Số 9 thời cổ đại là số dương. Cổ nhân cho rằng, vào ngày mồng 9 tháng 9, thì tháng cũng là 9, ngày cũng là 9, hai cái trùng nhau, là ngày lành, ngày tốt, cho nên cùng tập trung lên núi vào ngày này là nhằm ý nghĩa ngày lành, ngày đẹp mà thôi.   Tết Trùng cửu cây thù du cho những chùm quả đỏ, còn mùa xuân hoa thù du nở vàng rực rỡ khắp cành. Tiết xuân đến hoa thù du nở sớm nhất, có lẽ chỉ sau hàn mai, vốn nở từ lúc cuối đông. Người Nhật còn gọi hoa thù du là hoa hoàng kim của mùa xuân ("xuân hoàng kim hoa", "hoàng" là màu vàng, "kim" là vàng). Hoa mai báo tin xuân sắp tới, thù du cho biết mùa xuân đã tới rồi.Tên khoa học của cây là Cornus officinalis, tên đầy đủ là sơn thù du.

ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết Trùng Cửu mồng 9 tháng 9 âm lịch, những điều thú vị chưa biết

Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao

Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng. Họ sở hữu tâm hồn thanh cao.
Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

- Người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng. Họ sở hữu tâm hồn thanh cao, nội tâm hàm súc và vô cùng coi trọng hạnh phúc. 

 

Ưu điểm nổi trội của người tuổi Tý nhóm máu A

  Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A sống biết trên biết dưới, trong công việc luôn lấy đại cục làm trọng, vì lợi ích chung của công ty, của mọi người. Họ làm việc chăm chỉ và có tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng kết hợp cùng người khác để thúc đẩy hiệu quả công việc cao hơn bởi vậy, bất kể họ làm việc trong môi trường nào cũng đều được đồng nghiệp quý mến, lãnh đạo ưu ái.

Ngoài khả năng ứng xử, giao tiếp khéo léo thì năng lực làm việc của người tuổi Tý nhóm máu A cũng rất tốt, tài trí hơn người, nhanh nhẹn linh hoạt, làm việc đâu ra đấy, gọn gàng và nhanh chóng, không dây dưa lằng nhằng, chuyện nào ra chuyện ấy, việc ngày hôm nay không để tới ngày mai. 
  Những người tuổi Tý nhóm máu A yêu thích thơ văn, yêu cái đẹp, yêu lao động, thích sự trong sáng thuần khiết nên tâm hồn thanh cao, họ biết cách cân bằng công việc và gia đình đảm bảo cho cuộc sống luôn hài hòa.   
Tinh cach nguoi tuoi Ty nhom mau A Tam hon thanh cao hinh anh
 
Bất kể là phương diện nào thì người tuổi Tý nhóm máu A cũng quan tâm tới từng chi tiết nhỏ, bởi vậy họ dễ dàng nhận ra những thay đổi dù là nhỏ nhất của người đối diện, về cả hình thức lẫn tinh thần, họ có thể thông cảm sự đau khổ, thấu hiểu nỗi lòng và không ngại chia sẻ, cùng người khác vượt qua khó khăn. Không ai có thể phủ định lòng tốt của người tuổi Tý nhóm máu A, họ luôn biết cách hóa chiến tranh thành tơ lụa.  Dù mưu tính sâu xa nhưng nội tâm hàm súc, họ lấy niềm vui và hạnh phúc để làm phương châm sống, mục tiêu của của đời.   Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Tý nhóm máu A đa sầu đa cảm, dễ bị người khác lợi dụng tình cảm. Trên phương diện này, họ rất tỉnh táo và lý trí, họ có khả năng quan sát cũng như phân tích tâm lý rất tốt, sau đó mới đưa ra quyết định. Một khi đã yêu, những người này rất toàn tâm toàn ý với đối phương, luôn tìm mọi cách để khiến đối phương vui vẻ, bất kể nguyên nhân do đâu cũng đều nhận lỗi về mình, luôn tôn trọng và đặt hạnh phúc gia đình lên mức cao nhất.   Nữ mệnh nhóm máu A tính tình hiền dịu, tâm địa thiện lương, sở hữu một nụ cười tỏa nắng khiến đối phương không thể không ngưỡng mộ, là mẫu phụ nữ mà mọi đàn ông luôn khao khát. Sau khi kết hôn, những người phụ nữ này là hình tượng mẹ hiền vợ đảm điển hình, chăm sóc chồng con chu đáo, tôn kính cha mẹ, sắp xếp công việc gia đình đâu ra đấy.    Nam mệnh nhóm máu A thì rất biết quan tâm người khác, thái độ ôn hòa, cũng là mẫu đàn ông của gia đình mà nhiều phụ nữ ao ước. Sau khi kết hôn, họ luôn nhận thiệt thòi về mình, sẵn sàng hi sinh mọi lợi ích bản thân để gìn giữ hạnh phúc, gia đình hòa thuận, tu chí làm ăn để mang lại cuộc sống tốt nhất cho vợ con. Nếu có gì bức xúc, ngoài miệng thì mắng vợ nhưng trong lòng họ không hề muốn như vậy, gia đình luôn thuận hòa, hạnh phúc dài lâu.
 
Tinh cach nguoi tuoi Ty nhom mau A Tam hon thanh cao hinh anh 2
 

Khuyết điểm cần khắc phục của người tuổi Tý nhóm máu A

 

Người tuổi Tý nhóm máu A hành động thường do dự, thiếu quyết đoán nên thường bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt. Khi thời cơ đến, mọi thứ hài hòa nhưng lúc này họ lại thường có thái độ ba phải, thế nào cũng được, không kiên định với ý kiến của mình, kết quả về sau thường hay hối hận. Hơn nữa, vì thường xuyên nghĩ cho người khác nên trong lòng lúc nào cũng có muộn phiền, lâu dần tích tụ tạo thành áp lực tinh thần, đôi khi mắc phải các bệnh liên quan hệ thần kinh.

Lời khuyên dành cho những người tuổi Tý nhóm máu A

  Vào những lúc tâm tình không tốt, không muốn chia sẻ với người khác thì tạm thời không nên suy nghĩ nhiều, tạm gác lại những muộn phiền ấy và tìm niềm vui bằng những hoạt động khác như nghe nhạc, đọc sách, đi mua sắp, vui chơi cùng bạn bè…

Những người này thiếu hụt sự sáng tạo, nếu như họ có tinh thần học hỏi thêm thì sẽ tốt hơn nhiều, dù không hẳn sẽ tạo nên bước đột phá nhưng chắc chắn sẽ tốt hơn hiện tại. Chăm chỉ tích lũy kiến thức là cách rèn luyện năng lực tốt nhất, nhân cách cũng được nâng lên tầm cao mới.
Phương Thùy

Tuổi Tý nhóm máu O: Lanh lợi, phóng khoáng, hậu vận phú quý
Trong công việc, người tuổi Tý nhóm máu O rất có tinh thần trách nhiệm, chăm chỉ làm việc, dốc tâm dốc sức làm việc nên thường được cấp trên tin tưởng và giao


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người tuổi Tý nhóm máu A: Tâm hồn thanh cao
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd