Cách xem tướng hình thể phụ nữ qua ngũ hành –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Người ta thường nói trong nhà có tà khí, vậy rốt cuộc tà khí là cái gì? Có một căn nhà cho riêng mình ở chốn đô thành là ước mong của rất nhiều người. Và nhiều người đã phải chịu khó chịu khổ, trải qua muôn vàn khó khăn mới thực hiện được nguyện vọng đó. Và rồi sau khi chuyển đến nhà mới để ở thì họ có cảm giác rất nhiều chuyện không hay đã xảy đến cho mình và cho người nhà. Như vậy có thể là trong nhà bạn đã xuất hiện tà khí rồi đấy!
1. Do kết cấu nơi ở tạo nên
Có lẽ rất nhiều người cũng biết rằng hình thái nhà ở mà bị khuyết là chuyện không tốt. Tại sao lại như vậy?
Thực ra nguyên nhân chủ yếu là do ngũ hành bị bất cân bằng. Nơi ở ngay ngắn, vuông vức, phương hướng và vị trí nghiêm chỉnh tức là ngũ hành cân bằng, và vì thế nên sống trong những ngôi nhà như thế mọi người sẽ cảm giác rất thoải mái. Tuy nhiên có rất nhiều những ngôi nhà hiện đại nhưng vì cách thiết kế không hợp lí, như việc nhà bị khuyết góc nghiêm trọng, hình dạng cổ quái, kết cấu hỗn loạn…. Có những ngôi nhà cho dù bên ngoài căn nhà trông rất ngay ngắn nhưng bố cục trong nhà không hợp lí như bố trí các cửa đối diện nhau, phòng hình cán dao… thì sẽ đều mang lại tà khí cho gia chủ và những người trong gia đình.
Do đó cần phải hết sức tránh thiết kế những hình dạng cổ quái hoặc không có quy tắc cho căn nhà của bạn, kể cả từ những căn phòng nhỏ nhất.
2. Do cách trang trí nội thất tạo ra
Khi bạn đã có riêng cho mình một căn nhà thì việc trang trí cho nhà cửa của bạn là điều tất nhiên. Tuy nhiên nếu như trang trí không hợp lí, vật dụng trong nhà để không đúng vị trí thì tà khí cũng sẽ có thể xuất hiện.
Ví dụ như trang trí cho ngôi nhà quá rực rỡ, màu sắc phối với nhau không hợp lí, các vị trí tốt trong nhà bị chèn lấn hay bị tổn hại còn vị trí không tốt thì lại được coi trọng, củng cố đều mang đến tà khí cho nhà bạn. Nếu sống lâu trong những căn nhà như vậy thì bạn sẽ rất dễ gặp phải những ảnh hưởng mà tà khí đưa đến.
3. Do sự trang hoàng nơi ở tạo nên
Ngoài các vật dụng trong nhà ra thì rất nhiều người cũng muốn bày biện một số đồ để trang trí thêm cho ngôi nhà. Tuy nhiên vật dụng trong nhà, các đồ dùng điện, gương nếu như bày biện không thỏa đáng thì cũng sẽ có thể mang lại tà khí cho căn nhà của bạn. Nếu như trang hoàng quá xa hoa hoặc màu sắc phối hợp không hài hòa thì cũng sẽ mang đến tà khí khiến cho người ta cảm thấy mệt mỏi, bất an. Loại tà khí này khá là dễ xử lí vì chỉ cần điều chỉnh lại vật dụng trong nhà, những vật trang trí trong nhà là sẽ ổn.
4. Do môi trường bên ngoài đưa tới
Chuyện này rất dễ hiểu nhưng mọi người cũng rất dễ khinh suất bỏ qua. Tà khí này chủ yếu đến từ các con đường, người qua lại, xe cộ, kiến trúc, đèn điện, âm thanh…ở phía ngoài ngôi nhà của bạn. Một khi những thứ này có ảnh hưởng lâu dài đến bạn thì nó cũng sẽ hình thành tà khí và cũng trở thành sát thủ cho phong thủy nhà bạn.
5. Năm hạn cũng mang đến tà khí
Hầu như mọi người đều biết phong thủy thay đổi qua mỗi năm, vị trí cát và hung mỗi năm đều có sự chuyển biến. Một khi phải một năm nào đó phần cát (may mắn) bị áp chế và phần hung (không may mắn) nổi dậy hoặc là xảy ra chuyện động thổ, tu sửa va chạm tới hung thần…thì tà khí chắc chắn cũng sẽ đeo đuổi và ảnh hưởng đến phong thủy nhà của bạn. Vì thế bạn chỉ cần có một chút kiến thức về chuyện này thì bạn sẽ có thể tránh được những chuyện không hay xảy ra đến với bạn và gia đình của bạn.
Theo phong tục của người Việt và một số nước khu vực Đông Á, thì Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mua thu, chính là ngày 15 tháng 8 âm lịch. Trong dịp này, người người , nhà nhà bày mân cỗ cúng gia tiên và bánh trái cúng mặt trăng. Nhưng háo hức nhất vẫn là các em thiếu nhi, vì ngoài ngày 1/6 là Quốc tế thiếu nhi, thì đây là ngày lễ lớn thứ 2 để các em được vui chơi, rước đèn phá cỗ.
Vào ngày Tết Trung Thu, người lớn thì uống rượu thưởng trăng, trẻ em thì được xem múa lân, rước đèn ông sao, hát các bài hát về Trung Thu, Chị Hằng, chú Cuội, và cùng nhau phá cỗ. Tuy đây là một phong tục hàng năm, nhưng nguồn gốc của ngày này do đâu mà có và có từ thời gian nào?
Theo sử sách từ Trung Quốc thì có khá nhiều sự tích kể về Chị Hằng và nguồn gốc của tết Trung Thu. Tuy nhiên, lịch sử sách nước ta, thì sử tích chú Cuội và gốc đa chắc chắn em nhỏ hay người lớn nào cũng được biết. Bởi câu chuyện này đã được đưa vào chương trình sách giáo khóa cho các em học sinh tiểu học. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì Tết Trung Thu là sự tích bắt đầu từ Hằng Nga, Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hòa được lên cung trăng.
Với truyền thuyết Hằng Nga- Hậu Nghệ thì từ thời xa xưa, trên trời xuất hiện 10 ông mặt trời, chiếu xuống trái đất làm khô cạn hết sông ngòi, mọi vật và sinh linh trên trái đất không thể sống nổi. Vì thế nên một anh hùng tên là Hậu Nghệ đã trèo lên ngọn núi Côn Lôn, dùng nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Để đáp lại chiến công của Hậu Nghệ, Vua Nghiêu đã ban tặng cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn phải một năm sau mới được uống. Hậu Nghệ nghe lời và làm theo, chàng ta mang về nahf và giấu trong bồ thóc. Vào một hôm chàng đi vắng, Hằng Nga vợ chàng mở bồ thóc ra thì thấy một vật tròn sáng lấp lánh. Biết được là linh dược vua ban, nàng đã uống ngay viên thuốc và bắt đầu bay về trời. Với chiếc nỏ thần trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo vợ nhưng bị thần Gió cản lại, để cho nàng tiên nữ xinh đẹp Hằng Nga bay về cung trăng. Vì nhớ nhung vợ nên Hậu Nghệ đã xây một lâu đăì đặt tên là “Dương”, trong khi đó Hằng Nga cũng xây một lâu đài đặt tên là “Âm”. Và cứ mỗi năm một lần, vào đúng ngày rằm tháng 8 âm lịch thì mặt trăng luôn thật tròn và sáng để chàng Hậu Nghệ có thể trông thấy được vợ mình.
Truyền thuyết thứ hai về vua đường Minh Hoàng: Theo sử sách ghi rằng, vào một đêm khi cùng uống rượu thưởng nguyệt với các bá quan văn võ, vua Đường ao ước được lên cung trăng một lần. Biết ý vua nên pháp sư – Diệu Pháp đã xin vua làm phép để mang người lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Vua được các vị tiên tiếp rước, bài tiệc đãi đằng, cho hàng trăm tiên nữ múa hát, gảy đàn, gọi là khúc Nghê- Thường vũ y.
Về sau, nhà vua lấy ngày rằm tháng 8 hàng năm để kỉ niệm ngày vua được lên cung trăng, tục ngắm trăng, xem ca mua nhạc dần dần biến thành thú vui chơi đền Trung Thu.
Tết Trung Thu diễn ra vào ngày 15 tháng 8 theo lịch âm, vào thời gian này thì người Đông Á mình đã thu hoạch xong vụ mùa và đang trong thời gian nghỉ ngơi chuản vị cho vụ thu – đông. Và món ăn đặc trưng nhất trong mùa lễ hội này là bánh trung thu với nhiều hương vị khác nhau, thường được thưởng thức cùng nước trà.
Vào đêm Trung Thu, các em thiếu nhi và người lớn cùng nhau rước đèn, múa lân. Người ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là mua lân. Bên cạnh đó một vài nơi còn có tục rước đèn kéo quân trong dịp tết Trung Thu.
Ngoài việc giúp cho trẻ em có một ngày lễ vui vẻ và biết tới truyền thống phong tục của dân tộc thì tết trung thu còn là dịp con cháu đoàn viên bên gia đình, là dịp để con chu tỏ lòng biết ơn, hiếu thảo với ông bà tổ tiên,
Từ sau cánh mạng tháng 8, sau khi Bác Hồ gửi thư Trung Thu cho các cháu thiếu nhi cả nước thì ngày Tết Trung Thu mới thực sự là ngày tết chính thức của tất cả các trẻ em. Ngày nay, trẻ em được chăm sóc, quan tâm và giáo dục tốt hơn, bởi đây chính là tương lai của đất nước.
Xem thêm các bài văn khấn rằm tháng 7 và cách bày lễ cúng rằm tháng 7
► Tra cứu Lịch vạn niên 2017 đã có tại Lichngaytot.com |
Mũi lân
Sống mũi không cao không thấp, đầu mũi dày, nở to nhưng không nhìn thấy lỗ mũi, da đầu mũi mịn và hồng hào. Người mũi lân có kiến thức rộng, sức khỏe tốt, về sau sống thanh thản.
Mũi rồng
Là chiếc mũi của tham vọng chính trị, quyền lực và đa nghi. Sống mũi rồng cao, dáng thẳng, khoảng cách giữa hai chân cánh mũi rộng, đầy đặn; chóp mũi hơi phẳng, đầu hơi khoằm nhẹ nhưng không phải mũi két.
Mũi mật
Là chiếc mũi đầy, tròn đỏ ửng, thể hiện sự giàu sang quyền quý của phái nữ, sóng mũi cao, cong nhẹ ở gốc mũi trán. Đầu mũi kín và tròn (nhưng không to) ôm trọn từ đầu mũi đến hai chân cánh mũi.
Mũi củ tỏi
Chóp mũi đầy và căng phồng, có ngấn ngăn cách nhẹ với hai cánh mũi như hình củ tỏi bổ dọc - Mũi này tuy không đẹp nhưng tốt tướng, là chiếc mũi của giàu có, thành công, thể hiện cho những người thích danh vọng.
Theo Tiếp thị và gia đình
► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình |
Xem vận mệnh tốt xấu qua tướng mũi |
Xét dưới góc độ khoa học, đặc điểm chung của con người là hay liên tưởng đến những gì diễn ra quanh mình. Nếu phòng ngủ đặt ngay sát phía sau bàn thờ thì người ngủ ở đó sẽ thường xuyên phải ngửi mùi nhang khói, nghe những lời tụng niệm, đọc kinh, gõ mõ… từ đó liên tưởng đến thần thánh, tổ tiên và những người đã qua đời. Cũng vì thế, trong tiềm thức, họ sẽ nảy sinh tư tưởng hướng về cõi tâm linh, nhạt dần với đời sống trần tục, với quan hệ tình cảm lứa đôi…
Phòng ngủ không nên bố trí ngay phía sau bàn thờ, trang thờ thần phật, tổ tiên. Ảnh minh họa.
Dân gian không chỉ kiêng kỵ việc đặt giường ngủ của vợ chồng sau bàn thờ, mà còn cho rằng những người trong độ tuổi từ 12 - 60 không nên ngủ ở ngay phía sau gian thờ, bàn thờ. Điều này nhằm tránh nảy sinh những bất lợi đối với 'đào hoa nhân duyên', ngăn chặn sát khí - vốn là khí xấu làm cho tình cảm đôi lứa trở nên nhạt nhòa, bất hòa hoặc thất vọng về nhau.
Cụ thể là: - Đầu giường ngủ ngay phía sau bàn thờ: Vợ chồng dễ tranh cãi nhau, thậm chí đánh lộn nhau. Những người còn độc thân thì khó lập gia đình. - Bất kể là đã lập gia đình hay chưa thì đều có khả năng xảy ra tình trạng lạnh nhạt về mặt tình cảm luyến ái, thậm chí rời bỏ gia đình đi tu. - Giường ngủ nằm bên phải hoặc bên trái ở phía sau bàn thờ: Hai vợ chồng dễ xảy ra tranh cãi, đôi co thậm chí đánh lộn nhau.- Chân giường quay về hướng ngay phía sau bàn thờ: Giữa hai vợ chồng dễ to tiếng, thậm chí đánh lộn nhau. Một trong hai vợ chồng hoặc cả hai rất có thể gặp phải tai nạn khi ra khỏi nhà, nhất là xuất ngoại. Nhưng dù thế nào đi nữa, tư tưởng và tình cảm của những người thường xuyên sống và sinh hoạt ở phía sau bàn thờ vẫn ít nhiều chịu ảnh hưởng về tâm linh, tín ngưỡng. Do đó, tốt nhất là không nên chọn không gian sát phía sau bàn thờ để làm phòng ngủ.
Để hóa giải sát khí do phòng ngủ nằm ngay phía sau bàn thờ gây nên, cách tốt nhất là chọn một vị trí khác thích hợp hơn để làm phòng ngủ hoặc chọn 1 vị trí thích hợp trong nhà để làm nơi thờ tự, cúng bái. Nếu không, bạn có thể sử dụng những biện pháp hóa giải khác như dùng ván gỗ hoặc bê tông ngăn phòng ngủ với bàn thờ, biến không gian ấy thành một lối đi tương đối thoải mái hoặc thành một cái kho để chứa đồ đạc.
(Theo Xây dựng)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Khánh Linh (##)
Hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ, được gọi là ‘nhất phẩm điểu’ có tính cách của một người quân tử. Nếu đặt hạc trong vườn nhà, nó sẽ mang tới cho gia đình bạn sự êm ấm và hạnh phúc.
Thời xưa, các vương hầu muốn cống tiến vật phẩm cho hoàng đế để lấy lòng tin thường sử dụng biểu tượng chim hạc, được gọi là “nhất phẩm điểu” hay là “nhất phẩm đương triều”. Hình dáng con hạc đứng trên phiến đá trước sóng triều ngụ ý tới phẩm chất cao quý, mạnh mẽ đối đầu với khó khăn, mang lại may mắn và ấm êm.
