Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những điều cần lưu ý về phong thủy phòng khách

Bài trí phòng khách rất quan trọng bởi nó có thể mang đến tài lộc và sự thịnh vượng. Dưới đây là một số gợi ý về bài trí phòng này hợp phong thủy cho gia đình bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Xác định vị trí Minh tài

Theo phong thủy, “vị trí Minh tài” (còn gọi là Minh tài vị) chính là chỗ đối 45 độ với cửa chính của phòng khách.

phong thủy phòng khách 
Sơ đồ một số vị trí Minh tài cơ bản

Trong phong thủy phòng khách, đây là vị trí vô cùng quan trọng, là chỗ giao thoa giữa trường khí bên trong nhà và bên ngoài. Đây cũng là nơi mang tài lộc vào nhà cho gia chủ. Do đó, bạn cần phải giữ vị trí Minh tài luôn sạch và sáng, ngăn nắp, thoáng đãng để tiền bạc dư dã, tài vận hanh thông.

Bạn cần lưu ý, nếu Minh tài vị là góc hẹp, thiếu ánh sáng hoặc không gian nhỏ thì bạn hãy dùng đèn LED warm - light chiếu sáng ở góc này, có thể chiếu từ trần nhà xuống vách hoặc dùng đèn đứng trang trí phòng khách.

bài trí phòng khách 
Đây là cách bố trí đèn hợp phong thủy trong vị trí Minh Tài

Nếu điều kiện lý tưởng về không gian và thẩm mỹ, bạn hãy đặt các vật chiêu tài: Tỳ Hưu, Chậu Tụ Bảo, Túi gấm đỏ, Thiềm Thừ... vào Minh tài vị sẽ có hiệu quả. Tuy nhiên, bạn nên nhờ sự tư vấn từ chuyên gia để có lựa chọn hay nhất.

Bạn cũng cần lau chùi, quét dọn thật ngăn nắp, sạch sẽ Minh tài vị, nếu để mạng nhện bám vào, bụi bẩn, đồ đạc bừa bãi sẽ làm trở ngại các dòng khí vào nhà, khiến cho tài vận không hanh thông.

2. Bố trí nội thất ở hướng Tây phòng khách

Bạn nên chú ý đến hướng Tây của phòng khách khi bố trí phong thủy chiêu tài. Theo Ngũ hành, hướng Tây thuộc Kim (Kim là vàng) đem lại sự may mắn, thịnh vượng. Phong thủy có câu “Kim khắc Mộc vi tài” (Mộc là tài lộc của Kim). Vì thế đem Mộc đến hướng Tây là đem tài lộc cho phòng khách. Trong Ngũ hành, Mộc có hình trụ dài như cây cộc và màu xanh lá cây. Do đó, để có hiệu quả tài vận tốt nhất, hãy bố trí nội thất thuộc Mộc vào hướng Tây phòng khách.

nội thất phòng khách 
Phòng khách này được sơn màu xanh nhạt (Mộc) vào hướng Tây


3. Bài trí ghế sofa

Một vật dụng quan trọng trong phòng khách là ghế sofa bởi nó có công năng trong phong thủy ngoài công dụng thông thường, vì thế phải hết sức cẩn trọng khi bố trí. Bạn hãy chọ sofa có góc vuông hoặc hình chữ U, sao cho hai bên cạnh giống như hai bức tường thành để hứng luồng khí vào trung tâm, "Tàng phong tụ khí" chính là chỗ ghế giữa, giúp tài lộc nhà bạn không bị mất mát.
 

kiêng kỵ phong thủy phòng khách 
Thiết kế sofa chữ U trong căn nhà hiện đại


4. Cây xanh trong phòng khách

Cây xanh có tác dụng tạo sinh khí cho phòng khách. Bạn có thể chọn những loại cây như cây lưỡi hổ, cây phát tài, cây cật mật... tùy vào không gian và nội thất để chọn loại cây cũng như vị trí đặt cây thích hợp. Việc làm này sẽ phát huy hết công năng phong thủy của các loại cây đó, tạo luống sinh khí và sự thịnh vượng cho gia chủ.

cây xanh trong phong phòng khách 
Trong phong thủy phòng khách, cây xanh đóng vai trò quan trọng


5. Bố trí những vật chiêu tài

bài trí phong thủy phòng khách
Tỳ Hưu là một trong những vật phẩm phong thủy chiêu tài hàng đầu
 
 

Bạn hãy chú ý đến những vật cát tường như ngọc như ý, hồ lô, tỳ hưu, thần tài... khi trang trí phòng khách. Những vật này có tác dụng chiêu tài rất tốt. Nhưng cần lưu ý không nên đặt quá nhiều thứ sẽ phản tác dụng, để có kết quả tốt nhất cần có thêm sự tư vấn của các chuyên gia.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần lưu ý về phong thủy phòng khách

Đặc tính của sao Hoa Cái trong Tử Vi

Sao Hoa Cái gặp sao Tấu Thư là người thanh cao, lịch lãm, có mốt về ăn mặc, có năng khiếu về trình diễn; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Hoa Cái trong Tử Vi

Đặc tính của sao Hoa Cái trong Tử Vi

Tìm hiểu về đặc tính của sao Hoa Cái

Sao Hoa Cái thuộc dương mộc, là sao cô độc, cao ngạo, nếu tọa cung mệnh hoặc cung thân thì sẽ có kiến giải khách quan siêu nhiên, đối đãi với người khác hài hòa nhưng không thân mật, thân thiết nhưng không suồng sã, rất giàu lòng tự trọng, ăn nói thẳng thắn, thích nổi bật, có khuynh hướng ái kỷ (quá yêu bản thân), ngoài mặt lạnh nhạt, không hay nói cười, cho dù thân trong chốn hồng trần, nhưng gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Nhất là người có cách "Cơ Nguyệt đồng Lương", nếu có sao Hóa Cái đồng cung thì càng khiến cho người ta hiểu lầm là người khó với tới.

Sao Hoa Cái còn có tên là Tiểu Văn Xương, cũng là sao nghệ thuật; nếu gặp các sao Văn Xương, Hóa Khoa thì có tài văn chương, hoặc tài nghệ đặc biệt. Nếu gặp Thái Dương, Thái Âm thì tài danh đều hiển cách. Gặp sát tinh thì sống nhờ tài nghệ kĩ xảo.

Sao Hoa Cái ở cung thân, cung mệnh thì chủ về từ tuổi trung niên đến cuối đời cô độc, thiếu nhiệt tình với hiện thực, có duyên với Thần Phật, ưa thích tôn giáo, nghê thuật và huyền học. Sao Hoa Cái nhập cung tài bạch, cung quan lộc, nên thờ cúng Thần Phật văn phòng làm việc, sẽ được phù hộ. Nếu nhập cung điền trạch, nên nhờ thần minh tại nhà. Vận hạn gặp sao Hoa Cái cũng luận tương tự.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Hoa Cái trong Tử Vi

Những phòng bếp màu sắc ngay lập tức khiến bạn "phải lòng"

Đôi khi, màu sắc không chỉ dành riêng cho phòng ngủ hay phòng khách, một căn bếp rực rỡ sắc màu cực kỳ ấn tượng dễ khiến ai đặt chân đến nhà bạn cũng sẽ "yêu từ cái nhìn đầu tiên".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều người cho rằng, bếp là nơi nấu nướng nên không nhất thiết phải bỏ ra quá nhiều công sức để trang trí mà chỉ cần đảm bảo sự sạch sẽ và tiện  ích của chúng là được. Nhưng thực tế khi được bước vào căn bếp đẹp và bắt mắt mỗi ngày, cảm giác thích thú với việc nấu ăn sẽ tăng lên nhiều đó.

mẫu bếp đẹp 
Những ô màu sặc sỡ và vui tươi trong căn bếp này có khiến bạn liên tưởng đến một
quán ăn nhỏ nào đó không? Nếu không có chúng thì hẳn căn bếp này
trông có phần hơi tẻ nhạt và buồn chán

mẫu bếp đẹp 
Nếu thuộc tuýp người đơn giản và không thích ứng được với sự màu mè ở trên thì căn bếp
theo phong cách châu Âu này sẽ hợp với bạn. Một chút thay đổi với màu tím cho bàn bếp
khiến căn bếp rất ấn tượng và vẫn hoà hợp trong tổng thế thanh lịch của căn phòng

mẫu bếp đẹp 
Căn bếp đơn giản mà vẫn "độc" và lạ nhờ sự kết hợp ấn tượng của màu xanh lá tươi tắn
và gam trắng nhẹ nhàng

mẫu bếp đẹp 
Ai nói sang trọng thì không được màu mè nào? Bộ đôi xám thanh lịch và vàng cá tính kết hợp
với nhau không thể chuẩn hơn để tạo nên một không gian hiện đại mà quyến rũ

mẫu bếp đẹp 
Sắc màu cổ điển từ khung cửa xanh dịu dàng và những món đồ màu sắc nhỏ xinh
cũng đủ khiến nơi này vô cùng hấp dẫn

mẫu bếp đẹp 
Chủ nhân căn bếp đã tạo nên "bộ ba sát thủ" vàng - hồng - xanh vô cùng lợi hại khi đặt chúng
trong tổng thể nội thất hiện đại và kết hợp với màu trắng chủ đạo khiến căn bếp trở nên
đáng yêu mà vẫn giữ được vẻ hiện đại vốn có

mẫu bếp đẹp 
Căn bếp u buồn này chắc sẽ khiến các bà nội trợ không còn muốn nấu ăn nếu như
không có sắc hồng cam tươi tắn xuất hiện trên tay nắm tủ và trên viền cửa sổ

mẫu bếp đẹp 
Yêu thích sự dễ thương, tươi trẻ? Vậy thì gian bếp với tông màu chủ đạo vàng - trắng này
sẽ vô cùng phù hợp với bạn rồi. Để tăng thêm sức hấp dẫn không thể chối từ cho nơi này,
bức tranh khổ lớn với gam màu tông xuyệt tông với căn phòng sẽ là một ý tưởng
rất hay ho mà bạn nên thử

(Theo Trí thức trẻ) 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phòng bếp màu sắc ngay lập tức khiến bạn "phải lòng"

Giáo lý nhà Phật dạy về kiếp trước của một người

Bất kể là vật nào trong trời đất đều có kiếp trước của nó, huống chi là con người. Kiếp trước kính Phật thì kiếp này có địa vị cao quý.
Giáo lý nhà Phật dạy về kiếp trước của một người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Giao ly nha Phat day ve kiep truoc cua mot nguoi hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Một hôm, Đức Phật nói với đệ tử A Nan (Ananda) của ngài: “Ta nhìn vạn vật trong trời đất, từng thứ từng thứ đều là có nhân duyên kiếp trước của nó.”   A Nan gặp đúng dịp đức Phật nói chuyện về điều này liền vội vàng quỳ lạy và hỏi ngài: “Thưa ngài, là nhân duyên gì ạ? Tất cả đệ tử chúng con đều muốn biết. Con xin ngài hãy thuyết giảng để khai mở và hóa độ những người còn u mê ạ!”   Đức Phật liền nói với A Nan: “Thiện tai, thiện tai! Con hãy chuyên tâm nghe nhé!”   1. Người kiếp này được làm đại thần quốc vương, địa vị cao quý, có quyền có thế đều là người mà kiếp trước lễ phép và kính trọng Phật, Pháp, Tăng mà đến.   2. Người kiếp này là đại phú hào thì kiếp trước đều là những người từng bố thí, cứu tế rất nhiều.   3. Người kiếp này sống thọ mà không bị bệnh tật, thân thể khỏe mạnh đều là người kiếp trước luôn giữ vững giới cấm.   4. Người lớn lên đoan chính, trắng ngần, mặt mày rạng rỡ, thân thủ mềm mại, tỏa ra một hương vị thơm mát, gặp người người thích là kết quả của kiếp trước đã tu nhẫn nhịn.   5. Người có cá tính điềm đạm, bình tĩnh không hấp tấp, ngôn ngữ và hành vi đều thận trọng, cẩn thận là kết quả của việc kiếp trước tu thiền định.   6.  Người có tài, minh bạch lý lẽ, thông suốt Pháp có thể nói được nghĩa lý một cách thông thuận giúp cho những người “ngốc nghếch” nghe và hiểu được. Người khác nghe những lời mà người này nói nhận được lợi ích mà tiếp nhận lời nói của người ấy, trân quý lời nói của người ấy, vì vậy mà tự động truyền rộng Pháp ra ngoài cho nhiều người hơn nữa được biết. Đây là người tu trí tuệ mà đến.
Giao ly nha Phat day ve kiep truoc cua mot nguoi hinh anh 2
Ảnh minh họa
7. Người có giọng nói trong và rõ ràng là người đến từ Tam bảo ca hát (“Tam bảo” là là chỉ Phật, Pháp, Tăng)   8. Người từ nhỏ đã ngốc nghếch là do kiếp trước không muốn dạy dỗ, chỉ bảo người khác.   9. Làm người ở, nô lệ cho người khác là vì kiếp trước thiếu nợ không trả người ta.   10. Người có địa vị thấp kém là bởi vì kiếp trước không lễ phép và kính trọng Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).     Đức Phật trầm ngâm một lát rồi nói tiếp: “Tội báo và phúc báo đi theo con người như hình với bóng. Con người bồi dưỡng đức cũng giống như gieo một hạt giống vậy.”   A Nan nói: “Hạt giống ban đầu chỉ là một hạt, sau khi được gieo trồng thành cây, lớn lên lại ra rất nhiều hạt khác.”   Đức Phật lại nói: “Chỉ bố thí, cho đi một hạt mà lại thu về gấp hàng vạn lần. Những lời này tuyệt không phải giả!”   “Con người thế gian ngốc nghếch, không hiểu biết chỉ có thể dùng con mắt thịt này để quan sát hết thảy mà không thấu triệt gốc rễ của nghiệp và phúc báo. Ta dùng đạo nhãn quan sát rất nhiều kiếp từ trước đến nay, mãi cho đến cả tội, phúc báo của chúng sinh hôm nay đều rõ ràng như quan sát trân bảo lưu ly trong lòng bàn tay. Hết thảy đều minh thấu không có bất kỳ điểm nào là nghi hoặc, không rõ ràng.”

ST.

Lời Phật dạy: Tham sắc dục thì sẽ phải nhận quả báo Lời Phật dạy: Đời người là mộng ảo Lời Phật dạy: 3 điều CÒN thì không biết, MẤT đi mới biết Lời Phật dạy: Trân trọng phụ nữ là phúc báo nghiệp lành Lời Phật dạy: Trong cuộc đời có 3 cái KHỔ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giáo lý nhà Phật dạy về kiếp trước của một người

Phong Thủy Cho Người Mệnh Ly

Tìm hiểu về Phong Thủy Cho Người Mệnh Ly, tìm hiểu về màu sắc phù hợp, con số may mắn, con số nên tránh và hướng nhà cho người Mệnh Ly.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong Thủy Cho Người Mệnh Ly

Phong Thủy Cho Người Mệnh Ly

Tìm hiểu khái quát về phong thủy cho người mệnh Ly:

Phương vị: Người mệnh Ly (thuộc hành Hỏa) có 4 hướng tốt là hướng Nam (Phục vị), hướng Đông Nam (Thiên Y), hướng Bắc (Diên Niên), hướng Đông (sinh khí).

Trong đó có 4 hướng xấu là: Đông Bắc (Họa Hại), Tây Bắc (Tuyệt Mệnh), Tây Nam (Lục sát), hướng Tây (Ngũ Qủy).

Chọn hướng làm nhà cho người mệnh Ly: người mệnh Ly làm nhà nên chọn cửa làm nhà về hướng Đông Bắc (trường tồn và bền vững), tọa hướng Nam (bình ổn); tọa hướng Tây Bắc và hướng Đông Nam (sức khỏe và mau lành bệnh), hoặc tọa Tây hướng Đông (phát triển).

Màu cửa hợp với người mệnh này là: Đỏ, cam, trắng, vàng, bạc, xanh da trời, xanh lục.

Chọn phòng ngủ: nên chọn phương vị tốt hợp với bản mệnh, nên chọn phòng ngủ ở các hướng Bắc, Nam, Đông và Đông Nam.

Hướng để đầu khi ngủ: cũng nên đặt theo các hướng như hướng phòng ngủ thì tinh thần sẽ được sảng khoái, dễ đi vào giấc ngủ. còn nếu đặt theo các hướng Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc rất dễ mất ngủ, đặt đầu quay hướng Tây sẽ hay bị ngủ mê.

Hướng đặt bếp cho người mệnh Ly: hướng cửa bếp cũng như hướng cửa, phải quay về một hướng tốt. Miệng bếp tốt nhất là quay về hướng Đông, làm như vậy để khiến tinh thần sung mãn, tăng thêm sức sống. Nếu gia chủ mắc bệnh lâu năm khó chữa, nên chuyển hướng cửa bếp sang hướng Đông Nam, như vậy sẽ giúp người đó mau lành bệnh.

Có một điều cần chú ý, là chọn hướng nhà, cửa nhà thường áp dụng cho đàn ông, trừ khi trong nhà không có đàn ông thì mới phải lấy tuổi người phụ nữ chủ gia đình; còn hướng bếp và hướng giường thì đa phần theo mạng của người phụ nữ.

Hướng bàn làm việc tốt cho người mệnh Ly: quay lưng hướng Tây và mặt Hướng Đông là tốt nhất.

Màu sắc cho người mệnh Ly:

Màu hợp: hành Mộc (xanh da trời, canh lá), hành hỏa (đỏ, tím, cam).

Màu sắc kỵ: hành Thủy (đen, xanh lam), hành thổ (vàng cà phê).

màu trung tính: Kim, vàng kim, trắng.

Màu khai vận: màu vàng (trong ngũ hành, trong hỏa có kim, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim là sinh khí cho nên đối với những người chưa tận dụng hết cơ may của mình thì nên dùng màu vàng.)

Màu suy: màu đen (thủy khắc hỏa, vì vậy người tuổi Tỵ không muốn gặp vận đen thì nhất định phải hạn chế dùng những thứ liên quan đến màu đen.)

Con số đối với người mạng Ly:

Số khai vận: số 0 và số 5.

Số suy: số 1 và số 6.

Con số thích hợp làm nhà, số tầng nhà: 1, 2, 3, 4, 7 ,8, 9, 13, 17, 18 , 19, 21, 22, 23, 24, 27, 28, 29...

Bảng tổng quát về màu sắc và con số nên dùng và nên tránh cho người mệnh Ly:

Ly (Hỏa) Nên dùng Tránh dùng
Màu sắc Đỏ, da cam, xanh da trời, xanh lá cây Đen, xám, xanh lam, vàng cà phê
Con số số 0, số 5 số 1, số 6

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong Thủy Cho Người Mệnh Ly

Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Những lỗi phong thủy phòng tắm nhiều người mắc phải sẽ nhanh chóng được hóa giải bởi các mẹo rất dễ thực hiện. Kiểm tra ngay phòng tắm nhà mình và làm theo
Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lỗi phong thủy phòng tắm nhiều người mắc phải sẽ nhanh chóng được hóa giải bởi các mẹo rất dễ thực hiện. Kiểm tra ngay phòng tắm nhà mình và làm theo nhé. 


Giai quyet ngay nhung loi phong thuy phong tam thuong gap hinh anh
 
1. Phòng tắm đối diện cửa chính   Khi bước vào nhà liền nhìn thấy phòng tắm, đập vào mắt là nơi có uế khí, khiến cho gia đình gặp vận xấu.   Phương pháp hóa giải:   (1) Treo rèm hoặc đặt bình phong trước cửa phòng tắm.   (2) Treo gương Bát Quái hổ phù ở trong phòng tắm hoặc trên cửa phòng tắm.   (3) Đặt một xâu tiền Ngũ Đế, tiền Lục Đế, tiền Thập Đế dưới thảm chùi chân trước phòng tắm.   2. Phòng tắm đối diện phòng đọc sách   Cửa phòng đọc sách đối diện với cửa nhà vệ sinh, mùi hôi từ nhà vệ sinh sẽ xộc thẳng vào phòng khiến người ngồi trong đó cảm thấy khó chịu. Hơn nữa, văn chương rất kiêng kỵ khí uế, làm mất đi tính chất thanh lịch, tao nhã của việc đọc sách, ảnh hưởng đến chất lượng học tập và công việc.
Phương pháp hóa giải:   (1) Cửa phòng tắm treo rèm chắn, đồng thời ở cửa hai phòng treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để giải trừ các khí xấu.   (2) Trong phòng đọc sách nên đặt Kim Thiềm Thừ vận chuyển càn khôn, giúp gặp quý nhân, trừ bỏ tiểu nhân.   3. Phòng tắm nằm trên bếp   Bếp ngay dưới nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tràng vị của gia chủ và tài vận của gia đình. Lỗi phong thủy phòng tắm này bị rất nhiều người bỏ qua.   Phương pháp hóa giải:   (1) Tốt nhất là chuyển vị trí nhà bếp, đồng thời treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế trên cửa nhà vệ sinh để hóa hung.   (2) Đặt trong phòng tắm một chén muối thô và giữ gìn phòng tắm sạch sẽ.

Hóa giải chỗ hung trong phòng tắm nhà bạn
Đây là không gian góp phần điều hoà khí vượng cho ngôi nhà của bạn.

4. Phòng tắm đối diện cầu thang
  Cầu thang là nơi vận khí chảy qua, nếu nhà vệ sinh đối diện cầu thang thì dòng chảy vận khí không ổn định, uế khí tỏa ra khắp nhà, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn tác động tới tài vận của gia đình. Cách khắc phục lỗi phong thủy phòng tắm này không khó.   Phương pháp hóa giải:   (1) Trên cửa phòng tắm treo rèm, hai bên cửa đặt chậu cây cảnh, đồng thời treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa hung.   (2) Đặt trong một chén muối thô trong phòng tắm và giữ cho phòng tắm sạch sẽ.   5. Phòng tắm đặt trong phòng đọc sách, phòng làm việc   Nhiều gia đình có thói quen thiết kế luôn phòng tắm, phòng vệ sinh khép kín trong phòng đọc sách, phòng làm việc cho tiện mà không biết rằng đây là lỗi phong thủy phòng tắm nghiêm trọng. Làm như vậy sẽ ô uế văn chương, tài vận bế tắc, khiến thành tích học tập của trẻ nhỏ trong nhà không tốt, sự nghiệp của người lớn thì gặp khó khăn.   Phương pháp hóa giải:   (1) Trên cửa phòng tắm treo rèm, đồng thời để xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, Thập Đế để hóa hung.   (2) Đặt trong một chén muối thô trong phòng tắm và giữ cho phòng tắm sạch sẽ.  
► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương

Ngô Yến (Theo 14944)
Xem Clip Phong thủy nhà tắm đúng chuẩn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải quyết ngay những lỗi phong thủy phòng tắm thường gặp

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Tử vi người sinh ngày Quý Tỵ cả cuộc đời có quý nhân phù trợ, tuy nhiên hay ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh nên chú ý về hôn nhân, tránh tai nạn tửu sắc.
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi người sinh ngày Quý Tỵ cả cuộc đời có quý nhân phù trợ, sở hữu nhiều tài năng, tuy nhiên hay ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh nên chú ý về hôn nhân, tránh tai nạn tửu sắc.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Ty hinh anh
 
Ngày Quý Tỵ có Thiên Nguyên tọa mệnh tàng Ấn - Tài - Quan, mệnh chất kết hợp Thủy Hỏa Kim Thổ, hóa giải nạp âm của Âm Thủy trường lưu, điều này tạo nên tính cách tín- nghĩa - lễ - trí. Mệnh chủ nên hợp tác với người sinh ngày Mậu Thân, đường đời tất gặp Mậu Thổ.
  Trụ ngày Quý Tỵ có Tỵ Hỏa là sao Chính Tài, tàng khí Bính Hỏa và Mậu Thổ. Mệnh chủ sinh ngày Quý Thủy mẫn cảm, EQ cao, Quý Thủy khắc chế Tỵ Hỏa nên có quyền quản lý nhưng năng lực không dủ, vậy nên cần chú ý tiểu tiết của sự việc để đưa ra phán đoán đúng. Tỵ Hỏa tàng khí Mậu Thổ nên tích cách có chút tủy hứng, thích sự khen ngợi. Ngày Quý Tỵ thích hợp với nữ mệnh.  
Thưởng trà - giao thoa của tu tâm và nghệ thuật
Tĩnh tâm và tu tâm là một trong những điều quan trọng nhất mà Phật muốn chúng sinh hướng tới. Bởi có tĩnh tâm thì mới rũ bỏ tham, sân, si; có

Người sinh ngày Quý Tỵ có học thức, tài năng, được người đời coi trọng, cả cuộc đời được quý nhân phù trợ. Họ đa phần thích hợp làm trợ thủ, thiếu chút ý chí để trở thành lãnh đạo.  Mệnh chủ trụ ngày Quý Tỵ nên đặc biệt chú ý về vấn đề sức khỏe. 
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Quý Tỵ thấy sự ưu sầu về tình duyên. Nam mệnh hai lần thay đổi tình duyên, cần đề phòng việc trải qua hai cuộc hôn nhân, đồng thời nên tránh tai nạn về tửu sắc trong cả cuộc đời. Nữ mệnh phần lớn có chồng làm kinh doanh, sở hữu số mệnh hạnh phúc, tuy nhiên tránh sự càm ràm, nếu không hôn nhân sẽ dễ dàng đổ vỡ.  
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Quy Ty hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Quý Tỵ thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Thìn, Giáp Dần, Giáp Thân, Giáp Tuất, Giáp Ngọ, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Mùi, Bính Ngọ, Bính Thìn, Bính Thân, Bính Tuất, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Dần, Kỷ Dậu, Kỷ Mão, Kỷ Mùi, Canh Thân, Canh Dần, Canh Tý, Tân Dậu, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Mùi, Nhâm Dần, Nhâm Tuất, Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi.
► Xem tử vi hàng ngày của bạn cập nhật mới nhất

Chi Nguyễn

Xem Clip thu nạp kiến thức về Nợ đời con người phải gánh

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Quý Tỵ

Xem rốn đoán cuộc đời hung cát chuẩn không cần chỉnh

Rốn là nơi tập hợp của nhiều dây thần kinh, rốn càng sâu thì càng tốt. Rốn càng sâu và to thì tuổi thọ càng cao, ngược lại, rốn mà nhỏ lại còn nông thì người
Xem rốn đoán cuộc đời hung cát chuẩn không cần chỉnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đó sẽ chết yểu. 


► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác
  Rốn nông và nhỏ: Người này cả đời vất vả. Người phụ nữ rốn càng nhỏ thì khả năng vô sinh càng cao. Đàn ông rốn nhỏ thì thiếu sức sống và không có tính kiên nhẫn, nói chung là vô cùng yếu đuối.
 
Rốn sâu và lớn: Là người cởi mở, vô cùng may mắn và thông minh lanh lợi, nhưng nếu bụng to mà lại không săn chắc thì là người ngờ ngệch. Rốn hướng xuống dưới: Người này cả đời nghèo khó.
 
Rốn ở vị trí thấp: Là người khỏe mạnh và khả năng “chuyện ấy” cũng khá tốt.
 
Rốn  ở vị trí cao: Là người thông minh nhưng yếu sinh lý.
Xem ron doan cuoc doi hung cat chuan khong can chinh hinh anh
Ảnh minh họa
  Rốn lồi: Cuộc sống nghèo hèn, cả đời vất vả.
 
Rốn nhỏ và bằng phẳng: Cuộc đời khốn khổ, cực nhọc, nghèo hèn.
 
Rốn có nốt ruồi:  Đây chính là dấu hiệu may mắn, vận tài lộc hanh thông, kiếp trước người này có thể là quan chức lớn trong triều đình.   Rốn sâu và có nốt ruồi: Là người chính trực, ngay thẳng, thông minh, giỏi chuyên môn, có địa vị cao, rất được coi trọng.    Rốn nhỏ mà có nốt ruồi: Là người lòng dạ hẹp hòi, ti tiện.   Bụng xệ xuống, rốn lại cao: Vận tài lộc của người này khá tốt. Ngược lại thì kém may mắn và vô cùng cô đơn.
 
Đàn ông có rốn hướng lên trên: Thì được hưởng nhiều phúc lộc, hạnh phúc, tính tình khiêm tốn, hướng xuống dưới thì vất vả, phải làm các công việc nặng nhọc, nếu cứ mải mê theo đuổi vinh hoa thì sẽ gặp phải kết quả xấu.    Bất kể nam hay nữ, rốn càng nông thì khả năng vô sinh càng cao, đường con cái gặp nhiều trắc trở.    Rốn lồi mà hướng xuống dưới thì cuộc sống lâm vào cảnh bần cùng , chết sớm. Bất luận là người gầy hay béo thì đều chỉ có một con. Nhưng nếu rốn lồi mà to thì lại tốt, cuộc sống gặp nhiều may mắn.    Đối với phụ nữ khi mang thai ở tháng thứ tám, thứ chín mà rốn lồi ra thì khả năng sinh con trai sẽ cao.

Rốn lõm sâu: Là người ích kỷ, luôn muốn mình phải là trung tâm, phải được mọi người ngưỡng mộ, vận trình hôn nhân không tốt, họ không coi trọng chuyện tình cảm.
 
Rốn nằm ngang: Là người có lòng tự trọng cao nhưng không quyết đoán, nếu là phụ nữ thì hay có thói quen xấu là cướp chồng người khác.

Phương Thùy (Theo xs.99166.com)
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem rốn đoán cuộc đời hung cát chuẩn không cần chỉnh

5 điều cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh

Phòng vệ sinh ngoại trừ bồn cầu thì vật quan trọng nhất chính là gương. Muốn biết cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh, xin mời theo dõi bài viết dưới đây.
5 điều cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng vệ sinh ngoại trừ bồn cầu thì vật quan trọng nhất chính là gương. Bất kể là kích thước, hình dáng hay vị trí gương đều có những lưu ý quan trọng. Muốn biết cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh, xin mời theo dõi bài viết dưới đây.

5 dieu cam ki khi bay guong trong nha ve sinh
 

1. Cấm kị gương đối diện bồn cầu

  Trong nhiều gia đình, tình huống gương đối diện bồn cầu khá phổ biến mà không hề biết rằng đây là lỗi phong thủy nhà vệ sinh vô cùng nghiêm trọng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của người trong nhà vì bồn cầu là nơi bài tiết, nhiều xú uế mà lại đối diện gương khiến khí xấu phản chiếu, rất hung.   Nhà vệ sinh không độc lập mà ở trong phòng ngủ thì càng nên chú ý tới điểm này, nếu phạm phải người ngủ trong phòng bị tác động rất nhiều. Bố trí gương sao cho không nên chiếu thẳng ra cửa, chiếu tới giường ngủ bằng không sức khỏe, tài vận đều yếu kém.    Gương âm khí thịnh, nếu nhà vệ sinh ở trong phòng ngủ thì gương sẽ hút hết nguồn dương khí của người ngủ trong đó nên tinh thần lúc nào cũng mệt mỏi, thân thể kiệt quệ. 
Xem thêm bài viết Hướng dẫn hóa giải lỗi phong thủy gương đối giường
 

2. Cấm kị gương đối diện bồn tắm

  Cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh kết hợp nhà tắm là gương đối diện bồn tắm. Bồn tắm thuộc ngũ hành Thủy, gương cũng là ngũ hành Thủy, Thủy vượng thì sinh hàn khí mạnh khiến sức khỏe không tốt, tâm lý bất an. Hơn nữa khi tắm, cả cơ thể thả lỏng mà nhìn thấy gương sẽ dễ bị năng lượng xấu xâm nhập.  

3. Cấm kị bày gương hình thoi

  Hiện nay gương không chỉ có tác dụng để soi mà còn để trang trí, người ta bày ra nhiều loại gương với màu sắc, hình dáng khác nhau để làm đẹp không gian. Nên dùng gương hình vuông, đại diện cho sự cân bằng và thứ tự, nếu phối hợp với bồn rửa tay hình tròn thì lại càng hòa hợp, tạo ra phong thủy nhà vệ sinh rất tốt.    Tiếp tới là gương hình tròn, hình bầu dục nhưng kị nhất là gương hình thoi, hình tam giác, gương có các cạnh sắc nhọn. Những loại gương này sẽ sản sinh sát khí nặng nề khiến người trong nhà không thể yên ổn.
Xem thêm bài viết Treo gương đúng phong thủy: Nên và không nên
 

4. Cấm kị bày gương nhiều gương


loi phong thuy nha ve sinh
 
Nhà vệ sinh bày cái gương hoàn chỉnh, nguyên khối lớn là tốt lành. Chạy theo mốt thời thượng hiện đại mà sử dụng nhiều gương nhỏ hợp thành gương lớn lại không hợp phong thủy. Lỗi phong thủy nhà vệ sinh này đối với sức khỏe, tinh thần đều không có lợi, thậm chí còn khiến chủ nhân bị lao đao, bệnh tật.   Loại này thiết kế tuy rằng nhìn qua mỹ quan, nhưng hình ảnh soi ra lại vụn vặt, không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe mà còn dễ dàng khiến người trong nhà trở nên do dự thiếu quyết đoán, vận thế giảm xuống, vì lẽ đó tốt nhất không nên bố trí như vậy.   Gương không nên quá nhiều, tuy gương có thể khiến không gian thoáng đãng, đẹp đẽ hơn nhưng bày nhiều quá lại tạo ra âm khí, sát khí khiến vận trình kém đi rất nhiều. Hơn nữa, ban đêm đi vệ sinh thì dương khí không thịnh, lại thêm nhiều gương thì sản sinh âm ảnh làm bản thân kinh sợ, không thoải mái.   

5. Cấm kị treo gương quá nhỏ

  Lúc soi gương mà phía trên còn có một khoảng không gian lớn là đại biểu cho tiền đồ xán lạn, có khả năng phát triển rộng mở, được soi sáng rực rỡ, tương lai nhất định còn nhiều điểm tốt hơn hiện tại. Vì thế nhà vệ sinh cần treo gương rộng rãi nhưng kích thước không nên quá to vì tạo nhiều không gian âm khí, tích tụ nguồn năng lượng xấu.
Xem thêm bài viết Những vị trí treo gương đại kị cho tài lộc và sức khỏe
 
Tuyệt đối không nên chọn gương quá nhỏ, chỉ soi được gương mặt vì như vậy sẽ bất lợi với sự phát triển của sự nghiệp. Điều này đại diện cho việc công danh nhỏ hẹp, không có đường hướng phát triển, không thể thăng tiến như ý muốn.  Gương và vật dụng không thể thiếu trong nhà, có rất nhiều tác động về mặt phong thủy. Nắm vững những cấm kị bày gương trong nhà vệ sinh có thể phần nào giúp chủ nhân vượng vận, thăng tiến tiền đồ và đặc biệt là thăng chức. Hãy quan tâm hơn tới bày gương hợp phong thủy trong nhà nói chung và trong nhà vệ sinh nói riêng, nếu bày đúng ắt tốt lành hơn.
18 vấn đề về phong thuỷ nhà vệ sinh không thể không xem Vì sao phong thủy nhà ở cấm kị nhà bếp và nhà vệ sinh gần nhau? Cải thiện phong thủy nhà vệ sinh với những loại cây quen thuộc
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điều cấm kị khi bày gương trong nhà vệ sinh

Mơ thấy biển: Tin vui đến gần –

Biển trong mơ là hình ảnh tượng trưng cho tin vui đến gần. Mơ thấy biển là điềm lành, cho thấy bạn là người tâm tình rộng mở, tính cách thông thoáng, sở hữu cái rộng lớn và khí khái của biển cả. Nam giới mơ thấy biển, có tin tức làm phấn chấn lòng ng
Mơ thấy biển: Tin vui đến gần –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy biển: Tin vui đến gần –

Mơ thấy mẹ –

Cha mẹ là những người thân yêu nhất của mỗi chúng ta. Thông thường cha tượng trưng cho uy quyền, mẹ tượng trưng cho tình thương vô bờ bến, nằm mơ thấy cha mẹ mình có nhiều nghĩa. Có thể bạn đã mơ nhiều về họ. Hãy thử khám phá giấc mơ về cha mẹ nhé!
Mơ thấy mẹ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy mẹ –

Hướng tâm kính Phật trong ngày sinh của Đại Thế Chí Bồ Tát

13/7 hàng năm là sinh nhật của Đại Thế Chí Bồ Tát – vị Bồ Tát có trí tuệ uyên bác, ánh sáng soi tỏa khắp muôn phương, cứu chúng sinh khỏi binh đao, tai ương.
Hướng tâm kính Phật trong ngày sinh của Đại Thế Chí Bồ Tát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

13/7 hàng năm là sinh nhật của Đại Thế Chí Bồ Tát – vị Bồ Tát có trí tuệ uyên bác, ánh sáng soi tỏa khắp muôn phương, cứu chúng sinh khỏi binh đao, tai ương.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Huong tam kinh Phat trong ngay sinh nhat cua Dai The Chi Bo Tat hinh anh 2
 
Đại thế Chí Bồ Tát là vị hoàng tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca, hay còn được xưng tụng là Linh Cát Bồ Tát. Ngài có trí tuệ hơn người, quang minh lỗi lạc, ánh sáng tỏa chiếu nhân gian, lệnh cho chúng sinh rời xa ba đồ (ba nghiệp ác), chấn động thiên địa nên mới có danh xưng Đại Thế Chí. 
  Lấy trí làm đầu, uy thế tự tại, tiếp dẫn chúng sinh hướng tới Niết Bàn. Thân là một trong tám đại Bồ Tát, Ngài lấy niệm Phật tu hành làm căn cơ. Tượng Đại Thế Chí Bồ Tát thường được tác trong tư thế tay cầm pháp khí là hoa sen, đầu mang thiên quan có đính bảo bình.    Công đức cao dày và sự chuyên tu thâm sau của Đại thế Chí Bồ Tát trải khắn nhân gian, Ngài cùng với Đức Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ Tát hợp thành Tây Phương tam thánh hoặc A Di Đà tam tôn. Trên người Ngài tỏa ra ánh sáng màu tím, tượng trưng cho trí tuệ cao thâm.   Quang minh trí năng đến thiên địa chấn động, đẩy lui tà ma là pháp lực của Đại Thế Chí Bồ Tát. Cả người phát ra ánh sáng màu tím, có thể làm cho chúng sinh tự thấy hữu duyên, hướng tới Ngài là hướng tới sự cao thâm, vô lượng, tinh quang diệu. Giống như Quan Âm Bồ Tát lấy từ bi phổ chiếu thì Đại Thế Chí Bồ Tát dùng trí tuệ soi sáng, đưa đường cho chúng sinh thoát khỏi nỗi khổ của địa ngục, quỷ đói, súc sinh. 
Huong tam kinh Phat trong ngay sinh nhat cua Dai The Chi Bo Tat hinh anh 2
 
Trong ngày sinh của Đại Thế Chí Bồ Tát, hãy chăm làm điều thiện, đi lễ chùa, thỉnh Bồ Tát để ngài khai mở trí tuệ, soi sáng nhân sinh, định hướng mở đường theo điều thiện, điều lành. Hướng đến Đại Thế Chí Bồ Tát là hướng tới học thức, uyên thâm, đức độ và tính chính nghĩa. Học Phật và làm theo Phật để tịnh hóa bản thân, sống đời cực lạc. 
  Mang bản mệnh Phật hoặc thờ tượng Phật Đại Thế Chí Bồ Tát trong nhà sẽ mang tới sự bảo hộ, che chở và khai quang, thông tỏ trí tuệ, nâng tầm hiểu biết, mở ra con đường tốt đẹp.
8 quy tắc dâng hương lễ Phật nên nhớ đừng quên Những lễ nghi đừng quên khi tới cửa chùa dâng hương bái Phật Bài khấn Địa Tạng Vương Bồ Tát cầu công danh sự nghiệp
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng tâm kính Phật trong ngày sinh của Đại Thế Chí Bồ Tát

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy xe máy

Khi loại xe thông dụng này xuất hiện trong giấc mơ của bạn, điều đó có ý nghĩa gì?
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy xe máy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trong giấc mơ bạn nhìn thấy xe máy, đây là biểu tượng của tốc độ đồng thời cũng tượng trưng cho sự phiền toái. Giấc mơ này xuất hiện cho thấy chủ nhân của nó có tính cách khá độc lập, luôn theo đuổi cuộc sống tự do, vui vẻ.

2. Mơ thấy bản thân đang phóng xe máy ở tốc độ cao, tín hiệu cho thấy bạn đã xử lý các tình huống trước mắt theo phương thức đặc biệt mà chỉ bạn mới có. Đồng thời, nó cũng báo hiệu sự thuận lợi trong công việc của bạn.

3. Nếu mơ thấy mình đang lái xe máy rất vội vàng để tránh bị ai đó đuổi theo, điều này có nghĩa bạn đã xử lý tình huống cấp bách hoặc khó khăn trở ngại trước mắt rất triệt để và làm hài lòng tất cả những ai liên quan đến sự việc.

tranh-dan-tuong-teen-ben-chiec-7270-9052

4. Nếu giấc mơ của bạn xuất hiện tai nạn giao thông do chính bạn là người điều khiển xe máy gây ra, bạn cần hết sức đề phòng đến vấn đề sức khỏe và an toàn nhé. Nên nhớ rằng, tốc độ đi xe máy cần tuân thủ đúng quy định, kẻo không sẽ gây nguy hại cho chính bạn và những người xung quanh.

5. Mơ thấy xe máy bị hỏng, có nghĩa bạn đang gặp phải rắc rối nào đó, cần hết sức cảnh giác kẻo không chuyện bé xé ra to, sẽ mang lại phiền phức cho bạn.

Ngoài ra, giấc mơ này cho thấy bạn đang cố gắng thoát khỏi áp lực của cuộc sống, tuy nhiên, càng muốn thoát ra thì bạn lại càng bị nó cuốn vào. Tinh thần của bạn đang khá căng thẳng và mệt mỏi. Bạn nên đi đâu đó thật xa để dành thời gian chăm sóc cho bản thân và không lo nghĩ về những vấn đề đó nữa.

6. Trong mơ bạn thấy xe máy của mình bị mất trộm, điều này nhắc nhở bạn cần quan tâm hơn nữa đến nửa kia của mình kẻo đến lúc người ấy rời bỏ bạn thì hối hận cũng không kịp. Vì bạn quá tập trung cho sự nghiệp nên không dành nhiều thời gian cho đối phương. Điều đó khiến đối phương buồn tủi và rất có thể sẽ tìm sự quan tâm, chăm sóc, động viên từ người khác.

Mr.Bull

cavang-1399398001-1399398014-3-5845-6334

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy con cá

Cá thường là biểu tượng của sự vui vẻ, sung túc trong giấc mơ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy xe máy

Nằm mơ với tâm, tì hư –

"Mộng giao" - nằm mơ thấy giao hợp - là từ của danh y Trương Trọng Cảnh đời Hán, Trung Hoa đã dùng để chỉ một hệ thông về: Lý, Pháp, Phương và Dược của việc nằm mơ thấy giao hợp. Trương Trọng Cảnh đã căn cứ vào đặc điểm sinh lý khác nhau giữa đàn ông
Nằm mơ với tâm, tì hư –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ với tâm, tì hư –

Vì sao tháng 5 âm lịch lại kiêng làm chuyện ấy?

