Tướng tay đàn ông |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Dậu/Dậu – Sự ghép đôi khó khăn
![]() |
Chùa Duyên Ninh còn có tên gọi dân gian khác là chùa Thủ. Chùa thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Chùa được xem là một trong những ngôi chùa cầu duyên nổi tiếng ở Việt Nam. Chùa nằm rất gần đền Vua Đinh Tiên Hoàng và giữa 2 điểm du lịch là chùa Bái Đính và khu du lịch sinh thái Tràng An. Chùa quay hướng đông bắc, gồm có chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp…
Lịch sử: Chùa Duyên Ninh là ngôi chùa cổ, được xây dựng từ thế kỷ X dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng. Chùa Duyên Ninh cùng với chùa Kim Ngân nằm ở vị trí thành Tây của kinh đô xưa. Cũng như chùa Nhất Trụ, chùa Duyên Ninh là nơi thờ phật và các nhà sư thế kỷ 10 như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh.
Chùa nằm rất gần đền Vua Đinh Tiên Hoàng và giữa 2 điểm du lịch là chùa Bái Đính và khu du lịch sinh thái Tràng An. Chùa quay hướng đông bắc, gồm có chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp…
Theo lịch sử ghi chép lại, Chùa Duyên Ninh là nơi các công chúa thời Đinh-Lê thường qua lại. Tại đây, công chúa Lê Thị Phất Ngân và tướng công Lý Công Uẩn đã thề hẹn ở đó mà sinh ra Lý Phật Mã (sau là vua Lý Thái Tông) vào năm 1000. Sau này khi Lý Thái Tông trở về đây dẹp loạn Khai Quốc Vương đã đổi tên chùa thành chùa Duyên Ninh. Cuối đời, Hoàng hậu Phất Ngân đã về đây tu hành và trông coi mộ phần thân phụ là Hoàng đế Lê Đại Hành. Tại đây, Hoàng hậu đã tác hợp cho nhiều đôi lứa thành đôi và từ đó Duyên Ninh trở thành ngôi chùa cầu duyên ở cố đô Hoa Lư.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý niên hiệu Ứng Thiên thứ 7 thời Tiền Lê ở ngôi sau này là chùa Duyên Ninh trong kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi vua mới sinh, ở phủ Trường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người có trâu ấy cho là điềm không lành, lấy làm lo ngại. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà người ấy cười mà nói rằng: “Đó là điềm đổi mới thôi, can dự gì đến nhà anh” thì người ấy mới hết lo. Tương truyền thuở nhỏ ông đã có 7 nốt ruồi sau gáy như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu). Sau này ông trở thành vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Lý.
Kiến trúc: Hiện tai, Chùa Duyên Ninh là một chùa cổ kính, nằm nép mình bên các dãy núi xưa là kinh thành của Hoa Lư. Trên địa bàn xã Trường Yên hiện còn 6 chùa gồm: chùa Nhất Trụ, chùa Am Tiên, chùa Kim Ngân, chùa Cổ Am, chùa Bà Ngô và chùa Duyên Ninh. Tương truyền, Mỗi chùa gắn với một sự tích khác nhau như cầu phúc thì đến chùa Cổ Am, cầu lộc vào chùa Kim Ngân, cầu danh vào chùa Nhất Trụ, cầu thọ vào chùa Bà Ngô, cầu tài vào chùa Am Tiên còn cầu duyên thì vào chùa Duyên Ninh…
Chùa Duyên Ninh là một trong những ngôi chùa cầu duyên linh thiêng nhất Việt Nam. Du khách và phật tử không chỉ được thưởng thức cảnh đẹp từ thiên nhiên mà còn có thể cầu nguyện năm mới nhiều may mắn.
| ► Tham khảo thêm: Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc cho gia chủ |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Mốt lông mày ngang, đẹp thì có đẹp nhưng không tốt |
5 tướng mặt có cát tinh che chở năm 2016![]() |
| Chóp mũi to là dáng mũi "đựng tiền" |
Thay đổi nhân tướng, cải thiện vận trình| ► Xem nốt ruồi trên mặt đoán vận mệnh chuẩn xác |
Cô nàng tuổi Dần
Cô nàng tuổi Dần có cá tính mạnh mẽ, quật cường khiến con trai vừa kinh ngạc vừa nể phục. Nhưng họ lại khiến cánh XY khó tiếp cận và nói chuyện yêu đương bởi tính khí “bá đạo”, thích xem mình là trung tâm và cho rằng mình luôn đúng. Đứng trước cô nàng này, con trai thường cảm thấy bị tước quyền nam nhi, thậm chí đôi khi còn mất cả thể diện, cho nên họ chỉ dám đứng nhìn từ xa, ít khi tiến tới sâu hơn.
![]() |
Cô nàng tuổi Tuất
Trừ phi có người chịu đựng được những lời phê phán, quát mắng hay càu nhàu của cô nàng tuổi Tuất, nếu không ít có ai đủ bình tĩnh để ở bên cạnh lâu dài với các nàng này. Mặc dù cô nàng tuổi Tuất rất chung thủy trong tình cảm, biết cho đi vì đối phương nhưng khuyết điểm lớn của họ là cái miệng không tự chủ được. Nàng thích xét nét, chỉ trích và lời nói vô cùng sắc bén, cho dù là lời quan tâm đôi khi cũng bị nàng “cường điệu” thành ra khó nghe, đặc biệt là tính khí ưa cằn nhằn nữa nên con trai rất ngán.
Cô nàng tuổi Ngọ
Nhiệt tình, sinh động và thích vui chơi, cô nàng tuổi Ngọ dễ hòa đồng với mọi người, cả con gái lẫn con trai. Ở bên cạnh nàng, các chàng trai ít khi phải chịu “áp lực đàn ông” như thường lệ. Vấn đề là chỉ ở mối quan hệ bạn bè mới thế. Một khi tiến triển xa hơn, thái độ quá tự nhiên và bạo dạn của nàng sẽ khiến con trai đi từ bất ngờ đến bất ngờ khác. Con trai sẽ phải đắn đo không biết cô nàng có đáng tin cậy và một lòng trong tình yêu hay không.
Khang Ninh (theo Meiguoshenpo)
Trong sách xưa có viết: Chỉ cần có xương ngọc chẩm thì đều là hình tướng phú quý. Như tăng đạo tuy không phú quý nhưng có xương ngọc chẩm đều trường thọ. Có xương ngọc chẩm mà hơi nhô lên thì sẽ có phúc lộc và trường thọ, nếu xương này vừa bằng vừa lõm thì người này phúc thọ đều không được lâu.
Trong cốt pháp của người quan trọng nhất là xương đầu và xương trán.
Chẩm cốt, xương sau đầu, của người trưởng thành giống như ngọc trong đá núi, ngọc trai trong biển, có thể quyết định vinh hiển hay không. Do đó có thể nói, cho dù con người có cốt pháp tốt thì cũng cần có tướng mạo tương ứng mới được, chỉ có thần khí thanh thoát mới có thể hưởng thụ thiên lộc.
Chẩm cốt: Xương này như ngọc, có thể biết vinh đạt hiển quý. Hình dạng khác nhau thì mệnh không giống nhau
Người có xương ngọc chẩm, đều là quý tướng
Xương chẩm nhô lên thành hình chữ “nhất” chủ về người coi trọng thành tín, tính cách cứng rắn, mạnh mẽ.
Xương chẩm phát triển thành vòng gọi là Suất phúc chẩm, chủ về 3 đời đều phú quý.
Xương chẩm phát triển sang trái gọi là Tả trường chẩm, hướng lệch sang trái gọi là Tả tản chẩm, lệch sang phải là Hữu tản chẩm, đây đều chủ về người có phú quý và trường thọ.
Xương chẩm có hình chữ “tam” (H), chủ về có nhiều việc vui. Trên xương chẩm có 2 xương nối liền gọi là Liên chẩm, cũng gọi là hoàn chẩm, nếu nối liền với phần xương ở sau tai thì sẽ phú quý, trường thọ, nhưng tính cách không tốt.
Xương chẩm phát triển giống quả trứng gà thì gọi là Kê tử chẩm, chủ về tính cách nóng nảy, hay tự cho mình là đúng. Xương chẩm giống hình chữ “sơn” thì gọi là Sơn tự chẩm, cũng gọi là hoành sơn nhất tự chẩm, chủ về thành thực, tính cách cương cường. Xương chẩm phát triển giống huyền châm thì gọi là Huyền châm chẩm. Xương chẩm phát triển giống như chiếc kim rủ xuống thì gọi là Thùy châm chẩm, cũng gọi là ngọc chẩm, chủ về trường thọ.
Xương chẩm giống như chén rượu gọi là tửu tôn chủ về có quý, có lộc nhưng sẽ không có quan chức. Xương chẩm thành hình chữ “Thượng”, gọi là Thượng tự chẩm, chủ về chí khí cao, dũng cảm, nhiều thành bại, ít nhiều quý khí.
Xem xương chẩm biết thêm vận mệnh
Xương chẩm lồi lên giống như bụng trông gọi là Yêu cổ chẩm, chủ về tiểu quý, nhiều thành bại.
Xương chẩm nhô lên thành hình ngọc trai gọi là Châu chẩm, chủ về sẽ phú quý nhưng không thực mà chỉ là hư danh.
Xương chẩm có hình chữ “đinh” gọi là Đinh tự chẩm, chủ về tính tình khoan hòa, có thể phú quý.
Có 3 xương thẳng nhô, 1 xương nằm ngang ở dưới đỡ gọi là Sơn tự chẩm, chủ về thông minh, phú quý, trường thọ. Có 1 xương hình tròn, có 1 xương hình vuông gọi là Điệt ngọc chẩm, chủ về hưởng vinh hoa phú quý. Có 1 xương nhô lên mà nhọn gọi là Tượng nha chẩm, chủ về có thể nắm quyền binh tướng. Xương chẩm nhô lên phân thành 4 góc gọi là Huyền châm cốt, chủ về được phong làm tế sát võ thần. Có một xương cắt ngang gọi là Nhất dương chẩm, chủ về phát tài lớn, trường thọ.
Đỉnh đầu vuông tròn, trán bằng đầy đặn là mệnh quý hiển
Nếu bộ vị Thái dương nổi cao, người đó có thể làm quan lại được trường thọ. Nếu tóc thưa mỏng, da mặt cũng mỏng chủ nghèo khổ. Nếu hai bên trái phải đầu đều lệch, người đó sẽ khắc hại cha mẹ.
Người có đầu ngắn, cổ dài thường rất nghèo khổ. Nếu đầu cong tựa đầu rắn, người đó chẳng đủ cơm ăn áo mặc. Nếu đầu người ngắn lại tròn thường là người được phúc lộc không ngừng. Nếu bụng rủ xuống thấp, chủ người làm nô bộc. Nếu người đầu nhỏ mà tóc dài, chủ về mất tung tích. Người đầu dài nhưng lại hẹp, chủ vận mệnh chẳng thể dài lâu.
Nếu tóc mọc lấn đến tai, chủ người bần cùng đói khổ. Nếu tóc cuộn tròn tựa hình xoắn ốc, chủ người gặp thương tật. Nếu tóc người sớm đã trắng, người đó có thể gặp hung họa. Nếu tóc trắng sau đó biến thành đen, là tướng tốt lành.
Nếu tóc dày người đó rất khó làm đến chức thừa tướng. Nếu tóc đột nhiên mọc dài người đó không khỏe mạnh. Thông thường, tóc tốt nhất là đen lại sáng bóng, dày dặn và khô. Nếu đỉnh đầu chia làm 2 người đó tất sẽ khắc hại cha.
Trên bàn tay con người có ba dường chỉ tay chính, trong tướng thuật thì đó chính là tam tài văn. Từ trên di xuống dược chia thành thiên văn, địa văn và nhãn văn. Tam tài văn là ba đường chỉ tay chính trên bán tay con người. Cho dù là con người ở vị trí nào di nữa cũng dểu có tam tài văn.
Tướng học cổ đại đối ứng thiên, địa, nhân là tam tài, cho nên các đường chính trên bàn tay cũng lần lượt lấy theo tiêu chuẩn này gồm có: Thiên văn, địa văn, nhân văn.
Thiên văn chính là đường đại diện cho đường Tình cảm; nhân văn chính là đường Trí tuệ; địa văn chính là đường Sinh mệnh. Tướng tam tài trong Thần tướng toàn biên đã tiến hành giảng giải ý nghĩa mệnh lý chính đại diện cho ba đường chỉ tay này như sau:
"Tam tài văn là ba đường vân chính trên bàn tay, tất cả mọi người đếu có, được hình thành từ khi còn trong bào thai, vật lộn chìm nổi mà thành. Từ trên xuống dưới, đường thứ nhất nằm ở Hỏa, là thiên văn, là đường cơ bản; đường thứ hai nằm ở Thổ là địa văn, chủ tài lộc; đưòng thứ ba nằm ở minh đường, là nhân văn, chủ phúc đức".
Còn trong Ma Y thần tướng. Luận thủ chưởng văn lại ghi chép như sau:
“Chưởng thượng tam văn giả quý, thượng họ ứng thiên, tượng quân tượng phụ, định kỳ quý tiện dã. Trung họa ứng nhân, tượng hiển ngu biện bần tiện dã. Hạ họa ứng địa, tượng phụ mẫu chi thọ yểu dã. Tam vân doanh tịnh thiên văn phá giả, phúc lộc chi tướng dã; túng lý đa giả tán loạn nhi tai, trực lý tán giả bách sự phá tán, văn tế như loạn tư giả thông minh chi tài văn thô như đễ thạch giả ngu thô ngoan tiện, văn loạn như phán giả nhất thê bần hàn, văn như tán quang giả nhất sinh khoái lạc; hữu xuyên tuyến văn giả chủ tiến tư tài, hữu đoan hốt văn giả văn cung liệt triều".
Tức: Ba đường vân tay chính trên bàn tay, đường trên ứng với thiên, giống như quân vương, như người cha, thể hiện sự quý tiện. Đường ở giữa ứng với nhân, ứng với hiền ngu, bần tiện. Đường phía dưới ứng với địa, là mệnh thọ yểu của phụ mẫu. Người có ba đường này không bị đứt gãy thể hiện tướng phúc lộc; người có các đường khác xiên ngang làm rối loạn giữa các đường thể hiện có tai họa, người có đường chỉ tay tán thẳng trăm sự phá tán; người có đường chỉ tay nhỏ mà loạn là người thông minh tài hoa; người có đường chỉ tay thô như hòn đá mài nhỏ thế hiện sự ngu muội, bần tiện; người có đường chi tay chia ra thành nhiều đường nhỏ cả đòi bần tiện; người có đường chỉ tay như phân tán cả đời vui vẻ; người có đường chỉ tay xuyên suốt là người giàu có, sung túc; người có đường chỉ tay như hình thẻ ngà là người có công danh, sự nghiệp.
Còn trong Ngọc quần chiếu thần cục cũng có đoạn chép như sau:
‘Tam tài văn thượng đắc phân minh, nhất sinh thời vận khả xương vinh. Chủ mệnh dữ tài chủ hữu khí, nhất văn xung phá tiện vô tình” (Tức: Người có tam tài văn rõ nét thì một đời được hưởng vinh hoa phú quý. Có chủ mệnh và chủ tài, nếu có một đường khác phá ngang qua cho thấy đó là biểu hiện của người vô tình).
Đường Sinh mệnh
Vị trí nằm ở giữa ngón trỏ và ngón cái, men theo gò ơ gốc ngón tay cái tạo thành hình cung. Đường này phản ánh tình trạng sức khỏe và tuổi thọ của con người, yêu cầu phải đặc biệt chú ý, độ dài ngắn của đường Sinh mệnh vào độ dài ngắn của tuổi thọ có mối quan hệ với nhau.
Đường Trí tuệ
Bắt đầu từ ngón cái và ngón trỏ kéo dài ra, chếch về phía lòng bàn tay, có thể phản ánh được tính cách, tài năng và khả năng tư duy của con người. Nếu ở đuôi đường Trí tuệ hướng lên, điều đó cho thấy đây là người theo chủ nghĩa hiện thực, đường chỉ tay hướng xuống cho thấy là người theo chủ nghĩa lý tưởng.
Đường Tình cảm
Bắt đầu từ gốc ngón út kéo xuống, kéo dài tới ngón giữa và gốc ngón vô danh, phản ánh tình cảm của này đối với người yêu, người bạn đời và bạn bè, đồng thời cũng có thể thấy được những thông tin nhất định về vân để hôn nhân của họ.
Ngoài ba đường trên ra còn có một số đường quan trọng khác nữa, có thế phản ánh được vận thế của con người trên nhiều phương diện, mà những đường này không phải ai cũng có, chỉ là trong tình huống đặc biệt chúng mới xuất hiện và mất đi, có tác dụng cảnh báo nhất định.
Đường Vận mệnh: Phản ánh tình hình phát triển của sự nghiệp và tổng thể nhân sinh.
Đường Công danh: Phản ánh Công danh lợi lộc và ánh mắt của người khác nhìn mình.
Đường Hôn nhân: Phản ánh chuvện Hôn nhân và tình cảm.
Đường sức khỏe: Phản ánh tình hình sức khỏe.
Đường Tài vận: Phản ánh tài vận. Nhưng đối với việc gieo quẻ tài tận thì không thể chỉ dựa vào một đường mà luận đoán được, thông thường phải tổng hợp tất cả các đường liên quan lại mới có thể đưa ra được kết luận khách quan nhất.
Việc đặt tên cho con không chỉ đòi hỏi bố mẹ phải tìm được cái tên đẹp, hay, có ý nghĩa với bé mà còn cần đáp ứng một số quy tắc nhất định, phù hợp với bé, tránh phạm phải những cấm kỵ, dẫn đến bất lợi cho bé sau này. Bố mẹ có thể tham khảo thêm một số lưu ý khi đặt tên cho bé.
Đặt tên con mang ý nghĩa quá tuyệt đối, cầu toàn, cầu lợi
Bố mẹ nào cũng mong muốn con đạt được những điều tốt đẹp nhất trong cuộc sống nhưng đừng vì mong muốn đó mà gửi gắm vào cái tên của con những ý nghĩa quá cầu toàn, tuyệt đối. Những cái tên như Bạch Tuyết, Hoa Khôi, Trạng Nguyên, Mỹ Nhân, Thiên Tài, Kiều Diễm, Vô Địch,... thường mang lại cảm giác bố mẹ quá cực đoan, vô tình tạo áp lực cho chính đứa con của bạn sau này.
Với những cái tên như vậy, trẻ rất dễ bị người ngoài so sánh bản thân trẻ với cái tên và rất có khả năng trẻ bị chế giễu, trêu chọc nếu không được như cái tên của mình.
Tên trúc trắc, khó gọi, không đúng luật thanh âm
Tên gây khó gọi về mặt ngữ âm hoặc trúc trắc về thanh âm thì vừa gây khó khăn cho người gọi tên, vừa tăng nguy cơ con bạn bị gọi nhầm tên, dẫn đến nhiều rắc rối trong đời sống, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến thủ tục làm giấy tờ.
Một cái tên hay nên được kết hợp cả vần bằng (chữ mang dấu huyền hoặc không dấu) và vần trắc (chữ mang các dấu sắc, hỏi, ngã, nặng). Tránh đặt cho con những tên mang chỉ có một loại vần, đặc biệt là toàn vần trắc như Phạm Thị Thụ, Đỗ Lễ Nghĩa,..., đọc lên tạo cảm giác nặng nề, mệt mỏi.
Đặt tên con khó phân biệt nam nữ
Mặc dù đối với một số người, đặt tên con theo kiểu vừa có thể hiểu là nam, vừa có thể hiểu là nữ nghe rất thú vị nhưng thực chất, cái tên sẽ gây nhiều rắc rối trong cuộc sống của bé. Con sẽ rất dễ gặp chuyện nhầm lẫn giới tính trong các loại giấy tờ, dễ bị bạn bè trêu chọc khi đi học, dễ làm người khác gọi nhầm từ “anh” thành “chị”, từ “ông” thành “bà” và ngược lại, ,... và vô số chuyện dở khóc dở cười khác.
Đặt tên con mang nghĩa xấu hoặc khi nói lái, viết tắt sẽ mang nghĩa xấu
Qua rồi cái thời cha mẹ thích đặt tên con thật xấu để cho... dễ nuôi, để... trời không bắt mất. Ngày nay, hầu hết các ông bố bà mẹ đều muốn đặt cho con những cái tên đẹp, ý nghĩa nhưng bố mẹ vẫn phải hết sức thận trọng, cần thử hết tất cả các trường hợp viết tắt, nói lái của tên để đảm bảo sau này không có người xuyên tạc, bóp méo cái tên của bé. Trí tưởng tượng của con người vô cùng phong phú, bố mẹ nên đề phòng trường hợp con bị trêu chọc, lợi dụng chỉ vì cái tên.
Tên có nghĩa khác ở tiếng nước ngoài
Rất nhiều người Việt Nam có tên Dung hoặc Dũng khi sang nước ngoài phải chỉnh tên mình thành “Dzung” để tránh bị nhầm với từ “Dung” trong tiếng Anh có nghĩa là “phân”. “Chiến” là một cái tên rất đẹp trong tiếng Việt nhưng trong tiếng Pháp, từ “chien” dùng để chỉ loài chó.
Dù sao thì đây vẫn là những cái tên hay, ý nghĩa trong tiếng Việt và mặc dù những kiểu đặt tên này không gây bất lợi đáng kể cho tương lai con nhưng cũng là một điều để các bậc phụ huynh cân nhắc khi đặt tên cho bé.
2. Ý NGHĨA TƯỚNG MẠO
Sách vở không phân biệt tướng mạo của Liêm Trinh đắc địa hay hãm địa. Thái Thứ Lang cho rằng người có Liêm Trinh tọa thủ có “thân hình cao lớn, xương to và mắt lộ, mặt hơi dài, sớm có nếp nhăn, vẻ mặt không được tươi nhuận, mắt lồi, sáng, lông mày rậm, lộ hầu”.
3. Ý NGHĨA BỆNH LÝ
Liêm Trinh không chỉ danh bộ phận cơ thể nào nên ý nghĩa bệnh lý của sao này không rõ ràng lắm.
Sách vở cho rằng Liêm Trinh đóng ở Tật thì bị tỳ vết ở chân tay hay ở lưng.
4. Ý NGHĨA TÍNH TÌNH
a) NẾU LIÊM TRINH ĐẮC ĐỊA
Về mặt tính tình, Liêm Trinh có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo những đặc tính trội yếu: Chính trực quan, Đào hoa tinh, Tù tinh. Do đó, những nét nổi bật là:
- Sự ngay thẳng, chính trực, đứng đắn, thanh cao.
- Sự liêm khiết.
- Sự nóng nảy, ương ngạnh, nghiêm nghị, đôi khi khắc nghiệt (Liêm Trinh là sao Hỏa), cứng cỏi.
- Can đảm, cương quyết, dũng mãnh.
- Với đức tính nóng nảy, can đảm và dũng mãnh, Liêm Trinh là một trong bốn sao võ cách và hợp với Thất Sát, Phá Quân và Tham Lang thành bộ sao võ, nhất mạnh võ tính và võ nghiệp của đương số.
- Có số đào hoa. Liêm Trinh được gọi là sao Đào hoa thứ hai. Tuy nhiên, vì sự chính trực cố hữu của Liêm Trinh, nên sao này ít có ý nghĩa sa đọa hơn sao Đào Hoa: Liêm Trinh chỉ có ý nghĩa như sức thu hút, quyến rũ đối với người khác phái, không bao hàm ý nghĩa lẳng lơ, hoa nguyệt bao nhiêu. Tuy nhiên, nếu Liêm Trinh đi đôi với Tham Lang chủ sự tham dục. Phái nữ gặp hai sao này thường bất lợi, nhất là nếu hãm địa.
b) NẾU LIÊM TRINH HÃM ĐỊA
- Khắc nghiệt, nóng nảy.
- Ngoan cố, ương ngạnh.
- Thâm hiểm, ti tiện, ác tính, lòng lang dạ thú.
- Có óc kinh doanh.
- Khéo tay, giỏi về thủ công nghệ.
- Thích đua chen, ganh tị.
(Không thấy nói đến đào hoa tính hay dâm tính của Liêm Trinh hãm địa).
5. Ý NGHĨA CÔNG DANH, TÀI LỘC, PHÚC THỌ
a) NẾU LIÊM TRINH ĐẮC ĐỊA
Đương sự được phú quí và thọ. Đặc biệt có tài kiêm nhiếp cả văn võ, rất thao lược và quyền biến. Nếu được thêm Xương Khúc đồng cung thì là bậc anh hùng.
b) NẾU LIÊM TRINH HÃM ĐỊA
Những bất lợi rất nhiều
- Suốt đời lận đận.
- Bị nhiều bệnh tật, sức khỏe suy kém.
- Hay bị tai nạn.
- Phải ly tổ lập nghiệp.
- Giảm thọ.
Đặc biệt vì Liêm Trinh là Tù tinh cho nên khó tránh họa ngục hình, nếu đi đôi với sao dữ, có thể chết the thảm. Các sao này là Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh, Kỵ, Hình. Không cần phải hội đủ các sát tinh mà thường chỉ cần một hay hai sao nói trên cũng bị ngục hình. Phái nữ thì khắc chồng hại con, bệnh tật, chết dữ, chưa kể sự lăng loàn hoa nguyệt.
6. Ý NGHĨA CỦA LIÊM TRINH VÀ MỘT SỐ SAO KHÁC
a) NHỮNG BỘ SAO TỐT
- Liêm, Tướng: dũng mãnh, oai quyền, danh giá, thường là quân nhân. Thiên Tướng đi với Liêm Trinh rất lợi vì có tác dụng khắc chế nóng tính của sao Liêm.
- Liêm, Hồng, Khôi, Xương, Khúc: mưu sĩ giỏi, đắc dụng.
- Liêm Xương Khúc: có tài thao lược, quyền biến.
- Liêm Hình đắc địa: quan võ giỏi, thẩm phán sắc. Nhưng cách này rất dễ bị hình tù vì cả hai sao đều chủ về tù tội.
b) NHỮNG BỘ SAO XẤU
- Liêm Phá Hỏa hãm địa: tự tử (thắt cổ, tự trầm, uống độc dược, thuốc ngủ), trong đời chắc chắn có lần tự tử.
- Liêm Phá Kỵ Tham: chết cháy.
- Liêm Kiếp Kình ở Mão Dậu: bị hình tù, bị ám sát (cũng như Liêm Kình Đà Hỏa Linh).
- Liêm Kiếp ở Tỵ Hợ: tự ải trong tù.
Những bộ sao nói trên đều có ý nghĩa tương tợ nhau. Tất cả đều báo hiểu sự tự tử, tai nạn đao thương, và ngục tù: không bị tai nạn này tất phải bị nạn kia. Cho nên Liêm Trinh là một sao tối nguy hiểm nếu đi với sát tinh mà thiếu sao giải.
7. Ý NGHĨA LIÊM TRINH Ở CÁC CUNG
a) Ở PHU THÊ
Hầu hết các vị trí đều bất lợi cho gia đạo. Sự bất lợi này thể hiện qua:
- Việc muộn lập gia đình. Trường hợp gặp Thiên Phủ đồng cung thì vợ chồng đều cứng cỏi, danh giá, sung túc, nhưng, cũng phải muộn gia đạo mới tốt.
- Lập gia đình nhiều lần (ở Dần Thân hoặc Tham, hoặc Sát, hoặc Phá, hoặc Tướng đồng cung).
- Lấy vợ, chồng nghèo.
- Bị hình khác gia đạo nếu gặp Sát, Phá, Tham hay Tướng.
Tại cung Phu Thê, Liêm Trinh bất lợi về gia đạo như các sao Phá Quân, Thất Sát, Tham Lang. Cả bốn sao võ cách đều không thích hợp với cung Phu Thê. Đặc biệt là đối với phái nữ (cung Phu).
b) Ở TỬ
Đặc tính chung của Liêm Trinh tại cung Tử là:
- Sự chậm con.
- Sự ít con (trừ phi đồng cung với Phủ).
- Sự sát con (trường hợp gặp Sát, Phá).
- Sự khó nuôi con (trường hợp gặp Tướng, Phá, Sát, Tham đồng cung).
- Con không hiển đạt (nếu gặp Phá, Sát, Tham), trừ lệ đối với Phủ và Tướng đồng cung.
c) Ở TÀI
Rất tốt khi gặp Phủ hay Tướng đồng cung (giàu có lớn, giữ được của).
Tốt nếu Liêm Trinh ở Dần Thân: phải cạnh tranh mới được tiền, làm giàu chậm mà chắc chắn.
Với các sao khác, đặc biệt là Sát, Phá, Tham đồng cung thì:
- Hoặc thất thường (Sát đồng cung).
- Hoặc tiền bạc đi liền với tai ương (Phá đồng cung).
- Hoặc túng bấn, khổ vì tiền, bị kiện vì tiền (Tham đồng cung).
d) Ở TẬT
Xem mục 5b và 6b.
Đại cương có nhiều hiểm nguy vì hình ngục, tai nạn hay tự tử, ám sát, yểu chết.
e) Ở DI
Rất tối nếu đơn thủ ở Dần Thân, hoặc đồng cung với Phủ hay Tướng: được quí nhân giúp đỡ, được kẻ dưới trọng vọng, tài lộc dễ kiếm, có danh giá, trấn áp được tiểu nhân (Tướng đồng cung).
Kỳ dư, rất bất lợi vì:
- May rủi đi liền với nhau (Phá đồng cung).
- Gặp nhiều tai nạn gươm đao (Sát đồng cung).
- Bị hình tù, ám hại (Tham đồng cung)
f) Ở NÔ
Thường hay bị nói xấu, làm ơn nên oán.
g) Ở QUAN
Rất tốt vì Liêm Trinh rất hợp với Quan Lộc tại Dần Thân, hoặc đồng cung với Phủ hay Tướng: võ nghiệp vinh danh, kiêm nhiếp cả chính trị, có uy quyền, được người kính nể.
Với các sao khác thì:
- Thăng giáng thất thường và chậm thăng, chậm công danh (Sát đồng cung), may rủi liền nhau. Nếu bỏ quan trường thiên về kinh doanh, kỹ nghệ thì tốt hơn.
- Bất toại chí trong quan trường (Phá đồng cung).
- Công dân thấp, bị hình ngục (Tham đồng cung)
h) Ở ĐIỀN
Có hai trường hợp bất lợi.
- Ở Dần Thân.
- Tham đồng cung.
Tổ nghiệp di sản bị phá tán hoặc không được hưởng, rất bực mình vì điền sản, về già cũng không có nhà ở cố định.
Đối với các trường hợp khác thì:
- Hoặc được hưởng của di sảm mà không giữ được (trường hợp Phủ đồng cung).
- Hoặc tự lập, vất vả ban đầu, sau mới khá giả (Sát hay Phá đồng cung).
- Hoặc nhà đất trước ít, sau nhiều (Tướng đồng cung).
Nói chung, Liêm Trinh nói lên sự khó khăn buổi đầu, có lẽ vì đây là Bắc đẩu tinh, ảnh hưởng xấu trong buổi ban đầu, ôn hòa hơn về sau.
i) Ở PHỤ
Đồng cung với Phủ hay Tướng thì cha mẹ khá giả.
Kỳ dư, có những khía cạnh bất lợi sau:
- Cha mẹ nghèo (ở Dần Thân, Tham đồng cung).
- Mồ côi sớm (Sát, Tham đồng cung).
- Khắc cha mẹ (ở Dần Thân, Phá đồng cung).
- Cha mẹ tị tai nạn (Phá, Tham đồng cung).
j) Ở HẠN
- Liêm Tham Tỵ Hợi: bị tù hình. Gặp Hóa kỵ hay Tuần Triệt thì giải được.
- Liêm Tham Sát Phá: bị đau, bị oán trách.
- Liêm Phá đồng cung bị Kiếp Kình: kiện, tù, ám sát.
- Liêm Kình hay Đà: rủi ro nhiều, ưu tư lắm.
- Liêm Hinh, Kỵ, Kình hay Đà: bị ám sát, lưu huyết thanh toán.
![]() |
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
Bài viết về Dịch Can Chi của cụ Hà Uyên.
............................. LY
........TỐN..................................KHÔN
...CHẤN.....................+...................ĐOÀI
.......CẤN...................................CÀN
.............................KHẢM
1. Giáp Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng”.
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.”
2. Ất Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen”.
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
3. Bính Dần - Thuần Cấn, hào 6
- “Thượng Cửu, đôn cấn, cát”.
- “Hào Chín Trên, lấy phẩm chất đôn hậu để ghìm chặn tà dục, tốt lành.”
- Tượng “đôn cấn chi cát, dĩ hậu chung dã” – Hào Chín Trên với bản chất tốt đẹp đã giữ vững đến lúc cuối.
4. Đinh Mão – Thuần Đoài, hào 2
- “Cửu Nhị, phu đoài, cát, hối vong”
- “Hào Chín Hai, thành tín mà vui vẻ với mọi người, tốt lành, hối hận mất hết.”
- Tượng “phu đoài chi cát, tín chí dã” – Chín Hai chí nằm ở sự thành tín trung thực.
5. Mậu Thìn - Thuần Khảm, hào 2
- “Cửu Nhị, khảm hữu hiểm, cầu tiểu đắc”
- “Chín Hai, Ở nơi hiểm nạn khốn cùng trong hố bẫy, từ nơi nhỏ hẹp mưu cầu thoát hiểm, tất có được điều mong muốn”.
- Tượng “cầu tiểu đắc, vị xuất trung dã” – Hào Chín Hai lúc này còn chưa thoát khỏi chỗ hiểm.
6. Kỷ Tị - Thuần Ly, hào 6
- “Thượng Cửu, vương dụng xuất chinh, hữu gia chiết thủ hoạch phỉ kỳ xú, vô cữu”
- “Chín Trên, nhà Vua xuất quân chinh phạt, lập được công lớn, chém đầu quân địch, bắt những kẻ “dị kỷ” không chựu lệ thuộc, không có lỗi.
- Tượng “Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã” – hào Chín Trên làm như vậy để cho đất nước được yên ổn, trị vì được thiên hạ.
7. Canh Ngọ - Thuần Chấn, hào 4
- “Cửu Tứ, chấn toại nê”
- “Chín Bốn, lúc sấm động kinh hoàng thất thố, rơi vào đống bùn lấy”.
- Tượng “chấn toại nê, vị quang dã” – hào Chín Bốn đức dương cứng chưa thể sáng lớn. Sa vào nơi đồi trụy.
8. Tân Mùi - Thuần Tốn, hào 4
- “Lục Tứ, hối vong, điền hoạch tam phẩm”
- “Sáu Bốn, hối hận mất hết, vật săn được chia làm ba loại (để làm vật tế tự, đãi khách, và dâng lên bếp Vua).
- Tượng “điền hoạch tam phẩm, hữu công dã” – hào Sáu Bốn tuân theo mệnh Vua, lập được công lao.
9. Nhâm Thân - Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân”.
10. Quý Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng”.
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
11. Giáp Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận”.
12. Ất Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” - Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”.
13. Bính Tý - Thuần Cấn, hào 5
- “Lục Ngũ, cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong”
- “Sáu Năm, ghìm chặn miệng mình, không để nói càn, nói phải rành mạch đâu ra đấy, hối hận sẽ mất.
- Tượng “Cấn kỳ phụ, dĩ trung chính dã” – Sáu Năm có thể ở ngôi giữa giữ chính. Giữ chính là thừa.
14. Đinh Sửu – Thuần Đoài, hào 3
- “Cửu Tam, lai đoài hung”
- “Chín Ba, quay lại để cầu vui, có hung hiểm”.
- Tượng “Lai đoài chi hung, vị bất đáng dã” – Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
15. Mậu Dần - Tập Khảm, hào 1
- “Sơ Lục, tập khảm, nhập vu khảm tãm, hung”
- “Sáu Đầu, ở nơi chất chồng hiểm họa cạm bẫy, rơi sâu vào hố bẫy, có hung hiểm”.
- Tượng “tập khảm nhập khảm, thất đạo hung dã” – hào Sáu Đầu lạc đường rơi thêm vào chỗ hiểm nên tất có hung hiểm.
16. Kỷ Mão – Thuần Ly, hào 1
- "Sơ Cửu, lý thác nhiên, kính chi, vô cữu”
- “Chín Đầu, làm việc cẩn trọng không cẩu thả, giữ thái độ cung kính, cẩn thận thì tất không tội lỗi.”
- Tượng “lý thác chi kính, dĩ tị cữu dã” – Ý hào Sáu Đầu có như vậy mới tránh được tội lỗi.
17. Canh Thìn – Thuần Chấn, hào 3
- "Lục Tam, chấn tô tô, chấn hành vô sảnh”
- “Sáu Ba, lúc sấm động kinh hãi không yên, do sấm động mà biết sợ, thì đi lên sẽ không gặp họa hoạn.”
- Tượng “chấn tô tô, vị bất đáng dã” – Ngôi vị hào Sáu Ba không thỏa đáng.
18. Tân Tị - Thuần Tốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sơ hữu chung; tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát”
- “Chín Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận mất hết, không gì không lợi ; lại ban mệnh lệnh, mới đầu không thuận lợi, nhưng cuối cùng tất sẽ thông thuận ; dự định ban bố lệnh mới vào ba ngày trước ngày Canh, là ngày tượng trưng cho sự “biến canh” (thay đổi), và thi hành mệnh lệnh mới, vào ba ngày sau ngày Canh, như vậy mà trên dưới thuận theo, tất được tốt lành.”
- Tượng “cửu ngũ chi cát, vị chính trung dã” – hào Chín Năm được như vậy là do ngôi hào này chính mà giữ vững được đạo “trung”.
19. Nhâm Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không tội lỗi.”
20. Quý Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí.”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
21 Giáp Thân – Thuần Càn, hào 5
- “Cửu Ngũ, phi long tại thiên, lợi hiện đại nhân”
- "Chín Năm, rồng lớn bay cao trên trời, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
22. Ất Dậu – Thuần Khôn, hào 6
- “Thượng Lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng”
- “Sáu Trên, rồng giao hợp trên cánh đồng, chảy máu đen máu vàng.”
- Tượng “long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã” - Đạo thuần âm của hào Sáu Trên đã phát triển đến cùng tận.
23. Bính Tuất - Thuần Cấn, hào 4
- “Lục Tứ, cấn kì thân, vô cữu”
- "Sáu Bốn, ghìm chặn ở phần thân mình, không để vọng động, tất không tội lỗi.”
- Tượng “cấn kì thân, chỉ chư cung dã” – hào Sáu Bốn có thể tự ghìm chặn, yên giữ ngôi mình.
24. Đinh Hợi – Thuần Đoài, hào 4
- “Cửu Tứ, thương đoài vị ninh, giới tật hữu thỉ”
- "Chín Bốn, cân nhắc về sự vui nhưng trong lòng chưa yên, nếu cắt đứt hẳn với sự “tà tật” của bạn xiểm nịnh thì thật đáng mừng.
- Tượng “cửu tứ chi hỷ, hữu khánh dã” - Điềm mừng của hào Chín Bốn, là vì có tượng đáng chúc mừng vậy.
25. Mậu Tý - Thuần Khảm, hào 6
- “Thượng Lục, hệ dụng huy mặc, chỉ vu tùng cức, tam tuế bất đắc, hung”
- “Sáu Trên, bị trói bằng dây thừng, giam hãm trong bụi gai, ba năm không được giải thoát, có hung hiểm.
- Tượng “thượng lục thất đạo, hung tam tuế dã” – hào Sáu Trên lạc chính đạo đi vào nơi hiểm, hung hiểm sẽ kéo dài suốt ba năm.
26. Kỷ Sửu – Thuần Ly, hào 2
- “Lục Nhị, hoàng ly, nguyên cát”
- “Sáu Hai, giữ được sắc vàng trung chính phụ bám vào vật, cực tốt.”
- Tượng “hoàng ly nguyên cát, đắc trung đạo dã” – hào Sáu Hai đạo hợp giữa không lệch.
27. Canh Dần - Thuần Chấn, hào 2
- “Lục Nhị, chấn lai lệ; ức táng bối, tê vu cửu lăng, vật trục, thất nhật đắc”
- “Sáu Hai, sấm sét ập tới, có nguy hiểm; mất nhiều tiền, nên lánh xa và trèo lên đỉnh đồi cao, không cần truy tìm, quá không đầy bảy ngày thì tiền mất lại tìm thấy.”
- Tượng “chấn lai lệ, thặng cương dã” – hào Sáu Hai cưỡi trên hào dương cứng mà nguy.
28. Tân Mão - Thuần Tốn, hào 6
- “Thượng Cửu, tốn tại sàng hạ, táng kì tư phủ; trinh hung”
- “Chín Trên, thuận theo quá mức, nép ở dưới giường, giống như mất búa sắc cứng rắn, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm.”
- Tượng “tốn tại sàng hạ, thượng cùng dã ; táng kì tư phủ, chính hồ hung dã” – hào Chín Trên ở ngôi cuối của sự khốn cùng ; hào Chín Trên nên giữ vững sự chính của dương cứng để phòng hung hiểm.
29. Nhâm Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
30. Quý Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi.”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
31. Giáp Ngọ - Thuần Càn, hào 4
- “Cửu Tứ, hoặc dược tại uyên, vô cữu”
- “Chín Bốn, hoặc bay vượt lên trước, hoặc lui lại nằm trong vực, tất không cữu hại tội lỗi.”
32. Ất Mùi – Thuần Khôn, hào 1
- “Sơ Lục, lý sương, kiên băng chí”
- “Sáu Đầu, dẫm lên sương mỏng là sẽ đón đợi băng dày.”
- Tượng “lý sương kiên băng, âm thủy ngưng dã ; tuần chí kỳ đạo, chí kiện băng dã” – Khí Âm đã bắt đầu ngưng tụ, theo như quy luật thì băng dày tất sẽ đến.
33. Bính Thân - Thuần Cấn, hào 3
- “Cửu Tam, cấn kì hạn, liệt kì di, lệ huân tâm.”
- “Chín Ba, ghìm chặn sự vận động của lưng, đến nỗi đứt cả nơi chỗ thăn lưng (chỗ trên dưới giao nhau), nguy hiểm như cháy ruột.”
- Tượng “cấn kì hạn, nguy huân tâm dã” - Sự nguy hiểm của hào Chín Ba sẽ như cháy ruột.
34. Đinh Dậu – Thuần Đoài, hào 5
- “Cửu Ngũ, phu vu bác, hữu lệ.”
- “Chín Năm, tin kẻ tiểu nhân âm mềm, mà tiêu mòn hết đức dương cứng (bị nó lôi kéo mà cùng vui), có nguy hiểm.”
- Tượng “phu vu bác, vị chính đáng dã” - Thật đáng tiếc cho hào Chín Năm lại ở vào ngôi chính đáng mà thôi!
35. Mậu Tuất - Thuần Khảm, hào 5
- “Cửu Ngũ, khảm bất doanh, chỉ kí bình, vô cữu.”
- “Chín Năm, hố bẫy hiểm nạn còn trưa tràn đầy, thì gò nhỏ đã bị san bằng, tất không cữu hại.”
- Tượng “khảm bất doanh, trung vị đại dã” – hào Chín Năm tuy ở ngôi giữa, nhưng công sức làm cho phẳng chỗ hiểm còn được chưa sáng lớn.
36. Kỷ Hợi – Thuần Ly, hào 3
- “Cửu Tam, nhật trắc chi ly, bất cổ phẫu nhi ca, tác đại điệt chi ta, hung.”
- “Chín Ba, mặt trời sắp lặn, ngả dần “bám” về phía trời tây, lúc này nếu không gõ vò, vui vẻ ca hát tự vui, tất sẽ than thân già nua, ốm yếu, có hung hiểm.”
- Tượng “nhật trắc chi ly, hà khả cữu dã” – Ngả dần bám về phía trời Tây, tình trạng này thì làm sao mà giữ cho được lâu dài!
37. Canh Tý - Thuần Chấn, hào 1
- “Sơ Cửu, chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn nha nha, cát.”
- “Chín Đầu, sấm sét ập tới mà biết mà biết kinh hãi khiếp sợ, thì sau sẽ biết thận trọng hành động, giữ phúc để được nói cười râm ran, tốt lành.”
- Tượng “chấn lai khích khích’, khủng chí phúc dã ; ‘tiếu ngôn nha nha’ hậu hữu tắc dã” – hào Chín Đầu kinh sợ thận trọng, thì có thể đưa phúc trạch đến ; hào Chín Đầu sau khi kinh sợđã biết tuân thủ phép tắc.
38. Tân Sửu - Thuần Tốn, hào 1
- “Sơ Lục, tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh.”
- “Sáu Đầu, thấp thuận quá mức, tiến thoái do dự, lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền.”
- Tượng “tiến thoái chí nghi dã ; lợi vũ nhân chi trinh, chí trị dã” – hào Sáu Đầu ý chí nhu nhược nghi sợ ; ‘lợi về sự kẻ vũ dũng giữ vững chính bền’ là để khuyến khích Sáu Đầu sửa trị và tạo lập ý chí kiên cường.
39. Nhâm Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân.”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
40. Quý Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
41. Giáp Thìn – Thuần Càn, hào 3
- “Cửu Tam, quân tử trung nhật càn càn, tịch thích nhược, lệ vô cựu”
- “Chín Ba, người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn cảnh giác thận trọng, như vậy dù gặp nguy hiểm cũng không bị cữu hại.”
42. Ất Tị - Thuần Khôn, hào 2
- “Lục Nhị, trực phương đại, bất tập vô bất lợi. ”
- “Sáu Hai, ngay thẳng, vuông vắn, to lớn, không học tập cũng vị tất là không có lợi.”
- Tượng “lục nhị chi động, trực dĩ phương dã ; ‘bất tạp vô bất lợi’, địa đạo quang dã” - Sự biến động của hào Sáu Hai theo hướng ngay thẳng và vuông vắn ; ‘không học tập vị tất là không có lợi’ là đạo nhu thuận của Đất phát ra hào quang.
43. Bính Ngọ - Thuần Cấn, hào 2
- “Lục Nhị, cấn kì phì, bất chửng kì tùy, kì tâm bất khoái.”
- “Sáu Hai, ghìm chặn sự cử động của cẳng chân, chưa thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, trong lòng không được khoan khoái.”
- Tượng “bất chửng kì tùy, vị thoái chính dã” – hào Sáu Hai không thể bước lên đội kẻ vốn nên đi theo, lại không có cách nào lùi lại để nghe theo mệnh lệnh đang ghìm chặn (vì vậy trong long không khoan khoái).
44. Đinh Mùi – Thuần Đoài, hào 6
- “Thượng Lục, dẫn đoài.”
- “Sáu Trên, dụ dỗ người ta cùng vui.”
- Tượng “thượng lục dẫn đoài, vị quang dã” – hào Sáu Trên đạo vui vẻ chưa thể (không thể) sáng lớn.
45. Mậu Thân - Thuần Khảm, hào 4
- “Lục Tứ, tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu, nạp ước tự dũ, chung vô cữu”
- “Sáu Bốn, một chén riệu nhạt, hai rá thức ăn đạm bạc, dùng vò sành thô lậu đựng các thứ trên (thành kính dâng biếu bậc tôn quý), nộp ước qua cửa sổ sáng, cuối cùng tránh được cữu hại.”
- Tượng “tôn tửu quỹ nhị, cương nhu tế dã” – Ý hào Chín Năm dương cứng và hào Sáu Bốn âm mềm giao tiếp với nhau.
46. Kỷ Dậu – Thuần Ly, hào 4
- “Cửu Tứ, đột như kì lai như, phần như, tử như, khí như”
- “Chín Bốn, đột nhiên hiện lên ráng bình minh đỏ rực, giống như ngọn lửa mạnh đang thiêu đốt, nhưng chỉ trong phút chốc sẽ bị tiêu tán, diệt vong, bị vứt bỏ trạch trơn.”
- Tượng “đột như kì lai như, vô sở dụng dã” – Cái hư thế của hào Chín Bốn, tất sẽ làm nó không nơi phụ bám, chứa chấp.
47. Canh Tuất - Thuần Chấn, hào 6
- “Thượng Lục, chấn tác tác, thị quắc quắc, chinh hung ; chấn bất vu kì cung, vu kì lân, vô cữu ; hôn cấu hữu ngôn”
- “Sáu Trên, lúc sấm động sợ đến nỗi hai chân co rúm lại không đi được, hai mắt nhớn nhác, cứ mạo hiểm tiến lên tất gặp hung hiểm ; nếu có thể khi sấm động còn chưa tới bản thân mình, mới tới nhà hàng xóm đã đề phòng trước, thì không gặp cữu hại ; nhưng nếu mong có được âm dương hôn phối, thì sẽ đi đến tranh cãi nhau.”
- Tượng “chấn tác tác, trung vị đắc dã ; tuy hung vô cữu, úy lân giới dã” – Hào Sáu Trên chưa ở được vào vị trí có thể ứng xử thích hợp được với đạo “trung” ; mặc dù có hung hiểm nhưng không có cữu hại gì, là do biết sợ tiếng sấm chấn động từ bên hàng xóm nên đã đề phòng trước.
48. Tân Hợi - Thuần Tốn, hào 2
- “Cửu Nhị, tốn tại sàng hạ, dụng sử, vu phân nhược cát, vô cữu”
- “Chín Hai, thuận theo nép ở dưới giường, nếu có thể noi theo thầy bói, thầy cúng, lấy sự khiêm nhún mà phụng sự thần linh thì sẽ được nhiều tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “phân nhược chi cát, đắc trung dã” - Sẽ được nhiều tốt lành, là vì hào Chín Hai có thể giữ giữa không lệch.
49. Nhâm Tý – Thuần Càn, hào 1
- “Sơ Cửu, tiềm long vật dụng.”
- “Chín Đầu, rồng lớn ẩn mình dưới nước, tạm thời chưa thi thố được tài năng.
50. Quý Sửu – Thuần Khôn, hào 4
- “Lục Tứ, quát nang, vô cữu vô dự.”
- “Sáu Bốn, thắt chặt miệng túi, tránh được tội lỗi (cữu hại) mà không cầu được khen.”
- Tượng “quát nang vô cữu, thận bất hại dã” - Hào Sáu Bốn tất phải thận trọng, cẩn thận mới có thể không gây ra tai họa.
51. Giáp Dần – Thuần Càn, hào 2
- “Cửu Nhị, hiện long tại điền, lợi hiện đại nhân”
- “Chín Hai, rồng lớn đã xuất hiện ở cánh đồng, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
52. Ất Mão – Thuần Khôn, hào 3
- “Lục Tam, hàm chương khả trinh ; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung”
- “Sáu Ba, ngậm chứa sự sáng đẹp của Dương cứng thì giữ được chính bền ; hoặc giúp dập cho sự nghiệp của đắng quân vương, khi thành công không quy công về mình, mà kính cẩn làm hết chức trách của kẻ bề tôi cho đến cùng.”
- Tượng “hàm chương khả trinh, dĩ thời phát dã ; hoặc tòng vương sự, tri quang đại dã” – hào Sáu Ba cần căn cứ vào thời cơ mà phát huy tác dụng ; hào Sáu Ba trí tuệ sáng láng, sâu rộng.
53. Bính Thìn - Thuần Cấn, hào 1
- “Sơ Lục, cấn kì chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh”
- “Sáu Đầu, biết ghìm chặn ở ngón chân khi cất bước, tất vô cữu hại, lợi về sự giữ vững chính bề lâu dài.”
- Tượng “cấn kì chỉ, vị thất chính dã” – hào Sáu Đầu chưa từng vi phạm chính đạo.
54. Đinh Tị - Thuần Đoài, hào 1
- “Sơ Cửu, hòa duyệt, cát.”
- “Chín Đầu, dựu dàng, vui vẻ với người, tốt lành.”
- Tượng “hòa duyệt chi cát, hành vị nghi dã” – Hành vi của Chín Đầu đứng đắn mà không bị người ta nghi kị.
55. Mậu Ngọ - Thuần Khảm, hào 3
- “Lục Tam, lai chi khảm khảm, hiểm thả chẩm, nhập vu khảm tãm, vật dụng”
- “Sáu ba, tới lui đều ở trong vòng hiểm hãm, đi tới là hiểm lui lại khó an, rơi xuống hố sâu không thể thi thố tài dụng.”
- Tượng “lai chi khảm khảm, chung vô công dã” – hào Sáu Ba cuối cùng khó thành công trong sự “hành hiểm”.
56. Kỷ Mùi – Thuần Ly, hào 5
- “Lục Ngũ, xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát”
- “Sáu Năm, nước mắt chảy ròng ròng, ngậm ngùi than thở, (ở nơi tôn quý, được giúp dập, về cuối sẽ) tốt lành.”
- Tượng “lục ngũ chi cát, ly vương công dã” – hào Sáu Năm được phụ bám vào ngôi tôn quý của đấng vương công.
57. Canh Thân - Thuần Chấn, hào 5
- “Lục Ngũ, chấn vãng lai, lệ, ức vô táng, hữu sự”
- “Sáu Năm, khi sấm động thì bất kể là đi lên hay đi xuống đều có nguy hiểm ; nếu có thể thận trọng giữ đạo “trung” thì vạn lần cũng không thất thố một lần, có thể giữ lâu dài được việc trọng đại là việc tế tự.”
- Tượng “chấn vãng lai lệ, nguy hành dã ; kì sự tại trung, đại vô táng dã” – hào Sáu Năm cần thấy rõ sự nguy sợ mà thận trọng tiến lên, sử sự nên thận trọng giữ đạo “trung”.
58. Tân Dậu - Thuần Tốn, hào 3
- “Cửu Tam, tần tốn, lận.”
- “Chín Ba, ưu sầu không vui, miễn cưỡng thuận theo, sẽ có thẹn tiếc.”
- Tượng “tần tốn chi lân, chí cùng dã” – Tâm chí Chín Ba khốn cùng không hăng hái.
59. Nhâm Tuất – Thuần Càn, hào 6
- “Thượng Cửu, cang long hữu hối”
- “Chín Trên, rồng lớn bay cao đến cùng cực, cuối cùng sẽ có sự hối hận
60. Quý Hợi – Thuần Khôn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoàng thường, nguyên cát.”
- “Sáu Năm, xiêm váy mầu vàng, hết sức tốt lành.”
- Tượng “hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã” – hào Sáu Năm lấy đức ôn hòa nhã nhặn để giữ vững đạo “trung”
................................LỮ
....TIỂU SÚC................................PHỤC
...DỰ........................+......................KHỐN
.......BÍ..........................................CẤU
...............................TIẾT
1. Giáp Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1
- “Sơ Lục, hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên.”
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
2. Ất Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại.”
- Tượng viết “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
3. Bính Dần – Sơn Hỏa Bí, hào 6
- “Thượng Cửu, bạch bí, vô cữu”
- “Chín Trên, văn sức bằng mầu trắng không diêm dúa, không có cữu hại”
- Tượng “Bạch bí vô cữu, thượng đắc chí dã” – hào Chín Trên hết sức toại chí do đạo văn sức chuộng về chất.
4. Đinh Mão - Trạch Thủy Khốn, hào 2
- “Cửu Nhị, khốn vu tửu thực, chu phất phương lai, lợi dụng hưởng tự ; chinh hung, vô cữu”
- “Chín Hai, riệu thịt mà nghèo nàn, cùng khốn, vinh lộc sẽ tới, lợi về sự chủ trì đại lễ tế tự nơi tông miếu ; lúc này tiến thủ tuy nhiều hung hiểm, nhưng không có gì cữu hại”
- Tượng “Khốn vu tửu thực, trung hữu khánh dã” – hào Chín Hai chỉ cần giữ vững đạo giữa thì sẽ có phúc khánh.
5. Mậu Thìn - Thủy Trạch Tiết, hào 2
- “Cửu Nhị, bất xuất môn đình, hung”
- “Chín Hai, (cố chấp mà tiết chế) không ra khỏi sân nhà, có hung hiểm.
- Tượng “Bất xuất môn đình, thất thời cực dã” – hào Chín Hai lỡ mất thời cơ thích hợp.
6. Kỷ Tị - Hỏa Sơn Lữ, hào 6
- “Thượng Cửu, điểu phần kì sào, lữ nhân tiên tiếu, hậu hào đào ; táng ngưu vu dị, hung”
- “Chín Trên, tổ chim trên cành cao bị cháy, kẻ lữ khách trước được ngôi cao vui mừng cười nói, sau bị tai ương kêu gào khóc lóc ; giống như mất trâu nơi bơt ruộng hoang xa, có hung hiểm”
- Tượng “Dĩ lữ tại thượng, kì nghĩa phần dã ; táng ngưu vu dị, chung mạc chi văn dã” – Làm một kẻ lữ khách, mà lại ở cao ngôi trên, về lý thì tất gặp họa cháy tổ ; mất trâu nơi cánh đồng hoang xa, nói lên hào Chín Trên ăn nhờ ở đậu gặp họa, cuối cùng sẽ không người hay biết.
7. Canh Ngọ - Lôi Địa Dự, hào 4
- “Cửu Tứ, do dự, đại hữu đắc ; vật nghi, bằng hạp trâm”
- “Chín Bốn, người khác nhờ ta mà vui, ta có thể thành công lớn được ; cứ thẳng thắn đừng nghi ngờ gì, bè bạn sẽ tụ tập lại theo ta, như cả đám tóc được gài lại nơi chiếc châm cài đầu”.
- Tượng “Do dự đại hữu đắc, chí đại hành dã” – Chí dương cứng của hào Chín Bốn được thực hành nhiều.
8. Tân Mùi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 4
- “Lục Tứ, hữu phu ; huyết khứ thích xuất, vô cữu”
- “Sáu Bốn, nếu có sự thành tín với dưới thì sẽ tránh được sự buồn phiền, thoát được sự sợ hãi, như vậy tất sẽ “vô cữu hại”.
- Tượng “Hữu phu thích xuất, thượng hợp chí dã” – hào Sáu Bốn có ý chí tương hợp với bậc tôn thượng dương cứng.
9. Nhâm Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
10. Quý Dậu – Địa Lôi Phục, hào 6
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
11. Giáp Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
12. Ất Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
13. Bính Tý – Sơn Hỏa Bí, hào 5
- “Lục Ngũ, bí vu khâu viên, thúc bạch tiển tiển ; lận, chung cát”
- “Sáu Năm, văn sức ở gò vườn, mang một bó dải lụa mỏng (lễ vật đến mời kẻ hiền sỹ), mặc dù hào dưới không ứng mà có sự hối tiếc, nhưng hào trên lại ứng, cuối cùng sẽ tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu hỷ dã” - Sự tốt lành của Sáu Năm nói lên tất có sự mừng.
14. Đinh Sửu - Trạch Thủy Khốn, hào 3
- “Lục Tam, khốn vu thạch, cứ vu tật lê ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, hung”
- “Sáu Ba, khốn ở dưới đá lớn (đá rắn khó vào), dựa vào cây tật lê (nhiều gai khó dẫm) ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, có hung hiểm.
- Tượng “Cứ vu tật lê, thặng cương dã ; nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê, bất tường dã” - Dựa vào cây tật lê, nhiều gai khó dẫm, nói lên hào Sáu Ba lấy chất âm mềm cưỡi trên kẻ cương cường ; dù có chạy về nhà cũng không thấy vợ, đây là hiện tượng chẳng lành.
15. Mậu Dần - Thủy Trạch Tiết, hào 1
- “Sơ Cửu, bất xuất hộ đình, vô cữu”
- “Chín Đầu, (tiết chế thận trọng giữ gìn), không ra khỏi sân cổng nhà, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Bất xuất hộ đình, tri thông tắc dã” – Không ra khỏi sân cổng nhà, nói lên hào Chín Đầu rất biết lẽ đường thông thì đi, đường bị ngăn thì dừng.
16. Kỷ Mão - Hỏa Sơn Lữ, hào 1
- “Sơ Lục, lữ tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai”
- “Sáu Đầu, người lữ khách ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen, ti tiện, ấy là tự chuốc lấy họa”.
- Tượng “Lữ tỏa tỏa, chí cùng tai dã” – Ngay từ đầu đã có hành động nhỏ nhen ti tiện, nói lên hào Sấu Đầu ý chí quẫn bách, tự chuốc lấy tai họa.
17. Canh Thìn – Lôi Địa Dự, hào 3
- “Lục Tam, vu dự hối ; trì hữu hối”
- “Hào Sáu Ba, xun xoe với trên để cầu vui, tất hối hận ; nếu tỉnh ngộ chậm tất lại sinh hối hận”.
- Tượng “Vu dự hữu hối, vị bất đáng dã” – Xun xoe tất có hối hận, nói lên hào Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
18. Tân Tị - Phong Thiên Tiểu súc, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu loan như, phú dĩ kỳ lân”
- “Chín Năm, có lòng thành tín, liên kết cả bầy dương cùng có lòng thành tín với một âm, dùng cái cứng của dương để làm giầu cho làng giềng”
- Tượng “Hữu phu loan như, bất độc phú dã” – Liên kết bầy dương thành tín với một âm, nói lên hào Chín Năm không riêng hưởng sự giầu có dương cứng.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
20. Quý Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1. (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
21. Giáp Thân – Thiên Phong Cấu, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, dĩ khởi bao qua ; hàm chương, hữu vẫn tự nhiên”
- “Chín Năm, lấy cành lá cây khởi bao bọc che chở cây dưa hấu ở dưới ; trong lòng ngậm chứa sự sáng đẹp, tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trên trời xuống”.
- Tượng “Cửu Ngũ hàm chương, trung chính dã ; hữu vẫn tự nhiên, chí bất xả mệnh dã” – Trong lòng hào Chín Năm ngậm chứa sự sáng đẹp, là do ở ngôi giữa, giữ chính ; tất nhiên có sự ngộ hợp lý tưởng từ trời xuống, nói lên tâm chí Chín Năm không đi ngược mệnh trời.
22. Ất Dậu - Địa Lôi Phục, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, mê phục, hung, hữu tai sảnh. Dụng hành sư, chung hữu đại bại ; dĩ kì quốc, quân hung: chí vu thập niên bất khắc chính”
- “Sáu Trên, mê lạc nhầm bước không biết đường trở lại, có hung hiểm, có tai ương họa hoạn. Nếu như dùng vào việc đem binh giao chiến, thì cuối cùng sẽ thảm bại ; dùng vào việc trị nước, điều hành chính sự, tất làm cho nước loạn, vua gặp hung hiểm, cho đến mười năm sau cũng không thể chấn hưng phát triển”.
- Tượng “Mê phục chi hung, phản quân đạo dã” – Do bởi Sáu Trên đi ngược với con đường, của đạo quân chủ dương cứng.
23. Bính Tuất – Sơn Hỏa Bí, hào 4
- “Lục Tứ, bí như, bà như, bạch mã hàn như ; phỉ khấu, hôn cấu”
- “Sáu Bốn, văn đức được đẹp đẽ thanh bạch đến nhường ấy, toàn thân một mầu trắng toát tới nhường ấy, ngồi trên con ngựa trắng lại thuần khiết vô tạp thanh bạch tới nhường ấy ; phía trước không có giặc mạnh, mà là lễ ăn hỏi của đôi giai ngẫu”.
- Tượng “Lục Tứ đương vị, nghi dã ; ‘phỉ khấu hôn cấu’, chung vô vưu dã” – hào Sáu Bốn đáng ngôi được chính, nhưng trong lòng mang mối nghi ngờ, sợ hãi ; Không phải giặc mạnh mà là lễ ăn hỏi, nói lên Sáu Bốn cứ bắt chấp đi đến và rút cục trong lòng không có sự oán trách gì.
24. Đinh Hợi - Trạch Thủy Khốn, hào 4
- “Cửu Tứ, lai từ từ, khốn vu kim xa, lận, hữu chung”
- “Chín Bốn, bị một cỗ xe sắt chặn lại, có điều ân hận ; nhưng cuối cùng được phối ngẫu như nguyện”.
- Tượng “Lai từ từ, chí tại hạ dã, tuy bất đương vị, hữu dư dã” - Đến một cách từ từ nghi ngại, tâm chí Chín Bốn ở nơi cầu hợp với hào Sáu Đầu ở dưới ; mặc dầu ngôi vị không thỏa đáng, nhưng do đến một cách khiêm cẩn, nên tất có thể đẹp lòng như nguyện.
25. Mậu Tý - Thủy Trạch Tiết, hào 6
- “Thượng Lục, khổ tiết ; trinh hung, hối vong”
- “Sáu Trên, tiết chế quá mức, khiến người ta quá khổ sở ; nên giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, thì hối hận có thể tiêu vong”.
- Tượng “Khổ tiết trinh hung, kỳ đạo cùng dã” - Tiết chế quá mức khiến người ta quá khổ sở, nói lên đạo tiết chế của Sáu Trên đã khốn cùng.
26. Kỷ Sửu - Hỏa Sơn Lữ, hào 2
- “Lục Nhị, lữ tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh”
- “Sáu Hai, kẻ lữ khách thuê ở nơi quán trọ, giữ được tiền bạc, lại có đầy tớ, nên giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đắc đồng bộc trinh, chung vô vưu dã” – hào Sáu Hai cuối cùng sẽ không có gì phải quá oán.
27. Canh Dần – Lôi Địa Dự, hào 2
- “Lục Nhị, giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát”.
- “Sáu Hai, chí vững như đá, không đợi đến hết ngày (mà biết được rằng sự vui phải có mức độ), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Bất chung nhật trinh cát, dĩ trung chính dã” – Không đợi ngày mà biết, vì Sáu Hai đã trung, lại chính.
28. Tân Mão – Phong Thiên Tiểu súc, hào 6
- “Thượng Cửu, ký vũ ký xử, thượng đức tái ; phụ trinh lệ, nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung”.
- “Chín Trên, mây dầy đã đổ mưa, dương cứng đã bị ngăn cản, dương đức ở cực cao bị khí âm tích chứa ; lúc này người vợ phải giữ vững chính bền, để đề phòng nguy hiểm, phải như trăng sáng sắp tròn mà không quá đầy, người quân tử nếu cứ thẳng tiến sẽ gặp hung”.
- Tượng “Ký vũ ký xử, đức tính tái dã ; ‘quân tử chinh hung’, hữu sở nghi dã” - Thẳng tiến sẽ gặp hung, nếu cứ đi lên trước, thì sẽ khiến chất dương bị âm khí ngưng tụ làm cho biến hóa hết.
29. Nhâm Thìn – Thiên Phong Cấu, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
30. Quý Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (30 = 42)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Hào Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
31. Giáp Ngọ - Thiên Phong Cấu, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, bào hữu ngư, khởi hung”
- “Chín Bốn, trong bếp mất một con cá, nổi lên sự cãi nhau, tất có hung hiểm”.
- Tượng “Vô ngư chi hung, viễn dân dã” - Mất một con cá là có hung hiểm, nói lên hào Chín Bốn ở quẻ trên, cũng như xa cách hạ dân, mất lòng dân.
32. Ất Mùi - Địa Lôi Phục, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bất viễn phục, vô chỉ hối, nguyên cát”
- “Chín Đầu, chưa được bao xa đã quay trở lại đường chính, tất không gặp tai họa, không phải hối hận, hết sức tốt lành.
- Tượng “Bất viễn chi phục, dĩ tu thân dã” - Khởi đầu không xa đã quay trở lại, nói lên hào Chín Đầu khéo về việc sửa đẹp bản thân.
33. Bính Thân – Sơn Hỏa Bí, hào 3
- “Cửu Tam, bí như, nhu như, vĩnh trinh cát”
- “Chín Ba, văn sức được đẹp đẽ đến nhường ấy, nhiều lần ban huệ trạch cho người, giữ vững sự chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành”.
- Tượng “Vĩnh trinh chi cát, chung mạc chi lăng dã” – ‘Giữ vững chính bền được lâu dài, sẽ được sự tốt lành’, nói lên Chín Ba có thể làm được như vậy, thì không bao giờ bị kẻ khác lấn nhờn.
34. Đinh Dậu - Trạch Thủy Khốn, hào 5
- “Cửu Ngũ, tị ngoạt, khốn vu xích phất ; nãi từ hữu thoát, lợi dụng tế tự”
- “Chín Năm, dùng hình phạt xẻo mũi, chặt chân, để trị chúng dân, đến nỗi ở ngôi tôn quý mà bị khốn cùng ; nhưng có thể dần dần thoát khỏi cảnh khốn, lợi về sự làm lễ tế”.
- Tượng “Tị ngoạt, chí vị đắc dã ; nãi từ hữu thoát, dĩ trung trực dã ; lợi dụng tế tự, thụ phúc dã” – Dùng hình phạt để trị chúng dân, nói lên tâm chí vượt khốn của Chín Năm chưa thể gọi là đạt ; ‘dần thoát khỏi cảnh khốn’, đây là kết quả của sự giữ vững đạo cương trung, chính trực ; ‘lợi làm tế lễ’, như vậy thì có thể thừa hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng.
35. Mậu Tuất - Thủy Trạch Tiết, hào 5
- “Cửu Ngũ, cam tiết, cát ; vãng hữu thượng”
- “Chín Năm, tiết chế một cách thích đáng, khiến người ta cảm thấy đẹp đẽ vừa phải, tốt lành ; tiến về phía trước, tất được tôn sùng”.
- Tượng “Cam tiết chi cát, vị cư trung dã” – Do bởi vậy là vì Chín Năm ở cao ngôi giữa, được chính.
36. Kỷ Hợi - Hỏa Sơn Lữ, hào 3
- “Cửu Tam, lữ phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ”
- “Chín Ba, kẻ lữ khách (quá cứng nóng vội), bị cháy nhà trọ, lạc mất đầy tớ ; nên giữ vững chính bề đề phòng hung hiểm”.
- Tượng “Lữ phần kỳ thứ, diệc dĩ thương hỹ ; dĩ lữ dữ hạ, kỳ nghĩa táng dã” - Bị cháy nhà trọ, cũng do vậy mà Chín Ba bị tổn thương ; kẻ lữ khách mà chuyên gia ơn cho kẻ dưới, lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến táng vong.
37. Canh Tý – Lôi Địa Dự, hào 1
- “Sơ Lục, minh dự, hung”
- “Sáu Đầu, quá vui mà reo mừng đắc ý, có hung hiểm”.
- Tượng “Sơ lục minh dự, chí cùng hung dã” – Quá vui, chí cùng cực của sự vui vẻ sẽ đưa đến hung hiểm.
38. Tân Sửu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 1
- “Sơ Cửu, phục tự đạo, hà kỳ cữu? cát”
- “Chín Đầu, trở về đạo dương cứng của mình, có cữu hại gì đâu? Tốt lanh”.
- Tượng “Phục tự đạo, kỳ nghĩa cát dã” – Quay trở về đạo dương cứng của mình, hành vi của Chín Đầu là thích hợp, có được sự tốt lành.
39. Nhâm Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (39 = 51)
- “Cửu nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
40. Quý Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
41. Giáp Thìn – Thiên phong Cấu, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, đôn vu phu, kỳ hành tư thư ; lệ, vô đại cữu”
- “Chín Ba, mông mất da, đi lại chập chững khó tiến ; có nguy hiểm, nhưng không có cữu hại lớn”.
- Tượng “Kỳ hành tư thư, hành vi khiên dã” – Đi lại khó tiến, nói lên Chín Ba chưa từng khống chế được kẻ khác (vì vậy tuy không gặp được ai mà không bị hại về kẻ âm tà).
42. Ất Tị - Địa Lôi Phục, hào 2 (42 = 30)
- “Lục Nhị, hưu phục, cát”
- “Sáu Hai, sự trở lại đẹp đẽ, tốt lành”.
- Tượng “Hưu phục chi cát, dĩ hạ nhân dã” – hào Sáu Hai có thể cúi xuống thân cận với người có đức nhân.
43. Bính Ngọ - Sơn Hỏa Bí, hào 2
- “Lục Nhị, bí kỳ tu”
- “Sáu Hai, văn sức bộ râu đẹp cho bậc tôn quý”.
- Tượng “Bí kỳ tu, dĩ thưỡng hưng dã” – hào Sáu Hai và Chín Ba đồng tâm một lòng dấy lên văn sức cho nhau, Dựa theo ngôi vị chỗ đứng, được ngôi mà không ứng.
44. Đinh Mùi - Trạch Thủy Khốn, hào 6
- “Thượng Lục, khốn vu cát lũy, vu niết ngột ; viết động hối hữu hối, chinh cát”.
- “Sáu Trên, bị khốn trong đám sắn dây chằng chịt, lại bị khốn ở nơi lung lay nghiêng ngả, nên suy nghĩ một chút ; đã động rồi sau hối thì sẽ biết hối ngay, như vậy nếu đi lên tất được tốt lành.
- Tượng “Khốn vu cát lũy, vị đáng dã ; ‘động hối hữu hối’, cát hành dã” - Khốn trong đám sắn dây, nói lênđịa vị của Sáu Trên chưa từng ổn đáng. ‘động rồi sau hối’, nói lên cứ làm ngay đi thì có thể giải trừ khốn mà được tốt lành.
45. Mậu Thân - Thủy trạch Tiết, hào 4
- “Lục Tứ, an tiết, hanh”
- “Sáu Bốn, yên lòng tự tiết chế, hanh thông”.
- Tượng “An tiết chi hanh, thừa tượng đạo dã” – hào Sáu Bốn nghiêm cẩn giữ đạo “thuận thừa” bậc tôn trưởng.
46. Kỷ Dậu - Hỏa Sơn Lữ, hào 4
- “Cửu Tứ, lữ vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái”
- “Chín Bốn, kẻ lữ khách chưa được yên ổn tại nơi ở tạm, như được búa sắc chặt bỏ gai góc, nhưng trong long ta chẳng sướng”.
- Tượng “Lữ vu xử, vị đắc vị dã” – Chín Bốn chưa thể được ở ngôi chính đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Địa Dự, hào 6
- “Thượng Lục, minh dự thành, hữu du vô cữu”
- “Sáu Trên, đã thành hậu quẻ xấu, vì mê muội trong hoan lạc, sửa lỗi sơm thì không nguy hại”.
- Tượng “Minh dự tại thượng, hà khả trường dã” - Mệ muội trong hoan lạc ở ngôi trên, sự vui vẻ này làm sao có thể giữ được lâu dài.
48. Tân Hợi – Phong Thiên Tiểu súc, hào 2
- “Cửu Nhị, khiên phục, cát”
- “Chín Hai, được dắt quay trở lại đạo dương cứng, tốt lành”.
- Tượng “Khiên phục tại trung, diệc bất tự thất dã” - được quay trở lại đọa dương cứng, ở ngôi giữa, nói lân hào Chín Hai cũng có thể không để từ mất dương đức.
49. Nhâm Tý – Thiên Phong Cấu, hào 1 (1= 49)
- “Hệ vu kim nê, trinh cát ; hữu du vãng, kiến hung, luy thỉ phu trịnh trục”
- “Sáu Đầu, chặn ngay nó lại bằng cái “phanh” nhạy, cứng chắc, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; nếu vội đi lên thì tất nhiên sẽ có hung hiểm, giống như lợn cái nhảy nhót lung tung không thể ở yên”.
- Tượng viết “Hệ kim vu nê, nhu đạo khiên dã” – hào Sáu Đầu phải giữ đạo nhu thuận, chựu sự khống chế của dương cứng.
50. Quý Sửu - Địa Lôi Phục, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, trung hàng độc phục”
- “Sáu Bốn, ở giữa hàng chính, một lòng trở lại”
- Tượng “Trung hàng độc phục, dĩ tòng đạo dã” – hào Sáu Bốn theo về chính đạo.
51. Giáp Dần – Thiên Phong Cấu, hào 2 (51 = 39)
- “Cửu Nhị, bao hữu ngư, vô cữu ; bất lợi tân”.
- “Chín Hai, trong bếp có một con cá, không có gì cữu hại ; nhưng bất lợi nếu cứ tự tiện dùng nó để mời tiếp khách”.
- Tượng “Bào hữu ngư, nghĩa bất cập tân dã” – Trong bếp thấy có một con cá, xét theo ý nghĩa về sự không tương ứng giữa Chín Hai và Sáu Đầu, thì không thể tự tiện dùng (cá) để mời khách đến ăn.
52. Ất Mão - Địa Lôi Phục, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, tần phục, lệ vô cữu”.
- “Sáu Ba, nhăn mày gắng gượng trở lại, tuy có nguy hiểm nhưng không có cữu hại”.
- Tượng “Tần phục chi lệ, nghĩa vô cữu dã” - Sự nguy hiểm của việc nhăn mày gắng gượng trở lại, xét về nghĩa của vật hào Sáu Ba cố gắng phục thiện thì không có cữu hại.
53. Bính Thìn – Sơn Hỏa Bí, hào 1
- “Sơ Cửu, bí kỳ chỉ, xả xa nhi đồ”
- “Chín Đầu, văn sức cho ngón chân của mình, bỏ xe lớn mà cam lòng đi bộ”
- Tượng “Xả xa nhi đồ, nghĩa phất thừa dã” – Cam lòng đi bộ, là do xét về ngôi vị mà hào Chín Đầu đang ở thì không nên đi xe lớn. Bỏ thuyền xuống nước. Bỏ chỗ ích lợi mà tìm đến nơi tổn hại.
54. Đinh Tị - Trạch Thủy Khốn, hào 1
- “Sơ Lục, đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất dịch”
- “Sáu Đầu, mông bị khốn ở dưới gốc cây, không thể ở yên, chỉ lui vào nơi sơn cốc u tối, ba năm không thấy ló mặt.
- Tượng “Nhập u vu cốc, u bất minh dã” - Chỉ còn cách lui vào nơi sơn cốc u tối, nói lên hào Sáu Đầu ẩn thân tạm bợ nơi u ám, không sáng sủa.
55. Mậu Ngọ - Thủy Trạch Tiết, hào 3
- “Lục Tam, bất tiết nhược, tắc ta nhược, vô cữu”
- “Sáu Ba, không tiết chế được, nhưng biết than vãn tự hối, thì có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Bất tiết chi ta, hựu thùy cữu dã” – Không tiết chế được, nhưng biết tự hối, hỏi còn kẻ nào dám đổ lỗi cho nữa!
56. Kỷ Mùi - Hỏa Sơn Lữ, hào 5
- “Lục Ngũ, xạ trĩ, nhất thỉ vong ; chung dĩ dự mệnh”
- “Sáu Năm, bắn con chim trĩ, mất một mũi tên (mặc dù có tổn thất nhưng), sau được tiếng khen và được ban tước lệnh.
- Tượng “Chung dĩ cư mệnh, thượng đãi dã” - Được khen và ban tước mệnh, nói lên Sau Năm có thể theo kịp người trên.
57. Canh Thân – Lôi Địa Dự, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh tật, hằng bất tử”
- “Sáu Năm, giữ chính phòng bệnh, tất sẽ khỏe lâu không chết”
- Tượng “Lục Ngũ trinh tật, thừa cương dã ; hằng bất tử, trung vị vong dã” – Hào Sáu Năm tất phải giữ chính phòng bệnh, nói lên âm mềm đội dương cứng khó tránh nguy hiểm hoạn nạn ; ‘Khỏe lâu không chết’, là vì ở giữa không lệch, thì vị tất đã bại vong.
58. Tân Dậu – Phong Thiên Tiểu súc, hào 3
- “Cửu Tam, dư thoát bức, phu thê phản mục”
- “Chín Ba, nan hoa bánh xe đứt hết, vợ chồng ly dị mỗi người một hướng”.
- Tượng “Phu thê phản mục, bất năng chính thất dã” - Vợ chồng ly dị, hào Chín Ba không làm cho nhà cửa được nghiêm chỉnh.
59. Nhâm Tuất – Thiên Phong Cấu, hào 6 (59 = 11)
- “Cấu kỳ giác ; lận, vô cữu”
- “Chín Trên, gặp nơi trống vắng ; lòng có hối tiếc, nhưng không gặp cữu hại”.
- Tượng “Cấu kỳ giác, thượng cùng lận dã” – hào Chín Trên ở cao nơi cùng cực, nên dẫn đến sự hối tiếc là tương ngộ mà không người.
60. Quý Hợi - Địa Lôi Phục, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, đôn phục, vô hối”
- “Sáu Năm, đôn hậu, dốc lòng thành trở lại, không có gì phải hối hận”.
- Tượng “Đôn phục vô hối, trung dĩ tự khảo dã” – Ý nghĩa hào Sáu Năm ở ngôi giữa không lệch, đồng thời có thể tự xét mình, để thành được đạo phục thiện.
................................ĐỈNH
......GIA NHÂN................................LÂM
...GIẢI........................+.........................TỤY
......ĐẠI SÚC..................................ĐỘN
................................TRUÂN
1. Giáp Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (G. Tý – N. Tý) (1 = 49)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
2. Ất Sửu - Địa Trạch Lâm, hào 4 (2 = 50)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
3. Bính Dần – Sơn Thiên Đại súc, hào 6
- “Thượng Cửu, hà thiên chi cù, hanh”
- “Chín Trên, đường trời sao mà thông suốt đến vậy, hanh thông”
- “Tượng “Hà thiên chi cù, đạo đại hành dã” – nói rằng, đạo chứa đức của Chín Trên hết sức thông suốt”.
4. Đinh Mão - Trạch Địa Tụy, hào 2
- “Lục Nhị, dẫn cát, vô cữu ; phu nãi lợi dụng Thược”
- “Sáu Hai, được người dẫn dắt mà tụ hội với nhau thì được tốt lành, không dẫn đến cưu hại ; chỉ cần trong lòng thành tín, thì sẽ làm cho lễ “tế Thược” đơn sơ cũng lợi về sự dâng hiến cho thần linh”
- Tượng “Dẫn cát vô cữu, trung vị biến dã” – Tâm chí ở ngôi giữa giữ chính đạo của Sáu Hai chưa từng biến đổi.
5. Mậu Thìn - Thủy Lôi Truân, hào 2
- “Lục Nhị, Truân như, chiên như. Thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự”
- “Sáu Hai, thời khai sáng buổi đầu rất nhiều gian nan, dùng dằng loanh quanh chẳng tiến. Người cưỡi ngựa dập dừu tới, nhưng họ không phải là bọn cường đạo, mà là những người đến cầu hôn ; Người con gái giữ vững chính bền không vội lấy chồng, chờ mười năm sau mới kết lương duyên”
- Tượng “Lục nhị chi nan, thừa cương dã ; thập niên nãi tự, phản thường dã” – Sáu Hai khó đi không tiến, là do âm mềm cưỡi trên dương cứng. Chờ mười năm là để nói ý “nan cực thì đến lúc thông”, mọi việc lại quay trở lại bình thường.
6. Kỷ Tị - Hỏa Phong Đỉnh, hào 6
- “Thượng Cửu, đỉnh ngọc huyễn, đại cát, vô bất lợi”
- "Chín Trên, vạc có đòn bằng ngọc, hết sức tốt lành, không gì không lợi”
- Tượng “Ngọc huyễn tại thượng, cương nhu tiết dã” – Đòn vạc bằng ngọc ở cao phía trên, là chỉ Chín Trên dương cứng có thể điều tiết bằng âm mềm.
7. Canh Ngọ - Lôi Thủy Giải, hào 4
- “Cửu tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”
- Tượng “Giải nhi mẫu”, vị đáng vị dã” - rằng ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
8. Tân Mùi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 4
- “Lục Tứ, phú gia, đại cát”
- “Sáu Bốn, làm giầu cho nhà, hết sức tốt lành”
- Tượng “Phú gia đại cát, thuận tại vị” – Làm giâu cho nhà, là do Sáu Bốn thụân, đội hào dương cứng ở ngôi tôn quý.
9. Nhâm Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
10- Quý Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
11. Giáp Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
12. Ất Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
13. Bính Tý – Sơn Thiên đại súc, hào 5
- “Lục Ngũ, phần thỉ chi nha, cát”
- “Sáu Năm, bẻ nanh con lợn thiến, tốt lành”.
- Tượng “Lục Ngũ chi cát, hữu khánh dã” - cái tốt lành của Sáu Năm nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” đúng phép, đáng được chúc mừng.
14. Đinh Sửu – Trạch Địa Tụy, hào 3
- “Lục Tam, tụy như ta như, vô du lợi ; vãng vô cữu, tiểu lận”.
- “Sáu Ba, (muốn) tụ hội (mà) không người, nên luôn miệng ca thán, không được lợi gì ; đi lên sẽ không có cữu hại, nhưng có sự đáng tiếc nhỏ”.
- Tượng “Vãng vô cữu, thượng tốn dã” – Đi lên trước không có cữu hại, nói lên Sáu Ba có thể hướng lên trên, thuận theo với dương cứng.
15. Mậu Dần – Thủy Lôi Truân, hào 1
- “Sơ Cửu, bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu”.
- “Chín Đầu, loanh quanh, lợi về sự ở yên, giữ vững chính bền, lợi về việc kiến lập chư hầu”.
- Tượng “Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã ; ‘dĩ quý hạ tiện’ đại đắc dân dã” - Mặc dầu loanh quanh, nhưng hành vi tâm chí đều giữ được đoan chính ; thân phận tôn quý mà lại ở ngôi thấp, nói lên Chín Đầu sẽ rất được lòng dân.
16. Kỷ Mão – Hỏa Phong Đỉnh, hào 1
- “Sơ Lục, đỉnh điên chỉ, lợi xuất bĩ ; đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu”
- “Sáu Đầu, vạc đổ chổng chân, lợi về sự đổ đồ phế bỏ ; như lấy được người thiếp sinh ra con, đỡ đần người vợ cả, tất không cữu hại”.
- Tượng “Đỉnh điên chỉ, vị bội dã ; ‘lợi xuất bĩ’ dĩ tòng quý dã” - Vạc đổ chổng chân, vị tất đã là trái lẽ ; ‘Lợi về sự đổ đồ phế bỏ’ nói lên Sáu Đầu nên theo lên với bậc tôn quý (đợi đưa vật phẩm mới vào). Thải đồ phế bỏ để nhận vật mới.
17. Canh Thìn – Lôi Thủy Giải, hào 3
- “Lục Tam, phụ thả thừa, chí khấu chí ; trinh lận”.
- “Sáu Ba, mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, tất xúi bọn cướp đến cướp ; giữ vững chính bền để phòng hối tiếc”.
- Tượng “Phụ thử thừa, diệc khả xú dã, tự ngã chí nhung, hữu thùy cữu dã” – Mang đội vật nặng mà ngồi xe lớn, ấy là nói hành vi của Sáu Ba rất xấu xa, do bản thân không có đức, trộm ngôi mà đưa nạn binh nhung đến, như vậy thì còn quy lỗi vào ai được?
18. Tân Tị - Phong Hỏa Gia nhân, hào 5
- “Cửu Ngũ, vương cách hữu gia, vật tuất, cát”.
- “Chín Năm, đấng quân vương lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, sau đó bảo vệ nhà mình, không phải lo lắng, tốt lành”.
- Tượng “Vương cách hữu gia, giao tương ái dã” - Lấy đức đẹp cảm cách chúng dân, nói lên lúc này người người đều thân ái, hòa mục với nhau.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
20. Quý Mùi – Địa Trạch Lâm hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
21. Giáp Thân – Thiên Sơn Độn, hào 5 (21 = 9)
- “Cửu Ngũ, gia độn, trinh cát”
- “Chín Năm, kịp thời làm đẹp mà trốn lánh, giữ vững chính bền thì được tốt lành”
- Tượng “Gia độn trinh cát, dĩ chính chí dã” – Chín Năm có tâm chí lánh trốn chính đính.
22. Ất Dậu – Địa Trạch Lâm, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, đôn lâm, cát, vô cữu”
- “Sáu Trên, ôn nhu đôn hậu mà tới với mọi người, tốt lành, tất vô cữu hại”
- Tượng “Đôn lâm chi cát, chí tại nội dã” – Ý tâm chí của Sáu Trên gắn bó với đất nước, thiên hạ.
23. Bính Tuất – Sơn Thiên Đại súc, hào 4
- “Lục Tứ, đồng ngưu chi cốc, nguyên cát”.
- “Sáu Bốn, buộc gông lên đầu nghé không sừng, hết sức tốt lành”.
- Tượng “Lục Tứ nguyên cát, hữu hỷ dã” – Sáu Bốn hết sức tốt lành, nói lên ý “ngăn kẻ mạnh” có phương pháp, đáng được vui mừng.
24. Đinh Hợi – Trạch Địa Tụy, hào 4
- “Cửu Tứ, đại cát, vô cữu”
- “Chín Bốn, hết sức tốt lành, tất không có cữu hại”.
- Tượng “Đại cát vỗ cữu, vị bất đáng dã” – Đã quá tốt lành, lại phải ‘tất không cữu hại’, nói lên ngôi vị của Chín Bốn còn rất không thỏa đáng.
25. Mậu Tý – Thủy Lôi Truân, hào 6
- “Thượng Lục, thừa mã ban như, khấp huyết liên như”.
- “Sáu Trên, người cưỡi ngựa muốn cầu hôn phối (nhưng lại không có được sự cảm ứng), nên thương tâm khóc đến nỗi máu mắt chảy đầm đìa”.
- Tượng “Khấp huyết liên như, hà khả trường dã” – Khóc đến nỗi nước mắt chảy đầm đìa, nói lên Sáu Trên làm sao mà có thể trường cửu như vậy được.
26. Kỷ Sửu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 2
- “Cửu Nhị, đỉnh hữu thực ; ngã cừu hữu tật, bất khả năng tức, cát”
- “Chín Hai, trong vạc chứa đầy vật phẩm ; người phối ngẫu với ta, thân có tật bệnh, tạm thời không đến làm tăng gánh nặng cho ta, tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh hữu thực, thận sở chi dã ; ‘ngã cừu hữu tật’, chung vô vưu dã” – Trong vạc chứa đầy vật phẩm, ý nói rằng Chín Hai phải cẩn thận khi đi lên ; ‘người phối ngẫu với ta thân có tật bệnh’, nói lên Chín Hai tạm thời chưa ứng được với Sáu Năm, cuối cùng không có điều gì phải trách cứ.
27. Canh Dần – Lôi Thủy Giải, hào 2
- “Cửu Nhị, điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ ; trinh cát”.
- “Chín Hai, đi săn bắt được ba con cáo, được mũi tên mầu vàng (tượng trưng cho đức trung thực) ; giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, đắc trung đạo dã” – Chín Hai giữ vững chính bền thì được tốt lành, nói lên được đạo ở giữa không lệch.
28. Tân Mão – Phong Hỏa Gia nhân, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu, uy như, chung cát”
- “Chín Trên, lấy lòng chí thành, uy nghiêm để trị nhà, cuối cùng sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Uy như chi cát, phản thân chi vị dã” – Uy nghiêm trị nhà thì được tốt lành, ý trước tiên Chín Trên phải tu tỉnh mình, đòi hỏi phải nghiêm khắc ở chính bản thân mình.
29. Nhâm Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (29 = 41)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
30. Quý Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
31. Giáp Ngọ - Thiên Sơn Độn, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hiếu độn, quân tử cát, tiểu nhân bĩ”
- “Chín Bốn, trong lòng lưu luyến mà thân mình thì đã trốn lánh, người quân tử đương tốt lành, kẻ tiểu nhân không thể làm được”.
- Tượng “Quân tử hiếu độn, tiểu nhân bĩ dã” - Người quân tử trong lòng lưu luyến, mà thân thì đã trốn lánh, kẻ tiểu nhân không thể làm được. Cái “thần” của sự “tri cơ”, ai là người sẽ làm được vậy.
32. Ất Mùi – Địa Trạch Lâm, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, hàm lâm, trinh cát”
- “Chín Đầu, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện việc “giám lâm”, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Hàm lâm trinh cát, chí hành chính dã” – Tâm chí và hành vi chí hướng của Chín Đầu đoan chính không a dua.
33. Bính Thân – Sơn Thiên Đại súc, hào 3
- “Cửu Tam, lương mã trục, lợi gian trinh ; nhật nhàn dư vệ, lợi hữu du vãng”
- “Chín Ba, ngựa tốt hay rong ruổi, lợi về nhớ kỹ sự gian nan, giữ vững chính bền ; không ngừng rèn luyện kỹ năng phòng vệ của ngựa xe ; lợi về có sự đi”.
- Tượng “Lợi hữu du vãng, thượng hợp chí dã” - Lợi về có sự đi, nói lên ý Chín Ba hợp chí với Chín Trên.
34. Đinh Dậu – Trạch Địa Tụy, hào 5
- “Cửu Ngũ, tụy hữu vị, vô cữu, phỉ phu ; nguyên vĩnh trinh, hối vong”.
- “Chín Năm, ở thời hội tụ, ở nơi cao tôn quý không bị cữu hại, nhưng còn chưa được sự tin rộng của chúng dân ; là một vị quân trưởng có đức, nên giữ vững chính bền mãi mãi không đổi thay, thì sự hối hận tất sẽ mất”.
- Tượng “Tụy hữu vị, chí vị quang dã” - Thời hội tụ ở cao ngôi tôn quý, nói lên tâm chí hội tụ thiên hạ của Chín Năm còn chưa sáng lớn.
35. Mậu Tuất – Thủy Lôi Truân, hào 5
- “Cửu Ngũ, truân kỳ cao. Tiểu, trinh cát ; đại, trinh hung.
- “Chín Năm, muốn khắc sự gian nan thời khai sáng buổi đầu, cần rộng ban bố ân trạch. Việc nhỏ, giữ được chính bền thì tốt ; việc lớn, giữ được chính bền để phòng hung hiểm”.
- Tượng “Truân kỳ cao, thi vị quang dã” - Cần rộng ban bố ân trạch, ý nói đức trạch của Chín Năm ban bố còn chưa tỏa sáng.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Phong Đỉnh, hào 3
- “Cửu Tam, đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc ; phương vũ khuy hối, chung cát”
- Chín Ba, tai vạc đang bị biến dạng, chỗ xỏ gậy để khênh ở tai vạc bị tịt ; món trĩ hầm thơm ngon, tinh khiết chưa đem ra cho người ăn được, đợi đến khi có trận mưa dầm âm dương điều hòa, tất sẽ không còn hối hận nữa, về cuối sẽ được tốt lành”.
- Tượng “Đỉnh nhĩ cách, thất kỳ nghĩa dã” – Tai vạc bị biến dạng, nói lên Chín Ba mất sự thích nghi ở khoảng trống giữa.
37. Canh Tý – Lôi Thủy Giải, hào 1
- “Sơ Lục, vô cữu”.
- “Sáu Đầu, (hiểm nạn mới bắt đầu được giải) không có gì cữu hại”.
- Tượng “Cương nhu chi tế, nghĩa vô cữu dã” – Sáu Đầu giao tiếp cùng Chín Bốn, tương ứng với nhau, xét về lẽ thư giải hiểm nạn, thì tất nhiên không có gì cữu hại.
38. Tân Sửu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 1
- “Sơ Cửu, nhàn hữu gia, hối vong”.
- “Chín Đầu, phòng ngừa tà ác, sau đó bảo vệ gia đình mình, hối hận sẽ tiêu vong”.
- Tượng “Nhàn hữu gia, chí vị biến dã” – Phòng ngừa tà ác, bảo vệ gia đình mình, đó là nói lên Chín Đầu cần phòng ngừa khi ý chí còn chưa thay đổi.
39. Nhâm Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
40. Quý Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (40 = 52)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
41. Giáp Thìn – Thiên Sơn Độn, hào 3 (41 = 29)
- “Cửu Tam, hệ độn, hữu tật lệ ; súc thần thiếp, cát”
- “Chín Ba, trong lòng chựu sự ràng buộc, lưu luyến, không thể trốn lánh, sẽ bị tật bệnh, nguy hiểm ; nếu nuôi đầy tớ, nàng hầu thì được tốt lành”.
- Tượng “Hệ độn, chi lệ, hữu tật bị dã ; ‘súc thần thiếp cát’, bất khả đại sự dã” - Sự ràng buộc trong lòng dẫn đến nguy hiểm, nói lên Chín Ba sẽ gặp tật bệnh, cực kỳ gầy yếu ; ‘nuôi đầy tớ nàng hầu thì tốt’, nói lên Chín Ba không thể làm việc lớn như việc trị nước.
42. Ất Tị - Địa Trạch Lâm, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, hàm lâm cát, vô bất lợi”
- “Chín Hai, cảm ứng với bậc tôn quý mà thực hiện sự “giám lâm”, tốt lành, không gì không lợi”.
- Tượng “Hàm lâm cát vô bất lợi, vị thuận mệnh dã” - Thực hiện sự giám lâm, nói lên Chín Hai thật ra không phải là do thuận theo mệnh vua.
43. Bính Ngọ - Sơn Thiên Đại súc, hào 2
- “Cửu Nhị, dư thoát phúc”.
- “Chín Hai, xe long moayơ không đi được”.
- Tượng “Dư thoát phúc, trung vô vưu dã” – nói lên ý Chín Hai ở ngôi giữa mà không nóng vội tiến lên, cho nên không phạm lỗi lầm.
44. Đinh Mùi – Trạch Địa Tụy, hào 6
- “Thượng Lục, tê tư thế di, vô cữu”.
- “Sáu Trên, ta thán buồn than, lại đau đớn khóc lóc nước mắt nước mũi dàn dụa, có thể tránh được cữu hại”.
- Tượng “Tê tư thế di, vị an thượng dã” - Buồn than, lại đau đớn khóc lóc, nói lên hào Sáu Trên mong “tụ” không được, chưa thể ở yên tại ngôi trên cùng.
45. Mậu Thân – Thủy Lôi Truân, hào 4
- “Lục Tứ, thừa mã ban như, cầu hôn cấu ; vãng cát, vô bất lợi”.
- “Sáu Bốn, cưỡi ngựa dập dừu tới, muốn cầu hôn ; đi lên tất sẽ tốt lành, không gì là không lợi.”
- Tượng “Cầu nhi vãng, minh dã” - Muốn cầu hôn ở phí dưới mà tiến lên, nói lên Sáu Bốn là kẻ sáng suốt, hiểu biết.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Phong Đỉnh, hào 4
- “Cửu Tứ, giải nhi mẫu, bằng chí tư phu”.
- “Chín Bốn, lìa bỏ kẻ tiểu nhân dính bám, giống như thư giải cái tật kín ở ngón chân cái anh, sau đó bạn bè mới tới mà ứng với lòng thành tín”.
- Tượng “Giải nhi mẫu, vị đáng vị dã” – nói lên ngôi của Chín Bốn còn chưa thỏa đáng.
47. Canh Tuất – Lôi Thủy Giải, hào 6
- “Thượng Lục, công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng, hoạch chi, vô bất lợi”.
- “Sáu Trên, vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, một phát bắn trúng, không gì không lợi”.
- Tượng “Công dụng xạ chuẩn, dĩ giải bội dã” – Vương công bắn chim cắt đậu trên thành cao, nói lên Sáu Trên giải trừ hiểm nạn do kẻ bội nghịch gây nên.
48. Tân Hợi – Phong Hỏa Gia nhân, hào 2
- “Lục Nhị, vô du toại, tại trung quỹ, trinh cát”.
- “Sáu Hai, không có thành tựu gì, coi sóc việc nấu nướng trong nhà, giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng “Lục Nhị chi cát, thuận dĩ tốn dã” - Sự tốt lành của Sáu Hai là do sự nhu thuận, ôn hòa, khiêm tốn đưa đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Sơn Độn, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ lục, độn vỹ ; lệ, vật dụng hữu du vãng”
- “Hào Sáu Đầu, trốn tránh không kịp mà lại rơi vào phần đuôi, có nguy hiểm, không nên có sự đi”.
- Tượng “Độn vỹ chi lệ, bất vãng, hà tai dã” - Trốn tránh lại rơi vào phần đuôi có nguy hiểm, nhưng lúc này, nếu không đi lên phía trước, thì có tai họa gì đâu!
50. Quý Sửu – Địa Trạch Lâm, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, chí lâm, vô cữu”
- “Hào Sáu Bốn, hết sức gìn giữ để tới gần giám sát mọi người, tất vô cữu hại”.
- Tượng “Chí lâm vô cữu, vị đáng dã” – hào này ở ngôi chính đáng.
51. Giáp Dần – Thiên Sơn Độn, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách, mạc chi thắng thoát”.
- “Sáu Hai, bị dây da bò trói chặt, không ai có thể cởi được”.
- Tượng “Chấp dụng hoàng ngưu, cố chí dã” - Bị dây da bò trói chặt, nói lên ý Sáu Hai có ý chí bền vững giúp cho thời, không lui.
52. Ất Mão – Địa Trạch Lâm, hào 3 (52 = 40)
- “Lục Tam, cam lâm, vô du lợi ; ký ưu chi, vô cữu”.
- “Sáu Ba, dựa vào lời nói ngọt mà tới với mọi người thì không có lợi, nhưng nếu đã lo sửa lỗi của mình thì không cữu hại”.
- Tượng “Cam lâm, vị bất đáng dã, ‘ký ưu chi’, cữu bất trường dã” - Bằng lời nói ngọt mà tới với người, chỉ để bộc lộ ngôi vị của Sáu Ba không chính đáng ; ‘đã lo và biết sửa lỗi’, nói lên sự cữu hại không thể lâu dài.
53. Bính Thìn – Sơn Thiên Đại súc, hào 1
- “Sơ Cửu, hữu lệ, lợi dĩ”
- “Chín Đầu, có nguy hiểm, lợi về sự tạm dừng không tiến”.
- Tượng “Hữu lệ tắc dĩ, bất phạm tai dã” – Ý nói không thể cứ dấn thân vào tai biến, hoạn nạn mà đi.
54. Đinh Tị - Trạch Địa Tụy hào 1
- “Sơ Lục, hữu phu bất chung, nãi loạn nãi tụy ; nhược hào, nhất ác vi tiếu: Vật tuất, vãng vô cữu”.
- “Sáu Đầu, nếu không giữ được đến cùng sự thành tín trong lòng, tất sẽ làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người ; nếu chuyên tình mà kêu gọi mọi người ở trên, thì có thể chỉ một cái bắt tay với người bạn dương cứng là lại vui cười được ngay: Không phải lo nghĩ, đi lên tất không gặp cữu hại”.
- Tượng “Nãi loạn nãi tụy, kỳ chí loạn dã” – Làm loạn mà tụ họp bừa bãi với mọi người, nói lên tâm chí Sáu Đầu có sự mê loạn.
55. Mậu Ngọ - Thủy Lôi Truân, hào 3
- “Lục Tam, tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung ; quân tử cơ, bất như xả, vãng lận”.
- “Sáu Ba, đuổi hiêu không có ngu nhân dẫn đường, thì chỉ đi sâu vào rằng rậm vô ích ; người quân tử cần kiến có hành sự, lúc này bỏ không đuổi nữa là hơn cả, nếu cứ nhất mực tiến nữa, tất sẽ hối tiếc”.
- Tượng “Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã ; quân tử xả chi, vãng lận, cùng dã” – Không có người dẫn đường, mà vẫn đuổi bắt, nói lên Sáu Ba lòng tham đã thái quá. Người quân tử bỏ không đuổi nữa, nếu cứ đuổi mãi thì sẽ cùng khốn.
56. Kỷ Mùi – Hỏa phong Đỉnh, hào 5
- “Lục Ngũ, đỉnh hoàng nhĩ kim huyễn, lợi trinh”.
- “Sáu Năm, vạc có tai mầu vàng, đòn vạc cứng rắn, lợi về sự giữ vững chính bền”.
- Tượng “Đỉnh hoàng nhĩ, trung dĩ vi thực dã” - Vạc có tai mầu vàng, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa mà được tính cứng đặc.
57. Canh Thân – Lôi Thủy Giải, hào 5
- “Lục Ngũ, quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân”.
- “Sáu Năm, người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, tốt lành, thậm chí còn có thể dùng đức thành tín để cảm hóa kẻ tiểu nhân”.
- Tượng “Quân tử hữu giải, tiểu nhân thoái dã” - Người quân tử có thể thư giải hiểm nạn, kẻ tiểu nhân tất sẽ sợ phục, lui bước.
58. Tân Dậu – Phong Hỏa Gia nhân, hào 3
- “Cửu Tam, gia nhân hạc hạc, hối lệ, cát ; phụ tử hy hy, chung lận”.
- “Chín Ba, người trong nhà sầu oán gào khóc, mặc dù có hối hận, có nguy hiểm, nhưng vẫn được tốt lành ; còn nếu là đàn bà trẻ con mà nô đùa hớn hở, thì cuối cùng sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng “Gia nhân hạc hạc, vị thất dã ; ‘phụ tử hy hy’, thất gia tiết dã” - Người trong nhà sầu oán gào khóc, nói lên đây là thời chưa thể thoải mái nhàn vui ; ‘đàn bà trẻ con cười đùa hớn hở’, nói lên đã mất lễ tiết trong nhà.
59. Nhâm Tuất – Thiên Sơn Độn, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, phì đôn, vô bất lợi”
- “Chín Trên, cao chạy xa bay, không có gì không lợi”.
- Tượng “Phì độn vô bất lợi” – Chín Trên không hoài nghi lưu luyến gì.
60. Quý Hợi – Địa Trạch Lâm, hào 5 (60 = 12)
- “Lục Ngũ, tri lâm, đại quân chi nghi, cát”
- “Lục Ngũ, đến với mọi người bằng sự thông tuệ minh trí ; bậc đại quân vương nên như vậy, tốt lành”
- Tượng “Đại quân chi nghi, hành trung chi vị dã” - Bậc đại quân vương nên như vậy, nói lên Lục Ngũ tất phải đi theo trung đạo.
..............................VỊ TẾ
........ÍCH....................................THÁI
...HẰNG.....................+.....................HÀM
.......TỔN......................................BĨ
..............................KÝ TẾ
1. Giáp Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (1 = 49)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới người Trên, không dám nghĩ đến việc dùng xiểm nịnh mà tiến bừa. Cho nên tốt và hanh thông.
2. Ất Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
3. Bính Dần – Sơn Trạch Tổn, hào 6
- “Thượng Cửu, phất tổn ích chi ; vô cữu, trinh cát, hữu du vãng, đắc thần vô dã”.
- “Chín Trên, mình không tổn gì mà làm ích được cho mọi người ; tất không có cữu hại, giữ vững chính bền thì được tốt lành, nếu có sự đi, tất sẽ được quảng đại thần dân ủng hộ, chẳng phải chỉ một nhà”.
- Tượng viết: “Phất tổn ích chi, đại đắc chi dã” – “Mình không tổn gì mà làm ích được cho người, nói lên Chín Trên đắc chí lớn về sự ban ân cho thiên hạ.
4. Đinh Mão – Trạch Sơn Hàm, hào 2
- “Lục Nhị, hàm kỳ phì, hung ; cư cát”
- “Sáu Hai, giao cảm ở bụng chân, có hung hiểm ; ở yên tĩnh thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Tuy hung cư cát, thuận bất hại dã” – Sáu Hai mặc dù có hung hiểm, nhưng nếu ở yên giữ tĩnh thì được tốt lành, nói lên ý thuận theo chính đạo “giao cảm” thì có thể tránh gặp phải sự họa hại.
5. Mậu Thìn – Thủy Hỏa Ký tế, hào 2
- “Lục Nhị, phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc”.
- “Sáu Hai, người đàn bà đánh mất rèm xe (không đi được), không cần phải đi tìm, quá không đầy bảy ngày tất vật mất sẽ trở lại”.
- Tượng viết: “Thất nhật đắc, dĩ trung đạo dã” – “Quá không đầy bẩy ngày, tất vật mất sẽ quay trở lại”, nói lên Sáu Hai có thể giữ đạo trung chính không lệch.
6. Kỷ Tị - Hỏa Thủy Vị Tế, hào 6
- “Thượng Cửu, hữu phu vu ẩm tửu, vô cữu ; nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị”.
- “Chín Trên, tin dùng kẻ khác, an nhàn uống riệu thì không có gì cữu hại ; nhưng (chơi bời quá độ) sẽ như con cáo nhỏ qua sông đánh (làm) ướt đầu, đó là quá tin người mà hại tới chính đạo.
- Tượng viết: “Ẩm tửu nhu thủ, diệc bất tri tiết dã” – “An nhàn uống riệu mà (như con cáo nhỏ qua sông) làm ướt đầu gặp phải tai họa”, nói lên Chín Trên nếu như vậy, thì thật là không biết tiết chế gì hết.
7. Canh Ngọ - Lôi Phong Hằng, hào 4
- “Cửu Tứ, điền vô cầm”
- “Chín Bốn, đi săn không được cầm thú”.
- Tượng viết: “Cửu phi kỳ vị, ân đắc cầm dã” – Chín Bốn ở lâu không đúng chỗ của mình, săn bắn làm sao mà bắt được cầm thú?
8. Tân Mùi – Phong Lôi Ích, hào 4
- “Lục Tứ, trung hàng cáo công tòng, lợi dụng vi y thiên quốc”.
- “Sáu Bốn, giữ điều trung, thận trọng sự hành, cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo, lợi về sự dựa vào bậc quân thượng trong việc dời đô, ích dân”.
- Tượng viết: “Cáo công tùng, dĩ ích chí dã” – “Cung kính thăm hỏi bậc vương công, tất sẽ được lời nghe, kế theo”, nói lên ý chí Sáu Bốn lấy sự tăng ích tâm chí thiên hạ để khuyên gián vương công.
9. Nhâm Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (9 = 21)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
10. Quý Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (10 = 22)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
11. Giáp Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (11 = 59)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài!
12. Ất Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (12 = 60)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
13. Bính Tý – Sơn Trạch Tổn, hào 5
- “Lục Ngũ, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, nguyên cát”.
- “Sáu Năm, có người tiến dâng một con rùa lớn quý, có giá trị “mười bằng”, không thể từ tạ, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Lục Ngũ nguyên cát, tự thượng hựu dã” – Sáu Năm hết sức tốt lành, đây là Trời phù hộ.
14. Đinh Sửu – Trạch Sơn Hàm, hào 3
- “Cửu Tam, hàm kỳ cổ, chấp kỳ tùy, vãng lận”.
- “Chín Ba, cảm được tới đùi, khăng khăng nhắm mắt đi theo người ; như vậy tất sẽ thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã, ‘chí tại tùy nhân’, sở chấp hạ dã” – “Cảm được tới đùi”, nói lên Chín Ba không thể yên tĩnh lúc lùi ; “tâm chí ở chỗ nhắm mắt theo người”, nói lên Chín Ba cứ khăng khăng là thấp hèn.
15. Mậu Dần – Thủy Hỏa Ký tế, hào 1
- “Sơ Cửu, duệ kỳ luân, nhu kỳ vỹ, vô cữu”.
- “Chín Đầu, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), con cáo qua sông đánh (làm) ướt đuôi (để không đi nhanh), tất không có lỗi”.
- Tượng viết: “Duệ kỳ luân, nghĩa vô cữu dã” – “Kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi nhanh), nói lên hành vi của Chín Đầu hợp với ý nghĩa: cẩn thận giữ gìn mọi thành tựu mà không dẫn đến cữu hại.
16. Kỷ Mão – Hỏa Thủy Vị tế, hào 1
- “Sơ Lục, nhu kỳ vỹ, lận”.
- “Sáu Đầu, cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi, đáng thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ vỹ, diệc bất chi cực dã” – “Cáo nhỏ qua sông bị nước làm ướt đuôi”, nói lên Sáu Đầu rất không biết cẩn thận giữ giữa.
17. Canh Thìn – Lôi Phong Hằng, hào 3
- “Cửu Tam, bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu ; trinh lận”
- “Chín Ba, không thường giữ được đức đẹp, có khi bị người làm cho hổ thẹn ; phải giữ vững sự chính bền để phong sự thẹn tiếc”.
- Tượng viết: “Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã” – “Không thường giữ được đức đẹp, ý nói Chín Ba sẽ không có chỗ dung thân.
18. Tân Tị - Phong Lôi Ích, hào 5
- “Cửu Ngũ, hữu phu huệ tâm, vật vấn nguyên cát: hữu phu huệ ngã đức”.
- “Chín Năm, có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ, không còn nghi ngờ gì là hết sức tốt đẹp ; Người trong thiên hạ tất sẽ chân thành tín thực cảm ân huệ và nghĩ tới sự báo đáp ân đức của ta”.
- Tượng viết: “Hữu phu huệ tâm, vật vắn chi hỹ ; ‘huệ ngã đức’ đại đắc chí dã” – “Có lòng chân thành tín thực ban ơn cho thiên hạ”, nói lên sự hết sức tốt lành là điều không cần phải hỏi ; “người trong thiên hạ tất báo đáp ân đức của ta”, nói lên Chín Năm được lớn chí “tổn thượng ích hạ”.
19. Nhâm Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (19 = 31)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
20. Quý Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (20 = 32)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
21. Giáp Thân – Thiên Địa Bĩ, hào 5 (21 – 9)
- “Cửu Ngũ, hưu bĩ, đại nhân cát ; kỳ vong kỳ vong, hệ vu bào tang”.
- “Chín Năm, làm cho tắt nghỉ sự “bĩ”, đó là điều tốt lành cho bậc đại nhân ; (trong lòng lúc nào cũng phải tự nhủ): có thể mất đấy, như vậy thì mới có thể giữ vững như buộc vào một bụi dâu (yên tâm, không phải lo lắng gì nữa).
- Tượng viết: “Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã” – “Tốt lành cho bậc đại nhân”, nói lên Chín Năm ở ngôi vị trung chính, rất thích đáng.
22. Ất Dậu – Địa Thiên Thái, hào 6 (22 = 10)
- “Thượng Lục, thành phục vu hoàng ; vật dụng sư, tự ấp cáo mệnh, trinh lận”.
- “Sáu Trên, thành đổ xuống hào nước cạn khô ; không thể xuất binh chiến nữa, nên tự giảm bớt các phép tắc, bố cáo, chính lệnh đi, giữ vững chính bền để phòng những điều đáng tiếc”.
- Tượng viết: “Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh loạn dã” – “Thành đổ sụp xuống hào nước khô cạn”, nói lên xu hướng đang phát triển của Sáu Trên đã trở lên hỗn loạn.
23. Bính Tuất – Sơn Trạch Tổn, hào 4
- “Lục Tứ, tổn kỳ tẳt xuyền hữu hỷ, vô cữu”
- “Sáu Bốn, tự ta giảm bớt tật tương tư, có thể nhanh chóng tiếp nhận dương cứng, tất có sự vui, không có cữu hại”.
- Tượng viết: “Tổn kỳ tật, diệc khả hỷ dã” – “Tự giảm bớt bệnh tương tư”, ý nói Sáu Bốn tiếp nhận hào dương cứng là việc rất đáng mừng. Bốn dựa vào hào Đầu, để nhanh chóng đến “ích”, là cái lý của hào.
24. Đinh Hợi – Trạch Sơn Hàm, hào 4
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, hối hận sẽ mất hết ; lăng xăng qua lại, bạn bè cuối cùng sẽ thuận theo sự nghĩ của anh thôi”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, vị cảm hại dã ; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã” - Hối hận tất sẽ mất hết, nói lên Chín Bốn chưa từng vì giao cảm bất chính mà gặp điều hại ; ‘lăng xăng qua lại mà lòng ý bất đinh’, nói lên ý lúc này đạo giao cảm còn chưa sáng lớn.
25. Mậu Tý – Thủy Hỏa Ký tế, hào 6
- “Thượng Lục, nhu kỳ thủ, lệ”.
- “Sáu Trên, con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”.
- Tượng viết: “Nhu kỳ thủ, lệ’, hà khả cửu dã” – “Con cáo nhỏ qua sông đánh ướt đầu, có nguy hiểm”, dụ chỉ sau khi việc thành, nếu không cẩn thận, thì làm sao bảo vệ sự thành công cho được lâu dài!
26. Kỷ Sửu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 2
- “Cửu Nhị, duệ kỳ lân, trinh cát”.
- “Chín Hai, kéo ngược bánh xe về phía sau (để không đi mạnh), giữ vững chính bền thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị trinh cát, trung dĩ hành chính dã” – Chín Hai giữ vững được tốt lành”, nói lên phải giữ giữa, mà làm việc đoan chính không lệch.
27. Canh Dần – Lôi Phong Hằng, hào 2
- “Cửu Nhị, hối vong”.
- “Chín Hai, hối hận tiêu hết”
- Tượng viết: “Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã” – Chín Hai hối hận tiêu hết, nói lên có thể giữ đạo lâu dài không thiên lệch.
28. Tân Mão – Phong Lôi Ích, hào 6
- “Thượng Cửu, mạc ích chi, hoặc kích chi ; lập tâm vật hằng, hung”.
- “Chín Hai, không có ai làm ích cho anh ta, mà có người còn công kích anh ta nữa, là vì không thường giữ được sự yên ổn trong lòng (mà tham cầu không chán), có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Mạc ích chi, thiên từ dã ; ‘hoặc kích chi’, tự ngoại lai dã” – Không có ai làm ích cho anh ta, nói lên Chín Hai đơn phương đưa ra lời cầu ích ; ‘có người công kích anh ta’, đây là sự hung hiểm từ bên ngoài, không vời gọi mà tự đến.
29. Nhâm Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (29 = 41)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
30. Quý Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (30 = 42)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
31. Giáp Ngọ - Thiên Địa Bĩ, hào 4 (31 = 19)
- “Cửu Tứ, hữu mệnh vô cữu, trù ly chỉ”
- “Chín Bốn, mệnh trời xoay chuyển đạo Bĩ không có cữu hại, bạn mình nhờ cậy mình đều được hưởng phúc”.
- Tượng viết: “Hữu mệnh vô cữu, chí hành dã” - Mệnh trời xoay chuyển đạo “Bĩ”, không có cữu hại, nói lên chí vượt khỏi cuộc Bĩ của Chín Bốn đang được thực hiện.
32. Ất Mùi – Địa Thiên Thái, hào 1 (32 = 20)
- “Sơ Cửu, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; chinh cát”.
- “Chín Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra, thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”.
- Tượng viết: “Bạt nhự chinh cát, chí tại ngoại dã” – “Nhổ cỏ mao thẳng tiến lên phía trước thì được tốt lành”, nói lên tâm chí của Chín Đầu là có hướng tiến thủ ra bên ngoài.
33. Bính Thân – Sơn Trạch Tổn hào 3
- Tượng viết: “Nhất nhân hành, tam tắc nghi dã” - Một người đi một mình, thì có thể chuyên nhất cầu, ba người cùng đi sẽ khiến cho đối phương nghi hoặc không có chủ.
- “Lục Tam, tam nhân hành tắc tổn nhất nhân ; nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu”.
- “Sáu Ba, ba người cùng đi đều muốn cầu một dương, tất sẽ bớt một người là dương cứng đó ; một người đi một mình mà một lòng cầu hợp, thì sẽ được những người bạn dương cứng”
34. Đinh Dậu – Trạch Sơn Hàm, hào 5
- “Cửu Ngũ, hàm kỳ mai, vô hối”.
- “Chín Năm, cảm tới thăn lưng, không đến nỗi hối hận”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ hối, chí mạt dã” – “Cảm tới thăn lưng, nói lên chí hướng giao cảm của Chín Năm quá nông mỏng.
35. Mậu Tuất – Thủy Hỏa Ký tế, hào 5
- “Cửu Ngũ, đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi Thược tế, thực thụ kỳ phúc”.
- “Chín Năm, nước láng giềng bên đông giết trâu tế lớn, chẳng bằng lễ “tế Thược” sơ sài của nước láng giềng bên tây, được thực hưởng nhiều phúc trạch của thần linh ban giáng hơn”.
- Tượng viết: “Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thời dã ; ‘thực thụ kỳ phúc’ cát đại lai dã” – “Chẳng bằng “tế Thược” của nước láng giềng phía tây”, ý nói nước láng giềng phía tây tế lễ hợp thời ; “nước láng giềng phía tây càng được thực hưởng phúc trạch của thần linh ban giáng nhiều hơn”, dụ chỉ sự tốt lành nối tiếp nhau đến.
36. Kỷ Hợi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 3
- “Lục Tam, vị tế, chinh hung, lợi thiệp đại xuyên”.
- “Sáu Ba, việc chưa thành, đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nhưng lợi về sự vượt qua sông cả sóng lớn để thoát khỏi hiểm nạn”.
- Tượng viết: “Vị tế chinh hung, vị bất đáng dã” - Việc chưa thành đã vội tiến lên tất có hung hiểm, nói lên ngôi vị Sáu Ba không thích đáng.
37. Canh Tý – Lôi Phong Hằng, hào 1
- “Sơ Lục, tuấn hằng trinh hung, vô du lợi”
- “Sáu Đầu, quá mông được đạo hằng cửu, giữ vững chính bền để phòng hung hiểm, nếu không thì không có lợi”.
- Tượng viết: “Tuấn hằng chi hung, thủy cầu thâm dã” - Sự hung hiểm của việc “quá mong cầu đạo hằng cửu”, nói lên Sáu Đầu ngay từ đầu đã cầu được quá sâu.
38. Tân Sửu – Phong Lôi Ích, hào 1
- “Sơ Cửu, lợi dụng vi đại tác, nguyên cát, vô cữu”.
- “Chín Đầu, lợi về sự làn việc lớn, hết sức tốt lành, tất không cữu hại”.
- Tượng viết: “Nguyên cát vô cữu, bất hậu sự dã” - Hết sức tốt lành mà không có cữu hại, nói lên Chín Đầu vốn không thể gánh vác được việc lớn (nhưng lúc này được ích, có thể làm việc lớn)
39. Nhâm Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (39 = 51)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
40. Quý Mão – Địa Thiên Thái hào 3 (40 = 52)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
41. Giáp Thìn – Thiên Địa Bĩ, hào 3 (41 = 29)
- “Lục Tam, bao tu”.
- “Sáu Ba, được che chở nên làn điều phi đạo lý, cuối cùng đi đến sự hổ nhục”.
- Tượng viết: “Bao tu, vị bất đáng dã” - Được che chở nên làm điều phi đạo lý, nói lên Sáu Ba ngôi vị không chính đáng.
42. Ất Tị - Địa Thiên Thái, hào 2 (42 = 30)
- “Cửu Nhị, bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, đắc thượng vu trung hàng”.
- “Chín Hai, có tấm lòng bao dung như sông lớn, có thể lội qua sông lớn, không bỏ những người ở xa ; và cũng không kết bè phái, có thể giúp đỡ vị quân chủ kiên trì đạo trung”.
- Tượng viết: “’Bao hoang’, ‘đắc thượng vu trung hoàng’, dĩ quang đại dã” – “Có tấm lòng bao dung như sông lớn”, “có thể giúp đỡ đấng quân chủ kiên trì đạo trung”, nói lên đạo đức Chín Hai chính đại quang minh.
43. Bính Ngọ - Sơn Trạch Tổn, hào 2
- “Cửu Nhị, lợi trinh, chung hung ; phất tổn ích chi”.
- “Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, vội tiến ngày sẽ có hung hiểm ; không làm tổn hại đức của mình thì có thể làm ích cho người trên”.
- Tượng viết: “Cửu Nhị lợi trinh, trung dĩ vi chí dã” – Chín Hai lợi về sự giữ vững chính bền, nói lên nên kiên trì giữ đạo trung làm hướng của mình.
44. Đinh Mùi – Trạch Sơn Hàm, hào 6
- “Thượng Lục, hàm kỳ phụ giáp thiệt”
- “Sáu Trên, cảm bằng lời nói”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ phụ giáp thiệt, đằng khẩu thuyết dã” – “Cảm bằng lời nói”, nói lên Sáu Trên chẳng qua được tâng bốc lên bởi những lời rỗng tuếch mà thôi.
45. Mậu Thân – Thủy Hỏa Ký tế, hào 4
- “Lục Tứ, nhu hữu y như, chung nhật giới”
- “Sáu Bốn, quần áo đẹp rồi sẽ biến thành rách nát tả rơi, phải luôn đề phòng họa hoạn”.
- Tượng viết: “Chung nhật giới, hữu sở nghi dã” - Phải luôn đề phòng họa hoạn, nói lên Sáu Bốn đang có sự nghi sợ.
46. Kỷ Dậu – Hỏa Thủy Vị tế, hào 4
- “Cửu Tứ, chinh cát, hối vong ; chấn dụng phạt Quỷ Phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc”.
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành ; đánh nước Quỷ Phương với uy thế mạnh mẽ, qua ba năm chiến đấu công thành, được phong thưởng là chư hầu của nước lớn”.
- Tượng viết: “Trinh cát hối vong, chí hành dã” - Giữ vững chính bền hối hận mất hết, nói lên Chín Bốn đang thực hiện chí cầu “tế”.
47. Canh Tuất – Lôi Phong Hằng, hào 6
- “Thượng Lục, chấn hằng, hung”.
- “Sáu Trên, chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã” - Chấn động không yên ở nơi đạo hằng cửu, mà lại ở cao tại ngôi trên, nói lên Sáu Trên giải quyết mọi việc tất sẽ uổng công vô ích.
48. Tân Hợi – Phong Lôi Ích, hào 2
- “Lục Nhị, hoặc ích chi thập bằng chi quy, phất khắc vi, vĩnh trinh cát ; vương dụng hưởng vu đế, cát”.
- “Sáu Hai, có người cho một con rùa lớn quý đáng giá mười bằng, không từ tạ được, giữ vững chính bền lâu dài thì được tốt lành ; lúc này nhà vua đang tế trời cầu xin giáng phúc tốt lành”.
- Tượng viết: “Hoặc ích chi, tự ngoại lai dã” – “Có người cho (một con rùa lớn quý, đáng giá mười bằng), nói lên Sáu Hai được tăng ích là từ bên ngoài tự đến.
49. Nhâm Tý – Thiên Địa Bĩ, hào 1 (49 = 1)
- “Sơ Lục, bạt mao nhự, dĩ kỳ vựng ; trinh cát, hanh”.
- “Sáu Đầu, nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, thế là cùng loại thì tụ tập nhau mà ra ; giữ vững chính bền thì được tốt lành, hanh thông”.
- Tượng viết: “Bạt mao trinh dã, chí tại quân dã” - Nhổ cỏ mao, cả đám rễ cùng theo lên, nói lên ý chí Sáu Đầu giữ chính không muốn tiến, là do nghĩ tới Vua.
50. Quý Sửu – Địa Thiên Thái, hào 4 (50 = 2)
- “Lục Tứ, phiên phiên, bất phú, dỹ kỳ lân bất giới dỹ phu”.
- “Sáu Bốn, dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu, với hàng xóm chẳng cần bảo nhau mà đều một lòng thành tín”.
- Tượng viết: “Phiên phiên bất phú, giai thất thực dã ; ‘bất giới dĩ phu’ trung tâm nguyện dã” – “Dập dừu đi xuống, rỗng không chẳng giầu”, nói lên các hào âm ở quẻ trên đều mất đi cái thực của mình ; “chẳng cần phải bảo nhau mà đều một lòng thành tín”, nói lên trong lòng các hào âm đều mang ý nguyện ứng với dưới.
51. Giáp Dần – Thiên Địa Bĩ, hào 2 (51 = 39)
- “Lục Nhị, bao thừa, tiểu nhân cát ; đại nhân phủ, hanh”.
- “Sáu Hai, phải chựu sự bao dung che trở và vâng thuận người trên, là tiểu nhân thì tốt lành ; là đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông”.
- Tượng viết: “Đại nhân phủ, hanh, bất loạn quần dã” - Đại nhân mà phủ định đạo này thì hanh thông, nói lên ý không để cho bọn tiểu nhân làm loạn.
52. Ất Mão – Địa Thiên Thái, hào 3 (52 = 40)
- “Cửu Tam, vô bình bất bì, vô vãng bất phục ; gian trinh vô cữu, vật tuất kỳ phu, vu thực hữu phúc”.
- “Chín Ba, không có nơi bằng phẳng nào mà không lồi lõm, không có sự ra đi nào mà không trở lại ; ghi lòng gian khổ, giữ vững chính bền thì sẽ không gặp phải điều cữu hại, không sợ không giữ được điều tín với người, tự sẽ có phúc khánh được thực hưởng bổng lộc”.
- Tượng viết: “Vô vãng bất phục, thiên địa tế dã” - Kẻ ra đi không thể không quay trở lại, nói lên Chín Ba ở ranh giới giao tiếp của “Trời Đất”
53. Bính Thìn – Sơn Trạch Tổn, hào 1
- “Sơ Cửu, dĩ sự xuyền vãng, vô cữu, chước tổn chi”.
- “Chín Đầu, hoàn thành việc tự tu dưỡng, liền mau chóng đi lên giúp cho người ở ngôi cao, tất không có cữu hại ; nên châm chước giảm bớt chất cứng của bản thân”.
- Tượng viết: “Dĩ sự xuyền vãng, thượng hợp chí dã” – Thành việc tu dưỡng bản thân rồi đi giúp người trên cao, nói lên Chín Đầu tâm chí hợp nhất với bậc tôn trưởng.
54. Đinh Tị - Trạch Sơn Hàm, hào 1
- “Sơ Lục, hàm kỳ mẫu”.
- “Sáu Đầu, giao cảm ở ngón chấn cái”.
- Tượng viết: “Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã” – Giao cảm ở ngón chân cái, nói lên chí hướng của Sáu Đầu phát triển ra phía ngoài.
55. Mậu Ngọ - Thủy Hỏa Ký tế, hào 3 (ý thông 46)
- “Cửu Tam, Cao Tông phạt Quỷ Phương, tam niên khắc chi ; tiểu nhân vật dụng”.
- “Sáu Ba, vua Ân Cao Tông đánh nước Quỷ Phương, kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng ; không thể dùng kẻ tiểu nhân nóng vội gấp tiến”.
- Tượng viết: “Tam niên khắc chi, bị dã” – Kéo dài ba năm cuối cùng mới thắng, nói lên Chín Ba nỗ lực, bền bỉ tới mức sức lực cùng kiệt.
56. Kỷ Mùi – Hỏa Thủy Vị tế, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, vô hối ; quân tử chi quang, hữu phu cát”.
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì được tốt lành, không có gì phải hối hận ; đây là do sự sáng của người quân tử, (lại thêm) trong lòng thành tín mà được tốt lành.
- Tượng viết: “Quân tử chi quang, kỳ huy cát dã” - Sự sáng của người quân tử, dụ chỉ sự rực lên những tia sáng của Sáu Năm, là thể hiện của sự tốt lành.
57. Canh Thân – Lôi Phong Hằng, hào 5
- “Lục Ngũ, hằng kỳ đức, trinh ; phụ nhân cát, phu tử hung”.
- “Sáu Năm, muốn thường giữ phẩm đức mềm đẹp, nên giữ vững chính bền ; đàn bà thì được tốt lành, đàn ông tất có hung hiểm”.
- Tượng viết: “Phụ nhân trinh cát, tòng nhất nhi chung dã ; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã” – “Đàn bà giữ vững chính bền thì được tốt lành”, nói lên cần suốt đời thuận tòng một bề theo một chồng ; đàn ông phải điều hành mọi việc sao cho thích hợp, nếu mềm thuận như đàn bà thì tất có hung hiểm.
58. Tân Dậu – Phong Lôi Ích, hào 3
- “Lục Tam, ích chi dụng hung sự, vô cữu ; hữu phu trung hàng, cáo công dụng khuê”
- “Sáu Ba, nhận “ích” phần lớn phải dấn thân để cứu người khỏi điều ác, giải trừ hiểm nguy (như vậy) mới không lỗi ; tất phải giữ lòng thành tín, giữ đạo trung, thận trọng trong công việc, lúc nào cũng phải như tay cầm Ngọc khuê tâu việc với bậc vương công”.
- Tượng viết: “Ích dụng hung sự, cố hữu chi dã” - Nhận “ích” rất nhiều nên nỗ lực dấn thân vào việc “cứu hung bình hiểm”. Như vậy Sáu Ba mới có thể giữ “ích” đã nhận được một cách chắc chắn.
59. Nhâm Tuất – Thiên Địa Bĩ, hào 6 (59 = 11)
- “Thượng Cửu, khuynh bĩ ; tiên bĩ hậu hỷ”
- “Chín Trên, đánh đổ được “bĩ bế” ; trước còn bĩ bế, sau thì “thông thái” mừng vui”.
- Tượng viết: “Bĩ chung tắc khuynh, hà khả trường dã” – Bĩ bế lúc cùng cực tất đi đến đổ, làm sao giữ được lâu dài.
60. Quý Hợi – Địa Thiên Thái, hào 5 (60 – 12)
- “Lục Ngũ, Đế Ất quy muội, dĩ chỉ nguyên cát”.
- “ Sáu Năm, vua Đế Ất cho em gái về nhà chồng, như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”.
- Tượng viết: “Dĩ chỉ nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã” – “Như thế là có phúc trạch, hết sức tốt lành”, nói lên Sáu Năm ở ngôi giữa không thiên lệch, thực hiện ý nguyện ứng dưới.
...............................MÔNG
.....VÔ VỌNG............................ĐẠI TRÁNG
...THĂNG...................+....................KIỂN
......KHUÊ...................................QUAN
...............................CÁCH
1. Giáp Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (1 ~ 49)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
2. Ất Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (2 ~ 50)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
3. Bính Dần - Hỏa Trạch Khuê, hào 6
- “Thượng Cửu, khuê cô, kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ ; phỉ khấu, hôn cấu ; vãng ngộ vũ tắc cát.”
- “Chín Trên, trái lìa hết mức, cô độc hồ nghi, hoảng hốt như nhìn thấy con lợn lưng bám đầy bùn, lại thấy như một cỗ xe lớn chở đầy quỷ đang chạy, thoạt tiên thì dương cung muốn bắn, sau lại buông cung xuống ; thì ra không phải là giặc mạnh, mà là một cô gái đẹp tới kết hôn với mình ; lúc này mà đi gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành.”
- Tượng “Ngộ vũ chi cát, quần nghi vong dã.” - Gặp cơn mưa lành, hòa hợp âm dương thì được tốt lành, nói lên mọi điều ức đoán, nghi ngờ của Chín Trên đều bị tiêu tan.
4. Đinh Mão - Thủy Sơn Kiển, hào 2
- “Lục Nhị, vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố.”
- “Sáu Hai, người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua “kiển nạn”, không phải vì bản thân.”
- Tượng “Vương thần kiển kiển, chung vô cữu dã.” - Người bề tôi của đấng quân vương ra sức bôn tẩu để vượt qua kiển nạn, nói lên Sáu Hai cuối cùng sẽ không lỗi.
5. Mậu Thìn - Trạch Hỏa Cách, hào 2
- “Lục Nhị, kỷ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu.”
- “Sáu Hai, vào “ngày Kỷ” phải chuyển biến gấp thì phải quả đoán mà tiến hành biến cách, tiến lên phía trước tất có sự tốt lành, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kỷ nhật cách chi, hành hữu giai dã.” – Vào ngày Kỷ thì phải chuyển biến gấp, nói lên Sáu Hai gắng đi lên tất có công tốt đẹp.
6. Kỷ Tị - Sơn Thủy Mông – hào 6
- “Thượng Cửu, kích mông ; bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.”
- “Chín Trên, làm mạnh để mở mang sự ngu tối ; không lợi về sự dùng cách thức quá dữ dằn, cách này chỉ nên dùng để ngừa giặc mạnh.”
- Tượng “Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã.” - Lợi nếu dùng cách ngừa giặc mạnh để trừ sự ngu tối, là nói rằng có thể khiến cho ý chí trên dưới hài hòa, ứng thuận.
7. Canh Ngọ - Địa Phong Thăng, hào 4
- “Lục Tứ, vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, cát, vô cữu.”
- “Sáu Bốn, nhà vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, tốt lành, tất không cữu hại.”
- Tượng “Vương dụng hưởng vu Kỳ Sơn, thuận sự dã.” – Nhà Vua đến núi Kỳ Sơn tế thần linh, nói lên Sáu Bốn phải thuận theo nhà Vua lập công lập việc.
8. Tân Mùi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 4
- “Cửu Tứ, khả trinh, vô cữu.”
- “Chín Bốn, có thể giữ vững chính bền, do đó tất không bị cữu hại.”
- Tượng “Khả trinh vô cữu, cố hữu chi dã.” – Có thể giữ vững chính bền, nói lên Chín Bốn phải nắm bắt được cái bền, giữ được cái chính, mới có thể bảo tồn được sự vô hại lâu dài.
9. Nhâm Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (9 ~ 21)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
10. Quý Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (10 ~ 22)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
11. Giáp Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (11 ~ 59)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
12. Ất Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (12 ~ 60)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
13. Bính Tý - Hỏa Trạch Khuê, hào 5
- “Lục Ngũ, hối vong, quyết tông phệ phu, vãng hà cữu.”
- “Sáu Năm, hối hận mất hết, kẻ trong họ thân ứng với nó, cắn vào da mềm giòn của nó (như với ý hòa thuận mong được gặp gỡ), đi lên thì sao mà cữu hại được?
- Tượng “Quyết tông phệ phu, vãng hữu khánh dã.” - Kẻ trong họ thân ứng với nó (như) cắn vào da mềm giòn của nó, nói lên lúc này Sáu Năm mà đi tất vui.
14. Đinh Sửu - Thủy Sơn Kiển, hào 3
- “Cửu Tam, vãng kiển, lai phản,”
- “Chín Ba, tiến lên thì gian nan, quay lại là trở về nơi chốn của mình.”
- Tượng “Vãng kiển lai phản, nội hỷ chi dã.” - Tiến lên thì gian nan, quay trở lại là trở về nơi chốn của mình, nói lên các hào âm mềm ở trong quẻ đều vui mừng thấy Chín Ba quay lại.
15. Mậu Dần - Trạch Hỏa Cách, hào 1
- “Sơ Cửu, củng dụng hoàng ngưu chi cách.”
- “Chín Đầu, nên bó chặt bằng da con bò vàng.”
- Tượng “Củng dụng hoàng ngưu, bất khả dĩ hữu vi dã.” – Bó chặt bằng da bò, nói lên Chín Đầu không thể bạ việc gì cũng làm bừa làm càn để biến cách.
16. Kỷ Mão – Sơn Thủy Mông, hào 1
- “Sơ Lục, phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc ; dĩ vãng lận.”
- “Sáu Đầu, mở mang đầu óc, lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, khiến cho người ta không phạm tội ác ; nếu đi lên quá mức tất sẽ hối tiếc.”
- Tượng “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.” - Lợi ở chỗ tạo dựng ra khuôn mẫu để giáo dục người, là để mọi người tuân theo các phép tắc đúng đắn.
17. Canh Thìn - Địa Phong Thăng, hào 3
- “Cửu Tam, thăng hư ấp.”
- “Chín Ba, lên cao dễ dàng như vào thẳng nơi thành ấp không người.”
- Tượng “Thăng hư ấp, vô sở nghi dã.” – Lên cao dễ dàng như vào nơi không người, nói lên lúc này Chín Ba “thượng thăng” sẽ không có điều gì phải nghi ngờ suy nghĩ.
18. Tân Tị - Thiên Lôi Vô vọng, hào 5
- “Cửu Ngũ, vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ.”
- “Chín Năm, không càn bậy mà bị bệnh nhẹ, không cần phải uống thuốc mà sẽ vui vì khỏi bệnh.”
- Tượng “Vô vọng chi dược, bất khả thí dã.” – Không càn bậy mà bị bệnh nhưng không cần phải uống thuốc, đó là vì không thể dùng thử linh tinh. “Bất khả thí” - tức không được thử thuốc. Thuốc công hiệu với những kẻ làm càn, mà không công hiệu với những ai không làm càn, cho nên nói “bất khả thí” vậy.
19. Nhâm Ngọ - Phong Địa Quán, hào 4 (19 ~ 31)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
20. Quý Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (20 ~ 32)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
21. Giáp Thân – Phong Địa Quán, hào 5 (21 ~ 9)
- “Cửu Ngũ, quán ngã sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Năm, được mọi người ngẩng trông đồng thời tự xét hành vi của mình, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán ngã sinh, quán dân dã.” - Được mọi người ngẩng trông và tự xét hành vi của mình, nói lên Chín Năm nên thông qua sự quan sát phong tục của dân mà từ xét mình.
22. Ất Dậu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 6 (22 ~ 10)
- “Thượng Lục, đê dương xúc phiên, bất năng thoái, bất năng toại, vô du lợi ; gian tắc cát.”
- “Sáu Trên, dê lớn húc giậu, không thể lui, không thể tiến, không có gì là lợi ; tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành.”
- Tượng “Bất năng thoái, bất năng toại, bất tường dã ; gian tắc cát, cữu bất trường dã.” – Không thể lui không thể tiến, nói lên Sáu Trên giải quyết công việc không tường tận kỹ lưỡng ; Tự giữ vững lòng trinh thì được tốt lành, nói lên Sáu Trên gặp cữu hại không đến nỗi lâu dài.
23. Bính Tuất - Hỏa Trạch Khuê, hào 4
- “Cửu Tứ, khuê cô ; ngộ nguyên phu, giao phu, lệ vô cữu.”
- “Chín Bốn, chống đối, chia lìa, thui thủi một mình ; gặp chàng trai tốt dương cứng mà đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm nhưng tránh được cữu hại.”
- Tượng “Giao phu vô cữu, chí hành dã.” - Đối xử thành tín với nhau, thì tuy có nguy hiểm, nhưng lại tránh được cữu hại, nói lên chí hướng của Chín Bốn được thực hành để qua được thời khuê.
24. Đinh Hợi - Thủy Sơn Kiển, hào 4
- “Lục Tứ, vãng kiển, lai liên.”
- “Sáu Bốn, tiến lên thì gian nan, quay lại gặp gian nan.”
- Tượng “Vãng kiển lai liên, vị đáng thực dã.” - Tiến lên thì gặp kiển nạn, quay lại lại gặp gian nan, nói lên Sáu Bốn chính là đáng ngôi thật (kiển nạn không phải đưa lại một cách vu vơ)
25. Mậu Tý - Trạch Hỏa Cách, hào 6
- “Thượng Lục, quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện ; chinh hung, cư trinh cát.”
- “Sáu Trên, người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước ; lúc này nếu cứ tiếp tục tiến mạnh không thôi, tất có hung hiểm, ở yên giữ chính thì được tốt lành.”
- Tượng “Quân tử báo biến, kỳ văn úy dã ; tiểu nhân cách diện, thuận dĩ tòng quân dã.” - Người quân tử như được con báo đốm giúp đã làm nên sự biến cách, nói lên mỹ đức của Sáu Trên nhân vì vẻ tươi tắn sáng sủa của bậc đại nhân mà thành ra rực rỡ ; kẻ tiểu nhân đua nhau thay đổi khuynh hướng thời trước, đây là thuận tòng sự biến cách của nhà vua.
26. Kỷ Sửu – Sơn Thủy Mông, hào 2
- “Cửu Nhị, bao mông, cát. Nạp phụ, cát ; tử khắc gia.”
- “Chín Hai, được trẻ nhỏ vậy quanh, tốt lành. Như đón được người vợ hiền thục đẹp đẽ về nhà, tốt lành ; lại như người con coi sóc được việc nhà.”
- Tượng “Tử khắc gia, cương nhu tiếp dã.” - Người con coi sóc được việc nhà, nói lên Chín Hai dương cứng ứng với Sáu Năm âm mềm.
27. Canh Dần - Địa Phong Thăng, hào 2
- “Cửu Nhị, phu nãi lợi dụng Thược, vô cữu.”
- “Chín Hai, chỉ cần lòng giữ thành tín thì dù làm lễ “tế Thược” đơn sơ, cũng lợi về sự dâng tiến lên thần linh, không đến nỗi cữu hại.”
- Tượng “Cửu Nhị chi phu, hữu hỷ dã.” - Đức đẹp thành tín của Chín Hai tất sẽ đem lại sự vui mừng, phúc khánh.
28. Tân Mão – Thiên Lôi Vô vọng, hào 6
- “Thượng Cửu, vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi.”
- “Chín Trên, tuy không làm bậy nhưng ở thế cùng mà đi thì tất gặp họa, không được lợi gì.”
- Tượng “Vô vọng chi hành, cùng chi tai dã.” – Chín Trên tuy không làm bậy nhưng nếu có sự đi, thì sẽ do thế cùng, khó thông mà gặp phải tai ương.
29. Nhâm Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
30. Quý Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (30 ~ 42)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
31. Giáp Ngọ - Phong Địa Quan, hào 4 (31 ~ 19)
- “Lục Tứ, quán quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương.”
- “Sáu Bốn, ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, lợi khi thành quý khách của bậc quân vương.”
- Tượng “Quán quốc chi quang, thượng tân dã.” - Ngẩng trông sự rực rỡ thịnh trị của vương triều, nói lên ý thời này đất nước đã chính thức có lễ tỏ lòng chuộng hiền khách.
32. Ất Mùi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 1 (32 ~ 20)
- “Sơ Cửu, tráng vu chỉ, chinh hung ; hữu phu.”
- “Chín Đầu, mạnh ở ngón chân, đi lên tất có hung hiểm ; nên lấy sự thành tín tự giữ.”
- Tượng “Tráng vu chỉ, kỳ phu cùng dã.” - Mạnh ở ngón chân, nói lên Chín Đầu nên lấy sự thành tín tự giữ, khéo sử lý sự cùng khốn.
33. Bính Thân - Hỏa Trạch Khuê, hào 3
- “Lục Tam, kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết ; kỳ nhân thiên thả tị. Vô sơ hữu chung.”
- “Sáu Ba, dường như nhìn thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, trâu kéo xe bị cản không tiến được, như người bị khốc hình gọt tóc, xẻo mũi. Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp.”
- Tượng “Kiến dư duệ, vị bất đáng dã ; vô sơ hữu chung, ngộ cương dã.” - Dường như thấy cỗ xe lớn bị kéo khó đi, đây là do ngôi của Sáu Ba ở nơi không thích hợp gây nên ; Mới đầu trái lìa, sau sẽ hòa hợp, nói lên cuối cùng Sáu Ba tất gặp được hào dương cứng tương ứng.
34. Đinh Dậu - Thủy Sơn Kiển, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại kiển, bằng lai.”
- “Chín Năm, đi thì mười phần gian nan, bè bạn tấp nập kéo đến giúp đỡ.”
- Tượng “Đại kiển bằng lai, dĩ trung tiết dã.” – Đi thì mười phần gian nan, bạn bè tấp nập kéo đến giúp đỡ, nói lên Chín Năm giữ khí tiết dương cứng trung chính.
35. Mậu Tuất - Trạch Hỏa Cách, hào 5
- “Cửu Ngũ, đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu.”
- “Chín Năm, bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, không nghi ngờ gì nữa, tất sẽ làm sáng tỏ đức đẹp thành tín, chân thực.”
- Tượng “Đại nhân hổ biến, kỳ văn bỉnh dã.” - Bậc đại nhân tiến hành biến cách như con mãnh hổ, nói lên đức đẹp của Chín Năm mang mầu vẻ đẹp đẽ.
36. Kỷ Hợi – Sơn Thủy Mông, hào 3
- “Lục Tam, vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.”
- “Sáu Ba, không nên lấy người con gái này, trong mắt cô ta chỉ thấy người chồng đẹp mã thôi, không biết giữ mình, lấy cô ta không có lợi gì hết.”
- Tượng “Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.” – Không nên lấy người con gái này, nói lên Sáu Ba có đức hạnh không hợp với lễ tiết.
37. Canh Tý - Địa Phong Thăng, hào 1
- “Sơ Lục, doãn thăng, đại cát.”
- “Sáu Đầu, thích hợp về sự cao, hết sức tốt lành.”
- Tượng “Doãn thăng đại cát, thượng hợp chí dã.” – Thích hợp về sự lên cao, hết sức tốt lành, nói lên Sáu Đầu đội trên mà thuận hợp với tâm chí của hai hào dương rồi cùng “thăng”.
38. Tân Sửu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 1
- “Sơ Cửu, vô vọng, vãng cát.”
- “Chín Đầu, không làm càn, đi tất sẽ được tốt lành.”
- Tượng “Vô vọng chi vãng, đắc chí dã.” – Không làm càn mà đi, ý nói Chín Đầu tất nhiên được toại ý tiến thủ.
39. Nhâm Dần – Phong Địa Quan, hào 2 (39 ~ 51)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
40. Quý Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (40 ~ 52)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
41. Giáp Thìn – Phong Địa Quán, hào 3 (29 ~ 41)
- “Lục Tam, quán ngã sinh, tiến thoái.”
- “Sáu Ba, ngẩng trông đức đẹp của dương cứng rồi đối chiếu, tự xét hành vi của mình mà cẩn thận lựa chọn sự tiến lui.”
- Tượng “Quán ngã sinh tiến thoái, vị thất đạo dã.” - Ngẩng trông rồi đối chiếu tự xét hành vi của mình, nói lên Sáu Ba không để mất sự chính xác của đạo “ngẩng trông”.
42. Ất Tị - Lôi Thiên Đại tráng, hào 2 (42 ~ 30)
- “Cửu Nhị, trinh cát.”
- “Chín Hai, giữ vững chính (bền) thì được tốt lành.”
- Tượng “Cửu Nhị trinh cát, dĩ trung dã.” – Chín Hai giữ chính thì được tốt lành, đó là bởi do nguyên cớ dương cứng ở ngôi giữa.
43. Bính Ngọ - Hỏa Trạch Khuê, hào 2
- “Cửu Nhị, ngộ chủ vu hạng, vô cữu.”
- “Chín Hai, trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, tất không cữu hại.”
- Tượng “Ngộ chủ vu hạng, vị thất đạo dã.” – Trong ngõ không hẹn mà gặp chủ, nói lên Chín Hai chưa từng phạm vào cách xử sự ở thời Khuê.
44. Đinh Mùi - Thủy Sơn Kiển, hào 6
- “Thượng Lục, vãng kiển, lai thạc ; cát, lợi hiện đại nhân.”
- “Sáu Trên, đi lên thì gian nan, quay lại có thể lập công lớn ; tốt lành, lợi về sự xuất hiện đại nhân.”
- Tượng “Vãng kiển lai thạc, chí tại nội dã ; lợi hiện đại nhân, dĩ tòng quý dã.” – Đi lên thì gian nan, nói lên chí hướng của Sáu Trên là liên hợp bên trong cùng nhau vượt gian nan ; Lợi về sự xuất hiện đại nhân, nói lên Sáu Trên nên theo giúp bậc quân chủ dương cứng tôn quý.
45. Mậu Thân - Trạch Hỏa Cách, hào 4
- “Cửu Tứ, hối vong, hữu phu cải mệnh, cát.”
- “Chín Bốn, hối hận mất hết, giữ lòng thành tín để cách trừ (vương) mệnh cũ, tốt lành.”
- Tượng “Cải mệnh chi cát, tín chí dã.” – Cách (vương) mệnh cũ thì được tốt lành, nói lên Chín Bốn thực hiện chí biến cách.
46. Kỷ Dậu – Sơn Thủy Mông, hào 4 (Khốn vòng 2)
- “Lục Tứ, khốn mông, lận.”
- “Sáu Bốn, khốn vì tăm tối, có sự hối tiếc.”
- Tượng “Khốn mông chi lận, độc viễn thực dã.” - Hối tiếc do khốn vì tăm tối, nói lên Sáu Bốn cách xa “mông sư” cứng, khỏe, vững.
47. Canh Tuất - Địa Phong Thăng, hào 6
- “Thượng Lục, minh thăng, lợi vu bất tức chi trinh.”
- “Sáu Trên, mê muội cùng cực lại cứ muốn lên cao, lợi về sự giữ vững chính bền không ngừng nghỉ.”
- Tượng “Minh thăng tai thượng, tiêu bất phú dã.” – Mê muội cùng cực lại vẫn cứ muốn lên cao, nói lên xu thế phát triển của Sáu Trên tất sẽ tiêu mòn, không thể giầu thịnh.
48. Tân Hợi – Thiên Lôi Vô vọng, hào 2
- “Lục Nhị, bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng.”
- “Sáu Hai, không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch; không khai khẩn thì không có được ruộng tốt, như vậy lợi về có sự đi.”
- Tượng “Bất canh hoạch, vị phú dã.” – Không cầy và làm cỏ thì không được thu hoạch, nói lên ý Sáu Hai chưa từng mưu cầu sự giầu sang phú quý.
49. Nhâm Tý – Phong Địa Quán, hào 1 (49 ~ 1)
- “Sơ Lục, đồng quán, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận.”
- “Sáu Đầu, như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, tiểu nhân không nguy hại gì, quân tử tất có hối tiếc.”
- Tượng “Sơ Lục đồng quán, tiểu nhân đạo dã.” – Như trẻ nhỏ ngẩng trông cảnh vật, đây là cái lẽ sự hiểu biết nông cạn của kẻ tiểu nhân.
50. Quý Sửu – Lôi Thiên Đại tráng, hào 4 (50 ~ 2)
- “Cửu Tứ, trinh cát, hối vong ; phiên quyết bất luy, tráng vu đại dư chi phúc.”
- “Chín Bốn, giữ vững chính bền thì được tốt lành, sự hối hận tất sẽ mất hết ; cũng như phên giậu dễ bị bật tung nên sừng dê không bị mắc vào nữa, như cỗ xe lớn trục xe vững vàng.”
- Tượng “Phiên quyết bất luy, thượng vãng dã.” – Phên giậu đã bị bật tung nên sừng không bị mắc vào nữa, nói lên Chín Bốn lợi về sự đi.
51. Giáp Dần – Phong Địa Quán, hào 2 (51 ~ 39)
- “Lục Nhị, khuy quán, lợi nữ trinh.”
- “Sáu Hai, lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái giữ vững chính bền.”
- Tượng “Khuy quán nữ trinh, diệc khả xú dã.” – Lén ngẩng trông cảnh vật đẹp thịnh, lợi cho người con gái, còn đối với người con trai mà nói là đáng xấu hổ vậy.
52. Ất Mão – Lôi Thiên Đại tráng, hào 3 (52 ~ 40)
- “Cửu Tam, tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng ; trinh lệ, đê dương xúc phiên, luy kỳ giác.”
- “Chín Ba, kẻ tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, quân tử tuy mạnh nhưng không thế ; giữ vững chính để phòng nguy hiểm, nếu như con dê lớn mà húc mạnh vào giậu thì tất bị mắc sừng.”
- Tượng “Tiểu nhân dụng tráng, quân tử võng dã.” - Tiểu nhân dùng bừa sức mạnh, người quân tử tuy mạnh nhưng không thế.
53. Bính Thìn - Hỏa Trạch Khuê, hào 1
- “Sơ Cửu, hối vong ; táng mã, vật trục tự phục ; kiến ác nhân, vô cữu.”
- “Chín Đầu, hối hận tiêu vong, ngựa chạy mất, chớ đuổi theo, bình tĩnh chờ nó tự trở về, khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, không bị cữu hại.”
- Tượng “Kiến ác nhân, dĩ tị cữu dã.” – Khiêm tốn tiếp kẻ ác đối lập với mình, là để tránh sự cữu hại do sự trái lìa gây nên.
54. Đinh Tị - Thủy Sơn Kiển, hào 1
- “Sơ Lục, vãng kiển, lai dự.”
- “Sáu Đầu, tiến lên thì gian nan, trở lại ắt được khen.”
- Tượng “Vãng kiển lai dự, nghi đãi dã.” - Tiến lên thì gian nan, trở lại thì được khen, nếu nói như vậy thì Sáu Đầu nên chờ đợi thời cơ.
55. Mậu Ngọ - Trạch Hỏa Cách, hào 3
- “Cửu Tam, chinh hung, trinh lệ ; cách ngôn tam tựu, hữu phu.”
- “Chín Ba, gấp vội cầu tiến tất sinh “hung”, giữ chính phòng nguy hiểm ; khi biến cách bước đầu đã thành hiệu cần phải nhiều lần đi xuống làm theo lòng dân, yên định đại cục, xử sự phải giữ lòng thành tín.”
- Tượng “Cách ngôn tam tựu, hựu hà chi hỹ.” – Khi sự biến cách bước đầu đã thành hiệu, nói lên tại thời điểm này, Chín Ba hà tất phải quá vội vàng đi lên!
56. Kỷ Mùi – Sơn Thủy Mông, hào 5
- “Lục Ngũ, đồng mông, cát.”
- “Sáu Năm, trẻ nhỏ chưa biết gì, chính thế lại dễ dạy, tốt lành.”
- Tượng “Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.” - Trẻ nhỏ chưa biết gì, nói lên Sáu Năm cung kính, nhu thuận, khiêm tốn với thầy dạy.
57. Canh Thân - Địa Phong Thăng, hào 5
- “Lục Ngũ, trinh cát, thăng giai.”
- “Sáu Năm, giữ vững chính bền thì tốt lành, giống như cứ từng bậc một mà lên cao.”
- Tượng “Trinh cát thăng giai, đại đắc chí dã.” - Từng bậc một mà tiến lên cao, nói lên Sáu Năm đã hết sức toại nguyện với tâm chí lên cao của bản thân.
58. Tân Dậu – Thiên Lôi Vô vọng, hào 3
- “Lục Tam, vô vọng chi tai: hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai.”
- “Sáu Ba, không làm càn mà bị tai ương: ví như có người buộc một con trâu, người đi đường dắt về làm của mình, người trong ấp bị nghi oan là bắt trộm.”
- Tượng “Hành nhân đắc ngưu, ấp nhân tai dã.” - Người đi đường thuận tay dắt và lấy mất trâu đi, nói lên người trong Ấp tự nhiên bị tai bay vạ gió, bị đổ tội nghi là lấy cắp trâu.
59. Nhâm Tuất – Phong Địa Quán, hào 6 (59 ~ 11)
- “Thượng Cửu, quán kỳ sinh, quân tử vô cữu.”
- “Chín Trên, mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, người quân tử tất vô cữu hại.”
- Tượng “Quán kỳ sinh, chí vị bình dã.” - Mọi người đều ngẩng trông mọi hành vi của nó, nói lên tâm chí sửa đức của Chín Trên chưa thể yên vui thư thái được.
60. Quý Hợi – Lôi Thiên Đại tráng, hào 5 (60 ~ 12)
- “Lục Ngũ, táng dương vu dị, vô hối.”
- “Sáu Năm, mất dê ở bờ ruộng, không có gì hối hận.”
- Tượng “Táng dương vu dị, vị bất đáng dã.” - Mất dê ở bờ ruộng, nói lên ngôi của Sáu Năm không thích đáng.
(Nguồn: sưu tầm)
![]() |
| Tránh chọn địa điểm cưới dưới tầng hầm hoặc trong lòng đất |
![]() |
| Những vật phẩm dùng để trang trí tiệc cưới cần phải có đôi có cặp |
Vận: Là gì nhỉ? trong môn dự đoán theo Tứ trụ, Vận được hiểu đơn giản là các phân đoạn của một đời người, từ khi sinh ra đến khi mất đi, mỗi người đều có Vận trình riêng (Thường gọi trong dự đoán là Đại và Tiểu vận), và những người sinh cùng ngày sẽ có Đại vận giống nhau, chỉ có Tiểu vận là khác nhau. Và những người có cùng năm, tháng, ngày, giờ sinh sẽ có Đại, tiểu vận giống nhau. Về cơ bản sẽ có Vận trình giống nhau. Mỗi Đại vận là do một cặp Can-Chi (là 1 trong 60 cặp Can chi từ Giáp tý, Ất sửu .....thường gọi là vòng Giáp tý/ vòng đời) chủ quản 10 năm, quyết định sự Cát-Hung (tốt xấu) trong vòng 10 năm của người đó. Như vậy bất cứ ai sinh ra trên đời thông thường sẽ trải qua 6 Đại vận là đi hết một vòng Giáp tý, tương ứng với 60 năm của cuộc đời.Mệnh và Đại vận của mỗi người đều thông qua thước đo thời gian mà thể hiện sức mạnh tàng chứa của mình.
Như vậy, bất cứ ai, trong 60 năm cuộc đời, thông thường cũng sẽ có 2 cặp Can-Chi trong 60 cặp Can - Chi của vòng Giáp tý sẽ là các Đại vận tốt nhất, và sự tốt đẹp có được trong cả 10 năm mà Đại vận đó quản, vì các cặp can chi cùng khí, ví dụ: Canh Thân; Tân dậu ..v.v... Và còn có 22 cặp Can-Chi trong đó có các Can hoặc Chi tốt cho Mệnh, ví dụ như Canh dần; Giáp Thân ..v.v..nhưng chỉ phát huy tốt trong 5 năm của 10 năm Đại vận đó quản. Như vậy, trong 60 cặp Can - Chi có tới phân nửa là xấu, trong đó có 2 cặp can chi tương ứng với 2 Đại vận sẽ là cực xấu.
Như vậy, có thể nói Đại vận của mỗi chúng ta đã do ngày sinh quyết định, không thể thay đổi. Mà mỗi đời người nếu sống đến 60 tuổi, tức là đã đi hết một vòng Giáp tý, cũng chỉ trải qua 6 Đại vận trong tổng số 60 cặp Can chi (mỗi cặp Can chi ứng với 1 Đại vận). Do đó, ai sinh ra mà trong 6 đại vận đầu đời mà gặp được 2 đại vận cực tốt trong số 60 cặp Đại vận kể trên kể như người đó có Phúc cực to mới có thể gặp được. Người thường thật khó biết bao
Mệnh tốt gặp vận tốt thì như ông Thiệu Vĩ Hoa nói "Áo gấm còn thêu hoa", nếu còn gặp năm tốt thì đúng là thêu hoa toàn rồng bay phượng múa. Người lại thì sự tốt xấu do Mệnh, Vận và lưu niên quyết định.
Tóm lại, Mệnh và Đại, Tiểu vận đều thông qua thời gian mà biến đổi. Sự tổng hợp tốt xấu về Mệnh của một người thường phải thông qua sự tổng hợp tốt xấu của 6 cặp Can-chi là năm, tháng, ngày, giờ sinh và Đại vận, lưu niên của người đó. Do đó, môn dự đoán theo tứ trụ là một trong những môn học khó lắm bắt nhất, nhưng người dự đoán tốt sẽ dự đoán chính xác các sự việc lớn tốt xấu sảy đến với mỗi người, và tất nhiên nếu biết trước được Mệnh vận thì có thể phòng tránh, có thể biến hung thành cát, ít nhất cũng giúp giảm được điều hung với mình và người thân, và tất nhiên khi biết vận tốt đến thì tranh thủ chớp thời cơ mà không bị bỏ lỡ các cơ hội trời cho.
Và tìm cát tránh Hung hoạ trong môn Dự đoán theo tứ trụ gồm đa số các mặt quan trọng trong đời sống của chúng ta như hôn nhân, thăng quan tiến chức, giầu nghèo, sang hèn, thọ yểu hay tai nạn, bệnh tật, tai hoạ, phá sản..v.v..
người ở bản xa, cách chợ tình Khau Vai những ba quả núi, bốn năm con suối... thì đi từ sớm hơn. Khách du lịch chen lẫn với các chàng trai, cô gái người Mông, Dao, Giáy, Lô Lô... như chảy về xã Khau Vai. Mặc núi đá tai mèo, mặc núi cao suối sâu và những đoạn đường cua tay áo đầy nguy hiểm, họ náo nức, họ phấp phỏng... vì đêm nay sẽ là một đêm tình yêu lãng mạn thăng hoa, mỗi năm chỉ có một lần...
|
| Chợ tình Khau Vai |
Từ ngày hôm trước, lều quán đã được dựng khắp thung lũng, nhưng nhiều nhất vẫn là những quán rượu ngô, thắng cố (đặc sản của người Mông). Đó là nơi dừng chân đầu tiên của các cặp tình nhân trẻ cũng như già, mới cũng như cũ.
Ngay từ chiều hôm trước, nhiều cặp vợ chồng, tình nhân vì đường xa, đã “xôi đùm, ngô nắm” lên yên ngựa hoặc thong thả theo đường núi cho kịp chợ tình trong tiếng khèn, tiếng hát réo rắt suốt ngày đêm không tắt trên các triền núi xa xa dẫn đến Khau Vai ngày chợ.
Cuộc sống ở vùng núi cao thường là rất buồn tẻ. Cả năm mới có một phiên chợ, lại là phiên chợ tình, bởi vậy, có nhiều gia đình cả bố, mẹ, con dâu, con trai dắt díu nhau đến chợ vui như chảy hội. Thậm chí có nhiều cặp vợ chồng lấy nhau từ hơn chục năm nay, đã có với nhau 4 mặt con và sống cách chợ Khau Vai gần 2 ngày đường cũng lặn lội đến đây tìm niềm vui...
Bóng chiều chạng vạng bắt đầu đổ xuống thung lũng Khau Vai trong thanh âm nhộn nhịp tiếng nói cười, đi lại, gọi nhau và cả tiếng lục lạc, vó ngựa. Đây đó trong các lều quán bắt đầu xuất hiện những cặp tình nhân ngồi sát bên nhau, vừa chụm đầu trò chuyện vừa nhắm thức ăn và… uống rượu. Rượu được rót tràn bát, như tình cảm của người vùng cao lúc nào cũng lai láng không bến bờ. Họ uống cho ngày gặp lại sau một năm xa cách, có thể đằng đẵng, đầy nhớ nhung, đến khi nào không thể uống và không nên uống nữa, họ sẽ dắt tay nhau ra ngọn núi phía xa xa kia để tự tình thâu đêm đến sáng mới trở về với vợ, chồng mình.
Những người già nhất xã Khau Vai bây giờ cũng không ai biết chợ tình Khau Vai có tự bao giờ. Chỉ biết rằng, từ lúc còn để chỏm họ đã thấy có chợ tình rồi.
Truyền thuyết về nguồn gốc phiên chợ là câu chuyện tình của một người con trai Mông và một người con gái Giáy yêu nhau. Song, tình yêu của họ đã gây ra ra hiềm khích giữa 2 bộ tộc. Để tránh cuộc đối đầu đẫm máu, họ buộc phải xa rời nhau.
Tuy nhiên, chàng trai và cô gái thề nguyền rằng, dù không lấy được nhau và phải lập gia đình với người khác thì mỗi năm họ sẽ gặp nhau một lần vào đêm 26 tháng 3 tại chợ Khau Vai bây giờ. Chợ tình Khau Vai được hình thành từ đó.
Mới đầu chỉ là nơi hẹn hò của những người đã lỡ dở tình duyên với nhau và là đêm chợ truyền thống của người dân tộc Mông, nhưng sau đó được các dân tộc khác hưởng ứng. Đến bây giờ Khau Vai đã trở thành phiên chợ hẹn hò, tìm kiếm tình yêu của tất cả mọi người từ thanh niên cho đến người đã có gia đình.
Phiên chợ tình Khau Vai càng về đêm càng trở nên sâu lắng, chỉ có tiếng trò chuyện thì thầm và tiếng khèn, tiếng hát réo rắt gọi bạn tình vang lên từ những ngọn núi, đồi xa xa. Ai đã từng một lần đến với chợ tình Khau Vai hẳn sẽ không quên được những giây phút đầy thi vị này.
(Theo Vietnamtourism)
Văn khấn tết Nguyên tiêu (rằm tháng Giêng) được dùng trong lễ cúng vào ngày Rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, theo tục xưa gọi là: Tết Nguyên Tiêu. Vào ngày này người Việt Nam thường đi lễ Chùa, lễ Phật để cầu mong cho sự bình yên, khoẻ mạnh quanh năm. Đây là lễ tiết quan trọng trong năm nên ông bà ta có câu: ”Lễ Phật quanh năm không bằng ngày Rằm tháng Giêng”.
Ngày Tết Nguyên Tiêu các gia đình thường sắm hai lễ cúng: lễ cúng Phật và lễ cúng Gia tiên. Gia chủ có thể lập đàn tràng tại gia để làm lễ giải hạn. Đàn tràng lập ngoài sân.
Cúng Phật là mâm lễ chay tinh khiết, cùng hương hoa đèn nến.
Cúng gia tiên là mâm lễ mặn với đầy đủ các món ăn ngày Tết đầy đủ, tinh khiết.
Các vật phẩm khác như: Hương hoa vàng mã; Đèn nến; Trầu cau; Rượu
Ngày Tết Nguyên tiêu các gia đình thường sắm hai lễ: 1/ cúng Phật, cúng thần linh và 2/ cúng gia tiên vào giờ Ngọ.
1. Cúng Phật, thần linh: làm mâm lễ chay tinh khiết cùng hương hoa đèn nến.
Nếu không tụng kinh được thì có thể dâng hương và tụng đọc bài lễ bái Tam Bảo dưới đây:
Dốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. ( 3 lần, mỗi lần lạy 1 lạy )
(Cầm 3 nén hương quỳ đọc tiếp)
Nguyện mây hương lành này,
Biến khắp mười phương giới,
Trong có vô biên Phật,
Vô lượng hương trang nghiêm,
Viên mãn đạo Bồ Tát,
Thành tựu hương Như Lai. (1 lạy, và cắm hương vào bát hương)
Dâng hương cúng dàng rồi, dốc lòng kính lễ Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương. ( 1 lạy)
(Thành kính chấp tay thành búp sen đọc bài ca tụng công đức của Đức Phật)
Phật thân rực rỡ tựa kim san
Thanh tịnh không gì thể sánh ngang
Vô Thượng Chí Tôn công đức mãn
Cúi đầu con lạy Phật Sơn Vương.
Phật đức bao la như đại dương
Bảo châu tàng chứa đủ bên trong
Trí tuệ vô biên vô lượng đức
Đại định uy linh giác vẹn toàn.
Phật tại Chân Như pháp giới tàng
Không sắc không hình chẳng bụi mang
Chúng sinh bái vọng muôn hình Phật
Bỗng thấy tai nàn tận hóa tan.
Án phạ nhật ra hồng. (3 lần)
Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. ( 1 lạy )
Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát ( 1 lạy )
Chí tâm đỉnh lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lạy )
Con nay đều vì bốn ân, ba cõi pháp giới chúng sinh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ, dốc lòng sám hối. (1 lạy)
(Quỳ đọc) Chí tâm sám hối:
Xưa kia gây nên bao ác nghiệp
Đều vì ba độc: tham, sân, si
Bởi thân, miệng, ý phát sinh ra
Hết thảy con nay xin sám hối.
Như vậy tất thảy bao nghiệp chướng
Ắt hẳn tiêu diệt không tàn dư
Niệm niệm âm vang tận pháp giới
Độ khắp chúng sinh nhập Bất Thoái. (1 lạy)
Sám hối phát nguyện rồi, chúng con kính lễ Đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà và chư Phật ở khắp mười phương. (1 lạy )
2. Văn khấn Tết nguyên tiêu tại nhà
Nam mô A-di-đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
– Con kính lạy Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.
Tín chủ (chúng) con là: ……………..
Ngụ tại:………………………………………
Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng năm…. gặp tiết Nguyên tiêu, tín chủ con lòng thành, sửa sang hương đăng, sắm sanh lễ vật, dâng lên trước án.Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài Thần. Cúi xin các ngài linh thiêng nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ………………. nghe lời khẩn cầu, kính mời của con cháu, giáng về chứng giám tâm thành, thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời Ông bà Tiền chủ, Hậu chủ tại về hưởng lễ vật, chứng giám lòng thành phù hộ độ trì cho gia chung chúng con được vạn sự tôn lành. Bốn mùa không hạn ách, tám tiết hưởng an bình.
Nam mô A-di-đà Phật! (3 lần, 3 lạy)
Những câu nói tiếng Anh hài hước về phụ nữ. Cùng học tiếng Anh và giải trí với những câu hỏi hài hước về phụ nữ dưới đây.
– Women: scientifically proven to be right even when they’re wrong. Phụ nữ được khoa học chứng minh là luôn đúng ngay cả khi họ sai.
– Here’s all you have to know about men and women: women are crazy, men are stupid. And the main reason women are crazy is that men are stupid. Tất cả những gì chúng ta biết về đàn ông và phụ nữ là: phụ nữ điên rồ, đàn ông ngốc nghếch. Và lý do phụ nữ phát điên là vì đàn ông ngốc nghếch.
A jealous woman does better research than the FBI.
– A jealous woman does better research than the FBI. Một người phụ nữ ghen tuông điều tra còn giỏi hơn FBI.
When a woman says “What?”, it’s not because she didn’t hear you. She’s giving you a chance to change what you said. Khi người phụ nữ nói “Cái gì”, không phải vì cô ấy không nghe rõ bạn nói gì. Cô ấy đang cho bạn cơ hội thay đổi điều vừa nói.
A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument. Phụ nữ là người nói cuối cùng trong mọi cuộc tranh cãi. Bất cứ điều gì người đàn ông nói sau đó sẽ là khởi đầu cho một cuộc tranh cãi mới.
A woman gets the last word in every argument. Anything a man says after that is the beginning of a new argument.
Women are like police, they can have all the evidence in the world but they still want a confession. Phụ nữ chẳng khác gì cảnh sát, họ có mọi bằng chứng trên đời nhưng vẫn mong muốn một lời thú tội.
I am the boss in this house, my wife told me so. Tôi là chủ của ngôi nhà, vợ tôi bảo vậy.
Women are like banks, they take every cent you got and give you very little interest. Phụ nữ giống như các ngân hàng, họ cầm đi từng cent bạn có và trả lại một tí lãi suất.
Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh bằng trí tuệ.
Mục Lục
![]() |
Đại Thế Chí Bồ Tát là tên phiên phiên âm từ tiếng Phạn Mahastamaprapta, dịch ý là Đại Thế Chí hoặc Đại Tinh Tiến, gọi tắt là Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra còn những tên khác như Đắc Đại Thế Bồ tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Vô Biên Quang Bồ Tát. Mỗi cái tên, danh xưng đều có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với đạo hạnh và chức trách mà Ngài mang.
Cái tên Đại Thế Chí xuất phát từ việc Ngài dùng ánh sáng trí tuệ chiếp khắp muôn nơi để chúng sinh mười phương thoát khỏi đau khổ, đạt thành tựu Bồ Đề, có đạo hạnh chuyên tu. Đắc Đại Thế Bồ Tát có nghiêng về diễn tả đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, dùng hạnh nguyện của mình để điều phục và tiếp độ chúng sinh trong thế giới Ta bà.
Đại Tin Tấn hay Đại Tinh Tiến tức là vị Bồ Tát có sức tinh tiến vĩ đại, vô biên, càng ngày càng tiến lên để hóa giải mọi phiền não và giáo hóa chúng sinh, không mệt mỏi, không lùi bước, không ngại chướng khổ. Vô Biên Quang là vị Bồ Tát có ánh sáng vô biên, tỏa khắp pháp giới để chúng sinh hữu duyên thấy được ánh sáng quang minh tinh diệu vô lượng của Ngài khắp mười phương.
Quán Vô Lượng Thọ Kinh có ghi, Đại Thế Chí Bồ Tát lấy ánh sáng trí tuệ làm ngọn đèn soi đường cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi ác, đạt được sức mạnh vô biên, hướng tới thân tâm an lạc. Khi Ngài di chuyên, thập phương mười hướng như đang xảy ra một cơ địa chấn, trí tuệ quét sạch u mê nên có tên gọi Đại Thế Chí.
Ngài là một trong Tây Phương Tam Thánh, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát theo hầu Phật A Di Đà, một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ Tát. Đại Thế Chí bên phải, Quan Thế Âm bên trái, một bên đại diện cho tinh thần đại trí, một bên biểu thị cho tinh thần đại bi. Người tu hành muốn tu tập viên mãn, đạt thành tựu Phật giáo thì phải có cả hai yếu tố là tấm lòng và trí tuệ.
Từ bi bên trái, trí tuệ bên phải, trí tuệ dẫn đường cho từ bi để từ bi đi đúng hướng, từ bi thấm nhuần trí tuệ để trí tuệ không cứng nhắc, không trên đời mà giúp đời, cứu đời thoát khỏi u tối. Đó chính là ý nghĩa cao nhất, sự hòa hợp tốt đẹp nhất của Phật giáo. Là Phật tử, là những người hướng Phật nhất định phải hiểu được đạo lý này, đồng thời trang bị cho mình hai hạnh này, có như vậy thờ Phật mới chân chính, kính Phật mới chuyên tu.
Trí của Thế Chí Bồ tát là trí của ánh sáng và niềm tin, quyết tâm giáo hóa chúng sinh tránh khỏi đường mê lối lạc. Ngài là vị Bồ Tát Đẳng Giác hầu cận Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ giúp Phật hóa, tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới, giáo hóa Thánh chúng tại Cực Lạc, chờ tới khi công quả viên mãn sẽ bổ xứ thành Phật.
Đây là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh khắp cõi, tuy đã thành Phật trong kiếp quá khứ nhưng kiếp này thừa nguyện tái lai vì lòng thương chúng sinh, hiện thân làm Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trợ duyên cho Phật A Di Đà giáo hóa và tiếp dẫn chúng sinh thoát khỏi bể khổ.
Bồ Tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết Bàn, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai thì Đại Thế Chí sẽ thay Ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới Tây Phương, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.
Đại hùng đại lực đại từ bi của Thế Chí Bồ Tát chính là tinh thần và trí tuệ cao nhất để Ngài hoàn thành nguyện cũng như trọng trách mà Phật đạo giao phó. Sức mạnh ấy thể hiện ở các phương diện dưới đây:
Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Đại Thế Chí Bồ Tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật. Nhân lành mà Ngài gặt hái được là dùng tâm niệm Phật, vô sinh pháp nhẫn, vì thế Ngài quyết dùng đại hùng đại lực đại bi mà mình có để tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sinh tịnh độ.
Khi niệm Phật, n hất định phải chuyên tâm, người lâm chung muốn vãng sinh thì độ niệm phải có tâm chuyên nhất. Nếu trong lòng tưởng nhớ đến Phật, thấy đường Phật hướng thì Phật cách không ca, không cần phương pháp tu nào khác mà thành được Phật. Nói cách khác, “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam ma địa, đó là bậc nhất”. Đây là điểu quan trọng nhất là người tu niệm Phật cần phải nhớ khi hành trì.
Theo phong thủy và tâm linh, Bồ Tát Đại Thế Chí là Phật bản mệnh của người tuổi Ngọ.
Trong Tây Phương Tam Thánh, Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải Đức Phật A Di Đà, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân là hai cư sĩ có cách ăn mặc tương tự nhau. Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Xem thêm bài viết Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng?
![]() |
Trên chóp mũ của Bồ Tát có hình ngôi chùa, đại diện cho trí tuệ. Thân tỏa ra màu vàng tím lấp lánh, soi chiếu thập phương để chúng sinh hữu duyên đều có thể tận mắt nhìn thấy ánh sáng của Phật pháp và tịnh diệu. Vì thế mà Bồ Tát Đại Thế Chí cũng được gọi là Bồ Tát Vô Lượng Quang.
Thiên quan của Ngài có 500 bảo hoa, trên mỗi bảo hoa có 500 bảo đài, mỗi bảo đài hiện lên quốc độ tịnh diệu của chư Phật thập phương. Tóc búi hình hoa sen đỏ, trên có bảo bình, trong bảo bình chứa ánh sáng trí tuệ - nguồn lực để độ hóa chúng sinh.
Cũng có hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân là tướng người cư sỹ, nơi cổ có đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu với chúng sanh ra khỏi mê lầm tội lỗi.
Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai mà đức Đại Thế Chí đã đạt được trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy biết bao công phu. Dùng trí của mình để độ kiếp lầm than, theo đúng tinh thần của Phật giáo.
Tại sao Bồ Tát lại hiện thân cư sĩ? Điều này cho thấy hạnh nguyện của Ngài gần gũi với chúng sinh, muốn chúng sinh nghe pháp, thấu hiểu pháp thì cần phải cảm thông cho chúng sinh. Chỉ khi gần gũi và trở thành bạn lành của chúng sinh thì mới có thể làm được điều này. Bồ Tát là vị cư sĩ giản dị, dễ dàng đi khắp nhân gian để tiếp xúc với mọi người.
Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế tạp, hướng về tịnh độ.
Ngày 13/7 âm lịch là ngày vía Đại Thế Chí Bồ Tát, tức ngày Bồ Tát đản sinh. Ngày này chúng Phật tử và những người hướng Phật cùng làm lễ kính ngưỡng công đức, hạnh nguyện của người. Không chỉ cúng dường, tụng niệm mà còn hướng về Phật pháp, học hỏi Phật pháp, noi gương Ngài ứng dụng vào đời sống để đạt tới lý tưởng tu hành của bản thân.
Ngoài ra, tích cực hành thiện, tổ chức phóng sinh, bố thí, gieo thêm căn lành, hạnh lành cho cuộc đời. Mỗi việc tốt là ngọn nguồn của một cây thiện, đâm ra trái ngọt quả lành mà con người cần phải nhân rộng, đẩy lùi xấu xa ác nghiệt, coi như hoàn thành ý nguyện của Bồ Tát Thế Chí.
Xem thêm bài viết Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật
Dưới đây là lời Bồ Tát Thế Chí nguyện hứa trước Đức Phật khi quyết đi theo con đường tiến tu, học đạo, hướng Phật và tu đạo Bồ Tát.
“Bạch Đức Thế Tôn! nay tôi xin đem công đức cúng dường Phật và chúng tăng trong ba tháng, và những hạnh tu tập của tôi đã từng làm, như là:
Ba nghiệp thân
Bốn nghiệp miệng
Và ba nghiệp ý
Tôi xin tiếp tục tu đạo Bồ Tát, làm việc Phật sự, khuyên bảo chúng sinh, mang lại lợi ích cho chúng sinh để mau chóng hoàn thành những hạnh nguyện tôi đã thề. Đến chừng nào Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ, thì tôi sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền Chánh Pháp mà độ hóa chúng sinh”.
![]() |
Thế Chí Bồ Tát là vị Bồ Tát có trí tuệ và tinh thần từ bi, cứu độ chúng sinh vô biên, vô điều kiện, muốn gặp Phật phải có Phật trong tâm, muốn được Phật độ chứng phải thành tâm tụng niệm. Muốn thỉnh nguyện tới Ngài thì hướng về Phật pháp, chuyên tâm tu dưỡng và cúng dường, làm lễ công quả.
Thế gian còn lao khổ, Thế Chí còn miệt mài cứu độ chúng sinh tiến tới cõi Niết Bàn. Cách thỉnh nguyện tốt nhất, hiệu quả nhất chính là học tập đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, không chỉ giữ lập trường tu hành, trọn vẹn tinh thần hoằng pháp mà còn đẩy lui phiền não khổ sở. Chẳng những để bản thân giác ngộ mà còn giác ngộ những người xung quanh để cuộc sống ngày càng tốt đẹp, ngày càng an lạc.
Chăm làm việc thiện, thiện giả thiện báo, phóng sinh cứu độ, giữ tâm chân thành, bố thí hoạn nạn, đường tới thỉnh nguyện Đại Thế Chí Bồ Tát ở ngay phía trước.
Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật Văn Thù Bồ Tát - bậc Đại Trí dùng trí tuệ dẫn đường chúng sinh
Tâm Lan
![]() |
Thời gian: tổ chức vào ngày 18 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Ông Bính - một vị tướng thời Hùng Vương thứ 18.
Nội dung: Để chuẩn bị cho lễ hội, từ trong chức sắc của 9 làng phải tổ chức họp bàn với nhau. Làng Mộ Đạo có chính đền, thuộc tích nhất, phải chuẩn bị những lễ vật để tế thần tại đền Đậu như: Lễ Tam sinh (lợn, dê, ngỗng trắng), lợn tượng (lợn tạ) và các loại rượu, bánh trái, hoa quả đặc sản của địa phương (rượu Hoàng tửu, bánh đường, chè kho, chè lam, kẹo lạc…). Những làng còn lại, mỗi làng phải lo một lợn tượng để tế thần. Sáng ngày 16 tháng 3, tất cả 9 làng đều phải rước kiệu thần từ đình làng mình đến tập trung tại đền Đậu để tế lễ và mở hội. Đoàn rước kiệu của các làng, vai cờ kiệu là “giai trần” (trai tráng cởi trần, đóng khố), đầy đủ cờ kiệu, tàn lọng, siêu đao, bát bửu, trống chiêng và còn phải có đội “quân cờ”. Đội quân cờ có tướng cờ và quân cờ, mặc trang phục màu đỏ, tướng cờ có lọng che và đội quân cờ này là tượng trưng cho nghĩa binh của thần khi đánh giặc. Khi các đoàn rước của các làng tập trung đông đủ tại đền Đậu, theo thứ tự kiệu của các làng được rước vào đền trong, đền ngoài các quan viên tế của các làng cùng tế. Trong khi tế lễ có hát ca trù để thờ thần. Làng Mộ Đạo là một trong cái nôi của hát ca trù, các nghệ nhân không những tham gia hát thờ, mà còn tham gia hát hội. Lễ hội đền Đậu kéo dài đến ngày 20, sau khi tế “rã đám” thì kiệu thần của làng nào lại được rước về làng ấy.
Trong những ngày lễ hội đền Đậu, sau phần lễ là phần hội với nhiều tục trò dân gian vui chơi, giải trí như: Tuồng, chèo, ca trù, đu cây, thi vật, thi dệt vải, nhảy phỗng, bắt vịt, bắt trạch… thu hút hàng ngàn người đến lễ hội.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| ►Lịch ngày tốt gửi đến quý độc giả kho: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp đáng suy ngẫm |
Từ xưa đến nay con người vẫn luôn tin tưởng vào sự may mắn mà thế giới đá quý mang lại. Một trong những loại đá quý hiếm được ưa chuộng, mặc dù giá thành hơi cao so với nhiều loại đá khác. Không những nó mang lại may mắn mà nó còn trở thành đồ trang sức không thể thiếu của nhiều người. Tuy nhiên, với tác dụng lớn cộng thêm sự ưa chuộng và giá thành cao của sản phẩm thì hàng đá quý giả len lỏi vào thì trường rất nhiều. Trong đó có đá Ryby là một trong những loại đá quý hiếm nhất thế giới. Cho nên dưới đây chúng tôi có hướng dẫn cách phân biệt Ruby thật giả để các bạn lưu ý nhé!
Nội dung
Ruby (Hồng ngọc) là một trong 4 loại đá quý nhất của thế giới đá, cùng với Kim cương, Sapphire và Emerald (Ngọc lục bảo).

Người mẹ – Đá Corindon sinh được 2 người con, đều rất đẹp đẽ, đó chính là Ruby và Sapphire. 2 loại ngọc này thực ra là 1, chỉ khác nhau về màu sắc. Corindon có màu thuộc sắc đỏ gọi là Ruby, các màu còn lại gọi là Sapphire.
Có thể bạn không tin, nhưng Ruby thực chất chính là … nhôm oxit Al2O3, nghe tầm thường dễ sợ. May sao, mấy cục nhôm rỉ này có Crôm chui vào, tạo nên màu đỏ bắt mắt, thế là từ vịt phút chốc hóa thành thiên nga!
Ruby được ưa chuộng vì hội đủ những yếu tố làm nên một viên đá quý: Màu sắc đẹp, độ cứng cao, hiếm, bền, hiệu ứng quang học đặc biệt, hơn nữa màu đỏ lại là màu của may mắn, nên có cả ý nghĩa tâm linh.
Ruby đẹp nhất khi có màu đỏ huyết bồ câu.
Về mặt tính chất thì thường chỉ phân ra 2 loại:
Loại bình thường, không có hiệu ứng sao trên bề mặt
Khi soi đèn sẽ thấy trên bề mặt đá có 3 tia sáng cắt nhau tại 1 điểm, tạo nên ngôi sao 6 cánh.
Cùng một chất lượng thì Ruby sao bao giờ giá cũng đắt hơn Ruby thịt. Tại sao Ruby có hiệu ứng sao thì bài khác mình sẽ nói sau.

Loại đẹp nhất dùng làm mặt trang sức, loại vừa vừa đem tạc linh vật phong thủy đeo cổ, loại quặng xỉ chất lượng thấp thì nghiền ra làm tranh đá quý để tận dụng.
Tương ứng với giá trị giảm dần:
Ruby tự nhiên hoàn toàn, không xử lý (Ruby sống)
Ruby xử lý nhiệt (Ruby đốt): Dùng nhiệt độ cao để đốt cháy tạp chất, tăng độ trong và màu sắc.
Đá giả Ruby: Một số loại đá tự nhiên khác có màu tương tự Ruby
Ruby xử lý phủ thủy tinh (Ruby Phi, Ruby Thái): Nung Ruby cùng với thủy tinh, để thủy tinh len vào che lấp hết khe nứt, tăng độ bóng và màu sắc.
Ruby nhuộm
Ruby nhân tạo
Ruby giả
Ruby xử lý phủ thủy tinh
Ruby xử lý phủ thủy tinh: Có màu sắc, độ bóng cao, nhưng độ trong thấp, bên trong lòng đá có các bọt khí và các khe nứt mờ do bị thủy tinh len vào.
Chẳng có cách nào cho người thường phân biệt, cách duy nhất là soi kính hiển vi, nhận biết nhờ tạp chất bị biến mất. Tuy nhiên việc phân biệt này cũng không quan trọng lắm, vì xử lý nhiệt rất bền, ít ảnh hưởng giá trị đá.
Một số loại đá thường bị nhầm với Ruby như Garnet, Tourmaline đỏ, Spinel … Đây cũng là những loại đá tự nhiên khá quý hiếm, giá trị cao. Nên đề nghị người bán làm kiểm định để nhận biết.
Đây là kiểu xử lý rất phổ biến vì giá thành rẻ. Ruby phủ thủy tinh có thể dễ dàng nhận biết bằng mắt thường. Lấy đèn pin điện thoại soi, nếu bên trong có bong bóng, các vết rạn không rõ nét, đá trong mờ thì đó là Ruby đã phủ thủy tinh. Cần lưu ý là Ruby phủ thủy tinh có giá rất rẻ so với Ruby sống và Ruby đốt có cùng chất lượng.
Ruby nhuộm ở Việt Nam không phổ biến lắm. Loại này chủ yếu có ở Ấn Độ. Màu nhuộm trông rất tươi, giống màu đỏ cờ. Những khe nứt thường có màu đậm hơn những chỗ khác, do có màu nhuộm len vào. Khi lấy Axeton (thuốc tẩy sơn móng tay) quệt qua sẽ thấy màu nhuộm dính ra tay.
Ruby nhân tạo: Hàng này trong vắt, đỏ đậm đẹp, không tỳ vết, nhìn cái là biết liền. Ruby tự nhiên nhìn chung không bao giờ đạt được chất lượng đó. Mà nếu có thì chắc cũng không ai đủ tiền mua.
Ruby giả: Có thể là thủy tinh, nhựa, thạch anh bắn màu … Loại này phân biệt tương tự Ruby nhân tạo.

Tóm lại, Ruby tự nhiên thì phải có vết, vết càng rõ thì càng có khả năng là Ruby xịn, còn vết mờ, có bong bóng là Ruby xử lý phủ thủy tinh giá rẻ.
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không |
“1+1=1” bạn có tin không?! Trên đời này chỉ có những người suy nghĩ không thông, chứ không có con đường đi không thông.
Nếu như nói: 1+1=1; 1+2=1; 3+4=1; 5+7=1; 6+18=1
Phản ứng đầu tiên của đại não có thể sẽ là: Không thể nào. Xin hãy đọc tiếp.
Nếu như thêm đơn vị danh xưng thích hợp bên trong những chữ số này, kết quả của nó có thể kiến lập được rồi!
1 nửa quả táo + 1 nửa quả táo = 1 quả táo
1 tháng + 2 tháng = 1 mùa
3 ngày + 4 ngày = 1 tuần
5 tháng + 7 tháng = 1 năm
6 giờ + 18 giờ = 1 ngày
Bây giờ xem ra, tư tưởng của bạn bỗng được đả thông mà cải biến có phải không?
Trên con đường của cuộc đời, lựa chọn lớn hơn so với nỗ lực, bố cục quyết định kết cục, tâm thái quyết định tất cả!
Có lẽ thay đổi tư duy một cái, bạn có thể nhìn thấy được nhiều hơn, tất cả đều sẽ không giống nhau!
1 + 1 = 1; 1 + 2 = 1; 3 + 4 = 1; 5 + 7 = 1; 6 +18 = 1
Khi nhìn thấy những phép toán này, mọi người thường quen dùng kiến thức toán học mình biết để suy luận, theo đó chúng thật sự không thể xảy ra.
Giải đáp của tác giả tin chắc rằng mọi người có thể đã hiểu được, chỉ cần thêm một đơn vị vào phía sau mỗi con số, thế thì câu hỏi và đáp án như vậy trở thành vô cùng hợp lý.
Đọc nhiều giúp tri thức của chúng ta phong phú hơn, nhưng sau khi học tập mà không thông, những kiến thức học được vốn sẽ trợ giúp chúng ta tìm được đáp án, lại biến thành lực cản cản trở chúng ta suy nghĩ tìm ra đáp án.
Chỉ có hiểu được biến thông, mới có thể sáng tạo nên cái mới, biến rất nhiều điều không thể thành có thể. Rất hợp lý phải không nào! Lúc vừa bắt đầu chính tôi cũng rất khó tin
Tư tưởng thay đổi một cái thì khác biệt thật to lớn! Cũng giống như cuộc đời của người ta vậy……
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen. Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Tôi nghe thế nầy : một khi Phật ở, trong một Tinh Xá, vườn Cấp-cô- độc, cây của Kỳ-Ðà, cùng các Tăng-già, có trên hai vạn, thêm tám nghìn người , cùng chư Bồ-Tát. Bấy giờ Thế-Tôn, cùng với Ðại chúng, nhân buổi nhàn du đi về phía nam, thấy đống xương khô chất cao như núi Ðức Phật Thế Tôn liền sụp lạy ngay đống xương ấy. Tôi bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, Ngài ở trên ngôi chí Tôn, chí Qúy, Thầy cả ba cõi Cha lành bốn loài thiên thựơng nhân gian thảy đều tôn kính, sao Ngài lại lễ đống xương kia.
Nầy A-Nan ơi! Ngươi tuy xuất gia theo ta tu học, trong bấy nhiêu lâu, những sự thấy nghe đã rộng rãi, đống xương khô ấy hoặc là ông bà, hay là cha mẹ, thân trứơc của ta, ngàn muôn ức kiếp, đời đã cách xa, bởi thế nay ta chí thành kính lễ. Ngươi đem xương nầy chia làm hai phần, một là đàn ông, hai là đàn bà, phân biệt cho ta.
Bạch Ðức Thế Tôn, con xem ở đời phàm là con trai mang đai hia mão, ai cũng nhận ra, đấy là nam giới, những người con gái hương hoa phấn sáp, kiềng xuyến nhẫn hoa, ai cũng nhận ra, đó là nữ giới. Nay người đã chết, xương trắng một mầu, chúng con biết đâu mà phân biệt đựơc.
Này A-Nan con, về bên nam giới trong lúc bình sinh, thừơng lui tới những chốn chùa chiền, nhờ có nhân duyên nghe Kinh lễ Phật, kính mến Tăng-già, nợ trần đã qua, hồn về cõi Phật, bao nhiêu xương trắng, nhắc thấy nặng hơn là xương nam giới còn như nữ giới trong lúc bình sinh, nhiều lần sinh nở, nuôi nấng con thơ, tổn hao khí huyết, mỗi một kỳ sinh, máu đặc trong mình chảy ra sáu đấu, mỗi người con bú, tám thùng bốn đấu, sửa ở trong mình giảm bớt tinh anh, cho nên xương nhẹ và có sắc đen.
Tôi nghe Phật nói thương xót vô cùng, như dao cắt ruột, nứơc mắt chứa chan, hai hàng châu lệ, mà bạch Phật rằng:
Lạy Ðức Thế Tôn, công ơn cha mẹ như non như bể, thăm thẳm nghìn trùng, lấy gì báo đáp, cúi xin Ðức Phật dủ lòng thương xót, dạy bảo chúng con.
Nầy A-Nan con, Về ân đức mẹ, trong vòng mười tháng đi lại nặng nề, cưu mang nhọc mệt, khổ không xiết :
Khi vừa một tháng, ở trong thai mẹ, khác gì hạt sương dính trên ngọn cỏ, sớm còn tụ đọng, trưa đã tan, khó lòng giử được.
Khi được hai tháng, ở trong thai mẹ, hình như sữa đặc, đã chắc gì đâu.
Khi được ba tháng, ở trong thai mẹ, ví như cục máu, đông đặc đỏ ngầu, vô tri vô giác.
Khi được bốn tháng, ở trong thai mẹ, mới dạng hình người.
Khi được năm tháng, ở trong thai mẹ,mới đủ năm hình, chân tay đầu tóc.
Khi được sáu tháng, ở trong thai mẹ, sáu căn mới đủ, mắt tay mũi lưỡi thân hình và ý.
Khi được bảy tháng, ở trong thai mẹ, mới sinh đầy đủ, ba trăm sáu mươi những cái đốt xương, cùng là tám vạn, bốn nghìn chân lông.
Khi được tám tháng, ở trong thai mẹ, phủ tạng mới sinh, ý chí mới đủ, chín khiếu mới thông.
Khi được chín tháng, ở trong thai mẹ, mới đủ hình người ngồi trong bụng mẹ, khát uống nguyên khí, không ăn hoa quả, cùng là ngũ cốc, sinh tạng rủ xuống, thực tạng hướng lên, có một dãy núi gồm có ba quả; một là Tu Di hai là núi Nghiệp, ba là núi máu, núi nầy đồng thời hoá ra dòng máu, rót vào trong miệng.
Ở trong thai mẹ, trong vòng mười tháng, trăm phần toàn vẹn, mới đến ngày sinh, nếu là con hiếu, chắp tay thu hình, thuận lối mà ra, không đau lòng mẹ; nếu là con bạc, dẫy giụa bải bơi khiến lòng mẹ, buốt chói từng hồi, như đâm như xỉa, như cấu như cào, như nghìn mũi dao, đâm vào gan ruột, đau đớn vô cùng, nói sao cho siết, sinh được thân nầy, mừng thay vui thay, yêu thay mến thay.
Phật bảo A-Nan : công ơn từ mẫu, gồm có mười điều, phàm kẻ làm con, phải lo báo hiếu .
Những gì là mười điều?
Bao kiếp, duyên cùng nợ;
Ngày nay, mới vào thai
Ðầy tháng, sanh ngũ tạng;
Bảy bảy, sáu tinh khai
Thân trọng, như non Thái
Ðộng tĩnh, sợ phong tai
Áo the, đành xốc-xếch,
Gương lược, biếng trang đài.
Khi gần ngày sanh nở
Nặng nhọc, khổ vô cùng,
Cưu mang, trong mười tháng
Sanh nở, sắp đến ngày
Ðứng ngồi coi nặng nhọc;
Dáng vẻ, tựa ngô ngây,
Sợ hãi lo, cùng lắng;
Tử sanh giờ phút nầy!
Mẹ ta, khi sanh nở,
Thân thể đều mở toang!
Tâm hồn như mê mẩn,
Máu me chan hòa đầy,
Chờ nghe, thấy con khóc;
Lòng mẹ mừng rỡ thay!
Ðương mừng lại lo đến
Rầu rĩ ruột gan nầy.
Mẹ ta lòng thành thực,
Thương con chẳng chút ngơi
Nhả ngọt nào có tiếc!
Ăn đắng nói cùng ai?
Yêu dấu như vàng ngọc.
Nâng niu tay chẳng rời
Những mong con ấm no;
Mẹ đói rách cũng vui .
Tự mình nằm chỗ ướt,
Chỗ ráo để xê con,
Hai vú phòng đói khát;
Hai tay ủ gió sương.
Thâu đêm nằm chẳng ngủ;
Nâng niu tựa ngọc vàng
Những mong con vui vẻ;
Lòng mẹ mới được yên.
Ðức mẹ dày như đất;
Công cha thẳm tựa trời
Chở che coi bình đẳng;
Cha mẹ cũng thế thôi!
Chẳng quản, câm mù, điếc!
Chẳng hiềm, quắt tay chân!
Bởi vì con ruột thịt,
Trọn đời dạ chẳng khuây.
Từ biệt, lòng khôn nhẫn;
Sanh ly dạ đáng thương;
Con đi đường xa cách
Mẹ ở chốn tha hương,
Ngày đêm thường tưởng nhớ;
Sớm tối vẩn vấn vương
Như vượn thương con đỏ
Khúc khúc đoạn can trường?
Mẹ trải qua bao nhiêu gian khổ,
Công lao tựa vực trời
Bồng bế cùng nuôi nấng;
Mong sao con ăn chơi
Nhường cơm cùng xẻ áo;
Mẹ đói rách dũng vui!
Khôn lớn tìm đôi lứa
Gây dựng cho nên người
Công cha cùng đức mẹ
Cao sâu tựa vưc Trời
Mẹ già, hơn trăm tuổi,
Vẫn thương con tám mươi!
Bao giờ ân oán hết?
Tắt nghỉ cũng chẳng thôi !…
Phật bảo A-Nan: Ta xem chúng sanh, dẫu làm được người lòng còn ngu muội chẳng nghĩ mẹ cha, công đức kể ra, như non như bể, chẳng cung chẳng kính, chẳng hiếu chẳng từ, mẹ mang thai con, trong vòng mười tháng, ngồi đứng không yên, như mang gánh nặng, ăn uống chẳng ngon, như người mang bệnh, ngày tháng thoi đưa, dến khi sanh nở, chịu khổ mọi đường, phút giây hay dở, kinh sợ vô cùng, như giết trâu dê, máu me lai láng, còn nhiều khổ nữa, mới được thân nầy, ăn đắng nuốt cay, nhả bùi nhả ngọt, nâng niu dưỡng dục, giặc giũ dáy dơ, không nề gian khổ, bức bối nồng nàn, rét mướt cơ hàn, lầm than tân khổ, mẹ nằm chỗ ướt, ráo để xê con, ba năm bú mớm, bồng bế nâng niu, dạy bảo đủ điều, lễ nghi phép tắc, cho ăn đi học, tìm đủ mọi nghề, đưa đón đi về, cần lao chăm chú, chẳng kể gì công.
Trái nắng dở Trời tuần trăng cuối gió, bệnh nọ chứng kia, bông hoa sài đẹn, thang thuốc đâu đâu, một mình lo lắng, chạy ngược chạy xuôi năm canh vò võ, bệnh con có khỏi lòng mẹ mới yên, mong con lớn lên, con thảo con hiền, để mà trông cậy.
Không ngờ ngày nay, hóa con bất hiếu, mẹ già cha yếu, con chẳng đỡ đần, cãi vã song thân, nói năng cắn cẩu, giương đôi mắt chẫu, khinh rẻ mẹ cha, chú bác ông bà, cô dì chẳng nể, anh em cũng kệ, đánh lộn xẩy ra, ô nhục nước nhà, bất trung bất nghĩa, bất hiếu bất lương, phép nước coi thường, mẹ cha cũng kệ, xóm giềng chẳng nể, chửi bới nhau luôn, sớm tối ra vào, chẳng thưa chẳng gởi nói năng càn rỡ, tự ý làm bừa, cha mẹ cũng thừa, thầy trên cũng mặc!
Bé thì ai chấp, người những nâng niu, dần dần khôn lớn, gai ngạnh mọi điều, chẳng hòa chẳng thuận, thường hay sân si bỏ cả bạn lành, giao du bạn ác, tập thói xa hoa, chơi khắp gần xa, thất thường điên đảo, bị kẻ dổ dành, mất cả thân danh, bỏ làng trốn mất, trái ý mẹ cha, ly biệt quê nhà, chẳng nhìn quê quán, hoặc vì buôn bán, hoặc bởi tòng quân, tiêm nhiễm dần dần, trở nên lưu luyến, vợ nọ con kia, chẳng thiết đi về, quê hương bổn quán, ở đất nước người lại hay rong chơi bị người lưà gạt, tai vạ liên miên, pháp luật gia hình, tù loa cấm cố, cực khổ mọi điều, chẳng may yếu đau, chứng kia tật nọ, ở chốn tha hương, ai kẻ thích thân, ai người thang thuốc, mẹ cha cách biệt, thân thích biết đâu, cam chịu ưu sầu, quê người đất khách; khốn khổ gầy còm, không người trông nom, bị khinh rẻ, lang thang đường ngõ, vì thế chết đi; không người mai táng, chương phềnh thối nát, giãi bừa, chó cầy nhai xé!….
Mẹ cha thân thuộc, khi được tin buồn, luống những đau thương, ruột như dao cắt, hai hàng nước mắt, lã chã chứa chan, hoặc vì quá thương, kết thành bệnh khí, hoặc là đến chết, làm quỷ ôm thây, chẳng để cho ai khư khư giữ mãi. Hoặc là vì con, chẳng chăm học tập, chỉ mải rong chơi nay đây mai đó, cùng bạn vô loài làm điều vô ích, giao du trộm cắp, chẳng sợ lệ làng, chè rượu nghênh ngang, đánh cờ đánh bạc, gian tham tội ác, lụy đến tôn thân, nay Sở mai Tần, lên đồn xuống phủ, mẹ cha ủ rũ, khốn khổ vì con.
Nào con có biết, cha mẹ khổ đau, trăm não nghìn sầu, mùa Thu mùa Ðông, rét run bức bối chẳng nhìn sớm tối; ấp lạnh quạt nồng, chẳng viếng chẳng thăm, chẳng hầu chẳng hạ, mẹ cha già cả, hình vóc gầy còm, hổ mặt người con, dầy vò mắng nhiếc, mẹ cha hoặc góa, trơ trọi một mình, luống những buồn tanh, như người ngủ trọ, chiếc gối một phòng, năm canh vò-võ, mùa đông sương gió, rét mướt cơ hàn, trai gái các con, nào ai hỏi đến, đêm ngày thương khóc, tự thán tự thương !
Khi đem thức ăn, dâng lên cha mẹ, thì lại giữ kẽ, rằng ngượng e, sợ kẻ cười chê; ví đem quà bánh, cho vợ cho con, mặt dạn mày dầy, không hề xấu hổ, vợ con dặn bảo, phải đúng như lời cha mẹ hết hơi không hề hối cải .
Ðây là con gái khi chưa gả chồng, hãy còn ở chung, tỏ ra hiếu thảo; khi đã gã bán, về ở nhà người một ngày một lười thiết gì cha mẹ, những ngày giỗ tết, có đảo về qua, ví dù mẹ cha, có gì sơ ý, liền sinh giận dữ, tỏ vẻ oán hờn, chồng chửi nhơn nhơn, đành cam lòng chịu, khác họ khác làng, tình nghĩa keo sơn, hóa ra thâm trọng, mẹ cha máu mủ, thì lại sơ tình. Hoặc đi theo chồng, quê người đất khách, quận nọ tỉnh kia, cha mẹ xa lià. Làng không tưởng nhớ, chẳng viếng chẳng thăm, thư tín cũng không, tuyệt không tin tức, mẹ cha thương nhớ, rầu rĩ ruột gan, luống những bàng hoàng, sớm chiều mong mỏi công đức cha mẹ, vô lượng vô biên, con chẳng hiếu hiền, ở đời cũng lắm.
Khi ấy Ðại chúng, nghe Phật nói ra, công đức cha mẹ, cao tầy non Thái đều cùng đứng dậy, hoặc tự gieo mình, đập đầu lăn khóc, máu me trào trạt, lai láng cả nhà, chết ngất cả ra, hồi lâu mới tỉnh, mà nói lời nầy, khổ thay khổ thay ! đau lòng đứt ruột, lũ con ngày nay, tội ác ngập đầu, xưa có biết đâu, mờ như đêm tối ngày nay biết hối thì sự đã rồi đau đớn lòng tôi trót đà bội bạc, cúi xin chư Phật, soi xét kẻ phàm, phóng Ngọc hào quang, ra tay cứu vớt, làm sao báo được, ân đức mẹ cha .
Phật liền nói ra, đủ đầy tám giọng, bảo Ðại chúng rằng :
Bấy giờ Ðại chúng, nghe Phật nói rồi trong dạ bồi hồi ruột đau như cắt, hai hành nước mắt, tầm tả như mưa, mà bạch Phật rằng : con muốn đền ơn, công đức mẹ cha, cúi xin Phật đà, rủ lòng chỉ bảo ?
Ðức Phật liền bảo : Cặn kẽ mọi lời này chúng sinh ơi muốn đền ân mẹ, nhất là một lẽ, nên chép Kinh nầy, kính biếu gần xa, cho nhiều người tụng. Hai vì cha mẹ, đọc tụng Kinh này, chuyên cần chớ đoạn. Ba vì cha mẹ, sám hối làm chay. Bốn vì cha mẹ, cúng dường Tam Bảo, tùy sở dùng. Năm vì cha mẹ, trong sáu ngày Trai phải nên nhớ giữ. Sáu vì cha mẹ, thường hay bố thí.
Làm được như thế, thực là con hiếu, cứu được cha mẹ, siêu thăng Cưc Lạc, phúc đẳng Hà sa.
Phật bảo A-Nan, ở trên thế gian, những người bất hiếu, sau hết duyên trần, nguyên cái xác thân, chôn vùi dưới đất : còn phần Linh giác, là cái chân thân, phải vào Ðiạ Ngục, Chính ngục A-Tỳ, vuông rộng tứ vi tám ngàn cây số, bốn mặt có tường sắt, tường đồng, lửa cháy tứ tung, toàn dây thép điện, thường có lửa bén, cháy đỏ hồng hồng, bốc cháy tứ tung, thấy mà kinh sợ; hơn như thế nữa, sấm chớp đùng đùng, chó sắt rắn đồng, phun ra khói lửa, đốt cháy tội nhân.
Lại còn nước đồng đun sôi sùng sục, rót ngay vào miệng những kẻ tội nhân, vì tội bất hiếu, cãi giả mẹ cha, cam chịu cực hình, ở trong ngục ấy, gươm dao sào gậy, đâm chém suốt ngày, như hạt mưa bay, trên không rơi xuống, trải nghìn muôn kiếp, không phút nào nguôi hết hạn ấy rồi lại vào ngục khác; Ðầu đội chậu máu, xe sắt nghiến mình, mình mẩy chân tay, dập dừ tan nát, một ngày phải chết, tới nghìn vạn lần, khổ sở gian truân, vì chứng bất hiếu. Phật lại dạy rằng : ví có Thiện nam hay là Tín nữ, thật là hiếu tử, trả nghĩa mẹ cha, in Kinh nầy ra, biếu cho người tụng, in được một quyển, được một công đức, in được mười quyển, được mười công đức, in được trăm quyển, được trăm đức Phật, in được muôn quyển, được muôn đức Phật, phù hộ độ trì, lại tiếp hồn đi về phương Cực Lạc, đây là lời Phật, chớ có coi thường, Ðiạ ngục vấn vương, khó lòng thoát khỏi !
Bâý giờ A-Nan cùng chư Ðại chúng, Trời Rồng, Thần, Quỉ, Dạ Xoa, La Sát, người cùng phi nhân, được nghe Phật nói đều phát nguyện rằng :
Chúng con tận tâm, chí thành chí kính, dù trăm nghìn kiếp, thịt nát xương tan, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy. Thà rằng lấy kìm, cặp lưỡi rút ra, dài trăm do tuần, cho trâu sắt cày, máu chảy chan hòa, thành sông thành suối con thề chẳng trái lời Phật dạy răn.
Chúng con thề rằng: Thà lấy trăm nghìn vòng dao giáo mác, đâm chém thân này, nhỏ như vi trần, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Chúng con thề rằng: Thà lấy lưới sắt, quất chặt vào thân trăm nghìn muôn kiếp, chẳng tháo cho ra, cực khổ vô cùng, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạy.
Chúng con thề rằng: Thà đâm thà chém, thà mổ thà xả, thà xay thà giã, nhỏ như vi trần, đem cái xác thân nầy, làm nghìn muôn thứ, nào da nào thịt, nào gân nào xương, rơi rác ngoài đường, trong nhà, ngoài ngỏ; trải trăm nghìn kiếp, chịu khổ như thế, cũng chẳng dám quên lời chư Phật dạỵ
Khi ấy A-Nan, liền bạch Phật rằng : Lạy Ðức Thế Tôn, đây là kinh gì, lũ chúng con đây đều muốn tụng trì, có được hay chăng. Ðức Phật dạy rằng, chúng con nên biết :
Kinh nầy là Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân chi Kinh, tất cả chúng sinh thảy đều nên tụng. Khi ấy Ðại chúng nghe Phật nói rồi tin, kính phụng lành, lễ tạ mà lui.
Chấm dứt Kinh Phật Nói Kinh Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân
Kính lạy Ðại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân kinh.
Kính lạy Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính lạy chư Phật đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Ðức Ma Gia Ðại Thánh Mẫu.
Kính lạy Ngài Quang Mục Ðại Thánh Nữ.
Kính lạy Ngài Diệu Thiện cắt tay cứu Phụ Vương.
Kính lạy Ngài Mục Kiền Liên vào ngục cứu mẫu thân.
Kính lạy chư vị Bồ Tát đã đền ân cha mẹ.
Kính lạy Phật Từ Di mẫu, Kiều Ðàm Di đại Bồ Tát.
Kính lạy Thầy Cưu Ma La Thập dịch kinh này.
P/S: tháng âm lịch bạn nhé!
Tử vi tháng tránh sinh con năm 2015
A. CÁC THÁNG CẦN TRÁNH SINH CON:
1. Tháng BÁC BẠI, phạm HAO CON:
Sinh con trai hay gái trong tháng 3 Âm lịch trong năm Ất Mùi này sẽ phạm BÁC BẠI – HAO CON. Sau này dẫu có sinh nhiều thì cũng không dưỡng được bao nhiêu. Nếu tránh được thì nên tránh.
2. Tháng con Trai phá sản nhà Vợ:
Sinh con trai trong tháng 2 năm Mùi đều phạm phá hại gia sản của Cha Mẹ Vợ hoặc của Vợ.
3. Tháng con gái phá sản nhà Chồng:
Sinh con gái trong tháng 8 năm Mùi đều phạm phá hại gia sản của Cha Mẹ Chồng hoặc của Chồng. Có thể bạn không tin nhưng vẫn có việc cưới Dâu rình rang về gia đình lập tức gặp biến cố. Do đó, hãy cẩn thận chọn sinh Bé gái nhà mình vào thời khắc tốt hơn nếu bạn có thể.
4. Tháng CÔ THẦN – QUẢ TÚ:
Bé sinh nhằm tháng này phải chịu rắc rối, thay đổi nhiều tình yêu mà vẫn không có kết quả, phải khổ với tâm sầu. Nếu tránh được thì nên tránh. Nam nữ xem riêng.
Nam tuổi Mùi nếu sanh nhằm tháng 1 hoặc tháng 7 đều phạm CÔ THẦN
Nữ tuổi Mùi nếu sanh nhằm tháng 3 hoặc tháng 9 đều phạm QUẢ TÚ.
B. CÁC GIỜ CẦN TRÁNH:
Bé sinh năm Ất Mùi nếu sinh vào ban ngày sẽ tốt hơn sinh vào ban đêm. Ngoài ra, hãy đặc biệt cố gắng tránh sinh con nhằm các giờ bên dưới đây:
1. NAM phạm CÔ THẦN thê ly biệt
NỮ phùng QUẢ TÚ đọc phòng trung:
Nam nữ tuổi Mùi nếu sanh nhằm giờ Thân (15 – 17h) hoặc giờ Thìn (07 – 09) đều phạm CÔ THẦN, QUẢ TÚ: không có Vợ hoặc không có Chồng.
2. Giờ YỂU TƯỚNG:
Các Bé sanh nhằm giờ này đều phạm YỂU TƯỚNG, khó dưỡng đặng qua 13 tuổi:
Sanh tháng 1, 5 hoặc 9: nếu đúng vào giờ THÌN đều PHẠM YỂU TƯỚNG
Sanh tháng 2, 6 hoặc 10: nếu đúng vào giờ MÙI đều PHẠM YỂU TƯỚNG
Sanh tháng 3, 7 hoặc 11: nếu đúng vào giờ TỴ đều PHẠM YỂU TƯỚNG
Sanh tháng 4, 8 hoặc 12: nếu đúng vào giờ DẦN đều PHẠM YỂU TƯỚNG
3. Giờ TRỜI ĐÁNH:
Các Bé sanh năm Ất Mùi nhằm giờ Ngọ (11h – 13h) đều phạm TRỜI ĐÁNH, nuôi không đặng, nếu nuôi đặng lớn bị trời đánh.
4. Giờ kỵ CHA MẸ – LY BIỆT:
Các Bé sanh năm Ất Mùi nhằm giờ bên dưới đây đều kỵ CHA MẸ – LY BIỆT, khó nuôi đến lớn. Nếu nuôi đặng thì Cha Mẹ chịu cảnh biệt ly.
Sanh tháng 1 hoặc 7: nếu đúng vào giờ TỴ hoặc giờ HỢI đều phạm.
Sanh tháng 2 hoặc 8: nếu đúng vào giờ THÌN hoặc giờ TUẤT đều phạm.
Sanh tháng 3 hoặc 9: nếu đúng vào giờ MÃO hoặc giờ DẬU đều phạm.
Sanh tháng 4 hoặc 10: nếu đúng vào giờ DẦN hoặc giờ THÂN đều phạm.
Sanh tháng 5 hoặc 11: nếu đúng vào giờ SỬU hoặc giờ MÙI đều phạm.
Sanh tháng 6 hoặc 12: nếu đúng vào giờ TÝ hoặc giờ NGỌ đều phạm.
5. Giờ kỵ người thân, sống tha phương, nhiều bệnh:
Sanh tháng 1 nếu đúng vào giờ THÂN đều phạm.
Sanh tháng 2 nếu đúng vào giờ DẬU đều phạm.
Sanh tháng 3 nếu đúng vào giờ TUẤT đều phạm.
Sanh tháng 4 nếu đúng vào giờ HỢI đều phạm.
Sanh tháng 5 nếu đúng vào giờ TÝ đều phạm.
Sanh tháng 6 nếu đúng vào giờ SỬU đều phạm.
Sanh tháng 7 nếu đúng vào giờ DẦN đều phạm.
Sanh tháng 8 nếu đúng vào giờ MÃO đều phạm.
Sanh tháng 9 nếu đúng vào giờ THÌN đều phạm.
Sanh tháng 10 nếu đúng vào giờ TỴ đều phạm.
Sanh tháng 11 nếu đúng vào giờ NGỌ đều phạm.
Sanh tháng 12 nếu đúng vào giờ MÙI đều phạm.
-Tại sao khi chưa nhập quan, người ta luôn luôn thắp hương nến (nếu không có nến thì thắp ngọn đèn dầu) cho đến khi hạ huyệt không để tắt hương đèn?
-Tại sao hai bên hương án, phía gần kề áo quan, người ta đặt hai cây chuối con?
-Tại sao có tục dựng bó đuốc to ở giữa sân vào ban đêm trước lễ an táng (nếu để qua đêm), con cháu và thân nhân túc trực quanh linh cữu (lễ "Chúc thực" ban đêm, nghĩa là "lễ trồng bó đuốc"?)
-Tại sao có tục kiêng ngăn người nhà không được đứng cạnh thi hài mà khóc, tránh nhỏ nước mắt vào thi hài?
- Tại sao sau lễ nhập quan phải đốt lỗ hung (lỗ đào ở chính giữa giường người mới chết nằm khi chưa nhập quan. Chất đốt có thể dùng trấu, than , củi hoặc giẻ rách...).
-Tại sao lễ tang là việc buồn lại đốt pháo? (Tục này chỉ có ở thành phố đối với người già).
-Tại sao phải nhốt mèo khi nhà có người mới chết ?
-Tại sao khi người chết trong nhà, người ta phải trèo lên mái nhà dỡ một vài viên ngói, hoặc lá tranh (đối với nhà bịt nóc và ít cửa)?
Những câu hỏi trên cùng có chung một câu trả lời: Đó là kinh nghiệm dân gian,dùng phép thuật điều hoà khí âm dương, thu hút tà khí để phòng chống hơi lạnh và phòng xa hiện tượng "Quỷ nhập tràng". Xuất phát từ kinh nghiệm, dần dần bắt chước nhau trở thành phong tục.
Dùng khói lửa, ánh sáng mặt trời (đốt hương, nến, đèn, đuốc, than, trấu, dỡ mái nhà, mở rộng cửa, đào lỗ hung, đốt pháo...) để triệt tiêu hơi lạnh. Dùng bát cơm, quả trứng, cây chuối... để thu hút hơi lạnh (nếu bổ đôi quả trứng, có nhiều lòng đỏ đã trở nên xanh thẫm giống như những quả trứng dùng để đánh gió). Nhốt mèo để đề phòng mèo nhảy qua xác chết, kiêng khóc nhỏ nước mắt vào thi hài hoặc cắm cọc kim loại dưới giường người chết, dỡ mái nhà... là những thuật triệt tiêu luồng điện âm dương hút nhau.
Ngoài ra, những người đến dự lễ tang, nhất dự khâm liệm còn có những thuật khác để phòng chống hơi lạnh như ngậm gừng sống, uống nước lá nhót, ăn trầu và xông khói vỏ bưởi, bồ kết trước và sau khi đến lễ tang.