Sách cổ ghi lại rất nhiều điều liên quan tới đức tính của hạc, nhìn một cách tổng quát, hạc giống như một người quân tử, không dâm, không dục, trong sạch thuần khiết, tiếng kêu thánh thót, sánh với nhân tài.
Thời xưa hạc còn được dùng để ví với những người ưu tú nên sắc lệnh chiêu mộ hiền sỹ còn được gọi là “hạc bản”, những thứ trên “hạc bản” được gọi là “hạc thư” hoặc “hạc đầu thư”, những người tu hành và có tiếng tăm tốt được gọi là “hạc minh chi sĩ”. Liên hệ điều này, có thể thấy các bức tranh có vẽ hạc mang ý nghĩa thanh liêm, không tham lam, sa đọa.
Truyền thuyết nói rằng hạc là chim tiên sống rất thọ, trong cuốn “Tướng hạc kinh” đã gọi hạc là ” thọ bất khả lượng” (sống lâu không thể tính) hay “hạc thọ thiên tuế” (hạc sống nghìn năm). Vì thế người đời sau dùng hạc để chúc phúc trường thọ.
Có người còn đặt tên có chữ “hạc” để may mắn và trường thọ như: Hạc Thọ, Hạc Linh… và hình ảnh hạc được đưa vào tranh chúc thọ, bình phong chúc thọ, câu đối và đồ chạm khắc khác.
Ngoài ra mỗi hình dáng và vị trí đặt hạc còn tượng trưng cho một ý nghĩa riêng:
– Một chú hạc đang bay vút lên lên trời tượng trưng cho một thế giới bên kia tốt đẹp, phiêu du, bởi vì khi ai đó chết đi, linh hồn của người ấy sẽ ngồi trên lưng hạc và được hạc chở lên thiên đường. Cũng bởi lý do đó, trong đám tang của người Hoa, con hạc thường được đặt ở giữa nắp áo quan.
– Hình ảnh một chú hạc thấp thoáng giữa những đám mây lại tượng trưng cho tuổi thọ, sự uyên bác, sáng suốt và cuộc sống vương giả. Hình ảnh ấy còn hàm ý chủ nhân đang vươn tới một vị trí cao, đầy quyền lực.
– Hình ảnh hạc đang nô đùa xung quanh những cây thông tượng trưng cho sức chịu đựng dẻo dai, kiên cường của gia chủ để có được một cuộc sống danh tiếng, giàu sang.
– Một trong những món quà mừng tặng cho cha mẹ có thể là một tác phẩm nghệ thuật có hình hai chú hạc trắng nép mình vào nhau giữa nhánh cây thông. Hình ảnh thi vị đó như ước nguyện về một cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm, tượng trưng cho sự tiếp nối truyền thống các bậc tiền bối bảo vệ hạnh phúc gia đình.
hac4.jpg
– Con hạc trắng có lông đỏ trên đỉnh đầu được người Hoa cho là sẽ đem tới một sự hài hòa tuyệt vời cho gia đình và giúp cho mối quan hệ giữa các thành viên luôn bền vững.
– Tốt nhất là đặt con hạc ở hướng Nam, vì nó sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt.
– Hướng Tây sẽ đem lại sự may mắn cho con cái của bạn, trong khi hướng Tây Bắc là hướng nên chọn nếu gia đình bạn là tộc trưởng.
– Đặt hạc ở hướng Đông sẽ có lợi cho con trai và cháu trai.
– Những tấm bình phong với hoa văn có thêu hình con hạc là một vật trấn phong thủy khá tốt, giúp bạn chặn đứng những điều không may có thể lọt vào nhà.
– Những khu vực không nên trưng hạc là phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Bạn cũng có thể bày hạc ở phòng ngủ, phòng ăn và phòng khách.
Hãy theo dõi cùng Lịch ngày tốt nhé. Tính cách người tuổi Thìn nhóm máu O: Thông minh, vui vẻ
1. Cây lan Ý (cây buồm trắng, cây huệ hòa bình)
Nếu bạn yêu cây nhưng lại không có khiếu trồng cây thì loài lan Ý này thực sự dành cho bạn. Loài cây này có thể sống trong môi trường ánh sáng yếu (vô cùng lý tưởng nếu căn hộ của bạn bị các tòa nhà che khuất và không có không gian mở) và chỉ cần tường nước một tuần một lần. Cây lan Ý phù hợp trồng trong phòng tắm hoặc những phòng làm việc thiếu ánh sáng.
2. Cây xương rồng
Loài cây này thích hợp trồng trong môi trường khắc nghiệt. Cây xương rồng chỉ cần tưới nước một tuần một lần khi sinh trưởng nhưng trong giai đoạn khí hậu mát mẻ hoặc lạnh vào mùa đông, thời gian giữa những lần tưới cây có thể dài hơn. Đặt các chậu cây ở nơi có nhiều ánh nắng nhưng tránh ánh nắng trực tiếp vì cây có thể bị chuyển sang màu trắng hoặc vàng. Cây xương rồng mang lại phong cách hòa trộn giữa sự phóng túng và hiện đại cho căn phòng.
3. Cây lưỡi hổ
Loài cây này có thể sống sót trong hầu hết mọi kiểu môi trường. Cây lưỡi hổ có lá cứng và chịu được môi trường thiếu ánh sáng (mặc dù chúng sinh trưởng tốt hơn trong môi trường ánh sáng ở mức độ trung bình và ánh sáng rực rỡ). Đối với loài cây này, thỉnh thoảng bạn mới phải tưới nước để đất được khô ráo trong khoảng thời gian giữa những lần tưới nước. Cây có khả năng sinh trưởng tốt nhất với nhiệt độ từ 15-30 độ C.
4. Cây sanh
Loài cây sẽ đem lại một vẻ đẹp rất riêng cho ngôi nhà của bạn. Đồng thời, chúng sẽ thổi vào không gian nhỏ bé của căn hộ một chút màu xanh của tự nhiên. Loài cây này chỉ cần tưới nước sau bốn đến bảy ngày. Đặt chậu cây ở cửa sổ có đủ ánh sáng nhưng tránh ánh nắng trực tiếp và nhớ xoay chậu cây thường xuyên để cây phát triển đều.
5. Cây lô hội
Với những chậu cây lô hội trồng trong nhà, bạn sẽ có sẵn phương thuốc sơ cứu khẩn cấp khi bị xước hoặc bị bỏng, đồng thời, chậu cây này cũng là món đồ nội thất phù hợp cho phòng bếp và phòng khách. Đặt chậu cây gần cửa sổ và tưới nước đầy đủ, chú ý giữ cho lớp đất phía trên cùng khô ráo trước lần tưới tiếp theo (có nghĩa là bạn có thể tranh thủ đi nghỉ mà không lo cây sẽ héo rũ).
6. Cây phát lộc
Nếu bạn muốn bổ sung không gian xanh cho những góc khuất ánh sáng trong căn hộ của mình thì cây phát lộc là sự lựa chọn thích hợp dành cho bạn. Chúng có khả năng sống sót trong môi trường ánh sáng yếu và ánh nắng không trực tiếp. Ngoài ra, loài cây này còn được coi là một vật phẩm mang lại phong thủy tốt cho căn nhà.
7. Cây trầu bà tay Phật
Loài cây này rất phù hợp trồng trong các căn hộ chung cư. Và nhờ vào đặc điểm sinh trưởng của cây mà bạn có thể dễ dàng thay đổi cách chăm bón. Chẳng hạn, khi lá cây chuyển sang màu vàng tức là chúng đang được “tắm nắng” quá nhiều, nên đặt chúng ở nơi có ánh sáng đầy đủ nhưng tránh ánh sáng trực tiếp. Nếu cây ra lá nhỏ tức là chúng đang cần nhiều phân bón hơn. Lưu ý chỉ tưới nước khi lớp đất trên cùng khô ráo.
8. Cây hoa tử linh lan
Một loài hoa nhỏ, đẹp và độc đáo, mang lại một màu tím mộng mơ cho căn hộ. Đây là một trong số ít các loài hoa không yêu cầu chăm bón cầu kỳ và có thể trồng trong nhà. Lưu ý tưới cây một tuần một lần để cây có đủ nước để sinh trưởng.
Người tuổi Sửu chăm chỉ cần cù, lại thật thà lương thiện. Song tùy theo tháng sinh âm lịch mà vận mệnh người tuổi Sửu lại có những điểm khác biệt. Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá bí mật vận mệnh người tuổi Sửu theo từng tháng sinh nhé. Theo tử vi, tháng sinh ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách cũng như cuộc đời con người. Người tuổi Sửu vốn được biết đến là những người chăm chỉ cần cù, tâm địa thiện lương. Người sinh năm con Trâu là những người có trách nhiệm cao, có sức chịu đựng hơn người, cũng kiên trì và có ý chí vững vàng. Họ không giỏi thể hiện tình cảm, lại bảo thủ nên thường muốn thể hiện bằng cách gián tiếp.
Loại: Ám tinhĐặc Tính: Sự trắc trở, dai dẳng, xoay trở bao giờ cũng chậm chạp.
Phụ Tinh. Tên gọi đầy đủ là Tuần Trung Không Vong. Một trong 4 sao của bộ Tứ Không là Thiên Không, Địa Không, Tuần Không, Triệt Không.
Ý Nghĩa Tuần Ở Cung Mệnh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Ở những bài trước chúng tôi có cập cho các bạn cách xem tướng nốt ruồi, xem tướng khuôn mặt … Còn hôm nay cũng hướng dẫn các bạn xem tướng nốt ruồi nhưng khác với các bài trước đó chính là xem tướng nốt rồi không tốt cho sức khỏe. Những nốt ruồi này ẩn trong lông mày có nghĩa bạn dễ bị tổn thương ở tay; nốt ruồi ở đầu mũi có nghĩa bạn hay gặp vấn đề về tiêu hóa. Còn nhiều nốt ruồi xấu ở chỗ khác nữa ma chúng ta cần lưu tâm để chú ý tới sức khỏe của mình hơn.
Nội dung
Nốt ruồi ở trên trán tuy rất tốt với sự nghiệp, vận mệnh, nhưng lại gây hại cho sức khỏe. Ngoài ra nếu ấn đường (phần nằm giữa hai đầu lông mày) có nốt ruồi thì dễ mắc bệnh đường hô hấp; nốt ruồi ẩn trong lông mày thì dễ bị tổn thương ở tay.
Ai có nốt ruồi ở trong mắt thì thận dễ có vấn đề, chuyện chăn gối cũng không hòa hợp. Người như vậy rất xui xẻo, vận khí không tốt, dễ gặp hỏa hoạn, thiên tai, cần phải cẩn thận.
Nếu có nốt ruồi ở ngay sát hoặc giữa hàng lông mi thì rất có hại cho sức khỏe, đặc biệt đối với các bạn nữ, dễ mắc bệnh phụ khoa, gặp nhiều phiền não; là nam thì dễ gặp các vấn đề về thận, đặc biệt là ở tuổi trung niên.
Khu vực ở đuôi mắt còn được gọi là cung Phu Thê. Nếu khu vực này có nốt ruồi, đặc biệt là nốt ruồi thịt, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới tình cảm vợ chồng, chuyện chăn gối hạn chế; là nữ thì dễ lãnh cảm. Ngoài ra, nếu đuôi lông mày có nốt ruồi thì khi đi chơi xa, đi du lịch phải hết sức cẩn thận, vì nốt ruồi ở vị trí này có nghĩa bạn dễ bị tai nạn khi đi du lịch.
Nếu xuất hiện nốt ruồi ở đây, là nữ thì mệnh chồng không tốt, dễ tái hôn, phổi dễ gặp vấn đề, chức năng tiêu hóa kém; chồng của họ cũng dễ mắc bệnh gan.
Sống mũi đại diện cho sự nghiệp, nếu vị trí này có nốt ruồi thì trong sự nghiệp có thể gặp trở ngại, khó phát triển. Về sức khỏe thì gan mật không tốt, dễ ảnh hưởng đến thanh quản, cổ họng. Nếu là XX, họ có thể cản trợ cho sự nghiệp của chồng.
Có nốt ruồi ở đầu mũi thì sẽ gặp vấn đề về đường tiêu hóa.
Nếu là nam thì phải để ý đến vùng thắt lưng, gan dễ gặp bệnh.
Là nam có nốt ruồi ở trên môi, bất kể là môi dưới hay môi trên nhưng nếu không phải ở viền môi thì là người háo sắc, dễ gặp các bệnh liên quan tim mạch.
Dưới môi dưới có nốt ruồi, thì dễ gặp bệnh liên quan đến ăn uống như ngộ độc. Nếu nốt ruồi đậm và đen thì càng phải để ý đường tiêu hóa, chế độ ăn uống.
Những người có nốt ruồi mọc ở ngay giữa cằm, thì hay phải thay đổi nơi làm việc, thường phải di chuyển nhiều nơi, hay phải chuyển nhà, cần phải nhanh chóng thích ứng với môi trường. Họ cũng thường gặp bệnh về tim mạch.
Xem thêm:
Ảnh minh họa |
Ảnh minh họa |
► Xem tử vi ngày và tử vi tuần mới của bạn được cập nhật liên tục và chính xác nhất |
Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!
1. Phải trả giả đắt vì xem thường giếng thần
Mới đặt chân tới đầu làng, không cần phải hỏi nhiều chúng tôi đã được nghe nhiều người kể lại những câu chuyện xung quanh giếng “thần” mà hầu như người dân trong làng không ai là không biết.
Theo các bậc cao niên trong làng Trung Thịnh kể lại, thì giếng “thần” nằm ở giữa làng Trung Thịnh nên có tên là giếng Trung Thịnh. Không ai biết giếng Trung Thịnh có từ khi nào, chỉ biết rằng theo các bậc cao niên tính theo âm lịch thì giếng có tuổi đời phải hàng trăm năm.
Ngày trước khi giếng Trung Thịnh đang còn được người dân sử dụng để lấy nước sinh hoạt cho gia đình và hội hè thì giếng được coi là bảo vật của làng. Giếng Trung Thịnh ngày ấy nước trong vắt, quanh năm không bao giờ cạn, có khuôn viên rộng tới gần trăm m2, giếng được xếp gạch chồng từ đáy lên đến mặt giếng. Nền giếng được lát gạch đỏ, phong quang, sạch sẽ…
Giếng Trung Thịnh không chỉ là nơi cung cấp nước dùng cho cả làng mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của làng, là điểm hẹn hò của “nam thanh nữ tú” những đêm trăng sáng và nhiều cặp uyên ương đã nên vợ nên chồng cũng từ giếng cổ này.
Tuy nhiên sau này, theo thời gian giếng Trung Thịnh dần dần bị rơi vào quên lãng, do kinh tế phát triển, nhiều gia đình đã tự đào giếng riêng cho mình để tiện cho việc sử dụng trong sinh hoạt. Cũng từ đó, giếng Trung Thịnh ít được người dân lui tới, lâu dần rêu phủ đầy nền giếng, cây cỏ mọc um tùm che lấp luôn cả thành giếng.
Một số người thiếu ý thức lại xem giếng là nơi chứa rác đã không ngần ngại vứt luôn rác thải vào giếng. Thế là giếng Trung Thịnh ngày càng bị lấp đầy, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, chỉ trong một thời gian ngắn giếng Trung Thịnh hoàn toàn bị chối bỏ.
Và điều kỳ lạ đã xảy ra, kể từ ngày giếng “thần” Trung Thịnh bị “coi khinh”, ruồng bỏ, làng Trung Thịnh bắt đầu có nhiều sự việc bất thường mà theo nhiều người mê tín cho rằng đã bị quả báo vì đã “sỉ nhục” giếng “thần”.
Theo lời ông Lê Tiến Lào (80 tuổi), nguyên là bí thư Đảng ủy xã Nam Sơn, thì ngày trước làng Trung Thịnh vốn rất no đủ, kinh tế phát triển, mùa màng bội thu, đặc biệt con gái làng Trung Thịnh nổi tiếng xinh đẹp, đến tuổi cập kê là trai làng khắp nơi lui tới tán tỉnh, rồi lần lượt thành đôi thành lứa, hạnh phúc trọn đời.
Tuy nhiên không hiểu tại sao từ ngày giếng Trung Thịnh bị “thất sủng” thì làng Trung Thịnh trở lên xơ xác tiêu điều. Kinh tế dần dần đi xuống, mất mùa thường xuyên diễn ra, rồi "thần chết" lần lượt gõ cửa nhiều gia đình.
Những cái chết bất thường do ung thư, tai nạn, chết trôi… ngày một nhiều. Kỳ lạ hơn gái làng cũng từ đó “ế sưng ế xỉa”, nhiều cô xinh đẹp, nết na mà tới trên 30 tuổi cũng chẳng ai ngó ngàng tới, không lấy được chồng. Nhiều trường hợp đã ăn hỏi, xem ngày chỉ còn chờ tới ngày cưới nhưng đột nhiên lại bị nhà trai trả lễ, thế là nhiều cô phải chịu cảnh “gái ế”…
2. Gái ế trong làng xuất giá sau khi khôi phục giếng cổ
Tất cả những trường hợp trùng lặp ngẫu nhiên đó khiến người dân làng Trung Thịnh hoang mang lo sợ, ngày đêm suy nghĩ đi tìm nguyên nhân và cuối cùng nhiều bậc cao niên trong làng đã cho nguyên nhân là do ở giếng “thần”, vì bị coi khinh nên thần linh quở phạt. Dự định sẽ khôi phục lại giếng thần của làng cũng được bàn đến.
Tuy nhiên lúc bấy giờ do giếng Trung Thịnh đã bị rác thải lấp đầy, trở thành hoang phế nên họ không khôi phục, tôn tạo lại mà tổ chức mời thầy cúng cao tay về “giải hạn”. Thế là họ lặn lội đi khắp nơi mời hết thầy này đến thầy khác về “giải hạn” cho làng nhưng cuối cùng đành bất lực nhìn tai ương đổ xuống dân làng.
Kế hoạch khôi phục lại giếng Trung Thịnh chỉ được tiến hành thực sự kể từ sau khi tình cờ có một ông thầy địa lý không biết từ đâu tới, râu róc bạc phơ như ông tiên trong truyện cổ tích ghé qua làng vào một ngày cách đây khoảng 5 năm.
Ngày đó khi thấy nhiều người tụ tập ngay đầu làng, bàn tán xôn xao về những cái chết bất thường, ông đã nhìn trân trân vào giếng làng Trung Thịnh bị bỏ hoang phế mà phán rằng: “Ta xem phong thủy thấy giếng này nằm ở vị trí long mạch rất thiêng liêng. Nếu không được khôi phục mà bị vùi lấp đi, ô nhiễm thế này thì cả làng sẽ gặp xui xẻo, thanh niên trong làng sẽ bị tàn lụi, gái làng sẽ ế chồng”.
>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?
Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>
Phán xong ông thầy địa lý bỏ đi không để lại danh tính. Lúc đầu mới nghe xong lời ông thầy địa lý, người dân đều không tin và cho rằng đó là chuyện nhảm nhí, tuy nhiên về sau rất nhiều tai ương vẫn tiếp tục đổ xuống làng Trung Thịnh, khiến người dân tin tưởng, đặc biệt là các bậc cao niên trong làng.
Sau đó các bậc cao niên trong làng Trung Thịnh tổ chức họp làng, trình bày ý nguyện khôi phục lại giếng “thần” và đã được người dân hoàn toàn tán đồng. Cả làng Trung Thịnh không ai bảo ai, gia đình nào cũng tự nguyện đóng góp tiền bạc và chỉ sau một thời gian ngắn người dân đã quyên góp được 30 triệu đồng, đủ để “tân trang” lại giếng.
Cụ Lào cho biết thêm: “Sau khi đã chuyển bị đầy đủ vật liệu, gần đến ngày khởi công, không hiểu sao trời mưa tầm tã suốt ngày, khiến dân làng hết sức lo lắng, nhưng đúng ngày khởi công trời bỗng dưng tạnh ráo, bầu trời trong xanh đến kỳ lạ. Thế là người dân ai nấy đều vui mừng và hớn hở bắt tay ngay vào công việc khôi phục lại giếng cổ trăm tuổi ”.
Giếng làng Trung Thịnh được người dân kỳ công, miệt mài tu sửa suốt 3 năm trời và hoàn thành vào năm 2012 trước sự vui mừng của người dân. Khuôn viên giếng rộng như trước, không giữ được nét “ nguyên bản” nhưng khang trang, sạch đẹp.
Giếng làng Trung Thịnh sau khi được trùng tu
Nhiều người trong làng kể lại, thật kỳ lạ là kể từ sau khi giếng Trung Thịnh được trùng tu lại, dân làng hưng thịnh, làm ăn phát đạt, không còn ốm đau, những cái chết bất thường do bệnh tật hiểm nghèo, tai nạn được đẩy lùi, đặc biệt nhiều “gái ế” đã xuất giá dù đã ở U40, U50, có những cô gái tật nguyền xấu xí, tưởng sẽ phải ở giá suốt đời cũng lần lượt tìm được tình yêu, lên xe hoa về nhà chồng, …
Không chỉ vậy, người dân cho rằng giếng Trung Thịnh có thần ngự trị, rất thiêng liêng, nên mỗi khi có chuyện bất trắc, khó khăn trong cuộc sống họ đều ra giếng cầu cho gia đình gặp may mắn, tránh được điều xui xẻo, tai qua nạn khỏi.
Ông Nguyễn Văn Lý (70 tuổi) người làng Trung Thịnh cho biết: “Sự thật tôi không tin vào mấy chuyện mê tín khi nghe người làng bàn tán về lời phán của ông thầy địa lý. Tuy nhiên sau khi giếng được khôi phục lại, xóm làng đã có sự thay đổi rõ rệt. Làng xóm không còn những cái chết bất thường khó hiểu, mùa màng bội thu, gái “ế” trong làng lần lượt có đôi có lứa, nên vợ nên chồng hết… có lẽ giếng này thiêng thật”.
Tuy nhiên qua trao đổi với ông Hoàng Văn Hải, cán bộ Văn phòng Đảng ủy xã Nam Sơn, ông Hải cho biết: “Những câu chuyện về thần thánh lên quan đến giếng làng Trung Thịnh chỉ là sự trùng lặp ngẫu nhiên, do nhiều người mê tín đồn thổi chứ hoàn toàn không có cơ sở. Việc trung tu lại giếng Trung Thịnh là việc nên làm, vì giếng cổ này đã có từ lâu đời, đó cũng là việc bảo tồn văn hóa, giữ gìn nét đẹp của làng quê”.
>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>
Có nhiều người, khi lựa chọn hướng và màu sắc cho cửa chính đã nghĩ rằng điều này chẳng có gì quan trọng vì hướng của ngôi nhà mới là cần thiết nhất.
Điều đó thật sai lầm vì trong phong thủy, mỗi chi tiết của ngôi nhà đều mang một yếu tố riêng của nó. Sự kết hợp hài hòa giữa hướng và màu sắc nơi cửa chính, cổng ngỏ sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành cho ngôi nhà.
Đối với cửa chính thuộc hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc, thuộc hành Thổ thì nhũng gam màu như xanh lục, xanh da trời thuộc hành Mộc và hành Thủy như màu đen, màu xám, màu xanh biển sẫm là không phù hợp, vì Mộc Thổ xung khắc, Thổ Thủy xung khắc.
Vì vậy màu xanh lục, xanh da trời hay màu đen, xám, xanh nước biển sẫm là màu bạn cần nên tránh. Màu phù hợp là hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa sinh cho hành Thổ của hướng. Hoặc màu vàng, màu nâu thuộc hành Thổ, làm vượng cho hành Thổ của hướng.
Đối với cửa chính nằm ở hướng Đông hoặc Đông Nam, thuộc hành Mộc, bạn cần tránh sơn màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim. Cũng không sử dụng cửa làm bằng kim loại, thuộc hành Kim bởi Kim khắc Mộc.
Đồng thời, bạn cũng cần tránh sơn cửa chính, cổng ngỏ màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa, bởi hỏa sẽ làm suy kiệt năng lượng của hành Mộc ở hướng Đông hoặc Đông Nam. Chọn cửa gỗ, sơn màu xanh lục, xanh da trời, hoặc màu xám, màu xanh biển sẫm.
Hướng Tây và Tây Bắc thuộc hành Kim vì vậy màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa là màu bạn cần nên tránh, vì Hỏa khắc Kim. Tốt nhất là sử dụng màu vàng, nâu thuộc hành Thổ sinh cho hành Kim của hướng. Hoặc màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim làm vưọng cho hành Kim của hướng.
Màu xanh biển sẫm, xám, đen thuộc hành Thủy rất phù hợp với cửa chính, cổng ngỏ ở hướng Bắc vì hướng Bắc thuộc hành Thủy, làm vượng cho hành Thủy của hướng. Hoặc màu trắng, bạc, kem thuộc hành Kim sinh cho hành Thủy của hướng.
Tuy nhiên màu xanh nước biển sẫm, xám, đen thuộc hành Thủy sẽ rất tối kỵ khi bạn dùng nó cho cửa chính hướng Nam thuộc hành Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa. Màu phù hợp cho hướng Nam là xanh lục, xanh da trời thuộc hành Mộc, sinh cho hành Hỏa hướng Nam. Hoặc màu đỏ, hồng, cam, tím thuộc hành Hỏa, làm vượng cho hành Hỏa hướng Nam.
Tất nhiên màu của cửa chính, cổng ngỏ hoặc bờ tường phía trước của ngôi nhà, phù hợp sinh vượng với từng hướng như trên, trong điều kiện hướng đó là hướng tốt theo tuổi của bạn.
NHỮNG THAY ĐỔI NHỎ TRONG PHONG THỦY NHÀ CŨNG CÓ THỂ MANG ĐẾN CHO MAY MẮN HOẶC KHIẾN CHO TÌNH YÊU HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH BẠN SÂU ĐẬM HƠN
1. Mở cửa trước
Mọi năng lượng, kể cả sự lãng mạn chảy vào nhà bạn qua cửa chính. Vì vậy hãy mở rộng cửa thường xuyên để tăng cơ hội đón nhận tình yêu.
2. Đặt hoa hồng trong phòng ngủ
Theo phong thủy, hồng là màu tượng trưng cho sự lãng mạn của tình yêu. Màu trắng là sự khởi đầu. Kết hợp 2 màu này với nhau bằng cách: đặt 2 bông hoa hồng không gai trong lọ trắng rồi đặt trên chiếc bàn cạnh giường hoặc nơi bạn có thể nhìn thấy. Bằng cách này, tình yêu sẽ nảy nở.
3. Đặt bát đựng quả lê trong bếp
Bếp vẫn được coi là trái tim của ngôi nhà. Tại không gian này, bạn nên đặt những quả lê mọng nước trong 1 bát to trên bàn bếp. Làm như vậy sẽ giúp bạn sớm tìm được “nửa kia” để trở thành cặp đôi hoàn hảo.
4. Tạo sự cân bằng giữa các đồ nội thất
Đây cũng là một trong những cách để thu hút sự chú ý của người khác. Nếu bạn độc thân và muốn thu hút bạn khác giới, hãy xem lại cách sắp xếp trong phòng.
Với chồng gối xếp lệch 1 bên giường tạo cảm giác như có ai đó đang chung sống với mình. Điều này sẽ giúp cho giấc mơ của bạn sớm thành hiện thực.
Còn nếu đã có bạn đời, bạn có thể làm tình yêu nồng nàn hơn bằng cách trải giường bằng ga màu đỏ. Theo phong thủy, màu đỏ là chất xúc tác mãnh liệt của tình yêu.
Nguồn: TRUNG CHÂU TỬ VI ĐẨU SỐ TAM HỢP PHÁI - NGUYỄN ANH VŨ dịch.
Tương truyền, Tử Vi Đẩu Số có nguồn gốc từ Khâm Thiên Giám của triều đại nhà Đường, ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trung Châu là tên một vùng đất cổ, tức "Trung Thổ", "Trung Nguyên". Theo nghĩa rộng, "Trung Châu" là chỉ toàn nước Trung Hoa, còn gọi là "Thần Châu", "Hoa Hạ". Nghĩa ban đầu của "Trung Châu" là chỉ vùng đất thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, hay thuộc lưu vực sông Hoàng Hà. Vì vùng đất này ở giữa Cửu Châu thời cổ đại nên có tên gọi này. Phần lớn thời gian trong lịch sử, vùng đất này là trung tâm văn hóa, chính trị, và Kinh Tế của Trung Quốc. Thời cổ, Lạc Dương là vùng đất trọng yếu của Trung Châu tọa lạc ở bờ nam sông Hoàng Hà, miền tây tỉnh Hà Nam, phía Bắc dựa núi Mang Sơn, phía nam đối diện Long Môn, phía tây liền với Tần Lĩnh, phía đông là vách núi Tung sơn, ở giữa là một vùng bình nguyên. Nơi này địa hình hiểm yếu, đất đai phì nhiêu, nguồn nước dồi dào; trong lịch sử, đây là vùng đất mà các binh gia phải chiếm lấy, còn là nơi lý tưởng để lập quốc đô. Bắt đầu từ năm 770 TCN, trước sau đã có chín vương triều là Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy, Đường, Hậu Lương, và Hậu Đường, chọn nơi này làm kinh đô, vì vậy Lạc Dương được gọi là "Cửu Triều Cố Đô".
Vào thời Đường, thiên văn học và chiêm tinh học từ phía Tây Vực du nhập vào Trung Quốc đã thúc đẩy Tinh Mệnh Học của Trung Quốc phát triển một bước lớn, từ đó lịch pháp và bát tự sinh thần trở thành nhân tố trọng yếu trong Tinh Mệnh Học. Những hoạt động sôi nổi này chủ yếu tập trung ở Lạc Dương, Trung Châu.
Trong số các Đạo kinh truyền lại từ đời Đường có Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, Phật thuyết bắc đẩu thất tinh Diên Mệnh kinh, trong đó đã có những ghi chép tường tận về phương pháp bài bố sao mệnh chủ và sao thân chủ như trong Tử Vi Đẩu Số. Theo quan niệm của đương thời, sao mệnh chủ và sao thân chủ luôn là mấu chốt quan trọng của kiếp số nhân sinh, vì vậy Đạo Giáo có "Kì an lễ đẩu", "Kì nhương khoa nghi" (một loại nghi lễ cúng sao trong đạo giáo). Trong bắc đẩu kinh còn đề cập 12 cung, "Giáp cát trợ tinh", cho đến các cách cục hung dẫn đến các loại mệnh vận tai kiếp như trong Tử Vi Đẩu Số. Điều này cho thấy 3 cuốn kinh kể trên có liên quan mật thiết đến Tử Vi Đẩu Số sau này. Nếu các bản chú giải kinh văn thời ấy còn lưu truyền cho đến ngày nay, có lẽ chúng ta sẽ biết yếu quyết của Tử Vi Đẩu Số vào thời ấy tường tận hơn. Hiện tượng chọn Tử Vi làm sao tôn quý nhất trong 14 chủ tinh có nguồn gốc từ Bắc Đẩu Kinh, Nam Đẩu Kinh, trong đó ẩn chứa khái niệm "số" trong Huyền Học, hậu thế gọi là "Tử Vi Đẩu Số" thực sự có hàm ý uyên nguyên của nó.
Sau thời Bắc Tống, các hệ thống tinh mệnh học dần dần hoàn thiệt, Ngũ Tinh Thuật (Thất Chính Tứ Dư) và Tử Bình thuật đã phát triển thành 2 lưu phái Tinh Mệnh học lớn ở Trung Quốc. Trong đó, Ngũ Tinh thuật phái Cẩm Đường là chi phái Thất Chính Tứ Dư nổi tiếng nhất thời ấy, nguồn gốc xuất phát từ Mật Tông, tổ sư là Nhất Hạnh(CN. năm 683 - 727), người đời Đường, tên tục là Trung Trục, có sách truyền lại là Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu; truyền đến tăng Xuân ở núi Thanh Thành, Xuân truyền cho tăng Phổ Trừng ở Giang Tây, Trừng truyền cho Tứ Minh tăng Huệ Minh ở Chiết Giang, Minh truyền lại cho quốc sư nước Liêu là Gia Luật Sở Tài. Gia Luật là một dòng họ quý tộc nổi tiếng đời Liêu, có rất nhiều người làm quan lớn và văn nhân học sĩ. Ba quyển Tinh Mệnh Tổng Quát là do Hàn Lâm học sĩ Gia Luật Thuẩn biên soạn. Sách sử không ghi tên ông, cho nên trong Tứ Khố đề yếu nghi là sách thác danh, nhưng trong quyển đầu ghi: "Nguyên Tự" thiên Gia Luật Thuần viết vào niên hiệu Thống Hòa thứ 2 (CN, ngày 10, tháng 9 năm 984); Văn Hồ các thư mục ghi là một bộ, không phân chia số sách; Lục Trúc Đường thư mục chia làm 5 sách, nhưng không ghi số quyển; bộ sách này thấy chép trong Vĩnh Lạc đại điển và Tứ Khố toàn thư, ngoài nhân gian không có truyền bản nào khác. Ngoài ra, bộ Hư Thục Ngũ Tinh nguyên lưu còn được chùa Thiên Giới cất giữ một bản; vào niên hiệu Hồng Vũ thứ 6, truyền lại cho Thương Quý Đổng. Truyền bản ngày nay phần nhiều là Cẩm Đường Ngũ Tinh, Chỉ Kim Hư Thục Ngũ Tinh Thiên Cơ thất ngũ phú. Do đó có thể thấy phái Cầm Đường là một phân chi Tinh Tông quan trọng. Còn có thể khảo chứng thư tịch Tinh tông trong bộ sách Trương Quả tinh tông chép trong Tứ Khố toàn thư, và Tinh Mệnh tố nguyên do Trương Quả trước tác, thân thế Trương Quả có ghi chép trong Tân Đường truyện - Phương Kĩ truyện. So sánh đối chiếu với phương pháp đoán mệnh của Thất Chính Tứ Dư, người ta thấy có nhiều dấu vết diễn biến thành Tử Vi Đẩu Số ngày nay.
Trong suốt khoảng thời gian từ đời Tống đến đầu đời Nguyên, Tử Vi Đẩu Số hầu như im hơi lặng tiếng, người ta không tìm thấy một văn bản nào khác liên quan đến Tử Vi Đẩu Số. Hiện chỉ lưu giữ được 1 bản chép tay sách các cổ quyết của Tử Vi Đẩu Số đời Nguyên.
Đến đời Minh, giai đoạn cuối thời kì chấp chính của Chu Nguyên Chương, vị vua khai quốc triều Minh này đã hạ lệnh cấm dân gian không được học thiên văn, cho nên Tinh tông mệnh lí học dần dần bị chìm trong bóng tối, mãi đến niên hiệu Gia Tĩnh thứ 26 (CN năm 1547) mới giải trừ luật cấm học thiên văn.
Tinh tông mệnh lí học thoát khỏi lệnh cấm này, dần dần từng bước hoàn thiện hệ thống. Tên gọi "Tử Vi Đẩu Số" sớm nhất được thất trong Tục Đạo Tạng, do Trương Quốc Tường, Chính Nhất thiền sư đời thứ 50 của đạo giáo, tập thành vào thời Minh Thần Tông niên hiệu Vạn Lịch thứ 35 (1607), trong đó có 3 quyển Tử Vi Đẩu Số, không rõ tác giả, căn cứ nội dung của 3 quyển Tử Vi Đẩu Số này thì đúng là thuật "Thập Bát Phi Tinh". Đầu đời Thanh, trong Tử bộ thuật số của Tứ Khố toàn thư, tổng cộng ghi nhận được 50 loại thuật số, bao gồm cả "Thập Bát Phi Tinh" và "Tử Vi Đẩu Số". Cũng chính vì vậy mà một số học giả cho rằng Tử Vi Đẩu Số là hình thức cải cách của "Thập Bát Phi Tinh" được thu thập trong Tục Đạo Tạng.
Tuy triều Minh cấm dân gian học thiên văn, nhưng cơ cấu triều đình vẫn có một cơ quan chuyên trách về khí tượng và thiên văn, gọi là "Khâm Thiên Giám", cho nên môn học thuật này vẫn phát triển trong cung đình hoàng gia. Vì nhân tố hoàn cảnh thời đại, Đẩu Số bị khoác lên một bức màn che, làm tăng vẻ thần bí của nó. Tử vi Đẩu Số bắt nguồn từ ngũ tinh thuật, do xuất phát từ Khâm Thiên Giám đời Đường ở Lạc Dương, Trung Châu, nên còn gọi là "Khâm Thiên Giám Bí Cấp".
Sách Tử Vi Đẩu Số toàn thư và Tử Vi Đẩu Số toàn tập đều đề do Trần Đoàn cuối đời Ngũ Đại sáng tác, trong dân gian thì lưu truyền thuyết Lữ Đồng Tân truyền Tử Vi Đẩu Số cho Trần Hi Di. Trần Hi Di lại mang Tử Vi Đẩu Số truyền cho các đồ đệ của mình, trong suốt mấy trăm năm, Tử Vi Đẩu Số mang hình thức bí truyền từ đời này sang đời sau, đây là một trong những nguyên nhân khiến sách Tử Vi Đẩu Số xuất hiện rất hiếm hoi.
Khoảng niên hiệu Gia Tĩnh đời Minh, La Hồng Tiên, một nhà kham dư gia ở Cát Thủy, Giang Tây, khắc in và lưu truyền sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư. Về sau Phan Hi Doãn, hiệu là Phụ Tử Tử ở Giang Tây, biên tập sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Tập, và hậu thích của Phan Hi Doãn là Dương Nhất Vũ ở Quan Tây, Phúc Kiến tăng bổ.
Hiện nay hai bản TVĐS này là tư liệu hàng đầu để nghiên cứu TVĐS cổ đại, nhưng đều là bản khắc vào thời kì Đồng Trị đời Thanh. Xét về nội dung thì biết được hai bản này về đại thể thì đại đồng tiểu dị, và không phải do một người biên soạn.
Vào khoảng cuối đời Minh đầu đời Thanh, toán học và Thiên Văn Học phương tây theo các giáo sữ Mục Ni Các, Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân, v.v... truyền vào Trung Quốc. Theo đó, Tinh Tông mệnh lí học và Trạch Cát thuật lại hưng khởi, càng làm cho khoa Tử Bình hưng thịnh hơn. Khoa Tử Bình đồng thời cũng hấp thu tinh hoa của Tinh Tông mệnh lí học. Việc ứng dụng các thần sát cũng xuất hiện nhiều trong khoa Tử Bình, còn khoa Tử Vi Đẩu Số thì ít người biết đến, nên càng mang sắc thần bí.
Trước năm 1950, phương thức đoán mệnh ở Đài Loang phần lớn chỉ dùng khoa Tử Bình. Sau đó trên thị trường lưu truyền cuốn Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, do Trúc Lâm thư cục xuất bản vào năm 1958, sách đề do Hi Di Trần đoàn trước tác, ban đầu chi làm 2 tập, về sau in gộp thành một tập.
Trong khoảng thời gian từ 1947 - 1955, toàn Đài Loan không có thêm bộ TVĐS nào khác. Mãi đến giữa tháng 2, năm 1966, Phúc Châu Xuất Bản Xã mới xuất bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu Số toàn tập, đề tác giả là Đại Tống Hoa Sơn Hi Di Trần Đồ Nam, người tăng bổ là Bạch Ngọc Thiềm. Chủ của bộ sách cổ này là Thiết Bản Đạo Nhân Trần Nhạc Kì.
Điều đáng chú ý là, sách này ở phần phàm lệ của tác giả đề rằng:" Tử Vi Đẩu Số truyền thế, chia ra hai phái Nam Bắc, sách này thuộc Bắc Phái, là chính thống chân truyền, ứng nghiệm vô song, còn Nam Phái là bản lưu truyền trong dân gian, do hậu nhân ngụy thác tên của Hi Di, không ứng nghiệm, là ngụy thư gạt người..."
Bản sách này tự xưng thuộc Bắc phái, thực ra so với bản Thập Bát Phi Tinh Sách Thiên Tử Vi Đẩu số Toàn Tập do Tập Văn thư cục xuất bản năm 1971, nội dung hoàn toàn tương đồng, chỉ khác là không có câu kể trên.
Giữa TVĐS toàn thư và TVĐS Toàn tập có nhiều chỗ khác biệt, như sau:
(1) Mệnh Chủ:
Trong TVĐS Toàn Thư lấy địa chi cung mệnh làm chủ. Còn trong TVĐS toàn tập thì lấy địa chi năm sinh làm chủ.
(2) Tứ Hóa:
Năm CAnh và năm Nhâm phương pháp an khác nhau. Trong quyển 2 TVĐS toàn thư, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Đồng Âm"; nhưng trong quyển 4 thì lại có mục cổ lệ, phương pháp an là "Nhật Vũ Đồng Tướng"; phương pháp an của năm Nhâm là "Lương Vi Phủ Vũ". Trong TVĐS toàn tập, phương pháp an của năm Canh là "Nhật Vũ Âm Đồng"; phương pháp an của năm nhâm là "Lương Vi Phụ Vũ".
(3) Hỏa Tinh, Linh Tinh:
Trong quyển 2 của TVĐS toàn thư, chỉ lấy địa chi của năm sinh làm chủ, không thấy nói phải phối hợp với giờ sinh hay không; nhưng theo cổ lệ ghi trong quyển 4 thì lại thấy rất rõ ràng là không phối hợp với giờ sinh (ngoài ra, bản đầu tiên còn ghi người sinh năm Tị Dậu Sửu thì Hỏa Tinh ở cung Mão, Linh Tinh ở cung Tuất); phương pháp an trong TVĐS toàn tập là lấy địa chi năm sinh phối hợp với giờ sinh.
(4) Độ sáng của sao:
Trong quyển 2 và quyển 3 của Tử Vi Đẩu Số toàn thư có liệt kê thành 1 bảng các sao ở 12 cung có 7 cấp độ sáng: miếu, vượng, đắc địa, lợi ích, bình hòa, không đắc địa, hãm. Trong TVĐS toàn tập không có bảng liệt kê này, nhưng có "Vượng cung hãm địa cát hung chi đồ" và "Thập nhị cung Lộc Quyền Khoa Kỵ miếu vượng luận"
(5) Đại Hạn:
Trong TVĐS toàn thư, khởi đại hạn là dương nam âm nữ lấy ttru7o7co1 cung mệnh 1 cung (tức là cung phụ mẫu), đi thuận; âm nam dương nữ thì từ sau cung mệnh một cung (tức cung huynh đệ), đi nghịch. Còn trong TVĐS toàn tập, khởi đại hạn từ cung mệnh rồi mới đi thuận hay đi nghịch.
(6) Lưu niên Thái Tuế Thần Sát:
Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư, lưu niên thái tuế thần sát chỉ có "Tứ Phi tinh quyết Tang Hổ Khách Phù", tức là chi an năm thần sát của "lưu niên Thái Tuế thập nhị chi Thần Sát". Trong Tử Vi Đẩu Số toàn tập, lưu niên Thái Tuế thần sát thì an 11 cát thần, 47 hung sát, tổng cộng 58 thần sát.
TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập đều có ghi phương pháp an lưu niên tam cát thần "Thiên Đức, Nguyệt Đức, Giải Thần", phà phi thiên tam sát "Tấu Thư, Tướng Quân, Trực Phù".
(7) Thiên Không và Địa Không:
Trong TVĐS toàn thư lấy địa chi giờ sinh đi nghịch và đi thuận để an Thiên Không, Địa Kiếp. Còn TVĐS toàn tập thì lấy Thiên Không của TVĐS toàn thư gọi thành Địa Không; còn lấy địa chi của năm sinh an một sao khác trước Thiên Không một cung. Do đó có thể biết, Thiên Không và Địa Kiếp của TVĐS toàn thư chính là Địa Không Địa Kiếp của TVĐS toàn tập; còn Thiên Không của TVĐS toàn tập khác với Thiên Không của TVĐS Toàn Thư.
Có một số sao thần sát trong hai cuốn đều có cách an và có giải thích (như Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp, Hóa Kị, Thiên Thương, Thiên Sứ, Thiên Hình, Thiên Riêu, Thiên Khốc, Thiên Hư); có một số sao thần sát trong 2 cuốn đều có phương pháp an nhưng không có giải thích (như Thiên Hỉ, Tam Thai, Bát Tọa, Đài Phụ, Phong Cáo, Long Trì, Phượng Các, Tiệt Không, Tuần Không); có một số sao trong TVĐS toàn thư không có, nhưng trong TVĐS toàn tập có phương pháp an (như Thiên Tài, Thiên Thọ, Thiên Quan, Thiên Phúc, Ân Quang, Thiên Quý, Cô Thần, Quả Tú, Kiếp Sát, Hoa Cái, Đào Hoa Sát, Đại Hao, Phá Toái, Địa Không).
Điều đáng ngạc nhiên là, có một số sao như Giải Thần, Thiên Vu, Phỉ Liêm, Thiên Nguyệt, Âm Sát, trong TVĐS toàn thư lẫn TVĐS toàn tập đều không có, nhưng hiện nay sách TVĐS nào cũng thấy.
Hai Bộ Sách TVĐS toàn thư và TVĐS toàn tập có một điểm chung, đó là đều đề cập đến La Hồng Tiên. Theo truyền thuyết, vào đời Minh, La Hồng Tiên từng chỉnh lí Đẩu Số, nhưng về sau sự phát triển cũng không có chứng cứ rõ ràng. Hai bản TVĐS toàn thư và toàn tập lưu truyền trong dân gian vào khoảng cuối triều Minh đầu triều Thanh, nhưng thời bấy giờ dường như ít người xem trọng TVĐS, cho nên phát triển khá chậm, trong khi đó khoa Tử Bình lại rất thịnh hành. Lúc sách TVĐS được đưa vào Đạo Tạng, Đẩu Số vẫn im hơi lặng tiếng (xét về mặt văn bản). Mãi đến năm 1911, TVĐS tuyên vi của Quan Vân Chủ Nhân (thuộc Bắc Phái) mới tái hệ thống, chú giải, bình luận TVĐS một lần nữa.
Năm 1950, xuất hiện hai nhân vật khá quan trọng trong lịch sử phát triển TVĐS, đó là Thiết Bản Đạo Nhân và Hà Mậu Tùng (cao thủ Tam Hợp Phái). Tư tưởng của một phái muốn phát huy ảnh hưởng, thu nhận môn đồ, trước thư lập thuyết là điều bắt buộc, nhưng trong số môn đồ phải có người dương danh thiên hạ mới càng quan trọng, trong 2 người kể trên, Hà Mậu Tùng lão tiên sinh đúng là có đủ 2 điều kiện này. Đại đệ tử của ông là Tử Vân, nhờ trước thư lập thuyết, nói những điều tiền nhân chưa nói, ngày nay đã trở thành nhất đại tông sư trong giới nghiên cứu đẩu số.
Trong khoảng thập nhiên 50 của thế kỷ 20, TVĐS danh gia Lục Bân Triệu (cao thủ Tam Hợp Phái) đến Hương Cảng công khai trương bảng đoán mệnh, độ chính xác khá cao khiến ông nổi tiếng như cồn, ông còn mở lớp dạy, về sau những bài giảng của ông được xuất bản với tên Tử Vi Đẩu Số Giảng Nghĩa. Trong thời kì này còn có một người nổi danh trước Lục Bân Triệu là Trương Khai Quyển, biệt hiệu "Vô Muộn Trai Chủ", với cuốn Tử vi Đẩu Số mệnh lý nghiên cứu, được Vương Đình Chi xưng tụng là cao thủ Bắc Phái.
Vào thập niên 60 của thế kỷ 20, trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan xuất hiện một người tên là Trương Diệu Văn, đại tông sư của "Thái Phái". Vốn là tiến sĩ kinh tế học, vào khoảng những năm 1966 trở về trước ông ở Nhật Bản dạy học, tự xưng mình là truyền nhân đời thứ 13 của Minh Đăng phái (tức Thấu Phái). Năm 1967 ông trở về Đài Loan, mang TVĐS của Thấu Phái truyền bá tại Đài Loan. Phái Đẩu Số này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của TVĐS ở Đài Loan giai đoạn này. Các bản dịch Đẩu Số từ tiếng Nhật sang tiếng Hán cũng dần dần xuất hiện, thời kì đầu có A Bộ Thái Sơn, về sau có Bảo Lê Minh, v.v... đều là các tác gia thuộc nhóm nghiên cứu đẩu số Đông Dương.
Đương thời, có rất nhiều bản dịch TVĐS của A Bộ Thái Sơn xuất hiện ở Đài Loan, cho nên ông khá nổi tiếng. Ông là người trong thấu phái, Đẩu Số của ông đương nhiên theo phương pháp "quá tiết khí".
Tương truyền người sáng lập Thấu Phái là một phụ nữ đời Minh tên Mai Tố Hương.
Thấu phái gọi Đẩu Số là "Tử Vi chiêm tinh thuật"; phái này thần thoại hóa các "tinh diệu", lấy bối cảnh cuộc chiến tranh giữa nhà Ân và nhà Chu thời viễn cổ, mang các nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa gán vào các tinh diệu. Đặc điểm của Thấu phái là vấn đề "quá tiết khí" khi khởi mệnh bàn. Đến khoảng giữa thập niên 80 của thế kỉ trước, do giới nghiên cứu Đẩu Số ngày càng tăng và càng chuyên sâu hơn, đương thời, quan điểm này của Trương Diệu Văn bị khá nhiều học giả Đẩu Số công kích. Do đó Thấu Phái Đẩu Số lưu truyền đến ngày nay ko còn như trước kia, phần lớn đều bỏ không dùng nguyên tắc "quá tiết khí".
Khoảng giữa thập niên 70 của thế kỉ trước, TVĐS ở Đài Loan dần dần thịnh hành. Trong số các nhân vật xuất hiện vào thời kì này có một người đáng được đề cập, đó là Lương Tương Nhuận, ông là lão tiền bối trong giới nghiên cứu Tử Bình, các tác phẩm về TVĐS của ông cũng rất có giá trị, phần nhiều viết chung với bà Lương Thiên Lan.
Trước năm 1981, trong giới nghiên cứu Đẩu Số còn có ba người khác nổi tiếng khác là Lục Dị Công, Khổng Nhật Xương, Chung Trực Lâm.
Có thể nói trước thập niên 80 của thế kỉ 20, TVĐS giống như đang ở trong thời kì tiềm phục, cho đến năm 1982, TVĐS tân thuyên của Tuệ Tâm Trai Chủ ra đời, giới nghiên cứu Đẩu Số mới nổi cơn sóng gió mạnh kéo dài hơn 10 năm. Trong quá trình này, nhiều phương diện bí truyền ẩn tàng của TVĐS đã được đưa ra ánh sáng.
Người gây ảnh hưởng sớm nhất ở giai đoạn này có thể nói là Tuệ Tâm Trai Chủ, tên tuổi của bà có ấn tượng rất sâu trong phần lớn độc giả ở Đài Loan và Hương Cảng. Trước năm 1980, người học Đẩu Số phần nhiều tham dự các lớp học nhỏ là chính, nhưng từ lúc Tuệ Tâm Trai Chủ bắt đầu bàn luận Đẩu Số trên báo, giống như đã thổi vào Đẩu Số một luồng sinh khí mới. Tuệ Tâm Trai Chủ đã sử dụng ngôn ngữ thường ngày dễ hiểu để giải thích Đẩu Số, khiến những điều cổ truyền khó hiểu trở thành rất dung dị. Bộ sách TVĐS tân thuyên có thể nói là rất thành công, về sau bà viết thêm nhiều cuốn khác cũng đều thành công. Sự thành công của bộ sách TVĐS tân thuyên không phải là ngẫu nhiên, nó đã làm cho độc giả thời ấy có thể tự lập mệnh bàn và tự mình phân tích từng cung. Nhưng do bà dùng cách giải đoán từng cung cho dễ hiểu, nên cũng khiến người đọc dễ hiểu lầm về kĩ thuật và quy tắc luận đoán Đẩu Số. Tóm lại, đối tượng của bà là đại chúng phổ thông, vì vậy có mặt hạn chế, không đi sâu vào sự tinh tế của Đẩu Số, nhưng cũng không phải là không có tuyệt kĩ.
Từ lúc Đẩu Số bắt đầu được xem trọng, nhiều tác phẩm Đẩu Số ra đời, thuyết của các nhà trăm hoa đua nở. Một số thì giảng giải tâm pháp cổ truyền, một số thì chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, một số thì thần bí hóa, mang Đẩu số gộp chung với tôn giáo, một số khác thì tuyên bố mình được truyền bí pháp chép tay của tiên sư, v.v... Trung số này đáng chú ý có những người sau đây:
- Ngô Tình, đáng tiếc sách của ông này hầu như đã tuyệt bản, rất khó mua trên thị trường. Ông phê bình Đẩu Số cổ truyền rất nghiêm túc. Một số đặc điểm trong sách của ông như: Phần lớn các sao nhỏ trong Đẩu Số ông đều không dùng tới, Thiên Thương và Thiên Sứ theo thuyết cổ truyền có thể đoán sinh tử, ông cho rằng chỉ hù dọa người ta; thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm" cũng không dùng, v.v... Thuyết của ông toàn bộ trọng điểm nằm ở sự biến hóa của tứ hóa, cho rằng Hóa Lộc và Hóa Kị mới là nhân tốt quyết định. Đồng thời ông còn nhấn mạnh mình có "bí kíp ngàn năm bất truyền". Thuyết của ông ngày nay ảnh hưởng mạnh trong lưu phái Phi Tinh trong Bắc Phái TVĐS.
- Sở Hoàng, phải kể là người đầu tiên công khai phương pháp bày bố tinh bàn trên bàn tay, trước ông, các sách Đẩu Số phần lớn đều chỉ căn cứ vào "cổ quyết". Ông trước thư lập thuyết, chủ trương Đẩu Số và Tử Bình phối hợp tham chiếu, trong Đẩu Số còn ứng dụng một số nguyên lí đoán mệnh của Tử Bình. Trong thuyết tương sinh tương khắc, tác giả còn sáng tạo ra lí luận "Lạp Hoàn", dùng để giải thích vận tác giữa các tinh diệu với phép tắc bát tự, cũng được cho là thành một pháo.
- Chính Huyền Sơn Nhân, là người sáng lập ra thuyết "thiên địa nhân TVĐS", nói Đẩu Số là do "thần tiên" dạy cho ông. Chính Huyền Sơn Nhân viết rất nhiều sách Đẩu Số, trong đó nói nhiều về quá trình và tinh thần cầu đạo của ông. Chính Huyền Sơn Nhân mang các sao trong TVĐS liên hệ với chư vị tiên nhân ở trên trời, thần bí hóa TVĐS đến cực độ. Đồng thời, chủ trương "Cung can phi xuất tiên thiên tứ hóa tinh".
- Phan Tử Ngư trương bản đoán mệnh khá sớm, học trò rất đông, trước tác cũng không ít, phải kể là rất thịnh hành một thời. Đặc sắc trong các trước tác Đẩu Số của ông là lời đoán mệnh phán như đinh đóng cột.
- Tử Vân là học trò của Hà Mậu Tùng, một cao thủ Tử Vi Đẩu Số thời kì đầu. Năm 1987, ông xuất bản cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, làm chấn động giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan và Hương Cảng. Trong cuốn Đẩu Số dữ nhân sinh, Tử Vân tự thuật quá trình nghiên cứu Đẩu Số của mình, và thuyết minh quan điểm của ông về tính chất và ứng dụng của 12 cung. Trong thời gian này, sách Đẩu số liên tục được xuất bản với số lượng lớn, nhưng phần nhiều chẳng có cống hiến gì. Riêng sách của Tử Vân tiên sinh được cho là đã bổ sung những chỗ trống trong Đẩu số cổ truyền. Ngày nay trong giới nghiên cứu Đẩu Số, người được tôn là bá chủ về phương diện kĩ thuật luận đoán chính là Tử Vân tiên sinh. Nhất là vào năm 1990, trong Đẩu số luận hôn nhân, Tử Vân tiên sinh đã đưa ra thuyết "Thái Tuế nhập quái pháp" và nguyên tắc "Tương khê", đã giải quyết vấn đề kĩ thuật mà cả trăm năm nay không cách nào giải thích, nhờ vậy cũng đã giải quyết chỗ khiếm khuyết trong bộ Hiện đại Tử Vi của nhóm Liễu Vô Cư Sĩ. Thuyết này đã biết Đẩu Số thành một phương pháp chỉ ra xu thế và phương hướng của mệnh vận; từ đó Đẩu Số có cách để phân biệt những người sinh ra cùng một giờ có mệnh vận khác nhau. Đây đúng là một bước đột phá trong lịch sử phát triển TVĐS.
Vai trò của Tử Vân tiên sinh rất quan trọng trong hệ phái Tam Hợp. Về cơ bản, phương pháp luận Đẩu Số của ông cũng tương tự như Vương Đình Chi, lấy truyền thống làm chính tông, làm khung giá cho phép luận đoán, lấy bối cảnh thực tế để diễn giải, tổng hợp cổ kim, và rất chú trọng phương diện tâm lí, sinh lí, nhân tính để ứng dụng trong luận đoán.
Trước năm 1989, Tử Vân đã cho ra đời bộ Đẩu Số luận danh nhân, các sách này đã gây sự chú ý trong giới nghiên cứu Đẩu Số, va đã có uy danh. Năm 1990, trong lúc thị trường chứng khoán của Đài Loan đang từ thịnh chuyển thành suy, phong trào đầu tư vào cổ phiếu bị giảm mạnh, Tử Vân lại hoàn thành cuốn Đẩu Số luận cầu tài, sách này đưa ra phương pháp luận đoán mới, bổ sung phép đoán của tiền nhân, cho rằng, hễ tiền có được nhờ đầu cơ hay đầu tư, cần phải xem cung phúc đức. Tức là, tiền kiếm được không do sức lực hay trí lực của bản thân thì không xem ở cung tài bạch. Trong cuốn đẩu số luận hôn nhân, về phương diện lí luận và thực tế luận đoán của Đẩu Số, đều có sự phát triển mang tính đột phá.
Ngày nay, địa vị của Tử Vân trong giới nghiên cứu Đẩu Số ở Đài Loan được xếp ngang hàng với Vương Đình Chi của Trung Châu Phái ở Hương Cảng. Học trò của ông cũng rất đông, trong số đó nổi tiếng nhất là Liễu Vô Cư Sĩ và Tuệ Canh. Ngày nay ở Đài Loan tên tuổi Liễu Vô Cư Sĩ cũng khá lớn.
Trong số những người còn lại phải kể đến Khôn Nguyên và Vu Ngoan Dã Nông, thực ra đây chỉ là một người, "Vu Ngoan Dã Nông" là biệt danh mà sau này ông ít dùng đến. Khôn Nguyên có nhiều bút danh như Hoàn Hữu Thủy Ngân, Lam Thần, Trịnh Giả Học. Trước tác Tử Vi Đẩu Số của ông có bộ Tử Vi Đường Áo khá nổi tiếng.
Kế đến là Phál Quảng Cư Sĩ và Nam Bắc Sơn Nhân, trong hai người thì Pháp Quảng Cư Sĩ trước tác nhiều hơn, ông có một bộ tùng thuy Truy Tung Chính Thống Đẩu Số, khá thịnh hành vào thời điểm đó, hơn nữa còn có tính liên tục khá mạnh, kéo dài cho đến ngày nay. Còn Nam Bắc Sơn Nhân, tên thật là Đồng Bành Niên, đương thời lấy danh nghĩa "Chính Tông Bác Phải TVĐS" để đoán mệnh, tác phẩm xuất bản không nhiều, chỉ có một quyển Chính Tông TVĐS toàn thư mà thôi.
Bắt đầu từ năm 1984, TVĐS bước vào thời đại mới, có thể quy công cho một nhóm người, trong số đó có 2 nhân vật trung tâm là Hoàng Trung Lâm, và Chu Vi. Nhờ nỗ lực của họ, Đẩu Số hiện đại hóa dần dần rõ nét, lí thuyết mệnh lí mang tính khoa học bắt đầu được xây dựng. Hoàng Trung Lâm có bút danh là Liễu Vô Cư Sĩ, vốn là một kí giả, về sau ông nghiên cứu mệnh lí và bắt đầu viết sách đẩu số vào năm 1981. Năm 1984 ông viết cuốn Tử Vi luận mệnh, làm cho ông có tiếng nói trong giới nghiên cứu đẩu số. Cuốn sách này khá thành công, sau đó trong khoảng thời gian từ năm 1985 đến 1986 ông đã hoàn thành bộ sách quan trọng 7 quyển là Hiện đại tử vi, đây là bước đầu tiên quan trọng trong công cuộc hiện đại hóa Đẩu Số.
Nội dung cuốn Tử Vi luận mệnh chủ yếu là phê phán các tác phẩm của các đại sư thời đó, và từ những luận chứng của mình, tác giả đã đưa ra quan niệm và kĩ thuật luận mệnh mới. Đương nhiên lúc đó các đại sư cũng phản kích dữ dội. Sau cuốn TV mệnh luận, LVCS trở thành nhân vật ưu tú mới trong giới nghiên cứu Đẩu Số. Nhờ phương pháp luận và mô thức khảo cứu hiện đại, Liễu Vô Cư Sĩ còn được coi là nhân vật trí thức phát biểu về mệnh lý truyền thống.
Bộ hiện đại tử vi ra đời từ năm 1985 đến 1986, tổng cộng gồm 7 tập. Về tác giả, ngoài Liễu Vô Cư Sĩ, còn có giáo sư Hứa Hưng Trí, thuật sĩ Tuệ Canh, Quách tiên sinh, Tượng Sơn Cư Sĩ, Phi Vân Cư Sĩ,...
Trong bộ hiện đại Tử Vi (HĐTV) có một phần gọi là "Tử Vi quảng trường", tức là phần đăng thư do độc giả gửi đến và giải đáp của các tác giả, đây cũng là một sáng kiến, và cũng là nhân tố khiến bộ sách này có sức ảnh hưởng khá lớn vào lúc đó. Bộ HĐTV mỗi tập đều có đặc sắc, nhất là tập 7, có nhiều quan niệm đáng chú ý. Điều đáng được nhắc đến là nỗ lực hiện đại hóa Đẩu Số của bộ sách này. Trong đó đưa ra quan điểm cần nhấn mạnh tính thời đại trong việc tìm hiểu bản chất của Đẩu Số. Một số vấn đề khác còn đợi sự nỗ lực của hậu học. Phương hướng của phái Hiện Đại là sử dụng logic để khảo nghiệm mệnh lý, từ đó xác nhận khả năng và chỗ hạn chế của đẩu số, đây là bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa đẩu số. Vì trước đó, quan niệm của người luận mệnh đẩu số là: bất kể sự tình nào cũng đều có thể dựa vào mệnh bàn mà đoán ra, dù mệnh tạo có quan hệ với người khác hay không. Nhưng trong bộ HĐTV lại phủ định nguyên tắc bành trướng này, chủ trương rằng, đối với những sự vật mà bản thân mình có thể quyết định được, Đẩu Số mới có thể luận đoán, nếu mệnh tạo không có quan hệ gì với người khác thì không cách nào luận đoán, trừ phi ở trong mối quan hệ với họ. Đây là thành tựu lớn của bộ Hiện Đại Tử Vi, tuy chỉ hoàn thành một nửa trước. Về nửa sau liên quan đến "điều kiện ở trong mối quan hệ" thì phải đợi sư phụ của ông là Tử Vân giảng giải.
Vào tháng 3 năm 1985, trong giới nghiên cứu Đẩu Số xảy ra một sự kiện lớn, đó là sự xuất hiện của bộ sách "thiên cổ bí cấp" gọi là Hoa Sơn Khâm Thiên Tứ Hóa Tử Vi Đẩu Số phi tinh bí nghi, là bí truyền của Tố Tâm Lão Nhân truyền lại cho Sái Minh Hoành. Sự xuất hiện của nó tạo thành một trào lưu cực lớn về sau, ban đầu được rao bán trên tạp chí Tinh tướng với giá một vạn năm ngàn nguyên (đơn vị tiền tệ của Đài Loan), sau giá nâng lên tới ba trăm vạn nguyên.
Phi Tinh phái là một chi của Bắc phái TVĐS cũng nổi rộ lên trong thời kì này, hiện đang rất thịnh hành ở Đài Loan và Trung Quốc lục địa. Đại biểu nổi tiếng hiện nay là Lương Nhược Du mà sự phụ của Lương Nhược Du là Chu Thanh Hà, một cao thủ tiền bối của Phi Tinh Phái, nội dung TVĐS của phái này sẽ được trình bày đầy đủ trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Có nhiều người cho rằng TVĐS Phi Tinh phái là do người cận đại phát minh. Sở dĩ có sự hiểu lầm này, là do họ cứ nghĩ rằng TVĐS phi tinh bí nghi của Sái Minh Hoành là căn nguyên Phi Tinh phái. Rất nhiều người cho rằng TVĐS của Phi Tinh phái là do Sái Minh Hoành tự sáng chế ra.
Thực ra, trước khi TVĐS phi tinh bí nghi lưu truyền rộng rãi, lí luận TVĐS của Phi Tinh phái đã xuất hiện từ lâu. Vả lại, Phi Tinh Phái cũng có nhiều phân chi, Sái Minh Hoành cũng là một chi phái trong số đó, nhưng là phái được nhiều người biết đến vào thời kì này.
Ngoại trừ các bậc tiền bối như Ông Phúc Dụ, Phương Ngoại Chân, Từ Tăng Sinh, và Lương Nhược Vọng (học trò Sái Minh Hoành)... còn có một số người ít ai biết đến ở Trung Quốc lục địa, nhưng cũng là cao thủ truyền dạy theo truyền thống Bắc Phái Phi Tinh. Ngay như ở Đài Loan, chỉ nói số đồng môn cùng lứa với Sái Minh Hoành, ít nhất cũng có năm người. Hơn nữa, Sái Minh Hoành trong quyển 1 của Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi cũng có nói, "bí nghi" là do ông tập đại thành truyền thống Phi Tinh TVĐS. Cho nên, phải nói "bí nghi" là sở học của ông được truyền thừa mới đúng. Ví dụ như "Phi Tinh chuyển yết quan quyết" trong Khâm Thiên tứ hóa TVĐS phi tinh bí nghi (Phan Tử Ngư gọi là "Phi Yến Quỳnh Lâm", ông được bí truyền từ TQ lục địa) đã lưu truyền rộng rãi trước khi "bí nghi" xuất hiện, rất nhiều phái xem nó là "bí bảo".
Tử Vi đẩu số của bắc phái Phi Tinh (hay còn gọi là Tứ Hóa Phái) có nhiều truyền thừa khác nhau, lí luận của các chi hệ đều đại đồng tiểu dị. Đương nhiên, trong đó cũng có xuất hiện tư duy mới. Như "Đồng bộ đoán quyết" của Phương Ngoại Nhân chính là phát hiện độc đáo, nhưng nếu nghiên cứu tỉ mỉ nội chung của nó, chúng ta sẽ phát hiện kết luận của Phương Ngoại Nhân không tách rời lí luận cơ bản của Bắc Phái Phi Tinh, Phương Ngoại Nhân cũng nói thẳng, "Đồng bộ đoán quyết" chỉ là suy luận ra từ nền tảng truyền thống, chứ không phải là phát minh nguyên lý gì.
Tử Vi Đẩu Số đang trong giai đoạn hưng khởi, sự xuất hiện một nguồn tư liệu mới đã gây thêm hứng thú cho giới nghiên cứu Đẩu Số. Truyền thống Bắc Phái Phi Tinh đặc biệt ở chỗ vận dụng tứ hóa khác với truyền thống của Tam Hợp Phái. Phái này cho rằng sau khi lập xong mệnh bàn tiên thiên, trong 12 cung đều có thiên can riêng, thiên can của cung mệnh ngoại trừ dùng để tương phối với địa chi (nạp âm) để tính toàn bày bố 14 chính tinh, nó còn được dùng để bày ra một bộ tứ hóa, như vậy mệnh bàn tiên thiên sẽ thêm một tầng biến hóa, việc luận đoán cũng theo đó mà thâm sâu hơn. Càng tinh vi hơn là, không phải chỉ có cung mệnh phi xuất một bộ tứ hóa, mà 11 cung còn lại cũng vậy.
Trước tác của các cao thủ nổi tiếng trong Bắc Phái Phi Tinh gồm có Sái Minh Hoành, Tử Dương, Từ Tăng Sinh, Phương Ngoại Nhân, Khuyến Học Trai Chủ, Lương Nhược Du,v.v... đều có cống hiến đã kể. Phương pháp luận mệnh của họ khá phức tạp, nếu có điều kiện các bạn nên tìm hiểu trong Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tứ Hóa Phái của cùng tác giả Nguyễn Anh Vũ.
Cũng trong khoảng thời gian này Vương Đình Chi xuất hiện và tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu, công nhận Tử vi Đẩu Số Giảng Nghĩa của Lục Bân Triệu là truyền bản của Khâm Thiên Giám Bí Cấp, và tiết lộ nội dung bí truyền Tử Vi Tinh Quyết của môn phái Trung Châu. Ảnh hưởng của Vương Đình Chi khá lớn ở Hương Cảng, về sau lan rộng qua Đài Loan, Singapore, Bắc Mĩ, v.v... kéo dài cho đến ngày nay. Phương pháp luận mệnh của ông là nội dung chủ yếu của bộ Trung Châu Tử Vi Đẩu Số - Tam Hợp Phái mà chúng tôi biên soạn để giới thiệu đến bạn đọc ở đây.
Nhờ sự thành công của bộ Hiện Đại Tử Vi, một số tác giả cũng bắt đầu viết sách, như Đường Sơn Dật Sĩ, Tuệ Canh, v.v... Trong số đó, các công trình của Tuệ Canh Thuật Sĩ là có ảnh hưởng nhất. Tác phẩm của Tuệ Canh là Tử Vi Đẩu Số khai vận toàn tập, trong đó quan niệm và ứng dụng của 12 cung, cho tới tính chất các tinh diệu đều được ông giảng giải rất tinh tế. Đây là sự kiện xảy ra sau năm 1988.
Cũng trong khoảng thời gian này, có một số học giả mới cũng trước thư lập thuyết, trong đó cũng có vài người đáng chú ý, như Ngô Đông Tiều trong Đẩu số tân quan niệm, Trần Thế Hưnh trong Tử Vi Đẩu Số đạo luận, Phúc Canh trong Đẩu Số tâm lí học, Tượng Sơn Cư Sĩ trong Thiên Tinh Đẩu Số bí cấp và Thiên Tinh Đẩu Số chân cơ điển phạm. Nhưng sách này phần lớn thảo luận về đặc tính cơ bản của tinh diệu và các cách cục, cũng có thành tựu.
Trong thời gian này, Liễu Vô Cư Sĩ mang Tử Vi Đẩu Số tuyên vi và Tử Vi Đẩu Số toàn tập ra chú giải; sau đó ông còn đem hết tâm lực ra để hệ thống hóa phương pháp Đẩu Số của mình, lúc này Liễu Vô Cư Sĩ đã dần dần có những quan điểm khác với sư phụ của mình là Tử Vân. Ông đề xuất một số điều, ví dụ như: Bỏ Lộc Tồn, Thiên Mã và các sao cấp 2; ông còn đề xuất: phế bỏ Hóa Quyền và Hóa Khoa, tứ hóa chỉ còn Hóa Lộc và Hóa Kị; ngoài ra còn có một số nguyên tác "khoa học thích dụng tính".
Lúc này TVĐS lộ rõ sức quyến rũ của nó. Ngày nay, có thể nói TVĐS chia thành hai dòng chính:
- Một là, chủ yếu lấy tinh diệu để luận đoán, gọi chung là Tam Hợp Phái (hay Nam Phái). Trong số các chi lưu thuộc Tam Hợp Phái, thì phái Trung Châu Vương Đình Chi là có hệ thống hoàn bị nhất.
- Hai là, chủ yếu lấy "tứ hóa" để luận đoán, gọi chung là Tứ Hóa Phái (hay Bắc Phái). Trong số các chi lưu thuộc hệ phái Tứ Hóa, thì Khâm Thiên Môn là có hệ thống nghiêm cẩn nhất.
Riêng tại Trung Hoa lục địa, trào lưu nghiên cứu thuật số nói chung, TVĐS nói riêng, cũng khá rầm rộ. Các lưu phái Tử Vi Đẩu Số ở đây phần lớn đều có khuynh hướng tổn hợp hai dòng chủ lưu kể trên. Đáng kể nhất có:
- Tử Vi phái do Vũ Quảng Thịnh sáng lập, chủi trương dung hợp tinh hoa của các phái hệ, với nguyên tắc "Đơn giản và trực tiếp thâm nhập chủ đề". Lí luận đẩu số của ông rất có giá trị tham khảo.
- "Kì Môn Phái", đại biểu hiện nay là Đại Đức Sơn Nhân với bộ Tử Vi Đẩu Số tinh thành, v.v... Ông chủ trương lấy các nguyên tắc của bản môn làm nền tảng, và cũng dung hợp tinh hoa của các phái để luận đoán.
(1) Phòng không theo quy tắc không nên làm phòng ngủ. Phòng không theo quy tắc không được dùng làm phòng ngủ chính của hai vợ chồng, nếu không sẽ có hậu quả là cưới lâu mà không có con
(2) Diện tích phòng ngủ không được quá lớn hoặc quá nhỏ.
(3) Đầu giường không được có dầm ngang, tức là “dầm ngang đè đầu” mà dân gian vẫn thường gọi.
(4) Đầu giường không được để trống.
(5) Đầu giường không được treo đồ vật liên quan đến tôn giáo hay tranh chữ tiêu cực; hai bên đầu giường không được treo tranh phụ nữ đẹp.
(6) Gương không được treo huớng về giường ngủ.
(7) Lối vào chỗ cửa phòng ngủ không được để quá nhiều đồ lặt vặt để tránh tắc nghẽn.
(8) Không được để quá nhiều đồ dùng kim loại hay hoa cỏ giả; không được để chậu cá trong phòng ngủ; không được chất đầy đồ cổ, đồ dùng trong nhà hay đồ lặt vặt.
(9) Cửa phòng ngủ không được đập vào cửa khác (ví dụ như cửa phòng tắm).
(10) Cửa phòng ngủ không được hướng thẳng vào đuôi giường.
(11) Cửa phòng ngủ không được đốĩ diện trực tiếp với cửa phòng vệ sinh; cửa phòng tắm đối diện trực tiếp với đầu giường, giữa giường hay cuối gịường đều không nên.
(12) Vừa mở cửa đã nhìn thấy cửa sổ là không tốt.
(13) Phòng ngủ đối diện với cửa phòng bếp, không có lợi cho vận nhà.
(14) Cửa phòng ngủ tốt nhất không được đối nhau, đặc biệt là không được đối lệch, như vậy gọi là Môn đao sát.
(15) Từ cửa sổ phòng ngủ nhìn ra ngoài thấy ăng ten hay cột điện cao thế đều không tốt.
ẻ bên ngoài cửa hàng, thông qua việc vận dụng tính độc đáo của dáng vẻ bên ngoài cửa hàng để tuyên truyền bản thân, thu hút khách hàng.
Cửa hàng hoạt động kinh doanh buôn bán chủ yếu tập trung ở nơi phố xá sầm uất, náo nhiệt. Phố xá sầm uất có nhiều cửa hàng, là một lĩnh vực hoạt động cạnh tranh hàng hóa vô cùng khốc liệt. Phải nghĩ xem trong khu vực cạnh tranh này, đạt được thành công trong hoạt động kinh doanh hàng hóa, đầu tiên phải tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng, phải khiến cho hình dáng bên ngoài cửa hàng có một trường phái riêng trên thương trường, từ đó mà áp chế đối phương.
Chúng ta có thể thấy: Một cửa hàng có thiết kế bên ngoài bình thường, không có gì nổi bật, hoặc là dáng vẻ bên ngoài cửa hàng cũng giống với phong cách của các cửa hàng bên cạnh thì cửa hàng đó không đạt được hiệu quả kinh doanh hơn các cửa hàng khác, nhiều lắm thì cũng chỉ bằng các cửa hàng kia. Những cửa hàng này mọc lên như nấm và sẽ không có được điểm nổi bật trước khách hàng, cho nên khó có thể chiếm được địa vị trên thương trường khi mà hàng hoá cạnh tranh kịch liệt. Vì vậy, thiết kế tạo dáng vẻ bên ngoài cho cửa hàng phải có điểm đặc sắc, như vậy không chỉ là một cách thu hút khách hàng mà quan trọng hơn nó còn là một kế sách giúp kinh doanh tiêu thụ hàng hóa.
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 9 âm lịch.
Địa điểm: vùng non Tản, Ba Vì, Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thánh tản.
Nội dung: Lễ hội đả ngư (đánh cá) - lễ hội truyền thống của vùng non Tản được tổ chức vào ngày 15/9 hàng năm, bắt nguồn từ một truyền thuyết về lần Đức Thánh Tản kéo vó trên sông Tích. Chuyện kể rằng, có một hôm Thánh Tản giả dạng thành một lão nông đi dạo trên sông Tích, đến đoạn giữa Cầu Vang (thuộc xã Đường Lâm) và Mả Mang (thuộc phường Trung Hưng) thấy một ông già ngồi kéo vó. Lúc trời đứng bóng, ông già mở cơm nắm muối vừng rồi mời Ngài cùng ăn. Cảm kích trước tấm lòng của ông, Ngài hỏi thăm và muốn giúp ông việc kéo cá. Ông già than phiền vì từ sáng đến giờ chả được con nào. Ngài vui vẻ xin ông kéo thử một mẻ. Thật kỳ lạ, khi cầm vó kéo lên ông già thấy bao nhiêu là cá, cá lớn, cá nhỏ thi nhau quẫy đành đạch làm ông hoa cả mắt. Ông sung sướng vội vàng bắt cá vào giỏ. Hai người vừa bắt vừa đếm được 99 con. Thấy đáy vó còn duy nhất một con cá trê đang mang bụng chửa, ông già đã nghe lời Ngài thả nó về sông để làm phúc. Rồi vì mải vui vì được nhiều cá, khi ngoảnh lại ông già đã không thấy vị khách qua đường đâu. Nhớ lại phong độ đạo mạo và việc làm dị thường của người khách lạ, ông biết rằng mình vừa được gặp Thánh nhân nên vội về làng loan báo tin vui. Từ đấy hàng năm, dân trong vùng lại mở hội đánh cá trên trên sông Tích, chọn 99 con cá làm lễ vật dâng lên Thánh Tản để cảm tạ ân đức của Ngài. Lại nói chuyện con cá trê, sau khi được phóng sinh đã sinh nở đầy đàn. Nhớ ơn cứu mạng, khi sắp chết, cá trê nọ đã cố bơi về gần đền Và, ngoảnh đầu bái lạy. Nơi này về sau gọi là xóm Trê.
Lễ hội Rằm tháng Chín ở đền Và hiện chỉ có năm khu phố của phường Trung Hưng là: Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai và Ái Mỗ tham gia. Từ ngày 14, dân các khu phố trên mang theo những dụng cụ đánh bắt cá ra sông Tích, đoạn từ cầu Vang đến Mả Mang, tổ chức đánh bắt cá tập thể để làm tiệc tế Thánh. Quy định: Đánh được cá trắng và là cá to thì nộp cho làng, còn cá đen hoặc cá nhỏ thì lấy. Lại quy định số cá làm tiệc tế thánh phải đủ 99 con; vì vậy, thời gian không kể lâu mau, khi nào đủ 99 con, cuộc đánh bắt mới dừng lại, những ai có cá trong số 99 con được chọn để tế thánh là người trong năm làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn. Theo quan niệm dân gian đây là con số thiêng như là có 99 núi Voi quay đầu về đền Hùng, 99 núi Voi quay về Chùa Hương... Con số 99 ở hội đả ngư còn nhắc chuyện con cá trê mang bụng trứng được phóng sinh năm xưa. Nghĩa cử ấy hợp với việc bảo tồn nguồn thủy sản ngày nay. Tiệc cá để tế thánh bao gồm các món: luộc, nướng, nham, gỏi và được bày làm mười mâm, một mâm cúng ông Táo, còn chín mâm chia làm ba, bày trước ba ngai Tam vị đức thánh Tản. Một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần, sau khi tế xong, mọi người lại cùng nhau vui vẻ thụ lộc. Đặc biệt, trong ngày này cỗ cúng ở đây không có muối và sau khi thụ lộc xong, có tục ăn trầu không có vôi, nên mới có câu: "Hội Đền Và trầu không vôi, xôi không muối".
Hội đả ngư là nét đẹp văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng xứ Đoài bởi ngoài mục đích dựng lại tích Thánh Tản kéo vó, lễ hội đả ngư còn mang tính khuyến ngư cũng như giữ gìn môi trường sinh thái vùng sông Tích và như lời nhắn gửi đến các ngư dân rằng: khai thác, đánh bắt phải đi đôi với bảo tồn, phát triển để sông biển Việt Nam mãi mãi là nguồn lợi vô tận của nước nhà.
Tuổi Tỵ
Năm 2016, người tuổi Tị vốn lâm cục diện Hình Thái Tuế. Bước sang tháng 11, là tháng có quan hệ tứ hành xung, hung vận càng thể hiện rõ ràng. Công việc đối diện với nhiều thách thức, chuyện rắc rối và cả cạm bẫy, vận tiểu nhân nhiều. Chỉ cần bản mệnh phán đoán sai lầm, hành sự thiếu chín chắn là y như rằng bị người khác soi mói, gây điều phiền nhiễu. Trong tháng, phàm làm những việc gì quan trọng, tuổi Tị đều phải suy nghĩ kỹ càng, toan tính trước sau. Có như thế mới an toàn vượt qua tháng hung hại. Đây chưa phải là thời điểm lý tưởng tiến hành khởi nghiệp hay thay đổi công việc.
Trái lại, vẫn nên lấy ổn định làm chủ. Địa chi tương xung, vận trình tháng cát hung đan xen, trong cát có hung rình rập. Công việc biến đổi mạnh, trở lực lớn, dễ phạm sai lầm, mệnh chủ nên làm việc tập trung cao độ, tỉ mỉ, đại kị cách làm qua loa, nửa vời. Dù là người làm công ăn lương hay ông/bà chủ, các mối quan hệ xã giao trong tháng gặp trở ngại, trên dưới bất nhất, không đồng tâm hiệp lực phấn đấu vì mục đích chung. Càng như thế, mọi sự càng trở nên rắc rối. Nên nhớ, “lùi một bước biển rộng trời cao”, tiết chế cảm xúc để cơn nóng giận không gây rắc rối hoặc sai lầm ngớ ngẩn. Đặc biệt lưu ý, những ai sinh năm 1989 cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đón nhận biến động lớn trong công việc. Sự đã rồi, có lo lắng hay tiếc nuối cũng không cứu vãn được. Nhưng nếu suy nghĩ tích cực và thoáng hơn, mọi sự kết thúc đều hàm chứa sự khởi đầu, bạn sẽ sớm tìm ra hướng đi phù hợp.
Tuổi Ngọ
Theo tử vi tháng 11, hung tinh Tang Môn xuất hiện mang theo dấu hiệu ức chế về mặt tinh thần. Nó khiến người tuổi Ngọ cảm thấy áp lực đầy mình, làm gì cũng như bị vây hãm, trói buộc, không thể tách ra được. Công việc trì trệ, tiến trình phát triển ì ạch, nhất là khi mệnh chủ lại không có chí tiến thủ, nên làm việc nửa vời, rất dễ bỏ cuộc giữa chừng. Vì thế, trong tháng không nên tiến hành những việc trọng đại, kẻo sẽ càng rối ren, phiền phức, tỷ lệ thành công không cao. Trong tình hình rắc rối bủa vây thế này, đòi hỏi người tuổi Ngọ cần suy nghĩ tích cực, lạc quan hơn. Khi xử lý bất cứ sự việc nào, đừng để tình cảm lấn át lý trí, hãy đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nghĩ thay cho họ. Đồng thời, dành thời gian để củng cố các mối quan hệ xã giao, tranh thủ sự giúp đỡ của quý nhân để vực dậy bản thân cũng như con đường công danh, sự nghiệp của chính mình.
Với những ai còn đang đi học, vận trình chững lại, chưa có sự đột phá bất ngờ nào. Thành tích học tập có phần giảm sút. Bản mệnh khó tập trung vào bài vở, khó nắm bắt trọng tâm vấn đề, đôi khi đưa ra những cách làm, lời giải sai, ảnh hưởng kết quả học hành chung.
Để học tập tốt cần thời gian dài tích lũy, trau dồi kiến thức, không được nóng vội. Mệnh chủ nên tìm cho mình phương pháp học mới sao cho phù hợp. Đồng thời, xác định không phải chạy theo thành tích, học những gì bản thân yêu thích và cảm thấy hứng thú là được.
Tuổi Thân
Tuổi Giáp Thân (Thủy, 73 nam La Hầu nữ Kế Đô) : vận xấu tháng khắc kỵ, mọi mưu cầu về tiền bạc chưa thành công như mong đợi, nam mạng mọi mưu sự còn gặp trắc trở chưa thể hạnh thông, gia đạo có tin xa. Nữ mạng mọi mưu cầu về công việc và tiền bạc tuy có quý nhân phù trợ nhưng không như ý. còn trong vận xấu cẩn thận vật có giá trị. Cẩn thiận khi di chuyển và đi xa.
Tuổi Bính Thân (Hỏa, 61 nam Kế Đô nữ Thái Dương) : tháng này đang trong chiều hướng hạnh thông may mắn về tài lộc, nhưng lưu ý còn vận xấu chớ vọng động sẽ dễ dẫn đến thất bại, cứ theo việc cũ làm sẽ gặt hái kết quả như ý. Tình cảm gia đạo an khang. Nữ mạng có âm phù dương trợ công việc và tiền bạc như mong đợi, tháng này có cơ hội tốt nên thực hiện dự tính hay thay đổi công việc, đề phòng tật bệnh về tay chân.
Tuổi Canh Thân (Mộc, 37 nam La Hầu nữ Kế Đô) : vận xấu nên đang trong chiều hướng gặp trắc trở trong mưu sự, nam mạng mọi sự không được hạnh thông, nên tránh đầu tư việc mới cứ việc cũ hay làm việc nhỏ trong tầm tay sẽ có kết quả, không nên tranh chấp mà ân hận. Nữ mạng thuận lợi trong mọi mưu sự, có thể thay đổi công việc, tiền bạc thuận lợi, đề phòng tật bệnh về máu huyết, tình cảm tài lộc an vui.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Cự Môn thuộc âm thủy trong hệ Bắc Đẩu chủ về thị phi và hóa khí là Ám. Hai chữ Ám điệu đã gây cho người đọc hiểu lầm không ít. Cự Môn tự nó không có ánh sáng thì đương nhiên không trở thành tối ám như Nhật Nguyệt hãm.
Cự Môn sở dĩ thành ám vì khả năng cản ngăn che khuất của nó. Vậy thì tính chất căn bản của Cự Môn là một vật gây chướng ngại. Đã gây chướng ngại tại sao nó đứng với Thái Dương ở cung Dần lại thành tốt? Trong vũ trụ duy chỉ có vầng Thái Dương không vật gì có thể che khuất bởi vậy Thái Dương đắc địa không sợ Cự Môn.
Cự Môn đứng bên cạnh Thái Dương biến thành một vật gây phản chiếu cho Thái Dương, đồng thời Thái Dương đã chuyển Cự Môn từ ám thành minh. Ảnh hưởng cản ngăn che khuất của Cự Môn gây khó khăn nhiều nhất là quan hệ giao tế.
Đẩu số toàn thư viết: “Tính chất Cự Môn ngoài mặt thì thế mà trong lòng thì khác, đối với người thân ít hợp, giao du với người mới thì trước yêu sau ghét”. Mấy chữ “Cô độc chi số, khắc bạc chi thần” là nói về giao tế.Cự Môn là sao của thị phi vậy thì Cự Môn “thị” hay “phi”? Vốn là ám điệu như mầu đen chìm dưới đáy biển khó mà biết được thị hay phi.
Trong lối sắp xếp bốn sao Hóa cổ nhân đã đặt để sao Cự Môn không bao giờ đứng cùng Hóa Khoa, nó chỉ đứng bên Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Hóa Kị thôi. Cự đi cùng Hóa Kị lực lượng chướng ngại tăng cao hẳn, bởi vậy Mệnh mà gặp Cự Kị dễ rơi vào khẩu thiệt thị phi, tình cảm khôn khó, hoặc cò bót kiện tụng, ngoài ra còn dễ lên bàn giải phẫu.Cự Môn đứng cùng Hóa Lộc thì lời ăn tiếng nói hoạt bát, tranh biện hay, khả dĩ nói ra tiền vào nghề thầy kiện, vào ngành truyền thông hợp cách. Nhưng bản tính thì không thực, nói cười thân mật mà thiếu tình cảm chân thành.
Cự Môn đứng với Hóa Quyền sách bảo rằng đó là hung mà ra triệu chứng tốt (hung vi cát triệu). Nhờ chướng ngại tạo ra phấn đấu mà nên công nên nghiệp, do chướng ngại mà thành công. Tỉ dụ xã hội biến động bị đẩy vào bước đường cùng, từ cùng sinh biến mà hóa thông. Càng vượt nhiều khó khăn càng thành công lớn. Những người làm chính trị, những người có số hoạnh phát thường thấy Mệnh Cự Môn Hóa Quyền. Cự Môn không cần Hóa Khoa, nhưng gặp Hóa Khoa Cự Môn sẽ tan biến đi tính chất thị phi cố hữu của Cự Môn.Cự Môn đứng một mình ở các cung Tí, Ngọ, Thìn, Tuất và Tỵ Hợi. Cự Môn đứng cùng Thiên Cơ ở Mão và Dậu. Đứng cùng Thiên Đồng ở Mùi, Sửu. Đứng cùng Thái Dương ở Dần Thân.
Trước nói về Cự Môn Thiên Cơ. Thiên Cơ vốn đã động, Cự Môn lại đa biến. Hai sao này thủ Mệnh cuộc đời biến động nhiều và có tài soay sở, tuy nhiên chỉ thành công nếu như giữ được sự an định, nếu cứ mặc sức biến động thì càng lún sâu vào những khó khăn. Cự Cơ trên nguyên tắc là cách làm giàu với điều kiện phải có Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Song Hao (Đại Tiểu Hao), đã Lộc thì không nên Hao.
Cự Môn Thái Dương ở Dần tốt hơn ở Thân. Vì Dần cung TháiDương quang huy cònmạnh trong khi ở Thân Thái Dương đã về chiều sức không đủ. Câu phú “Cự Nhật Dần Thân quan phong hầu bá” không hẳn là vậy.
Cự Môn Thiên Đồng gây phiền nhất cả trên tình cảm lẫn danh phận. Cự Đồng thủ Mệnh số trai khó lập công danh cơ nghiệp, số gái lận đận duyên tình.
Nói về Cự Môn đóng hai cung Tí và Ngọ mà ta thường gọi bằng cách “Thạch trung ẩn ngọc” (ngọc còn ẩn trong đá). Cự Môn Tí Ngọ nếu được Khoa Quyền Lộc thủ chiếu là hợp cách ẩn ngọc, tuy không quyền uy lớn nhưng ắt giàu sang. Cự Môn ở Tí tốt hơn Ngọ. Vì lẽ đóng ở Tí mới được Thái Dương Thìn đắc địa, đóng Ngọ thì Thái Dương ở Tuất đã mất nhiều quang huy. Cự Môn Tí hay Ngọ thì Hóa Lộc tạo nhiều sức mạnh hơn Lộc Tồn.
Các sao của Tử Vi Khoa bao giờ cũng mang hai bộ mặt cát và hung. Cự Môn Hóa Kị bị coi làm hung thần, nhưng lúc biể hiện cũng vẫn có hai mặt tốt xấu. Hãy đọc câu phú sau: “Cự Môn Thìn cung Hóa Kị, Tân nhân Mệnh ngộ phản vi kỳ” (nghĩa là Cự Môn thủ Mệnh tại cung Thìn có Hóa Kị, người tuổi Tân lại biến ra kỳ cách)
Cự Môn Hóa Kị đi cặp rất xấu, nhưng ở trường hợp này lại chuyển thành tốt. Vì nó được cả bốn Hóa, Hóa Quyền đứng bên Thái Dương chiếu lên, Hóa Khoa đứng Tuất với Văn Khúc chiếu qua, và Hóa Lộc đứng cùng Cự Môn thành ra kỳ cách “Tứ Hóa toàn phùng”
Cách này thường gây sôi nổi thị phi nhưng cuối cùng lập thành sự nghiệp to lớn. Cự Môn Hóa Kị ở cách này là con người đi ngược thời thương không a dua mà đặt định một lề lối riêng biệt tiến bộ. Nó đi vào mọi lãnh vực chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc đến hội họa, y học….
Nếu như Cự Môn ở Thìn không Hóa Kị, Hóa Khoa chỉ có Quyền với Lộc thôi thì công danh lại thường do người đề bạt mà nên phú quí thiếu sức ông phá của Hóa Kị nên không thành ra người sáng tạo sự nghiệp.
Sao Cự Môn rất hợp với những người tuổi Tân. Vì tuổi Tân sự an bài tứ hoá theo thứ tự Cự Nhật Khúc Xương, đương nhiên nếu Cự Môn thủ Mệnh mà tuổi Tân thì đã chắc chắn có Lộc Quyền. Ngay cả đến cách Cự Đồng vào Mệnh là xấu nhưng với tuổi Tân cái xấu giảm hẳn đi. Bởi vậy mới có câu phú rằng: “Cự Môn Thìn Tuất hãm địa Tân nhân hóa cát lộc tranh vinh” (Cự Môn ở hai cung Thìn Tuất là đất hãm nhưng nếu tuổi Tân thì lại vinh hiển)
Cự Môn đóng ở Thìn là cung Thiên La (lưới trời) hoặc cung Tuất là cung Địa Võng (lưới đất) kể như hãm. Thế hãm này chỉ phá ra được nếu Cự Môn có Địa Không, Địa Kiếp đi bên hoặc đứng với Kình Dương hay Linh Tinh. Cuộc đời trải qua nhiều bôn ba thăng trầm vượt lên mà thành công. Nhắc lại đã Kình thì thôi Linh, đã có Linh thì đừng nên Kình thêm nữa.
Cự Môn có liên hệ nhiều với Thái Dương. Sách Đẩu Số Toàn Thư viết: “Cự Nhật Dần lập Mệnh Thân tiên khu danh nhi thực lộc, Cự Nhật Thân lập Mệnh Dần trì danh thực lộc” nghĩa là Mệnh lập tại Thân Cự Nhật Dần xung chiếu hoặc Mệnh lập tại Dần Cự Nhật xung chiếu cả hai đều danh vị đi trước Lộc tới sau.
Hai cách trên đều có tiền qua chức vị, chức lớn tiền nhiều, chức nhỏ quyền ít không thể do kinh thương mà làm giàu. Rồi một câu khác: “Cự tại Hợi cung, Nhật Mệnh Tỵ thực lộc trì danh, Cự tại Tỵ Nhật Mệnh Hợi phản vi bất giai” nghĩa là Cự đóng Hợi Thái Dương thủ Mệnh Tỵ có tiền rồi có danh, nếu như Cự đóng Tỵ Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi thì xấu khó màng đến danh lộc. Cự Hợi xung chiếu Mệnh khả dĩ kinh thương làm giàu, lớn nhỏ còn tùy các phụ tinh khác.
Còn một cách khác về liên hệ giữa Cự Môn với Thái Dương: “Cự Tuất, Nhật Ngọ Mệnh viên diệc vi kỳ” An Mệnh tại cung Dần, Cự Môn đóng Tuất, Thái Dương từ Ngọ chiếu xuống, không bị Tuần Triệt làm ngăn trở Thái Dương cách này công danh tài lộc dễ dàng.
Cự Môn vào Mệnh thường là người ăn nói, lý luận vững vàng, mà cũng dễ vạ miệng nếu như nó đứng cùng các sao xấu. Văn Khúc cũng có khả năng ăn nói, nhưng Văn Khúc biết lựa chiều nên ra tiền và làm đẹp lòng người. Còn Cự Môn nói để lập luận, phân tích, đả kích mà tạo quyền uy. Nếu có Hóa Quyền thì đạt ý muốn, nếu bị các hung sát phá, kết quả gây thù chuốc oán phiền não.
Tài ăn nói của Văn Khúc mang ý hướng đào hoa, thuyết phục. Tài ăn nói của Cự Môn đầy quyền lực, có khuynh hướng áp đặt. Cự Môn đứng với Thiên Đồng ăn nói thường gàn gàn khó nghe.
Cự Môn tuyệt đối không hợp với Linh Tinh, Hỏa Tinh. Cự Môn ngại thấy Kình Dương Đà La. Có những câu cổ quyết ghi trong Đẩu Số Toàn Thư: “Cự Hỏa Linh Tinh phùng ác hạn tử ư ngoại đạo” (Mệnh Cự Hỏa Linh Tinh hay hạn gặp Cự Hỏa Linh Tinh rất hung nguy)
Cự Môn Dương Đà ư Thân Mệnh, tật bệnh doanh hoàng (Cự Môn gặp Dương Đà ở Thân hay Mệnh bệnh tật triền miên). Những cách trên nếu như gặp Hóa Khoa, hay bộ tam minh Đào hồng Hỉ có thể hóa giải, thêm cả Hỉ Thần càng tốt. Ngoài ra Cự Môn còn có một cách nữa qua câu quyết: Cự Lương Thân Mệnh, bại luân loạn tục (Cự Môn và Thiên Lương một ở Thân, một ở Mệnh thường có khuynh hướng loạn luân)
Cách này chỉ xuất hiện khi nào Cự Môn đóng Mệnh cung mà Thân lại ở Phúc Đức thôi. Trường hợp Thiên Lương Mệnh thì Cự Môn bắt buộc phải đóng Thê cung, không ăn nhập gì đến câu quyết trên.
Qua kinh nghiệm thì chuyện bại luân loạn tục chỉ xảy ra nếu như Mệnh hay PHúc Đức còn có thêm những sao Đào hoa, Thiên Riêu, Mộc Dục, Không Kiếp.
Những câu phú khác về sao Cự Môn cần biết:
- Cự Nhật Dần Thân thiên môn nhật lãng, kị ngộ Lộc Tồn ái giao Quyền Phượng(Cự Nhật thủ Mệnh cung Dần không nên gặp Lộc Tồn mà cần gặp Hóa Quyền, Phượng Các).
Câu này mâu thuẫn với câu phú: “Cự Môn Dần Thân, tới chi Giáp Canh sinh” nghĩa là Cự Môn đóng ở Dần hay Thân rất tốt cho tuổi Canh và Giáp, hai tuổi này Lộc Tồn ở ngay Thân hay Dần (Trên nguyên tắc thì Cự Môn cần Hóa Lộc, Hóa Quyền hơn Lộc Tồn). Một điểm sai khác trong câu này: Cự Môn tại Dần không thể gọi là “Nhật lãng Thiên Môn”.
- Cự Nhật Mệnh viên, hạn đáo Sát Hình Kiếp Kị tu phồng tâm phế, kiêm Thiên Mã hãm tật tứ chi, duy hạn Song Hao khả giải.(Cự Nhật ở Mệnh, vận hạn đến Sát Hình Kiếp Kị phải lo bệnh nơi tim phổi, nếu thấy cả Thiên Mã Tuần Triệt thì phải đề phòng thương tích tay chân)
- Cự Cơ Dậu thượng hóa cát giả, túng hữu tài quan đã bất chung(Cự Cơ thủ Mệnh tại Dậu, nếu giàu sang lớn thì không bền hay không thọ)
- Tây Nương Tử áp đảo Ngộ tiền do hữu Cự Cơ Song Hao Quyền Ấn Đào Hồng phu cung(Nàng Tây Thi làm mưa làm gió dưới triều đại Ngô Vương bởi vì phu cung có Cự Cơ Song Hao, Quyền Ấn Đào Hồng. Cách này tất Mệnh cung Thiên Lương thủ, đàn bà bạt nhưng Phu cung tuyệt bậc giàu sang, cũng là cách làm đĩ nên bà)
- Mão Dậu Cự Cơ Tân nữ ích tử vượng phu bất kiến Triệt Tuần đa tài thao lược(Mệnh Cơ Cự thủ ở Mão Dậu, người nữ tuổi Tân vượng phu ích tử, nếu không bị Tuần Triệt là người đàn bà đảm đang quán xuyến)
- Cự Cơ nhi ngộ Lộc Tồn ngữ bất chính ngôn(Mệnh Cự Cơ đồng cung với Lộc Tồn thì hay ăn nói hồ đồ thiếu thận trọng)
- Cự Cơ chính hướng hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế(Cự Cơ thủ Mệnh gặp Song Hao giàu sang hơn người)
- Tân nhân tối ái Cự Môn nhược lâm tứ Mộ phùng Tả Hữu cứu Mệnh chi tinh(người tuổi Tân hợp với sao Cự Môn, nếu vào đất tứ Mộ Thìn Tuất Sửu Mùi mà gặp Tả Hữu tránh đươc nhiều hung hiểm trong đời)
- A Man xuất thế do hữu Cự Kị Khốc Hình Thìn Tuất(Tào Tháo lừng lẫy do Mệnh có Cự Kị Khốc Hình ở Thìn Tuất)
- Cự Đồng nhi phùng La Võng, ngộ Khoa Tinh thoại thuyết Lịch Sinh(Cự hay Đồng thủ Mệnh ở Thìn Tuất, có Hóa Khoa thì làm du thuyết như Lịch Sinh thời xưa)
- Cự Môn Tị Hợi kị ngộ Lộc Tồn nhi phùng Quyền Lộc kiếm sạ Đẩu Ngưu.(Cự Môn an Mệnh ở Tỵ hay Hợi không nên gặp Lộc Tồn. Lộc Hóa Quyền thì ví như cầm kiếm mà chém sao Đẩu sao Ngưu)
- Cự Môn phùng Đà Kị tối hung(Cự Môn đóng Mệnh gặp Đà Kị rất xấu)
- Cự phùng Tồn tứ cát xứ tang hung, ưu nhập tử cung vô nhị tống lão(Cự Môn đứng bên Lộc Tồn tuy tốt nhưng có hung tiềm ẩn bên trong, nếu hai sao này vào tử tức tới già không con cái nối dõi)
- Cự Môn thê thiếp da bất mãn hoài(Cự Môn đóng Thê luôn luôn bất mãn với duyên tình, không yên với một vợ)
- Cự Môn bất mãn trong lòng, ba lần kết tóc mới xong mối sầu(Số nữ Cự Môn tái Phu, phải mấy đời chồng)
- Giải sứ mạc ngộ Cự Đồng kiêm phùng Tang Hổ Đà Riêu hữu sinh nan dưỡng(cung Tật ách thấy Cự Đồng mà đi với Tang hổ Đà Riêu thì sinh mà không nuôi được)
"Cự phùng Dương miếu tốt thayThăng quan tiến chức vận lành mừng vui."
(Vận đến Thái dương đắc địa hội Cự Môn làm quan thăng chức)
"Kình Đà Linh Hỏa cùng ngồiVới sao Cự tú một đời tai ương"
"Hợi Tỵ Cự Lộc Quyền rất quýGặp Lộc Tồn biến thể ra hư"
"Cự gặp Hổ Tuế Phù hội viênẤy là nghề thầy kiện quan tòa"
"Cự Tí Ngọ gặp Khoa Quyền LộcẤy là người đa học đa năng"
"Cự Nhật đồng thủ Dần ThânMột đời chức tước cháu con sang giàu"
"Gặp Quyền Vượng càng thêm vinh hiểnGặp Lộc Tồn lại kém lắm thay"
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Mỹ Ngân (##)