Tháng 5 Âm lịch là tháng Cửu độc, là tháng mà cả đàn ông lẫn phụ nữ đều phải thận trọng, nếu không sẽ gặp xui xẻo, bệnh tật, nhất là kiêng làm chuyện ấy
Vì sao tháng 5 âm lịch lại kiêng làm chuyện ấy?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 5 theo lịch âm có tết Đoan Ngọ, người xưa cho rằng “Trùng Ngọ” là ngày đại kỵ, lúc này ngũ độc (Bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc) sẽ xuất hiện rất nhiều. Bởi vậy, phong tục trong tết Đoan Ngọ là “diệt sâu bọ”… như ăn rượu nếp, ăn hoa quả…

  Cũng theo người xưa, tháng 5 Âm lịch là tháng “Cửu độc”, là tháng mà cả đàn ông lẫn phụ nữ đều phải thận trọng, nếu không sẽ gặp xui xẻo, nhất là kiêng làm chuyện ấy.

Vi sao thang 5 am lich lai kieng lam chuyen ay hinh anh
 
 

1. Tháng Cửu Độc là gì?

  Theo người xưa thì tháng 5 âm lịch là tháng trăng độc (Độc Nguyệt), trong tháng này sẽ có 9 ngày mà thân thể con người bị tổn hao sinh khí, 9 ngày này gọi là Cửu độc.   Vào ngày Đoan Ngọ, cũng là ngày Cửu Độc, người ta thường có tục lệ ăn rượu nếp, uống rượu, ăn hoa quả để “giết sâu bọ”, nam nữ nên thận trọng trong chuyện ấy.   

2. Ngày Cửu Độc là ngày bao nhiêu?

  Cụ thể là các ngày mùng 5, mùng 6, mùng 7, ngày rằm, ngày 16, ngày 17, ngày 25, ngày 26 và ngày 27 Âm lịch, 9 ngày này là “Thiên địa giao thái cửu độc nguyệt”. Để tìm hiểu chi tiết hơn về ngày cửu độc, mời bạn đọc tham khảo bài viết sau: Vì sao tháng 5 âm lịch được gọi là tháng CỬU ĐỘC? 
Vi sao thang 5 am lich lai kieng lam chuyen ay hinh anh
 

3. Vì sao phải cẩn thận trong những ngày Cửu Độc?

   Theo vật lý học, tiết khí mà có ngày Cửu Độc thì âm dương tương tranh, sinh tử quyết liệt, nguyên khí của con người rất dễ bị tổn thương, vì vậy bạn nên thận trọng, nhất là nam nữ trong chuyện sinh hoạt chăn gối.   Ngoài ra, tháng 5 Âm lịch có 2 tiết khí là Mang Chủng và Hạ Chí, thời tiết khá oi bức khiến cơ thể con người cảm thấy mệt mỏi, chuyện sinh hoạt vợ chồng cũng là hoạt động tiêu hao khá nhiều năng lượng, vì vậy, nếu quan hệ trong tháng này thì con người sẽ bị tổn hao một nguồn sinh khí lớn.   Bởi vậy, trong tháng 5 Âm lịch, nam nữ cần kiêng cữ chuyện chăn gối để phòng tránh bệnh tật.

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
9 ngày độc trong tháng 5 âm lịch nhất định phải thận trọng Những kiêng kị phong thủy cần biết trong tết Đoan Ngọ
Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao tháng 5 âm lịch lại kiêng làm chuyện ấy?

Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tý

Nữ giới tuổi Giáp Tý (mệnh Kim, sinh năm 1984) thường là người may mắn trong cuộc sống. Tiền vận hạnh phúc, trung niên tốt đẹp, năm 40 tuổi sẽ có công danh, sự
Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tý

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc đời: nghiệp vững vàng, có chồng tài giỏi, thành đạt.

(Ảnh minh họa)

Nữ giới tuổi này kỵ làm ăn lớn, hạn chế va chạm mâu thuẫn trong gia đình và ngoài xã hội, kỵ đi xa khi ở tuổi 19, 24, 31, 38.

Nam giới tuổi Giáp Tý thuở nhỏ vất vả, 43 tuổi gặp nhiều khó khăn, nên đề phòng bất trắc. Bước sang tuổi 44 sẽ thoát khỏi tai ương. Qua tuổi trung niên mới tạo dựng được sự nghiệp.

Các tuổi kỵ làm ăn lớn, kỵ đi xa, tránh mâu thuẫn của nam giới là: 20, 24, 25, 29, 30.

Tính cách: Người tuổi Giáp Tý thông minh, nhạy bén, tài năng. Tuy tính tình bộc trực, nóng nảy nhưng lại biết cảm thông chia sẻ nên thường được mọi người yêu mến. Nhược điểm của họ là coi trọng vật chất, thích gây sự chú ý.

Nữ giới tuổi này hiền lành, nhu thuận, giao tiếp tốt nên có thể giúp chồng làm nên nghiệp lớn.

Tình cảm: Người tuổi Giáp Tý đường tình duyên muộn nhưng hạnh phúc, thường kết hôn sau tuổi 30 tuổi.

Nam giới sinh vào tháng 5, 6, 9; nữ giới sinh vào tháng 1, 5, 6, 9, 11 sẽ không thuận lợi trong tình duyên. Nam giới sinh vào tháng 3, 4, 8, nữ giới sinh vào tháng 3, 4, 7, 8, 12 thường gặp may mắn trong hôn nhân, gia đình hạnh phúc.

Để có hôn nhân tốt đẹp, nam giới tuổi này không nên kết hôn với nữ giới tuổi Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu. Nữ giới tuổi này tránh kết hôn với nam giới tuổi Đinh Sửu, Tân Mùi, Đinh Mão, Quý Dậu, Kỷ Mão, Tân Dậu.

Gia đạo: Gia đạo tuy không được như ý nhưng cuối đời sẽ được êm ấm, đường con cái tốt đẹp, ít phải phiền muộn.

Công danh: Người tuổi này thời nhỏ học hành nhiều nhưng lại ít đạt được thành công hoặc thành công ngắn ngủi, khó bền lâu.

Tiền bạc: Người tuổi Giáp Tý thường lập nghiệp sớm nhưng khó thành công. Do đó, tiền bạc của họ cũng bấp bênh, khó giữ. Từ năm 44 tuổi trở đi gia sản mới ổn định và thịnh vượng.

Để làm ăn thuận lợi, phát đạt người tuổi Giáp Tý nên kết hợp làm ăn với người tuổi Giáp Tý, Bính Dần, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ.

(Theo Tính cách con người qua năm sinh tuổi Tý)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm may mắn cho người tuổi Giáp Tý

SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

kình dương (Kim) *** 1. Ý nghĩa cơ thể: Kình Dương chỉ bộ phận sinh dục của phái nam. 2. Ý nghĩa tướng ...
SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

kình dương (Kim) 

***

1. Ý nghĩa cơ thể: Kình Dương chỉ bộ phận sinh dục của phái nam.

2. Ý nghĩa tướng mạo: Người có Kình đơn thủ thì thân mình cao và thô, mặt choắt, da xám, hầu lộ, mắt lồi, có sức khỏe.

3. Ý nghĩa bệnh lý: Là hình tinh, Kình đi chung với bộ phận nào sẽ gây bệnh hay tật cho chỗ đó. Kình Vượng: lưng tôm, lưng gù, đi cong lưng Kình Long Trì: mũi sống trâu Kình Phượng Các: cứng ta, lãng tai Kình Nhật, Nguyệt: kém mắt, đau mắt

4. Ý nghĩa tính tình: Kình là sao võ nên ý nghĩa mạnh bạo, thích hợp với phái nam hơn phái nữ, đặc biệt là tuổi Dương.
a. Nếu Kình đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi:             - tính khí cương cường, quả quyết, nóng nảy             - thích mạo hiểm, làm những chuyện táo bạo, bí mật             - nhiều mưu trí             - hay tự đắc, kiêu căng, bất khuất             - sỗ sàng, ngang tàng Đi cùng với Thiên Tướng, Thất Sát hay Kiếp Sát, Thiên Hình, Kình Dương càng lộ tính nóng nảy, giận dữ, hay sát phạt, dễ bị khích, tự ái rất lớn.
b. Kình hãm địa:             - hung bạo, liều lĩnh, bướng bỉnh, ngỗ ngược             - gian trá, độc ác hay phá, giết, chọc, tính của tiểu nhân và đạo tặc             - dâm dật, khắc chồng con (nữ)             - bệnh tật Nếu gặp sát tinh thì sự hung càng mạnh.
c. Kình ở Ngọ, Dần, Thân, Mão, Dậu:             - ở Ngọ: rất độc, có nghĩa như yểu, chết bất đắc, bị tai nạn dữ và bất ngờ hoặc tàn tật.             - ở Dần, Thân: rất tai hại cho tuổi Giáp, Mậu: thường phá tán tổ nghiệp, mang tật, lao khổ, có xa nhà mới sống lâu.             - ở Mão, Dậu: cũng nguy khốn cho tuổi Giáp, Mậu.

5. Ý nghĩa của kình dương và một số sao khác ở các cung:
a. ở Mệnh: Kình Linh Hỏa: lưng gù, có bướu hay chân tay có tật; nghèo khổ, chết thê thảm (nếu cùng hãm địa) Kình, Không, Kiếp, Binh : côn đồ, đạo tặc, giết người Kình, Hình, Riêu, Sát : gái giết chồng Kình, Nhật hay Nguyệt đồng cung : bệnh hoạn liên miên, có tật lạ (nếu thêm Kỵ); trai khắc vợ, gái khắc chồng. Kình, Liêm, Cự, Kỵ: có ám tật; nếu cùng hãm địa thì ngục hình, kiện cáo, thương tích tay chân, nhất là tuổi Thìn, Tuất Kình, Tuế, Khách : sát phu/thê, xa cách cha mẹ Kình, Mã: truân chuyên, thay đổi chỗ ở luôn hoặc nếu là quân nhân thì phải chinh chiến luôn. Kình Lực đồng cung: có sức khỏe địch muôn người, bất đắc chí về công danh, có công nhưng bị người bỏ quên. Kình Hỏa miếu địa: số võ nghiệp rất hiển hách.
b. Giáp Mệnh: giáp Kình Đà: có tiền nhưng phải chật vật vì sinh kế giáp Kình Liêm Tướng: khó tránh được tù tội. Nếu có quan chức thì bị truất giáng, suốt đời bất đắc chí.
c. ở Quan: Kình đắc địa gặp Mã chiếu: có võ chức nhưng trấn ở xa Kình Lực: bất mãn, bất đắc chí, bất đắc dụng ở quan trường; có xin nghỉ gia hạn hay bị ngồi chơi xơi nước; công danh chật vật, nhọc nhằn và nhục nhã
d. ở Tài: - nếu đắc địa: dễ kiếm tiền lúc náo loạn. - nếu hãm địa: thiếu thốn và phá tán, dùng bạo cách
e. ở Phu Thê: - nếu đắc địa thì vợ chồng hay bất hòa, gián đoạn 1 dạo - nếu hãm địa thì hôn nhân trắc trở, hình khắc dễ xảy ra, vợ ghen, chồng bất nghĩa.
f. ở Hạn: Kình Hình ở Ngọ: bị tù, có thể chết nếu gặp lục Sát. Kình Vũ Phá : bị hại vì tiền.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO KÌNH DƯƠNG TRONG TỬ VI

Đàn ông có tướng mặt này sẽ làm quan lớn

Nếu tướng mặt đàn ông có đặc điểm này thì thì thời trẻ nhiều thành tựu, có thể được làm quan tới chức công khanh...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tướng mặt của Đàn ông có đặc điểm như thế này thì sẽ được làm quan cao, danh vang dội bốn phương.

dan-ong-mat-quy

Tướng mặt làm quan lớn của đàn ông

Nhãn quan dài nhập đến bộ vị Thiên thương. Lông mày thanh tú, mắt dài, chóp mũi tròn và nhẵn, bộ vị Niên thượng và Thọ thượng cùng nổi lên, 2 lông mày quá tai lại vươn thẳng. Môi đỏ như ngậm chu sa, miệng vuông và ngay ngắn, bộ vị Thừa tương hướng về Địa giác, khí sắc thể hiện tại thần quang. Lưng đầy đặn và nổi lên như mặc áo giáp, mày thanh mắt tú, trán vuông thẳng. Người có tướng như vậy tất được làm quan cao, danh tiếng vang dội bốn phương.

Lại nói rằng: Lông mày giống như Hoa cái, mắt giống như ánh sao, Hoa cái cao mà mắt lại sáng, thế đất hướng về trời thì thời trẻ nhiều thành tựu, có thể được làm quan tới chức công khanh.

Tướng mặt của người đàn ông đại cát đại lợi

Người có Thượng đình dài là tướng đại cát đại lợi.

Trung đình dài thì có thể được tiếp cận với vua chúa. Người có Hạ đình dài thì đều là mệnh tầm thường, phải tha hương kiếm sống, khí vận không tốt.

Lại nói rằng: Tam đình trên thân tương xứng mà trên dưới cũng đều cân đối là mệnh phú quý. Phía trên dài phía dưới ngắn, lưng vững chãi như 3 ngọn núi sẽ có được chức vị công khanh. Phía trên ngắn mà phía dưới dài, eo lại mỏng thì suốt đời không ngừng bôn ba. là mệnh nghèo khổ, vất vả.

Tướng mặt của người đàn ông giàu có

Mũi thẳng miệng rộng, vai lưng đầy đặn chủ giàu sang

Người gầy khí sắc tươi nhuận, người béo thanh cao thoát tục, tinh thần ẩn tàng mà không lộ, mũi thẳng miệng rộng, vai lưng đầy đặn to lớn.

Người gầy vai lưng cao đầy đặn, người béo nhưng có hình thể cân đối tương xứng, cử chỉ thận trọng, vững vàng.

Trước hèn sau sang: Trán hẹp, thời gian đầu trì trệ, về sau được phát đạt

Người có trán hẹp và nhỏ thì lúc trẻ rất khó khăn, thần thanh mà sắc bền.

Người có trán rộng thì cuối cùng cũng được thành công,

Người có 2 gò má đầy đặn thì tất được bổng lộc cao.

Trước giàu sau nghèo: Trán rộng, lúc trẻ được vinh hoa, trung niên gặp tai họa

Người có trán rộng thì lúc trẻ dễ dàng được hưởng vinh hoa, thần tuy thanh nhưng khí lại không ổn định.

Sống mũi cao thẳng nhưng xương mặt không nổi lên, thân thể mỏng manh mà âm thanh lại phù phiếm. Lòng bàn tay to dày nhưng gân xanh lại lộ ra, rốn sâu nhưng 2 tai không cân đối. Lưng tuy dày nhưng ngực mỏng không có lông. Thời trẻ tuy được ưu việt nhưng đến tuổi trung niên lại gặp tai họa. Cho dù hiện tại có được giàu có thì cuối cùng cũng rất dễ tiêu tan.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông có tướng mặt này sẽ làm quan lớn

Các lễ hội ngày 22 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Trúc Tay

Hội Đình Trúc Tay đucợ tổ chức vào ngày 22 tháng 2 âm lịch tạihuyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang, nhằm suy tôn công đức của đức thánh Tam Giang.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 22 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Trúc Tay

Các lễ hội ngày 22 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Trúc Tay

Hội Đình Trúc Tay

Thời gian: tổ chức vào ngày 22 tháng 2 âm lịch.

Địa điểm: huyện Việt Yên, Tỉnh Bắc Giang.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công đức của đức thánh Tam Giang.

Nội dung: Mở đầu hội là các hoạt động lễ thánh Tam giang, cầu mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Tiếp đó là phần hội có tổ chức: bơi trải, chèo thuyền bắt vịt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 22 tháng 2 Âm Lịch - Hội Đình Trúc Tay

Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Do tính cách sống hướng nội sâu sắc nên vẻ ngoài của những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu AB khá lạnh lùng. Chỉ khi tiếp xúc, quen biết lâu ngày thì mọi người
Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Do tính cách sống hướng nội sâu sắc nên vẻ ngoài của những người tuổi Tuất thuộc nhóm máu AB khá lạnh lùng. Chỉ khi tiếp xúc, quen biết lâu ngày thì mọi người mới thấy được những ưu điểm của họ.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Trong tình yêu cũng vậy, những người này thường che giấu tình cảm của mình. Con tim họ chất chứa tình yêu nhưng lại không thể diễn đạt thành lời hay bằng hành động cụ thể. Bở vậy, đối phương phải là những người thực sự hiểu họ thì mới cảm nhận được tấm chân tình để cùng nhau xây dựng tổ ấm.

Họ được đánh giá là người bao dung, cao thượng. Nếu "nửa kia" của họ đem lòng yêu một người khác, họ sẵn sàng rút lui và lặng lẽ chúc phúc cho hai người đó mà không hề có ý tranh giành tình yêu.

Khi kết hôn, họ nên chọn bạn đời của mình là người hoạt bát, hài hước và nhiệt tình. Có vậy mới dung hòa những khiếm khuyết của nhau, cùng xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Phụ nữ tuổi Tuất sau khi kết hôn luôn nỗ lực hết mình để xây đắp, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Chính vì vậy mà đôi khi họ cũng cảm thấy mệt mỏi nên họ cần được sự quan tâm và động viên của chồng và con để hoàn thành tốt hơn thiên chức của người vợ, người mẹ trong gia đình.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình yêu của người tuổi Tuất nhóm máu AB

Tướng phụ nữ dê |

Tính dục thì ai cũng có, nhưng người quá trọng nhục dục thường ít ra cũng có một vài nét tướng đặc biệt : - Phụ nữ trời phú sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng lạt gọi là đào hoa sắc hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang đều chủ về háo dâm - Lông mày nh
Tướng phụ nữ dê |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ dê |

Đặt tên hay cho người tuổi Tuất

Căn cứ vào đặc điểm về bản tính của loài chó và các mối quan hệ tương sinh tương khắc với những con giáp còn lại, người xưa đúc rút cách đặt tên hay cho người
Đặt tên hay cho người tuổi Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tuổi Tuất.


Dat ten hay cho nguoi tuoi Tuat hinh anh
Ảnh minh họa

1. Dựa vào đặc tính sinh sống

 
Chó là loại động vật trung thành nhất của con người, do đó người tuổi Tuất thích hợp với những tên có chữ Nhân như: Kim, Nhiệm, Lệnh, Trọng, Bá, Thân, Dư, Tuấn, Kiện, Nghi, Vĩ…
 
Bên cạnh đó, chó là loài ăn thịt, thích sống trong nhà, nên có thể đặt tên cho người tuổi Tuất bằng những chữ Tâm, Nhục, Mịch, Miên, Nhân.
 
Những tên hay cho người tuổi Tuất: Tất, Chí, Trung, Tư, Hằng, Ân, Cung, Từ, Huệ, Tuệ, Hữu, Thắng, Hồ, Năng, Thanh, Thủ, Gia, Nghi, Vũ, Hựu, Phú, Quan, Hoành, Ninh, An, Toàn, Công, Du, Trọng…
 
Ngoài ra, người tuổi Tuất cũng thích hợp với những từ mang ý nghĩa tô điểm bởi khi đó nó uy phong hơn, được vị được tôn cao hơn như: Mịch, Sam, Cân, Y.
 
Những tên thích hợp: Ước, Thân, Tố, Duyên, Duy, Hình, Ngạn, Đồng, Chương, Bành, Trang, Biểu, Sam, Hi, Tịch, Thị…
 
2. Dựa vào mối quan hệ tương sinh với những con giáp khác
 
Dần – Tuất – Ngọ thuộc mối quan hệ tam hợp nên có sự tương trợ lẫn nhau về cả sự nghiệp và nhân duyên. Do đó, có thể đặt tên cho người tuổi Tuất bằng các chữ Dần, Ngọ như: Hổ, Hiến, Trúc, Tuấn, Lạc, Kì, Khiên, Đằng, Tương, Đốc, Hoa…
 
3. Những tên cần tránh
 
Chó trung thành với chủ, nhưng nếu đồng thời phải thờ phụng nhiều người thì sẽ thành bất trung. Do đó, trong tên của người tuổi Tuất nên tránh có hai chữ Nhân (nhân kép) như: Nhân, Từ, Đồ, Đức, Đắc…
 
Người xưa có câu “ cẩu phệ nhật” (chó cắn mặt trời), nghĩa là khi nhìn thấy mặt trời mọc chó sủa lên hai tiếng. Điều này ý chỉ thích can thiệp vào việc của người khác. Vì vậy, không nên đặt tên cho người tuổi Tuất bằng những chữ có bộ Nhật như: Húc, Côn, Xương, Tinh, Minh, Xuân, Tình, Trí, Hiểu, Thời, Dịch…
 
Người tuổi Tuất cũng không thích hợp với những tên mang tính chất đối xung, khắc quy luật ngũ hành như Dậu, Thìn, Mộc. Những tên đó bao gồm: Dậu, Điểu, Đoài, Tây, Kim, Vũ, Tường, Tập, Diệu, Hàn, Lâm, Tài, Sâm, Lý, Đỗ, Đông, Chi, Liễu, Cách, Mai, Thụ, Quyền, Cơ, Thần, Thìn…
 
Ngoài ra, chữ Bối tượng trưng cho hình ảnh của rồng, cho nên cần tránh chữ này khi chọn tên cho người tuổi Tuất: Bối, Tài, Quý, Phú, Chất, Tán…
 
Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên hay cho người tuổi Tuất

Tự Giới Thiệu Chu Dịch Dự Đoán Học

Môn học Chu Dịch Dự Đoán đưa ra khá nhiều cách thức lập quẻ để dự đoán, điển hình là Mai Hoa Dịch Số của Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) Tham khảo 1 số sách trong nước và nước ngoài, tôi chọn ra 3 cách lập quẻ cơ bản : 1. Gieo 3 đồng tiền: Dự đoán ý thức & tiềm thức của người gieo đồng tiền. 2. Gieo theo phương vị: Dự đoán suy nghĩ của người bị đoán. 3. Gieo theo thời gian: Dự đoán diễn tiến sự việc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

LỜI BÀN :
- Xưa kia, các mưu sĩ, quân sư tài giỏi thường chuộng cách gieo quẻ theo chữ viết, câu nói (tương tự như khi gieo đồng tiền) Do cách gieo này nhận biết chính xác tâm thức của Vua Quan, nên dễ lấy được nhanh lòng tin. Nhưng khi lâm sự, cách gieo trên không mang lại hiệu quả cao do phải vận dụng 3 lần dự đoán: Dự đoán tâm thức, căn cứ vào tâm thức dự đoán hành vi, căn cứ vào hành vi dự đoán kết quả sự việc. Nếu gieo theo thời gian, ta chỉ cần 1 lần dự đoán, dự đoán diễn tiến & kết quả của sự việc. Những cẩm nang đi đường chỉ mở ra xem vào một thời điểm nhất định, được ghi trong các câu chuyện về Khổng Minh, Trương Lương… hoàn toàn không phải là chuyện hoang đường. Nó được vận dụng từ cách gieo quẻ theo thời gian của môn Chu Dịch Dự Đoán Học.
- Ngày nay, đa phần những người hoạt động bói toán vẫn thường thích sử dụng cách gieo quẻ theo đồng tiền là điều dễ hiểu. Nó nắm bắt được ngay tâm thức của người đến xem bói.
- Trong bài này, tôi viết về môn học dự báo. Những chi tiết hoang đường, kỳ bí, huyền hoặc không phù hợp với lý luận cơ bản tôi không đề cập đến.
Môn học này dự đoán cái gì ?

