Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Khoa Tử-vi đời trần

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Xem tiếp
Khoa Tử-vi đời trần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

VI.- Khoa Tử-vi đời trần
1.- Trường hợp được trọng dụng
     Khoa Tử-vi được triều Trần biết đến trong một dịp đặt biệt: Thái-tử Hoảng bị bệnh mê man suốt ba ngày rồi mắt trợn ngược, tưởng qua đời. Vua đem thanh Thượng-phương bảo kiếm và áo Ngự-bào để bên cạnh rồi tuyên chỉ ;
- Nếu tỉnh dậy sẽ ban cho. Ý nói sẽ truyền ngôi. Nhưng Thái-tử mắt vẫn trợn ngược.

     Hoàng hậu, phi tần khóc lóc thảm thiết, chuẩn bị chôn cất, nhân thấy Huệ-Túc phu nhân văn hay chữ tốt, có ý nhờ viết bài vị. Vì vậy phu nhân biết ngày, giờ, tháng, năm sinh của Thái-tử. Phu nhân bấm số, rồi tâu:
      - Xin Hoàng-hậu đừng lo, Thái-tử chỉ mê man thôi, giờ Sửu ngày mai sẽ tỉnh dậy. Vua và Hoàng-hậu tin tưởng và hỏi tại sao phu nhân biết? Phu nhân tâu:
     - Thần tính số Tử-vi của Thái-tử thấy Đồng, Âm thủ mệnh tại Tý. Cung phúc tại Dần có Cự, Nhật. Tử-vi kinh nói rằng:

“ Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung”.


     Nghĩa là : Giàu, sống lâu, làm lớn, tiếng tăm, chết non, đau thương, khổ, do cung phúc tốt hay xấu. Đây cung Phúc của Thái-tử có Cự, Nhật tại Dần, lại có Tả, Hữu, Xương, Khúc hợp chiếu, thì căn cơ là người thọ lắm. Mệnh lại được Đồng, Âm tại Tý... thế thì Thái tử không chết non, sau còn trở thành vị minh quân anh hùng, tạo sự nghiệp rạng rỡ cho họ Đông-a và cho nhà Đại-Việt nữa. Hiện Thái-tử bị hạn Tang, Hổ, Kiếp, Hình thì đau yếu nặng đó thôi.
     Vua và Hoàng-hậu còn phân vân chờ đến giờ Sửu hôm sau, thì Thái-tử tỉnh dần, rồi khỏi hẳn. Sau là vua Trần Thánh-tông, một vị vua anh hùng trong lịch sử Đại-Việt. Nhân đó vua Thái-tông mới hỏi lý do tại sao phu nhân biết, phu nhân mới trình bày khoa Tử-vi. Vua Thái-tông triệu Hoàng Bính vào cung, tiên sinh dâng lên hai bộ sách Tử vi chính nghĩa và Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh. Vua Thái tông và hoàng tộc nhà Trần lại đua nhau nghiên cứu Tử-vi, và dùng như một nguyên tắc để cử người giúp nước.

2.- Một sự kiện sáng tỏ nhờ Tử-vi
     Qua những lá số được Huệ-Túc phu nhân và vương hầu đời Trần chấm còn để lại, ngày nay chúng ta thấy được nhiều khía cạnh lịch sử. Như hiện trong văn học sử, người ta không biết vị thiền sư đắc đạo Tuệ-Trung thượng sĩ đời Trần, bản sư của Trần Nhân-tông là Trần Quốc Tung, anh ruột Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, tước phong Hưng-Ninh vương hay là Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng, con thứ nhì của Hưng Đạo vương?

     Căn cứ vào lá số của Huệ-Túc phu nhân, người sống đồng thời với Hưng Ninh vương, lại là thím của ngài, là sư phụ của ngài về khoa Tử-vi, thì những gì do phu nhân viết về ngài phải đúng. Hơn nữa phu nhân lại là người tích cực tiến cử Hưng Đạo Vương giữ chức vụ Tiết-chế binh mã, tức là Tổng tư lệnh quân đội, thì chắc chắn tình nghĩa thím cháu, vua tôi, thầy trò, phu nhân viết về gia đình Hưng Ninh Vương, Hưng Đạo vương không sai. Phu nhân chấm số cho Hưng-Ninh vương có phê như sau:

"... Kinh vân Tử, Tham, Mão Dậu đa vi thoát tục chi tăng. Ngô kim nhật kiến Tuệ Trung chi số: Tử, Tham ư Dậu ngộ Quyền, Đào, tuấn nhã chi lang. Tả, Hữu hợp chiếu thị tất đa tài, đa năng. Đãn hiềm Tử, Tham cư Dậu ngộ Không, Kî tất thoát tục vi tăng”. Nghĩa là sách Tử-vi kinh nói rằng: người mệnh lập tại Dậu hay Mão, mà có Tử-vi, Tham lang thủ mệnh đa số là người thoát tục đi tu. Nay ta xem số của Tuệ Trung thì thấy mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh, còn gặp Đào-hoa, Hóa-quyền thì là người đẹp đẽ. Được Tả, Hữu hợp chiếu thì là người đa tài, đa năng. Nhưng tiếc rằng cái số và mệnh lập tại Dậu, Tử-vi, Tham-lang thủ mệnh,gặp Thiên-không, Hóa-kỵ thì thế nào cũng đi tu."

     Từ sự kiện trên ta tìm được Tuệ Trung thượng sĩ là Hưng-Ninh vương Trần Quốc Tung, chứ không phải là Trần Quốc Tảng.

3.- Phá cách, trợ cách
     Qua các tài liệu còn lại, thì khoa Tử-vi đời Trần có một sắc thái đặc biệt hơn ở Trung-quốc, đó là Phá cáchTrợ cách. Câu chuyện Đoàn Nhữ Hài là một bằng cớ. Nếu Tống Thái-tổ biết Trịnh Ân bị nạn mà cứu không được, thì vua Trần Nhân-Tông biết Đoàn Nhữ Hài bị nạn mà cứu thoát. Câu chuyện như sau:

     Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời, Hài hỏi:
     - Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này sẽ ra sao, có đúng không?
     Hòa thượng hỏi:
- Tiên sinh muốn biết điều gì?
- Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai.

     Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói:
- Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, Hồng loan cư nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. Đáng tiếc, đáng tiếc.

     Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi:
- Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái-học sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao có thể làm Tể-tướng?
     Vị Hòa-thượng cười đáp:
- Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều:

     Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng. Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng phải, té lăn vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội:
- Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta?
     Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi:
- Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!
Hài bực mình nói:
- Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông. Sao lại không biết chữ?
Người cỡi ngựa tiếp:
- Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc-tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?
- Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái-học sinh đậu Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy?
     Người kia đáp:
- Tôi là Vua đây.
     Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc.
     Thượng-hoàng nghe được hỏi:
- Văn ở đâu mà hay như vậy?
Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:
- Đưa vào đây!
     Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây
thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:
- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).
Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài, rồi phán:
      - Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.
Vua Anh-tông tâu rằng:
- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?
     Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:

“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai
không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..

Thượng-hoàng phán:
- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.
     Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
     Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.
     Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên-thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài.

     Đoạn trên đây chúng tôi tóm lược trong sách Đông-a di sự, phần Đoàn Nhữ Hài liệt truyện.

4.- Tinh hoa khoa Tử-vi đời Trần
      Hầu hết những bậc vua chúa, vương hầu nhà Trần đều nghiên cứu Tử-vi, để làm chìa khóa biết kẻ trung, người nịnh, biết vận hạn, mưu đồ đại sự.
     Như khi triều đình phân vân không biết nên hòa với Mông-cổ, cho Mông-cổ mượn đường đánh Chiêm-thành, hay nhất định chống lại, vua Thái-tông do dự không quyết, Huệ- Túc phu nhân chấm số cho tất cả vua, hoàng-hậu, vương hầu, tướng sĩ, thấy đa số là những vĩ nhân, làm nên những chuyện kinh thiên động địa. Có một số bị chết thảm nhưng tiếng tăm vang dậy. Phu nhân quyết định rằng: nên đánh. Bởi đánh thì sẽ thắng, có thắng các vương hầu mới có sự nghiệp vĩ đại như vậy. Một vài người tuy tuẫn quốc thật nhưng danh thơm muôn thuở.
     Có ai ngờ việc quyết định vận số quốc gia như thế, mà do khoa Tử-vi chiếm một phần. Khoa Tử-vi đời Trần cũng dựa theo bộ Tử-vi chính nghĩa, rồi nghiên cứu rộng ra về phá cách và trợ cách. Tỷ dụ, Tử-vi kinh nói rằng :
     Thiên-hình, Thất-sát cương táo nhi cô. Nghĩa là, người có thiên-hình, Thất-sát thủ mệnh thì tính tình nóng nảy, cứng rắn quá mà hóa cô độc. Muốn khuyên răn, chế ngự bớt sự cuồng táo đó, phải dùng người mệnh có Thái-dương, Thiên-đồng, Thiên-lương, Văn-xương, Văn-khúc, Đào-hoa, Hồng-loan. Bởi các sao này có thể giảm bớt sức nóng nảy của Hình, Sát. Tuyệt đối không dùng người mệnh có Kiếp, Không, Kình, Đà, Tang, Hổ đã đành mà còn tránh dùng người có Tử-vi, Thiên-phủ, bởi Tử, Phủ kỵ Hình, Sát. Như muốn phá người mệnh có Tử, Phủ thì dùng người có Kiếp, Không, Kỵ, Hình thủ mệnh. Tử, Phủ thì ngay thẳng, Kiếp, Không thì gian trá, tiểu nhân vậy dùng những mánh lới hạ cấp sẽ làm cho người Tử, Phủ khốn khổv.v.... Khoa Tử-vi còn đi sâu hơn nữa. Như người có cung Phúc tại Thìn được Thái-dương tọa thủ, tức là được hưởng phúc ngôi mộ ông hoặc bố. Muốn ếm người đó, thì dùng cách ếm mộ ông nội hay cha y, thì y khốn khổ ngay.

     Lối này trước đây người ta đã dùng để ếm mộ ông nội nhà văn Phạm Quỳnh, sau này ếm mộ nhà Ngô. Khi cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm còn tại vị, nhiều người thù ghét, sau biết ngôi mộ tổ được cách Long phụng triều thì con trai, con gái, con dâu sự nghiệp đều vĩ đại cả. Người ta đã ếm ngôi mội này. Thành ra khi con long bị đau, nó dẫy lên, lại một người nam bị nạn, khi con phụng dẫy lên thì có một người nữ bị nạn. Cái lối ếm này rất thất đức, nên chúng tôi không trình bày chi tiết vào đây. Tỷ dụ: Nhà Trần đã dùng lối ếm đó để diệt dòng dõi họ Chế ở Chiêm-thành. Trần Khắc Chung vì thương yêu Huyền Trân công chúa, mà công chúa bị triều đình nhà Trần gả cho Chế Mân, Khắc Chung tìm biết số Tử-vi của Chế Mân, rồi tìm ngôi mộ cung Phúc đức ếm, nên chỉ một năm sau Chế Mân chết.

    1. Thư tịch về khoa Tử Vi
    2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
    3. Khoa Tử Vi đời Tống
    4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
    5. Tử Vi vào Việt Nam
    6. Khoa Tử Vi đời Trần
    7. Khoa Tử Vi đời sau
    8. Dị biệt chính, Nam phái
    9. Kết luận

Quay về | Trở về đầu | Xem tiếp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khoa Tử-vi đời trần

Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Người có ngón tay cái mềm và có thể uốn cong gập ra sau thường gặp trắc trở về tình duyên, càng kết hôn muộn thì càng hạnh phúc.
Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

1. Ngón tay cái mềm, có thể uốn cong gập ra sau
 
Người có ngón tay cái mềm và có thể uốn cong gập ra sau thường có đời sống tình cảm phong phú, vui buồn lẫn lộn và có xu hướng bi lụy trong tình yêu.
 
Khi yêu, người này chỉ chăm chăm canh chừng xem đối phương có toàn tâm toàn ý chăm sóc mình hay lừa dối không. Điều đó tạo áp lực cho nửa kia, lâu dần sẽ sinh ra tâm lí nhàm chán và muốn đường ai nấy đi.
 
Do đó, đường tình duyên của người có tướng tay này khá trắc trở và càng kết hôn muộn thì càng hạnh phúc.
 
2. Đầu ngón út quá mềm yếu, vô lực
 
Vận thế tình duyên của người này không tốt, hay gặp phải người bạc tình nên tinh thần bị tổn thương nặng nề. Người lại lại khá chân thành, không có tầm nhìn xa trông rộng nên không thể kháng cự lại những cám dỗ hoặc lời đường mật của đối phương, cuối cùng bị lừa gạt cả tình cảm và tiền bạc.
 
Sau nhiều lần thất bại, người này nảy sinh tâm lí hoài nghi, không tin tưởng vào tình yêu. Do đó, rất khó để mở lòng với người mới. Chuyện hôn nhân vì thế mà dang dở, hạnh phúc tới muộn màng.

Coi tuong tay cua nguoi ket hon muon hinh anh
Đường Trí tuệ ngắn (hình 1) và đường Tình cảm song song (hình 2)

3. Đường Trí tuệ quá ngắn (hình 1)
 
Thông thường, người có đường chỉ tay Trí tuệ quá ngắn sống thiên về tình cảm, thậm chí yêu đương một cách mù quáng. Cộng thêm tính tình thuần nhất không đề phòng người khác nên họ dễ bị lợi dụng hoặc bị đối phương phản bội sau lưng. 
 
Đường tình duyên của người này lận đận, trải qua không ít mối tình nhưng đều không đi đến kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, nếu mạnh mẽ và chủ động hơn trong tình cảm, người này sẽ tìm thấy ý trung nhân phù hợp.

4. Đường Tình cảm phân thành 2 nhánh song song (hình 2)
 
Người có đường chỉ tay tình cảm phân 2 nhánh song song rất coi trọng tình cảm, khá dễ dãi với những yêu cầu của người khác. Người này thiếu khả năng nhìn thấu bản chất sự việc hoặc tha thứ một cách dễ dàng khiến đối phương ỷ lại hoặc phản bội sau lưng.

Tuy nhiên, nếu kết hôn muộn và gặp được người yêu thương chân thành, cuộc sống hôn nhân gia đình của người này khá viên mãn.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Coi tướng tay của người kết hôn muộn

Tầm quan trọng về mùa sinh và giờ sinh trong tử vi –

Khi xem lá số tử vi ngoài việc xem tổng quan và chi tiết các cung và các sao trong lá số,người xem còn phải lưu ý việc thuận mùa sinh hay nghịch mùa sinh, được giờ sinh hay nghịch giờ sinh ,xem giờ sinh có thuận lý hay nghịch lý,bởi các yếu tố này có

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tác dụng gia tăng hoặc suy giảm mức độ quy mô của lá số.

Muốn biết mùa sinh giờ sinh thuận hay nghịch để xem độ số được tăng hay giảm bớt. Vậy theo sự kê khai dưới đây sẽ rõ:

chon-mua-sinh-con

1.Thuận mùa sinh:

– Mệnh Vượng

Mệnh Mộc sinh mùa xuân- Mệnh Hỏa sinh mùa hạ

Mệnh Kim sinh mùa thu – Mệnh Thủy sinh mùa đông

-Mệnh Tướng

Mệnh Hỏa sinh mùa xuân – Mệnh Thổ sinh mùa hạ

Mệnh Thủy sinh mùa thu – Mệnh Mộc sinh mùa đông

 Cách Mệnh Vượng hay Mệnh Tướng là thuận mùa sinh

2. Thuận giờ sinh:

Sinh mùa xuân vào giờ Dậu, Thìn, Tỵ

Sinh mùa Hạ vào giờ Mão, Mùi, Hợi

Sinh mùa Thu vào giờ Ngọ, Thân, Dần

Sinh mùa Đông vào giờ Sửu, Tuất, Tí

Được thuận giờ sinh độ số gia tăng.

3.Giờ sinh thuận lý hay nghịch lý

Sinh vào giờ Dương mà an mệnh tại cung Dương là thuận lý. Trái lại là Nghịch lý.

Sinh vào giờ thuộc Am mà Mệnh an tại cung âm là thuận lý. Trái lại là nghịch lý.

Thuận lý thì độ số gia tăng, mà nghịch lý thì bị kém bớt.

4.Năm sinh và giờ sinh

Tuổi Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu mà sinh giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì tối độc.

Tuổi Dần, Hợi, Tý mà sinh giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi thì khắc cha phải đến 16 tuổi mới khỏi âu lo về sự mồ côi cha.

Tuổi Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi sinh giờ Tí, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu khắc mẹ, cũng tương tự


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tầm quan trọng về mùa sinh và giờ sinh trong tử vi –

Ứng dụng phong thủy của tứ linh

Tứ linh với Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ được biết đến với nhiều ứng dụng cả trong âm trạch và dương trạch. Ý nghĩa của tứ linh trong phong thủy quyết định những ứng dụng đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyền Vũ biểu tượng là con rùa đen, đại diện phương chính Bắc. Thanh Long biểu tượng là con rồng xanh lá, đại diện phương chính Đông. Chu Tước biểu tượng là con chim sẻ đỏ, hoặc phượng hoàng lửa, đại diện phương chính Nam. Bạch Hổ biểu tượng là con hổ trắng, đại diện phương chính Tây.   Ứng dụng trong phong thủy của tứ linh thì Huyền Vũ là sơn nhà; Chu Tước là hướng nhà, Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải. Bất luận nhà hướng nào thì những quy ước trên vẫn phải tuân thủ theo nguyên tắc: Huyền Vũ phải nhô cao; Chu Tước phải quang đãng, sáng sủa – nếu tụ thủy thì là thế “Minh đường tụ thủy”-rất tốt; Bạch Hổ phải uy vũ, ngắn hơn Thanh Long và nhô cao, Thanh Long phải uyển chuyển và vươn dài ôm lấy cuộc đất.



 
Huyền Vũ là cái có trước, theo hệ quy chiếu “dương trước, âm sau” thì Huyền Vũ thuộc dương, Chu Tước thuộc âm. Chính vì Chu Tước thuộc âm, nên sự tác động của dương khí – nếu âm dương hài hòa thì thủy sinh. Hiện tượng “minh đường tụ thủy” chính là biểu hiện của sự hài hòa âm dương.
 
Tương tự như vậy, Thanh Long – Bạch Hổ là trục Đông Tây của Trái Đất, tạo sự tương tác. Chính sự tương tác này làm nên mọi phát sinh và phát triển trên Trái Đất, vì vậy biểu tượng là Rồng – sức mạnh vũ trụ – thuộc Dương. Đó là lý do vì sao Tả Thanh Long có sông, ngòi, kênh rạch lại là biểu hiện của âm dương hài hòa. Đối xứng với Thanh Long dương là Bạch Hổ âm nên phải nhô cao hơn Thanh Long, phải ngắn và hùng vĩ. Vì đã cực âm thì phải là màu trắng (dương) để cân bằng âm dương – gần như tuyệt đối không dùng non bộ màu đen, hoặc màu tối – trừ trường hợp đặc biệt.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ứng dụng phong thủy của tứ linh

Hôn nhân rạn nứt vì trang trí phòng ngủ sai màu sắc

Nếu chỉ dùng một màu đỏ hoặc đen chủ đạo trong trang trí phòng ngủ, dễ khiến tình cảm vợ chồng rạn nứt hoặc thúc đẩy ham muốn ngoại tình.
Hôn nhân rạn nứt vì trang trí phòng ngủ sai màu sắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy phòng ngủ, nếu chỉ dùng một màu đỏ hoặc đen chủ đạo trong trang trí phòng ngủ, dễ khiến tình cảm vợ chồng rạn nứt hoặc thúc đẩy ham muốn ngoại tình.
 

1. Dùng màu đỏ hoặc đen làm màu chủ đạo cho phòng ngủ

Màu đỏ và đen đều là hai màu cực đoan, khi nhìn lâu sẽ tạo cảm giác dễ bị kích động. Do đó, hai màu sắc này không tốt cho sức khỏe, dễ gây ra mâu thuẫn hoặc cãi vã không ngừng, hôn nhân rạn nứt, thậm chí còn xuất hiện tình trạng “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” giữa vợ chồng.

Hon nhan ran nut vi trang tri phong ngu sai mau sac hinh anh
Ảnh minh họa

2. Tường và nội thất đều màu trắng hoặc đen

 
Hiện nay rất nhiều người thích trang trí phòng ngủ theo phong cách Gothic, tức chỉ dùng gam màu đen và trắng để trang hoàng cho ngôi nhà, từ tường, trần đến cả những món đồ nội thất.

Phong cách này mang hơi hướng cổ điển và sang trọng nên được nhiều người sử dụng. Tuy nhiên, xét theo phong thủy phòng ngủ, điều này hoàn toàn không nên. Bởi hai tông màu trắng đen lâu dần sẽ khiến mối quan hệ vợ chồng rạn nứt vì tình cảm nguội lạnh hoặc đóng băng. 
 
3. Lạm dụng màu hồng
 
Việc sử dụng gam màu hồng nhẹ nhàng và hợp lí trong phòng ngủ tạo cảm giác lãng mạn, thúc đẩy tình cảm vợ chồng và chuyện chăn gối. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng tông màu này trong trang trí phòng ngủ thì lại là điều kiêng kị.

Nếu toàn bộ tường, giường ngủ, đồ nội thất trong phòng ngủ là màu hồng sẽ khiến tinh thần bất an, dễ nảy sinh “khẩu chiến”. Bên cạnh đó, màu này còn hút vận đào hoa, dễ xuất hiện người thứ 3 xen ngang vào mối quan hệ đang tốt đẹp của vợ chồng.

Đồng thời, theo quan điểm phong thủy phòng ngủ, cách trang trí toàn màu hồng sẽ kích thích ham muốn ngoại tình ở chồng hoặc vợ, dễ phát nát hạnh phúc gia đình.
  Ngoài ra, nên không nên chỉ dùng một màu sơn cho tường phòng ngủ, tránh gây cảm giác đơn điệu, lâu dần ảnh hưởng không tốt tới tình cảm vợ chồng. Trường hợp buộc phải dùng một màu duy nhất, gia chủ có thể dùng giấy dán tường, treo tranh khổ rộng hoặc rèm cửa có màu sắc phù hợp để phối kết hợp với màu tường, mang lại sự phong phú và hài hòa về màu sắc. Từ đó thúc đẩy tình cảm vợ chồng thêm mặn nồng và bền chặt.
 
Tâm Nhân (Theo DYXZ)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hôn nhân rạn nứt vì trang trí phòng ngủ sai màu sắc

Tĩnh tâm, lắng nghe phật thuyết từ đáy lòng

Tâm vốn là cái gốc của vạn vật. Thân tĩnh để lắng nghe từ tâm, để tâm hồn ung dung tự tại. Tĩnh tâm để nghe lời phật thuyết từ đáy lòng
Tĩnh tâm, lắng nghe phật thuyết từ đáy lòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tâm vốn là cái gốc của vạn vật. Thân tĩnh để lắng nghe từ tâm, để tâm hồn ung dung tự tại.


► Xem thêm: Những câu nói hay về cuộc sống có thể làm thay đổi cuộc đời bạn

Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 2
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 3
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 4
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 5
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 6
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 7
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 8
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 9
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 10
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 11
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 12
 
Tinh tam, lang nghe phat thuyet tu day long hinh anh goc 13
 

Kiếm Phong

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tĩnh tâm, lắng nghe phật thuyết từ đáy lòng

Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?
Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình yêu của những cô gái không bao giờ có thể nói lý, dù cho bạn trai rất tốt cũng tìm ra điểm không ưng, dù trải qua những ngày tháng ngọt ngào cũng vẫn thấy thiếu sót, muốn thay đổi. Vậy lý do chia tay của 12 chòm sao nữ là gì nhỉ?

► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Ba dao nhung ly do chia tay cua 12 chom sao nu hinh anh 2
 

Bạch Dương và Thiên Yết: đối phương làm trái ý mình

 

Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì Bạch Dương và Thiên Yết nắm tay nhau cùng rất bá đạo. Họ cảm thấy đối phương làm trái ý mình, không đứng về phía mình, rất khó chịu. Vì thế mà họ làm náo động lên, bù lu bù loa, nói đối phương không yêu mình rồi hậm hực, đùng đùng đòi chia tay, đúng là không nói đạo lý.  

Kim Ngưu và Ma Kết: đối phương không hiểu mình

Chòm sao Kim Ngưu nữ và Ma Kết nữ khá nhạy cảm và yêu cầu cao về sự đồng điệu tâm hồn. Chỉ cần cảm thấy bạn trai có chút không thấu hiểu mình là sẽ nhanh chóng nghĩ ngợi rồi chia tay. Trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì đây quả là lý do vô lý, vì hai nàng này có chịu thổ lộ tâm tư gì đâu mà cứ khăng khăng đòi người yêu phải hiểu cơ chứ.  

Song Tử và Bảo Bình: đối phương không phối hợp

Như gần như xa, hai cô nàng hoàng đạo này yêu cầu bạn trai phải tâm ý tương thông, lúc cần là có mặt ngay tức khắc, đâu phải thánh nhân mà làm được. Loại tình yêu này dằn vặt, cần bạn trai toàn lực phối hợp, đúng là tiểu yêu quái, khó chiều quá đi.
 

Cự Giải và Song Ngư: đối phương không lãng mạn

  Mặc dù nói lãng mạn không thể ăn được nhưng con gái ai chẳng thích, nhất là những cô gái có tâm hồn bay bổng, nhạy cảm như Song Ngư và Cự Giải. Họ yêu cầu bạn trai phải thật tinh tế, thật lâm li, giống như trong ngôn tình vậy. Nhưng đâu phải chàng trai nào cũng có đủ tâm tư, thời gian và công sức, mỗi người một tính, phải thực tế một chút chứ các cô gái.
Ba dao nhung ly do chia tay cua 12 chom sao nu hinh anh 2
 

Sư Tử và Nhân Mã: đối phương không mãnh liệt

  Khi vừa bắt đầu, cảm xúc mãnh liệt những qua một thời gian sẽ dần bình lặng, ngày tháng trôi đi đều đều, thực tế cuộc sống vốn là như vậy. Nhưng trong lý do chia tay của 12 chòm sao nữ thì hai cô nàng Nhân Mã và Sư Tử lại cố tình quên điều này, họ cứ nhất nhất cho rằng tình cảm phải thật mạnh mẽ, đáng chờ mong, nếu không thì đường ai nấy đi ngay.  

Xử Nữ và Thiên Bình: đối phương có hình tượng không tốt

  Không còn cách nào khác, đàn ông phần lớn đều không quá chú trọng ngoại hình cá nhân, cho dù có cố gắng nhưng không phải ai cũng có thể như soái ca trong phim được. Mà hai chòm sao nữ hoàn hảo như Xử Nữ và Thiên Bình thì chắc chắn không chấp nhận rồi, yêu cầu này quá mức cao, có phần áp đặt cá nhân rồi.
Đáng sợ 4 chòm sao nữ trở mặt như trở bàn tay 1001 cách thu hút đàn ông “cực dễ” của Chòm sao nữ thông minh 3 chòm sao nữ có phúc, tìm thấy hạnh phúc mới sau ly hôn
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bá đạo những lý do chia tay của 12 chòm sao nữ

Lời nói đầu

Tài liệu này ghi là Nghiên Cứu Chu Dịch, tuynhiên, trong quá trình hoàn chỉnh các phương pháp của môn Chu Dịch Dự Đoán Học,thấy rằng Chu Dịch Dự Đoán chỉ có thể dự đoán qui luật số phận mà không có khảnăng dự đoán Nhân Cách & Năng Lực trực tiếp từ ngày sinh. Tham khảocác sách nói về dự đoán Tứ Trụ, nhận thấy rằng Tứ Trụ có khả năng dự đoán NhânCách & Năng Lực. Tuy vậy, cách luận giải phức tạp, thiên về kinh nghiệm lạimang dáng dấp linh ứng siêu cảm.
Lời nói đầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cấu trúc của Tứ Trụ bao gồm các ký hiệu của âm dương, ngũ hành phù hợp với việc vận dụng các nguyên lý, học thuyết Âm Dương, Ngũ Hành bên Đông Y. Vì vậy, tôi đã sử dụng lý thuyết Âm Dương cùng các nguyên lý cơ bản của lý luận Đông Y nhằm tạo nên một phương pháp dự đoán khác.

            Trong quá trình xây dựng phương pháp mới, đã có sử dụng một số ngày sinh dùng để thử nghiệm độ chính xác của phương pháp. Kết quả thử nghiệm là đáng khích lệ ! Về mặt lý thuyết, phương pháp đã hoàn chỉnh về cơ bản theo hướng chuẩn hoá.

            Việc xây dựng phương pháp luận giải mới nằm trong phạm vi dự đoán số phận. Mặc dù vậy, tôi vẫn luôn cho rằng dự đoán Tứ Trụ không chỉ dừng lại ở giới hạn này, mà nó còn có khả năng lớn hơn, dự đoán sự kiện.

            Vấn đề bản quyền đã khiến tôi chưa thể trình bày phần thiết lập cơ sở lý thuyết. Hy vọng sẽ có dịp thực hiện điều này trong một tương lai gần.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời nói đầu

Những lưu ý về phong thủy cho nhà bếp

Theo phong thủy, không gian nhà bếp cần phải được sắp đặt hợp lý để làm “giảm thiểu những điều chưa tốt” trong ngôi nhà bạn. Trong nhà, sẽ có những khu vực nào đó trong nhà được xem là “xấu” với các thành viên, dựa theo cung mạng, tuổi tác và giới tính của họ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu nhà bếp được bố trí tại một trong những khu vực "xấu" đó, thì đây là điều nên làm vì phong thủy nhà bếp tốt sẽ làm giảm thiểu những điều kém may mắn và mang đến những điềm lành cho gia đình bạn.  
Vị trí của nhà bếp và các dụng cụ bếp núc

Nguồn năng lượng giúp đẩy lùi những điều xấu đến từ sức mạnh của lửa (một thành tố của ngũ hành) có ở nhà bếp. Nguồn lửa này cần phải luôn được kiểm soát, vì thế bạn tuyệt đối không nên làm lò sưởi hay bếp lửa nhà mình “mạnh mẽ” thêm bằng cách treo gương ở khu vực này.

Việc treo gương ở nhà bếp theo phong thủy là khá nguy hiểm, thậm chí có thể mang đến những tai nạn không đáng có cho gia đình. Bếp lửa hay lò sưởi cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của phong thủy, có thể mang đến vô số điềm lành nếu được bố trí phù hợp.

Điều này có nghĩa là nguồn năng lượng toát ra từ bếp lửa nhà bạn phải đến từ một sự chỉ dẫn tích cực theo phong thủy. Đó có thể là việc đặt bếp lửa quay về hướng đông, hoặc theo hướng tốt của người trụ cột trong gia đình.

Bếp lửa cũng cần phải luôn được sử dụng để chế biến các món ăn cho cả nhà. Ngày nay, khi gần như mọi phương tiện nấu ăn đều hoạt động bằng gas hoặc điện, thì thật khó để có thể bố trí chúng sao cho thật “đúng hướng”.

Người Trung Quốc cũng như hầu hết các dân tộc châu Á khác đều dùng phương tiện nấu cơm như là một cách dễ nhất để chọn hướng tốt theo cung mạng của họ.

Tầm quan trọng của hai yếu tố tương phản

Theo phong thủy, nhà bếp có hai yếu tố tương phản nhau. Thứ nhất, vì đó là nơi chế biến các món ăn nên tượng trưng cho sự sung túc và giàu có của gia đình. Tuy nhiên mặt khác, vì đây là nơi thường xuyên có lửa nên có thể sẽ làm giảm những điều may mắn ở nơi mà nó có mặt.

Vì thế, nếu bếp lò hay lò sưởi được đặt ở một vị trí không tốt, thì không gian hay vị trí của nhà bếp càng quan trọng. Có hai yếu tố bạn cần phải quan tâm khi bố trí không gian trong nhà bếp.

Một là bếp lò, vì dụng cụ này tương trưng cho “lửa”, và yếu tố còn lại là tủ lạnh và nơi rửa chén bát, vốn tượng trưng cho “nước”. Trong ngũ hành, nước và lửa là hai thành tố khắc nhau, vì thế cần có một sự sắp đặt cân bằng giữa chúng, như là cách cân bằng âm – dương cho không gian nhà bếp của gia đình.
    Sự sắp đặt không phù hợp

Các nhà phong thủy khuyên bạn không nên đặt bếp lửa hay lò sưởi hướng thẳng ra cửa chính, thay vì vậy nên hướng vào trong để giữ sựấm áp của “lửa” cho gia đình.

Sự sắp đặt phù hợp

Không gian nhà bếp cần phải có đủ ánh sáng, thoáng đãng và rộng rãi. Để nhà bếp có một phong thủy tốt, bạn cần phải tính đến yếu tố sắp đặt lò sưởi, bếp lửa, nồi cơm điện, tủ lạnh… Chẳng hạn, bếp lò hoặc lò sưởi (lửa) không nên đặt quá gần hoặc đối diện với tủ lạnh và bồn rửa chén bát (nước).

Khoảng cách cần thiết giữa chúng ít nhất là phải 60cm. Lý do là vì “nước” và “lửa” là hai thành tố khắc nhau. Nước cần phải được đặt cách xa lửa. Đặt một cái bàn hay kệ nhỏở giữa bếp lửa và nơi rửa chén bát cũng là cách có thể giúp bạn hóa giải sự tương khắc giữa chúng.

Hướng của bếp lửa

Vì là nơi chế biến các món ăn cho gia đình, tượng trưng cho sự sung túc và hạnh phúc, bếp lửa cần phải được đặt theo hướng tốt nhất của người trụ cột trong nhà. Với những dụng cụ dùng gas hoặc điện, bạn nên lưu ý đến vị trí nguồn điện hoặc gas cung cấp cho chúng.

Riêng nồi cơm điện (mặt có các nút bấm điều khiển) không nên hướng thẳng ra cửa chính, vì điều này ám chỉ có thể làm nguồn thực phẩm trong nhà bạn sẽ bị thất thoát ra ngoài. Trong khi đó các nút bấm điều khiển của bếp lò hướng thẳng lên trần nhà là điều có thể chấp nhận được.

Thêm một số hướng dẫn khác về phong thủy nơi nhà bếp

1. Nhà bếp nên ở gần cửa sau hơn là cửa trước của ngôi nhà bạn.

2. Vị trí nhà bếp không nên nằm ở giữa nhà.

3. Nhà bếp, đặc biệt là bếp lò hay lò sưởi, không nên xoay về hướng bắc. Điều này thường được mô tả như là “lửa ở cổng thiên đường” và tượng trưng cho điềm xấu.

Theo phong thủy, nhà bếp nằm ở hướng Bắc có thể khiến gia chủ bị mất việc, hao tài, làm ăn thua lỗ, không có hứng làm việc… Để hóa giải tình huống, bạn có thể thay đổi vị trí của bếp lò.

4. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm đối diện với toilet, vì điều này có thể ảnh hưởng xấu đến thức ăn và mang đến những điều chưa tốt cho gia đình bạn.

Nên giữ cửa phòng tắm luôn đóng kín và thêm một cách để bạn hóa giải tình huống nữa là sơn cửa phòng tắm màu đỏ.

5. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm đối diện với bất cứ cửa phòng ngủ nào trong nhà bạn.

6. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm ngay dưới cầu thang hay bóng đèn.

7. Bếp lửa hay lò sưởi không nên nằm ngay dưới nhà vệ sinh của tầng trên.

(Theo DNSGCT)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý về phong thủy cho nhà bếp

Nét tướng của cô nàng giỏi giang trong sự nghiệp

Nếu thấy cô nàng có vầng trán cao, sống mũi thẳng và xương gò má cao, bạn nên dè chừng vì nàng rất giỏi giang đó nha.
Nét tướng của cô nàng giỏi giang trong sự nghiệp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Vầng trán cao

Trong tướng số học, vầng trán con người hé lộ phần nào về tham vọng trong sự nghiệp cũng như mức độ thành công của mỗi người. Những cô nàng trán cao thường khá tham vọng trong công việc. Họ không chịu sự ảnh hưởng hay hạn chế về mặt giới tính mà lúc nào cũng nỗ lực vươn lên, chinh phục những mục tiêu lớn của đời mình. 

Dường như công danh sự nghiệp của các nàng trán cao lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, chỉ cần họ tập trung tinh thần và nỗ lực hết mình thì điều gì cũng có thể xảy ra. Mách bạn thêm một mẹo nhỏ khi công việc gặp trở ngại, bạn nên đi cắt tóc mái ngắn hơn hoặc buộc túm chúng lại sao cho vầng trán lộ rõ ra. Bạn cứ thử xem, điều này vô cùng hiệu nghiệm đấy!

2. Sống mũi thẳng

Những cô nàng sở hữu chiếc mũi thẳng, sống mũi lại khá cao thì vô cùng hiếu thắng, tự tin vào bản thân, quyết tâm theo đuổi mục tiêu tới cùng, thậm chí luôn tin tưởng rằng bản thân sẽ làm nên kỳ tích trong sự nghiệp mà ngay cả cánh mày râu cũng khó đạt được. 

Thông thường quý cô này có tham vọng và khát khao lớn trong công việc, sự nghiệp. Cộng thêm với tài vận tốt, hay gặp may mắn về tiền bạc nên họ dễ dàng gặt hái được nhiều thành công. Trước khi làm việc gì, họ đều suy đi tính lại kỹ càng, nghiêm khắc với chính bản thân mình nên tỷ lệ thành công rất lớn. 

net-tuong-cua-co-nang-gioi-giang-trong-su-nghiep

3. Xương gò má khá cao

Vị trí xương gò má trên khuôn mặt đại diện cho trí lực và uy quyền của con người. Đặc biệt, nếu cô nàng nào có xương gò má cao nhưng khá đầy đặn thường được giao phó trọng trách hoặc dẫn đầu, lãnh đạo một tập thể. Người này tính cách mạnh mẽ, độc lập, làm việc quên ăn quên ngủ, ý chí phấn đấu không mệt mỏi, tất nhiên gặt hái được thành tựu cũng khác người. 

4. Phần hạ đình khá dài

Hạ đình là vị trí từ môi dưới cho tới đuôi cằm. Nữ giới có phần hạ đình dài được coi là quý tướng, có số mệnh phú quý, biết hưởng thụ cuộc sống, đặc biệt càng về già cuộc sống càng giàu sang, nhàn hạ. Ngay từ khi sinh ra họ đã được hưởng nhiều phúc lộc trời ban, dù là trong công việc hay cuộc sống, họ đều gặp quý nhân giúp đỡ. Do đó, thành tựu thu hoạch được trong sự nghiệp cũng “không phải dạng vừa đâu”.

Mr.Bull (Theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét tướng của cô nàng giỏi giang trong sự nghiệp

Mơ thấy báo: Đối đầu với kẻ nguy hiểm –

Báo là loài vật nhanh nhạy, mạnh mẽ, tượng trưng cho kẻ thù hung tợn bất ngờ tấn công. Mơ thấy báo có nghĩa sắp đối đầu với con người nguy hiểm, nhắc nhở người nằm mơ phải thận trọng. Mơ thấy báo dữ hung hăng xông về phía mình, dự báo kẻ địch sẽ tấn
Mơ thấy báo: Đối đầu với kẻ nguy hiểm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy báo: Đối đầu với kẻ nguy hiểm –

Lý giải về hiện tượng xem bói bằng phép "gieo quẻ âm dương" - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Lý giải về hiện tượng xem bói bằng phép

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"gieo quẻ âm dương"

Từ thời xa xưa, con người vẫn dùng phương pháp bói toán bằng cách gieo quẻ dùng một vật nào đó làm tín. Gieo quẻ âm dương là cách bói toán dùng hai đồng hoặc nhiều đồng tiền trinh làm bằng kim loại đồng. Đồng tiền trinh này giờ gọi là đồng tiền cổ.

Đồng tiền trinh hình tròn, giữa có lỗ rộng có thể xâu tiền thành dây.Một mặt phẳng. được quy định làm mặt”âm”. Mặt trên có khắc chữ Hán gọi là mặt “dương”. Cách gieo quẻ xem vận hạn dùng 5 đồng tiền ( có 32 quẻ) là phép gieo quẻ của Phật Bà Quan Âm.

Thông thường, phổ biến toàn trong dân chúng nhất là cách gieo quẻ dùng hai đồng tiền trinh. Hai đồng tiền phải đẹp, sạch, sáng, rõ chữ , màu sắc kim loại đồng chính cống thì mới linh nghiệm. Phép dùng hai đồng tiền trinh dễ, tiện. các thầy cúng hoặc người cúng lễ thạo dùng hai đồng tiền này để xin ý kiến của thần linh, các đấng siêu nhiên về những việc hệ trọng trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai ( như làm nhà, kinh doanh, thi cử,ốm đau,..). Nói chung là vạn sự mà người trần không thể biết được nên như thế nào, đúng hay sai hoặc họ chưa chắc chắn. Xin quẻ âm dương là cách họ lựa chọn theo ý thần linh báo .Họ căn cứ vào cách gieo quẻ. Nếu một mặt xấp (âm) một mặt ngửa (dươmng-mặt có chữ) là thuận: âm dương đồng nhất lí. Nếu hai đồng khi gieo xuống đĩa( đĩa đựng đồng tiền phải sạch, đẹp, vừa) đều xấp (âm) là ngài báo không được hoặc ngài giận, ngài phạt không cho. Nếu hai đồng đều ngửa (có chữ) là ngài cười.Một là ngài vui(là tốt). Hai là có thể ngài cười chê ( là không tốt). Nếu xin âm dương mà được một lần nhất âm nhất dương luôn là tuyệt. Nếu lần thứ nhất cười, lần thứ hai nhất âm nhất dương lại càng tuyệt. Nếu hai lần cười, lần ba mới nhất âm nhất dương là tạm được. Nếu lần một xấp hết, lần hai mới nhất âm nhất dương là tạm được.Hai lần xấp tất, lần ba mới nhất âm nhất dương là ép quá, không hay lắm. Thường thì lần thứ nhất xấp tất, lần hai được là có trắc trở rồi cũng tốt đẹp.Nói chung, đó là những suy luận cơ bản còn tùy theo duyên, theo cảm nhận từng người. Phép bói này chưa có cơ sở khoa học vì khi gieo quẻ còn phụ thuộc vào tâm lí, cách cầm đồng tiền gieo .Đồng tiền gieo xuống là vô tình chứ khó có thể do bàn tay thần linh điều khiển được.

Người gieo quẻ và xin gieo quẻ âm dương bị lệ thuộc mọi phán quyết vào đồng âm dương, mất đi sự chủ động, mất đi sự suy nghĩ, tính toán, phán xét của chính mình theo khoa học. Hai nữa, với đồng tiền đó, không thể muốn phán xét mọi sự trong cuộc sống là đều được. Nó sẽ điều khiển mọi suy nghĩ, hành động của con người và trở nên nguy hiểm nếu con người quá tin vào nó, lạm dụng nó.Từ đó, người dân hiền lành mê muội sẽ bị các thầy, các bà sai khiến, điều khiển, lợi dụng. Phân tích ra vậy, ta thấy bói toán bằng gieo quẻ âm dương là không thuyết phục cao. Tuy nhiên, không hiểu tại sao, phép gieo quẻ âm dương vẫn tồn tại hàng trăm năm nay và hiện nay vẫn đang được dân chúng, các thầy bà sử dụng ngày càng nhiều .Họ gieo quẻ âm dương ở khắp mọi nơi, nhiều nhất là ở đền, phủ,miếu,tại gia đình... Gieo quẻ âm dương thuộc về mê tín dị đoan. Đạo Phật dùng tâm và đức tin, hành động theo đạo pháp chứ không bao giờ dùng đồng tiền âm dương điều khiển mọi hành động, suy nghĩ. Vậy tại sao lại có 32 quẻ bói của Phật Bà Quan Âm dùng 5 đồng tiền trinh? Rồi ai nghĩ ra cách gieo quẻ bằng hai đồng tiền trinh mà nó lại có ảnh hưởng sâu rộng như vậy? Đây là câu hỏi huyền bí không dễ tìm ra lời giải.Có thể, người biết phép gieo quẻ đầu tiên là người giỏi, thấy linh nghiệm nhờ họ tu tốt. Sau đó, người ta muốn tăng độ tin cậy nên cho đó là phép bói do Phật Bà Quan Âm ban cho.

Thực tế, công nhận là có nhiều người, nhiều trường hợp xin gieo quẻ âm dương để phán xét thấy rất đúng và linh nghiệm. Có người biết chắc chắn ngày mất của người thân khi họ đang sắp chết. Có người nhờ gieo quẻ mà tránh được nguy hiểm theo quẻ báo Có người trở nên hiền hậu hơn. Có lẽ do có những trường hợp linh nghiệm đó nên sức sống của phép bói này vẫn còn tồn tại. Tất nhiên, người gieo quẻ chính xác phải là người có tâm, có đức tin, có duyên với thần linh, có nguồn năng lượng vũ trụ nhất định để được ngài ban cho sự linh ứng, gữi được niềm tin với dân chúng. Những người đó tu đức tốt và họ chỉ xin âm dương đúng nơi, đúng lúc, đúng việc, đúng đối tượng. Không bao giờ lại xin âm dương”Nhờ bề trên độ cho ăn cắp chót lọt” hay” Đánh bạc, đánh lô đề trúng đậm”... Đồng tiên âm dương ít ra cũng có mặt thiện của nó là chỉ cho phép dùng vào việc chính đáng. Song thực tế, có rất nhiều người dân xin âm dương bừa bãi và tin bừa bãi vào quẻ âm dương. Người thầy tích đức kém sẽ gieo quẻ không chính xác và còn ngày càng lạm dụng quẻ để điều khiển người khác. Có người lại không tin ai hết, họ tự giải quyết mọi việc bằng tự gieo quẻ âm dương xin thần thánh, tiên tổ.vTất nhiên, có những việc họ thấy linh ứng là do ngẫu nhiên sự việc đã là như vậy.vCó nhiều việc không thể đúng nếu tâm họ loạn, họ tu đức kém. Một cô trung niên ở Hà Nội, có trình độ đại học, cán bộ văn hóa mà còn cuống tín với gieo quẻ âm dương. Bất cứ việc gì to nhỏ liên quan đến danh lợi cô ta là cô ấy đều phán xét bằng gieo âm dương. Từ đó, dẫn đến hậu quả là cô ta lảng tránh cả bạn thân, anh em ruột khi tin rằng họ sẽ lừa mình, không tốt với mình .Ai bị hoan nạn làm sao, cô ta nghĩ ra trăm lí do quả báo và xin âm dương rồi tin vào nguyên nhân đã báo nhất âm nhất dương. Cô ta trở nên vô cảm và không còn biết thương ai nữa. Xin gì chưa được là cô ta kể lể, cầu xin vật vã hàng tiếng đồng hồ đến khi được nhất âm nhất dương mới thôi. Đồng âm dương đã điều khiển mọi suy nghĩ, hành động của cô ta .Đây chỉ là một ví dụ có thật trong muôn ngàn người cuồng mê như thế. 

Ở một số ngôi đền nổi tiếng linh thiêng, Có nhiều khách đến lễ ( kể cả cán bộ, sinh viên) cũng nhờ chủ nhang khấn bái và xin âm dương.bị chủ nhang lôi vào ma trận với nhiều thủ tục rườm rà từ những quẻ âm dương mà bà ta gieo theo những câu hỏi bà ta tự nghĩ ra .Chỉ đơn giản vậy mà chủ nhang có thể dễ dàng kiếm tiền cao ngất ngưởng hơn cả dân chạy chợ bạc mặt từ sáng sớm ra nội thành. Ai có việc hệ trọng không qua tay bà chủ nhang là bị bà ta hạch sách, dọa dẫm khiến họ sợ mà phải theo. Một người chủ nhang tà tâm như vậy làm sao linh ứng?

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong thực tế là rất nhiều mà ai cũng có thể đã gặp, mong sao mọi người có thái độ tích cực và làm chủ được lý chí , đức tin của mình!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải về hiện tượng xem bói bằng phép "gieo quẻ âm dương" - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Phong thủy âm trạch –

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa

Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo ” . 

Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp ” .

Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ” Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .

Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ .

Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .

Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .

Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu ” .

Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .

Am Trach 1

2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần

Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.

Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .

3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị

Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế – chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .

Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .

Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .

Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long …

4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng

Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .

Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi : ” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” . 

Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ” . Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .

Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .

Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .

Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .

Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .

Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .

Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .

5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc

Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .
Thông thường cho rằng : ” Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ ” .

Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .

” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi “ , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .

Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ” Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn “.

Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .

Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt .

” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : “ Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách “ . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :

Sa thuỷ đồng hành với nhau .

Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .

Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .

Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí .

Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám long kinh ” có ghi : ” Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó “ . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .

Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.

1 . Rồng đến có thế , phát mạch từ xa

Việc lựa chọn âm trạch , đầu tiên phải xem thế đến của sơn mạch trên phạm vi vĩ mô . Trong phong thuỷ gọi núi đến từ xa là thế , núi ở nơi gần là hình , trước tiên bàn về thế sau bàn về hình , hình là do thế quyết định .Trong ” Táng thư . Nội thiên ” có ghi : “Thượng địa chi sơn , nhấp nhô liền giải , là đến từ trời . Như sóng nước , như ngựa phi , thế đến như bay , như long như loan khi cao lên lúc trũng xuống , như đại bàng bổ xuống , như con thú quỳ , vạn vật đều tuân theo ” . 

Ở đây viết ” Thượng địa chi sơn ” là núi nơi mai táng , đặc điểm của nó là : núi non nhấp nhô trùng điệp , như từ trên trời kéo xuống , như vạn mã phóng bay , hình thành thế lai long , khí thế hùng vĩ “.Thầy phong thuỷ lại cho rằng : thế lai long lại uốn lượn uyển chuyển , là rất tốt cho sự hình thành sinh khí to lớn , cho nên trong ” Táng thiên . Nội thiên ” lại ghi : ” Địa thế nguyên mạch , sơn thế nguyên cốt , uốn lượn Đông Tây hoặc là Bắc Nam , ngàn thước là thế , trăm thước là hình . Thế đến hình dừng , là nơi toàn khí . Đất toàn khí an táng phù hợp ” .

Chính vì thế rồng đến khí thế to lớn có ” Toàn khí ” cho nên có đặc điểm ” Đất cao nước sâu , cây cỏ tươi tốt ” . Các nhà phong thuỷ thường căn cứ vào thế lai long lớn nhỏ để xác định đẳng cấp phú quý , vì vậy trong ” Táng thư . Tạp thiên ” có ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời dẫn xuống , táng vương giả . Thế như sóng lớn núi non trùng điệp , táng thiên thừa . Thế như giáng long nước vòng mây lượn , táng tước lộc tam công . Thế như nhà cửa san sát , cây cỏ xanh tươi , táng khai phủ kiến quốc …” .

Không nói đến mối quan hệ giữa thế lai long lớn nhỏ và đẳng cấp phú quý , trong đó có nói đến núi non trùng điệp , nước vòng mây lượn , cây cỏ xanh tươi v.v …, rất rõ ràng đã thể hiện sự tìm kiếm của con người với môi trường tự nhiên đẹp đẽ .

Con người hy vọng rằng sau khi chết đi sẽ trở về trong lòng của đại tự nhiên , tìm kiếm môi trường táng địa lý tưởng là biểu hiện một loại quan niệm về môi trường của người cổ đại .

Thế của rồng đến thường có quan hệ với phát mạch xa xôi . Phát mạch của rồng đều ở nơi những dãy núi hội tụ , cho nên mới gọi là ” Lai long thiên lý ” , ý nói là huyệt vị phong thuỷ thường có quan hệ với đầu nguồn của long mạch , chỉ có sơn mạch to lớn mới có thể hình thành chi long dài rộng . Như vậy rồng mới có khí thế , huyệt cũng mới có sinh khí .

Trong phong thuỷ lấy quan hệ ” Tổ tông ” để biểu thị giữa can long ( rồng chính ) và chi long ( rồng nhánh ) . ” Địa lý giản minh ” có ghi : ” Nơi phát mạch của đại long phải là nơi gặp gỡ của núi cao đỉnh lớn , gọi là thái tổ ; từ đó mà xuống , lại có đỉnh cao , gọi là thái tông ; thế núi quanh co uốn khúc , lại có đỉnh cao , gọi là thiếu tổ . Từ đây núi thiếu tổ đi xuống , có cao có thấp , nhưng lấy tiết tinh thứ nhất đặt đằng sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu ” .

Vì vậy , khi xem thế núi phải xem kỹ hình thế của thái tổ , thái tông , thiếu tổ , thiếu tông , phụ mẫu , sau đó mới trên cơ sở núi phụ mẫu và dựa theo lý luận thai tức dựng dục của người để tìm nơi tồn tại của sinh khí , tức là tìm huyệt .

2. Lớp lớp che chắn , từ xa đến gần

Như trên đã nói hình thế to lớn của rồng có quan hệ với phát mạch từ xa , nhưng phát mạch từ xa không phải từ đầu đến cuối là một đường thẳng , mà phải có lớp lớp che chắn , có tầng tầng lớp lớp hộ vệ chủ mạch.

Đúng như trong ” Táng thư ” đã ghi : ” Thế như vạn mã từ trên trời rơi xuống , hình dáng như có từng lớp lang ” , hình pháp gia cho rằng núi mà không có che chắn thì chủ long sẽ cô đơn , che chắn càng nhiều càng cát tường , vì vậy ” Địa học giản minh . Long khai chương ” đã nói một cách tổng quát : ” Long như mở đường mà đi , là có lực nhất , kim thuỷ mão là trên , thuỷ tinh là thứ , phải có hình dáng như tấm che chắn , được như vậy mới tốt ” .

3 . Tứ cục phân minh , bát long hữu dị

Nhà phong thuỷ cho rằng , hình thế của lai long nhìn từ phía bên ngoài có thể chia làm năm loại : tức ” ngũ thế – chính thế , trắc thế , nghịch thế , thuận thế , hồi thế ” , cụ thể biêủ hiện là : ” Long Bắc phát triều Nam đến là chính thế . Long Tây phát Bắc làm huyệt , Nam làm triều , là trắc thế . Long nghịch thuỷ thượng triều , thuận thuỷ hạ thử là nghịch thế .

Thân long quay về núi tổ làm triều , là hồi thế ” . Hiển nhiên , đây là cách chia của phái hình pháp , lấy hình thế tự nhiên của thân núi để đánh giá lợi hại của môi trường âm trạch , trộn lẫn giữa quan niệm duy vật và duy tâm . Phái lý khí khi bàn về hình thế , chủ yếu dựa vào Ngũ tinh Bát quái và phương vị .

Nhà phong thuỷ căn cứ ngũ tinh ở trên trời đối ứng với ngũ hành của núi sông , cho rằng hình núi trên đất , dốc thuộc Mộc , nhọn thuộc Hoả , vuông thuộc Thổ , tròn thuộc Kim , dài thuộc Thuỷ . Lại dùng lý luận tương sinh tương hợp của ngũ tinh để suy đoán tài quan ấn lộc , dùng 24 sơn hướng để chỉ rõ hướng táng khác nhau .

Hướng Đông thuộc Mộc long , hướng Nam thuộc Hoả long , hướng Tây thuộc Kim long , hướng Bắc thuộc Thuỷ long . Gọi là tứ cục . Lại theo phép tăng giảm của Âm Dương , bốn loại long cục đều có phân Âm Duơng , bắt đầu là Âm long , thịnh là Dương long …

4 . Huyệt trường phân minh , huyệt hình đa dạng

Môi trường âm trạch về mặt vĩ mô phải là nơi khí thế to lớn , về mặt vi mô phải có huyệt trường rõ ràng . Phạm vi của huyệt trong phong thuỷ rất nhỏ thường gọi là ” Huyệt tám thước ” , là một miếng đất tấc vuông ” Thừa sinh khí , trú tử cốc ” , vả lại vị trí rất khó tìm chuẩn , vì vậy trong ca dao cổ có câu : ” Nhìn thế tìm long dễ , muốn biết huyệt điểm khó ” .

Các sách như ” Táng thư ” và ” Địa học giản minh ” đều cho rằng : nơi kết huyệt có liên quan với khí . Trong ” Địa học giản minh ” đã dùng lý luận thai tức dựng dục để bàn về tình hình kết huyệt của long mạch , trong sách ghi : ” Một tiết tinh phía sau đỉnh huyền vũ gọi là phụ mẫu , dưới phụ mẫu nơi mạch rớt xuống là thai , giống như nhận huyết mạch của cha mẹ làm thai vậy .Luồng khí phía dưới đó là tức vậy , lại bắt đầu từ đỉnh huyền vũ tinh diện là dựng , giống như hình thể có đầu mặt của thai nam nữ vậy , nơi dung kết huyệt là dục , giống như đứa con sinh thành từ thai mà dục vậy ” . 

Có thể thấy rằng nơi kết huyệt tương đương với nơi người mẹ sinh con , cũng là khu vực Âm Dương giao cấu mà rất nhiều sách nói tới . Nghĩa là đã xem huyệt phong thuỷ là nữ âm , là nơi ” Lấy được khí ra , thu được khí đến ” , là nơi nhận được sự thai nghén , là nơi ” ém khí ” , ” dưỡng tức ” . Đồng thời cũng là nơi ” sinh dục ” , ” xuất thai ” .

Chính vì phong thuỷ cổ đại dùng nguyên lý thai tức dựng dục sinh sản của loài người để giải thích về ý nghĩa của huyệt phong thuỷ , đã làm cho huyệt phong thuỷ lấy tượng trưng là nữ âm , huyệt phong thuỷ được xem như là đất toàn khí , vì vậy con người khi lựa chọn đất ở , đất để chôn cất đều chọn đất có những điều kiện như vậy làm đất tốt nhất , điều này đã hình thành một khuynh hướng tình cảm lâu dài , đem lại một nội dung văn hoá đặc biệt .

Huyệt phong thuỷ đặc biệt nhấn mạnh : ” Có được sự tốt đẹp của thai tức dựng dục của tổ tông cha mẹ , lại có toàn khí dung kết … ” . Huyệt hình của huyệt phong thuỷ thường có sự khác nhau do địa hình cục bộ , vì vậy chia ra làm oa huyệt , kiềm huyệt , nhũ huyệt , đột huyệt .

Oa huyệt , theo như trong ” Táng thư ” là hình giống như tổ chim yến , chôn ở nơi lõm xuống , thường gặp ở nơi núi cao .

Kiềm huyệt , hình dáng giống như hai chân bắt chéo lên nhau như gọng kìm , còn gọi là khai cước huyệt , ở núi cao bình địa .

Nhũ huyệt , huyệt tinh mở ra , ở giữa có nhũ , còn gọi là huyền vũ huyệt , hoặc cũng gọi là nhũ đầu huyệt , ở bình địa núi cao .

Đột huyệt , tinh huyệt bằng , ở giữa nổi lên , còn gọi là bào huyệt . Theo ” Táng thư ” có hình nồi úp , đỉnh có nhiều kiểu , thường gặp ở bình địa .

5. Núi bao nước vòng , bốn mặt vây bọc

Môi trường âm trạch tốt hay xấu , ngoài long thế long cách , che chắn , huyệt trường như trên đã nói , còn phải xem núi sông bao bọc xung quanh có hữu tình không ,tức là có cấu thành một tiểu môi trường hoà hợp nhất trí không .
Thông thường cho rằng : ” Nơi có chính huyệt , núi phải trẻ , hướng trước mặt phải mở rộng , hình thế bốn bên phải chụm , gió phải kín , nước phải tụ … Sơn minh thuỷ tú phải mưa thuận gió hoà , đất trời sáng sủa , như một thế giới khác , thanh tịnh trong ồn ào , phồn hoa trong thanh tịnh , trông thấy là muốn nhìn , đến gần thấy lòng vui tươi , khí phải tích , tinh phải tụ ” .

Đây là một đoạn văn nói về phương diện Phong thuỷ , mà cũng như là một đoạn văn miêu tả về mặt phong cảnh . Trong đó những yêu cầu phải tìm kiếm như ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” , ” Thanh tịnh trong ồn ào ” , ” Đến gần thấy lòng vui tươi ” , đây cũng là ý tưởng tìm kiếm về cảnh đẹp thiên nhiên .

” Núi bao nước vòng ” trong phong thuỷ , chủ yếu là thể hiện bằng quan hệ giữa sơn và thuỷ . Về quan hệ giữa sơn và thuỷ , các nhà triết học tiền bối đã bàn đến từ lâu . Trong ” Chu lễ . Khảo công ký ” đã chỉ ra : “Địa thế của thiên hạ , giữa hai núi nhất định phải có sông . Bên sông lớn nhất định phải có đường đi “ , cũng có nghĩa núi và sông đồng hành với nhau .

Trong ” Quản thị địa lý chỉ mộng ” cũng có ghi : ” Nước đi theo núi , núi ngăn nước . Núi sông phân chia các khu vực , ngăn không cho vượt quá , tích tụ khí . Nước không có núi thì khí tan mà không thể tập trung , núi không nước thì khí hàn . Núi như nhà , nước như tường , ở nhà cao không có tường , không thể phòng vệ được . Núi là thực khí . Đất càng cao khí càng dày . Nước càng sâu khí càng lớn “.

Có thể thấy rằng sơn và thuỷ dựa vào nhau để tồn tại , sơn là nội khí , thuỷ là ngoại khí , nội ngoại kết hợp mới có thể tạo thành một chỉnh thể hữu cơ mới có thể làm cho môi trường có sinh khí , mới có thể đạt được ” Sơn minh thuỷ tú ” , ” Mưa thuận gió hoà ” .

Về môi trường sơn thuỷ xung quanh huyệt trường thông thường được hợp thành được các địa hình như Sa , Thuỷ , Triều , Án . Trong đó Sa , Triều , Án đều là núi ở xung quanh huyệt .

” Địa học ” của Trầm Cảo đã nói về quan hệ giữa chúng như sau : “ Thuỷ nếu vòng vèo uốn khúc thì sa cũng xoay chuyển , sa và thuỷ nguyên là một nhà . Ôm sát hai bên huyệt như cánh ve sầu là long hổ . Thanh long là tên gọi cánh bên trái , bất kể thanh long hay bạch hổ , chỉ cần nước giữ được khí . Giữa long hổ là minh đường , minh đường giống như ngực con người . Phía trước long hổ có án , án phải thấp bằng để có nhìn được xa ,nước chảy ngang bên trong gọi là trung đường , ngoài án phải có triều sơn , giống như chủ nghiêng mình đón khách “ . Có thể tóm tắt những ý chính của nội dung trên là :

Sa thuỷ đồng hành với nhau .

Thanh long , bạch hổ là hai sa sơn bên trái bên phải .

Ở gần phía trước huyệt là núi thấp gọi là án , ở xa phía trước huyệt là núi lớn gọi là triều ( có nghĩa là triều bái ) .

Nơi nước uốn lượn chảy ra gọi là thuỷ khẩu , hai bên thuỷ khẩu phải có núi cao dựng đứng khép lại gọi là thuỷ khẩu sa . ” Núi của thuỷ khẩu phải cao và lớn , vòng mà khép lại , hình thế như vậy mới tốt ” . Nước chảy ra phải chậm rãi uốn lượn , không được chảy nhanh , nếu không sẽ tổn sinh khí .

Vì vậy tại thuỷ khẩu càng nhiều lớp núi càng tốt , ” Hám long kinh ” có ghi : ” Cửa khẩu có ngàn trùng khoá chặt nhất định có vương hầu ở trong đó “ . thật ra yêu cầu ở đây vẫn là một loại môi trường tương đối độc lập , yêu cầu môi trường phải tĩnh mịch bình yên, tương đối độc lập với ngoại cảnh , nước chảy vòng vèo , lớp lớp khoá chặt , có cảm giác như lớp lớp che chắn .

Sự phân hợp của sơn thuỷ tạo thành môi trường lớn với núi bao nước vòng , kết hợp với sa , triều , án tạo thành môi trường nhỏ trấn giữ bốn mặt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy âm trạch –

Chiêm bái Phật tích tâm hoan hỷ sẽ được sinh Thiên

Ngày nay, vấn đề thực hiện một chuyến du lịch hành hương tâm linh về xứ Phật để chiêm bái Phật tích là điều không quá khó đối với nhiều người.
Chiêm bái Phật tích tâm hoan hỷ sẽ được sinh Thiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bốn Phật tích cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp tu tập và độ sinh của đức Thế Tôn bao gồm:

  1. Nơi Thế Tôn đản sinh (Lumbini),
  2. Nơi Thế Tôn thành đạo (Bodhgaya),
  3. Nơi Thế Tôn chuyển Pháp luân (Isipatana),
  4. Nơi Thế Tôn nhập Niết bàn (Kusinara).

Một thời Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinara Upavattana, rừng Sala của dòng họ Malla, Ngài nói với Tôn giả Ananda:

Này Ananda, có bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn?

  1. Đây là chỗ Như Lai đản sinh”, này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
  2. Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác”, này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
  3. Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng”, này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
  4. Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn”, này Ananda, đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.

Này Ananda, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ sẽ đến với niềm suy tư: “Đây là chỗ Như Lai đản sinh”, “Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác”, “Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng”, “Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn”.

Này Ananda, những ai trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.

(Trường Bộ Kinh I, Kinh Đại Bát Niết Bàn).

SUY NGHIỆM:

Không phải ngẫu nhiên mà trước khi nhập Niết bàn, Thế Tôn đã cẩn trọng di huấn môn đệ vấn đề chiêm bái Phật tích. Suy nghiệm về kết quả “những ai trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên”, gần tương đương với thành quả tu tập Bát quan trai giới và Thập thiện giới, mới thấy việc hành hương chiêm bái Phật tích quan trọng đến dường nào.

Bốn Phật tích cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp tu tập và độ sinh của đức Thế Tôn bao gồm:

  • Nơi Thế Tôn đản sinh (Lumbini)
  • Nơi Thế Tôn thành đạo (Bodhgaya)
  • Nơi Thế Tôn chuyển Pháp luân (Isipatana)
  • Nơi Thế Tôn nhập Niết bàn (Kusinara).

Gần hai mươi sáu thế kỷ đã trôi qua, bốn Phật tích về cảnh quan cũng nhạt nhòa và phai mờ vô thường cùng năm tháng nhưng nguồn mạch tuệ giác và từ bi của Thế Tôn vẫn dạt dào. Những ai hội đủ duyên lành được đặt chân lên Phật tích mới cảm nhận sâu sắc những lời huyền ký răn dạy chiêm bái “Tứ động tâm” của Thế Tôn.

Tứ động tâm, bốn nơi làm cho tâm tư của người chiêm bái, khách hành hương rung động, xúc cảm ngập tràn. Vẫn còn văng vẳng đâu đây tiếng nhạc trời du dương và khung cảnh huy hoàng nơi Ngài đản sinh giáng thế. Đây rồi cội Bồ đề linh thiêng ngày xưa Thế Tôn đã ngồi thiền định ngời sáng hào quang. Kia là khu vườn Nai tịch tịnh nơi Ngài đã vận chuyển bánh xe Chính pháp. Và đó là dấu tích cuối cùng, nơi Ngài yên nghỉ nhập Vô dư y Niết-bàn.

Hành hương về xứ Phật để chiêm bái những Thánh tích là ao ước, khát vọng của nhiều Phật tử. Tận trong sâu thẳm nơi tấm lòng mỗi người con Phật ai cũng mong mỏi được ít nhất một lần trong đời chiêm ngưỡng và lễ bái bốn Phật tích, để tiếp nhận thêm niềm tin, sức sống và năng lượng yêu thương từ tuệ giác Thế Tôn.

Đức Thế Tôn đã huyền ký, những ai đã từng một lần chiêm bái Thánh tích rồi từ trần trong thâm tín hoan hỷ thì được sinh về cõi lành. Cho nên thật đại hạnh và phước duyên cho những người con Phật nào đã từng hành hương Phật tích với niềm tin Tam bảo trọn vẹn, sâu sắc nhất.

Những người con Phật nào hội đủ duyên lành thì nên chuẩn bị hành trang về xứ Phật càng sớm càng tốt. Tuy Phật ở Tây Thiên (Ấn Độ) nhưng cũng ở ngay trong tự tâm của mỗi người. Nếu những ai chưa đủ duyên về xứ Phật thì cũng có thể gặp Phật bằng cách hướng vọng về Ngài, trở về và làm sáng tỏ Phật tính nơi tự tâm sáng suốt và trong sạch của chính mình


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm bái Phật tích tâm hoan hỷ sẽ được sinh Thiên

Ý nghĩa về tên gọi –

Tên gọi là “phù hiệu” của một người. Nó không chỉ để phân biệt người này với người khác trong cộng đồng. Nó còn là dấu hiệu riêng biệt trong xã hội. Mỗi người có một hay nhiều tên gọi trong cộng đồng. Song trong xã hội thì chỉ có một tên “chính tắc”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên gọi là “phù hiệu” của một người. Nó không chỉ để phân biệt người này với người khác trong cộng đồng. Nó còn là dấu hiệu riêng biệt trong xã hội.

ktt_16.1_dat_ten1_kienthuc_tnvx

Mỗi người có một hay nhiều tên gọi trong cộng đồng. Song trong xã hội thì chỉ có một tên “chính tắc” và có thể thêm tên hiệu, tên bí danh. Tên chính tắc (tên huý, tên cúng cơm) dùng trong quan hệ hành chính, giao dịch. Nó mang nhiều ý nghĩa và nó cũng chứa đựng nhiều điều kiện, nhiều quy tắc (bất thành văn).

Bởi thế việc đặt tên cho hậu duệ, hay khi muốn thay một cái tên mới không phải là tuỳ tiện, hú họa hay tự tiện đươc. Vì một cái tên được đặt “chính tắc” thì nó đã được luật pháp công nhận, cộng đồng chấp nhận, xã hội công nhận. Tên lúc này thể hiện đầy đủ các thứ “lực” mà nó có như: định danh, ấn định quyền lực, quyền sở hữu, danh giao dịch vv…

Tên vì thế ảnh hưởng không nhỏ đến vận mệnh của một con người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa về tên gọi –

Những thói xấu sẽ ảnh hưởng đến may mắn của bạn

Người thường xuyên thay đổi kiểu tóc thường nóng tính, tâm tình bất định, dễ kích động; hay nhổ nước bọt sẽ dễ mắc bệnh hơn bình thường.
Những thói xấu sẽ ảnh hưởng đến may mắn của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hay nhổ nước bọt

Hay nhổ nước bọt lung tung chắc chắn là một thói quen xấu. Không chỉ mất vệ sinh mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe. Những người hay nhổ nước bọt sẽ dễ mắc bệnh hơn bình thường.

2. Thường xuyên thay đổi kiểu tóc 

Người hay thay đổi kiểu tóc thường nóng tính, tâm tính bất định, dễ kích động. Khi giao tiếp họ rất thẳng thắng, dễ vô tình làm ảnh hưởng tới người khác, không nhận được nhiều thiện cảm từ mọi người.

Untitled-1-9440-1423647762.jpg

3. Liên tục thay đổi trang sức

Nhiều người cho rằng đây không phải vấn đề gì to lớn, thích đeo cái gì liền đeo cái đó. Thật ra những món đồ trang sức mang theo sức mạnh tâm linh có ảnh hưởng đến vận khí của người mang nó. Nếu liên tục thay đổi trang sức có thể dễ bị phản vận khí, tiền tài cũng không ổn định, dễ xảy ra mất mát.

4. Liên tục thay đổi phòng ngủ

Phòng ngủ là nơi chúng ta nghỉ ngơi để phục hồi năng lượng sau một ngày dài, nếu cứ liên tục thay đổi phòng ngủ dễ khiến cảm xúc bị ảnh hưởng. Đặc biệt là về mặt tình cảm hôn nhân, bởi vì khí không ổn định cho nên sẽ ảnh hưởng đến sự giao tiếp thấu hiểu giữa hai người.

5. Liên tục di chuyển quầy thu ngân

Đối với người làm kinh doanh thì quầy thu ngân là một vật dụng quan trọng. Muốn xem phong thủy của một cửa hàng là tốt hay xấu thì ngoài hướng cửa ra thì còn phải chú ý đến phương vị của quầy thu ngân. Nếu quầy thu ngân bị động nhiều thì sẽ dễ loạn khí, ảnh hưởng đến tài vận.

2-2870-1423647763.jpg

6.  Liên tục dịch chuyển bể cá

Bể cá thuộc tính thủy, tác dụng của nước trong phong thủy nếu không phải đại cát sẽ là đại hung, bởi vậy nó rất quan trọng. Hơn nữa nước trong bể cá lại có tính lưu động, dễ gây ra đại hung. 

Ngoài những thói quen trên, còn nhiều thói xấu khác cũng ảnh hưởng đến vận khí của chúng ta, bởi vậy nếu tật xấu nào có thể sửa đổi thì nên sửa đổi.

Kunie (theo astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thói xấu sẽ ảnh hưởng đến may mắn của bạn

Top 4 con giáp sống tốt để khỏe mạnh

Sức khỏe là thứ quý giá mà ai cũng mong muốn, ai cũng cầu mong mình khỏe mạnh để hưởng thụ cuộc sống này.
Top 4 con giáp sống tốt để khỏe mạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sức khỏe là thứ quý giá mà ai cũng mong muốn, ai cũng cầu mong mình khỏe mạnh để hưởng thụ cuộc sống này, người ta thường ví “Có sức khỏe là có tất cả, không sức khỏe là không có gì”.

  Tý, Sửu, Tị và Mùi là 4 con giáp vô cùng may mắn vì sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, ít khi phải lo lắng về bệnh tật và sức khỏe, từ đó dễ dàng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong cuộc sống.

Top 4 con giap song tot de khoe manh hinh anh
Ảnh minh họa
 
Tuổi Tý
Người tuổi Tý từ khi sinh ra đã có tài vận rất tốt, thích hợp với các công việc kinh doanh hoặc lĩnh vực tài chính, nhờ vào tài vận và tài năng của bản thân mà họ nhanh chóng gặt hái được nhiều thành công. Tuy nhiên, sự nghiệp của họ sẽ đi xuống nếu sức khỏe yếu. Người tuổi Tý cần chú ý và đề phòng cẩn thận để phúc khí tích tụ nhiều để có thể vượt qua mọi bệnh tật và tai nạn lớn.
 
Tuổi Tị
Vốn là con giáp có trí thông minh cao nên người tuổi Tị thường không cam tâm khi chỉ là người làm thuê, không có địa xã hội, cho dù họ không có bằng cấp hoặc gia đình không có điều kiện đi chăng nữa. Tuy nhiên, để đạt được thành công thì người tuổi Tị cần chuẩn bị cho bản thân thật tốt và nhanh nhạy trong việc nắm bắt cơ hội nghề nghiệp. Người tuổi Tị cũng khá thận trọng và chính đức tính cẩn thận này giúp cho họ tránh được nhiều tai ương về sức khỏe.

Top 4 con giap song tot de khoe manh hinh anh 2
Ảnh minh họa
Tuổi Sửu
Người ta có thể dễ dàng nhận thấy ở người tuổi Sửu một sức khỏe và tinh thần luôn tráng kiện. Điều này có được là do bản tính kiên trì, không chấp nhận sống một cuộc sống bình thường, càng không chấp nhận sự sa ngã. Tính cách tích cực của người tuổi Sửu có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của họ, chính sự nỗ lực không ngừng đã mang lại phúc khí cho bản thân họ, vậy nên cả cuộc đời hiếm khi người tuổi Sửu gặp vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, gia đình luôn êm ấm hạnh phúc. 
 
Tuổi Mùi
Người tuổi Mùi không phải là người nhu nhược, hèn yếu, mặc dù họ không hay tranh cãi hoặc tham gia vào các cuộc xung đột với người khác. Người tuổi Mùi lương thiện, hồn nhiên và họ đối đãi với mọi người bằng sự chân thành và thành tâm. Họ dùng chính những đồng tiền mình kiếm được để giúp đỡ những số phận khó khăn, với họ giàu có không phải là có tiền, giàu có nhưng chưa chắc đã được mọi người tôn trọng, chỉ những đồng tiền chính đáng, tự bản thân mình kiếm được thì mới được mọi người tôn trọng. Người tuổi Mùi nhận được rất nhiều thiện cảm từ mọi người chính vì vậy mà khi gặp biến cố, người tuổi Mùi thường dễ dàng vượt qua vì luôn luôn có người giúp đỡ.   
=> Bói tử vi khoa học để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

S.T

Những “nàng giáp” đáng để bạn yêu sâu đậm một đời
– Không chỉ sở hữu vẻ bề ngoài xinh xắn, những nàng giáp dưới đây còn có nét đẹp trong trẻo về tâm hồn, đáng để phái mạnh dành tình yêu sâu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp sống tốt để khỏe mạnh

Mưa bụi và mưa rào

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu chuyện thứ nhất:

Người đệ tử vì không câu nệ, không chú ý đối với các tình tiết và các chi tiết nhỏ trong đối nhân xử thế, tự nhận thấy rằng những tình tiết nhỏ ấy không quan trọng, không liên can và đáng kể gì.

Một ngày, vị thiền sư hỏi đệ tử của mình: “Con có biết mưa rào và mưa bụi, loại mưa nào sẽ dễ dàng làm ướt quần áo của chúng ta không?”

“Đương nhiên là mưa rào rồi ạ!” Người đệ tử nhanh nhảu đáp.

“Nhưng mà trong cuộc sống, dễ dàng làm ướt quần áo người ta lại là mưa bụi chứ lại không phải mưa rào đâu.” Vị thiền sư nói.

“Mưa rào hạt mưa nặng hạt, còn mưa bụi phất phất nhẹ bay, sao có thể dễ dàng làm ướt quần áo được ạ?” Người đệ tỏ vẻ khó hiểu.

“Bởi vì một khi nếu trời đổ mưa to, mọi người sẽ nhanh chóng cảnh giác hơn, người mang theo dù sẽ liền mở dù lên che mưa, người không mang theo dù sẽ liền trú mưa dưới những mái hiên. Nhưng nếu chỉ là mưa bụi, mọi người sẽ khó có cảm giác thấy ướt ngay, hoặc là có cảm thấy thì cũng không can chi, cho rằng chỉ lất phất vài hạt mưa nhỏ không đủ làm ướt quần áo, thế là họ cứ tự để mình đi trong mưa như thế, bất tri bất giác – như thể không hề hay biết, không hề cảm nhận thấy kẽ hở, cứ để hạt mưa lâm li thấm ướt hết cả quần áo.”

Người đệ tử im lặng, đăm chiêu.

Vị thiền sư giảng: “Trong đối nhân xử thế, lời nói và cử chỉ của chúng ta ví như một cử chỉ của tay, một cái nhấc chân, một hành động biểu đạt tình cảm hay một câu nói…những điều này đều giống như hạt mưa bụi nhỏ bé kia, nhìn thì rất nhỏ, nhưng nếu không để tâm chú ý, không thận trọng cảnh giác sẽ trở thành sơ hở vô ý hay cố ý mà làm ướt ‘quần áo’ của người khác”, tổn thương và phương hại người khác, đồng thời cũng là nguyên do ‘ướt’ sang cuộc đời của chính mình, khiến cuộc đời của mình phải chịu tối mờ, nan khó và tổn thất.”

Người đệ tử cuối cùng đã thấu hiểu vì sao mưa bụi lại dễ dàng làm ướt được quần áo của mọi người, là bởi vì người ta đã buông lỏng cảnh giác đối với mưa bụi.

Cảm ngộ: “Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” –  Nghĩa là “Chớ thấy việc thiện nhỏ mà không làm, chớ thấy việc ác nhỏ mà phạm. “Vô lậu phương vi nhân sinh chi viên mãn” – đời người mà thực hiện tới được các phương đều vô lậu không rò rỉ, không kẽ hở ấy chính là đi đến cảnh giới của viên mãn.

Câu chuyện thứ hai:

Có một khoảng thời gian người đệ tử cảm thấy cuộc sống sao mà thống khổ, thậm chí phiền não. Vị thiền sư dẫn người đệ tử đến một mảnh đất rộng mênh mông bốn bề không gian khoáng đãng, rồi hỏi: “Con hãy ngước nhìn lên phía trên đầu con, con nhìn thấy gì nào?”. “Thiên không (Bầu trời)” Đệ tử đáp.

Vị thiền sư lại nói: “Bầu trời rất rộng lớn phải không? Nhưng ta lại có thể dùng một bàn tay che khuất được cả bầu trời đấy!”

Người đệ tử không nghĩ ra cách nào tin nổi. Chỉ nhìn theo vị thiền sư dùng một bàn tay và che kín lên hai mắt của đệ tử, rồi hỏi: “Con bây giờ có còn trông thấy bầu trời nữa không?”

Tiếp theo vị thiền sư hướng vào trọng điểm câu chuyện nói tiếp: “Trong cuộc sống, một chút thống khổ, một chút phiền não, một chút trở ngại cũng giống như bàn tay này, nhìn bàn tay thì thấy quả nhiên nó rất nhỏ, nhưng nếu không bỏ nó xuống, luôn cứ kéo nó lại gần mà nhìn, cứ mang nó đặt ở trước mắt mình, gác nó ở trong đầu và trong tâm tưởng, chính là sẽ giống như cái bàn tay này vậy, che khuất hết cả bầu trời thanh trong và quang đãng của chúng ta. Thế là, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất ánh thái dương của cuộc đời, bỏ lỡ mất bầu trời màu xanh trong, lỡ nhịp những áng mây ngũ sắc cùng ráng mầu rực rỡ mỹ lệ.”

Người đệ tử cuối cùng đã hiểu rõ căn nguyên gốc rễ nỗi thống khổ của mình.

Cảm ngộ: Đau khổ hay vui vẻ đều là do tự mình lựa chọn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mưa bụi và mưa rào

Ý nghĩa sao Thiên Cơ - Đặc tính chỉ Huynh Đệ và Phúc Thọ

Vì sao Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thiên Cơ - Đặc tính chỉ Huynh Đệ và Phúc Thọ

Ý nghĩa sao Thiên Cơ - Đặc tính chỉ Huynh Đệ và Phúc Thọ

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh

Tính: Âm

Hành: Mộc

Loại: Thiện Tinh

Đặc Tính: Huynh đệ, phúc thọ

Tên gọi tắt thường gặp: Cơ

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 2 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.

Vị Trí Ở Các Cung Của Sao Thiên Cơ

Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Mão, Dậu.

Vượng địa ở các cung Tỵ, Thân.

Đắc địa ở các cung Tý, Ngọ, Sửu, Mùi.

Hãm địa ở các cung Dần, Hợi.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo:

Cung Mệnh có Thiên Cơ đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn.

Sao Thiên Cơ hãm địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, da trắng, mặt tròn.

Tính Tình:

Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí, làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi.

Thiên Cơ hãm địa thì có óc kinh doanh, kém thông minh nhưng cũng là người nhân hậu, tài ba.

Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ:

Thiên Cơ đắc địa thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh. Đặc biệt ở Thìn, Tuất thì khả năng nghiên cứu rất cao, nhất là trong ngành chính trị, chiến lược, tham mưu giỏi. Ở Mão Dậu, đồng cung với Cự Môn, người đó có tài tham mưu, kiêm nhiệm cả văn lẫn võ. Tài năng và phú quý rất hiển hách. Riêng với người nữ thì đảm đang, khéo léo, lợi chồng ích con, được hưởng phú quý và phúc thọ song toàn.

Nếu Thiên Cơ hãm địa thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công. Riêng với người nữ thì vất vả, muộn gia đạo, hoặc gặp nghịch cảnh chồng con, đau đớn vì tình. Nếu gặp sát tinh như Hóa Kỵ, Thiên Hình, thì tai họa, bệnh tật rất nặng và chắc chắn không thọ.

Những Bộ Sao Tốt Đi Với Sao Thiên Cơ:

Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược.

Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão Dậu: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược; nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững.

Thiên Cơ, Vũ Khúc, Hồng Loan (nữ mệnh): Có tài năng về nữ công, gia chánh (thợ may giỏi, khéo tay, chân).

Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương (Cơ Nguyệt Đồng Lương): Nếu đắc địa cả thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức.

Những Bộ Sao Xấu Đi Với Sao Thiên Cơ:

Thiên Cơ, sát tinh đồng cung: Trộm cướp, bất lương.

Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh: Gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phụ Mẫu:

Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Cha mẹ khá giả.

Đơn thủ tại Hợi, Tý, Sửu: Cha mẹ bình thường. Cha mẹ và con không hạp tính nhau. Có cha mẹ nuôi, hoặc cha mẹ chắp nối.

Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Thân: Cha mẹ khá giả.

Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Dần: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm có sự xa cách cha mẹ.

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Cha mẹ giàu sang và sống lâu.

Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Cha mẹ xa cách, thiếu hòa khí.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phúc Đức:

Tại Hợi, Tý, Sửu: Bạc phúc, họ hàng ly tán.

Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Có phúc, họ hàng khá giả.

Cự Môn, Thiên Lương đồng cung hay Thiên Cơ, Nguyệt tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng khá giả.

Tại Dần: không được hưởng phúc đồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, người nữ hay trắc trở về chồng con.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Điền Trạch:

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung, Cự Môn, Nguyệt ở Thân hay Cự Môn.

Thiên Cơ ở Mão: Có nhiều nhà đất.

Tại Hợi Tý Sửu Dần: Nhà đất bình thường.

Tại Tỵ Ngọ Mùi: Tự tay tạo dựng nhà đất.

Thiên Cơ, Cự Môn tại Dậu: Phá sản hay lìa bỏ tổ nghiệp, nhà đất ít.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Quan Lộc:

Vì Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi.

Thiên Cơ đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Phú quý. Nhưng không được rực rỡ hiển hách. Nên chuyên về kỹ nghệ, máy móc.

Thiên Cơ tại Hợi, Tý, Sửu: công danh muộn màng, chật vật. Nên chuyên về doanh thương hay kỹ nghệ.

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: công danh hiện đạt. Bất cứ làm việc gì cũng cẩn thận, hay suy xét xa gần. Thích đàm luận về chính trị và quân sự. Có năng khiếu về chính trị, quân sự, tham mưu, dạy học, thủ công, doanh thương, kỹ nghệ, cơ khí. Đây là bộ sao đa nghệ nhất.

Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Được hưởng phú quý vững bền. Có nhiều mưu trí và rất ưa thích máy móc.

Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt. Nhưng muộng màng và gặp nhiều trở ngại.

Thiên Cơ, Thái Âm ở Thân, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt.

Thiên Cơ, Riêu, Tướng: Làm bác sĩ rất mát tay.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Nô Bộc:

Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Có tôi tớ, bạn bè tốt, hay giúp đỡ mình, có công lao với mình.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Thiên Di:

Tại Tỵ, Ngọ, Mùi hay Cơ Lương đồng cung hay Cơ Nguyệt đồng cung ở Thân: nhiều may mắn về buôn bán ở xa, được quý nhân phù trợ, trong số đó có người quyền quý (Lương) hay chính vợ (Nguyệt) giúp đỡ mình rất nhiều.

Thiên Cơ, Cự Môn: Cũng giàu nhưng bị tai tiếng, khẩu thiệt vì tiền bạc.

Tại Hợi, Tý, Sửu: Bất lợi khi xa nhà.

Thiên Cơ, Tả Phù, Hữu Bật: Được người giúp đỡ.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tật Ách:

Sao Thiên Cơ tượng trưng cho bệnh ở ngoài da, bệnh tê thấp, hạ bộ, chân tay bị yếu gân, da có bớt, tỳ vết, có sẹo, dễ bị tai nạn xe cộ, hoặc bị tai nạn đi đường, khó ngủ, hoặc nằm mà đầu óc hay phải suy tính, dễ bị lao tổn đến sức khỏe, hệ thống thần kinh, hệ thống hô hấp, gan, mật.

Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Bệnh tâm linh, khí huyết.

Thiên Cơ,Thiên Lương đồng cung: Bệnh ở hạ bộ.

Thiên Cơ, Thái Âm: Có nhiều mụn nhọt.

Thiên Cơ, Kình hay Đà: Chân tay bị yếu gân.

Thiên Cơ, Thiên Khốc, Thiên Hư : Bệnh phong đàm, ho ra máu.

Thiên Cơ, Thiên Hình, Không Kiếp: Bệnh và tai nạn bất ngờ.

Thiên Cơ, Tuần, Triệt: Cây cối đè phải chân tay, bị thương.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tài Bạch:

Thiên Cơ, Cự Môn hay Thiên Cơ, Lương hay Thiên Cơ ở Ngọ Mùi: Phát tài, dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền. Riêng với Cự Môn thì phải cạnh tranh chật vật hơn.

Ở các cung khác: Làm ăn chật vật, thất thường. Duy chỉ có đồng cung với Thái Âm ở Thân thì tự lực lập nên cơ nghiệp khá giả. Nếu có Lộc Mã thì đại phú.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tử Tức:

Thiên Cơ, Lương hay Nguyệt Đức là người có từ 3 đến 5 con. Nếu Thiên Cơ đơn thủ thì ít con.

Cự Môn, Thiên Cơ (hay Cơ Nguyệt ở Dần Thân): Có con dị bào.

Thông thường bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Tử là chỉ dấu về con dị bào, dù không đủ bộ.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phu Thê:

Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Sớm lập gia đình, vợ chồng lấy nhau lúc còn ít tuổi, hoặc người hôn phối nhỏ tuổi hơn mình khá nhiều.

Tại Hợi, Tý, Sửu: Vợ chồng khắc tinh, thường chậm gia đạo.

Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Lấy con nhà lương thiện, vợ chồng hòa hợp, thường quen biết trước hoặc có họ hàng với nhau. Gia đạo thịnh.

Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Vợ chồng tài giỏi có danh chức. Nhưng vì ảnh hưởng của Cự Môn nên hai người thường bất hòa, thường phải hai lần lập gia đình.

Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, Thân: Gia đạo tốt. Nhưng trai thì sợ vợ trong trường hợp Thái Âm ở Thân.

Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Gái kén chồng, trai kén vợ. Cả hai rất ghen tuông.

Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Huynh Đệ:

Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Có anh chị em dị bào, thường là cùng mẹ khác cha.

Thiên Cơ đơn thủ: Ít anh chị em.

Thiên Cơ Khi Vào Các Hạn

Thiên Cơ, Thương Sứ: Đau ốm, tai nạn, đánh nhau.

Thiên Cơ, Tang Khốc: Tang thương đau ốm.

Thiên Cơ Lương Tang Tuế: té cao ngã đau.

Thiên Cơ, Khốc Hỏa Hình: Trong nhà thiếu hòa khí.

Thiên Cơ, Kỵ Hỏa Hình Thương Sứ: Tang thương đau ốm, khẩu thiệt quan tụng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thiên Cơ - Đặc tính chỉ Huynh Đệ và Phúc Thọ

Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia

Tụng kinh là một trong những biện pháp dưỡng tâm rất tốt. Hơn nữa, những Phật tử tại gia cũng thường hay tụng kinh tại nhà để mong điều tốt cho gia đình. Vậy
Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tụng kinh thế nào cho đúng?


► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Huong dan tung kinh cho Phat tu tai gia hinh anh
 
Tụng kinh là một trong những cách để những tư tưởng tốt đẹp, hướng thiện của Phật giáo thấm nhuần vào con người. Tù đó mà hiểu rõ chân lý nhà Phật và thực hành theo trong cuộc sống hàng ngày.
 
Tụng kinh ở chùa là tốt hơn cả vì không khí trang nghiêm và có các sư thầy chỉ bảo. Tuy nhiên, nếu không có điều kiện thì có thể tụng kinh hàng ngày ở nhà cũng rất tốt, dưỡng tâm và tạo phúc lành.
 
Để tụng kinh cho đúng trước tiên phải tẩy trần sạch sẽ, trang phục nghiêm chỉnh, ngồi đứng đoan chính, tụng vừa đủ nghe.
 
Thời khóa tụng kinh, thông thường là có hai thời cố định. Thời khuya, thường tụng chú Lăng Nghiêm và Đại bi thập chú. Còn buổi tối là tụng Kinh Di Đà.
 
Đối với phần nghi thức tụng kinh, trong mỗi quyển kinh ở phần đầu trước khi vào phần kinh văn, đều có chỉ dẫn phần nghi thức. Phật tử có thể y theo đó mà hành trì.
 
Theo giáo lý đạo Phật thì tụng kinh là để cầu an và cầu siêu. Do đó, tụng bộ kinh nào cũng được vì kinh Phật nào cũng có tác dụng phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sinh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. 
 
Tuy nhiên nhiều người lại có quan niệm chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng như: cầu siêu thì tụng kinh Di Đà, Vu Lan,.. cầu an thì tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư,… cầu sám hối thì tụng kinh Lương Hoàng Sám, Thủy Sám… Như thế cũng tốt, vì được chuyên tâm.
 
Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật đều là những lời sáng suốt do lòng từ bi và trí tuệ của Đức Phật nói ra. Nếu chúng ta chí tâm trì tụng, sẽ được nhiều lợi ích cho mình, cho gia đình và những người xung quanh. Đồng thời, ôn lại những lời Phật dạy làm phương châm đời sống hàng ngày để sống hạnh phúc và an lạc hơn.
Theo Lời Phật dạy
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn tụng kinh cho Phật tử tại gia

Bàn tay có đặc điểm thế nào cho thấy rõ người dễ giàu sang, phú quý?

Từ kinh nghiệm của mình, nhiều người chia sẻ những đặc điểm từ lớn đến nhỏ trong bàn tay mà ta có thể nhìn vào và biết độ giàu sang, phú quý của mình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn tay chúng ta là bộ phận rất quan trọng, nhờ đó ta có thể làm việc, tạo tài sản; không chỉ thế qua đôi bàn tay, nhiều người còn tin rằng có thể thấy được quá khứ vị lai… Không chỉ dấu vân tay mà bàn tay của mỗi người, kể cả hai bàn tay của cùng một người cũng không giống nhau, thậm chí vẫn cùng một bàn tay nhưng theo thời gian cũng có sự đổi khác. 
Liên quan đến tiền bạc và sự giàu có, đặc điểm đầu tiên nhiều người sẽ nghĩ ngay đến là các khe ngón tay, do quan niệm khe hở giữa ngón tay khiến tiền bạc bị rò rỉ nên nhiều người tin rằng các ngón tay càng khít với nhau thì khả năng giữ tiền càng tốt.
Bên cạnh đó, dân gian cũng truyền lại một số đặc điểm khác cho thấy khả năng giàu có như:
bàn tay giàu sang
(Ảnh: Internet)

Hình dáng bàn tay
Bàn tay tốt cho đường tài lộc được cho có hình thang, hay hình dạng “nguyên bảo”. Nguyên bảo chính là… nên hình dáng tay này tượng trưng cho việc sở hữu tài chính dồi dào.
Các ngón tay cũng được quan tâm, đặc biệt với tay phụ nữ thì ngón tay càng tinh tế, dài, mảnh mai thì càng càng gần với phú quý, có người còn dựa vào hình dáng này và kinh nghiệm thực tế cho rằng người có bàn tay này không phải làm việc nặng nhọc mà sẽ có công việc nhẹ nhàng, thoải mái nhưng thu nhập cao, có nhiều ý tưởng, kiếm nhiều tiền và cũng chi tiêu nhiều.
Lòng bàn tay
Lòng bàn tay tốt nhất cần đầy đặn, dày, rộng, người sở hữu bàn tay này được cho là sẽ có phúc, của cải sung túc, không phải lo lắng về tiền bạc. Lòng bàn tay có hõm rõ ràng ở giữa cũng được cho là điểm tốt bởi đó là dấu hiệu có nhiều tiền tích trữ và chi tiêu.
Màu sắc
Sắc tay càng nhuận, trắng hồng thì càng tốt, những người này được cho là có “số sướng”, thậm chí không cần nỗ lực nhiều thì cuộc sống vẫn an nhàn, không lo thiếu thốn. Ngược lại, những người lòng bàn tay nhợt nhạt không chỉ gặp khó khăn tiền bạc mà còn vất vả trong nhiều lĩnh vực khác.
Đây cũng là đặc điểm mà nhiều người dễ hiểu nhất bởi màu sắc bàn tay chính là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất của sức khỏe, và như vẫn nói, sức khỏe là tài sản quý giá nhất của mỗi người, không tiền bạc nào có thể so sánh nổi.
bàn tay giàu sang(Ảnh: Internet)
Những đặc điểm nhỏ trong bàn tay
- Ở ngón cái bàn tay trái, nếu thấy “mắt Phật”, hay còn gọi là mắt phượng, mắt Khổng Tử… tức có đường lằn đặc biệt tạo thành hình giống một con mắt, đây cũng là một đặc điểm tốt cho thấy người này thông tuệ, có trực giác tốt và cũng thường là người có cuộc sống no đủ;
- Ở ngón trỏ, đốt thứ hai, nếu thấy 3 đường song song cũng thường không phải lo thiếu tiền, thậm chí có nhiều cơ may tăng tài tấn lộc;
- Ở gần ngón áp út và dưới gốc ngón út, nếu thấy những nếp nhăn nhỏ càng nhiều, càng rõ nét cũng sẽ càng tốt;
- Người có ngón cái cao bằng đốt thứ nhất của ngón trỏ cũng được cho là không phải lận đận vì tiền nong.
Tất nhiên trên đây chỉ là một số đặc điểm truyền miệng, tuy được rút ra từ kinh nghiệm nhưng không bảo đảm chắc chắn với tất cả mọi người. Không chỉ thế, như đã biết, chính bàn tay của chúng ta còn có thể thay đổi theo thời gian nên không nên quá tin và dựa dẫm vào kinh nghiệm này thay vì sự nỗ lực không ngừng của bản thân.
Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn tay có đặc điểm thế nào cho thấy rõ người dễ giàu sang, phú quý?

Đoán tiểu hạn phải linh động

Bài viết về việc giải đoán tiểu hạn phải linh động. Đây là một kinh nghiệm rất hữu ích.
Đoán tiểu hạn phải linh động

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những trường hợp: THIÊN HÌNH, THIÊN MÃ VÀ ĐÀO HỒNG NHẬP HẠN

Như các bạn đã biết việc giải đoán tiểu hạn có thể nói là rắc rối, phức tạp nhất. Tôi chỉ xin khép lại giới hạn từ "linh động" trong chủ đề này mà thôi, thực ra việc đoán Tử-vi thì rất mênh mông vô cùng. Vì vậy hôm nay tôi thiết nghĩ không phải là vô ích khi trở lại vấn đề nêu trên. Qua một số cách giải đoán về tiểu hạn về Tử-Vi, tôi có một nhận xét chung là họ đều câu nệ ý nghĩa nguyên thủy của các sao nhập hạn quá mức đến nỗi mắc phải những sai lầm nặng nề trong việc giải đoán vận hạn.

Ví dụ như khi thấy Thiên Hình nhập hạn thì vội cho là sẽ bị thương tích, mổ cắt, giải phẩu..... ; thấy Thiên Mã (nhất là thêm Lưu Thiên Mã) là chắc bẩm sẽ có sự thay đổi, thuyên chuyển công tác...; thấy Đào Hồng thì liền nghĩ tới vấn đề tình ái, ngoại tình hoặc sinh con v.v.... Tôi rất đồng ý là ta cần phải học thuộc đặc tính của các sao, nhưng khi giải đoán, nhất là về tiểu hạn, ta cần phải uyển chuyển và linh động chứ không thể áp dụng một cách máy móc được.

Như khi thấy trời mây đen u ám, sấm chớp ầm ầm, ta đừng vội quả quyết (!?) là sẽ mưa lớn vì thực ra có khi chẳng hề có một giọt mưa nào, do gió thay đổi chiều chẳng hạn... Vậy đặc tính của các sao có thể ví với hiện tượng về thời tiết nghĩa là diễn tiến hoặc kết quả dễ bị thay đổi, và nhiều trường hợp đặc tính của các sao bị biến đổi đến mức ta không còn liên tưởng nổi tới ý nghĩa riêng của chúng nữa.

Bây giờ, để quý bạn đọc dễ hiểu tôi thấy không có cách gì khác hơn là nêu ra dưới đây nhiều trường hợp ứng dụng, chứ không thể nào đưa ra một số nguyên tắc hoặc phương phương-thức để giải đoán, vì phạm vi đề tài này rất mông lung, rộng lớn mà chỉ có nhiều năm kinh nghiệm và thực tập mới có thể thành thạo được.

1- THIÊN HÌNH NHẬP HẠN

Có một độc giả tâm sự với tôi rằng ông rât sợ Thiên Hình nhập hạn vì cứ năm nào gặp nó là mang thương tích liền (như tông xe, xe đụng mình hay bị máy cắt, hàn.... trong cơ khí làm tổn thương các bộ phận trên thân thể người, hay trong chiến tranh phải giẫm phải bom, mìn v.v....), đến nỗi bây giờ trên người ông đầy chiến thương (!), và ông khen lấy khen để khoa Tử-vi thật là vi diệu và ứng nghiệm. Tuy nhiên ông có nêu ra một thắc mắc là không hiểu tại sao anh của ông ta gặp hạn Thiên Hình chẳng bao giờ bị một vết trầy da mà lại còn hạnh thông mới kỳ lạ chứ! Ông này có gửi cả hai lá số cho tôi để nhờ giải đáp.

Điểm ông thắc mắc kể ra chẳng có khó hiểu, vì ông không chịu phối hợp với Mệnh, Thân và một vài yếu tố khác. Ông ta bị thương lu bù là phải vì Mệnh của ông có Thất Sát hội Kình Dương cư Ngọ mà Đại Hạn lại có Hỏa Linh, Không Kiếp cho nên Tiểu hạn mà có Thiên Hình (dù là bàng chiếu) thì khó tránh được tai nạn. Còn anh ông ta là một nhà Điêu khắc sư (do ông cho biết) cho nên gặp hạn gặp Thiên Hình lại tốt vì Thiên Hình ứng vào: búa, đục, dao, kéo.... tức là đồ nghề chuyên môn để tạo nên những pho tượng hoành tráng, tuyệt mỹ, nhất là hạn lại thêm Xương Khúc, Hỷ Thần và xa lánh được những hung sát tinh (ở Đại Hạn cũng như ở Tiểu hạn), như thế làm sao chẳng hạnh thông.

Nếu anh của ông không gặp hạn có Thiên Hình, đương nhiên là yếu đi vì đã là điêu khắc sư mà lại thiếu đồ nghề, dụng cụ thì làm sao thực hiện các tác phẩm của mình. Cũng như trường hợp các nhà Luật (như: Thẩm phán, Bào chữa, Luật Sư.... ) nếu gặp hạn có Thiên Hình thường thêm uy quyền vì Thiên Hình chủ về cứu xét, thanh tra, kiểm tra... miễn là không gặp nhiều hung sát tinh làm thay đổi sự ứng dụng của Thiên Hình.

Nhưng, những người nào có mạng hay bị tù tội (như có Liêm-Tham ở Tỵ- Hợi hội hung sát tinh) mà gặp hạn có Thiên Hình, thì rất đáng ngại, vì Hình lúc đó chủ về cây bút để viết thành bản án, nhất là khi có thêm Xương-Khúc tượng trưng cho văn kiện, giấy tờ.

Những trường hợp trên đây tương đối dễ tìm hiểu, nhưng có trường hợp rất khó giải đoán, như hạn gặp đủ cả Hỏa Linh, Hình, Không Kiếp, Kình Đà, Phục... ai mà chẳng e ngại tai ương xảy ra. Thế mà có khi lại tốt đẹp nếu các sao này nhập hạn ở cung Điền-Trạch mà đương số là một điền chủ vì các sao này ứng vào các nông cụ, tá điền, máy cày... khiến cho ruộng đất trở nên phì nhiêu, mùa màng tốt đẹp, nhưng nếu chẳng may các sao trên nhập hạn cung Giải Ách thì đương số bất luận là ai cũng dễ chết phi mạng.

Riêng tôi năm nay có Đại hạn-Tiểu Hạn trùng phùng có Thiên Phủ hội Thiên Hình, Tứ linh, Xương Khúc, Diêu Y, Tứớng Ấn, Quan Phúc.. tại cung Thê. Mạng đồng hành với Chính tinh là Thiên Phủ, Thiên Hình và không có Lục sát tinh hội chiếu, nên ứng vào một khía cạnh hơi đặc biệt, xin kể cho các bạn biết là tham gia và gửi bài vào các diễn đàn học thuật, phải chăng Thiên Hình ngày nay ứng vào máy vi tính, Internet, các phương tiện truyền thông tin...

2- THIÊN MÃ NHẬP HẠN

Về sao Thiên Mã cũng vậy, đa số các bạn cứ nghĩ rằng là cứ có sao này nhập hạn mà lại gặp thêm cả Thiên Mã lưu niên thì 100 % là có sự thay đổi nhà cửa, công danh... Tin tưởng như thế cũng không phải là hồ đồ vì thực ra có rất nhiều trường hợp ứng nghiệm, nhưng muốn cho chính xác hơn ta vẫn phải phối hợp với nhiều yếu tố khác. Nếu không phối hợp thì vô hình trung ta đã giải đoán theo kiểu "serie", không khác gì chỉ căn cứ vào năm sinh như các cẩm nang hàng chợ Tử-vi hàng năm bày bán trên thị trường.

Thực tế, ví dụ chẳng hạn như năm nay là năm Ất Mão, Lưu Thiên Mã ở cung Tỵ gây ảnh hưởng thay đổi cho rất nhiều tuổi, như tuổi Dần, Hợi (Nam), Sửu (Nữ) v.v... là những tuổi Tiểu Hạn năm Mão ở cung Tỵ, đó là chưa kể đến nhiều tuổi khác cũng gặp Lưu Thiên Mã chiếu. Nếu Tiểu hạn ở cung Hợi, Dậu, Sửu, Thân. Nhưng trên thực tế chắc chắn là ta không thể thấy các tuổi đó đều gặp sự thay đổi, ngay cả các tuổi Tiểu Hạn đi đến cung Tỵ. Đặt vấn đề như thế không có nghĩa là tôi phủ nhận ý nghĩa nguyên thủy của sao Thiên Mã, cố định cũng như lưu niên, nhưng tôi muốn nói rằng, ý nghĩa đó luôn luôn bị biến đổi dưới nhiều hình thức hoặc có trạng thái khiến cho ta nhầm lẫn, mặc dầu sau khi sự việc xảy ra ta vẫn thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã phần nào. Ở đây tôi không bàn đến cách giải đoán bình thường của sao Thiên Mã (nhất là lưu Thiên Mã) như các sách Tử-vi đã nêu ra. Tôi chỉ muốn đề cập tới một số trường hợp mà " hiện tượng" Thiên Mã đã chuyển biến hoàn toàn:

- Tôi có được xem một lá số Tiểu hạn đi tới cung Thiên Di gặp đủ các sao Thiên Mã cố định lẫn lưu niên và còn thêm cả Thiên Đồng. Như thế ai chẳng chắc đoán là đương số di chuyển không xa thì gần, nhưng suốt cả năm không thấy đương số đi đâu cả mà cũng chẳng hề có chuyện thay đổi việc làm, chức vụ hoặc nhà cửa... Sau khi thấy không ứng nghiệm, tôi liền nghiên cứu lại lá số đó và vẫn không hiểu nổi tại sao?. Mặc dầu cũng cố tìm ra được một yếu tố là Mạng của đương số thuộc loại " ru rú xó nhà " (có Thiên Phủ hội Long-Phượng, Thai-Tọa đồng cung) mà Đại hạn không có môi trường gì thuận lợi cho việc di chuyển, nhưng riêng về Tiểu Hạn tôi vẫn ấm ức không biết Thiên Mã đã ứng vào khía cạnh nào. Về sau tình cờ đương số cho to tôi biết là người anh ruột của đương số ở ngoại quốc học mới về sau khi tốt nghiệp bậc Đại Học bên Tây. Lúc đó tôi mới vỡ lẽ ra và thấy ý nghĩa của sao Thiên Mã vẫn ứng nghiệm, nhưng đã thay đổi hiện tượng quá nhiều...

Thường thường Tiểu hạn đến cung Tài-Bạch gặp Lộc-Mã lưu niên ai mà chẳng nghĩ tới chuyện di chuyển vì kinh doanh, buôn bán hoặc ít ra công danh cũng thay đổi không nhiều thì ít, nhưng trên thực tế tôi đã gặp nhiều lá số với Tiểu hạn như vậy mà chẳng hề có việc di chuyển hay thay đổi gì. Trường hợp này tuy khác thường nhưng không khó giải đoán lắm, vì tôi đã gặp khá nhiều lá số có "lộ" ra chiều hướng đó. Quý bạn chỉ cần cân nhắc xem đương số có thuộc loại người xoay xở, bôn ba, bon chen để làm giàu hay không? (khía cạnh này chắc các bạn cũng tím ra được) rồi coi tiếp Đại hạn có khuynh hướng buôn bán hay không? Nếu đều không cả, thì gặp Tiểu hạn như trên chẳng thể có di chuyển hoặc thay đổi gì về sự nghiệp. Và khi đó thường thường Thiên Mã ứng về Tài Lộc bất ngờ, như ở trên trời rớt xuống, nghĩa là có thể trúng số lớn hoặc được ai cho một món tiền đáng kể nhất là khi có thêm Song-Hỷ và Không Kiếp đắc địa tại Tỵ hoặc Hợi, hoặc được Đại Hạn có Khôi Việt, Quang Quý, Quan Phúc chủ về môi trường thuận lợi cho tiền bạc vào bất ngờ một cách mau chóng và lợi lạc. Trường hợp trên Thiên Mã không khác gì " Sứ giả " tài lộc đem tiền lại cho mình và như thế ý nghĩa sao đó vẫn còn tồn tại.

Sau hết tôi xin nêu ra trường hợp Tiểu hạn đi đến cung Quan Lộc có đủ cả hai sao Thiên Mã cố định và lưu niên rồi lại còn có cả Thiên Không và Thiên Đồng hợp chiếu, nghĩa là gồm đủ các yếu tố thay đổi cho công danh, chức vụ (vì Tiểu hạn ở cung Quan Lộc)

Thế mà vẫn có một vài "ca" chẳng hề thay đổi mới nhức đầu chứ! Đó là trường hợp lá số có cung Quan Lộc quá bền vững, lâu dài (như có Long Phượng hội Khoa, Quyền, Lộc, Thai Tọa v.v...) đồng thời Mạng không đồng hành với các sao có đặc tính thay đổi tọa thủ tại cung (tức là Thiên Mã trong trường hợp này) và cung Mệnh không có yếu tố hay bị thay đổi hoặc thích thay đổi khiến cho Thiên Mã phải chuyển hướng ứng nghiệm, nghĩa là làm cho những người đồng nghiệp của mình (trên cũng như dưới) phải bị thay đổi, sa thải hoặc thuyên chuyển (ngày nay gọi là sáo trộn nhân sự tại cơ quan), vì thực ra các sao ở cung Quan Lộc đâu có phải chỉ ứng vào cá nhân mình mà còn chi phối cả những người cùng làm xung quanh mình. Do đó, gặp trường hợp trên nếu quý bạn cứ quyết đoán là đương số thay đổi công dạnh, chức vụ, sự nghiệp... thì có phải là " hố " nặng nề không?.

3- ĐÀO, HỒNG NHẬP HẠN

Sau hai sao Thiên Hình và Thiên Mã, tôi cần bàn thêm về các sao Đào Hồng nhập hạn thường là một đề tài sôi nổi và gay cấn cho nhữing người mới nghiên cứu Tử-vi, Nam cũng như Nữ. Thực tế, khi thấy Đào Hồng nhập hạn, người thì cho rằng ứng vào thai nghén, sinh đẻ, người thì nghi ngờ sẽ có chuyện tình ái, vương lụy... kẻ thì mừng là sẽ gặp tin vui, may mắn bất ngờ v.v... Đúng ra những điều trên bình thường vẫn xảy ra nhưng khi gặp những trường hợp phức tạp, ý nghĩa này sẽ không còn ứng nghiệm nữa.

Ví dụ như có người hạn gặp Đào Hồng chẳng những không được may mắn mà còn bị lường gạt, mưu hại do các sao Hóa Kỵ, Phục Binh, Không Kiếp, Tả Hữu gây ra, nhất là khi tiểu hạn đi đến cung Nô Bộc, Thiên Di, Quan Lộc hoặc Tài Bạch.

Còn về chuyện vương lụy, tình ái... cũng vậy. Nhiều khi Đào Hồng hội đủ cả Song Hỷ, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái nhập hạn mà suốt năm chẳng thấy có gì liên hệ đến phương diện tình cảm, chứ chưa nói tới tình ái. Đó là trường hợp cung Mệnh của đương số đứng đắn, đàng hoàng, chí thú làm ăn mà Tiểu Hạn đi đến cung Điền Trạch, vì khi đó các sao " lả lướt " mất môi trường hoạt động và chuyển sang ý nghĩa tô điểm, sửa sang nhà cửa cho sáng sủa, đẹp đẽ hơn hoặc thay đổi những đồ cũ và sắm bàn ghế, giừơng tủ, đồ đạc, xe mới....

Viết bài hôm nay, tôi không dám có chủ đích chỉ dẫn quý bạn giải đoán cho thật chính xác Tiểu Hạn vì khía cạnh này rất mênh mông và khó khăn mà chính tôi nhiều khi cũng điên đầu không sao tìm ra được những điểm sai lầm hoặc không ứng nghiệm. Tôi nêu ra những trường hợp kể trên chỉ cốt giúp quý bạn có một ý niệm tổng quát về ý nghĩa linh động của các sao Tử-Vi ; nhất là về Tiểu Hạn để tránh được phần nào thất vọng khi gặp những lá số rắc rối, phức tạp hoặc mơ hồ, dễ khiến chúng ta lầm lẫn./.

KHOA HỌC HUYỀN BÍ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tiểu hạn phải linh động

ý nghĩa và nguồn gốc ngày 29 tháng 2

Ai cũng biết, theo lịch Dương thì cứ 4 năm sẽ có một năm nhuận, tức là tháng 2 của năm đó sẽ có thêm 1 ngày so với 28 ngày như bình thường.
ý nghĩa và nguồn gốc ngày 29 tháng 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  Thế nhưng nguồn gốc của việc vì sao lại có ngày 29/02 thì không phải ai cũng biết.

  Chúng ta vẫn quan niệm một năm sẽ có 365 ngày nhưng trên thực thế thì để quay hết một vòng quỹ đạo quanh Mặt Trời thì Trái Đất cần tới 365 ngày, 5 giờ, 48 phút và 46 giây.
 
Chính phần 5 giờ, 48 phút và 46 giây này đã tạo ra nhu cầu 4 năm phải có một năm nhuận. Theo thời gian, nếu không có sự hiệu chỉnh, năm theo lịch sẽ lệch khỏi năm mặt trời và sự lệch đó ngày một tăng dần. Ví dụ, nếu không có hiệu chỉnh, năm theo lịch sẽ lệch đi khoảng 1 ngày sau 4 năm. Nó sẽ lệch 25 ngày sau 100 năm. Bạn có thể thấy, nếu càng lâu mà không có năm nhuận bổ sung hiệu chỉnh cho dương lịch, thì cuối cùng tháng 7 sẽ là mùa đông ở bán cầu Bắc.
 
y nghia va nguon goc ngay 29 thang 2 hinh anh
Ảnh minh họa

 
Nếu không có ngày nhuận này thì chúng ta sẽ ra sao?
Nếu chúng ta không bao giờ có năm nhuận, hiện giờ có lẽ chúng ta đang ở khoảng giữa năm 2017.
 
Với giả thiết rằng chúng ta bắt đầu tính từ thời Julius Caesar đại đế và Cleopatra vào năm 46 trước Công Nguyên (CN). Trên chuyến hành trình tới Alexadria, qua sự sắp xếp Cleopatra, Caesar đã gặp các nhà thiên văn Ai Cập. Người Ai Cập đã tìm ra được điều mà người La Mã bỏ qua: Đó là các ngày  không trùng khớp trong 1 năm.
 
Có khoảng 365,2422 ngày mỗi năm. Và con số này đang dần rút ngắn do lực thủy triều khiến quỹ đạo Trái Đất chậm lại.
 
Với cách tính lịch mới của Ceasar, cứ sau 3 năm 365 ngày Đế chế La Mã sẽ có 1 năm 366 ngày. Theo cách này, lịch sẽ tiếp tục bị “nhuận” để khiến nó trùng với năm dương lịch trước khi 2 hệ thống tính thời gian này bị đẩy xa nhau.
 
Để sẵn sàng cho việc chuyển đổi Caesar phải khiến lịch La Mã có thể theo kịp năm dương lịch. Cho tới sau này, người La Mã đã sử dụng thêm lịch âm. Nhưng vào năm 46 trước CN, Caesar đã đưa thêm vào lịch 80 ngày, sự kiện được biết đến như “năm bị nhầm lẫn”.
 
Điều không may đó là kế hoạch lặp lại 1 năm nhuận sau mỗi chu kỳ 4 năm đã vượt quá mốc. Theo Duncan sự khác biệt giữa phần tăng thêm 0,2422 ngày trong năm dương lịch và phần tăng thêm 0,25 ngày trong lịch dương, tương đương 11 phút và 14 giây. Nghe qua thì có vẻ không nhiều nhưng sau mỗi 4 năm thời gian trên lịch sẽ bị giảm khoảng 45 phút và sau 125 năm, lịch sẽ bị mất 1 ngày.
 
Lịch theo cách tính của Ceasar vẫn chưa được cố định trong suốt 1.600 năm. Cuối cùng, vào giữa những năm 1570, người ta đã thuyết phục Giáo hoàng Gregory XIII cần phải làm một điều gì đó. Số ngày bị giảm quá nhiều khiến khó có thể theo dõi các ngày lễ, đặc biệt là lễ Phục Sinh. Vì vậy đức Giáo hoàng đã cho cải tổ lại lịch với mục tiêu tìm ra ngày Phục Sinh và các ngày khác một cách chính xác và đúng đắn.
 
Ủy ban cải cách khẳng định rằng lịch của Ceasar đã đưa thêm ngày nhuận vào quá thường xuyên và thực tế theo tính toán của họ thì lịch đã bị mất 10 ngày.
 
Hội đồng này đã đề nghị bỏ 10 ngày ra khỏi lịch và đề ra thêm một quy tắc đối với hệ thống năm nhuận đó là: bỏ qua 3 trong số 4 năm nhuận mà con số cuối của năm đó là “00”. Nhưng nếu năm đó chia hết cho 400, ngày nhuận sẽ được giữ nguyên. Đó là lý do tại sao năm 2000 lại là năm nhuận trong khi các năm 1900, 1800 và 1700 lại không phải. Ngày nhuận sẽ bị bỏ qua trong năm 2100 nếu lịch Gregorian (Công lịch) vẫn không đổi trong 84 năm tính từ lúc này.
 
Các nước Công giáo La Mã đã nhanh chóng chấp nhận hệ thống lịch mới của Giáo hoàng. Tuy nhiên các quốc gia Tin Lành vẫn tỏ ra nghi ngờ những yêu cầu từ Rome. Nhiều nơi không chấp nhận lịch này cho tới tận năm 1775.

S.T

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ý nghĩa và nguồn gốc ngày 29 tháng 2

Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Nguồn gốc của ngày Tết Trung Thu, ý nghĩa của Tết Trung Thu là gì?, Vì sao các hoạt động như phá cô đêm rằm, rước đèn ông sao hay bánh trung thu lại được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch.
Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong tục của người Việt và một số nước khu vực Đông Á, thì Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mua thu, chính là ngày 15 tháng 8 âm lịch. Trong dịp này, người người , nhà nhà bày mân cỗ cúng gia tiên và bánh trái cúng mặt trăng. Nhưng háo hức nhất vẫn là các em thiếu nhi, vì ngoài ngày 1/6 là Quốc tế thiếu nhi, thì đây là ngày lễ lớn thứ 2 để các em được vui chơi, rước đèn phá cỗ.

Vào ngày Tết Trung Thu, người lớn thì uống rượu thưởng trăng, trẻ em thì được xem múa lân, rước đèn ông sao, hát các bài hát về Trung Thu, Chị Hằng, chú Cuội, và cùng nhau phá cỗ. Tuy đây là một phong tục hàng năm, nhưng nguồn gốc của ngày này do đâu mà có và có từ thời gian nào?

 

Nguồn gốc về Chị Hằng, Chú Cuội và Cung Trăng

Theo sử sách từ Trung Quốc thì có khá nhiều sự tích kể về Chị Hằng và nguồn gốc của tết Trung Thu. Tuy nhiên, lịch sử sách nước ta, thì sử tích chú Cuội và gốc đa chắc chắn em nhỏ hay người lớn nào cũng được biết. Bởi câu chuyện này đã được đưa vào chương trình sách giáo khóa cho các em học sinh tiểu học. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì Tết Trung Thu là sự tích bắt đầu từ Hằng Nga, Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hòa được lên cung trăng.

Với truyền thuyết Hằng Nga- Hậu Nghệ thì từ thời xa xưa, trên trời xuất hiện 10 ông mặt trời, chiếu xuống trái đất làm khô cạn hết sông ngòi, mọi vật và sinh linh trên trái đất không thể sống nổi. Vì thế nên một anh hùng tên là Hậu Nghệ đã trèo lên ngọn núi Côn Lôn, dùng nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Để đáp lại chiến công của Hậu Nghệ, Vua Nghiêu đã ban tặng cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn phải một năm sau mới được uống. Hậu Nghệ nghe lời và làm theo, chàng ta mang về nahf và giấu trong bồ thóc. Vào một hôm chàng đi vắng, Hằng Nga vợ chàng mở bồ thóc ra thì thấy một vật tròn sáng lấp lánh. Biết được là linh dược vua ban, nàng đã uống ngay viên thuốc và bắt đầu bay về trời. Với chiếc nỏ thần trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo vợ nhưng bị thần Gió cản lại, để cho nàng tiên nữ xinh đẹp Hằng Nga bay về cung trăng. Vì nhớ nhung vợ nên Hậu Nghệ đã xây một lâu đăì đặt tên là “Dương”, trong khi đó Hằng Nga cũng xây một lâu đài đặt tên là “Âm”. Và cứ mỗi năm một lần, vào đúng ngày rằm tháng 8 âm lịch thì mặt trăng luôn thật tròn và sáng để chàng Hậu Nghệ có thể trông thấy được vợ mình.

Truyền thuyết thứ hai về vua đường Minh Hoàng: Theo sử sách ghi rằng, vào một đêm khi cùng uống rượu thưởng nguyệt với các bá quan văn võ, vua Đường ao ước được lên cung trăng một lần. Biết ý vua nên pháp sư – Diệu Pháp đã xin vua làm phép để mang người lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Vua được các vị tiên tiếp rước, bài tiệc đãi đằng, cho hàng trăm tiên nữ múa hát, gảy đàn, gọi là khúc Nghê- Thường vũ y.

Về sau, nhà vua lấy ngày rằm tháng 8 hàng năm để kỉ niệm ngày vua được lên cung trăng, tục ngắm trăng, xem ca mua nhạc dần dần biến thành thú vui chơi đền Trung Thu.

Ý nghĩa của ngày Tết Trung Thu

Tết Trung Thu diễn ra vào ngày 15 tháng 8 theo lịch âm, vào thời gian này thì người Đông Á mình đã thu hoạch xong vụ mùa và đang trong thời gian nghỉ ngơi chuản vị cho vụ thu – đông. Và món ăn đặc trưng nhất trong mùa lễ hội này là bánh trung thu với nhiều hương vị khác nhau, thường được thưởng thức cùng nước trà.

 

Vào đêm Trung Thu, các em thiếu nhi và người lớn cùng nhau rước đèn, múa lân. Người ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là mua lân. Bên cạnh đó một vài nơi còn có tục rước đèn kéo quân trong dịp tết Trung Thu.

Ngoài việc giúp cho trẻ em có một ngày lễ vui vẻ và biết tới truyền thống phong tục của dân tộc thì tết trung thu còn là dịp con cháu đoàn viên bên gia đình, là dịp để con chu tỏ lòng biết ơn, hiếu thảo với ông bà tổ tiên,

Từ sau cánh mạng tháng 8, sau khi Bác Hồ gửi thư Trung Thu cho các cháu thiếu nhi cả nước thì ngày Tết Trung Thu mới thực sự là ngày tết chính thức của tất cả các trẻ em. Ngày nay, trẻ em được chăm sóc, quan tâm và giáo dục tốt hơn, bởi đây chính là tương lai của đất nước.

Xem thêm các bài văn khấn rằm tháng 7 và cách bày lễ cúng rằm tháng 7


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Áp dụng phong thủy trong việc cầu phúc

Cuộc sống luôn luôn biến đổi, ai cũng mong mình được bình an, mọi vận xui được hóa giải. ## xin được mách bạn một số mẹo phong thủy để cầu cho bản
Áp dụng phong thủy trong việc cầu phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống luôn luôn biến đổi, ai cũng mong mình được bình an, mọi vận xui được hóa giải. ## xin được mách bạn một số mẹo phong thủy để cầu cho bản thân, cho bạn bè được vạn sự thuận.

  1. Cầu phúc cho bản thân

Ap dung phong thuy trong viec cau phuc hinh anh
Ảnh minh họa
Trong phòng ngủ, đặt đầu giường hướng về phía Bắc, tại vị trí đó đặt một cái bàn, trên bàn có đặt một bể cá nhỏ, mực nước trong bể chỉ chiếm 2/3, nuôi 6 con cá vàng. Dùng một tờ giấy hình tròn, đường kính 5cm, bên trong có viết 2 chữ “Bình an”, gấp tờ giấy làm 4 rồi đặt dưới đáy bể cá. Hàng ngày ngồi trước bể cá và cầu nguyện trong 3 phút, rất hiệu quả trong việc hóa giải vận xui để cầu may.

2. Cầu phúc cho bạn bè

Ap dung phong thuy trong viec cau phuc hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Viết 3 chữ “Bình an”, “Khỏe mạnh, “Hạnh phúc” vào 3 tờ giấy nhỏ có chiều dài 5cm rồi gấp lại thành hình chữ thập. Gấp 99 ngôi sao may mắn rồi để vào một chiếc bình nhỏ cùng 3 tờ giấy trên, đặt bình trên bàn học, phía bên tay phải. Điều này sẽ cầu phúc, cầu bình an cho người bạn thân tốt của bạn.

3. Cầu phúc cho người bị nạn, người bị thương

Ap dung phong thuy trong viec cau phuc hinh anh 3
Ảnh minh họa
Mua 6 con rùa rồi mang ra bờ sông để phóng sinh, hoặc vào buổi tối thắp 9 ngọn đèn hoa đăng trả lên trời, mong muốn sẽ mang lại vận may cho những người không may lâm vào hoàn cảnh khó khăn.

Lưu ý: Khi làm những việc này phải thật thành tâm thì mới có thể sở nguyện như ý. 

Dọn nhà ngày Tết cấm động 3 “góc chết”
– Trong phong thủy, có 3 phương vị chịu sự cai quản của hung tinh tháng Chạp nên tuyệt đối không được tiến hành tu sửa hay dọn dẹp mang tính
Ngoài những mẹo nhỏ trên thì bạn có thể dành ra chút ít thời gian mỗi ngày để tập Yoga, để dưỡng cho tâm được tĩnh. Trong cuộc sống, hãy thường xuyên làm việc thiện để tích đức cho bản thân.
 
Vận xui đến với ai cũng là điều đáng sợ, thế nhưng lòng người lại vô cùng ấm áp. Hãy dùng một cái TÂM thật tĩnh, thật trong sáng để sống thì gặp dữ sẽ hóa lành, cầu được an khang.  
► Xem ngày tốt xấu chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Phương Thùy
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Áp dụng phong thủy trong việc cầu phúc

Chùa Địch Lộng - Ninh Bình

Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Tại đây còn lưu giữ 3 pho tượng Tam Thế Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khu di tích Động – Chùa Địch Lộng nằm ở xã Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình, Việt Nam. Địch Lộng có nghĩa là tiếng sáo thổi là một danh lam thắng cảnh bậc nhất của tỉnh Ninh Bình. Động – chùa Địch Lộng đẹp tới mức được giới vua chúa quyền quý xưa xếp vào nhóm “Nam thiên đệ nhất động”.

Nếu như vua Tự Đức ban tặng Hương Tích là Nam thiên đệ nhất động, chúa Trịnh Sâm ban tặng Bích Động là “Nam thiên đệ nhị động” thì Địch Lộng cũng được vua Minh Mạng ban tặng là “Nam thiên đệ tam động”, có nghĩa động đẹp thứ ba ở trời Nam.

Điểm độc đáo nhất là quần thể chùa – động Địch Lộng tọa lạc dưới một chân núi cao, phía trước là con sông Đáy chảy hiền hòa. Trong chùa là những ngôi chùa, đình với nhiều lối kiến trúc độc đáo, được lưu giữ từ hàng trăm năm nay. Ở đây có đền thờ Lý Quốc Sư, hồ Bán Nguyệt, 5 tháp cao 3 tầng và 3 gian hạ.

Đặc biệt, tại đây còn lưu giữ 3 pho tượng Tam Thế Phật sơn son thếp vàng được ban vào thời vua Thiệu Trị và tượng Phật Bà Quan Âm, tượng A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối.

Cách ngôi chùa chính 105 bậc đá, là một một hang động đẹp kỳ vĩ. Động chia thành 3 vòng, được người đời gọi là hang thờ phật, hang tối và hang sáng. Bên trong động, toàn bộ lối đi đã được làm bậc lên xuống, tạo thành những vòng cung kỳ vĩ và huyền ảo. Nhiều nhũ đá, được tạo ra từ thiên nhiên trông giống những con vật linh thiêng như rồng, lân, voi quỳ… Từ vùng trũng nhất của động, lên “cổng trời” dài chừng 50m. Đứng trên đây có thể bao quát toàn cảnh quần thể chùa, động Địch Lộng và những cụm khu dân cư xung quanh.

chùa địch lộng
Tam quan trong hang Địch Lộng

Điều đặc biệt, là những nhũ đá ở đây thay đổi theo ánh sáng. Lúc thì màu vàng, màu đỏ trông rất kỳ ảo, du khách gõ vào những nhũ đá sẽ tạo thành những tiếng vang khắp động. Phía trong hang tối, thắp một nén nhang sẽ có cảm giác thanh thản, nhẹ nhõm như đang dứt khỏi thế giới

Hang Tối nằm ở phía trái, vào hang du khách sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhô lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hoá, có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chẩy xuống trông giống như những cột chống trời. Tại đây, du khách sẽ có cảm giác như lạc vào cõi trùng điệp của đá có đủ mọi hình dạng ngoại mục. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét trạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.

Đi hết hang Tối là đến hang Sáng, vì ở trên cao cửa hang Sáng thắt hẹp lại, có khoảng lộ thiên, khi có gió thổi mạn vào trong động phát ra âm thanh của đá nghe như tiếng sáo. Vì vậy động mang tên là Địch Lộng.

Trong động nhiều bậc thang đã được dựng lên để phục vụ du khách tham quan, và vãn cảnh động

Hang phía ngoài được nhiều người gọi là hang thờ Phật. Chính tại nơi đây, nhiều bậc tao nhân mặc khách gặp cảnh động quá đẹp nên tức cảnh sinh tình đề tặng rất nhiều thơ văn.
Vẻ đẹp của Địch Lộng đã được nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương ghi lại như sau:

“Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang núi còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng”.

Dưới chân động là khu vườn Thành Đạo, tương truyền Đức phật Thánh ca là Thái tử con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Gia. Ngài Đản sinh ngày trăng tròn tháng 4 năm 624, trước tây lịch tại vườn Lâm Tỳ Ni. Khi trưởng thành thái tử bỏ lại cung vàng điện ngọc, quyết xuất gia tìm cầu chân tý cứu khổ cho chúng sinh, trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh và 49 ngày nhập định dưới cây Bồ Đề, ngài đã giác ngộ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, chúng đệ tử của ngài rất đông, tiêu biểu là 10 đệ tử đứng đầu tăng đoàn.

Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội vào thời gian từ ngày 6 đến 10 tháng giêng Âm lịch, kéo dài đến hết tháng 3.

Cụm di tích Động – Chùa Địch Lộng điểm đến tham quan thú vị của du khách và phật tử trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Địch Lộng - Ninh Bình

Tìm hiểu ý nghĩa của 4 chữ “ A-di-đà-phật”

" A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức. Đây là tiếng phạn, nếu như theo ý nghĩa của mặt chữ mà dịch thì A dịch thành Vô, Di Đà dịch thành Lượng, Phật dịch thành Giác hoặc dịch thành Trí. Dịch hoàn toàn qua ý nghĩa tiếng Trung Quốc là Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác.
Tìm hiểu ý nghĩa của 4 chữ “ A-di-đà-phật”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Cùng lịch vạn niên 365 tìm hiểu ý nghĩa xâu xa của bốn từ " A Di Đà Phật " trong đạo phật, để hiểu rõ và tâm niệm hơn về bốn chữ này.

A-di-đà là phiên âm chữ Amita, tiếng Sanskrit, dạng viết tắt của hai chữ Amitàbha có nghĩa là Vô Lượng Quang, ánh sáng vô lượng và Amitàyus có nghĩa là Vô Lượng Thọ, thọ mệnh vô lượng. Ðây là tên một vị Phật quan trọng được tôn thờ nhiều nhất trong Ðại thừa, giáo chủ cõi Tây phương Cực Lạc, tiếng Sanskrit là Sukhàvati, và được nhân gian tin thờ sớm nhất trong lịch sử Phật giáo, vào khoảng thế kỷ thứ nhất sau công nguyên 

 " A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức. Đây là tiếng phạn, nếu như theo ý nghĩa của mặt chữ mà dịch thì A dịch thành Vô, Di Đà dịch thành Lượng, Phật dịch thành Giác hoặc dịch thành Trí. Dịch hoàn toàn qua ý nghĩa tiếng Trung Quốc là Vô Lượng Trí, Vô Lượng Giác.

Quí vị thử nghĩ về danh hiệu này, Vô Lượng Trí là bản thể của tự tánh, Vô Lượng Giác là đức dụng của tự tánh, bao gồm hết rồi! Đại đức xưa gọi đây là vạn đức hồng danh, danh hiệu của thể đại dụng chân như tự tánh toàn.

“Dĩ danh chiêu đức, khánh vô bất tận”. Danh và thực nhất định tương ưng. Chúng ta niệm cái danh hiệu này là chiêu đức của ai vậy? Chiêu tự tánh của chính mình, chiêu tánh đức của chính mình. Hay nói cách khác, dùng một câu danh hiệu này đánh thức tự tánh của chúng ta, tìm trở lại tánh đức của chúng ta. Thể dụng của tự tánh chúng ta hoàn toàn không bị mất, mà chỉ bị làm sao vậy? Chỉ mê mất mà thôi. Dùng một câu Phật hiệu này để phá vỡ cái cửa mê này, đánh thức trở lại thể dụng của tự tánh chúng ta.

Nếu như bạn hiểu rõ đạo lý này, thì bạn sẽ quyết chí một lòng chấp trì danh hiệu, bạn mới hiểu được danh hiệu này, pháp môn này, không thể tìm ra thêm một pháp môn nào khác có thể thù thắng hơn nó được. Hơn nữa, nó rất dễ dàng, rất đơn giản. Tất cả mọi thứ của khắp pháp giới hư không giới toàn bộ bao gồm trong đó, khánh vô bất tận.

Ở trong Phật pháp có hai câu nói, nếu như chúng ta thật sự có thể thể hội được, bạn sẽ hiểu rõ, đó là: “Tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới”. Hai câu nói này chúng ta nghe rất quen, cũng nói được, nhưng có nghĩa là gì vậy? Người đích thực có thể thể hội được không nhiều. Đây là toàn bộ pháp giới, người hiện nay gọi là vũ trụ, trong Phật pháp gọi là pháp giới.

Danh từ pháp giới này hay hơn vũ trụ, tại sao vậy? Vũ trụ thì không có linh tri, ở trong pháp giới có linh tri; Pháp giới là sống, còn vũ trụ không phải sống, cho nên danh từ pháp giới này hay hơn vũ trụ. Phạm vi của vũ trụ không lớn bằng pháp giới, vì pháp giới là trùng trùng vô tận, ở trong pháp giới không có lớn nhỏ, không có đến đi, không có trước sau, không có sinh diệt, không có có không, kỳ diệu tuyệt vời, không thể nghĩ bàn. Ở trong vũ trụ không hàm chứa những tư tưởng này ở trong đó.

Danh tướng của Phật học thù thắng.

“Danh dĩ chiêu đức”. Danh hiệu A Di Đà Phật này là tổng danh hiệu, ở trong Phật pháp gọi danh từ thuật ngữ, đây là tổng danh hiệu. Tất cả mọi danh hiệu chư Phật đều từ đây lưu xuất ra, tất cả mọi danh hiệu Bồ-tát cũng từ đây lưu xuất ra, tất cả mọi danh hiệu của chúng sanh vẫn không lìa khỏi nó. Đây là trong kinh Hoa Nghiêm nói, chúng ta đã đọc qua ở trong phẩm danh hiệu Như Lai.

“Tức dĩ chấp trì danh hiệu vi chánh hạnh”. Pháp môn Tịnh-độ, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực-lạc, phải tu như thế nào? Chánh hạnh. Tu hành chính thức chính là niệm Phật. Phật pháp phải phá chấp trước, pháp môn này vẫn cứ dùng chấp trước, chính là chấp trước danh hiệu; ngoài câu danh hiệu ra, tất cả mọi chấp trước khác đều buông xả, không chấp trước thêm nữa, chính là chấp trước danh hiệu này, gìn giữ cái danh hiệu này niệm niệm không mất, gọi là trì. Niệm niệm đều là A Di Đà Phật, đó chính là trì.

Nhớ kỹ, A Di Đà Phật là vô lượng trí, vô lượng giác, niệm niệm giác chứ không mê, niệm niệm chánh chứ không tà, niệm niệm tịnh chứ không nhiễm, đây chính là tự tánh A Di Đà, tự tánh tam bảo. Tam bảo là một thể, một mà ba, ba mà một. Những quán tưởng, tham cứu, trì chú, nghiên cứu giáo lý khác thảy đều không cần, không nên xen tạp những thứ này, chính là một câu Di Đà niệm đến cùng, chí giản dị. Chí là đến chỗ tột cùng, đơn giản đến tột cùng, dễ dàng đến tột cùng. Đơn giản dễ dàng, hơn nữa nó còn trực tiếp, không vòng vo. Trực tiếp đến đâu vậy? Trực tiếp đến minh tâm kiến tánh, trực tiếp đến vô thượng chánh đẳng chánh giác, trực tiếp đến Phật quả cứu cánh viên mãn.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Có người hỏi, không phải người hiện nay, mà người xưa đã có người hỏi, đến thế giới Tây Phương Cực-lạc còn tu pháp môn gì nữa? Đậu cơ thuyết giáo, tức là bạn muốn tu pháp môn nào, bạn liền có thể thành tựu được pháp môn ấy. Ưa thích, vậy là quá hay. Thành thật mà nói với bạn, đến thế giới Tây Phương Cực-lạc rồi bạn sẽ thay đổi ý định. Đổi ý định gì vậy? Một câu A Di Đà Phật này niệm đến cùng, không tu thêm pháp môn khác nữa. Tại sao vậy? Một câu A Di Đà Phật này đã bao gồm tất cả pháp môn ở trong đó rồi. Cũng tức là nói, vạn pháp quy về một. Một chính là tự tánh.

A Di Đà Phật chính là tánh thể, tánh đức, tánh tướng, tánh dụng, chỉ cần bạn khế nhập cảnh giới. Đây là kinh luận các tổ sư đại đức nói rất hay. Nếu như bạn niệm Phật, niệm đến lý nhất tâm bất loạn, thì tất cả pháp thế xuất thế gian tự nhiên thông đạt cả, bạn cần phải học nữa hay không? Bất kể pháp môn nào, có người thỉnh giáo bạn, bạn đều đối đáp trôi chảy, không cần phải suy nghĩ. Cái này kỳ lạ, cái này không thể nghĩ bàn.

Trên thực tế không có gì kỳ lạ cả, nguyên nhân gì vậy? Pháp thế xuất thế gian đều do tự tánh biến hiện ra. Đã là tự tánh biến hiện ra, chỉ cần bạn kiến tánh được rồi thì đâu có lý nào mà không biết. Bạn đối với tất cả các pháp không hiểu, không biết, nguyên nhân căn bản là gì vậy? Là bạn đã mê mất tự tánh. Một câu A Di Đà Phật này khi niệm đến lý nhất tâm bất loạn, triệt kiến tự tánh, viên kiến tự tánh, thì vấn đề chẳng phải đã giải quyết rồi sao, bạn còn đi tìm phiền phức khác sao?

Thế gian này có một số người không biết, nên thiền tịnh song tu, mật tịnh song tu, còn có gì nữa vậy? Thiền mật tịnh tam tu. Thông thường người thế gian chúng ta nghe xong, mới nghe đến, cái này tuyệt quá, cao siêu! Kỳ thực, người trong nghề biết họ đang lòng vòng. Mặc dù có thể thành tựu, nhưng thành tựu của họ không đủ sâu, tại sao vậy? Tinh thần, sức lực của họ bị phân tán rồi. Họ phân thành hai mặt, phân thành ba mặt, họ không chuyên!

Nếu bạn muốn nhanh, hãy chuyên công phu một môn, một mục tiêu, một phương hướng, sẽ nhanh! Không có gì nhanh hơn cái này. Cùng lúc đi hai đường, cùng lúc đi ba đường thì khó lắm, không dễ đâu, lại chậm chạp nữa! Pháp môn này đơn giản thẳng tắt thành đạo vô thượng. Chúng ta phải nhận thức rõ ràng, chỉ có thật sự hiểu rõ thì niềm tin mới kiên cố, nguyện mới không nghi, dứt khoát không đổi. Pháp môn không thể nghĩ bàn.

Cùng xem tiếp điều thứ hai: “Tịnh niệm tương tục, vô hữu gián đoạn, cố danh tư tuệ”. Ngẫu Ích đại sư ở trong đoạn này giảng văn tự hơi dài một chút: “Chấp trì là mổi niệm nhớ đến danh hiệu Phật, như vậy là tư tuệ”. Niệm Phật, niệm không phải niệm bằng miệng. Chữ niệm của niệm Phật không thể thêm chữ khẩu, có rất nhiều người đã thêm chữ khẩu cho nó, vậy là sai rồi, vậy là họ hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của niệm Phật. Niệm Phật là trong tâm thật sự có Phật. Chữ niệm này của Trung Quốc là chữ hội ý.

Bạn xem cách viết của chữ này, bạn phải hiểu được ý nghĩa của nó. Kim tâm, kim là hiện tại. Hiện tại trong tâm có Phật gọi là niệm Phật, không nhất định niệm bằng miệng, trong tâm bạn thật có. Trong tâm không có Phật, cửa miệng có Phật thì không linh, không có cảm ứng. Trong tâm thật sự có Phật, cửa miệng không có Phật, có cảm ứng. Thế thì tại sao niệm Phật vẫn phải niệm thành tiếng vậy? Trong tâm có Phật là tự lợi, niệm ra thành tiếng là lợi tha.

Niệm Phật hiệu ra thành tiếng không phải niệm cho mình, mà niệm cho người khác nghe, niệm cho tất cả chúng sanh nghe. Ta hướng dẫn tất cả chúng sanh niệm Phật, nên niệm ra thành tiếng công đức rất lớn, tự lợi lợi tha. Không niệm ra thành tiếng, đối với người có công phu thiền định Bát-nhã tương đối sâu, họ có thể được lợi ích. Tại sao vậy? Họ thấy tướng được lợi ích. Người có trí tuệ Bát-nhã định lực rất sâu. Ở trong tâm có Phật, tướng của bạn sẽ khác. Cái gọi là: “một niệm tương ưng một niệm Phật, niệm niệm tương ưng niệm niệm Phật”.

Trong tâm bạn nhớ đến Phật, thì Phật ở trong tâm bạn. Phật ở trong tâm bạn thì Phật sẽ gia trì cho bạn, tự nhiên gia trì. Thân của bạn phóng ra hào quang kim sắc, tướng mạo của bạn đoan trang hiền từ, họ có thể nhìn thấy, có thể nhìn thấy thân bạn tỏa sáng, hào quang kim sắc, nên được lợi ích. Nhưng phàm phu không được lợi ích, phàm phu nhìn không thấy, không có năng lực này. Nhưng niệm Phật thì được, phàm phu nhĩ căn là lợi nhất: “Ta bà chân giáo thể, thanh tịnh tại âm văn”.

Bạn niệm ra thành tiếng thì có rất nhiều chúng sanh được lợi ích, ngoại trừ người nghiệp chướng quá sâu thì vô phương, họ không tin, họ không thể tiếp nhận. Tuy là không tin, không thể tiếp nhận, nhưng họ nghe thấy rồi. Nghe thấy gì vậy? Gieo chủng tử vào trong A-lại-da thức. Nên niệm thành tiếng thì: “Ba căn trải khắp, lợi độn đều nhận”. Đây là chỗ hay của niệm Phật.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu ý nghĩa của 4 chữ “ A-di-đà-phật”

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd