Tướng phụ nữ mắt đỏ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Chùa Anh Linh nằm ở thôn Viên, xóm 19, xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Anh Linh Tự do công chúa Túc Trinh bỏ tiền bạc ra xây dựng, ngày đêm chăm lo Phật đạo, giáo hóa chúng sinh, dạy dân cày cấy, lập làng Kẻ Noi (nay là xã Cổ Nhuế).
Để tưởng nhớ công ơn của Bà, nhân dân xã Cổ Nhuế thờ Bà làm Hậu phật tại chùa Anh Linh và Thiên Phúc. Các đền, miếu trong thôn thờ Bà, lấy tên là Tối Linh Từ và tôn Bà làm Thần Chủ. Năm 1993, chùa được xếp hạng di tích lịch sử nghệ thuật.
Tương truyền, sau chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất (năm Mậu Ngọ 1258), để phát triển sản xuất làm cho dân ấm no, quốc gia hưng thịnh, Vua Trần đã xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa chiêu tập dân phiêu tán để khai khẩn đất hoang, mở rộng vùng ven kinh thành Thăng Long. Theo chiếu chỉ, công chúa Túc Trinh, con gái vua Trần Nhân Tông, đã rời cung điện ra vùng phía tây bắc kinh thành Thăng Long. Công chúa bỏ tiền bạc phát chẩn, cấp vốn cho dân nghèo dựng nhà, vỡ đất cấy trồng làm ăn sinh sống, thành làng, thành xóm.
Sau khi lập làng Cổ Nhuế Viên, công chúa Túc Trinh đến làng An Nội, xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm để làm tiếp việc ân đức.
Sau này, ngày giỗ công chúa Túc Trinh được tổ chức ở cả hai làng An Hội và Cổ Nhuế. Đêm 30/7 âm lịch hàng năm, làm lễ mở cửa đền. Vào giờ Tý ngày mồng 1/8 âm lịch hàng năm, làm lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục do một vị bô lão trong làng đảm nhiệm, trang phục chỉnh tề, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Vị bô lão thay mặt cho cả dân làng làm việc ân đức với Chúa nên hết sức tuân thủ các điều kiêng kỵ: ăn chay một tháng, không ngủ chung với phụ nữ… Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Người nấu nước ngũ vị là đàn bà và cũng phải tuân thủ các điều kiêng cữ như vị bô lão. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế.
Sau khi mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới. Y phục cũ của Chúa Bà được người ta tranh nhau lấy phần đem về để ở bàn thờ tổ tiên với ý nghĩa: có phép mầu nhiệm của Chúa Bà, gia đình sẽ làm ăn hưng thịnh, tránh mọi điều xấu hoặc se thành sợi buộc vào cổ tay, chân hay đeo ở cổ cho trẻ con đi đêm không sợ ma quỷ, đêm ngủ không giật mình. Các bà già cũng lấy một miếng vải áo của Chúa Bà khâu ở vạt áo hoặc buộc vào tràng hạt để cầu mong sau này chết được Chúa Bà giúp sức chầu về cảnh tây phương cực lạc.
Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.
Sáng ngày mùng 1/8 âm lịch, cúng phật tại chùa Anh Linh, sau đó về đền Chúa làm lễ khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc.
Trong ngày giỗ Chúa, dân hai làng Cổ Nhuế và An Nội phải tuân thủ theo lệ: Không rước tượng Chúa đi viễn du, không đốt pháo từ ngày 25/7 – 2/8 âm lịch. Ngày giỗ Chúa toàn dân làm cỗ chay, ăn chay. Những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc… Ngoài ra, các gia đình, ngõ xóm nằm trên trục đường xã Cổ Nhuế – Chèm đều sắm hoa quả, vàng, hương, đèn nến, oản, phẩm, đặt lên một chiếc bàn con kê ngoài rìa đường, dâng lên đức Chúa Bà, cầu xin Chúa ban phúc cho gia đình, làng xóm khỏe mạnh, làm ăn hưng thịnh, vạn vật sinh sôi, nảy nở. Đêm ngày giỗ Chúa, tại đền có tổ chức hát chèo, diễn tuồng, múa lân, múa rồng, đọc và bình thơ rất sôi nổi.
Chùa Anh Linh có mặt bằng hình chữ “đinh”, tiền đường gồm 3 gian xây kiểu “tường hồi bít đốc”. Hai bộ vì gian giữa làm kiểu “giá chiêng, con nhị”, phân cốn nách là nhà tổ, một bên là nhà Mẫu.
Tượng Phật trong chùa đầy đủ, có phong cách nghệ thuật cuối thời Nguyễn. Chùa còn lưu giữ được tấm bia Cảnh Trị đời Lê 1664 và bia Tự Đức 12 1864. Chùa đã từng bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp và đã qua nhiều lần sửa chữa.
![]() |
![]() |
![]() |
Đường Trí Đạo trong lòng bàn chân| ► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Đối với Phật giáo, trong trăm thiện không có gì thiện bằng hiếu thảo, trong trăm ác không có gì ác bằng bất hiếu. Đạo hiếu là một trong những phẩm chất cơ bản nhất của con người, cần phải bồi dưỡng và thực hiện một cách chân tâm. Lời Phật dạy về cách báo hiếu là những điều mà ai ai cũng nên học.
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
1. Dọn dẹp phòng học gọn gàng
Theo phong thủy, một căn phòng bừa bộn chắc chắn sản sinh rất nhiều nguồn năng lượng tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tập trung của bạn trong suốt quá trình học tập. Thay vào đó, một căn phòng sạch sẽ, tổ chức tốt sẽ giúp bạn ổn định tinh thần, nhờ đó dễ tiếp thu kiến thức hơn.
![]() |
2. Chọn hướng đúng
Sau khi đã hoàn tất việc sắp xếp lại căn phòng, điều tiếp theo bạn cần làm là chọn hướng học tập cho thật đúng.
Các chuyên gia phong thủy cho rằng, hướng Đông, hướng Bắc và hướng Đông Bắc lúc nào cũng tràn đầy năng lượng, trong đó hướng Đông là phù hợp nhất cho việc học. Phòng học theo hướng Tây Bắc sẽ khiến bạn khó có thể tập trung trong một khoảng thời gian dài.
Hãy đặt bàn học theo hướng Nam, hướng Tây hoặc hướng Nam Bắc, trong đó hướng Nam và hướng Tây là tốt nhất. Bàn học nên có cửa sổ bên tay trái và gần cửa sổ nên có cây.
![]() |
Xương rồng và cây tre/trúc được tin rằng có thể bảo vệ bạn khỏi những nguồn năng lượng xấu.
Đừng bao giờ ngồi quay lưng lại phía cửa chính. Bàn học nên được thiết kế theo hình vuông hoặc hình chữ nhật.
Để gia tăng dòng chảy năng lượng tích cực, hãy đặt bức hình dòng nước sau ghế ngồi của bạn.
3. Trang trí
Hãy treo vài bản đồ và sử dụng màu xanh dương sáng, xanh lá cây, màu trắng và màu kem để trang trí phòng, kỵ sử dụng màu tối.
![]() |
Ánh sáng đóng vai trò quyết định trong phong thủy. Phòng học của bạn nên được chiếu sáng phù hợp. Nếu sử dụng đèn bàn, hãy đặt đèn theo hướng Đông Nam của bàn học.
Hạnh Thảo
![]() |
Tips chọn màu sắc đúng cách trong phong thủy Màu đỏ đậm, xanh nước biển hay trắng tinh khôi sẽ phù hợp với phòng khách nhà bạn? Phòng ngủ nên và không nên chọn màu nào? |
Những lời khuyên phong thủy nên áp dụng:
- Nên ngồi ở góc xa nhất tính từ cửa ra vào để có một vị trí 'uy quyền'.
- Nên ngồi quay lưng vào góc hoặc tường để luôn có quý nhân phù trợ. Nó đóng một vai trò như 'người che lưng', là chỗ dựa cho bạn qua mọi cơn sóng gió.
- Bạn có thể ngồi quay lưng vào cửa sổ nếu ở phía xa đối diện nên là một tòa nhà lớn. Nó sẽ như một ngọn núi sừng sững chắn đỡ cho bạn mọi hiểm nguy.

- Nên để máy tính ở phía Bắc hoặc Tây của văn phòng để kích thích sự sáng tạo. Đặt máy vi tính trong góc Đông Nam nếu bạn muốn có thêm nhiều tiền.
- Đặt bể cá hoặc đài phun nước nhỏ ở phía Đông, Bắc, hoặc Đông Nam trong phòng hay trên bàn làm việc sẽ giúp công việc kinh doanh được thuận lợi.
- Đặt két sắt ở góc phía Tây hoặc Tây Bắc sẽ giúp doanh nghiệp vừa làm ăn phát đạt mà luôn bình an, không gặp nhiều sóng gió.
- Nên có sự cân bằng tốt giữa âm và dương trong văn phòng. Ánh sáng và cân bằng màu sắc sáng tối, bề mặt mềm và cứng, kết cấu mịn và thô trong nội thất, các cánh cửa và cả sàn, tường.
- Lưu trữ và sắp xếp tất cả các tài liệu cẩn thận. Chúng đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai của công ty bạn.
Những kiêng kỵ phong thủy cần tránh:
- Không ngồi ở vị trí thẳng với các cánh cửa. Những luồng năng lượng tiêu cực sẽ 'xông' thẳng vào chỗ bạn ngồi.
- Không ngồi đối diện hoặc quay lưng vào cửa ra vào, đặc biệt là khi đang kinh doanh. Tiền bạc sẽ đến với bạn thông qua đường cửa ra vào, mà chẳng ai lại muốn quay lưng lại với tài vận cả.
- Không ngồi làm việc ở nơi nhìn thẳng ra hành lang hay nhìn thấy cầu thang, nhà kho, thang máy, thang cuốn hoặc nhà vệ sinh.
- Không đặt gương trong vặn phòng vì chúng có thể tích tụ năng lượng tiêu cực của bạn, của nhân viên, của các khách hàng.

Đây là quẻ Quan Âm thứ 71 được xây dựng trên điển cố: Văn Quân phỏng Tương Như hay Văn Quân thăm Tương Như.
Đây là quẻ trung bình thuộc cung Thìn. Nếu không thoát được những vẫn đề hiện tại, cảm thấy mọi con đường đều mờ mịt thì tốt nhất cứ thuận theo tự nhiên và thiên mệnh của bản thân. Khi đã ra khỏi vòng giam hãm, hành sự hãy cẩn thận trước tiên.
Bất xuất trùng trùng, sự do thiên mệnh, chấn phóng trung khai, thiết nghi cản thũ.
Trác Văn Quân là con gái Trác Vương Tôn rất giàu có ờ huyện Lâm Cùng đời Hán, xinh đẹp lại đa tài, yêu thích âm nhạc. Tư Mã Tương Như vốn là môn khách của Lương Hiếu Vương Lưu Vũ em trai của Hán cảnh Đế. Sau khi Lượng Hiếu Vương chết, Tương Như trở về quê cũ ờ Thành Đô, nhưng gia cảnh nghèo khó, không biết sống bằng gì. Trước kia, Tương Như rất thân thiết với huyện lệnh ờ Lâm Cùng là Vương Cát, bèn đến huyện Lâm Cùng làm khách, được Vương Cát tiếp đãi long trọng.
Có một lần Vương Cát nói với Tương Như rằng, ở huyện Lâm Cùng có nàng Trác Văn Quân dung mạo xinh đẹp khiến chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, nay đang ở góa tại nhà mẹ đẻ, kết duyên cùng nàng sẽ rất đẹp đôi. Tư Mã Tương Như nghe xong, chỉ cười mà lắc đầu.
Cha của Trác Văn Quân cũng thích kết giao với những người hiển quý và văn nhân mặc khách, thường xuyên mở tiệc chiêu đãi. Một hôm, ông lại mở tiệc chiêu đãi tân khách. Trác Văn Quân nghe nói Tư Mã Tương Như cũng đến, bất giác động lòng, liền trốn sau bức mành quan sát. Tư Mã Tương Như là văn nhân nổi tiếng đương thời, lần này Trác Vương Tôn quả thực có mời Tương Như, cùng với nhiều danh nhân khác và quan viên trong huyện.
Tiệc rượu đến lúc cao trào, mọi người đều rất hứng khởi. Vương Cát nói: “Mọi người từ lâu đã nghe danh Tư Mã Tương Như có tài thơ phú, kỳ thực Tương Như còn có tài đàn hát, nay gặp dịp tốt cảnh đẹp, sao không mời Tương Như tiên sinh đàn một khúc nhạc?” Mọi người nghe vậy, đồng thanh hưởng ứng. Tư Mã Tương Như không thoái thác được, liền cầm lấy cây đàn của chủ nhân, đàn thử một khúc ngắn. Tương Như cũng biết rằng còn có một người đang nghe trộm, đó chính là Trác Văn Quân. Vì thế Tương Như trổ hết tài nghệ, tấu lên khúc nhạc “Phượng cầu hoàng” rung động lòng người để thể hiện tình cảm mến mộ của mình. Lời của khúc nhạc đó như sau:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương, Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng
Thời vị ngộ hề vô sở tương, Hà ngộ kim hề thăng tư đường!
Hữu diễm thục nữ tại khuê phường, Thất nhĩ nhân hà độc ngã trường.
Hờ duyên giao cảnh vi uyên ương, Hồ hiệt cương hề cộng ao tường.
Hành: HỏaLoại: Thiện TinhĐặc Tính: May mắn, vui vẻ, tăng tài lộc, cưới gả, sinh con, thi cử đỗ đạt
Phụ tinh. Sao thứ 8 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ. Phân loại theo tính chất là Thiện Tinh.
Ý Nghĩa Hỷ Thần Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người có lòng tốt, vui tính.
Ý Nghĩa Hỷ Thần Với Các Sao Khác:
| ► ## cập nhật thông tin Tử vi hàng ngày, Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất gửi tới bạn đọc |
![]() |
![]() |
Lão Tử nói: “Hợp bão chi mộc, sinh vu hào mạt, cửu tầng chi dài, khởi vu lũy thổ, thiên lý chi hành, thủy vu túc hạ”. Chân tuy ở dưới cùng của thân thể nhưng khả năng chống đố lớn nhất, có thể giúp chúng ta đội trời đạp đất. Do đó, xem bói tướng thuật Trung Quốc truyền thông cũng chú trọng tới đặc trưng của bộ phận này để đoán vận thế.
Tương truyền, gian thần đời Tống là Tần Cối có chân dài. Một nhà xem bói tướng pháp nhìn thấy Tần Cối liền nói: “Người này phá nước hại dân, e thiên hạ đều chịu họa, nhiều quân tướng chịu chết dưới tay ông ta”, Về sau lời nói của nhà tướng pháp quả nhiên ứng nghiệm.

Thông thường mà nói, chân nên dài, đoan chính, rộng, nhỏ, mềm mại mới là tướng phú quý. Chân lệch, gầy, hẹp ngang, thô cứng là tướng bần tiện. Chân tuy to rộng nhưng lại gầy và mỏng cả đời bần tiện. Tuy chân mập dày nhưng rộng và ngắn thì cả đời cùng khổ. Người có gót chân hồng thì con cháu đươc nhờ phúc. Gót chân bằng phẳng thì ngu đần, nghèo khổ. Ngón chân nhỏ dài thì lương thiện trung thành. Ngón chân đoan chính và đều thì tính tình hào phóng. Chân mập và vuông vắn thì có nhiều gia tài. Tóm lại, chân quý nhân nên nhỏ và dày, chân tiện nhân thì mỏng và to.
Xem bói tướng pháp thường cho rằng, gan bàn chân không có đường vân thì sự sang hèn khác biệt rất lớn. Gan bàn chân không có đường vân là tướng ngu đần, hạ tiện. Gan bàn chân mềm mịn và nhiều đường vân là phú quý. Nếu lòng bàn chân thô cứng và ít đường vân là bần cùng. Tướng thuật cũng phân loại đường vân dưới chân, đồng thời gắn cho nó những ngụ ý khác nhau. Dưới chân có vân rùa thì phải gánh vác trọng trách, dưới chân có vân hình chim thì giữ chức quan trọng
Dưới chân có vân như thêu gấm thì nhiều lộc. Gan bàn chân có đường vân như hình cây thì nhiều gia tài, có vân như hình chiếc kéo thì nhiều của cải. Ngược lại, nếu 10 ngón chân không có đường vân chủ về người phá hại gia tài.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Hầu như gia đình nào cũng có giá sách, nhưng không phải ai cũng chú ý đến cách sắp xếp, bài trí sao cho chuẩn phong thủy, bởi kiến thức về giá sách phong thủy còn hạn hẹp. Một số gợi ý dưới đây sẽ giúp bạn giải quyết được vấn đề này trong nháy mắt. Trên thực tế, trong mỗi gia đình đều có giá sách. Không gian phù hợp nhất để bày giá sách cần rộng rãi, nhưng đa phần chỗ ở hiện tại không đáp ứng được. Diện tích ở đã khiêm tốn, nơi đặt giá sách lại càng bị hạn chế. Thông thường, giá sách được kết hợp kê trong phòng khách hoặc phòng ngủ. Giá sách là nơi chứa đựng kho tàng tri thức. Quanh nó tồn tại nguồn từ trường tích cực, có thể hút nhiều may mắn cho gia chủ nếu biết bài trí đúng cách, chuẩn phong thủy. Dưới đây là một số lưu ý về bài trí giá sách chuẩn phong thủy ai cũng nên nằm lòng để tránh điều phạm kỵ.
![]() |
Giá sách phong thủy nên xếp theo Bát quái đồ |
![]() |
Cách đặt giá sách theo phong thủy sẽ mang tới nhiều may mắn về công danh, sự nghiệp |
- Hãy ăn tối trong những chiếc đĩa đen hoặc tối màu. Màu sắc của đĩa làm giảm sự thèm ăn của bạn từ trong tiềm thức. Hãy ăn tối bằng đĩa tối màu và ăn trưa, ăn sáng bằng đĩa sáng màu.
- Dùng khăn trải bàn tối màu vào buổi tối. Đặt nó lên bàn sau bữa trưa nhằm kiềm chế sự thèm ăn của bạn trong khoảng thời gian còn lại trong ngày. Thông thường, các quán ăn hay sử dụng khăn trải bàn đỏ để kích thích cảm giác ngon miệng.
|
- Tập thể dục với bộ đồ sáng sủa. Màu sắc tươi sáng kích thích hoạt động trong khi màu tối làm cơ thể mệt mỏi.
- Tại phía Nam, đặt 1 bức tranh trong đó khuôn mặt bạn được gắn với 1 thân hình bạn hằng ao ước. Ghi ngày bạn đạt được điều đó. Tuy nhiên, hãy thực tế và an toàn. Chỉ nên giảm khoảng 0,5kg/tuần để còn duy trì trọng lượng.
- Thức ăn nên đa dạng, màu sắc tươi sáng nên chiếm ưu thế, màu sắc trung tính không nên quá 1/3.
- Đặt 1 chiếc gương trên tủ lạnh để ngăn cản bạn mở tủ quá nhiều. Không nên ăn trước khi đi ngủ 4 tiếng.
- Loại bỏ những thực phẩm không mang năng lượng tốt.
- Giữ cho nhà cửa không bừa bộn. Hãy vứt những thứ khiến bạn liên tưởng đến tăng cân. Hoặc những bộ đồ quá bó sát khiến bạn mệt mỏi và mất phương hướng. Hãy đảm bảo khu trung tâm của căn nhà không bừa bộn.
- Dọn dẹp sạch sẽ nhà bếp. Tủ bếp không nên để tràn ngập đồ ăn và các đồ làm bếp. Đặt 1 bát hoa quả tươi lên bàn đại diện cho sức sống và sự khỏe mạnh.
- Hãy thêm 1 chút năng lượng dương vào trong nhà bằng cách bật nhạc Latin hoặc dùng hương cam quýt. Vảy vài giọt tinh dầu chanh vào bộ khuếch tán bằng nước suối.
Tóm lại, chương trình giảm cân của bạn cần có sự phối hợp của cả tinh thần, thể chất và cảm xúc. Hãy sử dụng các biện pháp phong thủy để hỗ trợ cuộc chiến giảm cân này. Hãy giành chiến thắng bằng sức mạnh của năng lượng vô hình.
(Theo Suite101)
|
Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt. Đám cưới ngày xưa phải có phù đâu, không định lệ, và cũng không có danh từ "Phù rể".
Đám cưới ngày nay, nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toàn là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngày nay chàng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra nhiều đám cưới sau nên phải chăm lo đào tạo những cô dâu, chú rể tương lai.
Giáo sư Lê Trung Hưng
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi "Mười Kinh nghiệm" được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm:
1 - Sinh bất phùng thời:
Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).
Thí dụ: Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:
2 - Đồng bệnh tương lân:
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ: tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết... ). Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau:
Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của "Đồng Mệnh tương lân": Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.
3- Đời là bể khổ: Cung Ách
Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương.
- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung, là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói: "Thiện căn ở tại lòng ta".
- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.
- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ: Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)
Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ: hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách:
- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.
- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn...
4 - Công ơn Tổ-Phụ:
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là: nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú: "Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp". Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống, chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).
Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa: giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên "may mắn" còn phong phú, còn tiềm tàng …
Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu, được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời "Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí"
Ví dụ: Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi "Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa" là một đời có nghĩa "Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số". Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.
5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương: Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng "mày râu" (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều!) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao? Xin thưa ngay rằng: Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú:
– Người trần thế muốn nhàn sao được?
Nói dễ hiểu hơn: Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa "ký sinh nhân"?
6 - Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là: Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào:
– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả oán:
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ: Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.
– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau: Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ, đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ: Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.
7 - Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao: Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng:
– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ
8 - Sớm đầu tối đánh
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện:
– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.
– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế!). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau: Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).
– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu "họa vô đơn chí", nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời, bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).
9 - Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.
10 - Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:
- Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.
- Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ
- Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.
Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)
TÂN TỴ: BẠCH LẠP KIM
Trong tử vi Tân Tỵ là rắn trong cỏ, thông minh, xinh đẹp, đức cao vọng trọng, có tấm lòng từ bi, có tay nghề, xa nhà chủ về phát đạt.
Người sinh vào mùa thu có cơ hội xuất ngoại.
Người sinh vào mùa đông thường lười biếng, e rằng khó trở thành người xuất sắc.

Bạch lạp Kim là mảnh ngọc ở trên núi, là vật báu nơi cửa sông, ỏ chỗ ánh sáng mặt trời và mặt Trăng giao cắt, khí âm dương ngưng tụ, sáng trong suốt là màu sắc chính của Kim.
Kim tự sinh, tinh thần sung mãn, thể khí đầy đủ, sáng mãnh liệt mà không mất đi. Kỵ Bính Dần Lư trung Hỏa, Ât Tỵ Phúc đăng Hỏa, Mậu Ngọ Thiên thượng Hỏa.
Tân Tỵ Bạch lạp Kim chủ về đường học vấn, có đức anh minh. Người sinh vào mùa thu và mùa đông phúc lộc vẹn toàn. Ngưòi sinh vào mùa xuân và mùa hạ được 7 phần xấu, 3 phần tốt. Đắc quý cách chủ về học hành giỏi giang, bản thân được thanh quý, thường có lòng cứu giúp người khác.
Dụng cụ chưa thành, ưa gặp Hỏa, ngày ngày rèn giũa.
Kim này ưa Hỏa ưa Thủy. Thủy ưa Giáp Dần, Ất Mão Đại khê Thủy; Giáp Thân, Ât Dậu Tỉnh tuyền Thủy. Nếu như có Quý Tỵ Trường lưu Thủy chủ về mệnh không sang quý cũng giàu có.
Nạp âm nếu như có Giáp Tý, At Sửu Hải trung Kim; Giáp Ngọ, At Mùi Sa trung Kim, chủ về cả đời bình lặng giống như cây cỏ.
Tân quý tại Dần, Địa chi của các trụ khác ưa Dần, đáng tiếc Dần, Tỵ phạm hình. Kỵ nhất Địa chi của các trụ khác phạm hình xung, ví dụ như Dần, Thân, Hợi,| là phá cách.
Tân lộc tại Dậu, Tân Tỵ Không vong cũng ở Dậu. Mệnh này là người có kinh tế thiếu thốn, nên làm công nhân viên chức hoặc tâp trung học môt ngành chuyên môn. Địa chi của ngũ trụ có Tuất có thể học xem mệnh, giáo viên.
Trong tử vi Tân tỵ gặp năm Tỵ, năm Hợi, trong nhà không yên ổn, nếu không thương hại đến bản thân cũng thương hại đến người nhà.
Bạn đời không nên lấy người sinh năm Bính, Đinh. Nên tìm người sinh năm Giáp, Ất.
Tân Tỵ Bạch lạp Kim gặp Quý Dậu Kiếm phong Kim, chủ phú quý, hơn nữa, lộc quý thích đạp, phú quý dài lâu. Kim rỗng thì kêu, nên tập trung nghiên cứu học thuật, có thể nổi tiếng.
Tương truyền Vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân, sau khi cùng cha là Lý Uyên bình định thiên hạ xây dựng nên triều Đường 617 – 907, khi Lý Uyên lớn tuổi truyền ngôi lại cho Lý Thế Dân, tức là Thái Tông Hoàng đế.
Trong suốt thời kỳ xây dựng cơ nghiệp, đánh dẹp bốn phương bình định thiên hạ, dù là người nhân nghĩa nhưng ông cũng giết không ít người. Đêm ngủ ông thường bị ám ảnh bởi linh hồn của những người đã chết. Khi thì nằm mơ, khi thì bị quấy nhiễu, trêu ghẹo khiến ông hoảng sợ, lo âu và mất ngủ.
Trước tình hình đó hai đại tướng Tần Quỳnh và Uý Trì Cung xin tình nguyện canh gác, khi hai ông canh gác về đêm thì quả nhiên tướng tinh của hai ông có khả năng trấn áp bách linh, nên vua được yên giấc, không bị ám ảnh và các linh đó quấy rối, dọa nạt, phiền nhiều nữa.

Tuy là như thế, việc canh gác về đêm rất mệt mỏi. Mà hai tướng này là là người phàm, thân thể bằng da thịt, nên chẳng mấy bữa là hai tướng ấy lâm vào tình trạng thiếu ngủ, suy nhược, mệt mỏi. Là một vị minh quân, rất thương yêu tướng sỹ dưới quyền nên Đường Thái Tông nghĩ ra một cách để khắc phục tình trạng đó. Ông sai thợ mộc tạc hai pho tượng bằng gỗ cây đào. Loại cây này theo quan niệm của người Hoa được ví như vị quan tốt, có tài đức. Không chỉ có vậy nó còn có thể trấn quỷ, trừ tà. Từ khi tạc xong pho tượng, mặc áo giáp, cầm binh khí và đặt ở trước cửa y như hai người canh gác thật thì những điều kinh hãi quái dị của vua trong khi ngủ không còn nữa.
Từ đó người Hoa dùng tượng gỗ cây đào, hay mảnh gỗ đào dán bùa, có tên các ông được đặt ở trước cửa nhà. Việc làm này có tác dụng xua tà đuổi quỷ, bảo vệ sự yên bình cho con người trước các thế lực vô hình mang ác tâm tà ý.
Tần Quỳnh và Úy Trì Cung lập được nhiều chiến công trong trận mạc và trong công cuộc xây dựng nền trị an của đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa nên được phong chức tước, bổng lộc. Tên tuổi hai ông lưu truyền trong sử sách, là đề tài để các nhà nghệ thuật xây dựng hình tượng, sáng tác trong các tác phẩm của mình. Với nhân dân, hai ông còn được xem là thần bảo vệ, che chở trước những thế lực vô hình hắc ám.
Chuyện xưa, nhưng có nhiều người chưa biết. Nay chép lại để tỏ lòng biết ơn và thành kính.
![]() |
| Ảnh minh họa |
| ► Xem phong thủy số điện thoại theo tuổi theo công cụ luận giải khoa học |
Dù chỉ gặp thoáng qua trên đường hay chỉ nhìn nhau trong giây lát cũng có thể là đã phải mất cả ngàn năm chờ đợi trong nhiều kiếp trước. Hết thảy đều là duyên. Vậy nên hãy kết thiện duyên trong kiếp này.
Có một cô gái xinh đẹp, đa tài, sinh ra trong một gia đình giàu có. Tuy nhiên các ông mối, bà mối đều phải lắc đầu ngán ngẩm, bởi cô gái vẫn chưa gặp được người tình trong mộng của mình.
Cho đến một ngày, cô đến vãn cảnh chùa để tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn và gặp một người thanh niên. Ngay trong giây phút đó cô biết rằng đó chính là người mà cô chờ đợi bao năm qua. Đáng tiếc là người đến chùa quá đông, khiến cô gái chỉ còn cách đứng một chỗ mà nhìn người thanh niên cho đến khi bóng anh xa dần.

Hai năm sau, cô không ngừng đi khắp nơi tìm kiếm người tình trong mộng của mình, nhưng kết quả chỉ khiến cô thất vọng.
Cô gái ngày nào cũng thành tâm cầu xin cho cô được gặp lại người thanh niên đó.
Sự thành tâm của cô gái đã đánh động đến một tiên nhân.
Tiên nhân nói: “Con có muốn nhìn lại người thanh niên đó không?”
Cô gái trả lời: “Có ạ, con chỉ muốn nhìn anh ấy một lần nữa”.
Vị tiên nhân nói: “Con có nguyện vì điều đó mà từ bỏ tất cả, bao gồm cả người thân và cuộc sống sung túc này không”.
Cô gái trả lời: “Con có thể từ bỏ”.
Vị tiên nhân nói: “Con phải chờ đợi gian khổ 500 năm, mới có thể gặp mặt anh ta 1 lần. Con không ân hận chứ?”
Cô gái trả lời: “Con không ân hận”.
Cô gái biến thành tảng đá, chờ đợi 500 năm
Cô gái biến thành một tảng đá lớn tại một nơi hoang vu, chờ đợi 400 năm trong nắng mưa, rét buốt… Nỗi khổ không gì tả xiết, nhưng những thứ đó không làm lay động trái tim cô, cô gái chỉ thấy khổ sở vì hơn 400 năm qua mà vẫn chưa nhìn thấy người thanh niên đó.
Vào năm cuối cùng, một người thợ đá phát hiện ra tảng to lớn này, họ đã mang nó về để xây cầu. Và cô đã được dùng để làm lan can cầu.
Đúng vào ngày cây cầu hoàn thành, cô gái đã nhìn thấy người thanh niên mà cô hằng chờ đợi 500 năm.
Người thanh niên bước đi vội vã, dường như anh đang có việc bận. Tất nhiên anh không hề để ý đến chiếc lan can đá đang chăm chú nhìn theo anh.
Bóng dáng người thanh niên lại một lần nữa biến mất trong ánh mắt tiếc nuối của cô gái. Tiên nhân lại xuất hiện.
Tiên nhân nói: “Con đã mãn nguyên chưa?”
Cô gái trả lời: “Không ạ, tại sao con chỉ là chiếc lan can? Nếu con được lát ở giữa đường thì con đã có thể gặp anh ấy, con có thể chạm vào anh ấy”.
Tiên nhân lại nói: “Con muốn chạm vào anh ấy, vậy con phải chờ đợi thêm 500 năm”.
Cô gái trả lời: “Con đồng ý”.
Tiên nhân nói: “Chịu rất nhiều tội khổ như vậy, con có ân hận không?”
Cô gái trả lời: “Con không ân hận”.
Cô gái biến thành một cây cổ thụ bên đường, hàng ngày đều có rất nhiều người qua lại. Ngày nào cô gái cũng trông ngóng người thanh niên đó. Ngày lại qua ngày tâm cô cũng dần bình tĩnh trở lại, cũng giống như lần trước, cô biết rằng chưa tròn 500 năm thì người đó sẽ không xuất hiện.
tình yêu, thiện duyên, ngàn năm, luân hồi, Kiếp trước, gặp nhau, duyên phận, chó đói, Bài chọn lọc,
Vậy là, cô gái nguyện làm cây cổ thụ chờ đợi tiếp 500 năm để được gặp người trong mộng. (Ảnh: Internet)
Vào ngày cuối cùng của 500 năm, cô gái biết chàng trai sẽ đến, nhưng tâm cô không còn bị kích động nữa.
Người thanh niên đó đã đến, anh vẫn mặc quần áo màu trắng mà anh thích, khuôn mặt vẫn rất khôi ngô tuấn tú.
Lần này người thanh niên không vội vã như lần trước. Trời hôm đó rất nóng, anh đã nhìn thấy chiếc cây cổ thụ và muốn nghỉ chân một lát. Anh tiến đến chiếc cây, dựa lưng vào thân cây, mắt nhắm khẽ và anh thiếp đi lúc nào không biết.
Cô gái đã được chạm vào anh, lúc này anh đã ở ngay bên cạnh cô gái, nhưng cô không thể nói cho anh biết, cô đã phải đợi 1000 chỉ để có được những giây phút ngắn ngủi này. Cô chỉ có thể chụm những tán lá lại để che nắng cho anh.
Người thanh niên tỉnh dậy, phủi bụi trên quần áo và chuẩn bị rời đi. Anh nhìn chiếc cây cổ thụ, lấy tạy vỗ nhẹ lên thân cây, tỏ ý cảm ơn vì đã mang đến bóng mát cho anh.
Cô gái lại một lần nữa nhìn anh cho đến khi bóng anh khuất dần.
Tiên nhân lại xuất hiện.
Tiên nhân nói: “Con có phải vẫn muốn làm vợ anh ta? Vậy con phải chờ đợi …”
Cô gái ngắt lời tiên nhân và nói: “Con rất muốn, nhưng không cần nữa, như thế này đã tốt lắm rồi. Con yêu anh ấy, nhưng không nhất định phải làm vợ anh ấy. Vợ của anh ấy có phải cũng phải chịu khổ như con không?”
Tiên nhân khẽ gật đầu.
Cô gái mỉm cười và nói: “Con cũng có thể làm được, nhưng giờ không cần nữa”.
Cô gái phát hiện thấy tiên nhân có vẻ như đang thở dài. Cô gái tự hỏi, “Tiên nhân cũng có tâm tư gì ư?”
Tiên nhân cười và nói: “Như thế này cũng tốt, anh ta cũng đỡ phải chờ đợi 1 ngàn năm nữa. Anh ta vì muốn nhìn con 1 lần mà đã phải chờ đợi trong gian khổ 2 ngàn năm rồi”.
Chỉ vì một ánh mắt mà phải chờ đợi 500 năm, chỉ vì kiếp này có thể vai kề vai trong giây lát đã phải đổi lấy cả ngàn năm chờ đợi. Gặp nhau đã là có duyên, kiếp này có thể nên duyên vợ chồng không biết chúng ta đã phải đợi chờ bao nhiêu năm.
Vì vậy, hãy đối xử tốt với bản thân mình, đối xử tốt với người bên cạnh mình, trân quý những gì chúng ta đang có. Có như vậy thì thiện duyên của kiếp này mới mang đến cho chúng ta phúc báo.
Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.
Câu nói nổi tiếng: “Bạn bè như chân tay, vợ con như quần áo” chính là câu nói từ miệng của Lưu Bị mà ra. Có thể nói, trong mắt Lưu Bị, vợ con chẳng qua là một thứ đồ vật tùy lúc có thể mặc vào cởi ra mà thôi… Lưu Bị tự là Huyền Đức, người quận Trác, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, hậu duệ một nhánh xa của hoàng tộc nhà Đông Hán. Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế.
Từ nhỏ, nhà nghèo, sau khi lớn lên gia nhập quân đội triều đình trấn áp khởi nghĩa Khăn vàng. Sau đó, nhờ sự giúp sức của Gia Cát Lượng, Lưu Bị hợp lực cùng Tôn Quyền đánh bại quân Tào Tháo ở Xích Bích, chiếm được Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung. Năm 221, Bị xưng đế, định đô ở Thành Đô. Một năm sau đó, trong trận chiến Ngô Thục, quân Bị thua trận, không lâu sau đó, Bị chết.
Lưu Bị là người huyện Trác, quận Trác, tự xưng là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con của Hán Cảnh đế. Lưu Bị liên tục nói về mình như vậy, cứ gặp người là nói vậy, sử sách cũng cứ như vậy mà ghi về Bị. Còn về chuyện có thực hay không thì chẳng có ai biết. Những người ưa thích “Tam Quốc diễn nghĩa” đều nghe rất quen câu này của Lưu Bị: “Tại hạ Lưu Bị, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”. Thực tế, chẳng có ai muốn hỏi Lưu Bị là hậu duệ, con cháu của ai, vì vậy, cách nói đó của Lưu Bị quả thực rất thừa và vô duyên.
Tuy nhiên, đi đâu Lưu Bị cũng chỉ có một cách nói như vậy. Điều này chứng tỏ, xuất thân nghèo khổ đã khiến Lưu Bị phải đau đầu rất nhiều. Lưu Bị từ nhỏ đã mồ côi cha, cùng mẹ đan chiếu bán để sống qua ngày. Bên cạnh căn lều cỏ của mẹ con Lưu Bị ở có một cây dâu, nhìn từ xa trông giống như một chiếc xe có lọng che.
Những người khách đi qua đây nhìn thấy hình dáng của cái cây này đều lấy làm kỳ lạ, nói rằng ở đây hẳn có quý nhân. Khi Lưu Bị chơi với chúng bạn ở dưới gốc cây nói: “Sau này ta sẽ đi một chiếc xe sang trọng như vậy”. Thời bấy giờ, xe có lọng là loại xe dành cho hoàng đế, vì vậy, chú của Lưu Bị là Lưu Tử Kính mới quát Lưu Bị rằng: “Mày ăn nói lung tung như vậy định hại chết cả gia đình chúng ta hay sao?”. Từ nhỏ, Lưu Bị đã không thích đọc sách, học hành cả ngày chỉ thích chơi với chó, ngựa, đàn hát và mặc quần áo đẹp.
Lưu Bị cao 7 thước 5 tấc (hơn 2 mét), tay dài quá đầu gối, ngoảnh đầu lại có thể nhìn thấy tai của mình, không thích nói, vui buồn không ai hay. Lưu Bị là người thích kết giao với những kẻ hào hiệp. Vì vậy, Trương Thế Bình, Tô Song Kha, các thương nhân nổi tiếng ở Trung Sơn đều bị kẻ “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương” cuốn hút, cho rằng ông ta là kẻ không hề tầm thường nên đã cung cấp Lưu Bị không ít tiền bạc.
Với số tiền của được cung cấp, Lưu Bị đã mua một đôi binh mã bắt đầu thực hiện kế hoạch tranh đoạt thiên hạ của mình. Thời đại Tam Quốc là thời đại của những kẻ gian hùng. Tuy nhiên, khác với Tào Tháo và Tôn Quyền có sẵn một cơ sở vững chắc do thế hệ trước để lại, Lưu Bị dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng. Tất cả gia sản của Lưu Bị chỉ là cái danh “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”.
Lưu Bị không phải là một kẻ háo sắc đến cuồng loạn, do vậy trong sử sách rất ít nói đến chuyện tình ái của ông ta. Tuy nhiên, Mạnh Tử có nói: “Thực, sắc, tính dã”, nghĩa là chuyện ham muốn ăn uống và tình dục là bản năng của con người. Lưu Bị cũng không phải ngoại lệ và chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
Những người thích Tam Quốc hẳn ai cũng nhận thấy rằng, Lưu Bị có một đặc điểm rất xấu đó là đánh được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao Tổ Lưu Bang có sống dậy cũng phải chấp nhận là “hậu sinh khả úy”.
Trong cả sử sách lẫn “Tam Quốc diễn nghĩa” có thể thống kê được ít nhất 4 lần Lưu Bị có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình. Lần thứ nhất là vào năm Kiến An thứ nhất, khi đó Lưu Bị vừa tiếp nhận ấn soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tiên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…” Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phì còn bản thân mình thì đem quân chống lại Viên Thuật. Kết quả Tào Tháo cấu kết với Lã Bố tấn công Hạ Phì, “Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”.
Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, “Bố mới thả vợ con (Lưu Bị) về”. Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục.
Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù. Kết quả là Lưu Hoàng thúc không chịu thua kém ai lại bị bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận “lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”.
Cuối cùng chính Tào Tháo phải thân chinh đánh Lã Bố. Sách “Tam Quốc chí” chép: “Tào công tự mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phì, bắt sống được Bố”. Chỉ tới lúc này, Lưu Bị mới có thể đem vợ con về. Đó là lần thứ hai. Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cớ Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phì vốn đã thuộc về Tào Tháo.
Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.
Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không.
Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ con tiên chủ”. Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản, Lưu Bị “bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử liệu không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này. Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần.
Truy nguyên nguồn gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Điều đáng nói là, mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận như vậy. Nhưng cách mà Lưu Bị đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn không thể lấy lý do “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” để biện minh được. Bởi lẽ, nếu không giữ được cái nhỏ thì chắc gì cái lớn đã giữ được.
Điều đáng nói là hành động bỏ vợ bỏ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị hoàn toàn trái ngược với hành động hy sinh tính mạng để cứu con của Mi phu nhân, dù đứa con được cứu hoàn toàn không phải là con của bà ta. Thực tế, chuyện này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng vây”. Khi đó, Quan Công dẫn binh vào Hạ Phì, thấy nhân dân yên ổn, liền đi vào phủ tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói Quan Công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy.
Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: “Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn.
Tào Tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan Công đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi”.
Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có cách”. Hai phu nhân nói: “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”. Đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân là sản phẩm điển hình của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi” và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một dạng ký hiệu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.
Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc. Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của “Tam quốc diễn nghĩa”, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu thiếu chủ.
Khi đó, quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó, người phụ nữ này nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.
Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải do mình sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Một người phụ nữ không mảy may nghĩ đến tính mạng của bản thân để bảo vệ đứa con của người phụ nữ khác, điều này có lẽ chính là nguyên nhân đã khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được tiểu chủ nhân.
Kết thúc hồi này, La Quán Trung đã đặc biệt ca ngợi Mi phu nhân rằng: “Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này”. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả không khỏi cảm thấy xúc động.
Một người phụ nữ vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh khiến cho nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng. So với hành động của Mi phu nhân, việc bỏ vợ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị sao có thể nói là “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” được?
Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều qua đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu.
Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp bạo bệnh mất ở tuổi 24.
Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi dạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc nào. Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn.
Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ dưới ánh trăng vậy. Ở Hà Nam có người muốn lấy lòng Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người ngọc ở bên.
Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc.
Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: “Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc. Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân.
Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là “phú quý nhờ con” mà thôi. Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính thất nhưng khi Lưu Bị làm Hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa.
Tam Quốc chí của Trần Thọ cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên chủ). Có thể nói rằng, Mi phu nhân lúc còn sống thì gian khổ, gặp hết kiếp nạn này tới kiếp nạn khác khi chết lại im hơi lặng tiếng.
Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: “Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách, có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Nhiều người cho rằng, câu nói này thể hiện khí phách anh hùng, hoài bão kinh bang tế thế của Lưu Bị. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng điều này chỉ thể hiện sự coi thường của Lưu Bị đối với vợ con mình.
Với Lưu Bị, vợ con chỉ giống như đồ vật, tùy lúc, tùy nơi có thể thay được. Chính vì thế, trong cuộc đời mình, Lưu Bị rất nhiều lần bỏ vợ con chạy thoát thân và cũng lấy rất nhiều vợ. Trước khi lấy Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị đã trải qua nhiều đời vợ. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh loạn lạc, vợ của Lưu Bị hoặc chết vì bệnh, hoặc chết vì chiến loạn nên dù là vợ thứ nhưng Cam phu nhân được Lưu Bị giao cho nắm quản mọi việc trong gia đình.
Sau này, ngoài Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị còn lấy hai người nữa làm vợ. Một người chính là em gái của Tôn Quyền, sử gọi là Tôn phu nhân. Người còn lại chính là người được Lưu Bị phong làm Hoàng hậu, Ngô thị. Hôn sự mang màu sắc chính trị này đã được rất nhiều tài liệu nhắc tới. Tuy nhiên, có lẽ ít người được biết tới câu chuyện lấy góa phụ Ngô thị của Lưu Bị. Ngô Thị từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, trước khi chết, cha của Ngô thị đã gửi gắm cô cho Ích Châu Mục là Lưu Yên. Lưu Yên nghe thầy tướng số nói Ngô thị có quý tướng, sau này ắt hẳn giàu sang, phú quý tột bậc có thể làm tới hoàng hậu, vì vậy muốn cưới Ngô thị làm vợ.
Tuy nhiên, do Lưu Yên và cha Ngô thị là bạn bè lâu năm, nay lại lấy con bạn thì thật không phải, vì thế, Lưu Yên đành cưới Ngô thị cho con trai mình là Lưu Xương. Lưu Xương sau đó chết sớm, Ngô thị trở thành góa phụ. Tới năm 214, Lưu Bị lấy thành Ích Châu, quần thần khuyên Lưu Bị lấy Ngô thị, Lưu Bị nghĩ rằng mình với Lưu Xương là người cùng họ, lấy Ngô thị e không tiện. Tuy nhiên cuối cùng, do quần thần khuyên nhủ, Lưu Bị quyết định nạp Ngô thị làm thiếp.
Vào năm Kiến An thứ 24, sau khi lên ngôi Hán Trung Vương, Lưu Bị lập Ngô thị làm Vương hậu. Tiếp đó tới năm Chương Vũ thứ nhất, Lưu Bị xưng đế, lập Ngô hậu làm Hoàng hậu. Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can.
Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng. Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng sau đó chết tại đây.
Theo Hôn nhân & Pháp luật
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
![]() |
| Moscow được bao bọc bởi các con sông |
![]() |
| Thế thủy long cực thịnh |
| ► Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
![]() |
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Đây là quẻ Quan Âm thứ 67 được xây dựng trên điển cố: Kim Tinh thí Đậu Nhi hay Kim Tinh thử Đậu Nhi.
Quẻ thượng cát thuộc cung Mão. Tính tình ngay thẳng, tâm thái hòa, tự nhiên cuộc sống sẽ luôn tươi sáng và bình yên. Nếu như mỗi người đều giữ được mình như vậy ắt cuộc đời này chẳng phải thái bình thịnh vượng hay sao?
Tâm binh chính trực, đáo để thanh binh, chỉ y bản phận, thiên hạ thái binh.
Đậu Nhi tức Đậu Nghị, con trưởng của Đậu Yên Sơn, sống vào triều Hậu Tấn trong thời Ngũ Đại.
Đậu Yên Sơn sinh ra trong một gia đình giàu có, nhưng tương truyền ông vốn là người bất hảo, cậy thế áp bức người nghèo. Khi có người nghèo khổ đến vay lương thực, ông cho vay bằng cái đấu nhỏ, nhưng thu về bằng cái đấu lớn; cho vay bằng cái cân nhỏ, nhưng thu về bằng cái cân lớn, lừa bịp dối gian, làm việc mờ ám. Do làm việc thất đức, cho nên đến ba mươi tuổi vẫn không có con cái. Một tối nọ, ông nằm mơ thấy người cha đã chết nói với mình rằng: “Con lòng dạ không tốt, phẩm hạnh không đứng đắn, tiếng ác lan truyền, nếu như không chịu sửa đổi những sai trái trước kia, làm một con người khác, không chỉ suốt đời không có con, mà còn bị đoản mệnh mà mất mạng. Con nên sửa lỗi lầm mà theo điều thiện, tích lũy âm đức, như thế mới có thể cứu vãn được mệnh trời, thay đổi vận số!”
Từ đó, Đậu Yên Sơn lập tức sửa đổi những sai trái khi trước, không làm những việc thất đức nữa. ông mờ lớp học tư thục, mời thầy giỏi đến dạy. Con cái của người nghèo muốn đến học, ông bèn chủ động đón đứa trẻ đến, miễn tiền học phí. Có một người đầy tớ đã ăn trộm tiền, lo sợ sự việc bại lộ liền bỏ trốn, nhưng để lại một mẩu giấy viết rằng, bán đứa con gái mười hai tuổi của mình cho nhà họ Đậu để bồi thường số tiền đã lấy trộm. Đậu Yên Sơn thấy bé gái đáng thương, bèn nhận làm con gái nuôi. Sau khi trường thành, còn chọn cho cô con gái nuôi chàng rể tốt, rồi gả chông cho.
Đậu Yên Sơn dường như đã thay đổi hoàn toàn thành một con người khác, cứu tế người bần hàn, làm lợi cho người, dốc lòng tích đức.
Sau đó, vợ của Đậu Yên Sơn liên tục sính được năm người con trai. Ông hết lòng nuôi dạy, khiến cho các con vừa có thể lực khỏe mạnh, lại có được phẩm đức cao thượng. Vì thế danh thơm của Đậu Yên Sơn và năm người con được mọi người hết lời ca tụng. Ngọc Đế trên trời nghe được, có phần không tin, liền sai một vị tiên là Kim Tỉnh xuống trần kiểm nghiệm xem năm người con của nhà họ Đậu thực sự có phẩm hạnh đoan chính như mọi người nói hay không.
Kim Tinh thấy Đậu Nghị không hề dao động trước nhan sắc của mình, bèn nói rằng sẽ nhảy xuống nước để uy hiếp, nhưng Đậu Nghị vẫn không dao động. Kim Tinh không nản lòng, vẫn khôn ngừng quấy rầy ngoài cửa, tin rằng Đậu Nghị sẽ mử cửa cho mình vào. Cuối cùng Đậu Nghị nghĩ rằng có lẽ đó chính là yêu quái đến quấy rầy, bèn mở cửa, rút kiếm truy sát, thì thấy người con gái đó biến thành một luồng hào quang, chui xuống đất chạy mất.
Sau đó Đậu Nghị và em trai là Đậu Nghiễm lên kinh dự thi, được chọn là Song khôi Trạng nguyên. Đậu Nghị được làm Hàn Lâm Học sĩ, giữ chức Thượng thư bộ Lễ; Đậu Nghiễm cũng được làm Hàn Lâm Học sĩ, giữ chức Thị lang bộ Lễ. Sau đó, ba người con trai khác của Đậu Yên Sơn cũng đều thi đỗ, trở thành Tam nguyên.