1. Dự đoán về Tôi (Ngôi thứ nhất)
2. Dự đoán về Người khác (Ngôi thứ hai)
3. Dự đoán Sự Kiện (Ngôi thứ ba)
Để dự đoán, ta cần có những thông tin nào ?
1. Ngôi thứ nhất: Nhận thông tin qua 3 đồng tiền.
2. Ngôi thứ hai: Nhận thông tin qua phương hướng.
3. Ngôi thứ ba: Nhận thông tin qua thời gian.

Có thông tin, ta đi lập bài toán dự đoán :

TẠO LẬP BÀI TOÁN DỰ ĐOÁN
Tạo lập bài toán cho dự đoán ngôi thứ nhất:
Thực hiện các bước sau:
1. Chọn 3 đồng tiền có chất liệu giống nhau, bằng đồng (Cu)
2. Qui ước mặt hình là âm ( __ __ ), mặt chữ là dương ( _____ )
3. Đặt 3 đồng tiền vào 2 lòng bàn tay khoảng 1 phút. Gieo chúng lên mặt phẳng bất kỳ. Nếu:
3 mặt hình, ta ghi: ___ ___ x
3 mặt chữ, ta ghi: _______ x
2 hình 1 chữ, ta ghi: _______
2 chữ 1 hình, ta ghi: ___ ___
Sau khi gieo 6 lần, giả thử ta có đồ hình:
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Đồ hình 1                 Đồ hình 2

* Qui ước ghi từ dưới lên.
* Đảo ngược các thanh dấu x, ta có đồ hình 2.
* Trường hợp không có x sau khi gieo, ta chỉ có 1 đồ hình duy nhất. Ví dụ:
_______
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
___ ___
Đồ hình không có x

Ta gọi tên chúng (xem bảng 2 & 3)
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___x                 _______x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
Sơn Hoả Bí                 Lôi Hoả Phong

Tạo lập bài toán dự đoán cho ngôi thứ hai
Thực hiện các bước sau:
* Người chuyển động: ta lấy hướng sau lưng họ.
* Người ngồi: ta lấy hướng trước mặt họ.
Ví dụ: Ông lão đi từ hướng Tây nam đến vào lúc 12h trưa.
Ta lập bài toán như sau:
Ông lão: Thiên ; Tây nam : Địa (xem bảng 2)
Thiên: 1 ; Địa: 8 (Xem bảng 2)
12h trưa: 7 (xem bảng 1)
Ta làm phép tính:
1 + 8 + 7 = 16
16 : 6 có số dư x = 4
Ta có:
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Thiên Địa Bỉ                 Phong Địa Quán

Tạo lập bài toán dự đoán ngôi thứ 3
Ví dụ: 8h sáng ngày 27-8 năm Nhâm Ngọ
8h sáng: 5
Nhâm: 9
Ngọ: 7
* 27 + 8 + 9 = 44
44 : 8 dư 4 (Lôi)
44 + 5 = 49
49 : 8 dư 1 (Thiên)
49 : 6 dư 1 (x = 1)
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
_______                 _______
_______                 _______
_______                 _______
_______x                 ___ ___x
Lôi Thiên đại                 Tráng Lôi Phong Hằng

* 27 + 8 + 7 = 42
42 : 8 dư 2 (Trạch)
42 + 5 = 47
47 : 8 dư 7 (Sơn)
47 : 6 dư 5 (x = 5)
___ ___                 ___ ___
_______x                 ___ ___x
_______                 _______
_______                 _______
___ ___                 ___ ___
___ ___                 ___ ___
Trạch Sơn Hàm                 Lôi Sơn Tiểu Quá

KỸ THUẬT DỰ ĐOÁN
Theo các bước sau :
1. Nêu vấn đề cần dự đoán ở dạng câu hỏi. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng.
2. Xem nghĩa của 2 quẻ Chủ nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biễn của sự việc vào thời gian đầu.
3. Xem nghĩa của 2 quẻ Biến nhằm xác định suy nghĩ, thái độ, hành động của những người trong cuộc & diễn biến của sự việc ở thời gian sau.
4. Căn cứ vào (1) (2) (3) đưa ra lời dự đoán.

Ví dụ 1 : 20h ngày 20 – 10 Nhâm Ngọ, 2 bên thương thảo lại giá cả mua bán theo đề nghị của Bên A. Bên A là người bán. Cuộc thương thảo kết thúc nửa giờ sau đó. Tôi muốn biết kết quả cuộc thương thảo ấy.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ấy ra sao?
Lập bài toán dự báo, ta có:
- 2 quẻ Chủ : Vị tế (Chưa xong) ; Quán (Bày tỏ)
Luận : Một bên bày tỏ quan điểm của mình nhưng chưa hoàn tất.
- 2 quẻ Biến : Giải (Giải thích) ; Hoán (Tan vỡ)

Luận : Một bên đưa lý lẻ nhằm giải thích. Cuộc họp tan vỡ không có kết quả.
Dự Đoán :
Cuộc họp do yêu cầu của Bên A, cho nên việc bày tỏ quan điểm là ở bên A. Bên A bày tỏ chưa xong thì xuất hiện lời giải thích. Lời giải thích này tất nhiên là ở bên B. Lời giải thích ở bên B đưa ra đã khiến cuộc họp tan vỡ.
Bên A là bên bán, ta suy ra bên A muốn nâng giá bán. Và bên B đã không chấp nhận điều ấy khiến cuộc họp không đem lại kết quả.

Ví dụ 2 : Vẫn ví dụ trên, nhưng cuộc họp kéo dài qua khung giờ sau (21h). Cho biết kết quả.
Câu hỏi : Kết quả cuộc thương thảo ra sao ?
Lập bài toán dự báo, ta có :
- 2 quẻ Chủ : Tiểu Súc (Cản ngăn) ; Phong (Phát triển)
Luận : Một bên cho biết rằng họ có thể sẽ phát triển giải pháp nhằm cản ngăn đề nghị của bên kia.
- 2 quẻ Biến : Tốn (Vâng thuận) ; Chấn (Chấn động)
Luận : Một bên chấn động phải vâng thuận theo bên kia.

Dự Đoán
:
Ta có 2 trường hợp:
1. Trường hợp thứ nhất : Nếu bên A là người cung cấp nhỏ so với bên B, hoặc bên A phụ thuộc bên B ở nguyên liệu đầu vào, thì : Bên B cho biết răng họ có thể nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán hiện nay giữa 2 bên. Bên A lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

2. Trường hợp thứ hai : Nếu bên A là nhà cung cấp lớn, hoặc loại hàng bên A cung cấp hiện đang bán chạy trên thị trường, thì : Bên A cho biết rằng họ có thể sẽ nghĩ đến biện pháp ngăn lại cuộc buôn bán giữa 2 bên hiện nay. Bên B lo lắng và buộc phải rút lại lời đề nghị của mình.

Ví dụ 2 : Một người bạn cùng khoá tổ chức sinh nhật, nhưng chỉ mời vài bạn gái trong lớp. Tôi đã có bạn trai, nhưng vì nể bạn nên cũng nhận lời. Tôi muốn biết buổi sinh nhật tối hôm ấy sẽ diễn tiến ra sao khi biết rằng có dancing ?
- Xem qua các quẻ (17h – 19h) 2 quẻ Chủ: Tuỳ & Giải ; 2 quẻ Biến: Đoài & Sư, thấy rằng buổi tiệc diễn ra vui vẻ và các bạn tôn trọng nhau.
- Xem qua (19h – 21h) 2 quẻ Chủ: Đại Quá & Tiểu Quá ; 2 quẻ Biến: Khốn & Hàm, thấy rằng có khả năng xảy ra tình trạng các bạn chọc ghẹo qua lại quá đáng. Tôi đã có bạn trai, vì thế có khả năng ai đó quan tâm hay chọc ghẹo tôi. Không muốn để xảy ra những chuyện như thế, bèn dặn người nhà gọi điện kêu tôi về gấp.

- Xem qua (21h – 23h) 2 quẻ Chủ: Khốn & Dự ; 2 quẻ Biến: Khảm & Tấn, thấy rằng nếu còn ở lại dancing thì rất có khả năng tôi bị đối xử sổ sàng. Vì thế, vì lý do gì chưa thể về sau 19h thì bằng mọi cách tôi phải về trước 21h.

BÀI TẬP THỰC HÀNH
Bài thứ nhất: Một người đến hỏi: “Khoảng 6 giờ chiều hôm qua, tôi nhận được cú điện thoại từ nước ngoài gọi về. Đó là con rể, mới làm lễ Đính Hôn cách đây 4 tháng. Cháu nó nói rằng có gởi về Việt Nam 1 lá thư, không rõ tôi đã nhận được chưa. Hơn 1 tiếng sau, có người nhà cậu ấy mang lá thư qua. Trong thư nói rằng con rễ tôi không thể về Việt Nam làm lễ cưới như đã định trước đó. Và đề nghị bên tôi chờ (!?)”
17h – 19h: quẻ Chủ: Tỉ & Lâm ; quẻ Biến: Khảm & Qui Muội.
19h – 21h : quẻ Chủ: Nhu & Minh Di ; Biến: Tiết & Ký tế.
Câu hỏi :
1. Ẩn ý cú điện thoại ?
2. Ẩn ý lá thư ?

Bài thứ hai : 2h30 chiều, một người đàn ông ngoại quốc đến yêu cầu cho gặp giám đốc với lý do muốn bàn với công ty chuyện làm ăn. Ông ta tự giới thiệu là người đại diện cho 1 tập đoàn có trụ sở chính đặt tại Châu Á. Ông ta đề nghị một hợp tác song phương.
1h – 3h : quẻ Chủ: Chấn & Khảm ; quẻ Biến: Phệ Hạp & Tỉ.
3h – 5h : quẻ Chủ: Hằng & Kiển ; quẻ Biến: Đại Tráng & Tỉ.

Câu hỏi :
1. Đây là một đề nghị hợp tác nghiêm túc ?
2. Diễn tiến câu chuyện (Ông ấy ra về lúc 4h) ?

Bài thứ ba : ngày 11 – 9 – 2001, Hoa Kỳ bị khủng bố bằng máy bay. Toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới ở Newyork bị đổ sụp hoàn toàn.
Quẻ Chủ: Trung Phu & Di ; quẻ Biến: Tiết & Tổn.
Câu hỏi :
1. Phản ứng của Hoa Kỳ ?
2. Đánh giá khả năng bảo vệ (an ninh) của Hoa Kỳ trước ngày 11 – 9 ?
3. Tổ chức đó lâu đời hay mới thành lập ?


BẢNG 2:
_______                  ___ ___                  _______                  ___ ___
_______                  _______                  ___ ___                  ___ ___
_______                  _______                  _______                  _______

CÀN (Thiên)         ĐOÀI (Trạch)         LY (Hoả)         CHẤN (Lôi)
Ông Lão                 Bé Gái                     Thanh Nữ          Trung Niên
Tây Bắc (1)            Tây (2)                    Nam (3)             Đông (4)


___ ___                  _______                  ___ ___         ___ ___
___ ___                  _______                  _______         ___ ___
_______                  ___ ___                  ___ ___         ___ ___

TỐN (Phong)         KHẢM (Thuỷ)         CẤN (Sơn)         KHÔN (Địa)
Trung Nữ               Thanh Niên               Bé Trai               Bà Lão
Đông Nam (5)       Bắc (6)                   Đông Bắc (7)      Tây Nam (8)



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tự Giới Thiệu Chu Dịch Dự Đoán Học

Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng - Tuổi sửu - Xem Tử Vi

Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng, Tuổi sửu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng, tu vi Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng, tu vi Tuổi sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng

Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng sinh năm: 1925, 1985 và 2045. Qúy cô Ất Sửu cuộc đời có nhiều tốt đẹp từ trung vận trở đi.

Tuổi Ất Sửu mệnh nữa

CUỘC SỐNG

Mệnh: tuổi Ất Sửu nữ mạng có mệnh giống tuổi Ất Sửu nam mạng.

Cuộc đời có nhiều tốt đẹp từ trung vận trở đi, tiền vận cũng có nhiều vất vả, trung vận tuy buồn bã hay lo âu nhiều về việc làm ăn và tài lộc, nhưng sẽ được gặp rất nhiều dịp may bất ngờ, hậu vận mới được an nhàn.

Số không được tốt và đầy đủ về đường tài lộc, nhưng vào hậu vận thì được an nhàn sung túc.

Hưởng thọ trung bình vào khoảng từ 58 đến 64 tuổi là mức tối đa

TÌNH DUYÊN

Tuổi nhỏ Ất Sửu gặp vài trắc trở, nhưng có số nhiều may mắn về vấn đề tình duyên.

Nếu Ất Sửu nữ mệnh sinh vào những tháng 1 và 3 Âm lịch, tình duyên lận đận, phải 3 lần đò.

Nếu bạn sinh vào những tháng 2, 5, 9, 10 và 11 Âm lịch, đường tình duyên phải qua 2 lần đò.

Ất Sưu nữ sinh vào những tháng 4, 7, 8 và 12 Âm lịch tình duyên hạnh phúc, chung thủy.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo tuổi nhỏ có nhiều lộn xộn hay khe khắt, trung vận lại có nhiều buồn lo về gia đạo, hậu vận mới được yên vui. Công danh: trung bình, không quá cao và cũng không thấp, nếu không có theo đuổi công danh thì phần sự nghiệp tiền tài cũng vẫn ở tầm mức trung bình.

Về tiền bạc, tuổi Ất Sửu không giàu sang phú quý nhưng có dư dả.

Sự nghiệp sẽ được vững chắc vào tuổi 37 trở đi. Và vào tuổi 43 trở đi sẽ có cơ hội tạo nên sự nghiệp.

NHỮNG TUỔI HỢP LÀM ĂN

Những người tuổi Ất Sửu mệnh nữ nên kết hợp làm ăn với những tuổi Ất Sửu đồng tuổi, Mậu Thìn và Tân Mùi. Việc làm ăn và mọi thứ đều thuận lợi vì đây là những tuổi đại hợp.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Nên kết hôn với tuổi Ất Sửu, Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Tân Mùi, cuộc sống có cơ hội tạo được nhiều dịp may mắn về vấn đề tiền bạc và sống một cuộc đời sung túc của hạnh phúc. Với tuổi Kỷ Tỵ và Tân Mùi: có thể đem sự thắng lợi về công danh và sự nghiệp, cuộc sống thêm phần đầy đủ hoàn toàn, không có những sự thiếu thốn về tiền bạc. Phần con cái đều ở vào mức trung bình.

Vì tuổi Đinh Mão, Quý Dậu chỉ hợp tình duyên nên nếu kết hôn, cuộc sống bạn chỉ tạo được một cuộc sống trung bình.

Không nên kết hôn với tuổi Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Bính Tý, Giáp Tý, Quý Hợi, đời sống thêm khó khăn và luôn luôn có nhiều khe khắt, cuộc đời chỉ sống trong nghèo khổ triền miên, không tạo được cơ hội thuận tiện cho cuộc đời.

Ở tuổi 15, 21, 25, 27, 33, 37 và 39(là năm tuổi của Ất Sửu nữ) sẽ rất xung khắc, nếu kết hôn sẽ gặp cảnh xa vắng triền miên, không sống được đầy đủ hạnh phúc.

Ất Sửu sinh vào những tháng 1, 2, 10 và 11 Âm lịch., cuộc đời sẽ có nhiều thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, hay ít ra cũng có nhiều chồng, đó là bạn sinh vào những tháng:

Còn nếu sinh vào tháng 3 và 12 Âm lịch, sinh con khó nuôi, hay gặp cảnh khó sinh.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Bạn không nên kết hôn hay làm ăn với những tuổi Bính Dần, Nhâm Thân, Giáp Tuất, Mậu Dần, Nhâm Tuất, Canh Thân. Nếu làm ăn hay kết duyên với những tuổi sau đây, bạn sẽ bị tuyệt mạng hay gặp cảnh biệt ly vào giữa cuộc đời.

NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Có những năm mà bạn ở vào số tuổi, việc làm ăn gặp nhiều bê bối, khó thành công và khó tạo được tiền bạc, toàn năm có nhiều khó khăn về gia đạo cũng như về cuộc đời, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 19, 23, 28, 35 và 43 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng có hao tài tốn của hay đau bịnh.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH hợp NHẤT

Tuổi Ất Sửu xuất hành làm ăn, đi xa, phát triển cơ nghiệp vào những ngày lẻ, tháng lẻ và giờ lẻ thì hay nhứt. Những ngày, giờ và tháng nói trên nếu xuất hành thì sẽ thâu được nhiều thắng lợi, không có sự thất bại về tiền bạc hay thất bại bất ngờ. Ngày giờ nói trên áp dụng cho suốt cuộc đời.

NHỮNG DIỄN TIẾN TỪNG NĂM

Từ 18 đến 21 tuổi:Trong suốt thời gian này vượng nhất về vấn đề tình cảm, nhưng hãy coi chừng bị lừa gạt, bị lợi dụng hoặc sự tan vỡ bất ngờ. Làm việc gì cũng nên suy xét kỹ trước khi quyết định. Năm 20 tuổi sẽ gặp được một mối tình lớn hoặc gặp được người yêu lý tưởng. 21 tuổi, kỵ mùa xuân, kỵ đi xa có hại.

Từ 22 đến 25 tuổi:22 tuổi, kỵ những việc gì có tính cách lén lút khuất tất, dễ bị đau khổ về vấn đề tình cảm. 23 tuổi, gặp may mắn về tài lộc. 24 tuổi, coi chừng có kẻ tính hãm hại, kỵ miệng tiếng thị phi. 25 tuổi, kỵ mùa Đông, kỵ người bạn gái đồng tuổi và thân nhất.

Từ 26 đến 30 tuổi:Đây là khoảng thời gian đẹp nhất trong đời bạn, trong suốt mấy năm liền, đời bạn đẹp như hoa gấm, hợp cả vấn đề tình cảm lẫn vấn đề tài lộc, tính chuyện gì cũng thành. Nếu đã có gia đình thì sẽ đạt được hạnh phúc đến mức tuyệt đỉnh. Nếu chưa có gia đình thì sẽ được hội ngộ hoặc gặp được người yêu lý tưởng theo đúng mẫu người mà bạn hằng mơ ước. Bạn hãy lợi dụng thời gian vàng son nầy để mà xây dựng tương lai của đời bạn.

Từ 31 đến 35 tuổi:Năm 31 và 33 tuổi, hai năm coi chừng có thể bị đau bệnh bất ngờ. Những năm khác trung bình. Năm 35 tuổi coi chừng có lộn xộn về vấn đề tình cảm.

Từ 36 đến 41 tuổi:Đây là những năm hạn cần phải giữ gìn cho kỹ về vấn đề tình cảm để tránh khỏi phải gặp những cảnh quá đau lòng có thể làm cho đời bạn bị tan nát, hạnh phúc bị đổ vỡ. Năm 41 tuổi có hoạnh tài bất ngờ. Những năm khác tài lộc trung bình. Năm 40 kỵ đi xa, có hại.

Từ 42 đến 45 tuổi:Tuổi 42, năm nầy làm ăn được phát đạt và có thâu hoạch nhiều khả quan. Tháng 9 có bịnh nhỏ. 43 tuổi, năm nầy có hơi xấu về bổn mạng, không được vững, nên cẩn thận trong việc giao dịch về tiền bạc hay mọi sự làm ăn. 44 tuổi, năm nầy thì được khá, việc làm ăn có cơ hội thuận tiện, nhứt là những tháng 2 và 8, hai tháng đại lợi cho tuổi Ất Sửu. 45 tuổi, năm bình thường, việc làm ăn hay mọi việc đều ở trong mức độ bình thường, không có việc gì quan trọng.

Từ 46 đến 50 tuổi:Năm 46 tuổi, khá hay đẹp về tình cảm; năm nấy hùn hợp, xuất phát tiền bạc làm ăn khá tốt đẹp. 47 tuổi, năm nầy có hao tài vào tháng 6 và 9, con cái có đau bịnh hay đi xa, dời chỗ ở. 48 và 49 tuổi, hai năm nầy có phần phát đạt về tài lộc, gia đình êm ấm thuận hòa. Năm 50 tuổi, năm khá tốt, nhưng có xung hạn vào tháng 10 trở đi, nên giữ gìn thân thể, bổn mạng yếu.

Từ 51 đến 55 tuổi:Khoảng thời gian nầy không được tốt đẹp cho gia đình, bổn mạng có phần suy yếu rõ rệt, cẩn thận về tiền bạc cũng như trong việc làm ăn.

Từ 56 đến 60 tuổi:Khoảng thời gian nầy, không nên tạo thêm nhiều phiền phức cho gia đình, cố gắng tạo lấy cuộc sống bình thường. Bổn mạng khá tốt vào tuổi 56 và 57, ngoài ra, những năm khác bình thường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi trọn đời tuổi Ất Sửu nữ mạng - Tuổi sửu - Xem Tử Vi

Sự Tích Rằm Tháng Bảy Và Xuất Xứ Của Hai Tiếng Vu Lan

Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng "Vu Lan" ?
Sự Tích Rằm Tháng Bảy Và Xuất Xứ Của Hai Tiếng Vu Lan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự Tích Rằm Tháng Bảy Và Xuất Xứ Của Hai Tiếng Vu LanAn Chi (Huệ Thiên)
Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không ? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng " Vu Lan " ? 
Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ. 
Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh. 
Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không ? Không ! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau : Cứ theo "Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh" mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói : " Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên ". A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là " thả quỷ miệng lửa ", về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành " tha tội cho tất cả những người chết ". Vì vậy, ngày nay mới có câu : " Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân ". 
Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh - HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là " những người đã chết " nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi. 
Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : " Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng " Vu Lan " và " Vu Lan bồn ". Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên. 
Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là " cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 " thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là " đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v..." (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau : 
Phải toan sắm sửa chớ chầy Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu Lại phải sắm giường nằm nệm lót Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu Món ăn tinh sạch báu mầu Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng 
(Diễn ca kinh Vu Lan bồn) 
Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt ... mà thôi. Còn thức ăn thì phải " tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát " đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu. 
Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : " Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật " (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật). 
Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành " cứu nạn treo ngược", vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là " cứu đảo huyền ". Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành " cứu đảo huyền " là đã mượn hai tiếng "đảo huyền " trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn " Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là "như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy ". Chính Từ Nguyên cũng đã giảng " đảo huyền " là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy " cứu đảo huyền " không phải là " cứu nạn treo ngược " mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ". 
Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana " có nghĩa là " cứu nạn treo ngược ". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là " cứu nạn treo ngược " được. 
Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan ". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của " Vu Lan bồn ". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì " Vu Lan bồn " chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành " cái chậu đựng thức ăn " như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng. 
Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị : Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v... Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt ... Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là " Vu Lan bồn ". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả. 
Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học. 
An Chi (Huệ Thiên)* 

* An Chi (Huệ Thiên) là một thành viên trong Ban giảng huấn - Lớp Gia Giáo luyện dịch Hán Tạng Chùa Viên Giác Tân Bình, phụ trách giảng ngoại khóa. Bài này đã được học giả An Chi giảng tại lớp Gia Giáo ngày 9/8/2000.
http://www.quangduc.com/VuLan/180xuatxuvulan.html 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự Tích Rằm Tháng Bảy Và Xuất Xứ Của Hai Tiếng Vu Lan

Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Một bài viết tổng quan về Tử Vi Đài Loan thời trăm hoa đua nở
Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết của TS. Đằng Sơn

Hôm qua ở quán ăn tôi gặp lại một anh bạn. Đang bàn về “duyên” và “nghiệp” chưa ngã ngũ chẳng hiểu sao anh lại gợi chuyện Tử Vi. Nhưng rất có thể cái chẳng hiểu sao đó đã là một nguyên nhân khiến tôi hôm nay tìm cách “tái ghi danh” với Tuvilyso. Ly kì làm sao, khi tái ghi danh tôi mới hay cái tên VDTT đã có người lấy đi rồi. Đành tạm chuyển sang VDTT.1 vậy.

Người vắng mặt lâu tất có nhiều chuyện kể.

Nửa năm trước đây khi đảo qua các mạng mệnh lý tiếng Hoa, tình cờ tôi gặp cùng một bài được trích ở vài blogs khác nhau, trong đó có:

http://blog.sina.com...php?pbgid=40169

http://blog.udn.com/life888/2209417

Nhưng có thể đã bắt đầu từ

http://www.fengshui-...d.php?tid=33533

Nếu đúng thế thì bài này đã được viết năm 1998, tức là mười hai năm trước đây, khi mà khoa Tử Vi vẫn còn ở trong thời trăm hoa đua nở. (Theo nội dung tôi vẫn cho là bài này được viết sớm hơn nữa, khoảng đầu thập niên 1990’s, như 1992, 1993 chẳng hạn và được đăng đầu tiên ở một chỗ khác; nhưng đó chỉ là nghi vấn).

Tên tác giả thấy đề là Axis, có lẽ chỉ là nick trên mạng ảo.

Cảm thấy tác giả đã bỏ ra khá nhiều công lao và suy nghĩ khi đặt bút, tôi đã phỏng dịch lại bài này, hy vọng giúp các vị lưu tâm hoặc tò mò có cái nhìn rõ hơn về tình hình chung của khoa Tử Vi cũng như vai trò trọng yếu của hai nhân vật Liễu Vô cư sĩ và Tử Vân trong thời trăm hoa đua nở rầm rộ ấy ở đảo quốc Đài Loan.

Các vị hiểu bạch thoại có thể đọc thẳng bản Hán văn ở các websites kể trên.

Bài này phải đăng vài kỳ mới hết. Xin bắt đầu

Vài cảm nghĩ về phong trào mệnh lý mười năm qua

Mười năm lại đây, Đài Loan nổi lên phong trào nghiên cứu số thuật, khiến ngành học thuật này, xưa chỉ lưu hành trong giới trung hạ lưu xã hội hoặc trong giới văn nhân không toại chí, một lúc tựa hồ biến thành một môn hiển học. Trong xã hội các loại kỹ xảo, kỳ chiêu bách xuất, tựa như hô phong hoán vũ; thế nhưng cho đến ngày nay, đáo để có bao người suy ngẫm những kỹ xảo này rốt cuộc có lợi hay là có hại cho đời?

Chuyện cố ý làm ác thì trang xã hội của các báo dẫy đầy: Thầy bói lừa tiền lừa tình, thầy bói khiến người ta phá nhà mất mạng v.v… Còn một số người vô ý làm ác thì chẳng lẽ lại coi là được hay sao? Người đề nghị giờ sinh có điểm gì tốt? (dgc = dịch giả chú: Đây chắc ám chỉ những người đề nghị giờ sinh mổ, viện lẽ rằng mổ giờ tốt thì đứa con ra đời có số tốt)… “Số anh tương lai lấy một cô vợ cao thước sáu lăm nặng năm mươi ký”… Cách đoán thế này đầy dẫy khắp nơi trong thị trường bói toán… “Cô thiên tính cô khắc, kết hôn nhất định li dị, gia đình nhất định không hạnh phúc”… Cách đoán thế này cũng thấy rất thường.

Những loại loại thế này, rốt cuộc giúp được gì cho người ta? Nếu không có thái độ và quan niệm mệnh lý chính xác, các cách đoán kể trên chỉ khiến cho người ta kết vào lòng một tầng âm hưởng, đè trong tim một khối đá nặng nề! Bất luận tâm lý hoặc nguyên nhân thế nào, người đề nghị giờ sinh đều có quyền hiểu biết quan niệm mệnh lý chính xác, đều có quyền yêu cầu tự do không bị sợ hãi; nhưng một mặt khác người luận mệnh có nhiệm vụ hiểu dùm cho người ta mệnh lý là thế nào, tác dụng và hạn chế của mệnh lý ra sao… Đây đích xác chẳng phải là nhiệm vụ giản dị, nhưng tôi hy vọng những người luận mệnh tận lực hoàn thành cho bằng được. Bởi vì theo kinh nghiệm học tập Tử Vi nhiều năm của tôi thì số người bị mệnh lý làm hại vượt xa số người được mệnh lý làm lợi. Đây là một kết quả mười phần đau lòng, hy vọng những học giả sau này nhớ kỹ điểm ấy, kẻo không thì người đời sau lại tiếp tục bị nguy hại bởi tư duy sai lầm. Những sai lầm tư tưởng của nhân loại đã quá nhiều rồi, chẳng nên thêm một cái sai lầm nữa.

Tử Vi mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất

Từ khi sách “Đẩu Số chân thuyên” của Tuệ Tâm trai chủ được xuất bản cho đến nay, thời gian đã quá mười năm, nếu bảo trước Dân quốc năm thứ 71 (dgc: tức 1982) Tử Vi còn ở thời tiềm phục, thì Đẩu Số chân thuyên quả thật đã kích khởi mười năm tưng bừng. Đến ngày hôm nay quay đầu nhìn lại những ngày huy hoàng đó thiết nghĩ là một việc làm có ý nghĩa và giá trị. Bởi vì trong quá trình ấy, mặt ẩn của Tử Vi, mặt ám của Tử Vi, năng lực và hạn chế của Tử Vi, nhất nhất đều được phát giác và bị kiểm thảo, lần hồi những phép tắc suy nghĩ có khoa học, hợp lý được đưa vào Tử Vi, trở thành một bộ phận không thể thiếu cho việc đoán mệnh chính xác. Những thay đổi về quan niệm này nếu nhìn từ góc độ triết học thì có thể nói là đã đi từ duy tâm đến tâm vật hợp nhất. Bút giả muốn ghi lại chuyển biến tư tưởng quan trọng này, mong rằng nhờ nó mà chúng ta hiểu rõ và sâu hơn mặt thật của mệnh lý.

Tương truyền Tử Vi do ông Trần Hi Di sáng chế ra, nhưng điểm này không quan trọng, (đáng nói là) sau khi sáng lập mấy trăm năm, Tử Vi tựa hồ bị đóng cứng như băng, không có phát triển nào to lớn. Tương truyền đời Minh ông La Hồng Tiên đã từng làm việc chỉnh lý, nhưng sau đó diễn biến thế nào thì không rõ. “Bí kíp” Tử Vi hiện đại là một quyển sách đời Thanh, phát hành trong thời Đồng Trị, tính đến nay chỉ mới hơn trăm năm (dgc: Hẳn ám chỉ “Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư” hoặc “Tử Vi đẩu số toàn tập”). Việc truyền bá Tử Vi vào các tầng lớp trung và hạ tầng xã hội cũng hình như không được coi trọng, như có thể thấy qua sự phát triển chậm chạp của khoa này. Lúc mà khoa bát tự đã rầm rộ ngàn hoa, rồi được đưa vào tứ khố toàn thư, khoa Tử Vi vẫn chẳng được nghe biết. Mãi đến những năm đầu của chính phủ Dân Quốc mới có sách “Đẩu Số tuyên vi” bình chú tường luận có hệ thống; nhưng chuyện đó xảy ra chỉ mới sáu, bảy mươi năm trước mà thôi

(dgc: Đẩu Số tuyên vi nguyên bản gồm hai tập, phát hành lần lượt các năm 1928 và 1935 ở Hoa Lục; gần đây được nhà xuất bản Vũ Lăng ở Đài Bắc, Đài Loan in lại. Ngoài ra cũng có tối thiểu một bản “man thư” Đẩu Số tuyên vi được phổ biến ở Đài Loan, bản “man thư” này có bảng tứ Hóa khác hẳn Đẩu Số tuyên vi nguyên thủy mà giống hệt chi phái Trung Châu của ông Vương Đình Chi.)

Nói về sự phát triển của khoa Tử Vi từ năm Dân Quốc 38 (dgc: tức 1949, hẳn là ám chỉ sự phát triển ở Đài Loan sau khi Mao chiếm Hoa lục khiến Tưởng phải chạy sang hòn đảo nhỏ này) trở về sau thì phải kể đến hai nhân vật trọng yếu, một vị là ông Thiết Bảng đạo nhân, vị kia là cụ Hà Mậu Tùng. Đương nhiên cũng có những người khác hiểu khoa Tử Vi, nhưng những cống hiến của họ về cách suy luận không lớn. Một học phái muốn phát huy ảnh hưởng thì việc thu thập môn đệ và trước tác lập thuyết đương nhiên tất yếu, nhưng nếu trong môn đồ có người xuất bản dương danh thiên hạ thì có lẽ còn trọng yếu hơn nữa. Trong hai vị đã kể trên, hiển nhiên cụ Hà Mậu Tùng của Thái Cực Huyền Xã là hiện tượng được đề cập. Đại đệ tử của cụ là ông Tử Vân, nhờ viết sách lập thuyết, nói đến những điều người xưa chưa nói, đã thành một đại tông sư của giới Tử Vi ngày hôm nay (dgc: Dĩ nhiên ý là “giới Tử Vi Đài Loan ngày hôm nay”). Ông là một đầu tàu của phong trào hiện đại hóa Tử Vi, mà thành tích sẽ được đề cập tường tận ở phần sau bài này.

Trước năm dân quốc 70 (dgc: tức 1981), việc học Tử Vi hơn nửa xảy ra trong các lớp ít người, nhưng sau khi Tuệ Tâm trai chủ bắt đầu bàn luận Tử Vi trong Trung Quốc thời báo thì Tử Vi đã có một luồng sinh khí mới. Nhờ Tuệ Tâm trai chủ xử dụng ngôn từ hiện đại dễ hiểu thuyên giảng tính chất các sao khiến thuật đoán mệnh cổ truyền này (dgc: tức Tử Vi) trở thành mười phần dễ dàng: Dễ lập lá số, dễ đoán vận mệnh. Bộ sách này (dgc: tức “Tử Vi đẩu số chân thuyên”) có thể nói là đã đạt thành công toàn diện, nghe nói đã bán đến mấy trăm ngàn bản, trở thành sách cầm tay, gối đầu giường của người học Tử Vi. Sau đó bà viết các sách Tử Vi xem hôn nhân, xem tài bạch, luận giới công thương v.v… cũng đều thành công cả, hiện nay bà vẫn viết một cột chuyên môn trên báo…

Sự thành công của “Tử Vi Đẩu Số Chân Thuyên” không phải là ngẫu nhiên, vì sách này giúp độc giả có thể tự an lá số, tự theo từng cung một mà luận mệnh, so với các “bí kíp” thì giản dị dễ hiểu, nhưng nhờ bà xử dụng phép tính từng cung một mà người ta nắm vững được quy tắc và kỹ xảo của khoa Tử Vi. Tóm lại, sách Chân Thuyên đã tạo được sự chú ý rộng rãi. Nhưng vì nội dung hạn chế, nó khiến độc giả không dễ tinh tiến.

Tiếng vang sâu rộng của sách Chân Thuyên dĩ nhiên có tác dụng rất tốt cho sự phát triển của khoa Tử Vi, nhưng nếu xét về nội dung thì nó đã để lại chẳng ít chỗ tranh luận, chẳng hạn vấn đề Hóa Kỵ của can Canh. Điểm chính là Tuệ Tâm trai chủ chủ trương Thái Âm hóa Kỵ vì bà cho rằng Thiên Đồng là phúc tinh không hóa Kỵ. Rốt ráo thì Thiên Đồng có hóa Kỵ không? Đó là một vấn đề đã được tranh luận trong một thời gian dài. Ngoài ra vì bà viết dưới dạng luận văn, mặc dù ý tưởng hiển hiện dễ hiểu, nhưng về những vấn đề nhân gian thực tế thì ít có trường hợp “chích kim thấy máu” (dgc: thành ngữ, ý nói có kết quả thấy ngay được), ấy bởi các điều được viết đa số có tính lý thuyết, gây bối rối cho người mới học. Lại nữa, tác giả tựa hồ thiên về đặc tính cơ bản của các sao, việc đoán vận mệnh tương đối sơ lược, ví như giúp người học đến trường mà không giúp họ vào được trong phòng học vậy.

Từ khi Tử Vi được coi trọng rồi thì rất nhiều người bắt đầu ra sách, thuyết của các nhà tranh tiếng tạo thành cảnh trăm hoa đua nở: có người theo tâm pháp cổ truyền, có người phối hợp văn học với Tử Vi, có người phối hợp Tử Bình với Tử Vi, lại có người theo chủ nghĩa huyền bí, phối hợp Tử Vi với tôn giáo, cũng có người chuyên cổ xúy “bí kíp” của tiên sư… trăm màu nghìn sắc. Trong đó tương đối được coi trọng phải kể đến:

Một: Ngô Tình. Đáng tiếc các tác phẩm của ông cơ hồ đều đã tuyệt bản, trên thị trường khó mà mua được. Tác phẩm lớn của ông là “Tử Vi Đẩu Số thất đoạn thức đoán mệnh pháp”. Trong sách này ông nặng nề phê bình cách xem Tử Vi cổ truyền. Chẳng hạn: “Đa số những sao nhỏ trong Tử Vi đều chẳng có công dụng gì cả”, “Thiên Thương Thiên Sứ thuyết cổ bảo có thể đoán chết sống chỉ là hù người”, “tính miếu vượng lợi hãm cũng không có công dụng” v.v… Tác giả trong sách này nhấn mạnh rằng trọng tâm của Tử Vi là sự biến hóa của tứ hóa, cho nên hóa Lộc và hóa Kị mới là yếu tố quyết định. Đồng thời trong sách này tác giả cũng nói rằng ông nắm trong tay “bí mật thiên cổ bất truyền” v.v… Nói chung thì ông đã lên tiếng đề xuất việc cải cách khoa Tử Vi, tiếc là thái độ của ông có lúc xem mình quí người tệ, rốt cuộc không thể đóng góp thêm nữa cho việc hiện đại hóa Tử Vi.

Hai: Thấu phái. Phái này lấy Tử Vi hợp với bảng phong thần. Họ gọi khoa Tử Vi là “Tử sắc tường vi chiêm tinh thuật” (khoa chiêm tinh dựa trên hoa tường vi sắc tím), ví Tử Vi là con trưởng của Văn Vương Bá Di Khảo; cái gì mà Thiên Đồng là Văn Vương, Phá Quân là Trụ Vương, Vũ Khúc là Hoàng Phi Hổ v.v… Đáng tiếc cách ví von của họ không lớp không lang, với những người Nhật Bản hiếu kỳ bị lừa không biết thì còn được, còn chúng ta người đời sau mà để cho bị lừa thì thật là quá đáng (dgc: “đời sau” đây hẳn ý nói là hậu duệ của người nghĩ ra Tử Vi).

Ba: Sở Hoàng. Vị này viết sách lập thuyết, chủ trương phối hợp Tử Vi với bát tự, và khi luận Tử Vi cũng xử dụng nguyên lý đoán mệnh của bát tự, nào là lý tương sinh tương khắc, cũng sáng chế lý luận “lạp hoàn” (dgc: kéo vòng tuần hoàn) để giải thích liên hệ giữa các sao và phép tính bát tự, cũng thành một cách xem riêng.

Bốn: Chính Huyền Sơn Nhân. Vị này đặt ra Thiên Địa Nhân Tử Vi Đẩu Số, tự xưng rằng kiến thức Tử Vi của mình là do “thần” dạy cho. Trong các tác phẩm khá đồ sộ ông có bỏ rất nhiều giấy mực để viết về tinh thần cầu đạo và quá trình học đạo của mình. Về nội dung thì có thể nói tương đồng với các khóa Tử Vi bổ sung.

Năm: Phan Tử Ngư. Đặc điểm của vị này là hạ bút như đao, chẳng hạn “Người này tất làm trộm cắp”, “Bà này nhất định bay chức” v.v… Trong các sách còn có đặc điểm nữa là hay dùng câu đại loại “Căn cứ theo bản riêng viết tay của tiên sư để lại…” để thiết lập đáp án cho các vấn đề hóc búa.

Các tác giả trên đây, nếu xét theo ngày hôm nay đều có thể nói là không hợp thời nữa, nhưng một khi nghĩ lại sự kiện họ đều đã có lúc phong quang thì không thể nào không lo nghĩ đến việc hiện đại hóa Tử Vi. Bởi người ta có thể hỏi rằng: Những đại sư, nhà tiên tri v.v… có thực là có danh lớn thì cái học cũng thật lớn chăng? Làm thân học giả đời sau tất phải nghĩ sâu về cái đạo lý trong câu hỏi ấy. (Còn tiếp)

Bắt đầu từ năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984), Tử Vi tiến vào một thời đại mới, diễn biến này có thể quy công lao về ông Hoàng Trung Lâm và những người xung quanh ông, vì nỗ lực của các vị này mà việc hiện đại hóa Tử Vi đã lần hồi thành hình, và quan điểm khoa học của mệnh lý đã được thiết lập. (dgc: Riêng cho các vị nghiên cứu tính danh học: “Hoàng” là chữ hoàng của màu vàng, “Trung” của ‘trung thành’ trên trung giữa dưới tâm tim, “Lâm” của lâm li ướt át, trên vũ mưa dưới lâm rừng)

Ông Hoàng Trung Lâm, bút danh Liễu Vô cư sĩ (dgc: Liễu của kết liễu, Vô của vô vi), nghề gốc là ký giả, nhưng sau bắt đầu tiếp xúc với mệnh lý. Năm Dân Quốc 70 (dgc: tức 1981) ông bắt đầu viết sách bát tự. Năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông ra sách “Tử Vi luận mệnh” (dgc: Hẳn ám chỉ sách “Tử Vi luận mệnh bất cầu nhân”). Lúc ấy chỉ là một đòn “thử lửa” với làng Tử Vi, sách này tạo được phản ứng rất tốt đẹp, và nó đã cho Liễu Vô cư sĩ một cơ hội. Đầu năm Dân Quốc 73 (dgc: tức 1984) ông Châu Thật Long của Hi Đại Thư Cục cho Liễu Vô cư sĩ cơ hội đó, và từ năm Dân Quốc 74 đến 75 (dgc: tức 1985-86) Liễu Vô cư sĩ đã hoàn thành bộ sách quan trọng “Hiện đại Tử Vi” gồm 7 tập, thế là việc hiện đại hóa Tử Vi đã đi được bước đầu tiên. (dgc: dịch giả đã từng nhớ lầm, bảo là tập này 20 quyển. Thành thật xin lỗi độc giả).

Nội dung sách “Tử Vi luận mệnh” chủ yếu phê phán những tác phẩm của những người đương thời được coi là “đại sư”, tác giả cũng đưa ra luận chứng, thuyết minh quan niệm mệnh lý chính xác phải như thế nào. Phương thức vừa phá vừa dựng này có thể nói là đã nói dùm cho độc giả. Đương nhiên các “đại sư” phản pháo, thế là tạo ra một trường bốn phương công kích tranh luận tưng bừng.

Sau “Tử Vi luận mệnh”, Liễu Vô cư sĩ đã thành một tên tuổi mới trong làng Tử Vi. Nhờ phương pháp và mô thức suy luận có tính hiện đại, ông được coi là phát ngôn nhân của các phần tử trí thức trong giới nghiên cứu mệnh lý truyền thống. Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của “Hiện Đại Tử Vi” chẳng thể coi là ngẫu nhiên vậy.

“Hiện Đại Tử Vi” ra đời trong các năm Dân Quốc 74-75 (dgc: tức 1985-1986), tổng cộng 7 quyển. Tác giả ngoài Liễu Vô cư sĩ ra còn một số nhân sĩ, bao quát tiến sĩ Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sĩ, Phi Vân cư sĩ v.v… “Hiện Đại tử vi” bao quát một bộ phận gọi là “Tử Vi quảng trường”, là chỗ cho độc giả bày tỏ quan điểm, đây có thể coi là một sáng kiến. Ở đây, trong tập thứ 7, một độc giả họ Thái viết về tác dụng của HIệN ĐạI Tử VI: “Quan niệm hình thành từ nhận thức. Rất nhiều người học mệnh lý thiếu nhận thức chính xác về mệnh lý, ông chính là người đã đề nghị (cho độc giả) những nhận thức (chính xác) đó”. Quan điểm loại này đã nói lên cái ảnh hưởng của Hiện Đại Tử Vi.

Mỗi tập Hiện Đại Tử Vi đều có điểm đặc sắc, chẳng hạn: Tập 2 có bài nghiên khảo về thuật “Đẩu Số bí nghĩa” được mệnh danh là thiên cổ bất truyền, (theo đó) nội dung sách tựa hồ tạp loạn bất nhất, nhưng rất nhiều quan niệm trong sách này được trình bày ra…

Trong tập 7, có rất nhiều quan niệm được đề cập. Một là đả phá tính mê “bí kíp”. Năm Dân Quốc 74 (dgc: tức 1985) Tử Vi Đẩu Số bí nghĩa xuất hiện, tạo thành một phong trào cực lớn, được gọi là “bí kíp Tử Vi không gì không đoán được”, mỗi bộ bán 15000 đồng Đài Loan (dgc: khoảng sáu trăm Mỹ kim), sau phát giác có chuyện xuống giá, từ 15000 xuống 5000, rồi 3000 xuống 1500, phảng phất giống như nhiều năm sau này cổ phiếu ở Đài Loan xuống giá vùn vụt vậy. Liễu Vô cư sĩ dùng học lý phê bình loại tâm lý này, đồng thời đề xuất rất nhiều quái chiêu của làng Tử Vi, cho mọi người biết rằng các “trò chơi” trong làng Tử Vi thật ra chẳng phải là ít. Một đề tài hay khác là nỗ lực hiện đại hóa Tử Vi. Giáo sư Hứa Hưng Trí phát biểu quan điểm, như trong tập thứ 3: Quan điểm về mệnh lý của một người trong giới khoa học kỹ thuật vân vân… với những lý luận mạnh mẽ và có cơ sở nhằm hiện đại hóa khoa Tử Vi, những bài viết của ông đề ra nhiều quan niệm và vấn đề, một số ngày hôm nay đã được giải quyết, một số khác còn phải chờ người sau nỗ lực. Nội dung những bài viết này thuộc loại khiến các độc giả ham học hỏi đọc một lần muốn đọc lại để ghi nhận kỹ lưỡng hơn.

Một phương hướng khác của Hiện Đại Tử Vi là xử dụng lô gích để nghiên khảo mệnh lý. Bộ phận này chủ yếu tập trung từ tập 4 trở đi, nhờ dùng tam đoạn luận mà xác nhận ra năng lực và giới hạn của khoa Tử Vi, đây là một bước thực tế rất lớn trên con đường hiện đại hóa Tử Vi. Ấy bởi vì trước đó quan niệm của người xem Tử Vi là: việc gì cũng đoán được, bất luận có liên hệ với người khác hay không, chỉ cần dùng thẳng phép “mượn cung”, người gì việc gì đều có thể dùng lá số mà xem ra được (dgc: Phép “mượn cung”, cũng gọi là phép “đổi cung”, theo đó thì cung hạn là cung mệnh tạm thời, hay là “hạn mệnh”, cung kế tiếp là hạn phụ mẫu, rồi đến hạn phúc, hạn điền v.v… thứ tự y hệt nguyên thủy, chỉ khác là các cung đều vận chuyển theo thời gian). Nhưng Hiện Đại Tử Vi phủ nhận phép bành trướng quá độ này (dgc: vẫn chấp nhận phép mượn cung, nhưng không cho rằng Tử Vi có tác dụng vạn năng), không cho rằng Tử Vi tự nó có khả năng đoán bất cứ sự việc gì liên hệ đến người khác -trừ phi thêm những dữ kiện liên hệ đến người ấy vào lá số. Đây là thành tựu vĩ đại của Hiện Đại Tử Vi, mặc dù chỉ được phân nửa. Về nửa kia -điều kiện thu nhập dữ liệu- thì phải chờ sư phụ là ông Tử Vân giảng giải. (Còn tiếp)

Do sự thành công của Hiện Đại Tử Vi, rất nhiều tác giả bắt đầu xuất bản mạnh mẽ, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh thuật sĩ, ông Tử Vân v.v… Trong đó Tuệ Canh và Tử Vân ảnh hưởng tương đối lớn. Trước tác của Tuệ Canh thuật sĩ là tập “Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập” tiếc là vì một số nguyên nhân mà chưa xuất bản hết, khá đáng tiếc vậy. Sách của ông giải thích kỹ lưỡng quan niệm và ứng dụng 12 cung cũng như tính chất các sao, là tác phẩm hay. Đó là chuyện sau năm Dân Quốc 77 (dgc: tức sau năm 1988). Cùng thời gian ấy ông Tử Vân xuất bản sách “Đẩu số dữ nhân sinh” (dgc: Tử Vi và nhân sinh), tự thuật lại chuyện mình học Tử Vi và giải thích cách đoán 12 cung.

Cũng trong khoảng thời gian này sách Tử Vi xuất bản liên miên, xếp thành hàng trong các tiệm sách xem đến cay cả mắt. Chẳng hạn theo người có khả năng chuyên môn chỉnh lý tác phẩm của người khác báo cáo thì: rất nhiều sách là sao lại, có sách suy diễn cách giải thích của phái hóa Lộc hóa Kỵ của cung can, lại có sách xưng là bí cấp của Khâm Thiên giám v.v… xếp thành đống. Nhưng các sách này dẫu nhiều mà không tạo được khí thế, nhất là sau khi ông Tử Vân làm công việc bổ sung rất nhiều chỗ khuyết rỗng của khoa Tử Vi cổ truyền.

Nói rõ hơn một chút: Về kỹ thuật luận đoán thì ông Tử Vân là bá vương của làng Tử Vi hôm nay (dgc: “Kỹ thuật luận đoán” có lẽ ám chỉ việc đoán người thật việc thật bởi ông Tử Vân một phần thành danh là nhờ chinh phục được niềm tin của nhiều bạn trẻ có ý “thử thầy” bằng cách đoán đúng những lá số hóc búa do họ đưa ra, “làng Tử Vi” nên hiểu là làng Tử Vi Đài Loan thôi). Nhất là từ năm Dân Quốc 80 (dgc: tức năm 1991) ông Tử Vân trong sách “Đẩu Số luận hôn nhân” (dgc: Thực ra tên sách là “Đẩu Số luận nhân duyên”, hay là có ấn bản tựa khác chăng?) đề xuất phép Thái Tuế nhập quái và nguyên tắc tương khế, trưng ra cách giải quyết vấn đề đã tồn tại nghìn năm của khoa Tử Vi về kỹ thuật đoán mệnh, cũng là giải quyết cái khiếm khuyết của Hiện Đại Tử Vi.

Thế là Tử Vi phát triển ra phép du nhập dữ kiện. Tử Vi cải biến thành một loại xu thế, phương hướng, có thể vì dữ kiện du nhập vào mà thành khác biệt. Từ đó Tử Vi có thể phân biệt được vận mệnh khác nhau của những người sinh cùng năm tháng ngày giờ. Đây đúng là một đột phá to lớn so với mệnh lý cổ truyền.

Vì ông Tử Vân (có vai trò) quan trọng như thế, thiết nghĩ cần nói rõ về những suy luận của ông. Cơ bản thì cách xem Tử Vi của ông Tử Vân dựa trên cách xem truyền thống, lấy đó là cái sườn, rồi thêm hoàn cảnh thực tế, thống hợp cổ kim, nối kết trong ngoài với nhau. Lại áp dụng rộng rãi những yếu tố tâm sinh lý của con người. Trên đây là phần bình luận của sư đệ ông là ông Hồng Thạc Phong, mười phần xác thật.

Trước năm Dân Quốc 78 (dgc: tức trước năm 1989), ông Tử Vân qua nhà xuất bản Thiên Tướng đã xuất bản các sách “Đẩu Số dữ nhân sinh”, “Đẩu Số luận danh nhân” v.v… dẫn khởi sự chú ý; nhưng uy danh của ông đã được xác định từ lâu trong Hiện Đại Tử Vi qua ngòi bút hoa bướm của Liễu Vô cư sĩ. Năm Dân Quốc 79 (dgc: tức 1990), đang lúc thị trường cổ phiếu ở Đài Loan chuyển từ thịnh sang suy, mức đầu tư giảm sút trầm trọng, ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu Số luận cầu tài”. Sách này chỉnh lại cách xem của tiền nhân, đề xuất: Phàm tiền do đầu tư hoặc đầu cơ mà có phải xem cung Phúc Đức; lại nói: Tiền kiếm được dễ dàng không tốn thể lực trí lực không xem bằng cung tài bạch. Sau đó năm Dân Quốc 80 (dgc: tức 1991) ông Tử Vân hoàn thành “Đẩu Số luận hôn nhân”. Sách này theo quan điểm của bút giả (dgc: tức người Đài Loan viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì về mặt triết học Tử Vi, lý luận, và kỹ thuật đoán mệnh thực tế có sự phát triển với tính đột phá chưa từng thấy. Sách này có thể coi là một đại tác trong nỗ lực hiện đại hóa của giới nghiên cứu Tử Vi. Bút giả sau đây xin trình bày những tính quan trọng của nó.

MỘT: Triết lý Tử Vi

Tử Vi căn cứ vào lúc người ta sinh ra đời, về mặt thiết kế thì nếu khác giờ mệnh vận sai biệt chẳng ít, nói cách khác cơ bản thiết kế về thời gian thì giờ sinh là chủ, sau đó an bài 12 cung để nghiên phán xu thế đời sống con người. Muốn nghiên cứu đời sống con người, làm cách nào để thêm vào yếu tố của thế giới ngoại tại tất là mối quan hoài trong việc hiện đại hóa Tử Vi.

Phép Thái Tuế nhập quái đề xuất đáp án: thêm năm sinh (địa chi âm lịch). Xét cơ bản cách này phù hợp nguyên lý của Tử Vi, nguyên tắc định vị trí bằng thời gian, còn về phép tương khế, tất ứng với tác dụng hỗ tương của “chủ thể” và “khách thể” trong Tử Vi, tức là tác dụng giữa “ta” và “người”.

Ở đây bút giả muốn thảo luận một nghi vấn nhỏ: Dùng phép Thái Tuế nhập quái đặc tính sao trong lá số có tương tựa lá số thật của đối tượng hay chăng, tại sao? Chẳng hạn: Từ lá số của ta thấy bạn gái ta là điển hình Cơ Nguyệt Đồng Lương, nhưng theo giờ sinh của bạn gái ta mà an lá số lại thấy là Tử, Phủ, Tướng v.v… sự kiện này dính líu đến tác dụng giữa chủ thể (ta) và khách thể (bạn gái ta).

Tiến bước nữa, cung vị và tính sao của Tử Vi dựa trên nguyên tắc duy tâm, bạn gái ta xuất hiện trong lá số của ta, phần lớn chỉ quan hệ đến những gì ta hiểu về bạn gái ta hoặc những gì bạn gái ta biểu hiện với ta, mà cách xét những biểu hiện hoặc quan niệm này so với bản tính thật không nhất định phù hợp. Người ta đa số tùy tình hình, như người này tính nóng bạo nhưng đối với một số người lại đặc biệt lịch sự, (những trường hợp như thế khiến) người học phải suy xét kỹ.

Tử Vi lấy duy tâm làm gốc, các cung đều phản ảnh tâm thái liên hệ, cho nên cung phu thê là tâm thái tình cảm hoặc ý muốn người phối ngẫu của mình phải như thế nào, huynh đệ là tâm thái liên hệ đến tình anh chị em, thiên di là tâm thái đối với việc giao thiệp bên ngoài, tử tức là tâm thái với chuyện con cái nhiều ít và với thế hệ sau, tài bạch là tâm thái liên hệ đến việc cầu tài phú v.v… Nhưng nói ngược lại, thiên di là tâm thái của ta đối với việc giao vãng bên ngoài, nhưng đồng thời cũng là người đời nhìn ta như thế nào; quan lộc là tâm thái của ta đối với công việc, nhưng cũng là cái nhìn của người đời về khả năng nghề nghiệp của ta, đây gọi là tác dụng chủ thể và khách thể…

HAI: Lý luận và kỹ thuật xem số

Thái Tuế nhập quái giải quyết vấn đề du nhập dữ kiện, nhưng nguyên tắc và kỹ thuật xử dụng phức tạp hơn cách xem cũ. Ngoài việc du nhập tứ hóa theo năm sinh (của đối tượng) ra, còn phải thêm đại hạn, lưu niên, bản mệnh tứ hóa (của chủ nhân lá số), xét kỹ tác dụng hỗ tương giữa các cung. Dùng lá số để xem liên hệ sinh hoạt giữa hai và có khi ba người thế này quả là đã giúp nâng cao lý luận của Tử Vi hết mực, lại còn chủ thể (ta) và khách thể (người khác), lại còn đối tượng tốt với ta hoặc ta tốt với đối tượng, lại còn ta và đối tượng cùng oán nhau, thêm tác dụng của lưu niên hóa và hạn hóa vào thì quá trình liên hệ hỗ tượng hiện rõ.

Trong quá khứ cách định khách thể không rõ ràng, thông thường là cứ theo phép mượn cung. Phép này khuyết điểm là vẫn bị cảnh cùng lá số phải xem như nhau. Ông Tử Vân đã giải tỏa được cái hạn chế này.

Phép thái tuế nhập quái không những giải được các vấn đề liên hệ đến người, mà còn giúp phân biệt sự và việc nữa. Chẳng hạn năm nay thi vào sở nghiên cứu một lúc thi ba viện, xem tốt xấu ra sao, lại biết năm thành lập của ba viện ấy, cho tứ hóa vào, nếu thấy Lộc thì vận thi tương đối tốt, nếu thấy Kị thì thực lực giảm nhiều. Cùng lý, có hai công ty cùng ngành như nhau, làm sao chọn chỗ làm tốt, có cơ phát triển? Lại cho tứ hóa vào, nguyên tắc tương đồng… Vậy là ông Tử Vân vừa lấp được chỗ đã trống lâu năm, lại giúp cho khả năng tiên đoán cũng như lý tính của khoa Tử Vi tăng cao. (Còn tiếp)

Sau một trận ba đào dữ dội (dgc: không hiểu ám chỉ gì), ông Tử Vân hoàn thành sách “Đẩu số luận sự nghiệp”, trong đó đưa cách giải tính thiên biến vạn hóa của của cung sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc), sau đó Dân Quốc năm 82 (dgc: tức 1993), lại một trận ba đào xô tới: Ông Tử Vân đưa ra quyển “Đẩu số luận điền trạch” (dgc: Lại nhắc đến “ba đào” lần nữa, ắt phải có một ý nghĩa nào đó, có lẽ dính líu đến thời thế). Sách này ngoài việc luận cung điền tốt xấu ra, lại đề xuất phép xem địa hình địa vật. Nói cách khác, Tử Vi có thể xem phong thủy, và quý hơn nữa là chỉ cần thêm phương vị vào phần suy luận, ngoài ra cách xem chẳng khác gì các mặt khác của Tử Vi. Sự kiện này giúp phạm vi ứng dụng của Tử Vi được mở rộng, đúng là một bước đại đột phá, cũng bổ sung cho cái khiếm khuyết về địa hình địa vật của khoa Tử Vi. Tới đây bút giả mong mỏi ông Tử Vân tận lực xuất bản “Đẩu số luận tật ách”, tôi nghĩ sách này sẽ lại khai mở một phần trời cho khoa Tử Vi (chú không rõ của ai: Đã xuất bản thêm một số sách rồi).

(Dịch giả chú: Như lời chú không rõ của ai ở trên, ông Tử Vân sau đó đã xuất bản thêm vài tựa sách, trong đó có “Đẩu Số luận tật bệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu Số luận phụ mẫu tình”, đây cũng cần nói rõ tựa đầu là “tật bệnh” mà không phải “tật ách”, vì quả quyển này chỉ luận bệnh tật, không luận tai ách. Theo chính lời của ông Tử Vân tự thuật thì quyển “Đẩu số luận tật bệnh” bán ế nhất trong các sách mà ông đã xuất bản, nhưng trong một cuộc đàm thoại, một cao thủ Đài Loan lại khen ông rằng sách này có tính đột phá học thuật cực cao, tối thiểu hơn “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên, cũng của ông Tử Vân. Mọi lời khen đều có tính cách cá nhân, nhưng có hai điểm cần chú ý về ĐSLTB: Một là trong sách này lý ngũ hành của các sao phối hợp với đông y đóng vai trò hết sức trọng yếu, hai là cách xem tật bệnh của ông Tử Vân không giới hạn trong cung tật ách, mà phối hợp hết 12 cung).

Ước chừng đồng thời một số học giả mới cũng viết sách lập thuyết, trong đó cũng có sách xem được, như “Đẩu số tân quan niệm” của Ngô Đông Tiều, “Tử Vi đẩu số đạo luận” của Trần Thế Hưng, “Đẩu số tâm lý học” của ông Phúc Canh v.v… Những sách này phần thảo luận về tính chất cơ bản của các sao và cách cục cũng có thành tựu, (có thể) coi là những sách đáng đọc của lớp học giả lên sau. Người mới học đi vào khoa Tử Vi bằng các sách này không phải lo ngại, tất sẽ có quan niệm chính xác.

Sau khi nxb Thiên Tướng đóng cửa, “Tử Vi chi lộ” (con đường Tử Vi) của Liễu Vô Cư Sĩ không tái bản được, ông bèn bỏ tâm lực ra làm việc chỉnh lý các sách cổ, (trong đó có) bình chú hiện đại hóa “Đẩu số tuyên vi” và “Tử Vi đẩu số toàn tập”. Tiếp đó ông bỏ rất nhiều công lao đề xuất hệ thống Tử Vi riêng của ông. Lúc này Liễu Vô cư sĩ đã dần dà khác biệt với thầy của ông (dgc: “thầy” đây ám chỉ ông Tử Vân). Ông đề xuất khá nhiều cách xem, chẳng hạn: bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và nhiều sao cấp hai khác, lại đề xuất: bỏ Quyền Khoa không xem, tứ hóa chỉ còn lại hóa Lộc và hóa Kị, ngoài ra còn đề xuất một số nguyên tắc “khoa học thực dụng tính” v.v… (Những đề xuất này) khiến ông về mặt cải cách hệ thống Tử Vi càng xa người khác, nhưng những phát triển này có giúp ích cho khoa Tử Vi hay không e phải chờ người sau phán định.

Coi Liễu Vô cư sĩ là đầu tầu phái cải cách và Tử Vân là đầu tầu phái cổ truyền thì đến nay (cả hai) đều đã có phần đóng góp cho công cuộc hiện đại hóa Tử Vi; nếu theo cái nhìn của bút giả hôm nay (dgc: Tức người viết những dòng này bằng nguyên văn Hán tự, đến giờ vẫn chưa xác định được là ai) thì phái cải cách chú trọng việc suy tư về các quan niệm, thái độ có tính phê phán; còn phái cổ truyền thì chú trọng kỹ thuật lý luận, tinh thần tập trung ở việc diễn giải (dgc: nói nôm na là phái cải cách thiên về đánh giá và xiển dương các quan điểm, tức là lý thuyết, phái truyền thống chuyên đoán các lá số có thật, tức là thực hành). Hai phái đều có sở trường, các học giả sau này cần suy nghĩ cân nhắc cho kỹ hầu quyết định phương hướng cho riêng mình. (Còn tiếp)

Những năm gần đây Tử Vi có một số sách đáng chú ý nhân đây xin giới thiệu cùng quý vị cùng với ý kiến riêng của tôi (dgc: “Tôi” tức người viết bài này, không rõ là ai, nhưng không phải là dịch giả). Trong đó các sách loại “cơ sở” nên mua trước, các sách tiến cấp tính sau.

Bình sách Tử Vi

Sách cơ sở:

Đẩu số tâm lý học: Tác giả Phúc Canh. Sách này về mặt tính sao có nhiều chỗ hay, về tâm thái (ứng với) các sao có thể nói là mười phần sinh động. Có điều cách dùng chữ hơi lủng củng, có lúc chữ không theo nghĩa, khiến người đọc có thể bỏ sót điểm quan trọng. Ngoài ra các lập luận ở đầu sách có phần cần suy nghĩ lại, chẳng nên vội tin. (dgc: Dù không có liên hệ rõ rệt nào với phái Tử Vân, ông Phúc Canh vẫn triệt để xử dụng phép “Thái Tuế nhập quái”. Đây là một trường hợp điển hình cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của ông Tử Vân trong làng Tử Vi Đài Loan).

Đẩu số tân quan niệm: Tác giả Ngô Đông Tiều. Sách này mười phần giản lược, nhưng có cái hay là những điểm chính viết rõ ràng dễ hiểu. Phần sau các cách cục cũng có phần chỉnh lý đáng xem; coi là sách nhập môn hay. Đáng tiếc ưu điểm cũng là khuyết điểm (nhưng) nếu có khả năng tưởng tượng thì không sao. Duy phần bình chú của ông Tử Vân mười phần trọng yếu, độc giả cần xem kỹ.

Tử Vi đẩu số đạo độc: Tác giả Trần Thế Hưng. Điểm quan trọng của sách này là viết theo văn nói. Tác giả có gốc Tử Bình nên cách giải thích nhiều phần nối từ Tử Bình qua, cũng thành ra một cách (đặc thù). Trong sách phần luận tứ Hóa mười phần hoàn chỉnh, có thể dùng để tham khảo một số quy tắc của Tứ Hóa. Sách này chỉ có một khuyết điểm nhỏ là phần luận đặc tính sao cho cảm giác như gãi chưa đúng chỗ ngứa. (dgc: Ông Trần Thế Hưng cũng một thời theo học ông Tử Vân; sau –theo lời tự thuật- thì nhờ một thầy khác ông mới được “mở hai mạch nhâm đốc” nhưng có thể thấy qua các sách là cách luận mệnh của ông Hưng chịu ảnh hưởng của ông Tử Vân rất nhiều, dĩ nhiên tận dụng phép “Thái Tuế nhập quái”).

Tử Vi đẩu số chân thuyên: Tác giả Huệ Tâm Trai chủ. Sách này mười năm trước dẫn đầu trào lưu, những sách liệt kê ở trên đều thuộc hàng vãn bối. Sách này có đóng góp về tính sao. Chỉ cần cẩn thận nắm được ý trong lời ắt có kết quả tốt. Khuyết điểm là luận mệnh theo lối từng sao từng cung, (người đọc) chẳng dễ nắm bắt đặc tính các nhóm sao và cách cục.

Tử Vi đẩu số khai vận toàn tập: Tác giả Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: Theo dữ liệu phối hợp trong các sách Tử Vi thì ông Tuệ Canh là bạn thân của Liễu Vô cư sĩ từ thuở cả hai đều chưa có tên tuổi trong làng Tử Vi. Trong thời gian này -qua Liễu Vô cư sĩ- Tuệ Canh gặp ông Tử Vân và tham dự một số buổi giảng dạy Tử Vi “dã chiến” do ông Tử Vân chủ trì nên sau người ta coi ông là một đệ tử của ông Tử Vân. Thiết nghĩ chỉ nên coi là ông chịu một phần ảnh hưởng đáng kể của ông Tử Vân thôi.) Sách này mạnh ở nội dung và ý nghĩa 12 cung, có cách xem độc đáo; phần luận tính sao cũng chẳng dở. Khuyết điểm duy nhất là tập sách chưa xuất bản toàn bộ (dgc: Đây có lẽ ý muốn nói khéo là sẽ chẳng bao giờ xuất bản toàn bộ). Riêng quyển sách này phần nói về việc lĩnh ngộ đặc tính các sao mười phần kiệt xuất. Quý độc giả không thể không đọc. Bút giả ở phần sau sẽ khai triển thêm đặc tính các sao, quý vị nhớ đọc. (dgc: Không thấy phần khai triển này. Chẳng biết vì không viết hay là đã bị người trích cắt đi).

Hôn nhân tổng luận: Tác giả Thẩm Bình Sơn. Đặc điểm của sách này là có rất nhiều lá số ly kỳ quái dị; vô cùng đáng tiếc là độ chính xác của những lá số này rất khả nghi. Nhưng mà về tính sao thì có sức tưởng tượng hết sức phong phú; có tính khai phá mở đường cho những người trong cảnh bế tắc. Nhớ kỹ: Trọng điểm của sách này là tính khai phá, chẳng phải phương pháp hoặc quy tắc. (dgc: Có lẽ chỉ là cách viết lịch sự thôi. Hẳn ý muốn nói là ông Thẩm Bình Sơn có điểm độc đáo, nhưng cần đãi lọc thật kỹ mới xử dụng được).

Tử Vỉ đẩu số giảng nghĩa (quyển 2: đặc tính các sao): Lục Bân Triệu biên soạn. Sách theo theo lời truyền thì là bí kíp của Khâm Thiên Giám. Phần luận tính các sao so với các sách cổ truyền không khác bao nhiêu. Sách này do ông Vương Đình Chi bổ chú. Ông Vương Đình Chi có bổ sung một số điểm rất đáng chú ý.

Sách tiến cấp:

Về bộ phận sách tiến cấp (thì nên) bắt đầu với “Đẩu số và nhân sinh” của ông Tử Vân và các sách khác cũng của ông Tử Vân, trong đó sách “Đẩu số luận hôn nhân” quan trọng hơn hết, giới hậu học phải cố gắng hiểu những điểm chính yếu trong sách này. (dgc: Có lẽ vì trong sách này ông Tử Vân chính thức áp dụng cách xem “Thái Tuế nhập quái” để giải quyết một số vấn đề nan giải của khoa Tử Vi).

Bảy tập “Hiện Đại Tử Vi” của Liễu Vô cư sĩ đều đáng đọc. Bộ sách này chứa nhiều quan niệm và cách suy luận của khoa Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn nói đến sự kiện là tập sách này ghi lại cách xem Tử Vi của rất nhiều trường phái khác nhau, kể cả các trường phái cực kỳ quái dị). Đây là sách “chuyển hình” của Tử Vi (dgc: Đây hẳn muốn ám chỉ làng Tử Vi Đài Loan), học giả không thể nào bỏ qua.

Bí kíp cổ truyền

Thập bát phi tinh xách thiên đẩu số toàn tập: Là tư liệu tham khảo duy nhất. Có thể tham khảo thêm “Chính thống phi tinh tử vi đẩu số” của ông Trần Nhạc Kỳ. Tuy nhiên “Tử Vi đẩu số toàn thư” do Trúc Lâm thư cục xuất bản cần đặc biệt thận trọng; nhất là bốn lá số đằng sau, chẳng lá số nào tin được. Học giả thận trọng là hơn hết.

Phái Tử Vân

Ông Tử Vân làm việc cho một nhà xuất bản. Trong sách “Đẩu số dữ nhân sinh” ông kể lại là ông từng có lúc hoàn toàn không tin mệnh lý. (dịch giả chú = dgc: phần tiếp đây có lẽ là giai thoại vì không hề thấy ông Tử Vân nhắc đến trong các sách của ông). Sau một lần ông đi theo một đồng nghiệp có vợ sẽ sinh con năm sau đến nhờ thầy của ông là thầy Hà xem số (dgc: Câu này dễ gây hiểu lầm, vì theo sách đã dẫn cho đến lúc này ông Tử Vân chưa từng gặp thầy Hà, bảo là “thầy tương lai” thì chính xác hơn). Thầy Hà dựa vào lá số mà dự đoán hoàn cảnh sinh sản của vợ chủ nhân lá số năm sau, rằng vì bị gan nóng mà phải tiếp máu, vân vân… Năm sau ông tự chứng kiến thấy kết quả y như vậy.

Khi ông Tử Vân theo thầy Hà học Tử Vi, thì cũng có 3 bạn cùng học trong lớp đêm ấy, nghe thầy Hà giảng các kiến thức cơ sở về các sao Tử Vi (dgc: Phối hợp những mẩu chuyện rời mà ông Tử Vân tự kể trong “Đẩu số dữ nhân sinh” thì các buổi học đều vào ban đêm, lúc đầu có 5 bạn cùng lớp, sau chẳng hiểu sao chỉ còn 3, hai nam mà ông gọi là “sư đệ” một thành công sớm nhưng chết sớm, một di cư sang Hoa Kỳ rồi phát triển thành công, một nữ mà ông gọi là “sư tỷ” là người duy nhất không hút thuốc trong lớp học).

Sau đó ông Tử Vân bôn ba nam bắc Đài Loan, nơi nơi tìm cao thủ mệnh lý, rồi trong diễn trình ấy tìm, hiểu ra những yếu quyết của Tử Vi. Vì nghiên cứu Tử Vi mà ông Tử Vân đã học thêm nhiều môn khác liên hệ đến tử vi, như tâm lý học, đông y v.v… Vì ông giải số cho nhiều bạn bè khi họ có vấn đề cần giải quyết, tiếng tăm của ông lan dần, nhưng vì ông không nói rõ với những người thân ông là thầy Tử Vân, thầy Tử Vân là ông, nên nhiều người nhờ xem số không biết ông là thầy Tử Vân. Sau, trong thập niên 70 hoặc 80 (chú nguyên thủy: nhớ không rõ. Dgc: ‘thập niên 70 hoặc 80’ là theo lịch Trung Hoa dân quốc, bắt đầu từ các năm 1981, 1991), ông bắt đầu viết sách, tiết lộ nhiều bí quyết mà ông đã ngộ ra. Ông đã lập chí viết một quyển sách cho mỗi cung. Hiện nay ông đã viết hơn 10 quyển sách, nhưng có lẽ (sẽ) không viết đủ hết 12 cung (dgc: Năm nay 2010 vẫn còn cung huynh đệ chưa thấy viết đến, hai cung phúc và nô thì chỉ được nhắc thoáng qua lần lượt trong hai quyển “Đẩu số luận cầu tài” và “Đẩu số luận nhân tế quan hệ”, có lẽ sẽ chẳng bao giờ có sách riêng).

Ông Tử Vân qua 30, 40 năm nghiên cứu, ngộ ra các lý: Tam đại luận, Thái Tuế nhập quái, cung Thái Tuế v.v… Sách của ông chứa đầy dẫy các lá số có thực. Hiện nay ông Tử Vân một mặt viết sách, một mặt mở quán xem Tử Vi, một mặt mở lớp dạy miễn phí, đồng thời cũng có các đệ tử riêng (dgc: Nhờ đoạn này ta biết bài này được viết sau khi ông Tử Vân nghỉ hưu, vì theo lời ông tự thuật thì sau khi về hưu được người ta giúp mở quán mệnh lý ở Đài Bắc).

... Người ta bảo ông là thầy đứng sau chỉ đạo Liễu Vô cư sĩ. Bắt đầu bằng cách luận lá số thật rồi sau đưa ra lý luận mới, là đặc tính của sách “Đẩu số luận danh nhân” luận 3 nhân vật Thái Vạn Xuân, Thái Thần Châu và Thái Thần Nam (dgc: Sách này được nhắc tới có lẽ vì là sách đầu của ông Tử Vân, nay đã tuyệt bản, dịch giả cũng chỉ nghe nói qua mà chưa từng được đọc. Tuy nhiên, theo các tài liệu thì sách này viết về ba nhân vật ly kỳ là tay cự phú Đài Loan là ông Thái Vạn Xuân và hai người con trai của ông. Ông Vạn Xuân từ hai bàn tay trắng tạo nên sự nghiệp vĩ đại, nhưng tuổi già bị tai biến mạch máu não nằm liệt giường trong khi tài sản của ông bị tiêu tan trong tay hai người con trai lớn; ông Thần Châu thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, lại đắc cử vào quốc hội, một thời oanh liệt nhưng rồi chỉ vài năm bị tù và chết trong đó; ông Thần Nam cũng thừa hưởng một phần tài sản đáng kể của cha, khuếch trương vĩ đại thêm, rồi trong một thoáng giây mất hết tất cả…)

Tác phẩm có “Tùng đẩu số đàm phụ mẫu tình” (luận tình cha mẹ theo Tử Vi), “Đẩu số luận mệnh”, “Đẩu số luận tử nữ”, “Đẩu số khán nhân tế quan hệ”, “Đẩu số luận điền trạch”, “Đẩu số luận cầu tài”, “Đẩu số luận nhân duyên”, “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và đời sống), “Đẩu số luận danh nhân”, “Đẩu số luận sự nghiệp” v.v… (dgc: Ngoài ra còn có “Đẩu số luận tật bệnh”).

Quan điểm Thái Tuế nhập quái:

Đối tượng nhập quái phải có liên hệ mật thiết với người được xem số. Liên hệ càng mật thiết thì tính cát hung của việc nhập quái càng chính xác. Chẳng hạn người làm ăn chung tín hiệu rõ ràng hơn người thuần túy là bạn bè thôi. Sinh cùng năm, nếu hai người có góc cạnh liên hệ khác nhau thì cung nền khác nhau, cát hung tự nhiên cũng khác. Chẳng hạn một người là cấp trên, một người là cha hoặc mẹ ta tất cung nền một là thiên di, một là phụ mẫu. Cùng năm sinh, góc độ liên hệ cũng giống, thí dụ hai người bạn tốt cùng năm sinh giả như phái tính khác nhau thì cát hung cũng khác nhau. Phương pháp là dùng nam bắc đẩu mà phân biệt (nam đẩu ứng nam, bắc đẩu ứng nữ). Nếu cùng năm, cùng phái tính tất cát hung ứng nghiệm rõ hơn trên người mà chủ nhân lá số có ấn tượng mạnh hơn (thích hơn chẳng hạn). Nếu cùng thích hai người như nhau thì cát hung dựa theo xuất hiện trước sau mà khác nhau (dùng năm, tháng, ngày v.v… mà định). Cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người trước, nam đẩu thì ứng người sau. Hai người cùng thích như nhau, xuất hiện cùng lúc, thì theo cá tính mà phân biệt, nếu cung nhập quái là bắc đẩu thì cát hung ứng người cá tính tương đối cương cường (tương đối có cá tính hoặc tương đối tích cực). Ngược lại thì… Giả thiết trường hợp khó xảy ra là các yếu tố kể trên đều giống nhau cả chúng tôi cũng có cách phân biệt, chỉ là môn qui đã định phải bảo lưu. Nếu có hứng thú xin chú ý các lớp học của thầy Tử Vân (ở Sáng Kiến Đường, Đài Bắc hoặc Tân Tâm Linh Đường Học Uyển, Đài Trung).

Phụ chú: Liễu Vô cư sĩ

… là nhân vật đại biểu phái hiện đại, một phái thuộc hàng chính trực của làng Tử Vi. Phản đối chủ trương “Tử Bình hợp tham”, đề xướng “Tử Bình quy về Tử Bình, Tử Vi quy về Tử Vi”, không cho thần sát, quan sát… xâm nhập vào Tử Vi (dgc: Ý nói là bỏ hết các sao thần sát). Hết sức hứng thú với lô gích, trước tác phong phú, tính ra có “Hiện đại Tử Vi” tập 1 đến tập 7, “Đương Trần Hi Di ngộ Đổng Mộ Tiết - Thiết Bảng - Đẩu Số - Tham”, “Tử Vi chi lộ: Yên hoa truyền kỳ”, “Tử Vi chi lộ: Uyên ương truyền kỳ” vân vân… (dgc: Đó là chưa kể các tựa Tử Vi “Đẩu Số luận mệnh bất cầu nhân”, “Tinh không xán lạn”, “Minh thiên tha môn hội tác tạp ma”, Tử Bình “Hiện đại nhân đích bát tự”, “Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú” và sách tính danh học…) Được Ngô Hoài Vân gọi là “vệ sĩ của giới mệnh lý”... sách của ông có tính dễ đọc, hiện thật…

“Hiện đại Tử Vi” cộng gồm 7 tập, thời gian xuất bản từ tháng 4 năm 74 đến tháng 6 năm 76 (dgc: tức tháng 4, 1985 đến tháng 6, 1987), khoảng 3 tháng một kỳ. Sau cùng vì Liễu Vô cư sĩ cảm thấy quá mệt mỏi mà kêu đình bản. Tập này về rất nhiều phương diện có những kiến giải hoặc vượt quá tiền nhân hoặc khuếch đại phạm vi của khoa Tử Vi. Về mặt kỹ xảo (dgc: tức cách xem số) cũng như suy luận đều có những cống hiến trọng đại… Tập này bao hàm rất nhiều cách suy luận, chẳng phải chỉ là hệ thống suy luận thuần túy của một người, trong đó có: GS Hứa Hưng Trí (dgc: Tiến sĩ dược, giáo sư đại học ngành dược và là một khoa học gia chủ yếu của Đài Loan), Tuệ Canh thuật sĩ (dgc: theo lời tự thuật thì tốt nghiệp luật nhưng bỏ sang nghiên cứu mệnh lý, vì quen biết Liễu Vô cư sĩ nên cũng có duyên theo học Tử Vi với ông Tử Vân một thời gian, nhưng lúc ấy tài nghệ đã cao rồi nên học đây có tính tham khảo mà thôi, tư tưởng vẫn có nhiều độc lập, thiết tưởng chẳng nên coi là đệ tử của ông Tử Vân), Lạc Đà Sinh, thầy Quách, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, Phi Vân cư sĩ v.v… có thể gọi là sáng tác tập thể!

Giới thiệu các sách Tử Vi của ông Tử Vân

Phóng mắt nhìn những sách Tử Vi thấy bày trong tiệm, một loại chủ yếu là giải thích tính sao, nhưng chỉ cần mở xem vài quyển là phát hiện nội dung đại đồng tiểu dị, nếu bảo văn chương thiên hạ sao lại nhau cũng chẳng phải là nói quá. Một loại khác là sách giải số “sống” (hoạt bàn), loại này tương đối không dễ kiếm. Theo cái nhìn cá nhân của tôi, giải số sống là một thách đố to lớn của người học Tử Vi, đây cũng là lãnh vực rất nhiều người học Tử Vi tốn bao tâm huyết mà vẫn không đạt nổi kết quả mong muốn. Tuy rằng mặt này người xưa có giấy mực truyền lại, song một là bài vở không nhiều, hai là đa số tiến hành theo phương thức “án đồ sách kí” (dgc: ý nói là có tính công thức, không có lý luận), hết sức cứng ngắc, chẳng có gì để gọi là giải số “sống”. Thành thử các trước tác của ông Tử Vân về mặt này có một chỗ đứng đặc biệt. Nhân năm nay Dân quốc 88 (dgc: tức 1999) cuối tháng 3 “Đẩu số luận tử nữ” là sách thứ mười của ông được xuất bản, tưởng cũng nên quay đầu nhìn lại.

Dưới đây tôi trước hết liệt kê giản lược các sách của ông Tử Vân rồi sau đó sẽ đề cập điểm chính và nét đặc sắc của từng quyển một.

  1. Tùng đẩu số khán nhân sinh, Thời Báo, bản sửa chữa năm 82 (dgc: tức 1993).
  2. Đẩu số luận danh nhân, Thiên Tướng, in lần đầu năm 77 (dgc: tức 1988).
  3. Đẩu số luận mệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 78 (dgc: tức 1989).
  4. Đẩu số luận cầu tài, Thời Báo, in lần đầu năm 79 (dgc: tức 1990).
  5. Đẩu số luận nhân duyên, Thời Báo, in lần đầu năm 80 (dgc: tức 1991).
  6. Đẩu số luận sự nghiệp, Thời Báo, in lần đầu năm 81 (dgc: tức 1992).
  7. Đẩu số luận điền trạch, Thời Báo, in lần đầu năm 82 (dgc: tức 1993).
  8. Đẩu số khán nhân tế quan hệ, Thời Báo, in lần đầu năm 83 (dgc: tức 1994).
  9. Đẩu số luận tật bệnh, Thời Báo, in lần đầu năm 85 (dgc: tức 1996).
  10. Đẩu số luận tử nữ, Thời Báo, in lần đầu năm 88 (dgc: tức 1999).

1) Tùng đẩu số khán nhân sinh

Sách này nguyên do Thiên Tướng xuất bản, sau này tái bản đổi thành tựa hiện hành là “Đẩu số dữ nhân sinh” (Tử Vi và nhân sinh). Sách này chủ yếu cho biết tác giả đứng ở chỗ nào và có chủ trương gì trong Tử Vi. Quan trọng nhất là không tán thành cách luận mệnh truyền thống “đoán như đinh đóng cột” mà đề xướng phép luận mệnh “chẩn đoán”, lại đề xuất chủ trương “sự thật đã phát sinh tất có dấu hiệu mệnh lý, nhưng có dấu hiệu mệnh lý chưa chắc có sự thật đối ứng phát sinh”. Ngoài ra giới thiệu giản lược diễn trình học mệnh lý và kinh nghiệm của tác giả. Bộ phận này nhắm thẳng vào giới Tử Vi hậu học, trong đó nói đến ảnh hưởng của kinh nghiệm sống đối với mệnh lý. Theo quan điểm của tôi, tất cả những độc giả thích đọc sách Tử Vân đều phải đọc kỹ sách này. Sau khi bạn hiểu rõ cái bối cảnh và suy tư của tác giả rồi nếu vẫn thấy đồng ý với ông thì những sách còn lại tham khảo mới thấy giá trị.

2) Đẩu số luận danh nhân

Sách này cũng xuất hiện rất sớm, đến nay ước đã mười năm, đã tuyệt bản, các tiệm sách trên phố cũng rất khó kiếm thấy. Sách chủ yếu viết về sự nghiệp lên xuống của ba ông Thái Vạn Xuân, Thái Thần Nam và Thái Thần Châu. Cách kiếm tiền (của ba vị này) hết sức phong phú, mà lời giải thích cũng hết sức tường tận. Xét cơ bản thì sách này phân tích theo phép truyền thống, nhưng cũng đề xuất chẳng ít kỹ thuật phân tích hoạt bàn (lá số sống). Bao quát phép “sao hóa dẫn động liên tục”, “cung trọng điểm”, “duyên khởi duyên diệt”, thậm chí cả “Thái Tuế nhập quái” cũng được mơ hồ nhắc tới. Sách này viết theo phương thức chủ yếu là đã phát sinh sự thật thì phải dùng mệnh lý diễn giải như thế nào, cho nên nhiều kỹ thuật không được đặc biệt nhấn mạnh hoặc viết rõ, điểm này khác xa với những sách về sau. Ngoài ra, sách này vì gồm quá nhiều chi tiết nên chẳng dễ gì đọc hết, hoặc đọc được nửa sách là đã nhức mắt rồi, e phải có rất nhiều kiên nhẫn và nghị lực mới mong đọc hết được. Thế nhưng vẫn được cái là sách này đối với những sách về sau không gây chướng ngại quá lớn. (dgc: Câu cuối tối nghĩa, có lẽ muốn nói là sách này có tính độc lập, đọc nó mà không hiểu hoặc bỏ ngang vẫn có thể hiểu các sách sau).

3) Đẩu số luận mệnh

Mệnh lý là một công cụ rất tốt của đời sống, sách này luận những vấn đề tương đối thường thấy như hôn nhân, sự nghiệp v.v… trong đó cũng đề cập vấn đề lịch pháp và thuật số, tỷ như cách xem tháng nhuận. Tác giả chủ trương tháng nhuận dùng tháng thường mà xem là được, không cần xem nửa tháng sau là tháng kế tiếp. Theo kinh nghiệm xem tháng nhuận của tôi (dgc: tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân hoặc dịch giả) thì cách xem này chẳng sai. (dgc: Viết thế e hơi thiếu sót. Thực ra trong sách này ông Tử Vân đề nghị là gặp tháng nhuận thì coi như tháng thường, nhưng vẫn lấy thêm lá tháng kế tiếp để phòng hờ; tức là coi tháng thường là chính, nhưng vẫn có trường hợp phải dùng tháng kế tiếp mới đúng. Lá số thí dụ trong sách này là người sinh nửa sau tháng 8 nhuận, kiểm chứng bằng các dữ kiện đã xảy ra thấy lấy theo tháng 8 đúng, lấy theo tháng 9 sai). Các bài luận số trong sách này thuộc loại đoản thiên, chỉ luận một chuyện, cho nên đọc tương đối dễ; dễ hơn “Đẩu số luận danh nhân” rất nhiều.

Từ sách này trở đi, cách viết của tác giả chủ yếu là đoản thiên. Xét cơ bản sách này có thể gọi là dao trâu chém nhẹ (dgc: Thành ngữ, ý nói cố ý giữ lại chưa phát huy hết công lực), không có đóng góp lớn cho học thuật, nhưng vì tương đối giản dị, có thể coi là một sách luyện xem số sống.

4) Đẩu số luận cầu tài

Tác giả đã phát tâm nguyện viết một quyển sách cho mỗi cung cho đến khi hết 12 cung, sách này coi là đoạn đầu. Tại sao viết sách này đầu tiên thì có thể vì liên hệ đến thị trường cổ phiếu nóng bỏng lúc ấy. Người ta thường cho rằng, muốn kiếm tiền thì phải xem cung tài là chủ. Nhưng tác giả đề xuất: Tiền do công khó làm ra mới coi cung tài là chủ. Nếu động sản do cá nhân quản lý tài sản, hoặc do đầu tư thậm chí đầu cơ mà ra thì phải xem cung phúc là chủ. Nếu đầu tư bất động sản mong kiếm tiền bằng giá sai biệt tất phải coi cung điền là chủ. Đương nhiên, mọi việc đều phải coi hai cung mệnh thân là chủ, rồi phối hợp với cung liên hệ mới có thể căn cứ mà đoán cát hung.

Điểm quan trọng khác của sách này là đề xuất quan niệm “cung trọng điểm”, cũng gọi là kỹ thuật “định cung vị”. Quan niệm và kỹ thuật này kỳ thật hết sức trọng yếu, nhưng tựa hồ không được biết đến nhiều bằng phép “Thái Tuế nhập quái” sau này, thành thử tính trọng yếu của nó không được đặt đúng mức.

Cơ bản nhất của Tử Vi gồm có ba tầng kết cấu là bản mệnh, đại hạn, lưu niên, cứ lấy cung Phúc mà tham chiếu (dgc: Hẳn ý muốn nói có ba tầng kết cấu của Phúc là bản mệnh Phúc, đại hạn Phúc, và lưu niên Phúc); nhưng phải coi cung nào là chủ? Lúc này cần khái niệm “cung trọng điểm”, bằng không rất khó phán đoán cát hung. Cuối cùng cần nói là khái niệm “định cung vị” không phải chỉ có thể dùng cho việc đoán tiền tài, mà rất nhiều sự việc khác cũng dùng được phương pháp ấy.

5) Đẩu số luận nhân duyên

Giả sử cần đề cử một trước tác làm bảng hiệu cho sự phát triển của khoa Tử Vi thì “Đẩu Số luận nhân duyên” có thể đóng trọn vai trò mà không hổ thẹn. Cố nhiên trong rất nhiều sự thành bại ta đóng một vai trò quan trọng, nhưng người kia cũng có phần quyết định sự thành bại đó. Nói cách khác tính “khác biệt cá nhân” đóng một vai trò quan trọng trong các trường hợp cùng lá số khác vận mệnh. Như xem hôn nhân, một đoạn nhân duyên thành công hay không, đối tượng tìm thấy là yếu tố không thể nào bỏ sót được. Dùng biện pháp “khác biệt cá nhân” để tìm sự thật là đề xuất của tác giả, gọi là phép “Thái Tuế nhập quái” hoặc “Thái Tuế nhập cung”. Phép này chẳng phải chỉ giới hạn cho hôn nhân, mà chỉ cần có tương quan nhân tế lợi hại là có thể áp dụng để phán đoán thêm chính xác. Thêm dữ kiện để đoán chính xác hơn là một ưu điểm của Tử Vi so với các môn khác, nhưng phép “Thái Tuế nhập quái” rất khó khăn, chẳng phải dễ như trong sách đề cập, chẳng phải như tác giả nói “chẳng qua chỉ là thế đầu tay” mà thôi, và vì vậy mà đã bị lạm dụng nghiêm trọng.

Khởi đầu, cách xem của tác giả được hâm mộ nhất là phép “sao hóa liên tục dẫn động” còn gọi là “tam đại luận”, nhưng sau khi phép “thái tuế nhập quái” được đề xuất thì biến thành tuyệt kỹ có tính chiêu bài, bị rất nhiều tác giả Tử Vi có sách ra hiện thời dẫn dụng, khiến các quan niệm hoặc kỹ xảo khác tựa hồ bị đẩy vào lãnh cung (dgc: thành ngữ, ý nói không được dùng nữa). Sự thật thì luận Tử Vi là công trình trọng đại, phải phối hợp rất nhiều những phương pháp khác mới mong luận đoán chính xác, chỉ dựa vào một kỹ thuật mà đoán thì kết quả sẽ sai lệch nghiêm trọng. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

6) Đẩu số luận sự nghiệp (Tử Vi luận sự nghiệp)

Người xem số hỏi nhiều nhất về sự nghiệp, tiền tài, và tình duyên. Nhưng dùng Tử Vi luận sự nghiệp kỳ thật rất khó, bởi ngoài kỹ xảo xem hoạt bàn ra, kinh nghiệm sống (của người luận số) cũng quan trọng vô cùng. Các độc giả xem qua sách này tất phát hiện rằng tác giả rất thực tế, lại miêu thuật tượng tốt tượng xấu của các trạng huống thực tế rất tường tận, chẳng hạn đối với một người làm chủ thì tượng tốt có thể cho biết làm xuất cảng thì phù hợp, nhưng nhập cảng thì không; tượng xấu có thể ứng với việc sản xuất mà không ứng với việc nghiên cứu (dgc: tức làm sản xuất thì xấu, mà làm nghiên cứu thì không xấu). Với một người đi làm, tượng xấu có thể ứng với công việc rắc rối đa đoan mà không phải là công việc kém v.v… chẳng phải chỉ ban một chữ “cát” hoặc “hung” như cách xem truyền thống. Muốn tìm cát tránh hung nhất định cần biết cát là cát thế nào, hung là hung ra sao thì mới dùng đúng thuốc đúng chỗ, chỉ nói cát hung không thôi thì chẳng thể làm được.

Ngoài ra, sách này đề xuất nhiều lá số “duyên khởi duyên diệt”. Thế nào là “duyên khởi duyên diệt”? Thưa, ý đây là khởi thủy của một sự kiện trồng “nhân” thì cái “quả” ngày sau ắt phải có ảnh hưởng (dgc: hẳn muốn ám chỉ cái “quả” của cái nhân đó). Xét trên mặt kỹ thuật mà nói, tượng hung của lúc duyên khởi tỷ như hóa Kị (cùng với Kình Đà), nếu ngày sau hành vận lại có tượng hung và lực hỗ ứng, thì tượng hung nặng thêm, cho nên lúc ấy sự kiện chấm dứt. Đương nhiên, nếu tượng tốt lúc duyên khởi cùng với tượng tốt về sau hình thành thế hỗ ứng, thì tượng tốt được tăng cường. Phép này kỳ thật tác giả viết không tường tận, cũng không cứng ngắc mà chứa nhiều tính linh hoạt, độc giả nếu xem không hiểu lắm có thể đọc vài lần thì hiểu được.

7) Đẩu số luận điền trạch

Đương nhiên, sách này chủ yếu thảo luận cung điền trạch. Chủ đề được thảo luận rất trọng yếu, cũng rất thực dụng, chủ yếu bao quát cá nhân thích mua nhà để ở hay muốn làm kẻ ở nhà thuê, có được kế thừa tổ sản không, đầu tư địa ốc có kiếm được tiền không, cùng với việc vận dụng phương vị trong Tử Vi. Trong đó khó nhất là vấn đề phương vị, cũng là vấn đề kham dư của Tử Vi, bởi vì ngoài việc xem xét trắc lượng thực tế, phòng ốc ngày nay không quy củ như xưa, mà thường có hình thể quái dị, thậm chí từ ngoài nhìn thấy có hai cửa lớn hoặc nhiều hơn (như ngũ giác đài của nước Mỹ) hoặc không có cửa lớn (như tòa lầu… vừa bị cháy, tầng một không có cửa, mà vào lầu hai từ một tòa lầu khác); những hoàn cảnh này phải có rất nhiều kinh nghiệm mới mong phán đoán hợp lý. Ngoài ra, tác giả cũng nhắc lại quan niệm và phép luận dùng “cung trọng điểm”, lại đưa thí dụ để giảng giải trong vài lá số, cho thấy quan niệm và kỹ xảo này hết sức trọng yếu, không thể bỏ sót được.

8) Đẩu số khán nhân tế quan hệ

Sách này chủ yếu nói về ý nghĩa và cách luận hai cung thiên di và nô bộc. Theo cách xem của tác giả, thiên di chủ yếu là quan hệ với người trên và đồng đẳng, tỷ như cấp trên trực tiếp, người làm chung hoặc người cộng tác; còn nô bộc thì đại biểu người dưới mình, cũng là người mà mình có thể ảnh hưởng. Cho nên không nên lấy cung nô bộc đổi thành “cung bạn bè” (dgc: nhiều sách Đài Loan gọi cung nô bộc là “giao bằng cung” và dùng để xem liên hệ bạn bè cũng như các người cộng tác trong việc làm ăn; đây tác giả muốn nói rằng ông Tử Vân phản đối quan điểm ấy) kẻo luận theo lý ra không đúng sự thật. Ngoài ra, với phép “Thái Tuế nhập quái” lại giải thích rõ ràng thêm một bước nữa. Nghĩa là, đối tượng được “nhập quái” trừ thiên can năm sinh ra, thiên can của cung có địa chi cũng có tác dụng, cần thêm vào mà suy nghĩ (dgc: Giả như xem số người sinh năm Quý Dậu, muốn biết làm ăn với người sinh năm Giáp Tuất có được không thì theo phép Thái Tuế nhập quái đầu tiên phải xét xem can Giáp ảnh hưởng lá số thế nào, kế đó xem cung Tuất có can gì thì can ấy cũng có ảnh hưởng, đây bởi vì người được xem số sinh năm Quý Dậu nên cung Tuất mang can Nhâm; do đó khi xét ảnh hưởng của người sinh năm Giáp Tuất phải xét ảnh hưởng của hai can Giáp và Nhâm trên lá số). Đương nhiên, tác giả cũng không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng muốn xem bất cứ chuyện gì cũng đều không thể bỏ sót hai cung mệnh thân… Thiên di tốt chỉ là nhận được ảnh hưởng tốt (liên hệ đến di) mà không đủ để luận là tốt. Trong sách có lá số của vài nhân vật chính trị thời đại tỷ như Lý Đăng Huy, Hác Bách Thôn, có thể khác với (các lá số được) các tác giả Tử Vi khác đề nghị, độc giả có thể tham khảo so sánh xem sao.

9. Đẩu số luận tật bệnh

Nói chung chung, đại khái độc giả ít thích xem nhất là sách bàn về tật bệnh này (dgc: Hẳn ý giới hạn trong các sách của ông Tử Vân). Bởi vì đề tài tật bệnh là cái mà tất cả chúng ta đều quan tâm nhưng lại không hứng thú bàn thảo. Cũng bởi vì ngoài kỹ thuật mệnh lý ra, nó lại còn đòi hỏi kiến thức y khoa, nhất là trung y. Sơn, Y, Mệnh, Bốc, Tướng (dgc: “sơn” ám chỉ phong thủy, địa lý) là 5 thuật truyền thống của Trung hoa, mỗi thứ đều có phạm vi học vấn chuyên tinh mênh mông. Một người học một môn đã chẳng rõ hiểu biết được bao nhiêu, hà huống phối hợp học một lúc hai môn?

Cách xem tật bệnh truyền thống là phối hợp các cung mệnh thân và tật lại để đoán xem người ta sẽ bị bệnh gì. Nhưng tác giả cho rằng cung tật chỉ đại biểu lực đề kháng bệnh tật của cá nhân, còn người ta bị bệnh tật gì thì 12 cung đều có thể sinh ra cả. Ngoài ra, lại phải phối hợp tư liệu của cha mẹ vào mới có thể đoán một cá nhân có thể phát sinh bệnh gì, ấy bởi vì mỗi cá nhân đều do cha mẹ sinh ra, bản chất chịu ảnh hưởng di truyền của cha mẹ. Đây cũng là phương pháp giải quyết vấn đề những người sinh cùng giờ không nhất thiết có cùng bệnh tật. Tác giả cũng cho rằng luận tật bệnh bằng Tử Vi là một loại “y học dự phòng” mà không phải là thay bác sĩ, nhất là về những bệnh phát chậm, bằng không thì có thể rất mực sai lầm.

Sách này mặc dù chủ đề rất khô khan, nhưng quan niệm thì hết sức quan trọng. Cách xem “đả phá 12 cung vị” cũng là “điên đảo” so với cách xem thông thường của Tử Vi truyền thống. Suy thêm, luận các cung khác cũng như vậy, chẳng phải giản dị là muốn xét sự nghiệp thì xem cung sự nghiệp, xem cổ phiếu thì chỉ xem phúc đức v.v… là được. (dgc: Người viết nhắc đến cổ phiếu và cung phúc ở đây ắt hẳn vì ông Tử Vân trong sách “Đẩu số luận cầu tài” đã dẫn trên cho rằng muốn luận cổ phiếu ăn thua phải chú trọng cung phúc đức thay vì là cung tài bạch). Ngoài thì xem nhiệt náo, trong thì xem đường lối (dgc: Đoạn này nguyên văn là “ngoại hàng đích khán nhiệt náo, nội hàng đích khán môn đạo”, không rõ nghĩa gì và dính líu với bài văn ra sao, đây chỉ là dịch cho có mà thôi, tuy nhiên có lẽ không quan trọng lắm). Trọng điểm của sách này chẳng phải là xem tật bệnh đích xác so bì với quang tuyến X, máy siêu âm v.v…, mà là từ quan niệm “đả phá 12 cung” phát ra.

10) Đẩu số luận tử nữ

“Đẩu số luận tử nữ” vừa xuất bản không lâu đến nay mới hơn kém một tháng (dgc: đây là tính theo thời điểm bài này được viết, không phải lúc bản dịch ra đời). Sách này độ khó so với các sách trước cao hơn hẳn, cho nên chẳng phải là sách cho người mới học. Sự thật là các sách của tác giả có xu thế là mỗi quyển đều khó hơn các quyển trước, cho nên cách hay nhất là đọc theo thứ tự, bằng không có thể không “tiêu hóa” nổi. Nói về sách này thì đa phần là áp dụng phép “Thái Tuế nhập quái”, bao gồm thêm tư liệu của cha mẹ để xét thể chất và sinh sản thuận lợi hay không (dgc: cho nữ mệnh), thêm tư liệu của người phối ngẫu và con cái để phân biệt xem có thụ thai được không và con cái sức khỏe thế nào, có thể sinh trưởng thuận lợi không. Tối hậu, lại xem cả vấn đề con cái kế thừa sự nghiệp của cha mẹ. Mặt này, so với sách “Đẩu số khán nhân tế quan hệ” có chỗ tương tự, các độc giả có thể so sánh những điểm khác và giống của hai sách này.

Những kỹ thuật kể trên xem qua tưởng là cũ (dgc: “Cũ” đây là đối với các độc giả đã đọc các sách đã xuất bản trước đó của ông Tử Vân thôi, chứ dĩ nhiên mới lạ nếu không muốn nói là “kỳ lạ” đối với các độc giả khác), nhưng trên thực tế có nhiều tiểu tiết cần giải quyết, bằng không sau khi du nhập bấy nhiêu tư liệu vào thì tự mình theo mình mà đoán, hoặc lập lại cách xem đã biết, ấy bởi vì du nhập những tư liệu ấy xong thì tượng hung tượng cát đều chất đống, muốn viên tròn theo kiểu nào cũng được (dgc: Đây hẳn muốn nói cái nguy của việc có quá nhiều dữ kiện mà không phối hợp một cách hệ thống được, khi ấy có khuynh hướng tùy cảm tính mà đoán, rồi biện minh bằng cách chọn lựa những tượng cát tượng hung phù hợp với cách đoán của mình, mà bỏ những tượng còn lại. Đây thật ra là một vấn đề quen thuộc của khoa Tử Vi.)

Một điểm quan trọng khác của sách này, trái ngược với các trước tác truyền thống, là đề xuất “cung Thái Tuế” của người được xem số. Tác giả cho rằng, hai cung mệnh thân là “biểu” (dgc: bề ngoài), cung Thái Tuế là “lý” (dgc: bề trong), tác phong hành sự của một cá nhân rất nhiều khi không biểu hiện ở hai cung mệnh thân, phản lại biểu hiện ở cung Thái Tuế. Nếu phối hợp với với quan niệm “đả phá 12 cung” trong “Đẩu Số luận tật bệnh” thì kỳ thật cả 12 cung đều chứa cá tính của con người, (những cá tính) đoán không ra hoặc xem không thấy (tụ) ở cung Thái Tuế. Cứ theo Vương Vân Phong (dgc: Theo lời tác giả tự thuật rải rác trong các sách thì có thể đoán Vương Vân Phong là một kiện tướng của phái Tử Vân, cùng làm thầy trong phòng coi bói mà ông Tử Vân mở ra sau khi về hưu công việc chính thức) viết trong phần giới thiệu thì cung Thái Tuế là một trong những quan niệm nhập môn tâm đắc của tác giả (dgc: tác giả đây là ông Tử Vân), cái lý cũng rất lớn, đợi ngày sau tác giả sẽ công bố (dgc: đến nay là năm 2010 vẫn chưa thấy công bố, tuy nhiên ý tưởng chính là: Cung Thái Tuế là mặt ẩn của con người, trong một số trường hợp đặc biệt có thể quan trọng hơn mặt hiện của hai cung mệnh thân).

(Chép lại từ trang tuvilyso.org)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi Đài Loan: Thời trăm hoa đua nở

Hướng bếp hợp người sinh năm 1980 Canh Thân –

Hướng bếp người sinh năm 1980 Canh Thân: - Năm sinh dương lịch: 1980 - Năm sinh âm lịch: Canh Thân - Quẻ mệnh: Khôn Thổ - Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch - Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng bếp người sinh năm 1980 Canh Thân:

bo-tri-huong-lo-hop-phong-thuy

– Năm sinh dương lịch: 1980

– Năm sinh âm lịch: Canh Thân

– Quẻ mệnh: Khôn Thổ

– Ngũ hành: Thạch Lựu Mộc (Gỗ cây lựu)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch

– Hướng tốt: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);

– Hướng xấu: Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1980 Canh Thân –

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd