Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Gia chủ sẽ giàu có nếu hũ gạo và tủ lạnh đặt đúng phong thủy

Trong bếp có hai vật dụng chính là hũ gạo và tủ lạnh, cần bài trí như thế nào để tránh được những điều không tốt do những vật dụng này gây ra và khiến gia chủ ngày càng phát tài phát lộc.
Gia chủ sẽ giàu có nếu hũ gạo và tủ lạnh đặt đúng phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Hũ gạo:

Lương thực chính của người phương Đông là gạo, đặc biệt là người phía Nam, với họ bữa ăn không thể thiếu gạo để thổi cơm, vì vậy nhà nào cũng có hũ gạo để đựng gạo, hũ gạo là đồ dùng không thể thiếu trong nhà bếp của mỗi gia đình.

Là vật dụng quan trọng như vậy, cuối cùng nó sẽ được đặt chỗ nào trong bếp? Đặt hũ đựng gạo ở phương vị "thổ" đương vượng là có lý, vì rằng:

-  Gạo của thóc lúa là thứ được cấy trồng từ đất.

-  Người xưa cất giữ lúa gạo trong hang động dưới đất,

Nói tóm lại hũ gạo nên đặt ở hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc của bếp và để sát mặt đất (tất nhiên phải chú ý đến chống ẩm) không phù hợp đặt hướng Đông và để cao.

Ngoài ra theo tập quán truyền thống của phương Đông là cất giữ thóc gạo ở chỗ kín vì vậy hũ gạo nên đặt ở chỗ kín đáo.

Tủ lạnh

Tủ lạnh cũng như hũ gạo là những công cụ không thể thiếu được trong nhà bếp mỗi gia đình. Tủ lạnh dùng để cất giữ đồ ăn thức uống hàng ngày cho mỗi gia đình, ngày nay ở thành phố tủ lạnh rất phổ biến vì vậy mọi người đều muốn biết tủ lạnh nên để vị trí nào trong nhà bếp là thích hợp?

Về vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, đến nay vẫn chưa có ý kiến chung. Có 1 số người cho rằng tủ lạnh nên đặt tại hướng dữ, vì rằng tủ lạnh đã lạnh lại còn nặng, đặt nó ở hướng dữ là để chấn áp các sao dữ. Tuy nhiên, có 1 số người lại có ý kiến ngược lại, rằng tủ lạnh nên đặt ở hướng lành!

Ý kiến thứ 2 được xem là hợp lý:


- Tủ lạnh là chỗ bảo quản thức ăn đồ uống cho cả nhà nếu đặt nó ở hướng dữ là không thích hợp.

- Tủ lạnh là máy móc vận hành liên tục cả 24h trong ngày, nếu như đặt ở hướng dữ sẽ làm chấn động đến các sao dữ. Vì thế, đặt tủ lạnh ở hướng dữ không thích hợp. Trong phong thủy học có nói rằng: "Phương vị dữ phù hợp với yên tĩnh chứ không phù hợp với chấn động" cũng chính là nguyên nhân giải thích ở trên.

DiaOcOnline.vn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gia chủ sẽ giàu có nếu hũ gạo và tủ lạnh đặt đúng phong thủy

Phong tục tắm nước lá hoa mùi chiều cuối năm

Ngày 30 Tết, ngày cuối cùng của một năm cũ tắm nước lá hoa mùi để bao nhiêu điều xui xẻo, không tốt đẹp, phải tẩy đi, để sạch sẽ đón một năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chẳng biết từ bao giờ người Việt Nam đã coi viêc tắm vào chiều cuối năm như một thứ nghi lễ. Cùng với việc dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, ai cũng muốn thân thể mình sạch sẽ. Và nước lá hoa mùi không chỉ cho người ta được sạch sẽ gột rửa bụi trần, mà còn như được tắm rửa tinh thần.

Người với người gần nhau hơn, thân ái hơn, làm người ta tĩnh tâm sau bao mệt mỏi của cuộc mưu sinh. Gọi là hoa mùi, thì dĩ nhiên cái mùi đó ắt hắn phải dễ nhớ, dễ cảm nhận và lấn lướt lắm. Chẳng ai dám khắng định hoa mùi thơm quyến rũ như hoa nhài, hoa huệ, lãng mạn như hồng, như ly, khiến người đời ngất ngây. Một chút thơm thơm mà hăng hắc, rồi một chút ngai ngái mà đậm đà, lưu luyến… Thật chẳng dễ diễn tả chuẩn mực, chính xác, ngắn gọn về một thứ mùi của rau cỏ. Nhưng dám chắc, đó là thứ hương đậm đà, quyến luyến…

tắm nước lá hoa mùi chiều cuối năm

Đào biếc, mai thắm, quất vàng… luôn là những khúc dạo đầu ấm áp, vui tươi, báo hiệu một cái Tết sắp đến. Nhưng thiếu đi những mớ mùi, với nhiều người sẽ đón một cái Tết thiếu hẳn mùi vị, hương sắc.

Mùi là loại rau của mùa đông. Thường vào cữ cuối đông, người ta mới đem hạt mùi ra gieo vài luống, rồi như một sự vô tình lãng ý của giá rét, chỉ khoảng ngót nghét một hai tháng sau, đã thấy mùi lên tươi tốt, phất phơ hoa trắng và quả nhỏ li ti, thân lá thì xanh sẫm lại. Ấy là lúc cắt mùi sát đến tận gốc, dồn lại lấy mươi bó mà đem vào chợ bán.

Cây mùi được chọn để nấu nước tắm trước khi cả gia đình xum vầy bên mâm cơm tất niên phải là loại mùi già đã trổ hoa, kết trái, thân cây đã chuyển từ màu xanh sang nâu tía và khi đun lên, cho mùi thơm ngan ngát, cay cay, rất riêng biệt. Mùi già cho hương thơm rất sâu và đọng lại rất lâu. Tắm xong, cả nhà vẫn phảng phất hương đến vài ba ngày Tết.

Ở quê, năm nào cũng vậy, trên nóc thùng luộc bánh chưng nhà nhà đều không thể thiếu chậu nước lá mùi. Nhờ than, nhờ lửa của củi đang cháy đượm, khiến nồi bánh sôi sùng sục, chậu nước mùi đặt ké chẳng mấy chốc cũng bốc khói nghi ngút, chuyển sang sắc xanh đầm đậm rồi thơm ngan ngát. Lũ trẻ chơi quanh quẩn mấy nhà hàng xóm được mẹ gọi về để tắm cho sạch sẽ, tinh tươm chỉ từ vài chậu lá mùi đặc sánh. Sáng mồng một, cả nhà vẫn luôn giữ lệ rửa mặt bằng nước rau mùi.

Người thành phố cũng không rời xa nổi cái vị rau mùi. Mọi cái tanh tao trôi sạch đi, chỉ giữ lại một cảm giác thanh sạch, sảng khoái? Một thứ mùi vị đặc trưng của đồng đất quê hương sẽ mãi lưu luyến, vương vấn trong cả năm để nhắc nhở mỗi người về cội nguồn, về gốc rễ. Chẳng ai ngờ, những mớ mùi già cuối đông se sắt lại đem về nhiều cảm xúc đến thế.

Với nhiều người dân Việt Nam, được tắm gội bằng nồi nước lá mùi với hương thơm nồng nàn, ấm áp trong ngày cuối cùng của năm cũ là như thấy những điều chưa toại nguyện, chưa vẹn tròn hay những nỗi phiền muộn trong tâm tư được trút bỏ. Từ ngày xưa các cụ đã quan niệm, ngày 30 Tết, ngày cuối cùng của một năm cũ, bao nhiêu điều xui xẻo, không tốt đẹp, phải tẩy đi, để sạch sẽ đón một năm mới khang trang, vạn sự như ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong tục tắm nước lá hoa mùi chiều cuối năm

Trong thực địa có đất tốt đất xấu theo lý thuyết phong thủy –

1. Một vùng đất, một khu đất, một thửa đất bao giờ cũng có nơi đất tốt và nơi đất xấu, theo lý thuyết phong thuỷ cổ điển và hiện đại. Nghĩa là trong một vùng đất thuộc cùng một Hành đặc trưng nhất, theo cách nhận định của thuật phong thủy Ngũ hành, v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Một vùng đất, một khu đất, một thửa đất bao giờ cũng có nơi đất tốt và nơi đất xấu, theo lý thuyết phong thuỷ cổ điển và hiện đại.

so_huu_ngay_nhung_lo_dat_biet_thu_cuoi_cung_tai_vinh_ha_long_0

Nghĩa là trong một vùng đất thuộc cùng một Hành đặc trưng nhất, theo cách nhận định của thuật phong thủy Ngũ hành, vẫn còn những khu đất có Hành đặc trưng riêng khác với Hành của vùng.

Khu đất cùng phân ra các điểm đất tốt và điểm đất xấu. Và cũng có điểm đất cùng Hành và điểm đất khác với Hành của khu đất.

2. Trong một thửa đất có nơi tốt và nơi xấu, nơi đất bình thường.

Căn cứ vào lý thuvết phong thủy để xác định trong thửa đất, nơi nào là nơi đất tốt, nơi nào là nơi đất xấu.

3. Nơi đất tốt là nơi có bóng của “trường khí tuế vận” đang hiện hữu.

Là nơi kết cấu địa chất, thuần chất nhất, ổn định nhất theo lý thuyết của Khoa địa lý phong thuỷ.

4. Nơi đất xấu là nơi có kết cấu địa chất không đồng nhất.

Là nơi có đất bẩn (nơi lấp vũng, ao, giếng, nơi có nhiều tạp chất hữu cơ).

5. Nơi đất bình thường là nơi đất pha tạp gồm cát, đất, đá đã ổn định.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong thực địa có đất tốt đất xấu theo lý thuyết phong thủy –

9 nốt ruồi hiểm độc hủy hoại cuộc đời không thể không xóa

Theo nhân tướng học, những vị trí nốt ruồi này trên cơ thể người thường không mang lại may mắn, khiến chủ nhân kém may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nốt ruồi ở xương quai xanh hoặc bả vai - quản lý tài sản không tốt Nếu vị trí lõm giữa xương quai xanh và bả vai có nốt ruồi thì khả năng quản lý tài sản của người này không tốt, không có khả năng xây dựng tài chính, điều này sẽ làm cho hậu vận gặp khó khăn vì không có tích lũy. Bởi vậy, bất kể nam nữ, nếu có nốt ruồi tại vị trí này thì nên thận trọng ngay cả khi tiền đã cầm trong tay, đặc biệt là trong việc đầu tư tài chính.

Nốt ruồi ở bầu ngực – người hẹp hòi, túng thiếu Nếu một trong hai bầu ngực có nốt ruồi thì người này khá hẹp hòi, “lòng lang dạ thú” và thường xuyên lâm vào cảnh túng thiếu, mối quan hệ với người khác thường không tốt, thường bị hiểu lầm hoặc bị hãm hại. Phụ nữ có nốt ruồi ở vị trí này thường rất đào hoa, tuy nhiên đào hoa quá vượng cũng khiến cho chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở.

Nốt ruồi dưới gót chân – gặp nhiều phiền toái Dưới gót chân có nốt ruồi, đặc biệt là nốt ruồi đen thì bạn nên cẩn thận, vì nốt ruồi này cảnh báo cuộc sống của bạn gặp rất nhiều phiền toái, làm việc hết mình hết sức nhưng kết quả thu được ít hoặc không được người khác công nhận, chuyện tình cảm cũng không khá hơn, cố gắng nhiều nhưng chẳng được bao nhiêu. Nếu là nữ giới thì có thể chọn màu sơn móng chân phù hợp với bản mệnh, còn với nam giới thì có thể xóa nó đi, ít nhiều vận trình sẽ được cải thiện. Ngoài ra, nếu bạn thường xuyên đi tất thì ảnh hưởng của nốt ruồi cũng giảm đi đáng kể.

9 not ruoi hiem doc huy hoai cuoc doi khong the khong xoa
Ảnh minh họa. 
Nốt ruồi ở đuôi mắt - Hôn nhân không thuận
Đuôi mắt có một vị trí được gọi là Gian môn, nếu con gái có nốt ruồi ở vị trí này thì tình cảm hôn nhân sẽ không thuận lợi, hơn nữa tỷ lệ điều này trở thành hiện thực là tương đối cao.

Nốt ruồi trên xương đòn - Sự nghiệp trắc trở Người có nốt ruồi trên xương đòn phần lớn trong sự nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, vất vả, phải trả giá nhiều nhưng thu lại ít.

Nốt ruồi ở cổ họng - Hay gặp bất lợi Yết hầu có nốt ruồi, trong tướng số thì đây là một đặc điểm không tốt, thường dễ gặp chuyện bất lợi, cần chú ý nhiều đến an toàn của bản thân.

Nốt ruồi ở thắt lưng - Tình cảm không thuận Phần thắt lưng không nên có nốt ruồi, nếu có thì nên xóa bỏ bởi nó đại biểu cho đời sống tình cảm không như ý. Họ thường gặp hoặc bị theo đuổi bởi người mình không thích hoặc ghét.

Nốt ruồi phía sau gáy nhưng lệch về 2 bên – tình cảm trắc trở Người có nốt ruồi ở vị trí này thường gặp vấn đề trong chuyện tình cảm, có thể là dối tình người khác hoặc bị người khác lừa gạt. Nốt ruồi ở vị trí này có nhiều tiền đến đâu cũng không thể xóa đi được, nếu không chuyện hôn nhân cả đời cũng sẽ không thuận. Cách tốt nhất để hóa giải là căn cứ vào ngũ hành của bản mệnh mà chọn màu nội y cho phù hợp.

Nốt ruồi sau cánh tay (trai tay trái, gái tay phải) – cô nhi quả nữ Nếu phía sau cánh tay phải của người phụ nữ hoặc sau cánh tay trái của người đàn ông có nốt ruồi thì thường lâm vào cảnh cô quạnh, hôn nhân và chuyện tình cảm gặp nhiều trắc trở, thậm chí mối quan hệ với người thân cũng không được tốt, hậu vận sẽ sống trong sự cô đơn. Nốt ruồi tại vị trí này không thể xóa đi mà chỉ có thể sử dụng phương pháp để hóa giải. Cách tốt nhất là đeo ở cánh tay có nốt ruồi một chiếc dây đeo màu đỏ.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 nốt ruồi hiểm độc hủy hoại cuộc đời không thể không xóa

Phân tích 51 cách cục thường gặp

Một bài viết trích từ cuốn Tử Vi Tam Hợp Phái của dịch giả Nguyễn Anh Vũ. Mời các bạn cùng đọc.
Phân tích 51 cách cục thường gặp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sách Trung châu tử vi Đẩu số - Tam Hợp phái - Dịch giả Nguyễn Anh Vũ

Chương 4: LUẬN VỀ CÁCH CỤC - PHÂN TÍCH 51 CÁCH CỤC THƯỜNG GẶP

CÁCH CỤC là một vấn đề lớn đối với người nghiên cứu Tử Vi Đẩu Số

Thực ra, Tử vi Đẩu Số không giống như "Tử bình" dùng Tứ trụ để luận đoán Lộc mệnh. Từ Bình vận dụng nguyên lý ngũ hành sinh khắc chế hóa để luận đoán, tính linh hoạt khá lớn, hơn nữa có thể dựa vào Bát Tự để nhìn toàn bộ khí cơ của mệnh tạo. Phàm là khí cơ trôi chảy, thì người đó cuộc đời gặp nhiều điều thuận hòa. Hễ khí cơ tắc nghẽn, trở ngại thì cảnh ngộ của người đó nhiều trắc trở, khó khăn. Nếu như Tứ trụ trở thành "cách", thì không Phú cũng Quý.

Nhưng các tổ hợp tinh hệ của Đẩu Số, thì lại có tính giới hạn cục bộ. Lấy tổ hợp 14 chính diệu để nói, chỉ có 144 trình thức, nhưng thêm vào các sao phụ tá và hóa, thì có thể có hơn 17 000 000 trình thức biến hóa. Vừa quá đơn giản, vừa quá phức tạp, do đó định CÁCH CỤC là điều không dễ chút nào.

Tuy vậy, Tử Vi Đẩu Số toàn Thư vẫn có ghi chép một số "cách cục", đây có lẽ do người đời Minh đặt ra. Ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Văn tinh củng mệnh",.v.v... Những cách cục này, trong xã hội đời Minh đương nhiên có một ý nghĩa nhất định, nhưng cổ nhân luận mệnh số, chỉ trọng ca quyết, mỗi một mệnh cục đều phụ kèm một bài ca, giải thích rất sơ lược.

Ngày nay, những người nghiên cứu Đẩu Số, nếu cứ dựa vào những ca quyết này, thì sẽ rất cứng nhắc. Nhất là khi luận mệnh cho người khác càng rất dễ sai, hoặc không nhìn ra giới hạn, sẽ đoán không ra mệnh vận của người đấy. Do đó, cần phải căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại, để giải thích các "cách cục" này.

Tiết này giới thiệu về 51 cách cục của Đẩu Số và thêm vào phần bình luận, mục đích chủ yếu chỉ có một điều, là làm cho bạn đọc thấy được sự trọng yếu của "tinh hệ".

Theo Vương Đình Chi, muốn luận đoán Đẩu Số chuẩn xác, nhất thiết không được phân tích rời rạc từng sao, tức là đừng luận đoán tính chất cảu 155 sao một cách máy móc. Nếu không khi vận dụng thực tế sẽ cảm thấy có muôn ngàn ngõ rẽ, mất đi cái nhìn toàn cục.

Trong "Thập bát phi tinh" thời kỳ đầu, người xưa luận đoán Lộc mệnh rất võ đoán, sao nào nhập vào cung nào cứ y như vậy mà đoán cát - hung, về sau mới phát triển thêm, chú ý tới "tam phương tứ chính", sau đó mới phát triển khái niệm "tinh hệ". Tử Vi Đẩu Số chiếu theo truyền thống này, từ đó bắt đầu lưu ý đến tổ hợp "tinh hệ". Có nhiều "cách cục", tức là từ tính chất của "tinh hệ" rồi phát triển thành, ví dụ như "Vũ Tham đồng hành", "Thất sát triều đẩu", "Tam hợp Hỏa Tham",.v.v... toàn là tính chất của tổ hợp tinh hệ cơ bản.

Nhưng hậu nhân lại có khuynh hướng phát triển không lành mạnh, đó chính là xem trọng "cách cục" một cách quá đáng, mà bỏ xót một điều, thực ra "cách cục" chính là tinh hệ. Vì vậy, cuối đời Minh mới thành lập nhiều "ngụy cách", đem nhiều ý tứ tạp nham vào "cách cục" tinh hệ, biến thành rồng rắn lẫn lộn.

Chương này thảo luận về cách cục, Vương Đình Chi căn cứ vào bối cảnh xã hội hiện đại để gạn lọc, và chỉ ra những "ngụy cách", để bạn đọc biết được những ý nghĩa thực sự của Cách và Cục, mà không suy diễn mơ hồ, khi luận đoán không còn câu nệ vào tên gọi của Cách và Cục

Nhiều người thích nghiên cứu Đẩu Số, nhưng những sách hiện có trên thị trường, thông thường có khuyết điểm là thiếu thực tế, sao chép của người đi trước quá nhiều, và thường thần bí hóa khoa Đẩu Số. Trong thực tế, muốn nghiên cứu khoa Đẩu Số chăng khó, chỉ cần nhận thực được một số kết cấu chủ yếu của tinh hệ, thì đã có thể luận đoán khá chính xác.

Cái khó của người nghiên cứu Đẩu Số là, trong các sách thông thường chỉ đề cập tính chất của các Sao ở cung Mệnh và cung Thân, mà ít nhắc tới cung khác. Đối với tính chất cát - hung ở các cung như Tử nữ, Phu thê, Tài bạch, sự nghiệp,.v.v... sách chỉ nói vài lời vắn tắt, do đó khi luận đoán cảm thấy nghi hoặc. Về phương diện này, chúng tôi có vẻ như có cùng khuyết điểm. Nhưng đó là vì, khi bàn về tính chất tinh hệ, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một tiêu điểm, thoạt nhìn giống như chỉ nói về cung mệnh (hay cung thân), thực ra những tính chất này đều có thể vận dụng ở 12 cung.

Ví dụ như "Tử vi Tham lang" ở cung Dậu, nếu cung Dậu là cung Mệnh, bạn đọc có thể lưu ý xem có hội hợp Lục cát tinh, Lộc tồn, Thiên mã hay không?, nếu không, thì có khả năng là dâm tà. Nếu cung Dậu là cung Phụ mẫu, thì cha có khả năng nhiều vợ. Nếu cung Dậu là cung Huynh đệ, thì chủ về anh cả hoặc chị cả lập gia đình, hôn nhân của anh chị em chưa chắc được như ý. Nếu cung Dậu là cung Tử nữ, gặp cát thì con cái có triển vọng, gặp hung thì có khoảng cách giữ hai đời. Ở các cung đều căn cứ tính chất cơ bản của tinh hệ "Tử vi Tham lang" mà luận đoán, một điều thông thì trăm vạn điều thông. Cần chú ý thêm, "Tử vi Tham lang" ắt sẽ hội hợp "Vũ khúc Phá Quân" và "Liêm trinh Thất sát". Cho nên, phàm Tử vi Tham lang giữ cung nào, phần nhiều cũng chủ về biến động, nếu là cung Tài bạch và cung Sự nghiệp, bạn có thể luận đoán từ tính chất biến động. Đây là phương thức lấy "tinh hệ" để nghiên cứu Đẩu Số một cách mau lẹ.

CÁCH THỨ 1: TAM KỲ GIA HỘI CÁCH

"Tam kỳ gia hội cách" tức là Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp cung mệnh.

Cổ ca nói:

Ba kỳ vây hướng Tử vi cung (Tam kỳ củng hướng Tử vi cung)

Mệnh lý đời người rất ưa gặp (Tối hỷ nhân sinh mệnh lý phùng)

Điều hòa âm dương chân tể tướng (Tiếp lý âm dương chân tể tướng)

Công danh phú quý ai sánh bằng (Công danh phú quý bất lôi đồng)

Hóa Lộc thông thường chủ về lộc quan, Hóa Quyền thông thường chủ về quyền bính, Hóa Khoa thông thường chủ về danh vọng, vì vậy cung mệnh đương nhiên thích 3 sao này hội hợp. Nhưng phải không gặp tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la; hoặc không gặp Địa không, Địa kiếp; hoặc không gặp Thiên hình, Hóa Kị, thì mới được gọi là cách tốt. Nếu gặp "tam hóa cát" hội hợp, lại còn gặp các sao sát - kị, thì phải nghiên cứu tỉ mỉ tính chất của hóa diệu, sau đó mới có thể luận đoán ưu điểm và khuyến điểm của mệnh tạo.

Cho nên, trong Đẩu Số không có trường hợp nào phức tạp như cách này!

"Tam kỳ gia hội cách" lấy trường hợp hóa Lộc ở cung mệnh, hội hợp hóa Quyền hóa Khoa ở tam phương là kết cấu tốt nhất. Không ưa hóa Lộc hoa Quyền tập trung ở một cung, bởi vì hóa diệu quá tập trung, lực lượng ở các cung viên khác sẽ mỏng manh, dễ mất quân bình.

Hóa Quyền thủ mệnh, thông thường là chủ về nắm quyền bính, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ có chức mà không có quyền.

Hóa Khoa thủ mệnh, thông thường là chủ về có danh tiếng một cách thực chất, nhưng nếu gặp sát diệu, trái lại sẽ chủ về người này chỉ trộm hư danh.

Cho nên "Tam kỳ gia hội cách" chẳng dễ toàn mỹ.

Thời xưa xem trọng sỹ hoạn, coi thường nông thương, cho nên "Tam kỳ gia hội cách" đều vì lý do có thể ra làm quan mà được vinh hoa phú quý. Còn trong xã hội hiện đại, thì "Tam kỳ gia hội cách" cũng có thể là đầu não tập đoàn tài chính, không nhất định phải làm quan.

HÓA DIỆU LUẬN

Hoa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các "Lưu hóa diệu" giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.

Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là "tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là "quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là "danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là "trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.

Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.

Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.

Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.

Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.

Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.

Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.

Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:

Đơn cử một ví dụ:

Nếu "Thái dương Thái âm" thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là "Thiên cơ Cự môn" mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với "Thái dương Thái âm" (mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.

Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái "vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.

Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị" (thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.

Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là "sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc" (ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.

Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.

Hóa Lộc luận

Hóa Lộc thuộc âm thổ, cai quản tài lộc. Cho nên ưa có Lộc Tồn tương hội, gọi là "Lộc trùng điệp"; lai ưa gặp "Lộc tồn Thiên mã" gọi là cách "Lộc Mã giao trì".

Hóa Lộc không ưa đến 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu, nhất là cung Mão, rất ưa đến các cung Dần, Thân, Hợi, cũng ưa cung tứ mộ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Lộc Tồn không đến các cung Tứ mộ, nên ưa Hóa Lộc bổ túc, cần phải có sao Lộc xung khởi mới phát huy được.

Ý nghĩa của Hóa Lộc, thông thường là chỉ "nguồn tiền tài", tức là tính chất và năng lực kiếm tiền, cũng chỉ "cơ hội kiếm tiền".

Trong các tình hình thông thường, không ưa Địa không, Địa kiếp cùng bay đến (bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu). Cổ nhân nói "Lộc mà đến cung nhược thì phát mà không chủ về tài", tức là chỉ được hư danh mà không có lợi lộc thực tế.

Hóa Lộc rất ngại gặp Hóa Kị xung phá, cổ nhân nói: "Lộc gặp xung phá, là trong cái tốt có chứa điềm hung". Trong các tình hình thông thường, chủ về tình hình vì kiếm tiền mà sinh tai họa. Ví dụ như vì cầu tài mà xảy ra bất chắc, đầu tư lớn mà không có thu hoạch, dẫn đến không còn vốn để tiếp tục đầu tư. Những trường hợp này, cần phải xem tổ hợp Sao thực tế mà định tính chất.

Hóa Lộc tượng hội với Hóa Quyền và Hóa Khoa, thông thường là kết cấu rất tốt, được gọi là "Tam kỳ gia hội cách", nhưng vẫn cần xem xét tính chất của các Sao bay đến để định nặng nhẹ.

Như cung mệnh "Liêm trinh Thiên tướng", mà Liêm trinh hóa Lộc, có Phá quân hóa Quyền vây chiếu, hội hợp với Vũ khúc hóa Khoa ở cung Sự nghiệp. rõ rằng là lấy Liêm trinh hóa Lộc làm chủ. Bởi vì "Liêm trinh Thiên tướng" chủ về làm việc trong chính giới, hoặc trong công ty có tính phục vụ, bản chất của cung mệnh này, Phá quân hóa Quyền chỉ làm tăng quyền bính về kinh tế, Hóa Quyền Hóa Khoa chỉ trợ giúp cho tình hình cát lợi của cung mệnh, không thể tính là chủ thể.

Hóa Quyền luận

Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng "cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa "Lộc trùng điệp" mà không ưa "Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.

Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.

Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ "lộc" mà đắc "quyền", nhưng đừng vì thấy "Lộc Quyền gặp nhau" mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.

Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.

Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là "cây lớn thì hứng gió", "địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc "Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.

Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.

Hóa Khoa luận

Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về "trí", "lưu truyền", nên là "tiếng tăm, danh dự".

Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.

Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.

Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.

Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.

Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:

Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.

Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.

Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là "Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách "minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách "khoa minh lộc ám" là nhờ danh mà được quý).

Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.

Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là "mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.

Hóa Kị luận

Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.

Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.

Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.

Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như "mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là "biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.

Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.

Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách "phản bối" (trở mặt).

Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.

Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.

Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.

Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là "chuốc đố kị", nhưng "không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.

Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.

Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.

Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.

Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.

Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là "do số mạng".

Cách thứ 2: "Văn quế Văn hoa cách"

Tức là mệnh an tại cung Sửu, hoặc cung Mùi, mà trong cung mệnh có hai sao Văn khúc và Văn xương cùng tọa thủ.

Cổ ca nói:

Kinh sách là đạo từ trời ban (Sách thư nhất đạo tự nhiên lai)

Gọi dậy tài an bang tế thế (Hoán khởi nhân gian kinh tế tài)

Mệnh lý vinh hoa đúng đáng khen (Mệnh lý vinh hoa chân khả tiển)

Thong dong thả bước trên cõi bồng (Đẳng nhàn bình bộ thướng bồng lai)

Thời đại khoa cử ngày xưa, học hành để có công danh là con đường tốt nhất, nên cổ nhân dùng Đẩu Số để luận mệnh cũng rất ưa Văn Xương và Văn Khúc. Ngoại trừ "Văn tinh củng mệnh cách", sau đó sẽ thảo luận đến "Văn Lương chấn kỷ cách", "Lộc Văn ám củng cách". Do đó có thể biết cổ nhân xem trong sao "văn" đến mức độ nào.

Trong xã hội hiện đại ta càn phải thảo luận thêm cho phù hợp

Văn Xương Văn Khúc cùng ở cung Mệnh, người này tất nhiên phong lưu nho nhã, có phong cách đặc biệt, hơn nữa còn thông minh tuấn tú. Đây là những ưu điểm của họ.

Nhưng, hai sao Văn xương và Văn Khúc rốt cuộc vẫn không phải là chính diệu, sức yết ớt, trong thời đại xưa, lấy thi cử làm sự cạnh tranh lớn nhất thì còn có thể ứng phó. Còn trong xã hội ngày nay, ngoại trừ thi cử còn có chuyện tranh quyền đoạt lợi khác, thì cần phải có chính diệu hữu lực khác phù trợ, mới có thể thích ứng với thời đại.

Cổ nhân không xem trọng nữ mệnh, cho nên Cách này không liên quan đến nữ mệnh. Nữ mệnh gặp hai sao Xương Khúc cùng tọa thủ, sau kết hôn, dễ có trở ngại về tình cảm, nếu gặp "Thiên phủ Vũ khúc" cùng chiếu cung mệnh, thì càng dễ bị đàn ông đã có gia đình theo đuổi, gây đau khổ, bối rối khó xử về tình cảm. Vì vậy "Văn quế Văn hoa cách" trong bối cảnh xã hội ngày nay chẳng tốt như thời cổ đại.

+ Mệnh an tại cung Mùi có hai sao Văn xương và Văn khúc tọa thủ:

- Năm Giáp Kỷ gặp Thổ cục

- Năm Ất Canh gặp Mộc cục

- Năm Bính Tân gặp Kim cục

- Năm Đinh Nhâm gặp Thủy cục

- Năm Mậu Quý gặp Hỏa cục

Trung châu phái - "Chư tinh cung viên triền thứ hỷ kị ca" khi Cách phối với Cục viết:

Xương Khúc ưa Kim cục, hãm ở cung hỏa viêm (Xương Khúc hỷ Kim cục, hãm vu hỏa viêm hương)

Như vậy, tuổi Bính Tân mệnh tại Mùi, tuổi Mậu Quý mệnh tại Sửu, có Xương Khúc tọa thủ, là Cách phối Cục ứng với "Chư tinh hỉ kị ca".

Bài đọc thêm về Văn Xương - can Bính hóa Khoa

--------------------------------------------------------------

Văn Xương ưa hóa Khoa, nếu so với Văn Khúc, thì Văn xương hóa Khoa thiết thực hơn. Trong các tình hình thông thường, khi Văn xương hóa Khoa lợi về các cuộc thi cử quan trọng, cũng lợi về văn nghệ, hoặc phương diện nghiên cứu học thuật, chủ về nhờ đó mà mang lại danh dự, thậm chí nhờ đó mà mang lại lợi lộc.

Văn xương hóa Khoa ở cung nhập miếu, sẽ chủ về làm tăng năng lực nghiên cứu, có sở trường về lý giải và có thể phát huy, vì vậy chẳng phải được hư danh. Chỉ khi nào Hóa Khoa ở cung lạc hãm (tức 3 cung Dần Ngọ Tuất), thì mới chủ về tự thỏa mãn về mặt tinh thần, có ý vị chỉ được hư danh.

Văn xương hóa Khoa, chủ về nhờ điển thí mà thành danh. Ở thời hiện đại cũng có thể biểu trưng cho sức cạnh tranh trong ti cử, hoặc canh tranh đắc lợi ở phương diện văn nghệ học thuật. Nếu gặp thêm Thiên khôi Thiên việt, mà chính diệu lại "thuần thanh", thì lợi về tham gia các cuộc thi cử cấp quốc gia, hoặc các cuộc thi cử chứng nhận tư cách chuyên viên cao cấp. Hai sao Khôi Việt thường thường có thể giúp thành công, nên Văn xương hóa Khoa rất ưa được chúng phối hợp.

Ở Đại vận hoặc Lưu niên mà gặp Văn xương hóa Khoa, có lúc chủ về được phát biểu tác phẩm, nhà văn thì có tác phẩm xuất bản; cũng lợi về thi cử, hoặc công tác nghiên cứu trước khi thi cử có tâm đắc đặc biệt, cho nên các cuộc thi cử không cần Văn xương hóa Khoa ở năm xảy ra cuộc thi cử, trước thi cử một năm cũng có lợi.

Bài đọc thêm về Văn Khúc - can Tân hóa Khoa

-----------------------------------------------------------

Can Tân là Văn Khúc hóa Khoa và Văn xương hóa Kị, hai sao này thường gặp nhau trong mệnh bàn, do đó cần phải lưu ý bản chất đặc biệt lúc chúng tương hội.

Thông thường, có thể biểu trưng cho học hành thông minh, nhưng lúc xử sự hay ỷ vào sự thông minh của mình, mà thường tự cho mình là đúng. Ở giai đoạn còn đi học, thì chủ về có nhiều hứng thú với toán lý, hoặc ngoại ngữ.

Tính chất cơ bản của Văn khúc hóa Khoa hơi giống Văn xương, đã gặp thuật ở bài trước. Làm tăng năng lực biện luận, ngôn từ dễ làm vui lòng người khác và hấp dẫn người khác giới.

Văn khúc ở 3 cung Dần Ngọ Tuất là hãm nhược, cho dù có Hóa Khoa, cũng chủ về có mầm mà không trổ bông.

---------------------------

Văn Khúc - can Kỷ hóa Kị

Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.

Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.

Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.

Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.

Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.

Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.

Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.

Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.

Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.

Văn xương - can Tân hóa Kị

Văn xương hóa Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là "sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là "chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".

Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.

Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là "mau quên", có lúc lại biểu trưng cho "có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho "bỏ học nửa trừng".

Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về "lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.

"Mệnh lý phùng không cách"

"Mệnh lý phùng không cách" tức là Địa kiếp và Địa không thủ mệnh, cung mệnh lại không có sao cát.

Cổ ca nói:

Không diệu lai lâm cát diệu vô,

Cầu danh cầu lợi tổng thành hư,

Thanh nhàn cô độc phương diên thọ,

Phú quý vinh hoa quá khích câu.

Dịch nghĩa:

Sao không đến mà cát diệu không

Cầu danh cầu lợi mọi việc hư

Thanh nhàn cô độc sống mới thọ

Vinh hoa phú quý sẽ chóng qua

Theo Vương Đình Chi, trong cổ ca nói "sao không", có người cho là Thiên Không, Tuần Không, Tiệt Không, nhưng trên thực tế không phải vậy, mà là Địa không Địa kiếp.

Cổ nhân cho rằng:

"Địa không là thần Không Vong, thủ thân mệnh thì làm việc trồi sụt, thành bại đa đoan" (Địa không nãi Không Vong chi thần, thủ thân mệnh, tác sự tiến thoái, thành bại đa đoan)

"Địa Kiếp là thần Kiếp Sát, thủ thân mệnh thì làm việc cuồng loạn, không theo chính đạo" (Địa Kiếp nãi Kiếp Sát chi thần, tác sự sơ cuồng, bất hành chính đạo)

Đây là chỗ kị của Cách này. Vương Đình Chi cho rằng, gọi là "làm việc trồi sụt", "làm việc cuồng loạn", đối với người ngày nay gọi là "có cá tính". Những người cố chấp tục xưa mà gặp đám trẻ ngày nay chưng diện, với vẻ mặt cố ý làm ra vẻ lạnh lùng, thì sẽ cho chúng là "cuồng loạn", nhưng thực ra chỉ là thời trang phương tây. Bắt đầu từ thời "hippy", đến nay thành phong trào "hit hop", thực ra chỉ là xu thế phát triển của xã hội, không thể lấy đó để luận đoán suốt đời bất lợi.

Ngược lại, nhiều người "làm việc cuồng loạn", gặp được cơ hội, đùng một cái trở thành siêu sao ca nhạc, nhờ vào dọng ca đặc biệt mà nổi tiếng. Cổ nhân thì không phải vậy, người "có tính cách" phần nhiều ẩn dật chốn sơn lâm, thế là "suốt đời thanh nhàn cô độc". Vì vậy, cổ nhân luận đoán về hai sao Không Kiếp vẫn có chỗ đúng.

Bài đọc thêm về Địa không và Địa kiếp

------------------------------------------------------------

Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.

Cổ nhân nói: "Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan" (Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.

Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.

Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ "Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ "Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.

Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện "làm việc trồi sụt thất thường", hoặc "làm việc giả dối".

Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.

Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.

Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.

Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.

Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập "Thiên la Địa võng" nên có khuynh hướng khá thực tế.

Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập gềnh, bất đắc chí

Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.

Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.

Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.

Cự phùng tứ sát cách

"Cự phùng tứ sát cách" tức là Cư Môn lạc hãm thủ cung Thân; tứ sát Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la thủ cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Cự môn lạc hãm tại thân cung,

Tứ sát thiên vu mệnh lý phùng,

Nhược thị cát tinh vô cứu giải,

Tất tao lưu phối viễn phương trung.

Dịch nghĩa:

Cự Môn lạc hãm ở cung Thân,

Lại gặp hung sát cư Mệnh cung,

Nếu không cát tinh thời giải cứu,

Tất sẽ lưu lạc bốn phương trời.

Cách này, Vương Đình Chi cho rằng có chút nghi vấn. Căn cứ sách "Tử Vi Đẩu Số toàn thư" nói: "Cự Môn ở thân mệnh mà gặp chúng là kị, đối cung có Hỏa tinh, Linh tinh Bạch Hổ, mà không có Đế tinh, sao Lộc, thì lưu đầy ở chân trời" (Cự môn thân mệnh phùng chi vi kị, đối cung Hỏa Linh Bạch hổ cộng bạn, vô Đế Lộc, lưu phối thiên nhai). Ở đây nói, bất kể Cự Môn thủ cung mệnh hay thủ cung thân, đối cung mà gặp sát, thì mới là mệnh "lưu phối" (tức bị xung vào quân ngũ, một hình thức lưu đầy thời xưa), chứ chẳng phải Cự Môn thủ cung thân, còn tứ sát thủ cung mệnh. Nhưng cung thân rất nhiều lúc là cung Thiên Di, cho nên thuật sỹ thời Minh nói thành Cự Môn và tứ sát chia ra thủ cung thân và cung mệnh.

Có khả năng theo thể lệ của "ca quyết" bảy chữ thành câu, vì vậy nói không được rõ. Cự môn thủ mệnh gặp Kình dương Đà la, cổ nhân cho rằng "nam nữ dâm tà"; khi gặp Hỏa tinh Linh tinh là "chết ở ngoài đường". Do đó, người xưa đã gộp hai tính chất này lại thành mệnh cung "lưu đày nơi xa", trừ khi được Tử Vi và Lộc Tôn áp chế.

Theo kinh nghiệm của Vương Đình Chi hầu như lại chẳng gặp hung hiểm gì, bởi vì trong xã hội cổ đại, không có loại nghề nghiệp vận dụng "điều tiếng thị phi"; còn trong xã hội hiện đại, người theo những nghề này rất nhiều (như Luật sư, nhân viên quảng cáo, nhân viên môi giới,.v.v... ) Tức dù Cự môn thủ mệnh gặp tứ sát, cũng chỉ làm cho cuộc đời của người này tăng thêm chút sóng gió, trắc trở mà thôi.

Còn phạm pháp, đây lại là một đặc điểm khác, nếu Cự môn hóa Kị, thì cuộc đời sẽ vào tù ra khám.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------------------

Tính chất cơ bản của sao Cự Môn

Cự môn miếu ở 4 cung Dần Mão Thân Dậu, hãm ở hai cung Sửu Mùi.

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, còn thuộc âm kim. Cổ nhân có thuyết "thổ yên tĩnh trôn kim", vì vậy lấy Cự Môn làm "ám tinh", chủ về "điều tiếng thị phi", và "tranh ngoài sáng, đấu trong tối".

Ngoài điều tiếng thị phi, Cự Môn còn chủ về khẩu tài, rất ưa Hóa Quyền, cách cục cao thì có thể phú quý, nếu không cũng có thể là bậc thầy dạy học đáng kính. Cự môn hội chiếu với Thái dương thì quang minh lỗi lạc, có thể phú quý.

Thời cổ đại do bị hạn chế điều kiên xã hội, nên người có Cự môn thủ mệnh bị giới hạn về nghề nghiệp, khác với bối cảnh xã hội hiện đại, có thể làm phát thanh viên, hay làm việc trong ngành quan hệ công cộng, thậm chí có thể làm công tác ngoại giao, hoặc luật sư. Nếu gặp các sao Liêm trinh, Tham lang, Long trì, Phượng các, Thiên tài, thì có thể hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Đặc tính của Cự môn là "khẩu tài", nhưng về phương diện giao tế, nó không giống như Tham Lang thiên về hưởng lạc và ham mê tửu sắc, cũng không như Thiên Cơ xử sự tròn trịa, khéo ăn khéo ở, mà nó khá thực tế.

Khẩu tài của Văn Khúc rơi vào tệ "xảo ngôn lệch sắc", mầu mè chải chuốt, hơi sốc nổi, không thiết thực; còn Cự Môn thì có thể dùng ngôn từ để chiếm lòng tin của người khác. Cho nên lúc Cự môn hóa Quyền, lời nói của người này sẽ có tính quyền uy. Nếu Cự môn hóa Lộc, thì thích hợp làm nghệ sỹ biểu diễn, đặc biệt có thể thành người dẫn dắt, điều khiển chương trình ưu tú, khi Cự Môn gặp Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Thiên hỉ, Thiên diêu, Hàm trì thì càng đẹp.

Nếu Cự môn hóa thành sao Quyền, hoặc hóa thành sao Lộc, hội hợp với chính diệu hóa Khoa, thì chủ về thanh danh vang dội, nhất định là người có tiếng tăm trong xã hội., thường phát biểu ngôn luận trước đám đông.

Đặc điểm lớn nhất của Cự môn là bản thân có biểu hiện khá tốt. Nhưng nếu học hành ít, không đủ để vận dụng, thì biến thành cá tính không nể phục người khác, do đó dẫn đến tị hiềm đố kị. Vì vậy Cự Môn rất ưa hội các sao Xương, Khúc, Khoa, cung mệnh dù không gặp sao "văn", nếu cung Phúc đức có văn tinh tụ tập, cũng có thể bổ cứu.

Cự Môn ở hai cung Tí hoặc Ngọ, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc cách", chỗ tốt của cách này là giảm thiểu những biểu hiện dục vọng của bản thân, tài năng kín đáo không lộ. Lấy trường hợp gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, làm thượng cách; gặp Lộc Tồn là thứ cách, thảy đều chủ về người có địa vị cao trong xã hội, còn dễ trở nên giầu có. nhưng người thuộc Cách này, một khi đã có địa vị cao, thành nhân vật "số một", sẽ dễ chuốc tị hiềm đố kị mà dẫn đến thân bại danh liệt.. Xét từ Cách này, có thể thấy Cự Môn phải biết tiết chế biểu hiện của mình, đồng thời cũng cần chú ý tu dưỡng sở học.

Thái Dương hội hợp với Cự Môn, có thể giải "ám" của Cự môn. Xét về tính chất, đây là vì người "Nhật Cự thủ mệnh" làm việc phần nhiều đều quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta hiểu rõ.

Tổ hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" còn có tính chất "người ngoại quốc", nên khi tinh hệ này hội hợp với sao Cát, xem nó rơi vào cung nào, để định tính chát sùng thượng người ngoại quốc, hay kết hôn với người nước ngoài.

Đối với Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, Kiếp sát, Thiên hình, Hóa Kị, thì sao Cự môn đều sợ. Nói chung, thì Kình Đà dễ khiến tình cảm nổi sóng gió, Hỏa Linh khiến đời người thêm nhiều sóng gió, Không Kiếp khiến đời người gập ghềnh, gặp nhiều trở ngại, bất đắc chí. Theo thuyết của cổ nhân, có khả năng thủa nhỏ bị cha mẹ bỏ rơi, gặp các sao Hình Kị, thì xảy ra điều tiếng thị phi. Nếu tứ sát cùng chiếu, lại gặp Thiên hình, cung Tật Ách không tốt thì dễ yểu mạng.

Bài đọc thêm về "Cự phùng tứ sát cách"

-------------------------------------------------

Cự Môn tổng luận

Cự Môn là sao thứ hai của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ, khí của nó thuộc âm kim. Trong Đẩu Số, Cự môn là ám tinh. Gọi là "ám tinh", chẳng phải nói Cự môn không có ánh sáng, mà là nói nó giỏi che mất ánh sáng của người khác, cho nên gọi là "ám".

"Che mất ánh sáng của người khác", là sắc thái đặc biệt nhất của sao Cự Môn. Trong xã hội, người nghị luật thao thao bất tuyệt biến người khác đều thành thính giả, cách biểu hiện cái "tôi" như vậy là sắc thái đặc biệt của Cự Môn. Hơn nữa, Cự Môn còn thích tiết lộ chuyện riêng tư của người khác, cho nên cổ nhân nói đặc tính của Cự Môn là "gây chuyện thị phi sau lưng" (bối diện thị phi)

Cự Môn còn có một sắc thái đặc biệt khác là "đa nghi". Cổ nhân nói nó "ở người thì chủ về ám muội, đa nghi thị phi" (vu nhân chủ ám muội, đa nghi thị phi). Đây là do Cự Môn đánh giá người khác phần nhiều thiên nặng về mặt "âm ám", cách nhìn đối với người khác rất phiến diện, đương nhiên có nhiều nghi ngờ.

Do hai tính cách này, nên quan hệ giao tế của Cự Môn không được tốt, nói "ít hợp với lục thân, giao du với người lúc đầu thì tốt, sau cùng thì xấu" là do lý luận này.

Vì vậy, lúc đánh giá Mệnh cục Cự Môn cần phải chú ý các sao nó hội hợp, xem chúng có làm mạnh thêm hai đặc tính này, hay là làm giảm bớt hai đặc tính này, hoặc có thể nhuyễn hóa hai đặc tính này.

Sao có thể hóa giải sự "âm ám" của Cự Môn mạnh nhất là Thái Dương ở cung miếu vượng. Cổ nhân nói "Cự Nhật đồng cung, phong quan ba đời", trường hợp "Thái dương Cự môn" là đúng, do Thái dương ở cung Dần là mặt trời mọc ở phương Đông, ánh sáng rực rỡ đang thịnh, có thể hóa giải "âm ám" của Cự Môn.

Nếu Thái dương ở cung Ngọ, sẽ hội hợp với Cự Môn thủ mệnh ở cung Tuất, cũng dư sức hóa giải tính "âm ám" thị phi của Cự Môn, nên cũng gọi là kết cấu đẹp. Ngoại trừ Thái dương có thể hóa giải tính "âm ám" của nó ra, chỉ còn dùng hóa Quyền và hóa Lộc để hóa giải. Cự Môn sau khi hóa thành sao Lộc, khí chất của Cự Môn biến thành khéo ăn khéo ở, còn Cự Môn sau khi hóa thành sao Quyền, thì tính giảm bớt lòng nghi kị, do đó cũng có thể cải thiện đặc tính của Cự Môn. Phàm Cự môn có cách cục tốt, đều ưa Hóa Lộc, Hóa Quyền là do duyên cớ này.

Có Thiên Cơ đồng độ hoặc đối củng, sẽ làm mạnh thêm khuyết điểm của Cự Môn, bởi vì Thiên Cơ sẽ biến Cự môn thành trôi nổi, không thiết thực, mà còn làm tăng đặc tính đa nghi của nó, cũng sẽ khiến nó hay "gây chuyện thị phi sau lưng", nhờ vào ngôn từ mưu trí và quyền biến, để chiếm lòng tin của người khác. Cần phải hóa Lộc, hóa Quyền, và hội hợp với các sao Cát, mới là cách cục tốt. Nếu có Sát tinh đồng cung, là cách cục phá tán, thất bại.

Sát tinh cũng có thể làm tăng đặc tính xấu của Cự Môn. Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất là hãm địa, thì càng nặng. Vì vậy cổ nhân nói: "Cự môn sợ hai cung Thìn hoặc Tuất hãm địa" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn); "Cự môn gặp tứ sát mà cung hãm thì hung" (Cự môn tứ sát hãm nhi hung); "Cự môn mà gặp Hỏa tinh và Kình dương thì cuối đời tự ải" (Cự Hỏa Kình Dương, chung thân tự ải); "Cự môn gặp Hỏa tinh Linh tinh, mà không có Tử vi và Lộc tồn áp chế, thì nhất định sẽ bị đày ngàn dặm" (Cự môn Hỏa Linh, vô Tử vi Lộc tồn áp chế, quyết phối thiên lý).

Tử phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, có thể nhuyễn hóa tính cách xấu của Cự Môn thành tốt đẹp. Tử phụ, Hữu bật chủ về trợ lực, Văn xương, Văn khúc chủ về tài năng, tuy có nói nhiều thì cũng sẽ không chuyên đi che ám người khác; sau khi được trợ lực rồi, cũng sẽ giảm bớt lòng nghi kị, mà còn có thể mang tính nghi kị biến thành tính lo toan suy nghĩ một cách hữu ích.

Cho nên Cự Môn tuyệt đối không nên gặp Sát tinh, mà rất ưa gặp Lộc tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, và Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc.

Với tính chất sau khi chuyển hóa thành Tốt của Cự Môn, rất thích hợp làm những nghề nghiệp coi tài nói năng là nhân tố quan trọng. Người thuộc thượng cách có thể là Luật sư, hay nhân tài ngoại giao, đây phần nhiều là lấy "tính hay nói xấu" nhuyễn hóa thành "giỏi biện luận", lấy "tính nghi kị" nhuyễn hóa thành "tính lo toan suy nghĩ". Cũng thích hợp làm nghề bán hàng, dạy học, hoặc nghệ thuật biểu diễn để mưu sinh.

Cự Môn phân bổ ở 12 cung, sẽ đồng độ, hoặc đối củng với Thiên Cơ ở hai cung Mão hoặc Dậu, gọi là "Cự Cơ" đồng độ; ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là kết cấu "Cự Môn Thiên Cơ".

Ở hai cung Tị hoặc Hợi (sách viết là Thìn hoặc Tuất), thì Cự môn độc tọa, ở đối cung sẽ là Thái Dương; ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự môn và Thái dương đồng độ. Cho nên, ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là kết cấu "Cự Môn Thái Dương".

Thiên cơ tính trôi nổi, không thiết thực, nên bất lợi đối với Cự Môn, Thiên Đồng thì có thể hòa với khí của Cự môn, nhưng lại có thể khiến cho tâm trạng của Cự Môn càng "âm ám" kín đáo. Thái Dương thì có thể dùng ánh sáng rực rỡ của mình để hóa giải tính "âm ám" của CỰ Môn, thông thường kết cấu "Cự môn, Thái dương" là tốt nhất, nhưng trong đó cũng có biến cách.

Cự Môn thủ mệnh cũng có một số cách cục nổi tiếng, Cự môn độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, hóa Lộc hoặc hóa Quyền, gọi là cách "Thạch trung ẩn ngọc", chủ về mệnh tạo "anh hoa nội liễm" (tài năng không lộ)

Cự môn độc tọa ở cung Thìn, hóa thành sao Lộc, được Văn xương hóa Kị cùng bay đến, ở đối cung có Thiên Đồng, mà còn hội hợp Thái dương hóa Quyền. Hóa Quyền của Thái dương có thể điều hòa tính xấu của Cự môn, hơn nữa bản thân Cự môn đã hóa Lộc, tính chất được nhuyễn hóa, còn Thiên đồng có thể hóa giải Hóa Kị của Văn xương, vậy là vừa khớp trở thành "cách đặc biệt". Cổ nhân nói: "Cự môn ở hai cung thìn hoặc Tuất là không đắc địa, mệnh khổ nhưng trái lại biến thành cách cục đặc biệt" (Cự môn Thìn Tuất bất đắc địa, tân nhân mệnh ngộ phản vi kỳ) là ám chỉ điều vừa nói, nhưng không tiết lộ một điều là cần phải có Văn Cương Hóa Kị đồng độ.

"Cự Môn Thiên cơ" ở cung Mão, Hóa Lộc, hội hợp với Lộc tồn, mà không có thêm Sát tinh, lại được Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, gọi là "Cơ Cự đồng lâm cách", nhưng nếu có Sát tinh là phá Cách, kị nhất là có Kình dương, Hỏa tinh.

Cung mệnh của Đại hạn, hoặc Lưu niên gặp Cự Môn, thì không chủ về có đặc tính của Cự Môn, mà lại chủ về một đoạn đời người gặp cảnh ngộ bị Cự Môn che phủ. Nếu không có Thái dương miếu vượng hóa giải, lại không có Quyền Lộc, trái lại còn gặp các sao Sát Kị, thì chủ về Đại vận hoặc Lưu niên không cát tường, điều tiếng thị phi trùng trùng, mà còn chủ về phạm pháp, kiện tụng, cần phải gặp các sao Cát và cát hóa, sau mới hưng thịnh. Cự Môn là sự phiến nhiễu của thị phi, không thể không thận trọng.

Cự Môn biệt luận: Sáu tình huống Cự Môn tọa mệnh

Cự Môn có quan hệ mật thiết với các sao Thái Dương, Thiên Cơ, Thiên Đồng, được phân bố trong 12 cung như sau:

- Ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Cơ

- Ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì Cự Môn đồng cung với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Dần hoặc Thân, thì Cự Môn đồng cung với Thái Dương.

- Ở hai cung Mão hoặc Dậu, thì Cự Môn đông cung với Thiên Cơ.

- Ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì Cự Môn đối chiếu với Thiên Đồng.

- Ở hai cung Tị hoặc Hợi, thì Cự Môn đối chiếu với Thái Dương.

Về đại thể, quan hệ giữa Cự môn với Thái dương, đồng cung sẽ không bằng đối chiếu, bởi vì Cự môn là "ám tinh", khi đồng cung với Thái dương, là một "minh" và một "ám" cùng ở một cung vị, trái lại sẽ gây lụy cho Thái dương. Đối chiếu thì khác, "ám" của Cự môn không đủ sức truyền đi xa, nhưng ánh sáng và nhiệt của Thái dương lại có thể chiếu tới Cự môn, nên có thể giải trừ "ám" của Cự môn.

Quan hệ với Thiên Đồng, thì đồng cung ưu hơn đối cung, bởi vì Thiên Đồng có tính cách bảo thủ, chỉ lo bảo toàn bản thân, mà bất kể thế sự, lại còn hay sợ việc. Ưu điểm của Cự môn là không chiếu xạ đối cung của mình, mà còn bị ảnh hưởng ngược lại từ đối cung, khiến cho tính chất (tính cách) của Cự môn xảy ra thay đổi. Đồng cung thì khác, hai bên sẽ tác động lẫn nhau, nên có thể "hơi" thay đổi khuyết điểm của Cự môn, làm giảm bớt điều tiếng thị phi.

Cự Môn quan hệ với Thiên Cơ, dù đối chiếu hay đồng cung, đều có sở trường riêng. Tổ hợp tinh hệ này, phần nhiều đều có chút tính chất khéo ăn khéo ở, còn giỏi biểu đạt và điều hòa. Khi Thiên cơ và Cự môn đồng cung, tính cách (tính chất) khéo léo của Thiên Cơ sẽ cải thiện tính chất điều tiếng thị phi của Cự Môn, nhưng cũng đồng thời làm giảm bớt tính chất "Thiên Cơ hóa khí thành khéo léo" dẽ thành đầu môi trót lưỡi, bụng dạ hẹp hòi. Lúc Thiên cơ và Cự môn đối chiếu, tính chất của hai bên sẽ dung hòa, Thiên cơ không đến nỗi biến thành bụng dạ hẹp hòi vì ảnh hưởng của Cự môn, mà Cự môn cũng không đến nỗi biến thành sốc nổi, không thiết thực, vì ảnh hưởng của Thiên Cơ. Nhưng tính chất "điều tiếng thị phi" của bản thân Cự môn vẫn không bị ảnh hưởng, dễ nhanh mồm nhanh miệng mà chuốc họa.

Cỏ nhân nói: "Giao du với người có mệnh Cự môn, lúc đầu tốt về sau xấu", đại khái là lấy tổ hợp tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" để nói, bởi vì bất kể hai sao đối chiếu hay đồng cung, cũng đều có những khiếm khuyết đáng tiếc, hơi thiếu đường đường chính chính.

Cự Môn cát hay hung là do có tài học hay không

Cổ nhân rất có thiên kiến với Cự Môn, có thuyết: "Cự môn miếu vượng, tuy phú quý cũng không được lâu bền"; hay "Cự môn thủ cung mệnh hoặc cung thân, một đời chuốc điều tiếng thị phi", thậm chí khi luận các cung Huynh đệ còn nói "anh em thảm thương", cung Phu thê còn nói "vợ chồng thất tiết", cung Tử tức còn nói "con cái tổn hậu", hay cung Tài bạch còn nói "tiền bạc khéo trộm mà có",.v.v... có thể nói là không có chỗ nào đúng.

Vương Đình Chi cho rằng, tiền nhân của phái Trung Châu đánh giá Cự Môn khách quan hơn, cho rằng: "Cự môn có lòng chính nghĩa, thường thường sở học ít khi tinh thâm, tài không đủ để dùng" nhưng chính nhờ đó mới có tính bỗng nhiên lãnh ngộ.

Người có Cự môn ở cung mệnh, đại khái đều có biểu hiện tốt về tính cách của bản thân, thêm vào đó còn giỏi biện luận, do đó thường dễ chuốc tị hiềm đố kị. Nếu như tài học của mệnh tạo đủ sức khiến cho người ta khâm phục, thì tính chất "chuốc tị hiềm đố kị" sẽ giảm bớt, sẽ khiến người ta ghét tính nói nhiều của mệnh tạo, quan hệ nhân tế đương nhiên rất tệ, gây nên "một đời chuốc lấy điều tiếng thị phi", "tuy phú quý nhưng không được lâu bền". Đây cũng là nói, hễ người có Cự Môn tọa cung mệnh, nếu có tài học, mà còn học tinh thâm, thì cũng là mệnh cục tốt.

Cổ nhân rất ưa Cự môn đồng cung hay đối chiếu với Thái dương, cho rằng Thái dương có thể giải "ám" của Cự môn, thực ra chỉ vì người có "Cự Nhật thủ mệnh" làm việc quang minh lỗi lạc, dễ làm cho người ta dễ hiểu mình mà thôi.

Cự Môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, tuy không gặp Thái dương, nhưng có Hóa Lộc, Hóa Quyền, hoặc Hóa Khoa, ba sao hợp chiếu, cổ nhân cũng cho rằng đây là cách cục tốt, gọi là "Thạch trung ẩn ngọc", đó là vì nhờ có các sao hóa diệu này, nên sở học của mệnh tạo không đến nỗi tệ, thêm vào đó Thiên Cơ ở đối cung "hóa khí thành khéo léo", nên vừa có tài học, vừa có tu dưỡng, do đó tính chất "điều tiếng thị phi" của Cự môn sẽ nhuyễn hóa thành tài ăn nói, lời nói ra ắt sẽ khéo léo, biến thành cách cục tốt.

Cổ nhân luận mệnh thích giấu đi một chút, thường chỉ nêu ra một Sao để phán định, cho nên dễ khiến cho hậu nhân mơ mơ hồ hồ, nếu không động não phân tích thì khó mà hiểu được.

Nói về ánh của các Sao, thì Thái dương là không có chỗ nào không chiếu đến, vì vậy Cự môn không thể che ánh sáng của Thái dương, chỉ khi Thái dương lạc hãm, lúc đó ánh sáng yếu nhất, Cự Môn mới che được, do đó Thái dương lạc hãm cũng không nên hội Cự môn.

Ảnh hưởng của Cự Môn đối với các sao, dựa vào kết quả tính chất của các sao bị "ám" mà định.

Như Thiên Đồng gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Đồng chủ về tình cảm và tâm trạng, sẽ biến thành tình cảm và tâm trạng u ám. Thế là tận trong thâm sau nội tâm, có nỗi đau khổ thầm kín mà không thể cho ai biết.

Lại như Thiên Cơ gặp Cự Môn, đồng độ hoặc vây chiếu, Thiên Cơ chủ về cơ mưu, kế hoạch, biến thành cơ mưu và kế hoạch bị tính toán sai, do đó có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do dự thiếu quyết đoán. Có điều Thái Dương gặp Cự Môn đồng độ hoặc vây chiếu, nếu Thái dương nhập miếu thì không bị Cự môn "ám", ánh sáng chiếu xa, nên chủ về được người ngoại quốc hoặc người ở nơi xa xem trọng, còn khi lạc hãm thì ánh sáng lu mờ, làm việc đầu voi đuôi chuột.

Như đã thuật ở trên, để luận đoán điềm quan trọng của Cự Môn, cần phải xem xét tính chất toàn bộ các sao mà định, sau đó "thâm nhập" tính chất "che ám", thì mới có thể luận đoán hoàn chỉnh.

Ví dụ như tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" vốn chủ về phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, cho nên chủ về ý chí không kiên định, nhưng nếu Thiên Cơ hóa Quyền làm tăng tính ổn định, thì lực "che ám" của Cự Môn lại biến thành chủ quan quyết định mà phạm sai lầm, vì vậy mà đánh mất cơ hội tốt.

Lại ví dụ như tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", vốn chủ về có ẩn tình che dấu triền miên, nhưng nếu Thiên Đồng hóa Lộc, thì lại có thể biến thành chấp trước một môn học nào đó, hoặc chấp trước một thú vui sở thích nào đó. Như vậy chưa chắc là không tốt. "Cự Môn Thiên Đồng" đồng độ, phải có sao Lộc, nếu không có Lộc, dù gặp Cát tinh cũng không cát tường. Cổ nhân nói "Cự môn ở Sửu Mùi là hạ cách, dù phú quý cũng không được lâu" (Sửu Mùi Cự môn vi hạ cách, túng nhiên phú quý diệc bất trường). Khuyết điểm của kết cấu tinh hệ này là ở chỗ: dễ nghe lời dèm xiểm, nói xấu, xử sự nặng tình cảm mà dẫn đến thất bại.

Cự môn đồng độ với Thiên cơ, cần phải được cát hóa và có sao Cát thì mới phú quý (ở cung Mão ưu hơn ở cung Dậu), nhưng gặp Hỏa tinh hoặc Linh tinh bay đến là phá Cách, chủ về cuộc đời nhiều chìm nổi. Không gặp Cát tinh hoặc không được Cát hóa, mà gặp sát tinh thì phá tán, tàn tật.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ là cách "Thạch trung ẩn ngọc" được cát hóa là tốt, hóa Lộc thì chủ về phú, hóa Quyền thì chủ về quý. Có điều cuộc đời không nên ở vị trí tối cao.

Trường hợp Cự môn hóa Lộc hay hóa Quyền, thường đều thất bại ở Đại vận cung Tị; hóa Quyền thì thất bại vì tranh quyền; hóa Lộc thì thất bại vì quá muốn làm giầu. Nó thường thành công ở những đại vận "Vũ khúc Thất sát", Thiên phủ.

Cự môn ở hau cung Tý hoặc Ngọ, đồng độ với Lộc tồn, cần phải gặp Cát tinh mới phú quý. Rất kị cung hạn Thiên Cơ, cũng không ưa cung ở tam phương có Địa không Địa kiếp bay đến. Nó thường thành công ở Đại vận có sao Lộc trùng điệp.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, không có sao Lộc, cần phải đến Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc, mới chủ về phát vượt lên, gặp niên hạn có Địa không, Địa kiếp và Hóa Kị (nhất là Thiên cơ hóa Kị), sẽ chủ về phá tán, thất bại.

Cự môn ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thông thường bất lợi cung Huynh đệ. Vì vậy không nên hợp tác với người khác, cũng thường chủ về kết hôn muộn, Cự môn ở cung Tý thì càng đúng.

Cự môn ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thông thường là bát lợi. Cổ nhân nói: "Cự môn ngại bị hãm ở hai cung Thìn Tuất" (Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự môn), chủ về vất vả, tranh chấp thị phi. Khi Cự môn hóa Kị, có sát tinh bay đến là hạ cách. Cự môn ở hai cung Thìn hay Tuất, thì không nên đến các cung hạn Thiên tướng, Thiên lương, Thiên đồng, Thiên phủ, thường xảy ra sự cố, mà nên đến các cung hạn Thái âm, Thái dương nhập miếu. Rất nên đến các vạn hạn gặp Lộc tồn, Hóa lộc có thể giải tai ách của Cự Môn.

Cự Môn hóa Lộc ở cung Thìn, có Văn Xương hóa Kị đồng cung hoặc vây chiếu, là cách cục đặc biệt, rất phú quý. Đến cung hạn Thiên Phủ, là đại vận phát đạt. Cự môn ưa sao tiền tài, cho nên ưa cung hạn Thiên Phủ. Nhưng Cự môn không nên đến niên hạn Thiên Đồng, thường vì tham cầu thái quá mà gặp hung.

Cự môn ở cung Tuất hóa Lộc hay hóa Quyền đều cát, nhưng không nên gặp Văn Xương hóa Kị, gặp Thiên Phủ thì nên, gặp Thiên đồng thì ngại.

Cự môn ở hai cung Tị hoặc Hợi, có sự khác biệt rất lớn. Ở cung Hợi thì có Thái dương ở cung Tị vậy chiếu cho nên cát, nếu được cát hóa và có sao cát, ắt chủ về phú quý. Nhưng đến Đại vận Thiên cơ Thiên đồng (kị nhất là Lưu niên Thất sát), sẽ dễ vì cố xuất đầu lộ diện mà gây ra tai họa, hoặc vì quá lộ tài năng mà gây ra tai ương.

Cự môn ở cung Tị, thì Thái dương ở đối cung vô lực, cho nên không là cát lợi, chỉ khi nào gặp sao Lộc, mới chủ về nhờ cần kiệm mà trở nên giầu có. Ưa đến các cung hạn "Tử vi Thiên phủ", Vũ khúc, có Lộc tồn, Hóa Lộc, không ưa đến cung hạn Thất sát, cung hạn "Liêm trinh Thiên tướng", cung hạn Tham lang.

Cự Môn ở 12 cung đều ưa gặp sao Lộc, trường hợp hóa thành sao Lộc thì rất tốt, trường hợp Lộc tồn là kế đó. Các vận hạn trong cuộc đời cũng ưa có Hóa Lộc và gặp sao Lộc. Hễ Cự môn hóa Quyền, ưa đến nhất là Đại vận hoặc Lưu niên gặp sao Lộc. Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hay Mùi, là được Vũ khúc hóa Lộc và Tham lang hóa Quyền giáp cung, cũng khá tốt. Rất sợ có Hỏa Linh đồng độ, dù phú quý cũng không lâu dài.

Đọc thêm CỰ MÔN - can Đinh hóa Kị

Cự Môn không ưa hóa thành Kị, vì vốn đã có tính chất "điều tiếng thị phi", sau khi Hóa Kị càng làm mạnh thêm tính chất xấu này, khiến cho đời người thêm nhiều phiền phức rắc rối.

Cự Môn sau khi Hóa Kị cũng ảnh hưởng đến phương diện tình cảm, thường dễ xảy ra phiền phức liên tiếp mà không thể đoán trước được. Cho nên người Cự môn hóa Kị tọa mệnh, bất kể các sao của cung Phu Thê hoàn mỹ đến đâu, ít nhất cũng có một lần gãy đổ trong tình yêu hoặc hôn nhân, tất nhiên sau đó để lại vết thương lòng suốt đời khó quên.

Thích cầu toàn cầu mỹ, nhưng bất kể đã nỗ lực như thế nào, sự nghiệp phát triển cũng không được như lý tưởng. Nhưng mệnh tạo lại chấp trước sự hoàn mỹ vì vậy mà sinh ra thất vọng, hơn nữa trong quá trình sự kiện phát triển mệnh tạo rất đau đớn khổ sở và vất vả. Lúc có Đà La đồng độ, khuynh hướng này càng rõ rệt.

Cự Môn hóa Kị độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thiên cơ hóa Khoa, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung tam hội có Thái Dương độc tọa và mượn "Thiên Đồng Thiên Lương" mà Thiên Đồng hóa Quyền. Cự môn hóa Kị trong tinh hệ này, thường nhờ "hung sự" mà biến thành lực kích phát. Sự số trắc trở đang trong quá trình phát triển thì ngưng lại, những mỗi lần trắc trở như vậy, thực ra lại khiến cho kết cục càng hoàn mỹ. "Thấy Hung thực ra là Cát" là đặc điểm của nó.

Mệnh cục này bất lợi về hôn nhân, tuy giao du với nhiều người khác giới, nhưng tình cảm vẫn duy trì lâu dài một cách lặng lẽ, hoặc lúc tình cảm phát triển tới mức độ sâu đậm thì bỗng nhiên xảy ra biến cố, dẫn đến chia ly. Ở cung Ngọ dễ chuốc điều tiếng thị phi hơn ở cung Tý, nhưng lại trở thành sức mạnh kích phát.

"Thiên đồng Cự môn" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, khi Cự môn hóa Kị ắt Thiên đồng hóa Quyền (xin tham khảo phần Thiên Đồng hóa Quyền) khi Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.

Tinh hệ "Thái dương Cự môn" đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần gặp Lộc tồn), Cự môn hóa Kị, cung tam hội mượn "Thiên cơ Thiên lương" mà Thiên cơ hóa Khoa, và mượn "Thái âm Thiên đồng" một sao hóa Lộc một sao hóa Quyền. Tinh hệ này là cách cục tứ hóa hội hợp, nhưng do Cự Môn của bản cung hóa Kị, nên rất bất lợi về quan hệ nhân tế. Thông thường bất lợi đối với người thân phái nam, nên không thích hợp với nữ mệnh, đến tuổi trung niên không có duyên với chồng, đến tuổi vãn niên thì có khoảng cách đối với con cái. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều chủ về thiếu duyên với cha, hoặc dễ xung đột với thượng cấp. Do tính chất "điều tiếng thị phi", nên rất thích hợp với nghề nghiệp "dùng lời nói để kiếm tiền" như luật sư, dạy học,.v.v... nhờ "Lộc Quyền Khoa hội" có thể thăng tiến danh dự và tài lộc.

Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, khi Cự môn hóa Kị, ắt Thiên cơ hóa Khoa (xin tham khảo phần Thiên Cơ hóa Khoa)

Cự Môn độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên Đồng ở đối cung hóa Quyền, cung tam hội Thái dương độc tọa và mượn "Thiên cơ Thái âm" mà Thái âm hóa Lộc, Thiên cơ hóa Khoa. Cự môn hóa Kị ở Thiên la Địa võng lại chủ về cát lợi, tính chất "thấy Hung mà thực ra là Cát" rất rõ ràng. Cho nên bề ngoài tuy gặp trắc trở, điều tiếng thị phi, nhưng kết cục thường thường lại khiến cho người ta bất ngờ, có điều vẫn khó tránh phải trải qua gian khổ, tâm lư lo nghĩ. Nếu gặp Hỏa Linh, hoặc Không Kiếp đồng độ, thì rất thích hợp "dùng lời nói để kiếm tiền". Có điều mệnh tạo ưa giải quyết khó khăn cho người khác, nên sự nghiệp tuy tốt nhưng cuộc đời lại khó được yên tịnh. Hôn nhân cũng chủ về mỹ mãn, bất kể nam mênh hay nữ mệnh, đều nên lấy người có sự nghiệp.

Cự môn độc tọa, hóa Kị ở hai Cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Đà la, cung tam hội là Thiên đồng độc tọa hóa Quyền và Thiên Cơ đọc tọa hóa Khoa. Thông thường, tinh hệ này ảnh hưởng đến lục thân ở mức độ nhẹ, Cự môn ở cung Hợi càng nhẹ hơn, nhưng tình hình về "điều tiếng thị phi", và sóng gió trắc trở trong tình cảm thì khá nặng. Nam mệnh ắt sẽ lấy được vợ đẹp, nữ mệnh ắt sẽ lấy được chồng có đường sự nghiệp tốt, bàng nhân thiên hạ đều cho rằng họ đẹp đôi, nhưng phần nhiều họ lại bất mãn với người phối ngẫu, sau trung niên thường thay lòng đổi dạ, khiến cho mọi người xung quanh đều ngạc nhiên.

Đan trì quế trì cách

"Đan trì quế trì cách" tức là Thái Dương cư Thìn, Thái âm cư Tuất, an mệnh tại cung Thìn hoặc cung Tuất. Thái dương cư Tị, Thái âm cư Dậu, an mệnh ở cung Tị hoặc cung Dậu.

Cổ ca nói:

Nhị diệu thường minh chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Thiếu niên tế đắc phong vân hội

Nhất dược thiên trì tiện hóa long.

Dịch nghĩa:

Hai sao thường sáng chính đắc trung

Tài hoa thanh thế định anh hùng

Tuổi trẻ đỗ đạt ra làm quan

Một bước lên mây hóa thành rồng.

Thái dương thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "đan trì", Thái âm thủ mệnh mà nhập miếu, cổ nhân gọi là "quế trì".

Thời cổ đại xem trọng công danh khoa cử, mà không trọng sự giầu có của giới thương nhân, do đó cho rằng "đan trì quế trì" là đại lợi về cầu Danh. Vì vậy, cổ quyết mới có các thuyết:

- "Thái dương thủ cung Mão, phú quý vinh hoa",

- "Thái dương thủ mệnh ở các cung Mão Thìn Tị Ngọ, gặp các sao Cát, là đại quý" (Thái dương thủ mệnh vu Mão Thìn Tị Ngọ, kiến chư cát đại quý)

- "Thái âm ở cung Tý là đài quế nước trong, được chức quan trọng yếu, là trung thần can gián" (Thái âm cư Tý, thị thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián ti tài)

"Trăng sáng cửa trời ở cung Hợi, là phong hâu thăng chức tước" (Nguyệt lãng thiên môn vu Hợi địa, tiến bước phong hầu)

Thảy đều vì Thái dương, Thái âm miếu địa mà ra.

Nhưng hậu nhân lại thiên lệch, phải tìm cho ra cách "hai sao đều sáng", với ý đồ làm tăng vẻ vang cho Mệnh Cục, do đó đưa ra cách: "Nhật Nguyệt tịnh minh cách", và "Nhật Nguyệt hội minh cách", ngoài ra còn cật lực tìm ra tinh hệ Nhật Nguyệt cư cung miếu vượng hỗ tương hội chiếu, làm thành mối quan hệ giữa Cách và Cục, còn không dùng cái tên "đan trì" và "quế trì".

Cách này có tính giới hạn cục bộ rất lớn. Thứ nhất là phải gặp sao Lộc, thứ hai là phải gặp các Cát tinh Xương Khúc Tả Hữu, thứ ba là phải gặp một ít Sát tinh trong số Hỏa tinh Linh tinh Kình dương Đà la. Nhưng nếu phù hợp điều kiện này, về căn bản không phải nệ vào cách cục nữa.

Đọc thêm về Đan trì quế trì cách

------------------------------------------

Thái Dương tổng luận

Như chúng ta đã biết, Thái Dương là chủ tinh của các sao Trung thiên, thuộc dương hỏa. Do thái dương là chủ tinh của Trung Thiên, cho nên cũng ưa "bách quan triều củng".

Đặc tính rất quan trọng của Thái Dương là phát ra ánh sáng và nhiệt, nhờ vậy mà ánh sáng chói lọi. Vì vậy, trong đời người nó chủ về thanh danh và quý hiển, trừ phi Thái dương hội hợp với các sao chủ về tài phú, như Thái âm, Hóa Lộc, Lộc tồn, nếu không càng chủ về quý mà không chủ về giầu có.

Chủ về quý là đặc tính của Thái Dương, do đó cũng ưa đồng độ, hoặc hội hợp với các sao mang tính chất quý hiển, như Thiên lương, Thiên khôi, Thiên việt. Thậm chí người Thái Dương tọa mệnh, đến cung hạn có các sao quý hiển tọa thủ như: Tử vi, Thiên phủ, Thiên lương, Thái âm cũng cần đặc biệt chú ý, đây có thể là niên hạn khai vận. Nếu được thêm lưu Khôi, lưu Việt xung chiếu Thiên khôi, Thiên việt của nguyên cục, thì chủ về gặp nhiều cơ hội.

Thái Dương đã có đặc tính phát xạ, vì vậy đang lúc nhập miếu, thì không nên gặp quá nhiều các sao mang tính chất phát xạ, như Thiên Mã, Linh tinh, Hỏa tinh, Thiên lương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái. Nếu không nhiệt và ánh sáng của Thái dương sẽ khuếch tán thái quá, càng dễ thành trống rỗng mà thiếu thực tế.

Cũng vậy, Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ, trái lại, không tốt bằng ở cung Tị. Bởi vì Thái dương của cung Ngọ đã thuộc "Nhật lệ trung thiên", lại đi quá một bước mặt trời bắt đầu lặn về Tây, hơn nữa lúc này ánh nắng rất mãnh liệt, không bằng Thái dương của cung Tị, trái lại còn có chỗ để phát triển.

Cho nên muốn phán đoán sự tốt xấu của Thái Dương, cần phải tuần tự phân tích theo 4 nguyên tắc sau:

(1)- Trước tiên nghiên cứu xem, Thái dương ở vào cung vị miếu vượng lợi hãm thế nào? Đại khái là, nên miếu vượng mà không nên lạc hãm, người sinh vào ban đêm (người sinh vào các giờ Thân Dậu Tuất Hợi Tý Sửu) càng không nên.

(2)- Do không có sao tiền tài hội hợp, mà phán đoán xem nó thuộc sang quý thanh cao, hay thuộc tình huống gồm đủ phú quý, hoặc nhuyễn hóa thành phú mà không quý. Đương nhiên tình huống xấu nhất biến thành không phú mà cũng không quý.

(3)- Như luận đoán trong vận hạn, thì cần lưu ý Thái Dương ở cung mệnh của vận hạn có gặp cơ hội khai vận hay không.

(4)- Bất kể luận đoán cung mệnh của thiên bàn, hoặc cung mệnh của vận hạn, đều phải chú ý "trung hòa". Nếu Thái dương ở trong cung quá mạnh mẽ, thì nên gặp các sao có tính thu liễm. Nếu ánh sáng và nhiệt của Thái dương không đủ (như ở cung Thân đã có hiện tượng mặt trời lặn về Tây), thì có thể nhờ các sao có tính phóng xạ để trợ giúp. Tóm lại, thảy đều phải quy về hai chữ "trung hòa".

Thái dương hóa Lộc chủ về phú và quý. Nhưng khi cung mệnh của vận hạn gặp Thái dương hóa thành sao Lộc, mức độ phú quý của nó vẫn phải căn cứ các sao của của mệnh của "thiên bàn" để tính. Nếu các sao quá yếu, như mệnh vô chính diệu, mượn các sao Thiên đồng Thái âm hóa Kị để nhập cung, hoặc tinh hệ "Cự môn Thiên cơ" lạc hãm, thì mức độ phú quý sẽ giảm rất nhiều.

Thái dương hóa Quyền hóa Khoa sẽ không bằng hóa Lộc, bởi vì hóa Quyền và hóa Khoa chỉ có thể làm tăng sự quý hiển của Thái dương, mà không thể làm cho giầu có được. Thời xưa tệ trọng phú hơn trọng quý còn ít, trong xã hội thương nghiệp hiện đại, người ta trọng phú nhiều hơn là trọng quý. Vì vậy không ưa tính chất hơi thiên lệch của Thái dương hóa Quyền hay hóa Khoa. Bất kể cung mệnh của mệnh bàn, hay cung mệnh của vận hạn, tính chất đều thuộc như vậy.

Người sinh vào ban đêm không nên có Thái Dương tọa mệnh, Thái Dương lạc hãm càng không nên. Nói "không nên" có hai tính chất như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái nam. Nam thì bất lợi về phụ huynh hoặc trưởng nữ, đối với nữ thì bất lợi về Cha, Chồng và trưởng tử. Nhưng những bất lợi này không nhất định là tử vong, mà có thể là sinh ly, thiếu duyên phận với nhau, hoặc hình thành khoảng cách giữa hai đời, có lúc lục thân bị nạn tai, bệnh tật.

Những tính chất này đối với phái nữ mà nói, thì khá dễ cảm thấy trống rỗng, nhất là sau tuổi trung niên, thiếu duyên với Chồng, tóm lại đúng là khiếm khuyết của đời người.

(2)- Bản thân dễ bị tai nạn, bệnh tật, nhất là chủ về bệnh hệ tuần hoàn, hệ thần kinh. Nếu ánh sáng của Thái dương quá thịnh hoặc quá yếu, thì dễ mắc bệnh ở mắt, nhất là dễ loạn thị lòa mắt.

Kết cấu tinh hệ Thái dương trong 12 cung, luôn đồng độ hoặc đối củng với ba sao Thái Âm, Cự Môn, Thiên Lương, vì vậy 3 sao này ảnh hưởng rất lớn đối với Thái Dương.

Ở hai cung Tý hay Ngọ, Thái dương và Thiên lương chiếu nhau, ở hai cung Mão Dậu, "Thái dương Thiên lương" đồng độ. Cho nên 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp của thái Dương, Thiên Lương.

Ở hai cung Thìn Tuất, Thái dương và Thái âm chiếu nhau, ở hai cung Sửu Mùi, "Thái dương Thái âm" đồng độ. Cho nên 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Thái âm.

Ở hai cung Tị Hợi, Thái dương và Cự Môn chiếu nhau, ở hai cung Dần Thân, "Thái dương Cự môn" đồng độ. Cho nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp của tinh hệ Thái dương Cự môn.

Trong các tình huống thông thường, Thái dương rất ưa trường hợp tinh hệ "Thái dương Cự môn" ở cung Dần, hoặc Thái dương độc tọa ở cung Mão, Thìn, Tị. Khá ngại "Thái dương Cự môn" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Thân, và tinh hệ "Thái dương Thiên lương" gặp các sao Sát - Kị - Hình ở cung Dậu.

Thái dương còn là sao chủ về kiện tụng và điều tiếng thị phi, vì vậy không nên gặp quá nhiều sao Hình, như Kình dương, Thiên hình, Quan phủ, Bạch hổ. Nhất là Thái Dương hóa thành sao Kị, gặp sao Hình càng dễ chuốc oán, nạn tai.

Liên quan đến kiện tụng thị phi, nhiều lúc do cung Phúc đức mang lại, chứ không chỉ thuộc cung Mệnh, vì vậy khi luận đoán mệnh bàn, gặp Thái dương tọa thủ cung Phúc đức cũng cần chú ý.

Đọc thêm về Đàn trì quế trì cách

-------------------------------------------------

Thái Dương biệt luận

Ba đặc tính của Thái Dương tọa mệnh

Cổ nhân có thiên kiến đối với Thá Dương, cho rằng miếu vương thì Cát, lạc hãm thì Hung. Nói "miếu vượng" tức là mặt Trời (Thái dương) ở vào Giờ có ánh sáng mạnh, bắt đầu từ cung Mão đến cung Ngọ, thì mặt Trời ở giữa Trời, đến cung Dậu bắt đầu mặt Trời lặn về Tây, sau đó đến cung Dần mặt Trời bắt đầu lại nhô lên. Do đó lúc luận đoán đương số có Thái Dương thủ mệnh, cần phải xem trọng tính chất của từng cung độ. Nói cách khác, Thái dương thủ mệnh ở cung Hợi, mệnh vận sẽ không thể bằng ở cung Tị. Công thức đoán mệnh này hầu như đã thành mẫu mực.

Vì vậy, đối với người có Thái Dương thủ mệnh, cổ thư có mấy câu bình giải điển hình như sau:

- "Thái dương thủ mệnh lạc hãm, dù Hóa Quyền Hóa Lộc vẫn hung, quan lộc không hiển đạt, thành bại bất nhất"

- "Thái dương tủ mệnh, lạc hãm mà thêm hung tinh sát tinh, chủ về người mang tật"

- "Thái dương thủ mệnh miếu vượng, phú quý vinh hoa"

- "Nữ mệnh Thái Dương ở bốn cung Mão Thìn Tị Ngọ, không có sát tinh, chủ về vượng phu ích tử"

Tóm lại, cổ nhân cho rằng cung Mệnh mà gặp Thái Dương buổi sáng là Cát, gặp Thái Dương buổi chiều là Hung. Công thức đoán mệnh này đánh mất tính cách thông thường của Thái dương, mà còn bỏ xót một điều rằng: Thái dương buổi sáng cũng có khiếm khuyết của nó, Thái dương buổi chiều cũng có uy lực của nó. Vương Đình Chi cho rằng, phái Trung Châu luận về Thái dương khách quan hơn.

Thái dương tọa mệnh thực ra có 3 đặc điểm như sau:

(1)- Một là: hào phóng. Nói "hào phóng", có nghĩa là không tính toán, so đo tiểu tiết. Cho nên người có Thái dương thủ mệnh thường làm cho người khác phải ghi nhớ trong lòng.

(2)- Thứ hai: danh lớn hơn lợi. Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về Phú, Thái dương chủ về Quý. Cho nên người có Thái dương tọa mệnh, bất kể sự nghiệp phát triển lớn đến mức nào, cũng chưa chắc là "cự phú", thậm chí có lúc bản thân không giầu có bằng người dưới quyền của họ.

(3)- Thứ ba: tâm cao khí ngạo. Dù là người ở địa vị dưới cũng thường không phục thượng cấp, trừ khi thượng cấp của họ rất có danh vọng, hoặc rất có tài lãnh đạo. Người có Thái Dương thủ mệnh, thường cảm tháy vận khí của mình không được tốt, mà chẳng cảm thấy chính mình có chỗ không bằng người.

Thái Dượng tọa mệnh có ba loại phối hợp

Thái Dương đồng cung với chính diệu khác, chỉ có 3 tình huống. Một là lúc đồng độ với Thái âm ở cung Sửu hoặc cung Mùi; hai là lúc đồng độ với Cự môn ở cung Dần hoặc cung Thân; ba là lúc đồng độ với Thiên lương tại cung Mão hoặc cung Dậu. Ở sáu cung Tý, Thìn, Tị, Ngọ, Tuất, Hợi còn lại, đều là Thái dương đọc tọa.

Nhưng Thái dương độc tọa cũng có 3 tình huống khác nhau. Thái dương độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, nhất định sẽ đối nhau với Thiên lương, Thái dương độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, nhất định sẽ đối nhau với Cự Môn, Thái dương độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, nhất định sẽ đối nhau với Thái âm.

Cho nên, Thái dương có quan hệ với chính diệu, thực ra chỉ có 3 sao Cự môn, Thiên lương, Thái âm, và chia thành hai tình huống: đồng cung và đối cung.

Phái Trung Châu nghiên cứu đặc tính của Thái Dương, rất chú trọng mối quan hệ của Thái dương với Thái âm, Cự môn, Thiên lương, mà không chỉ chăm chú vào tình hình Thái dương ở cung độ sáng hay tối.

Cự môn chủ về "ám", Thái âm chủ về "phú", Thiên lương chủ về "sang quý thanh cao". Ba tính chất cơ bản này sẽ ảnh hưởng đến Thái dương thủ mệnh. Cho nên, về đại thể, Thái dương gặp Cự môn là người chỉ có hư danh, Thái dương gặp Thái âm là người có thể phú quý, cũng có thể chỉ thuộc loại tiểu phú quý, thậm chí chỉ là người ở bậc trung có chút quyền lực, Thái dương gặp Thiên lương là người quá tuân thủ nguyên tắc, thành nhân vật được người trong giới chuyên nghiệp biết đến, nhưng không phải là người trong đại chúng nghe danh.

Đương nhiên, trên chỉ là những đặc tính cơ bản, tình hình cụ thể vẫn phải cần xem xét các sao hội hợp khác mà thay đổi.

So sánh Thái Dương với Tử Vi

Trong Đẩu Số, Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", đây là tính chất cơ bản nhất, cho nên hễ người có Thái dương thủ mệnh, thì phải xem xét từ phương diện "quý" này.

Vì chủ về "quý", nên Thái dương rất ưa hội hợp với một số trợ tinh chủ về "quý", như: Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Ân quang, Thiên quý, Long trì, Phượng các. Các trợ tinh này chia thành 6 cặp, nếu có "sao đôi" đủ cặp, hội hợp với Thái Dương, thì sức mạnh càng lớn.

Ví dụ: Thái dương hội hợp với 3 sao cát là: Văn xương, Hữu bật, Thiên khôi, sẽ không bằng hội hợp với một cặp "sao đôi" trong đó, như chỉ hội hợp với cặp "sao đôi" Tả phụ, Hữu bật, thì sức mạnh của nó sẽ lớn hơn là hội hợp với ba sao cát phân tán kể trên.

Hai cặp sao đôi Tam thai và Bát tọa, Ân quan và Thiên quý, một khi phân tán sức mạnh sẽ cực kỳ nhỏ. Nhưng nếu "sao đôi" đủ cặp đồng cung với Thái dương, sức mạnh lại cực kỳ lớn, thậm chí so với ba bốn sao lẻ không thành đôi trong lục cát tinh là Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Tả phụ, Hữu bật, cũng không lớn bằng.

Tính chất của Thái Dương có thể nói so với Tử Vi thì kém hơn không nhiều, bởi vì Tử vi cũng cần các sao Cát "triều củng", sau đó mới có thể phát huy sức mạnh của nó. Nhưng trong đó cũng có một số phân biệt như sau:

- Tử vi thích Thiên phủ, Thiên tướng triều củng, đối với Thái dương thì không được nói chính diệu triều củng. Trong số lục sát tinh thì Tử vi sợ Tham lang và Phá quân, nhưng Thái dương thì không sợ hai sao này mà lại sợ Cự môn. Tử vi thủ mệnh chủ về rất có tài lãnh đạo và có uy nghiêm, Thái dương thủ mệnh thì chỉ hai có tài lãnh đạo, nhưng lại có đặc tính "cho mà không nhận", dễ khiến người khác gần gũi.

- Nhưng Thái dương lại có lực "hình khắc", còn Tử vi thì không có. Người có Tử vi thủ mệnh, duyên phận với Cha Mẹ, anh em, con cái đều khá tốt. Nhưng người có Thái dương thủ mệnh, thì lại có "hình khắc" đối với Cha, Anh, con cả, nặng thì tử vong, nhẹ thì sinh ly, hoặc tình cảm thân thuộc không được tốt.

- Thậm chí, ngay cả tình hình sức khỏe, tính chất của Tử vi cũng tốt hơn Thái dương.

Thái Dương tọa mệnh, hình khắc hay quý hiển

Do Thái dương có khuyết điểm "hình khắc", cho nên cổ nhân cho rằng "Thái dương Thái âm thủ mệnh không bằng chiếu hợp", lý do là, nếu cung mệnh không gặp Thái dương tọa thủ mà lại được Thái dương vây chiếu, thì vẫn khiến cho cung Mệnh có tính chất "quý", hơn nữa lại có thể giảm bớt mức độ "hình khắc" của Thái dương.

Kinh nghiệm của Vương Đình Chi, người hiện đại nếu gặp Thái dương thủ mệnh, mức độ "hình khắc" trên thực tế chẳng nặng như cổ nhân đã nói, mà mức độ quý hiển cũng không lớn như cổ nhân đã nói.

Có lẽ do phương thức sinh hoạt của cổ nhân và người hiện đại khác nhau. Thời xưa, cha con hai đời cung ở một nhà, dễ xảy ra va chạm, không như người hiện đại, sau khi kết hôn thì ra ở riêng. Vì vậy mệnh tạo có thể phát huy đặc tính tình cảm của sao Thái dương. Nhìn từ góc độ khác, ở riêng cũng có thể tính là "hình khắc" ở mức độ rất nhẹ.

Quan hệ với bạn bè cũng vậy, phạm vi xã giao của cổ nhân khá hẹp, do Thái dương tính tình mạnh mẽ, cho nên khi ở trong một phạm vi nhỏ, người ta khó mà tiếp nhận nổi, biến mệnh tạo thành người không hợp quần. Không như ngày nay, phạm vi xã giao khá lớn, có thể gặp những bạn bè tiếp nhận được mẫu người có tính tình đặc biệt.

Cho nên, dùng Đẩu Số để đoán mệnh, gặp Thái dương thủ mệnh, phải cận thận một chút, không nên hoàn toàn chiếu theo ca quyết của cổ nhân để luận đoán.

Ví dụ như cổ nhân nói: "Thái dương ở Ngọ, quý mà chuyên quyền", đó là vì cổ nhân thích Thái dương có ánh sáng chói lọi ở cung Ngọ. Trên thực tế, người hiện đại chưa chắc đã làm việc trong chính giới, mà con đường làm việc trong chính giới cũng ít, nếu kinh doanh làm ăn, thì người có Thái dương thủ mệnh ở cung Ngọ sẽ dễ biến thành người ưa xuất đầu lộ diện. Đây là vì Thái dương chủ về "quý", nên mệnh tạo ưa thích hư danh, ở phương diện khác Thái dương không chủ về phú, càng ưa hư danh càng dễ khoa trương phù phiếm.

Thái Âm tổng luận

Thái âm thuộc tinh hệ Trung Thiên, người sinh vào ban đêm (giờ Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu) lấy nó làm chủ tinh, thuộc âm thủy.

Do Thái Âm cũng là chủ tinh, nên cũng ưa "bách quan triều củng". Trong các tình hình thông thường, rất ưa Xăn xương, Văn khúc hội hợp, làm tăng sự sáng sủa, rực rỡ của Thái âm, mà còn làm tăng bẩm tính thông minh, khí chất thanh nhã. Nếu chỉ gặp một minh Xăn xương, hoặc một mình Văn khúc thì không phải là cách này, mà biến thành thủ đoạn, cổ nhân gọi là "giả văn vẻ", khi gặp Sát tinh thì biến thành "ngụy quân tử".

Thái Âm tuy cũng sáng sủa, rực rỡ, nhưng tính chất khác với Thái Dương. Tính chất của Thái dương là khuếch tán phát xạ, tính chất của Thái âm thì tiềm tàng và thu vào bên trong. Cho nên, lúc đánh giá mệnh Thái dương, thường ngại ánh sáng của Thái dương quá lộ, cho là điềm không lành; còn khi đánh giá mệnh Thái âm thì ngại sự thu vào bên trong quá đáng của nó, cho là không điều hòa.

Do đó, lúc Thái âm bất hòa, thường cần phải nhờ Thái dương cứu. Lúc Thái âm lạc hãm hóa Kị, hoặc lúc hội hợp với các sao chủ về tiềm tàng và thu vào bên trong như Đà la, Linh tinh, Thiên hình, Đại hao, Thiên hư, Âm sát, nếu được Thái dương nhập miếu, hoặc hóa Lộc ở tam phương tứ chính hội hợp, thì có thể cải thiện tính chất thu vào bên trong quá đáng của Thái âm, phát huy cái tốt của nó, mới không thành vô dụng mà biến thành âm mưu thủ đoạn.

Trái lại, lúc Thái âm nhập miếu, được cát hóa, lại ưa tính thu liễm vào bên trong một cách thích đáng, đây gọi là "anh hoa nội liễm" (tài năng nhưng không lộ ra). Nếu gặp các sao Thiên mã, Hỏa tinh, Thiên thương, Thiên sứ, Cô thần, Quả tú, Phỉ liêm, Phá toái, thì không phải là "anh hoa nội liễm", trái lại sẽ chủ về bên trong trống rỗng, không có thực chất, hành động phù phiếm.

Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về "phú", vì vậy Thái âm gặp hóa Lộc và Lộc tồn là thành Cách "phú" (phú cách)

Thái âm có sao Lộc mà gặp Văn xương, Văn khúc, thì tính chất của các sao khác mà nó gặp nên vững vàng, như Thái dương đồng độ với Thái âm. Cho nên cổ nhân luận mệnh số, có thuyết "Thái âm Thái dương hội Xương Khúc thì xuất thế vinh hoa". Nếu thuộc tinh hệ hiếu động, trôi nổi, thì không nên gặp Xương Khúc, cổ nhân nói: "Thái âm Thiên cơ Xương Khúc đồng cung ở Dần, nam là nô bộc, nữ là xướng kỹ", là vì tinh hệ "Thái âm Thiên cơ" quá hiếu động, trôi nổi.

Thông minh và cơ trí tiểu xảo vốn cách nhau chỉ một đường ranh. Trong trường hợp hội Xương Khúc, cần phải xem xét kỹ để phân biệt.

Còn trường hợp gặp "sao lẻ" Văn xương, hay Văn khúc, nhất là trương hợp chỉ gặp một mình Văn khúc, đối với Thái âm rất là không nên, người xưa nói đây là Cách yếu kém "Văn khúc Thái âm, cửu lưu thuật sỹ".

Gặp Lộc tồn có nên đồng thời gặp thêm Thiên mã hay không? Còn phải xem Thái âm là nhập miếu hay lạc hãm, tinh hệ có tính ổn định hay hiếu động trôi nổi mà định. Ở đây hơi giống trường hợp Văn xương, Văn khúc.

Có Tả phụ, Hữu bật hội hợp, có thể làm tăng địa vị của người có Thái Âm thủ mệnh. Có Thiên khôi, Thiên việt hội chiếu, thì có lợi trong tranh chấp. Nhưng những phụ diệu này, chỉ có thể dựa vào việc đã có mà làm tốt đẹp thêm, luận về bản chất, thông thường Thái âm vẫn ưa gặp các tá diệu hơn, tức Xương Khúc, Lộc tồn, Thiên mã.

"Phụ diệu" chủ về "tha lực", tức là do người khác giúp sức và gặp cơ hội tốt. Đối với "tá diệu", thì chủ về "tự lực", tức là bản thân phải nỗ lực mới có thể phát huy tiềm năng. Thái âm ưa "tá diệu" hơn "phụ diệu", do đó nỗ lực Hậu thiên trở thành rất quan trọng. Cách Thái âm tọa mệnh có tốt, cũng chủ về phải trải qua phấn đấu mới có thành tựu. Khi luận đoán Đẩu Số, cần phải biết điều này.

Thái Âm giống Thái Dương, không ưa Kình dương, Đà la. Người xưa nói:

- "Thái dương, Thái âm gặp Kình Đà, chủ về phần nhiều khắc người thân"

- "Thái dương Thái âm ở cung hãm gặp các sao ác sát, chủ về vất vả bôn ba"

Nhưng Thái âm lại sợ Kình dương, Đà la hơn Thái dương, cổ nhân nói: "Thái âm gặp Kình dương, Đà la, ắt sẽ xảy ra người thì chia ly, tiền tài thì hao tán".

Đối với sự ưa hay ghét Hỏa tinh, Linh tinh, cần phải xem mức độ sáng sủa rực rỡ của Thái âm mà định.

Lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, Thái âm sẽ nhiều ảo tưởng, hay bất mãn, điều này dễ thành căn nguyên của sự thất bại trong đời, đối với nữ mệnh cần đề phòng vì vậy mà ảnh hưởng đến đời sống tình cảm.

Thái âm thủ mệnh, cung Phúc đức có ảnh hưởng rất quan trọng đối với mệnh tạo. Khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh và cung Phúc đức vốn phải xem xét cùng lúc, có điều đối với người Thái âm tọa mệnh, thì vai trò của cung Phúc đức càng quan trọng hơn.

Nếu Thái âm yên tĩnh ở cung Mệnh, mà cung Phúc đức lại biến động thay đổi, không ổn định, ví dụ như cung mệnh là tinh hệ "Thiên đồng Thái âm", Thái âm hóa Lộc, nhưng cung Phúc đức lại là tinh hệ "Thái dương Cự môn", Cự môn hóa Kị, nếu lại thêm các sao Hình - Sát, thì mệnh tạo sẽ bị bối rối khó sử về tinh thần mà ảnh hưởng đến sự yên ổn thực tế.

Nếu Thái âm phát huy anh hoa đúng như phận của nó ở cung mệnh, mà cung Phúc đức lại u ám, trôi nổi, hiếu động. Ví dụ như cung mệnh Thái âm hóa Quyền ở Tuất, ánh sáng rực rỡ phát ra, nhưng Cự môn ở cung Phúc đức lại có Thiên cơ hóa Kị đối củng, nếu lại gặp các sao hình - sát, về tinh thần sẽ nhiều mặt u ám, mà còn hay làm chuyện thị phi sau lưng, nhiều cơ tâm, vì vậy mà ảnh hưởng đến Thái âm ở cung Mệnh. Qua hai thí dụ này, có thể thấy cung Phúc đức của Thái âm thủ mệnh mà có Cự môn thì nên chú ý.

Cổ nhân cho rằng, đời người không nên thuộc Thái Âm tọa mệnh, Thái âm lạc hãm thì càng không nên. Giống như người Thái dương tọa mệnh sinh vào ban đêm, cũng có hai điều không tốt như sau:

(1)- Bất lợi về lục thân phái Nữ, nam mệnh thì bất lợi về Mẹ, Vợ, con gái, nữ mệnh thì bất lợi về Mẹ và trưởng nữ. Bất lợi ở đây không nhất định là tử vong, có thể chỉ thuộc tình cảm không dung hợp, hoặc lục thân gặp nhiều nạn tai, bệnh tật.

(2)- Bản thân mệnh tạo cũng gặp nhiều nạn tai bệnh tật, nhất là bệnh ở thận và các cơ năng trọng yếu. Gặp Đà la thì sinh bệnh tật ở mắt, đặc biệt tinh hệ "Thái âm Thiên đồng" thì càng nghiệm.

Kết cấu tinh hệ Thái Âm ở 12 cung, ắt sẽ đồng độ hoặc đối nhau với Thiên đồng, Thái dương, Thiên cơ. Thái âm ở 4 cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp "Thái âm Thiên đồng". Thái âm ở 4 cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tinh hệ "Thái âm Thái dương". Thái âm ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp tinh hệ "Thái âm Thiên cơ". Thông thường trong các tình hình này, khá ưa "Thái âm Thiên đồng" của cung Tý, ưa Thái âm độc tọa của hai cung Tuất hoặc Hợi, hơi ngại Thái âm độc tọa ở cung Tị, "Thái âm Thiên đồng" của cung Ngọ. Những trường hợp kể trên, sẽ thuật rõ ở chương: "Luận về sáu mươi tinh hệ".

Thái âm biệt luận

Thái Âm lạc hãm cũng không đáng sợ

Thái âm tức là mặt Trăng. Trong Tử vi Đẩu Số, Thái âm và Thái dương là một cặp "sao đôi" rất hữu lực của Trung Thiên, không thuộc Nam Đẩu mà cũng không thuộc Bắc Đẩu.

Hễ là "sao đôi" thì đều có tính chất vừa tương đồng lại vừa tương dị. Thái âm chủ về "phú", Thái dương chủ về "quý", Thái âm chủ về Nữ, Thái dương chủ về Nam, Thái âm chủ về nhu, Thái dương chủ về cương, Thái âm chủ về thủy, Thái dương chủ về hỏa.

Cổ nhân cho rằng, Thái Âm có sự biến hóa rất lớn. Ở các cung Hợi Tý Sửu là nhập miếu, về cơ bản là mệnh tốt, ở các cung Tị Ngọ Mùi là lạc hãm, sẽ mang lại tai hại rất lớn. Cổ nhân nói: "Thái âm lạc hãm thì tổn thương vợ và mẹ", tức là bất lợi đối với người thân phái nữ, nếu là nữ mệnh thì nói: "là xướng kỹ tì thiếp, hình phu khắc tử". Thuyết này cổ nhân quá võ đoán. Đẩu Sô không đơn giản như vậy, Thái âm dù lạc hãm thì cũng phải gặp tứ sát tinh và Địa không Địa kiếp, hơn nữa còn phải có Sát tinh đồng cung, thêm vào đó cung Phúc đức và cung Thân cũng không tốt, thì mới xảy ra sự cố không vui vẻ, chứ chẳng phải như cổ nhân đã nói.

Ta lấy Thái âm thủ mệnh cư Ngọ làm thí dụ: Thái âm ở cung Ngọ là lạc hãm, đồng cung với Thiên đồng cũng lạc hãm. Chiểu theo thuyết của cổ nhân là "hóa cát thì thành hung, gặp sát tinh thì dâm tà", tức là nói nếu Thái âm và Thiên đồng mà hóa Lộc hóa Quyền hay hóa Khoa, thì ngược lại sẽ thành hung Cục, nếu còn gặp Hung - Sát tinh thì không còn gì để nói.

Nhưng trên thực tế thì không phải như vậy, có thể nói chẳng có chỗ nào đúng. Vương Đình Chi tôi từng đoán mệnh cho một nam một nữ, đều là người mệnh có "Thiên Đồng Thái Âm" thủ cung Ngọ, nam là một nhân vật quản lý cấp cao trong giới làm ăn kinh doanh, nữ là một chuyên gia trọng yếu của Cty quan hệ công cộng nổi tiếng. Nguyên nhân chủ yếu là vì bối cảnh khác nhau. Phàm là người có "Thiên đồng Thái âm" thủ mệnh ở cung Ngọ, đều có tính cách hướng nội, rất thích hợp với công tác nội vụ, đồng thời có tính kế hoạch rất mạnh, nhưng lại hay tưởng tượng. Tính cách này, ở xã hội cổ đại rất khó phát huy, còn ở xã hội hiện đại, thường có thể óc tưởng tượng mà sinh linh cảm, sau đó biến linh cảm thành kế hoạch. Hơn nữa các Cty hiện đại đều có một bộ phận vạch kế hoạch, nên người có kết cấu cung mệnh dạng này có thể phát huy sở trường của họ.

Thái Âm thủ mệnh, cần phải xem kèm cung Phúc đức

Cổ nhân luận đoán các tình hình Thái âm tọa thủ cung mệnh, chỉ căn cứ bối cảnh xã hội thời cổ đại, cho nên nhiều tư liệu ngày nay chỉ có thể dùng để tham khảo.

Ví dụ Thái Âm thủ mệnh ở cung Tuất, ánh sáng rực rỡ (thừa vượng), nhưng Phúc đức lại có Cự Môn ở cung Tý, cung Phúc đức chủ về tình trạng hưởng thụ tinh thần, Cự Môn tọa thủ cung Tý, ắt sẽ đối xung với Thiên Cơ, một khi gặp Sát tinh, sẽ dễ dẫn đến tranh chấp, khiến thân tâm đều bất an, làm sao "một đời vui vẻ"? Đây là do bối cảnh xã hội khác nhau gây nên sự khác biệt.

Lại như cổ quyết nói: "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng". Hễ Thái âm ở cung Tý, ắt sẽ đồng cung với Thiên đồng, cổ nhân xem Thiên đồng là "sao Phúc", khó tránh cổ nhân đã đánh giá quá cao. Nhưng phúc khí của Thiên đồng là phải nỗ lực mới có được, do đó cung Phúc đức càng quan trọng. Lúc Thái âm thủ mệnh ở cung Tý, cung Phúc nhất định là tinh hệ "Thái dương Cự môn" thủ cung Dần, nếu gặp sát tinh, chủ về tinh thần bị rắc rối khó xử, đồng thời vào thời điểm tranh chấp, dễ dùng thủ đoạn không chính đáng. Tình hình này nhất định sẽ ảnh hưởng đến sức kiên nhẫn và sự nỗ lực của Thiên đồng. Do đó cũng cần phải đánh giá lại luận đoán "Thái âm ở cung Tý, thi cử đỗ đạt, làm quan cao, là người trung thành và ngay thẳng".

Ở xã hội cổ đại mọi việc còn đơn thuần, dù Thái dương và Cự môn thủ cung Phúc đức có gặp sát tinh, cũng chủ về người này cần phải động não khi "nói năng" mà thôi, cho nên mới có thể thành "người trung thành và ngay thẳng". Xã hội ngày nay, áp lực cạnh tranh rất lớn, bức bác người có "Thái dương Cự môn" gặp sát tinh, thủ cung Phúc, phải "xuất chiêu quyền biến", làm sao "trung thành và ngay thẳng"? Cho nên, khi luận về Mệnh của người có "Thái âm thủ mệnh", cần phải xem kèm cung Phúc đức để đánh giá.

Tả hữu đồng cung cách

"Tả hữu đồng cung cách" tức là hai Phụ diệu Tử Phụ và Hữu Bật cùng tọa thủ ở cung Mệnh.

Cổ ca nói:

Mệnh cung Phụ Bật hữu căn nguyên

Thiên địa thanh minh vạn tượng tiên

Đức nghiệp nguy nhiên nhân ngưỡng kính

Danh tuyên kim điện ngọc giai tiền.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh Phụ Bật là gốc rễ

Trời đất sáng sủa vạn vật tươi

Đức nghiệp lớn lao người kính ngưỡng

Tên được tuyên truyền trước điện ngọc.

Cách này là dựa vào thuyết của người đời Nguyên, như sau: "Tử phụ Hữu bật suốt đời nhiều phúc" (Tử phụ Hữu bật, chung thân phúc hậu) ; "Tả Hữu đồng cung, khoác áo lụa tía" (Tả Hữu đồng cung, phi la y tử). Bởi vì cổ nhân cho rằng, Tử Phụ và Hữu Bật là phụ tá của Hoàng đế, do đó đương nhiên tuyên danh ở điện vàng, thân đứng trước thêm ngọc.

Nhưng, phàm người sinh tháng 4, thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Mùi ; người sinh tháng 10 thì Tả Phụ và Hữu Bật nhất định đồng độ ở cung Sửu, như vậy người sinh tháng 4 và tháng 10 nhất định làm quan hết sao? Nếu vậy, chẳng phải là có quá nhiều người làm đại quan?

Thực ra thì không phải vậy, Tử phụ Hữu bật tuy trung hậu, tinh thông chữ nghĩa, nhưng dựa vào tính chất của Phụ tá mà nói, bất quá chỉ là mạng thư ký trợ lý mà thôi. Bởi vì trong một cơ cấu, Tổng Giám đốc giống như Vua, tính chất của Tả phụ Hữu bật chỉ là trợ thủ cơ yếu.

Cổ nhân nói "Tả Hữu đồng cung cách" sợ Hỏa tinh và Hóa Kị ở tam phương xung phá, như vậy là phá Cách. Đây là vì xã hội cổ đại vốn không có "thư ký trợ lý", ngày nay thì khác, đây giống như nhân viên trợ lý hay phụ tá. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là hội ngộ với Chính diệu.

Nếu Chính diệu (nên sửa lại là Phụ diệu, tức là Tả Hữu) đồng cung với Liêm trinh, thêm Kình dương, lại gặp Hóa Kị, thì người này thậm chí có thể là kẻ lường gạt, người trong xã hội đen.

Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.

Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.

Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức "sao đôi" hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là "sao lẻ" thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ "lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao "đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.

Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.

Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về "lạc quan", "khoan dung", "đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.

Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.

Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.

Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất "chất phác", "khoan dung", "đôn hậu" của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.

Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực "tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có "sao lẻ" hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.

Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách "Thất sát triều đẩu", "Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.

Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp "sao lẻ" (nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.

Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ: "Liêm trinh lạc hãm", "Thiên lương Thiên đồng", "Thiên cơ Cự môn", "Vũ khúc", thì lại chủ về "bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về "bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.

Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.

Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ "Tử vi Tham lang" đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.

Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.

Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.

Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ "Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" sẽ không có trợ lực.

Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.

Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp "sao lẻ" như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.

Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:

1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ "Vũ khúc tham lang" ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.

Các tinh hệ như "Tử vi Tham lang", Thiên phủ, "Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.

2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.

3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào "thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.

4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu, "mượn sao an cung" là các tinh hệ "Thiên đồng Cự môn", "Thái dương Thiên lương", "Thiên cơ Thái âm", "Thiên cơ Cự môn", "Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.

Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.

Tử Phủ đồng cung cách

"Tử Phủ đồng cung cách" tức an mệnh ở cung Dần hoặc Thân, trong cung có Tử Vi cà Thiên Phủ đồng tọa.

Cổ ca nói:

Đồng cung Tử Phủ quý sinh nhân

Thiên địa thanh minh vạn tượng tân

Hỷ ngộ Dần Thân đồng đắc địa

Thanh danh lỗi lạc động kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Tử Phủ đồng cung sinh quý nhân

Trời đất tươi sáng vạn vật tân

Ưa gặp Dần Thân cùng đắc địa

Tiếng tăm lỗi lạc động khôn kiền.

Đây là cách rất đáng thảo luận. Tử vi là chủ tinh Bắc Đẩu, hơn nữa Tử vi còn chủ về "quý", Thiên phủ chủ về "phú", xem ra đây là một kết cấu hoàn mỹ, không tỳ vết, hai chủ tinh tự thành Cách tốt.

Có biết vấn đề lại ở chỗ "hai chủ tinh đồng cung"! Dùng câu "một núi không thể có hai cọp" để hình dung thì dường như hơi quá đáng, nhưng tính chất mâu thuẫn giữa Tử vi và Thiên phủ lại có thể ảnh hưởng đến cảnh ngộ của cả một đời người.

Tử vi sở trường về sáng tạo, nhưng Thiên phủ lại có khuynh hướng bảo thủ. Tử vi có thể phát triển sự nghiệp mới, nhưng Thiên phủ chỉ giỏi về thủ thành, đây là những tính cách mâu thuẫn của hai sao. Thêm vào đó, tài lãnh đạo của Tử vi có khuynh hướng về uy tín, còn Thiên phủ chỉ khư khư giữ kiểu mẫu cũ để điều hòa. Vì vậy, về phương diện tài năng lãnh đạo cũng bị hai tính chất này gây cản trở, quấy rối nhau, không thể tạo uy tín, mà cũng không thể điều hòa người dưới quyền.

Cổ nhân đánh giá Cách này quá cao, do đương thời xã hội quan liêu, có chút danh vọng địa vị, đối với chính sự có thể vờ vịt làm cho qua, còn sợ mất chức. Còn xã hội ngày nay thì chú trọng đến trình độ và tài năng sáng tạo thực tế, do đó cách "Tử Phủ đồng cung" chỉ có thể đảm nhiệm vai trò chủ quản một bộ phận nhỏ mà thôi.

 Đọc thêm về Tử Phủ đồng cung cách

------------------------------------------------

LUẬN VỀ SÁU MƯƠI TINH HỆ

"Tử vi Thiên phủ" ở hai cung Dần hoặc Thân

"Tử vi Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, đối cung là Thất sát, cung tam hợp là Vũ khúc độc tọa, và "Liêm trinh Thiên tướng".

Muốn luận đoán bản tính của nhóm sao "Tử vi Thiên phủ" này, cần chú ý xem chúng là chủ động hay bị động. "Tử vi Thiên phủ" thuộc về tính chủ động thì "công" hay "thủ" đều được, nếu mang sắc thái bị động, thì dễ có phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ.

Lấy bản thân "Tử vi Thiên phủ" để nói, thực ra tinh hệ này đã mang tinh chất mâu thuẫn. Tử vi giỏi khai sáng, Thiên phủ giỏi phòng thủ, hai sao ở trong một hệ, nếu tính chất quân bình, đương nhiên vừa có thể công và vừa có thể thủ. Nhưng nếu tính chất thiên nặng một bên, như thiên về Tử vi, thì sẽ bị Thiên phủ gây lụy, lúc đó cần tiến mà không giám tiến. Nếu thiên về Thiên phủ, thì sẽ bị Tử vi gây ảnh hưởng, cần lui lại không chịu lui, lúc đó mọi việc sẽ rơi vào thế bị động, chỉ có thể dùng toàn lực để ứng phó với hoàn cảnh khách quan.

Thất sát và Vũ khúc ở "tam phương tứ chính" đều có thiên hướng nặng tính chất của Tử vi, lúc nào cũng tranh thủ chủ động. Đặc biệt là khi Vũ khúc hóa Khoa, dễ phối hợp với Thiên phủ, tuy chủ động nhưng không khiến sự mẫu thuẫn của hai sao "Tử vi Thiên phủ" quá nặng nề, chỉ cần hệ sao "Liêm trinh Thiên tướng" không bị Hỏa tinh Linh tinh xâm phạm quấy nhiễu, về cơ bản có thể coi "Tử vi Thiên phủ" thuộc loại có tính chất quân bình.

Nếu Vũ khúc độc tọa hóa làm sao Quyền, khiến tăng sắc thái chủ động của Tử vi, tuy vậy tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" chưa chắc đã mất quân bình, nhưng sóng gió trắc trở trong đời người, thì vẫn sẽ lớn hơn lúc Vũ khúc hóa Khoa. Bất kể là nam hay nữ mệnh, trong khoảng trước sau khoảng 30 tuổi, phần nhiều sẽ phải trải qua một lần bị trở ngại, là trở ngại về tình cảm hay trở ngại về vật chất, thì cần phải xem xét tổ hợp sao thực tế của đại hạn mà định tính chất cụ thể.

Nếu Vũ khúc hóa Lộc, tính chất đồng khí với Thiên phủ, nhưng cũng lợi cho Tử vi có tính khai sáng, cho nên về cơ bản thuộc loại công hay thủ đều được. Có điều cần phải có Lộc tồn đồng thời bay vào cung độ của "Tử vi Thiên phủ", mới có thể hóa giải khí "cô độc và hình khắc" của Vũ khúc. Vận không có Lộc tồn, thì mệnh tạo thủa nhỏ khá gian khổ.

Nếu tính chất cơ bản của tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thiên về Thiên phủ, lúc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Hình Kị giáp ấn", sẽ làm mạnh thêm tính bảo thủ của Thiên phủ. Sau trung niên, sự nghiệp đã có sơ sở, thì không nên nghĩ đến việc thay đổi nữa, nếu không sẽ gây ra thất bại. Hoặc sau trung niên bỗng nảy sinh tình huống rắc rối khó sử về tình cảm, sẽ bất lợi về đời sống vợ chồng.

Lúc "Liêm trinh Thiên tướng" thành cách "Tài Ấm giáp ấn", sức phòng thủ càng mạnh, đồng thời sẽ xảy ra tình trạng thay đổi tình cảm, là vì dùng tiền bạc để đo lường. Trong lúc "Tử vi Thiên phủ" đang bị sát tinh quấy nhiễu gây khó khăn, nếu không an phận giữ mình, về phương diện tình cảm hay vạt chất sẽ đều có thể bị trở ngại. Nhất là người thủa nhỏ quá được nuông chiều, sinh hoạt vật chất quá dư giả, thì trở ngại càng lớn.

"Tử vi Thiên phủ" thủ cung lục thân, đều dễ có những khuyết điểm đáng tiếc, như có hai mẹ, hai lần hôn nhân, nếu thủ cung Nô thì cũng mang ý vị thường hay thay đổi bạn. Đây là vì tính chất của Tử vi và Thiên phủ khó có trạng thái cân bằng tuyệt đối. Một khi mất quân bình, mà còn hơi gặp các sao sát - hình, thì dễ biến thành tính chất không lành. Tình hình cụ thể xin đọc lại ở phần 1.

Lúc "Tử vi Thiên phủ" đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ không chủ về biến động thay đổi trong thực tế, mà là chủ về biến động thay đổi trong tư tưởng. Nếu tinh hệ "Tử vi Thiên phủ" có tính chất mất quân bình, đến cung hạn này, thì tính chất của Thiên cơ lại làm mạnh thêm sắc thái mất quân bình, dễ biến thành thâm căn cố đế, có thể ảnh hưởng đến hậu vận.

Ví dụ như nữ mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục hội hợp với Liên trinh hóa Kị (can Đinh), do đó Thiên phủ chịu ảnh hưởng, dễ trở thành thờ ơ, tiêu cực. Lúc "Tử vi Thiên phủ đến cung hạn Thiên cơ độc tọa, càng dễ rời vào tình trạng chọn lựa kiểu tạm bợ, hoặc nhìn thấy mọi việc có vẻ có vẻ như đang thuận lợi toại ý, dù có ý thay đổi hiện thực thì cũng thiếu dũng khí thay đổi trong thực tế. Sau 10 năm hết vận hạn này, lúc đến vận hạn sau, càng mất hùng tâm trong sự nghiệp. Nhiều lúc thấy ngược lại, một số nữ mệnh, đại hạn có Lộc Quyền Khoa hội hợp, bản thân lại là chủ gia đình, là do nguyên nhân này.

Một thí dụ khác, nam mệnh "Tử vi Thiên phủ" của nguyên cục có Kình dương Đà la chiếu xạ, đặc biệt lúc Vũ khúc "cô kị" đồng độ với Đà la (can Nhâm Lộc tại Hợi), hoặc tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" thuộc loại "không ưa kích thích" đồng độ với Kình dương (can Bính Mậu), khi "Tử vi Thiên phủ" đến hạn Thiên cơ độc tọa, sẽ thường dễ bị sợ gian nan, mà chọn sai hướng đi trong cuộc đời.

Nếu đại hạn là Thiên cơ hóa Lộc (can Ất), thì thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động. Nếu Thiên cơ hóa Khoa thì trái lại, sẽ thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động. Bởi vì gặp sao Lộc là lợi về tranh thủ, gặp sao Khoa thì nên giữ gìn danh dự.

Cung hạn Phá quân hóa Lộc hay hóa Quyền, đều có lợi đối với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, nhưng không nên đặt ra lý tưởng quá cao, một khi gặp cơ hội tốt thì từ đó vạn tốt sẽ đến liên tiếp, nếu không, ắt sẽ vì lý tưởng quá cao mà bị trở ngại.

Nếu cung hạn Phá quân có Kình dương Đà la hội chiếu, thì trái lại, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động, nên từ từ khoan tiến tới, để xoay chuyển dần thế xấu. Nếu bị người khác ảnh hưởng, gấp gáp thay đổi sẽ thất bại. Vì vậy lúc đến cung hạn này, phải thận trọng trong việc trọn người hợp tác làm ăn.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, lạc hãm thì nên là "Tử vi Thiên phủ" có tính bị động.

Cung hạn Thái dương nhập miếu, thích hợp với "Tử vi Thiên phủ" có tính chủ động, cũng chủ về "danh" lớn hơn "lợi", hoặc nhờ danh tiếng mà có tài lộc. Nếu Thái dương hóa Kị, thì nên thận trọng trong việc đầu tư. Nếu Thái dương hóa làm sao Quyền hay sao Lộc, thì "Tử vi Thiên phủ" thuộc tính chất nào cũng đều là đại hạn hoặc lưu Niên thuận lợi toại ý.

Cung hạn Vũ khúc độc tọa, thông thường lợi cho "Tử vi Thiên phủ có tính chủ động đến. Có điều Vũ khúc của nguyên cục hóa Kị (can Nhâm), thì Tử vi đồng thời cũng hóa Quyền, như vậy tính chủ động của "Tử vi Thiên phủ" quá mạnh, kết cấu dạng này chỉ có lợi đối với nam mệnh, mà bất lợi đối với nữ mệnh, nữ mệnh sẽ làm tăng tính chất cô độc và hình khắc, mà còn quá chủ động. Còn nam mệnh lúc đến cung hạn Vũ khúc hóa Kị, sẽ không thay đổi tình trạng lực bất tòng tâm, tắc vẫn có thể duy trì tình trạng đã đạt được.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, đối với "Tử vi Thiên phủ" là thuộc loại trung tính. Bất kể Tử Phủ là chủ động hay bị động, Thiên đồng cũng đều nên cát hóa thành Khoa Quyền Lộc (vì Thiên đồng không có Hóa Kị). Nếu gặp các sao Hình - Kị, nhất là Cự môn hóa Kị đến gặp Thiên đồng, thì Tử Phủ dễ bị tình trạng tự mình tìm sự vất vả, tự làm mình rơi vào tình huống rắc rối khó xử. Lưu niên mà gặp nó (can Đinh), thì đây là năm "lòng dạ thay đổi", gặp thêm các sao đào hoa thì càng nghiệm. Nếu các sao Sát - Hình trùng trùng, thì vì "thay lòng đổi dạ" mà ảnh hưởng đến tiền bạc và sự nghiệp. Nếu lại gặp Văn khúc khóa Kị đến hội (can Kỷ), thì đây là "đào hoa kiếp" thuộc loại nghiêm trọng.

Cung hạn Thất sát độc tọa, không nhất định sẽ xảy ra thay đổi, cần phải gặp Lộc tồn và Thiên mã giao hội, mới chủ về vì hoàn cảnh khách quan nên buộc phải thay đổi. Vì vậy Tử Phủ có tính bị động mà đến cung hạn này, cần phải có Lộc tồn, Thất sát, Thiên mã hội hợp, mới chủ về có biên động thay đổi. Biến động thay đổi tốt hay xấu, phải xem các sao hội hợp với đại hạn hoặc lưu niên mà định. Rất ưa gặp Phá quân hóa Quyền (can Quý), đương nhiên đây sẽ là năm mang tính khai sáng, có thể tranh thủ chủ động.

Tử Phủ thông thường không ưa đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, bởi vì Thiên lương không có tính chất lãnh đạo. Nếu đại hạn mà gặp nó, thì không có trở ngại gì lớn, chỉ chủ về thoái lui phòng thủ, lúc này đã là vận "già" của tinh hệ "Tử vi Thiên phủ". Nếu lưu niên mà đến cung hạn Thiên lương tọa thủ, có các sao Sát - Kị đến hội, phần nhiều thấy tình thế có vẻ như đang thăng tiến, nhưng thực sự thì lại đang thụt lùi. Nhưng lúc Thái dương nhập miếu, mà còn được cát hóa, thì lại có lợi về cạnh tranh, không phải là điềm ứng thụt lùi.

Cung hạn Liêm Tướng không nên có sao Hình - Kị đến, Tử Phủ có tính chủ động hay bị động mà đến cung hạn này, đều sẽ gặp tình huống đình trệ, bị kiềm chế. Nếu "Tài Ấm" đến giáp cung, thì chỉ nên lùi về địa vị "phó", dù trên thực tế đảm nhiệm công tác lãnh đạo, thì cũng không nên nhận chức danh lãnh đạo.

Gặp Liêm trinh hóa Lộc, cần chú ý không được xuất đầu lộ diện, phô trương tài năng.

Vận hạn Cự môn độc tọa, chỉ cần không hóa Kị, lại có Thái dương vượng cũng chiếu, thì Tử Phủ thuộc tính chất nào đến cũng đều có lợi. Nếu gặp Khoa Quyền Lộc, thì đây sẽ là năm được xứ khác (hay người ngoại quốc) đề bạt, hoặc lợi về hợp tác với người nước ngoài. Nữ mệnh thì nên đề phòng rắc rối về tình cảm. Nam mệnh nếu cung Phúc đức gặp đào hoa, thì dễ thay đổi tình cảm, có người tình khác.

Cung hạn Tham lang độc tọa, nếu hóa làm sao Kị (can Quý), rất có lợi cho Tử Phủ có tính chủ động đến, lúc này biến thành vận trình theo đuổi lý tưởng. Nếu là Tử Phủ có tính bị động đến hạn này, trái lại, sẽ đánh mất cơ hội.

Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp Tham lang, Hỏa tinh, Hóa Lộc, mà Tử Phủ có tính bị động đến sẽ dễ bị thất chí, một khi vào vận tốt sẽ không còn ý đồ tiến thủ, cuối cùng dẫn đến thất bại.

Tử Phủ nên đến cung hạn Thái âm nhập miếu, nếu Thái âm lạc hãm thì không nên. Có lợi đối với Tử Phủ có tính bị động, Tử Phủ có tính chủ động thì hơi kém hơn. Có điều, nếu Thái âm hóa Kị, thì Tử Phủ mà đến đại hạn hoặc lưu niên này, dễ vì say sưa đắc ý, quên mất tình hình thực tế mà đầu tư, dẫn đến thất bại. Thái âm phải hóa làm sao Lộc, sao Quyền, thì mới có thể phát triển lớn được.

Đến đây, đơn cử một ví dụ Tử Phủ ở cung Phu thê cư Thân, cung mệnh là Tham lang cư Tuất, người sinh năm Kỷ, thì Tham lang hóa Quyền đối nhau với Vũ khúc hóa Lộc. Tử Phủ hội hợp với Vũ khúc hóa Lộc mà không có Lộc tồn điều hòa, nên Vũ khúc mang tính "cô độc và hình khắc", các sao của cung mệnh lại mang tính tích cực. Đến đại vận Đinh Sửu, cung Phu thê của đại vận là Cự môn độc tọa hóa Kị ở cung Hợi, còn năm Bính Dần thì cung Phu thê của lưu niên là Liêm Tướng, hóa Kị, Kình dương Đà la cùng chiếu, lại gặp Linh tinh, chủ về người chồng bị mắc bệnh gan rất nặng vào năm đó.

 Phủ Tướng triều viên cách

"Phủ Tướng triều viên cách" tức là hai sao Thiên Phủ và Thiên Tướng hội chiếu cung mệnh. Thêm vào đó, cung mệnh cư Ngọ, Thiên phủ cư Tuất, Thiên tướng cư Dần, là lấy kết cấu "Phủ Tướng triều viên cách".

Cổ ca nói:

Mệnh viên phủ tướng đắc câu phùng

Vô sát thân đương thị thánh quân

Phú quý song toàn nhân cảnh ngưỡng

Nguy nguy hiển nghiệp mãn kiền khôn.

Dịch nghĩa:

Cung mệnh gặp đủ sao Phủ Tướng

Không có sát tinh Thân hầu vua

Phú quý song toàn người ngưỡng mộ

Đức nghiệp lớn lao khắp đất trời.

Thiên phủ là chủ tinh Nam Đẩu, cổ nhân gọi là "Ti mệnh thượng tướng" (Thượng tướng cai quản mệnh lệnh), "Trấn quốc chi tinh" (Sao chấn quốc), chuyên giữ kho tiền.

Thiên tướng là "ấn tinh" (sao ấn), người xưa gọi là "Ti tước chi tinh" (Sao cai quản chức tước).

Cho nên Thiên tướng và Thiên Phủ trở thành một cặp "Thần cai quản tước lộc". Trong Đẩu Số, có một số sao thường phải gộp thành cặp để xem, gọi là "sao đôi", "Phủ Tướng" là một cặp sao quan trọng trong số đó. Người xưa nói: "phùng Phủ khán Tướng" (gặp Thiên phủ phải xem Thiên tướng) chính là ý này.

Thiên Phủ ở trong 12 cung vốn ít bị lạc hãm, nhưng Thiên phủ của "Phủ Tướng triều viên cách" thì lại không ưa tọa ở 4 cung Tị Hợi Sửu Mùi, đây là do Thiên tướng lạc hãm ở hai cung Mão Dậu, cho nên Thiên phủ ở cung Hợi hoặc cung Mùi liên đới hội hợp với cung Mão, Thiên phủ ở cung Tị hay cung Sửu, liên đới hội hợp với cung Dậu, tính chất đều thành hơi thiếu lực.

Kết cấu tốt nhất của "Phủ Tướng triều viên cách" là thiên tướng ở cung Tý, Thiên phủ ở cung Thân; Thiên tướng cư cung Ngọ, Thiên phủ ở cung Dần, Thiên tướng cư cung Thân, Thiên phủ ở cung Thìn.

Thiên Phủ lấy trường hợp không độc tọa làm cách cục tốt, chủ về người tính tình công chính, nếu không sẽ dễ trở thành gian giảo. Có điều, gian giảo ở đây thực ra cũng chỉ là mạng làm ăn kinh doanh ngày nay mà thôi.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân tích 51 cách cục thường gặp

Bạn đã biết 13 bộ vị quan trọng trên khuôn mặt?

Khuôn mặt lấy mũi làm đường trung tâm, dựa theo thứ tự từ trên xuống dưới mà chia ra tổng cộng có 13 bộ vị, bạn đã biết chưa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khuôn mặt lấy mũi làm đường trung tâm, dựa theo thứ tự từ trên xuống dưới mà chia ra tổng cộng có 13 bộ vị. Hai bên trái phải của mỗi bộ vị đều có một bộ vị tương ứng, lại thêm các bộ vị như thế tổng cộng sẽ có 146 bộ vị. Mười ba (13) bộ vị là chỉ các bộ vị quan trọng nhất theo thứ tự từ trên xuống dưới ở trên mặt. Bao gồm: Thiên trung, Thiên đình, Tư không, Trung chính, Ấn đường, Sơn căn, Niên thượng, Thọ thượng, Chuẩn đầu, Nhân trung, Thủy tinh, Thừa tương, Địa các.

13-bo-vi

Bộ vị thứ nhất là Thiên trung,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Thiên trung, Thiên nhạc, Tả sương, Nội phủ, Cao quảng, Xích dương, Vũ khố”, Quân môn, Phù giác, Biên địa.

Bộ vị thứ hai là Thiên đình,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Thiên đình, Nhật giác, Long giác, Thiên phủ, Phòng tâm, Thượng mộ, Tứ sát, Chiến đường, Dịch mã, Điếu đình.

Bộ vị thứ ba là Tư không,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Tư không, Ngạch giác, Thượng khanh, Thiếu phủ, Giao hữu, Đạo trung, Giao ngạch, Mi trọng, Sơn lâm, Thánh hiền.

Bộ vị thứ tư là Trung chính,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Trung chính, Ngạch giác, Hổ giác, Ngưu giác, Phù cốt, Nguyên giác, Phủ chiến, Hoa cái, Phúc đường, Thái hà, Giao ngoại.

Bộ vị thứ năm là Ấn đường,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Ấn đường, Giao tỏa, Tả nhật, Tâm thất, Lâm trung, Tửu tôn, Tinh xá, Tần môn, Kiếp lộ, Cảng lộ, Thanh lộ.

Bộ vị thứ sáu là Sơn căn,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Sơn căn, Thái dương, Trung dương, Thiếu dương, Ngoại dương, Ngư vỹ, Gian môn, Thần quang, Thiên tỉnh, Thiên môn, Huyền vũ.

Bộ vị thứ bảy là Niên thượng,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Niên thượng, Phù tọa, Trưởng Trung nam, Thiếu nam, Kim quỹ, Cấm phòng, Tặc thiên, Du quân, Thư thượng, Ngọc đường.

Bộ vị thứ tám là Thọ thượng,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong - hướng sang phải bao gồm: Thọ thượng, Giáp quỹ, Quy lai, Đường thượng, Chính diện, Cô di, Tỉ muội, Huynh đệ, Ngoại sanh, Mệnh môn, Học đường.

Bộ vị thứ chín là Chuẩn đầu,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Chuẩn đầu, Lan đài, Pháp lệnh, Táo thượng, Cung thất, Điển ngự, Viên thương, Hậu các, Thủ môn, Binh tốt, Ấn thụ.

Bộ vị thứ mười là Nhân trung,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Nhân trung, Tỉnh bộ, Trướng hạ, Tế trù, “Nội các, Tiểu sứ, Bộc tùng, Kĩ đường, Anh môn, Bác sĩ, Bích lộ.

Bộ vị thứ mười một là Thủy tinh,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Thủy tinh, Các môn, Bắc lân, ủy cảng, Thông cù, Khách xá, Binh lan, Gia khố, Thương lữ, Sinh môn, Sơn đầu.

Bộ vị thứ mười hai là Thừa tương,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Thừa tương, Tổ trạch, Tôn trạch, Ngoại viện, Lâm uyển, Hạ mộ, Trang điền, Tửu trì, Giao quách, Hoang cân, Đạo lộ.

Bộ vị thứ mười ba là Địa các,

Dựa theo thứ tự lần lượt từ trong hướng sang phải bao gồm: Địa các, Hạ xá, Nô bộc, Suy ma, Khanh trụ, Địa khố, Bì trì, Nga áp, Đại hải, Chu xa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bạn đã biết 13 bộ vị quan trọng trên khuôn mặt?

Chùa Hiến - Hưng Yên

Chùa Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc địa phận Phố Hiến Hạ, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, Hưng Yên.
Chùa Hiến - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, Là một trong những ngôi chùa cổ thuộc địa phận Phố Hiến Hạ, nay là đường Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên. Khu di tích đình, chùa Hiến là một trong những di tích nổi tiếng, hàng năm thu hút được hàng vạn lượt du khách về tham quan, chiêm bái.

Lịch Sử: Tương truyền chùa được khởi dựng vào cuối thời Lý, đầu thời Trần. Trải qua nhiều lần tu sửa, ngôi chùa vẫn giữ được những nét kiến trúc nghệ thuật thời Lê đan xen Nguyễn.

Kiến Trúc: Chùa Hiến có bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm tiền đường, thiên hương, thượng điện và ba mặt là hành lang. Giữa thượng điện là tượng Quan Âm Nam Hải ở thế ngồi, có tám đôi tay, bố trí đăng đối. Đầu tượng đội mũ chạm hoa cúc, sen, phù dung. Phía trước là tượng tứ vị bồ tát ngồi trên tòa sen, khuôn mặt đầy đặn, trang nghiêm. Các pho tượng này đều có niên đại thế kỷ 19. Việc thượng điện đặt ban thờ nổi bật tượng Quan âm cùng tứ vị bồ tát thể hiện tâm lý sùng bái vị thần có nhiều phép cứu giúp chúng sinh trên sông, biển. Đây là đặc điểm khác biệt trong bố cục thờ tự của chùa Hiến so với các nơi khác, nơi nhiều thương nhân trong và ngoài nước đến sinh sống, buôn bán.

Phía trước sân chùa Hiến có hai tấm bia đá lưu giữ nhiều tư liệu lịch sử nói lên quá trình tụ cư của thương cảng Phố Hiến. Tấm bia “Thiên ứng tự – Tân tự trùng tu thạch bi ký” niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) ghi việc hưng công tu sửa chùa, có thể xếp chùa vào hàng thứ năm sau bộ “tứ đại khí” thời Lý.

Bia ghi nhận “Phố Hiến Nam nổi tiếng là nơi đô hội tiểu Tràng An của bốn phương” và trụ sở Ty Hiến sát Trấn Sơn Nam đóng ở đất Hoa Dương. Tấm bia “Thiên ứng tự – bia ký công đức trùng hưng” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709) ghi việc góp công tu sửa chùa, có 481 người có quê quán nhiều vùng khác nhau, trong đó có 56 người Trung Quốc. Qua đó chúng ta có thể hình dung được khung cảnh của đô thị Phố Hiến, nơi hội tụ của nhiều cư dân đến buôn bán.

Chùa Hiến còn nổi tiếng có cây nhãn Tổ, chính xác ra tên gọi là cây nhãn tiến, nằm phía trước cửa chùa. Đây là ngôi chùa có cây nhãn tổ đầu tiên ở Việt Nam. Cây nhãn đường phèn có dáng hình đẹp, mã lụa, quả to, cùi dày, hương vị thơm ngon đặc sắc nhất. Mỗi mùa nhãn chín, nhãn thường được chọn hái để dâng đức phật, cúng thần thành hoàng và để quan lại địa phương tiến vua. Thân cây chính đã già cỗi, bọ ruỗng, đổ chỉ còn một nhánh, được đắp vun gốc, chăm sóc phát triển thành cây “hậu duệ”, hiện diện như một biểu tượng của giống nhãn đặc sản Phố Hiến – Hưng Yên.

Ngày nay, chùa Hiến là nơi hiện hữu “hậu duệ” cây nhãn tổ là điểm tham quan, chiêm bái không thể thiếu của du khách. Về với mảnh đất từng nổi danh: “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, ta thỏa sức đắm mình trong văn hóa tâm linh, của những truyền thuyết linh thiêng, và huyền bí..


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hiến - Hưng Yên

Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Chữ số là hệ thống ký hiệu dùng để ghi chép một số thông tin mà ở thờikỳ ban sơ con người vẽ chúng lên mặt đất. Những ký hiệu này được pháthiện vào thời kỳ đồ đã cũ - khoảng 25.000 năm trước. Nhưng trải qua sựtham gia, nghiên cứu của các nhà toán học, nhà triết học, các nhà tư tưởngtrong khoảng thời gian đó và trở về sau thì việc tính toán mối liên hệgiữa các chữ số đơn giản đã phát sinh thay đổi. Họ đãdựa vào nhiều đặc tính chuyên môn để liên hệ chữa số lại với nhau.
Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà tư tưởng kiệt xuất Trung Quốc Mao Trạch Đông đã từng nói: "Con người" luôn không ngừng tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, phát minh, sáng tạo, tiến về phía trước. Lịch sử đã phát triển của chữ số nói với chúng ta rằng, để giải quyết yêu cầu một số vấn đề, cần phải phát minh ra các con số mới và tổ hợp mới của chữ số. Sự hình thành của thuật dự đoán thông tin qua những con số là một khoa học hình thành trên cơ sở nghiên cứu lý số của người xưa.

Trên cơ sở này các nhà triết học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và làm sâu sắc thêm quan điểm này, đưa nó vào hệ quy chiếu với các trục không gian, thời gian để tính toán quá trình phát triển của thiên thời, nhân sự đòng thời tổng kết ra những quy luật ứng dụng trong cuộc sống và để đưa ra những quyết sách trọng đại.


Thần số học giới thiệu những lý luận cơ bản của thuật dự đoán thông tin qua các con số như một môn khoa học liên ngành tổng hợp. Bộ môn này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm căn cứ, lấy lý luận không gian, thời gian làm tọa độ, lấy thuật số cổ đại làm nền tảng, lấy hiệu ích xã hội, lợi ích kinh tế làm mục đích. Nó là một môn khoa học thuật số trực tiếp ứng dụng vào quyết sách phát triển mục tiêu hóa hung được cát của con người đã trải qua kiểm chứng, thực hành mà tổng kết thành. Tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người như học hành, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, sinh đẻ cho đến cả vấn đề sức khỏe, tai họa, mất mát, thuyên chuyển trong công việc... tôi sẽ cung cấp phương pháp lập quẻ đoán quẻ tương ứng để có được những thông tin dự đoán chính xác.


Trương Xuân Toàn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

Tháng 7 âm lịch có ngày lễ Vu Lan, trong ngày này, tụng lên bài kinh Vu Lan, tưởng nhớ công đức cha mẹ và tự nhắc nhở bản thân về đạo làm con.
Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7 âm lịch không chỉ có ngày xá tội vong nhân, có ngày mở quỷ môn cho những linh hồn đã khuất được một lần trở về dương gian mà còn có lễ Vu Lan báo hiếu, lễ của những người con hướng về đấng sinh thành. Trong ngày này, tụng lên bài kinh Vu Lan, tưởng nhớ công đức cha mẹ và tự nhắc nhở bản thân về đạo làm con.

Tung kinh Vu Lan - tron phan lam con, tron dao lam nguoi
 

1. Sự tích Vu Lan báo hiếu

  Ngày Vu Lan báo hiếu 15/7 âm lịch hàng năm là ngày con cái hướng về cha mẹ. Ngày mà những ai còn có mẹ vui sướng cài lên ngực áo bồng hồng đỏ thắm còn những ai mẹ đã qua đời sẽ gắn lên áo mình bông hồng trắng thanh thuần. Đây là ngày lễ có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo của Phật giáo, không chỉ là nghi thức tâm linh mà còn là nghi thức tinh thần.   Sự tích Vu Lan báo hiếu được ghi lại trong kinh Vu Lan. Theo đó Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Đức Phật, trải qua quá trình tu tập mà được lên cõi Niết Bàn. Nhớ tới người mẹ sinh thành dưỡng dục mình, ông dùng phép thần thông soi tỏ sáu cõi để tìm mẹ thì thấy bà vì tích nhiều ác nghiệp nên đang ở cõi ngạ quỷ, phải chịu muôn vàn khổ cực, đói kém.   Trong lòng thương cảm, Mục Kiền Liên mang cơm tới cho mẹ ăn nhưng cơm vừa đưa vào miệng thì biến thành lửa nóng, không sao ăn được. Ông đành quay trở về cầu xin Đức Phật chỉ cách cứu mẹ. Đức Phật nói rằng chỉ có cách hợp lực chư tăng 10 phương mới có thể cứu mẹ của Mục Kiền Liên cùng những người khác được siêu độ, thoát chốn ngạ quỷ.   Vì thế vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch, Mục Kiền Liên bày lễ cúng các vị Hiền Thánh tăng, thỉnh các vị chúng tăng tới cùng chú nguyện cho mẹ và những người khổ hạnh khác. Từ đó mẹ của ông mới được siêu thoát, không còn chịu khổ cực nữa.   Xuất phát từ tích này mà ngày rằm tháng 7 âm lịch trở thành ngày Vu Lan báo hiếu, con cái bày lễ cúng, tụng kinh Vu Lan báo hiếu cầu siêu độ cho cha mẹ 7 đời trước của mình và cầu phúc cho cha mẹ trong hiện tại. 
Xem thêm bài viết Lễ Vu Lan: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng?
 

2. Ý nghĩa của kinh Vu Lan


kinh vu lan bao hieu
 
Bài kinh thuộc Đại thừa, trong đó ghi lại sự tích ngày lễ Vu Lan và lời khuyên của Đức Phật với con cái. Con cái dù giàu có hay nghèo khổ đều có thể thể hiện lòng hiếu thảo của mình với cha mẹ trong kiếp này và cha mẹ của 7 đời trước bẳng cách bày lễ cúng vào Rằm tháng 7 âm lịch.    Tụng bài kinh Vu Lan để thành tâm tưởng nhớ công đức cha mẹ và cầu nguyện cho cha mẹ được siêu độ. Nếu chúng ta cúng dường đầy đủ để tập hợp đủ sức mạnh chú nguyện thì người còn sống hưởng phúc , tăng tuổi thọ còn cha mẹ quá cố thì được tăng thiện nghiệp, đang ở cõi súc sinh, ngạ quỷ thì sẽ siêu thoát, tái sinh vào những kiếp thuận cảnh. 
 
Bài kinh hàm chứa những ý nghĩa cao diệu, nhân văn và đại từ bi theo đúng tinh thần Phật giáo. Tuy nội dung không hề đề cập tới tha lực nhưng chính bản thân nội dung đã toát lên ý nghĩa tự giác giác tha, tự lực giải thoát. Đó chính là con cái tích phúc hộ cha mẹ, là cảnh giới cao nhất của lòng hiếu thuận và sự giải thoát.   Con người sống trên đời đều có nghiệp, nghiệp ấy do mình tự tạo ra và cũng do mình tự gánh lấy. Cha mẹ tạo nghiệp, cha mẹ gánh nhưng phận làm con cái không phân biệt cha mẹ tốt hay cha mẹ xấu, đều một lòng muốn cho đấng sinh thành được hưởng những điều tốt đẹp nhất. 
Xem thêm bài viết Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu?
 
Bài kinh Vu Lan báo hiếu gửi gắm tâm tư, nguyện vọng được gánh đỡ nghiệp của cha mẹ, nguyện vì cha mẹ mà cầu khẩn sự hợp lực của chúng tăng, độ nguyện cho siêu thoát. Không chỉ cha mẹ trong kiếp này mà còn là cha mẹ trong 7 kiếp trước, bất cứ ai cũng có thể có duyên từng là cha mẹ ta.   Ngày lễ thể hiện sự hiếu đạo cùng tình thương vô điều kiện giữa chúng sinh. Khi bản thân có định lực, có lòng từ bi và tuệ lực lớn lao, có tâm muốn hoàn thành đạo hiếu và muốn phát thiện tâm tới tất thảy chúng sinh thì có thể khơi dậy khả năng tự giác ngộ của người mà ta muốn cứu giúp, từ đó cởi bỏ ác nghiệp.   Thế nên, mỗi năm hãy tụng lên bài kinh báo hiếu ít nhất một lần vào ngày lễ Vu Lan, để tấm lòng hướng mẹ hướng cha, trọn phận làm con, trọn đạo làm người. 
Câu chuyện cảm động phía sau ngày lễ Vu Lan Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu? Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng kinh Vu Lan - trọn phận làm con, trọn đạo làm người

4 chàng trai hoàng đạo thích "đánh đồn có địch"

Ai cũng biết tình cảm là chuyện khó có thể kiểm soát được, nhưng 4 chòm sao nam thích theo đuổi “hoa đã có chủ” dưới đây thì không hay chút nào nhỉ!
4 chàng trai hoàng đạo thích "đánh đồn có địch"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


4 chang trai hoang dao thich danh don co dich hinh anh
 
Song Tử   Tình yêu của Song Tử cũng giống như tính cách của anh chàng, thay đổi nhanh chóng mặt, lại nhí nha nhí nhố, muốn có cái gì đó kích thích, hấp dẫn. Vì thế, theo đuổi những cô gái đã có người thương khiến họ cảm thấy rất thú vị và tràn đầy cảm giác như mình đang làm chủ cuộc chơi.   Chú ý, đến khi hết thú vị, mạo hiểm, rất có thể Song Tử sẽ bỏ lơ cô nàng kia ngay đấy. Nên phải thật tỉnh táo nhé.   Thiên Bình   Chòm sao nam Thiên Bình trong lĩnh vực tình cảm quả thật là cao thủ, càng là những cô gái đã có tình yêu thì họ càng thích thú, vì cảm giác “nẫng tay trên” của người khác ấy dường như chứng tỏ được năng lực và sức hấp dẫn không thể chối từ của Bình Nhi.   Nhưng tình yêu này chưa chắc đã chung thủy hay nghiêm túc gì đâu, vì Thiên Bình ham mê khẳng định bản thân, khẳng định xong rồi thì còn gì để cố gắng nữa.   Xếp hạng độ lơ đễnh của 12 chòm sao
Xếp hạng tính cách của 12 chòm sao, xem ai là người lơ đãng, cẩu thả nhất nào!

Thiên Yết
  Yêu là bất chấp tất cả để theo đuổi nên dù người ta đã có nơi có chốn thì Thiên Yết cũng không ngại giành giật đến cùng đâu. Mà thủ đoạn tình trường của Yết Yết vừa phong phú vừa thâm sâu nên các nàng khó mà thoát khỏi tay họ.   Nhưng nên nhớ, Thiên Yết thù lâu nhớ nhai nên dù có đến được với nhau thì Thiên Yết vẫn hay nhớ tới chuyện người ấy từng yêu ai, cũng khó mà yên ổn.   Song Ngư  
4 chang trai hoang dao thich danh don co dich hinh anh
 
Với chàng trai Song Ngư thì chưa kết hôn tức là chưa có chủ, kể cả kết hôn rồi thì đổi chủ cũng không sao, miễn là cả hai cùng có tình cảm với nhau. Họ coi trọng tình yêu, tình yêu là tất cả, yêu rồi thì chẳng màng gì đến những chuyện bên lề. 
  Một khi xác định lòng mình yêu thích, Song Ngư sẵn sàng trở thành một chàng trai si tình, theo đuổi người ta như nữ hoàng, ai mà không xiêu lòng. Nhưng anh chàng này trên mây trên gió lắm, chưa chấc tình yêu đã như mơ đâu.
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chàng trai hoàng đạo thích "đánh đồn có địch"

Phòng bếp: Nơi quyết định sự thịnh vượng của gia đình

Theo quan niệm của cha ông ta, bếp có vai trò quyết định sự thịnh vượng của cả gia đình. Còn thuật khoa học phong thủy cũng cho rằng, phòng bếp chính là nguồn tài lộc, là một trong 3 yếu tố quan trọng nhất của ngôi nhà và được ví như dạ dày của một cơ thể.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng bếp cần phải đặt ở vị trí đảm bảo ánh sáng hài hòa, phải có cửa thông gió, tránh bị quá tối tăm, ẩm thấp. Bếp không nên bị nhìn trực diện từ cửa phòng khách, bên ngoài cổng hay đối diện nhà vệ sinh. Khoa học phong thủy cho rằng, vị trí của bếp còn phải tránh gió và tránh những nơi bị đường đi. Nếu gian bếp lộ thì sẽ bất lợi về mặt tài lộc của chủ nhân.

Bếp được xem là nơi “hậu cung”, vì thế phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà, không nên bố trí đối diện với cửa nhà hoặc phòng khách. Có thể sử dụng một quầy bar chắn giữa bếp và phòng khách, không chỉ tạo sự phân lớp không gian kiến trúc mà còn đảm bảo sự kín đáo.  Tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang vì theo khoa học phong thủy, nếu xà ngang áp trên bếp sẽ khiến gia chủ hao tài tốn của.


Bên cạnh đó, vị trí của bếp phải kê trên nền cao ráo, sạch sẽ, không khí thoáng và đầy đủ ánh sáng. Một điều tối kỵ đó là chân bếp bị gập ghềnh, ghiêng lệch. Không được để mái nhà bếp bị dột hoặc có nước rơi vào. Bếp thuộc hỏa nên kỵ nhất với khí mát lạnh của nước, vì thế không đặt bàn nấu trên mương, rãnh hoặc đường nước. Không để hỏa lò kẹt giữa 2 đồ đạc có mang theo thủy như  bồn rửa, tủ lạnh, máy giặt…

Khi năng lượng nhà bếp có lợi thì các thành viên trong gia đình sẽ có xu hướng thích quây quần ăn uống tại nhà, điều này sẽ giúp mối quan hệ của các thành viên trong gia đình được gắn kết hơn. Còn khi phòng bếp không nhận được năng lượng có lợi thì cả gia đình sẽ bị ảnh hưởng xấu.

Trường hợp phòng bếp của bạn đã có sự trì trệ quá lâu, bẩn thỉu, bừa bộn nghiêm trọng thì cần làm nó sống lại bằng mọi cách. Việc làm sống lại phòng bếp sẽ có tác dụng tiếp thêm sinh lực cho sức khỏe, tài lộc và các mối quan hệ của bạn.

Vệ sinh thường xuyên để cải thiện của cải

Điều đơn giản nhất bạn có thể làm cho phòng bếp đó là luôn giữ bếp ngăn nắp và sạch sẽ. Trong đó, tủ lạnh và tủ bếp là 2 khu vực cần được vệ sinh sạch sẽ nhiều nhất.

Vệ sinh sạch sẽ trước khi lưu trữ thực phẩm

Thời điểm tốt nhất để bạn vệ sinh tủ lạnh hay tủ bếp là trước khi bạn bạn cất trữ thực phẩm mới mua được. Sau đó, hãy dành ra một vài phút để kiểm tra mọi thứ trong tủ lạnh và lấy ra những lọ, hộp, túi đựng thức ăn đã hết hoặc không sử dụng nữa.

Làm như vậy tủ lạnh của bạn trông sẽ sạch và gọn gàng hơn. Còn đối với tủ bếp, việc sắp xếp gọn gàng sẽ giúp công việc bếp núc trở nên nhanh và dễ dàng hơn.

Giải phóng bề mặt bếp

Nếu bạn muốn có cảm hứng nấu nướng và làm những món ăn ngon hơn và gia đình thì luôn luôn phải giữ cho bề mặt bếp được ngăn nắp. Điều này còn mở đường cho dòng chảy năng lượng tốt tràn vào phòng bếp và tác động lên toàn bộ cuộc sống của bạn.

Bỏ đi các đồ vật hư hỏng để tránh thất thoát về tài chính

Chảo chầy xước, bát đĩa sứt mẻ,… đều mang năng lượng tiêu cực đến với thực phẩm của bạn. Cần lưu ý, khi bạn thay thế bát đĩa sứt mẻ bằng đồ mới thì hãy nhớ vứt đồ cũ đi ngay lập tức.

Bố trí thùng rác ở góc khuất

Thông thường, dòng chảy năng lượng hay hướng về không gian tiêu cực, như thùng rác chẳng hạn. Do đó, nếu điều đầu tiên bạn nhìn thấy trong bếp là thùng rác bẩn thỉu thì có nghĩa là bạn đang nhìn thấy sự thất thoát năng lượng.

Thậm chí, các thực phẩm ôi thui, thối rữa trong thùng rác có thể khiến các mối quan hệ nhanh chóng xấu đi.

Hãy đặt thùng rác ở vị trí khuất tầm mắt hoặc trong ngăn tủ bếp có cửa và nhớ giữ cho nó sạch nhất có thể. Bạn sẽ ngạc nhiên trước thay đổi về cảm xúc khi không phải nhìn thấy thùng rác bẩn lù lù trước mặt mỗi lần bước vào phòng bếp.

Ngoài những yếu tố trên, bạn cũng nên đặt một rổ đầy trái cây tươi, một vài cây gia vị tươi tốt hoặc dự trữ thật nhiều thức ăn để đảm bảo sự giàu có và dư thừa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phòng bếp: Nơi quyết định sự thịnh vượng của gia đình

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Mơ thấy anh chàng đẹp trai nhưng lại không nhìn rõ mặt và hình dáng, đây là điềm báo bạn sẽ được hạnh phúc bên người yêu trong tương lai.
Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Con gái mơ gặp anh chàng đẹp trai, phong độ ngời ngời, đây là tín hiệu cho thấy bạn sắp có người theo đuổi. Ngoài ra, giấc mơ này còn thể hiện sự mong muốn cháy bỏng của bạn về một tình yêu chân thành và sâu đậm.

2. Trong giấc mơ, bạn biết được đối phương là một hot boy điển trai nhưng lại không nhìn rõ khuôn mặt và dáng người anh ta ra sao. Chúc mừng bạn nhé, đây là điềm báo bạn sẽ được hạnh phúc bên người yêu trong tương lai.

Giấc mơ này còn cho thấy bạn đang lo lắng và tỏ ra trách móc đối phương vì đã không dành nhiều thời gian bên mình. Bạn mong muốn người ấy có thể bên bạn mọi lúc mọi nơi để bạn có cảm giác được yêu thương, chăm sóc và không phải nhớ nhung quá nhiều.

hot-4672-1398064646.jpg

3. Nếu trong mơ bạn thấy mình và một anh chàng đẹp trai nảy sinh mâu thuẫn, thậm chí là to tiếng cãi vã. Điều này tiết lộ tâm trạng đầy áp lực và thiếu tự tin để bày tỏ tình cảm với đối phương. Bạn lo rằng người ấy sẽ không thích mình hoặc đã có ý chung nhân nào đó.

4. Nếu nữ giới chưa có người yêu mơ thấy mình gặp hot boy hay bạch mã hoàng tử mà mình thần tượng bấy lâu, rất có khả năng bạn sẽ có người yêu trong thời gian ngắn nữa thôi. Tuy nhiên, tình yêu này có kéo dài hay không lại phụ thuộc khá nhiều vào đối phương. Hai bạn cần phải cùng nhìn về một hướng, biết chia sẻ và suy nghĩ cho nhau thì mới có thể kéo dài mối tình này.

Mr.Bull

boat-1397841611-1397841699-362-6510-5704

Giải mã giấc mơ: Mơ thấy tàu thuyền

Mơ thấy tàu thuyền bị đốt cháy, điều này có nghĩa là hàng loạt “cây si” đang muốn kết thân và chờ đợi tình cảm của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã giấc mơ: Mơ thấy hot-boy

Tục lễ tiễn ông Công ông Táo về chầu trời

Để Vua Bếp phù trợ cho gia đình mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người Việt thường làm lễ tiễn đưa ông công ông táo về chầu trời rất trọng thể.
Tục lễ tiễn ông Công ông Táo về chầu trời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong tục cổ truyền của người Việt thì Táo quân (ông Công ông Táo) gồm hai ông và một bà, tượng trưng là 3 cỗ, "đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nơi nhà bếp của người Việt ngày xưa.


Vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, Táo quân sẽ lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng đế.
 

Tuc le tien ong Cong, ong Tao ve chau troi hinh anh
Ảnh minh họa

Táo quân là vị thần bảo vệ nơi gia đình cư ngụ và thường được thờ ở nơi nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Vị Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để Vua Bếp "phù trợ" cho gia đình mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể.

Lễ vật cúng Táo công gồm hai mũ Ông Táo có hai cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà không có cánh chuồn, ba cái áo bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống hoặc bằng giấy, hoặc cũng có thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay ngựa chạy”) để làm phương tiện cho “Vua Bếp” lên chầu trời.

Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo quân một con gà luộc. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy.

Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...) hay lễ chay (với trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc...) để tiễn táo Công.


Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tục lễ tiễn ông Công ông Táo về chầu trời

Phong thủy chọn màu sắc phù hợp cho trang sức –

Vật phẩm, trang sức có màu sắc phù hợp phong thủy của mệnh cung sẽ đem lại cho người đeo sức khỏe, may mắn, tiền tài… Củ thể ra sao chúng ta cùng tìm hiểu về màu sắc phong thủy hợp mệnh trong bài viết dưới đây. Màu sắc hợp mệnh Mệnh Kim Theo quy luật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật phẩm, trang sức có màu sắc phù hợp phong thủy của mệnh cung sẽ đem lại cho người đeo sức khỏe, may mắn, tiền tài… Củ thể ra sao chúng ta cùng tìm hiểu về màu sắc phong thủy hợp mệnh trong bài viết dưới đây.

kim-1406044094-5122-1407903001

Nội dung

  • 1 Màu sắc hợp mệnh
    • 1.1 Mệnh Kim
    • 1.2 Mệnh Thủy
    • 1.3 Mệnh Mộc
    • 1.4 Mệnh Hỏa
    • 1.5 Mệnh Thổ

Màu sắc hợp mệnh

Mệnh Kim

Theo quy luật tương sinh, Thổ sinh Kim. Đất bao bọc và nuôi dưỡng kim loại vì vậy người mệnh Kim nên sử dụng trang sức đá quý tự nhiên có màu của đất như màu nâu đất, màu vàng thổ để có sức khỏe dồi dào. Hoặc các màu sắc tương hợp khác như màu trắng, màu ghi. Ngoài ra để Kim có thể khắc chế Mộc, bạn nên sử dụng các loại trang sức màu xanh lá cây, xanh da trời.

Tránh dùng các loại trang sức có màu thuộc hành Hỏa như đỏ, hồng, tím, cam.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Kim: đá thạch anh vàng (citrine), đá mã não màu đỏ, bạc trắng, vàng, sapphire trắng…

thuy-1406044106-5395-1407903001

Mệnh Thủy

Theo lý thuyết âm dương ngũ hành, người mệnh Thủy hợp nhất với những loại trang sức như bạc, đá màu trắng hoặc những sắc ánh kim bởi Kim sinh Thủy theo quan hệ tương sinh. Để được tương hợp, bạn nên chọn đá có màu mệnh Thủy, đại diện của nước như các màu xanh hoặc ánh trắng pha đen.

Tuyệt đối không nên dùng các loại vật phẩm màu vàng sậm, nâu đất vì đó là các màu sắc thuộc hành Thổ sẽ ngăn chặn chế ngự được Thủy, gây bất lợi cho người sử dụng.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Thủy: đá sapphire đen, thạch anh pha lê, thạch anh trắng,…

moc-1406044099-3492-1407903002

Mệnh Mộc

Người mệnh Mộc hợp nhất với các loại trang sức có màu sắc bắt nguồn từ Thủy, đó là màu đen, xám, màu xanh nước biển, màu nâu. Đặc biệt hợp với màu nâu, là màu của gỗ – đại diện cho Mộc. Lựa chọn các màu sắc này cho trang sức, vật phẩm đeo bên người sẽ có tác dụng nuôi dưỡng nguồn năng lượng, mang lại tài lộc, danh vọng cho chủ nhân. Bên cạnh đó để đạt tương hợp có thể dung các màu sắc Mộc như xanh lá sẽ tốt cho sức khỏe.

Nên tránh các trang sức màu trắng, bạc, màu kem như đá thạch anh trắng, thạch anh pha lê, mã não ghi, sapphire trắng,…

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Mộc: các loại đá quý như đá Topaz, đá Peridot, đá thạch anh khói, thạch anh xanh, đá mã não,…

hoa-1406044090-1657-1407903003

Mệnh Hỏa

Người thuộc cung mệnh này nên chọn các loại trang sức có màu sắc tương sinh thuộc hành Mộc như xanh lá cây, xanh da trời, vì Mộc sinh Hỏa. Còn có các tông màu thuộc hành Hỏa như tím, đỏ, cam, hồng mang lại nguồn năng lượng dồi dào, biểu hiện cho sức mạnh, đam mê và cả sự may mắn.

Tuyệt kỵ các loại đá màu đen, xám, xanh nước biển vì đó là các màu sắc tượng trưng cho nước (Thủy), sẽ đem lại sự kém may mắn do nước (Thủy) sẽ dập tắt lửa (Hỏa).

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Hỏa: trang sức có gắn đá hoặc làm từ đá ruby, đá garnet, đá thạch anh hồng, ngọc lục bảo…

tho-1406044103-8122-1407903003

Mệnh Thổ

Để mang lại sức mạnh tinh thần và sự thoải mái trong tư tưởng, người mệnh Thổ nên sử dụng các loại trang sức màu vàng nhạt, đại diện của Mẹ trái đất, tạo cảm giác ổn định và nuôi dưỡng. Tương hợp với mệnh Thổ còn có các màu sắc gắn liền với đất, màu nâu tạo sự ổn định, mang lại cảm giác an toàn và được bảo vệ. Ngoài ra còn có các sắc màu gắn liền với Hỏa như màu đỏ, hồng, cam, tím đem lại may mắn, thịnh vượng và sức khỏe cho người đeo.

Không nên dùng trang sức màu xanh lá cây, xanh da trời vì chúng đại diện cho hành Mộc, là tương khắc hút hết sự màu mỡ và làm suy kiệt đất (Thổ), khiến người sử dụng nó vì vậy mà suy yếu về sức khỏe, khó khăn về tài chính.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Thổ: trang sức gắn đá thạch anh vàng, đá thạch anh tím, đá garnet, đá ruby,…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy chọn màu sắc phù hợp cho trang sức –

Chùa Nôm - Hưng Yên

Chùa Nôm còn có tên gọi khác là "Linh Thông cổ tự". Chùa thuộc thiền phái Lâm Tế. Đây là ngôi đại tự hoành tráng thuộc miền Kinh Bắc.
Chùa Nôm - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Nôm còn có tên gọi khác là “Linh Thông cổ tự”. Chùa thuộc thiền phái Lâm Tế. Đây là ngôi đại tự hoành tráng thuộc miền Kinh Bắc. Chùa nằm trong một quần thể di tích gồm cả đình Tam Giang thờ vị tướng thời Hai Bà Trưng thuộc địa phận làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, Hưng Yên.

Chùa được xây dựng từ hàng trăm năm trước. Hai tấm bia lớn đặt sau hậu cung ghi lại những tư liệu quý từ thời Hậu Lê, đời Chính Hòa, năm Canh Thân (1680) sau khi lên ngôi, nhà vua đã cho xây dựng lại chùa.

Năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796), chùa xây thêm gác chuông và mở rộng hai dãy hành lang. Nơi đây lưu giữ 122 pho tượng đất cổ. Đại đức Thích Đồng Huệ, trụ trì của chùa cho biết, các bức tượng này được người dân làng đóng góp tu sửa sơn lại mới vào năm 1997 trước khi thầy về đây làm việc một năm.

Tam quan chùa Nôm nằm dưới những bóng cây cổ thụ tạo nên vẻ trầm mặc, thanh bình. Bước qua tam quan là lầu chuông và lầu trống nằm đối xứng hai bên. Cạnh lầu chuông là một hồ nước trong xanh như mở ra thêm không gian tĩnh mịch cho ngôi chùa.

Phía sau hồ nước là ngôi chùa cổ nằm ẩn mình dưới những tán cây cổ thụ lớn. Hiện nay, chùa Nôm còn lưu giữ được hơn 100 pho tượng Phật bằng đất tuyệt đẹp có tuổi hàng trăm năm. Các pho tượng được tạc ở nhiều trạng thái, tư thế và chủ đề khác nhau. Tuy nhiên, điều đáng ngạc nhiên không phải là số lượng các pho tượng đất mà là độ bền vững không tưởng của chúng. Trải qua nhiều trận lụt lịch sử, các pho tượng vẫn còn nguyên vẹn và hiện chúng vẫn là một ẩn số mà các nhà khoa học chưa giải thích được.

Ngoài hồ nước nằm bên cạnh lầu chuông, chùa Nôm còn có một hồ nước nữa. Lầu Quan Âm của ngôi chùa nằm ở giữa hồ nước này như một đài sen nguy nga, lộng lẫy. Dẫn vào lầu Quan Âm là một cây cầu đá hình cánh cung mô phỏng cây cầu Nôm cổ, phía trước cầu là hai tháp Cửu phẩm liên hoa bằng đồng tạo thành một cụm kiến trúc thống nhất làm mãn nhãn người xem.

Đến với chùa Nôm, du khách còn được chiêm ngưỡng khu vườn mộ tháp bằng đá ong nằm bên cạnh ngôi chùa cổ. Đó là những tháp đá tuyệt đẹp và nguyên vẹn. Trải qua bao biến đổi thăng trầm của lịch sử, những tòa tháp đá vẫn đứng vững như thách thức với thời gian.

Đặc biệt, chùa Nôm còn lưu giữ được một tòa tương cổ bằng đồng cực kỳ quý hiếm có tên gọi “Cửu Long Phật đản”. Tòa tượng này miêu tả cuộc đời của đức Phật tổ Như Lai. Chính giữa tòa tượng là cảnh Phật tổ từ khi mới chào đời, xung quanh là 9 con rồng uốn lượn, trên mỗi con rồng là một hình người nhỏ tượng trưng cho từng giai đoạn cuộc đời và tu hành của đức Phật. Ngoài ra, tại đây còn có nhiều hiện vật quý khác như tháp đồng, chuông đồng, đỉnh đồng…

Về với chùa Nôm Hưng Yên, chắc chắn du khách sẽ khám phá ra được nhiều điều thú vị về một ngôi chùa cổ của Việt Nam. Nằm trong quần thể di tích làng Nôm bao gồm cổng làng Nôm, cầu Nôm, chợ Nôm, đình Tam Giang… chùa Nôm chắc chắn sẽ còn thu hút được nhiều du khách đến thăm quan hơn nữa trong một tương lai không xa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Nôm - Hưng Yên

Tướng đầu ngón tay vuông hay tròn thì tốt?

Mỗi ngón tay khác nhau lại có phần tướng đầu ngón tay với hình dạng khác nhau, có thể là vuông, tròn, nhọn, bè…
Tướng đầu ngón tay vuông hay tròn thì tốt?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mỗi ngón tay khác nhau lại có phần đầu ngón tay với hình dạng khác nhau, có thể là vuông, tròn, nhọn, bè… Mỗi kiểu ngón tay lại cho biết ưu và nhược điểm trong tính cách của từng người. Hãy cùng ## khám phá.

 
Tuong dau ngon tay vuong hay tron thi tot hinh anh goc
 
Kiểu 1: Đầu ngón tay dạng hình tròn
 
Chủ nhân của tướng đầu ngón tay này có xu hướng thân thiện, hòa đồng, giàu tình cảm, giàu trí tưởng tượng và cũng dễ bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố ngoại cảnh.
 
Thêm nữa, bạn hay suy nghĩ nhưng lại khá cảm tính, thường dựa vào trực giác hoặc ấn tượng đầu tiên để nhìn nhận vấn đề, vì thế mà đôi lúc vẫn phán đoán và xử sự sai. 
 
Ngoài ra, bạn để ý, quan tâm quá nhiều tới ý nghĩa của số đông. Thậm chí luôn cố gắng hết sức để có thể làm hài lòng tất cả mọi người xung quanh.   Cầm tay vợ và nhìn, bạn sẽ biết ngay cách tiêu tiền của cô ấy Nhìn bàn tay đàn ông phú quý để trao gửi cuộc đời Nhìn tướng tay biết ngay khả năng kiếm tiền của bạn
Kiểu 2: Đầu ngón tay dạng hình vuông
  Nếu ai đó nói bạn thuộc tuýp nghiêm khắc, ưa trật tự và sự chính xác thì cũng không hề sai. Hình vuông đại diện cho yếu tố Thổ, người thuộc nhóm này có lối suy nghĩ thực tế, thận trọng, là những người nhận ra giấc mơ của mình bằng công việc làm cụ thể, chứ không hề hão huyền, mông lung.
 
Hơn thế, người này có khả năng điều hành khá tốt. Tuy vậy, có thời điểm, tính cách họ có thể có phần cực đoan và áp đặt, bạn cần lưu ý đến điều này để tránh làm tổn thương người khác.
 
Tuong dau ngon tay vuong hay tron thi tot hinh anh
 
Kiểu 3: Đầu ngón tay dạng bè (như hình chiếc thìa)
 
Chủ nhân của tướng tay này có tính cách sôi nổi, độc đáo, hành động nhanh trí, tính hiếu kì cao, thích thay đổi… nhờ đó, những người này có thể sáng tạo nên nhiều thứ mới mẻ, khác người.
 
Tuy nhiên, người này dễ bị kích động, đôi khi vì nóng vội mà không nhìn thấu vấn đề, quên mất việc để ý, quan sát người xung quanh có thích điều mình làm hay không. Thậm chí, bạn còn cuốn người khác thay đổi lợi ích bản thân theo mình.
 
Nhìn tướng tay biết ngay cơ hội đi nước ngoài của bạn Dấu hiệu của sự không chung thủy trên bàn tay Tướng tay nữ giới dễ lấy chồng giàu sang
Kiểu 4: Đầu ngón tay dạng nhọn

 
Có nét tướng cách này, bạn thuộc tuýp tập trung tinh thần cao độ, nhạy cảm và có thiên phú làm nghệ sĩ. Những người hay mơ mộng, sống trong thế giới riêng của mình, tuy có khả năng sáng tạo cao nhưng lại thiếu khả năng thực hành.
 
Vậy nên, bạn cần suy nghĩ theo hướng lý trí hơn, tránh tình trạng bị kẻ xấu lợi dụng mà không hề hay biết. Tới lúc phát hiện ra thì cả tinh thần và vật chất đều bị tổn hại.
► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Ngân Hà

Đường vân đặc biệt trên ngón tay cái bật mí điều gì về bạn?
– Vân mắt Phật, mắt rồng, Thứ tài... đều là những vân đặc biệt trên ngón tay cái, mang lại nhiều điều cát lành, giúp cuộc đời chủ nhân gặp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đầu ngón tay vuông hay tròn thì tốt?

Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu theo tinh thần đạo Phật

Đúc kết những phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu để vượt qua những khó khăn theo tinh thần đạo Phật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. SÁM HỐI

Nếu bạn biết được bạn đã phạm những lỗi lầm gì trong quá khứ, hãy thành tâm quỳ lạy trước Đấng mà bạn tôn thờ như Đức Phật , hay bàn thờ gia tiên trong nhà bạn..v.v. và thành tâm sám hối, chi tiết, cụ thể từng lỗi, từng lỗi bạn đã phạm phải.

Nhưng thường thì bạn sẽ không biết bạn sai ở đâu, vì điều này thường chỉ những người có trí tuệ rất cao mới làm được. Vậy thì, dù bạn biết hay không biết, hãy thực hiện điều sau:
 
Hãy đọc các loại kinh tùy theo tôn giáo của bạn nếu bạn không theo tôn giáo nào cũng có thể đọc Chú đại bi một thần chú có công năng rất lớn hoặc những bộ kinh thư trong đạo Phật tùy duyên bạn thấy thích Kinh nào, tất cả đều có công năng sám hối mạnh mẽ vô biên. Rất, rất nhiều người đã khỏi bệnh, thoát nạn chỉ với việc kiên trì đọc Kinh sám hối hoặc trì tụng Chú Đại Bi. Điều này có ý nghĩa như lấy nước gột rửa những vết nhơ trong quá khứ. Bạn cần lưu ý là luôn tâm niệm lấy việc đọc kinh này để sám hối những lầm lỗi quá khứ. Nghiệp chướng của bạn sẽ theo lời đọc mà tan biến dần dần.
 

2. BÙ ĐẮP BẰNG NHỮNG VIỆC PHÚC THIỆN


Phuong phap Cau An - Giai han - Tang cuong phuoc bau theo tinh than dao Phat hinh anh 2
 

Sự sám hối của bạn sẽ thực tế hơn rất nhiều, nghiệp chướng của sẽ tan biến nhanh hơn rất nhiều nếu được đền chuộc bằng những việc làm từ thiện. Càng làm nhiều, bạn sẽ càng thấy hiệu quả rõ rệt.

Sau đây, tôi xin giới thiệu với bạn một số việc từ thiện không khó làm, nhưng phước báo cực kì to lớn. Hãy làm, bạn sẽ thấy!
 
TỪ THIỆN CỨU NGƯỜI
 
Bạn có thể tới các bệnh viện, các trung tâm trẻ mồ côi, người già neo đơn, người khuyết tật để trao tặng những món quà, tài vật hoặc tịnh vật tùy điều kiện khả năng của chúng ta.
 
Nhưng nếu có thời gian hãy trực tiếp tìm hiểu những mảnh đời bất hạnh mà họ không đủ phước duyên được nhiều người biết đến để hỗ trợ. Chúng ta có thể tìm được bằng cách đến những nơi hẻo lánh, hoặc trực tiếp tìm hiểu tại các bệnh viện, không gì hạnh phúc hơn là giúp được người khác qua cơn hoạn nạn. Công đức không thể nghĩ bàn.
 
PHÓNG SINH
 
Dù không bằng so với việc cứu người, nhưng cứu sống những con vật tội nghiệp khỏi lưỡi dao đồ tể, khỏi cái chết đau đớn cũng sẽ đem lại cho bạn phước báo lớn lao.
 
Nếu bạn có một khỏan tiền dư ko dùng đến, hãy mạnh dạn mở lòng từ bi trích ra 1 ít Hãy mua những con vật sắp bị giết thịt, rồi thả chúng vào một chốn an tòan. Cuộc sống của bạn sẽ thay đổi vì điều đó.
 
Một điều cần lưu ý, bạn nên ưu tiên những loài vật sau để phóng sinh nếu bạn không đủ sức để phóng sinh tất cả:
 
Chó, trâu bò, ngựa. Đây là những con vật mang đậm tình nghĩa với con người. Dù là động vật, nhưng chúng có tâm tư tình cảm gần giống người nhất. Phóng sinh chúng là một việc làm thực sự ý nghĩa.
 
Rùa, ba ba, lươn, ếch,... Mặc dù là động vật máu lạnh, nhưng tâm linh của chúng rất cao. Những người phóng sinh chúng thường gặp những may mắn kì lạ.
 
Những động vật có sức sống mạnh mẽ như cá trê, cá lóc, ếch nhái... vì thật đáng buồn nếu như sau khi bạn thả vật về tự nhiên, chúng lại lăn ra chết.
 
Những con vật sắp sinh con. Điều này thật dễ hiểu, vì chỉ cần cứu một con là cứu được cả đàn mẹ lẫn con. Đặc biệt với loài cá vì chúng sinh sản với số lượng khủng khiếp.
 
Hãy trực tiếp vào chợ, các lò mổ để mua phóng sanh vì đó là những chúng sinh thực sự cần chúng ta.
 
ẤN TỐNG
 
Đem ánh sáng chân lí đến cho cuộc đời, đem đạo đức, lẽ phải đến cho mọi người. Đó là điều thiện vĩ đại nhất trong các điều thiện. Đức Phật nói “Pháp thí là vua trong tất cả các pháp bố thí”.
 
Vì sao?
 
Vì đó là khởi nguồn cho mọi điều thiện khác được phát sinh, vì chỉ khi mở được cánh cửa của chân lí, của lẽ phải, con người ta mới có thể biết phải làm gì để tìm được hạnh phúc, phải làm gì để chấm dứt khổ đau .
 
Chính vì thế , một lựa chọn cực kì sáng suốt nếu bạn muốn thay đổi vận mạng của mình. Đó là, bạn hãy tìm mua, in ấn những kinh thư hay những sách có nội dung khuyến thiện, hoặc băng đĩa thuyết pháp của quý thầy có tác dụng khiến người xem bỏ ác làm lành, tăng trưởng đạo đức. Sau đó đem tặng cho nhiều người, bạn sẽ bất ngờ vì phước đức ghê gớm mà việc ấn tống này đem lại.
 
Một điều đáng mừng cho chúng ta, trong thời đại công nghệ phát triển, chúng ta có thêm một cách ấn tống vô cùng hiệu quả bằng phương tiện internet. Bằng vài cú nhấp chuột, bạn đã có thể chia sẻ những bài viết hay, những lời pháp ý nghĩa đến cho hàng ngàn, hàng vạn người đọc trên facebook hay các trang mạng khác.
 
Ngoài những việc trên, bạn có thể chọn một nghìn lẻ một cách khác để làm từ thiện, miễn là việc đó đem lại an vui cho mọi người , cho muôn loài như : xây cầu đắp đường, xây chùa đúc tượng, chữa bệnh phát thuốc, trồng cây gây rừng,...
 
Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp mọi người có thêm được thông tin hữu ích trong việc giải hạn những nghiệp xấu của mình.

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương pháp Cầu An - Giải hạn - Tăng cường phước báu theo tinh thần đạo Phật

Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

Ngựa và Trâu là một cặp không hợp cạ, nhưng có thể, nhờ sự khác biệt về tính cách mà họ có thể bù đắp cho nhau, với điều kiện đôi bên cùng phải thấu hiểu. Nếu không kiên nhẫn và không biết nhượng bộ thì tình yêu giữa hai tuổi này chắc chắn sẽ tan vỡ.
Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Ngọ có hợp nhau không? –

4 kiêng kỵ ngày Rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi

Nhiều người quan niệm, không riêng gì ngày Rằm tháng Giêng mà các ngày Tết, ngày mùng 1 hay ngày rằm thường, bạn nên kiêng khem một số điều sau để tránh vận hạn đen đủi, điều không may mắn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với ngày Rằm, theo quan niệm phương Đông thì có một số điều nên tránh làm để tránh vận hạn đen đủi, điều không may mắn như sau:

Kiêng câu cá ngày trăng tròn

Theo quan niệm tâm linh của người Việt, hành động câu cá vào ngày rằm sẽ mang lại cho người đó vận hạn đen đủi. Chính vì điều này, vào ngày rằm người ta thường không đi câu cá.   

4 kiêng kỵ ngày Rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi - Ảnh 1
Hành động câu cá vào ngày rằm sẽ mang lại cho người đó vận hạn đen đủi. Ảnh minh họa.

Kiêng nói bậy, chửi tục

Nói bậy chửi tục chắc chắn cũng phản ánh một phần nào đó văn hóa của mỗi người. Đây cũng là điều mà rất nhiều người kiêng kỵ để không xuất hiện trong những ngày đầu tháng.

Nhiều người quan niệm nếu đầu tháng, rằm mà nói bậy chửi tục thì cả tháng sẽ gặp những chuyện thị phi.

Kiêng quan hệ nam nữ

Trong ngày Tết, mùng 1, ngày rằm, người phương Đông có quan niệm kiêng khem, tránh việc gần gũi nam nữ. Bởi lẽ, theo quan niệm cổ xưa, việc quan hệ nam nữ vào những ngày này sẽ dẫn đến những điều vận hạn đen đủi, không may mắn, thậm chí là đại hạn.   

4 kiêng kỵ ngày Rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi - Ảnh 2
Trong ngày Tết, mùng 1, ngày rằm, người phương Đông có quan niệm kiêng khem, tránh việc gần gũi nam nữ. Ảnh minh họa.

Hiện nay, quan niệm này tuy đã không còn nặng nề như trước nhưng trên thực tế, không ít cặp vợ chồng vẫn khiêng khem và đại kỵ chuyện ấy trong những thời khắc nhạy cảm.

Kiêng sinh con gái vào ngày rằm

Dân gian vẫn có câu "trai mồng một, gái ngày rằm" ý muốn chỉ những bé trai sinh ngày mùng 1 và bé gái sinh ngày rằm thường rất "khó nuôi". Vì vậy nên tránh sinh con vào những ngày này.

Đã có nhiều cách lý giải khác nhau về tục kiêng kỵ này nhưng không phải lý giải nào cũng thực sự thuyết phục.   

4 kiêng kỵ ngày Rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi - Ảnh 3
Vào ngày rằm khi trăng tròn, Thái Âm sẽ vượng nhất, năng lượng âm đạt cực đại, con gái sinh vào ngày này sẽ là cực âm thành ra cá tính, khó dạy dỗ. Ảnh minh họa.

Dưới góc độ lý học Đông Phương, mỗi người sinh ra đều chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian (tượng trưng là các chòm sao). Theo đó, Mặt Trăng tượng trưng bởi sao Thái Âm mang năng lượng âm.

Vì vậy, vào ngày rằm khi trăng tròn, Thái Âm sẽ vượng nhất, năng lượng âm đạt cực đại, con gái sinh vào ngày này sẽ là cực âm thành ra cá tính, khó dạy dỗ.

Tuy nhiên hiện nay, quan niệm này không còn mấy ai tin tưởng và thực hành theo. Vì con cái trời sinh, sinh con ra dù trai hay gái và vào ngày nào nếu khỏe mạnh cũng đều đáng quý.

* Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 kiêng kỵ ngày Rằm tháng Giêng để tránh vận hạn đen đủi

Mệnh Sa Trung Kim

Giáp Ngọ, Ất Mùi thì Ngọ là chỗ hỏa vượng, hoả vượng thì kim bại; Mùi là chỗ hỏa suy, hỏa tuy suy nhưng kim cũng đã cùn nhược. Gọi bằng Sa Trung Kim, Kim không đủ cứng cáp để chém, để đẩy cho nên người Sa Trung Kim thường làm việc một cách đầu voi đuôi chuột. Mệnh cung mà thêm sao Thiên Đồng hãm nữa thì càng vớ vẩn.
Mệnh Sa Trung Kim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Sa Trung Kim cần liên tục theo đuổi mục đích nào đó, nói khác đi là ngoan cố đeo đẳng mới đạt tới được. Giáp Ngọ thì Ngọ hỏa khắc kim tước giảm khí thế, trong khi Ất Mùi thì Mùi thổ sinh kim. Ất Mùi đương đầu với gian nan uyển chuyển hơn Giáp Ngọ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh Sa Trung Kim

Màu sắc thích hợp theo phong thủy trong phòng ngủ

Màu đỏ, màu hồng tượng trưng cho sự nhiệt tình nhưng nếu dùng màu này trang trí phòng ngủ sẽ bất lợi cho giấc ngủ và ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Màu sắc phong thủy trong phòng ngủ khác nhau sẽ mang ý nghĩa tượng trưng khác nhau. Màu đỏ, màu hồng tượng trưng cho sự nhiệt tình nhưng nếu dùng màu này trang trí phòng ngủ sẽ bất lợi cho giấc ngủ và ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Màu xanh da trời cũng gây bất lợi cho sức khỏe, nhưng nếu đang là mùa hè, bạn có thể chọn màu xanh da trời nhạt để trang trí phòng ngủ. Phòng ngủ màu trắng sữa hoặc màu vàng nhạt sẽ tạo nên không gian ấm cúng, thoải mái. Phòng ngủ vốn là nơi để nghỉ ngơi và thư giãn nên 2 màu này sẽ thích hợp để trang trí.

tranh-phong-ngu

Không nên đặt vật trang trí hình tròn trong phòng ngủ

Trong các phòng của ngôi nhà, phòng ngủ là nơi cần sự yên tĩnh tuyệt đốì. Xét theo góc độ phong thủy, hình tròn thuộc “động”, nếu phòng ngủ đặt quá nhiều vật trang trí hình tròn sẽ khiến chủ nhân có cảm giác bất an, ở trong thời gian dài dễ ảnh hưởng đến tâm lý. Vì thế, muốn tạo nên không gian yên tĩnh, bạn tốt nhất không nên đặt vật trang trí hình tròn trong phòng ngủ.

Vật dụng trong phòng ngủ nên bố trí như thế nào

Phòng ngủ là nơi để thư giãn và nghỉ ngơi. Do đó, khi bố trí vật dụng cần có sự suy xét kỹ càng. Đầu tiên, chỉ nên đặt vật dụng trong phòng ngủ phía cuối chân giường, không nên đặt ở đầu giường. Xét trên góc độ âm dương phòng ngủ thuộc âm, nếu đặt vật dụng ở đầu giường sẽ khiến con người phải chịu áp lực, dẫn đến những bất lợi cho sức khỏe. Đặc biệt, rất nhiều đồ gia dụng khác như tủ quần áo càng không nên đặt ở đầu giường. Thứ hai, cạnh giường phải có tủ đầu giường. Trong phong thủy, tủ đầu giường tượng trưng cho tài phú. Như thế nếu không có tủ đầu giường thì tài vận sẽ không hưng vượng mà hôn nhân cũng sẽ chịu ảnh hưởng. Nói chung, tủ đầu giường nên đặt hai bên đầu giường tạo nên cách cục trái Thanh long, phải Bạch hổ? tượng trưng cho điềm đại cát.

Vị trí đặt giường ngủ thích hợp nhất

Giường chính là nhân tố chính của phòng ngủ, cũng là vật dụng không thể thiếu. Vậy, đặt giường ngủ ở vị trí nào để giúp tài vận hưng vượng nhất?

  • Thứ nhất, giường ngủ tốt nhất nên đặt theo hướng Nam Bắc. Phương hướng lực hấp dẫn của từ trường là hướng Nam Bắc, cho nên khi thiết kế giường ngủ nên đảm bảo hướng giường cùng hướng của lực hấp dẫn. Chỉ có như thế mới có thể nâng cao chất lượng giấc ngủ, đồng thời đảm bảo sức khỏe bản thân.
  • Thứ hai, vị trí tiếp nhận bức xạ ánh sáng mặt trời chính là vị trí tốt nhất để đặt giường ngủ. Hấp thụ ánh sáng tự nhiên cũng chính là điều kiện quan trọng tăng cường sức khỏe.
  • Thứ ba, đầu giường không nên tựa cửa. Đầu giường tựa cửa sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ, đây là điều đại kỵ trong phong thủy. Vì thế, khi thiết kế giường ngủ nên tránh cách cục này.

Tại sao giường ngủ cần có điểm tựa

Phong thủy học quan niệm “sau giường phải có điểm tựa”, ở đây ý chỉ đầu giường không nên trống trải, không có điểm tựa, cho nên đầu giường tựa vào tường là tốt nhất.

Giường ngủ là nơi để thư giãn và nghỉ ngơi, nếu đầu giường ngủ trống trải, giống như trên đầu lơ lửng khoảng trống. Đây là điềm báo về sự nghiệp không thuận lợi trong Phong thủy học. Hơn nữa, nếu 2 đầu giường không có điểm tựa thì giường này không phù hợp quan niệm của Phong thủy học. Tóm lại, khi thiết kế giường, phải thiết kế điểm tựa cho giường ngủ, chỉ có như vậy thì tinh thần mới thoải mái, ngon giấc và mang  lại cảm giác an toàn.

Treo tranh đầu giường thế nào cho hợp lý

Rất nhiều người vì mỹ quan ngôi nhà nên thường treo tranh ở đầu giưòng, nhưng theo Phong thủy học, bạn nên chú ý tránh những loại tranh không thích hợp để treo trên đầu giường cụ thể:

-Tranh vẽ hoa cỏ: Đặt hoa ở đầu giường là phạm vào vận đào hoa, cho nên, treo tranh này sẽ ảnh hưởng xấu đến chuyện tình cảm, khiến tình cảm vợ chồng rạn nứt.

 -Không nên treo tranh sơn thủy trên đầu giường: cảnh tượng núi cao lấn át, nước lớn ngập đầu sẽ ảnh hưỏng đến chất lượng giấc ngủ.

 -Không nên treo tranh mãnh thú trên đầu giường: Nếu treo tranh mãnh thú trong phòng ngủ sẽ ảnh hưởng đến tinh thần bản thân, bất lợi cho sức khỏe, thậm chí còn mang điềm báo sắp có tai họa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc thích hợp theo phong thủy trong phòng ngủ

Tướng đàn ông qua lông mày –

Nhân tướng học từ lâu đã nhận định rằng, trên khuôn mặt thì lông mày tượng trưng cho vua, mắt tượng trưng cho thần tử. Xem tướng lông mày đàn ông có hình rồng thì chắc chắn là giàu có, lông mày đàn ông mà thanh tú, cách xa nhau là biểu hiện của người
Tướng đàn ông qua lông mày –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đàn ông qua lông mày –

Xem bói khuôn mặt của bạn

Xem bói khuôn mặt của bạn Nếu bạn có một vầng trán rộng và chiếc cằm thon, bạn chính là người có gương mặt hình trái tim
Xem bói khuôn mặt của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nên xem gì?

- Tử vi hàng ngày; Ngày hôm nay của bạn thế nào

- Xem ngày tốt xấu hôm nay

Xem bói khuôn mặt

Xem tướng khuôn mặt của bạn

1. Xem bói gương Mặt hình chữ nhật

Gương mặt này được điển hình bởi vầng trán rộng và chiếc cằm lớn. Người có gương mặt này là những người có suy nghĩ thấu đáo và rất coi trọng logic, nhưng lại hay cường điệu hóa mọi thứ. Họ cũng không thích nói về cảm giác của bản thân. Việc lên kế hoạch với những người này luôn là điều thú vị và họ luôn làm với chiến lược rõ ràng và hiệu quả cao. Để giải thoát mình khỏi những căng thẳng, những người có gương mặt chữ nhật thường vùi mình vào công việc thay vì giải quyết bằng lời.

2. Xem bói gương mặt oval
Gương mặt oval có chiều dài lớn hơn chiều rộng, đồng thời xương hàm nhỏ hơn xương gò má. Nói cách khác, gò mà chính là phần rộng nhất trên gương mặt của bạn. Những người có gương mặt này rất thực tế và luôn đạt thành tựu trong mọi thứ một cách bài bản. Tuy vậy, họ cũng là những người tham vọng. Họ thường hay nói những lời ngọt ngào và biết cách dùng từ ngữ để khiến người đối diện thoải mái. Chính vì đôi khi phải làm hài lòng mọi người, những thứ họ nói đôi khi không hoàn toàn là sự thật.
3. Xem bói gương mặt vuông:
Một vầng trán cũng như xương hàm rộng chính là những nét điển hình trên gương mặt của những người này. Họ là những người luôn tràn trề năng lượng và có khả năng chịu đựng tuyệt vời, vì vậy, họ luôn luôn sẵn sàng đương đầu với những kế hoạch lớn. Họ còn có một tâm lý vững vàng và đầu óc phân tích - họ chính là những người lãnh đạo bẩm sinh, luôn luôn bình tĩnh và tập trung kể cả trong những môi trường sức ép cao.
Xem thêm
>> Xem bói năm 2016 Mới nhất
>> Xem lá số tử vi

4. Gương mặt hình tam giác
Những người có gương mặt này thường là người sáng tạo, có máu nghệ sĩ và nhạy cảm - tuy vậy cũng đừng chọc tức họ vì họ cực kỳ dễ cáu giận. Gương mặt này còn tiết lộ rằng họ luôn thích được có một vị trí. Vầng trán càng hẹp so với đầu càng chứng tỏ họ thích được nắm quyền kiểm soát.
5. Gương mặt kim cương
Gương mặt kim cương có góc cạnh ở cả trán và cằm nhưng cũng mở rộng ở giữa. Những người có gương mặt này thường thích có chỗ đứng và tất cả những thứ họ chạm vào dường như đều tỏa sáng. Họ còn là người cực kỳ chú ý đến những chi tiết, cũng vì vậy mà tạo ra kết quả cao trong công việc. Những người này còn có khả năng giao tiếp tốt và rất tỉ mỉ trong công việc. Cũng giống như những viên kim cương, những lời từ miệng của họ cũng có thể sắc như dao một khi bạn làm họ phật ý.
6. Gương mặt hình trái tim
Nếu bạn có một vầng trán rộng và chiếc cằm thon, bạn chính là người có gương mặt hình trái tim. Những người này có trái tim lớn, rất sáng tạo và có trực giác mạnh mẽ. Tuy vậy, họ có phần hơi nhút nhát. Cũng giống như những người có gương mặt vuông, họ cũng luôn tràn trề năng lượng và có một nguồn sức mạnh tiềm tàng rất lớn.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói khuôn mặt của bạn

Canh Ngọ mệnh gì –

Người sinh 1990, Canh Ngọ, có Ngũ hành năm sinh là Lộ Bàng Thổ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung KHẢM, hành THUỶ, hướng Bắc, quái số 1, sao Nhất Bạch, Đông tứ mệnh (Đông Nam, Đông, Nam, Bắc). Đeo đá màu Trắng, Xám, Ghi để được Tư
Canh Ngọ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Ngọ mệnh gì –

Các ngành trong khoa tử vi

a. Võ học: Sát, Phá, Liêm, Tham: nếu hội đủ cả bốn sao chiếu Mệnh thì nghiệp võ của đương số sẽ rõ ràng. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp quân nhân vẫn không hội đủ bốn sao. Mặt khác, cũng có trường hợp có đủ bốn sao mà vẫn không phải là nhà binh. Trong trường hợp này, những sao đó nói lên võ tính của đương sự hơn là võ học hay võ nghiệp: biểu lộ tính can đảm, táo bạo, liều lĩnh, hay sát phạt, có hành động võ phu.
Các ngành trong khoa tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Binh Hình Tướng ấn: cách này chỉ sự hiển đạt trong nghiệp võ, chỉ quân nhân có tài tác chiến, tài tham mưu, đồng thời cũng là quân nhân có chiến công, có cầm quân, có huy chương.

Vũ Tướng: hai sao này kết hợp cũng chỉ võ nghiệp rất đặc sắc.

Tử Phủ Vũ Tướng: cách này vừa chỉ văn, vừa chỉ võ cho nên đặc biệt có quyền uy: đó là ngành võ cầm quyền chính trị.

Tướng Quân, Thiên Mã: chỉ quân nhân có tài. Tướng Quân chỉ võ tính, sự cương cường, hiếu thắng, phách lối còn Thiên Mã chỉ tài năng. Nếu Thiên Mã đi với Thiên Tướng cũng đồng nghĩa nhưng đây là một quân nhân có kỷ luật hơn vì Thiên Tướng vốn đôn hậu, có tư cách hơn Tướng Quân.

Thiên Mã, Lực Sỹ: là cách của võ tướng có sức mạnh từ đó vũ dũng (ít có mưu lược).

Thiên Tướng-Tướng Quân hay Thiên Tướng-Phục Binh hay Tướng Quân-Phục Binh: là tướng có quân, có quyền.

Ngoài ra có thể kể một số sao trợ võ, nghĩa là đi chung với các võ tinh khác thì làm cho võ nghiệp rõ rệt hơn. Đó là Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh là những sát tinh, hung tinh nói lên tính nết mạnh bạo, dám làm, tác phong của võ cách. Ví dụ, hai sao Kình, Hỏa miếu địa đồng cung là số danh tướng, hợp vớ cách Sát Phá Liêm Tham. Tướng Mã Không Kiếp đắc địa chỉ quân nhân cầm binh, vị tướng cầm quân có nhiều binh tướng dưới tay, thường lập nghiệp vẻ vang trong thời tao loạn. Sát Phá Liêm Tham gặp Kình hãm địa ở Mão và Dậu là tướng làm loạn, đảo chánh, binh biến, khát máu, giết người không gớm tay.

b. Văn học
Văn Xương, Văn Khúc: chỉ các môn về văn chương, triết lý hoặc chỉ môn học nói chung.

Thái Tuế, Thiên Hình, Cự Môn, Quan Phù: một trong bốn sao này chỉ các môn học về luật pháp.
Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật: cả bốn sao này chỉ ngành dịch thuật. Đây là bộ sao của các thông ngôn, hành nghề dịch sách, tu thư, khảo cứu cổ ngữ, kim ngữ.

Lưu Hà, Tấu Thư, Hóa Khoa, Thái Tuế, Cự Môn, Hóa Kỵ: chỉ sự hùng biện, tài dùng ngôn ngữ, ứng dụng đắc cách vào ngành sư phạm, vào khoa hùng biện, chính trị học.

Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương: chỉ người công chức. Ngành học là hành chính, quản trị công sở.

Lộc Tồn: chỉ tài năng tổ chức, sắp xếp công việc, do đó cũng liên quan đến ngành quản trị hành chính hay công sở đặc biệt là quản trị tài chính, kế toán, ngân sách, kho bạc, ngân hàng.

c. Khoa học:
Thiên Tướng, Thiên Y: Hai sao này đi chung (đồng cung hay hội chiếu) có nghĩa là y học. Ngoài ra, nếu Thiên Y đi kèm với các sao phù trợ khác cũng có nghĩa về y học: Thiên Quan, Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Phúc, Thiên Lương, Thái Âm, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần ...

Thiên Y, Hóa Kỵ: có ý nghĩa bào chế thuốc men, có liên quan đến y dược học.

Thiếu Âm, Thiếu Dương, Thái Âm, Thái Dương: các sao này có nghĩa là điện, liên quan đến ngành điện học, điện tử hay nguyên tử.

Thiên Cơ: liên quan đến máy móc, ngành cơ khí, kỹ thuật. Đây có thể là sao của kỹ sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ nghệ gia.

d. Kinh tế học:
Vũ Khúc, Tham Lang: Vũ Khúc chỉ tài lộc, tiền bạc. Tham Lang chỉ sự đua chen tham lợi. Đây là cách chỉ nghề thương mại, kinh doanh.

Hóa Lộc, Lộc Tồn và Thiên Mã: Hai sao Lộc chỉ tiền tài. Thiên Mã chỉ tài năng, sự tháo vát, giao dịch. Hai sao này đi chung chỉ ngành thương mại, đặc biệt là ngành thương mại lưu động. Người có bộ sao Mã Lộc hay Mã Tồn là kẻ mua sỉ bán lẻ hay đại lý thương mại hay người phân phối, đóng vai luân lưu hàng hóa trong hệ thống kinh tế.

Vũ Khúc, Thiên Phủ: Thiên Phủ chỉ cái kho tàng hay kho bạc. Ngành học của Phủ có thể là ngân hàng, tín dụng, thuế khóa. Vũ Khúc có thể chỉ kinh tế học. Đây là cách chỉ ngành kinh tế, tài chính.

Vũ Khúc, Tham Lang, Kình Dương, Thất Sát: bốn sao này sáng sủa hội họp thường thiên về kỹ nghệ.

e. Nghệ thuật:
Phượng Các, Tấu Thư, Xương Khúc: Phượng Các là thính giác. Tấu Thư là sự linh mẫn, êm dịu, ngọt ngào. Xương Khúc chỉ môn học. Bốn sao này đi cùng chỉ môn âm nhạc.

Tấu Thư, Hồng Loan: Hồng Loan có nghĩa là hoa tay, từ đó chỉ ngành học liên quan đến sự khéo tay như hội họa, điêu khắc, thêu may, hay thủ công nghệ nói chung.

Đào Hoa, Tấu Thư, Thiên Hỷ, Vũ Khúc: bộ sao của ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên màn ảnh, tài tử, minh tinh, có liên quan đến ngành học như hát, đóng kịch, đóng phi. Đào Hoa chỉ sự hâm mộ, Thiên Hỷ chỉ sự giúp vui, Vũ Khúc chỉ danh giá, sự nổi tiếng.

Thiên Trù, Tấu Thư, Hóa Lộc hay Hồng Loan: chỉ ngành nấu bếp, nấu rượu, chế tạo thức ăn thức uống hoặc gia chánh.

Đào Hoa, Hồng Loan với Mộc Dục hay Hoa Cái: chỉ môn thẩm mỹ học, chuyên về sửa sắc đẹp. Nếu đi với Thiên Hình hay Kiếp Sát chỉ môn giải phẫu thẩm mỹ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các ngành trong khoa tử vi

Tướng người phụ nữ đa tình

Tính dục của mỗi người không giống nhau do những đặc tính sinh lý trong cơ thể chi phối. Căn cứ vào những nét tướng sau, ta có thể biết được người quá coi trọng nhục dục (sự ham muốn xác thịt) hay không.
Tướng người phụ nữ đa tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Dưới đây là những tướng điển hình dễ nhận biết phụ nữ có tính dục cao:

- Sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng nhạt (đào hoa sắc) hoặc mặt trắng mà có nhiều tàn nhang; Lông mày nhỏ hẹp, uốn cong dài quá mắt.

- Mắt lớn và sáng, phía dưới mắt (lệ đường) có nhiều nếp nhăn xếp lên nhau hoặc nốt ruồi đen nổi rõ, có gân màu xanh xám hoặc hồng chạy về phía đuôi mắt.

- Mắt đào hoa, thấy người đàn ông khác thì thường hay cười tình, liếc xéo hoặc mắt không khóc mà vẫn ướt.

- Miệng lớn và khóe miệng đi xuống; tiếng nói liến thoắng, mỗi khi trò truyện thường hay có thói quen liếm mép hoặc nhắm mắt lại rồi mới phát âm.

- Nhân Trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) gẫy khúc, quanh mép miệng sắc da xanh xám một cách tự nhiên chứ không phải vì bệnh tật.

- Có thói quen lấy đầu lưỡi khua động nướu răng hoặc chân răng đen xám, không cười mà thường lộ chân răng.

- Eo lệch, rốn quá sâu, lưng ong.

- Khi ngồi, hai bàn chân bắt chéo, hai bàn tay đan nhau và bó lấy gối hoặc hay rung đùi liên tục.

- Bước đi uốn éo như rắn, nhún nhẩy như chim sẻ và thường ngoảnh đầu lại phía sau.

- Trong trường hợp phụ nữ hút thuốc lá, người đó có thói quen thở khói rất mạnh.

Ngoài những nét tướng trên, ta còn có thể căn cứ vào các khu vực sau để đoán định mức độ ham muốn tình dục của một người phụ nữ.

- Nhân trung có tía đỏ: Phần lớn phụ nữ chìm đắm trong hoan lạc, nhục dục đều có một đường vạch ngang màu đỏ hoặc hồng nhỏ như sợi tơ nhện xuất hiện ở nhân trung. Với đặc điểm này phải quan sát kỹ mới thấy được. Nếu như ta thấy dấu hiệu đó xuất hiện thì có thể chắc chắn rằng người phụ nữ không còn trinh tiết, có những quan hệ bất chính.

- Mắt tam bạch: Bình thường những phụ nữ đó không có loại mắt này nhưng vì đắm say nhục dục nên có thể sau một thời gian ngắn, khu vực xung quanh tròng đen bị thu hẹp dần, nhường lại chỗ cho tròng trắng, khiến tròng đen đều bị tròng trắng bao bọc, biến thành một loại tam bạch nhãn tạm thời.

- Khu vực Lệ Đường (phía dưới mắt): Bình thường khu vực này không có màu sắc xanh đen nhưng nếu giao hoan đầy lạc thú, tinh dịch tiết ra quá nhiều thì thường biến thành màu xanh đen.

- Khu vực Sơn Căn (khoảng cách giữa 2 đầu mắt) và Ngữ Vi (đuôi mắt) đột nhiên có màu xám đen ở hai bên hoặc rõ rệt hơn lúc bình thường.

Tất cả những dấu hiệu về màu sắc ở vị trí như trên cho thấy người phụ nữ đó rất coi trọng nhục dục. Người có nét tướng này thường có khuynh hướng ái ân vụng trộm, quan hệ bất chính ngoài vợ ngoài chồng.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người phụ nữ đa tình

Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2

Một ngôi nhà không thể không có khiếm khuyết, để cải thiện những ngôi nhà lỗi phong thủy, hãy cùng tham khảo những gợi ý sau đây nhé !
Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tìm đuợc một ngôi nhà tốt hoàn toàn theo phong thủy là điều không dễ dàng. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết là điều khó tránh. Dưới đây là một vài gợi ý để cải thiện ngôi nhà có thế lỗi phong thủy.

3. Nhà xấu do cấu trúc bên trong nhà


Cấu trúc bên trong ngôi nhà thường có hai dạng: những cấu trúc không nhìn thấy được (ngầm ở bên dưới) như bể nước ngầm hoặc bể phốt,…. và những cấu trúc có thể nhìn thấy được (ở bên trên) như cầu thang, phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, nhà vệ sinh,…

Về mặt cấu trúc bên trên, ví dụ phổ biến nhất là cầu thang đặt ở trung tâm nhà. Phong thủy quan niệm, khu vực trung tâm nhà (trung cung) đóng vai trò rất quan trọng, mang hành Thổ. Cầu thang, với tính chất vươn lên trên cao mang hành Mộc. Như vậy, nếu cầu thang đặt ở giữa nhà thì Mộc sẽ khắc Thổ (theo thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc), không tốt cho căn nhà. Đây cũng là một trong những lỗi phong thủy nhà ở.

 
Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 2) hinh anh
 
Để hóa giải, có thể điều chỉnh tâm nhà sang một vị trí khác bằng thủ pháp cấu trúc lại diện tích sàn nhà, có thể nới rộng khu vực sân vườn để tạo thêm một phần diện tích ở làm cho tâm nhà đã chuyển ra một vị trí khác. 
 
Trong trường hợp bất khả kháng thì treo một chiếc đèn lồng đỏ phía trên cầu trang. Đèn lồng đỏ mang hành Hỏa sẽ giúp trung hòa những yếu tố xấu do hành Mộc khắc hành Thổ gây ra.
 
Vể mặt cấu trúc bên dưới, lỗi phạm về phong thủy hay gặp nhất là bể nước hoặc bể phốt đặt giữa tâm nhà. Bể phốt ở giữa trung cung nhà tạo ra khí xú uế, còn bể nuớc làm cho phần trung tâm khuyết hãm là một điểm xấu dưới góc nhìn Phong thủy.
 
Trường hợp này cơ cấu lại tổng thể nhà sao cho phần bể phốt không nằm trong khu trung tâm nhà là được. Có thể nới rộng diện tích để thay đổi tâm nhà, hoặc đưa ra các biện pháp kỹ thuật để di dời bể phốt. Đối với bể nước, chúng ta có thay thế bằng bình inox đặt ở trên các tầng trên
 
Một trường hợp xấu nữa cũng rất hay gặp là khu vực nấu nướng trong gian bếp ở bên dưới khu vực nhà vệ sinh. Đây là một điều hết sức tránh vì những khí uế tạp của nhà vệ sinh có thể ảnh hưởng không tốt đến gian bếp. 
 
Nếu không thể di dời khu vệ sinh hay gian bếp thì nhất thiết phải giữ cho nhà vệ sinh luôn sạch sẽ, thông thoáng. Cũng có thể bố trí những chậu cây xanh trong nhà vệ sinh để giảm bớt các tạp khí. Một giải pháp khác mà nhiều chuyên gia phong thủy khuyên gia chủ nên sử dụng là rải một lớp sỏi trắng trên sàn nhà vệ sinh.    (Còn tiếp)
Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 1) Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 3)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gợi ý giúp cải thiện nhà lỗi phong thủy phần 2
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd