Tướng phụ nữ dễ thất vọng trong chuyện tình cảm |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Khí âm dương, ngũ hành mà giờ sinh thụ đắc được chính là mức độ phân lượng và tính chất : kim, mộc, thủy, hỏa, thổ được biểu thị bằng các chi. Can chi của năm tháng ngày giờ sinh đại biểu cho âm dương, ngũ hành để tượng trưng mô hình và phản ánh kết cấu nội bộ trong cơ thể. Cơ thể có cân bằng được với môi trường xung quanh hay không sẽ là căn cứ để giải thích vì sao các tạng phủ trong một người ra đời cùng một lúc, nhưng có cái bị bệnh, còn những cái khác lại không ; đồng thời cũng cắt nghĩa được nguyên nhân vì sao mọi người đều sống trên trái đất, nhưng người này giàu sang, còn người kia lại nghèo hèn. Duy trì sự cân bằng của âm dương, ngũ hành là khâu quan trọng của chức năng sinh mệnh. “Am dương bình ổn, gắn bó thì tinh thần còn, âm dương tách rời nhau thì tinh thần hết”.
Trung y cho rằng bệnh tật phát sinh là do sự điều hòa âm dương của các tạng phủ bị phá hoại. Sách “Tố vấn, chí chân yếu đại luận” nói: uốn nắn, điều chỉnh âm dương khi thịnh quá hay suy quá sẽ đạt được mục đích điều hòa âm dương. Dự đoán mệnh vận cho con người cũng mang mục đích như thế. Dự đoán và đề phòng bệnh tật chỉ là một mặt của vấn đề. Trong vũ trụ, bao gồm cả con người đều vận đồn theo quy luật phổ biến, tuần hoàn theo vòng tròn. Nhưng đó không phải là sự lặp lại đơn giản mà là tuần hòan theo một cấp độ cao hơn. Sự vận động thăng giáng của các khí ngũ hành, âm dương trong ciư thể, sự tuần hoàn của các kinh lạc, tuần hoàn của các doanh vệ theo Trung y đều là sự tuần hoàn theo quy luật vòng tròn trên trái đất, trong vũ trụ đều liên quan với nhau. Điều đó chứng tỏ vũ trụ và con người là một chỉnh thể liên quan mật thiết với nhau. So với vũ trụ to lớn thì con người chỉ là một hệ thống nhỏ, chịu ảnh hưởng to lớn của thế giới tự nhiên.
Chiêm bốc chú trọng khách quan, nhấn mạnh cát hung. Họa phúc của con người là do ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan, bao gồm sự ràng buộc của thời gian, không gian và các điều kiện cụ thể khác. Tìm ra được điểm mất cân bằng của khí bẩm sinh giờ sinh là nhiệm vụ của dự đoán. Giống như muốn đoán mệnh đầu tiên cũng phải tìm ra căn nguyên bệnh, muốn đoán mệnh đầu tiên cũng phải tìm ra căn nguyên họa phúc của mệnh. Căn nguyên này không những phụ thuộc vào sự biến đổi năm khí âm dương trong vũ trụ gây ra lợi, hại cho mình thể hiện ở sức khoẻ tốt hay xấu, mà còn phản ảnh mình rơi vào hoàn cảnh tự nhiên, xã hội tốt hay xấu, thậm chí còn ảnh hưởng đến các thành viên trong gia đình. Dùng can chi đại biểu cho âm dương, ngũ hành và mười thần, tượng trưng cho các tổ hợp khí bẩm sinh trong, đục của cá nhân, qua tính toán và cân bằng theo quy luật để nhận biết được sự phú quý, thọ yểu tàng ẩn trong đó, đó chính là sự phản áng ra mệnh.
Thông qua quá trình thuận, nghịch của cuộc đời, chỉ ra mối quan hệ giữa hoàn cảnh sống cá nhân với sự biến đổi của vũ trụ có cân bằng hay không, phản ánh được cát hung, họa phúc của từng giai đoạn cụ thể, đó chính là phản ánh ra vận. Ngũ hành đầy đủ, sinh khắc vượng suy hợp lý, đó là mệnh tốt. Ngũ hành lệch nhiều hoặc có bệnh, nếu trong mệnh có thuốc tức là các vận có sự nhất trí với tuần hoàn biến hóa của vũ trụ thì mệnh đó có cứu, cũng được xem là mệnh tốt. Ngược lại trong mệnh ngũ hành thiên khô (tức trong tứ trụ các tổ hợp xấu nhiều hơn tổ hợp tốt), mất cân bằng nhiều lại không có thuốc cứu, các vận luôn ngược lại với khó tuần hoàn của vũ trụ, để tìm được sự yên ổn trong thế giới biến đổi này. Dự đoán mệnh vận là sự tổng kết kinh nghiệm về quy luật sinh mệnh cuẩ nhân dân Trung Quốc, là một trong những mảng văn hóa cổ điển ưu tú nhất. Chúng ta, những người hậu thế không những cần thừa di sản văn hóa ưu tú đó mà còn nên phát triển hơn nữa.
1.THUẬN VỚI QUY LUẬT TỰ NHIÊN LÀ XU THẾ LỚN CẦN HƯỚNG TỚI.
Cách đây không lâu, tôi đọc được điều này trong một cuốn sách : “ Trên thế giới này có rất nhiều vật kỳ lạ và những câu đố không giải thích được, đó là sự thật tồn tại một cách khách quan...Những quái dị đó đã đồng hành cùng với lịch sử nhận thức của nhân loại, nó như có duyên gắn liền với khoa học. Chỉ khi chân tướng từng sự việc được khoa học lần lượt phát hiện thì mới khiến cho việc đó dần dần thoát khỏi màu sắc thần bí, đóng vai trò thúc đẩy nhân loại tiến lên.”. Đó là cuốn sách nhỏ giải phẩu mê tín. Toàn sách đều bàn về những vấn đề đến nay thế giới còn đang nghiên cứu và chắc còn tranh luận mãi chưa dừng. Cuốn sách giới thiệu những hiện tượng không giải thích nổi và thế giới siêu thực. Tác giả đã bỏ nhiều công sức sưu tập những tư liệu có thể được về các kết luận phủ định và những “sự thật”, lấy đó làm chỗ dựa để chứng minh bản thân tác giả là người duy vật chân chính.
Cho mãi đến khi đọc đến lời kết cuốn sách, tôi mới tìm thấy đoạn văn được trích ở trên. Đó mới là lời nói thật. Đã dành thừa nhận rằng, trên thế giới này có rất nhiều sự vật kỳ lạ và nhiều câu đố không giải nổi là một sự thật khách quan thì hà tất phải bịt kín không cho mọi người đi khám phá những hiện tượng kỳ lạ đó làm gì. Nhiều người thướng đóng vai vô thần, là người duy vật nhưng lại không chịu thừa nhận những điều trông thấy, thế thì làm sao có thể tin được là họ nói thật. Có phải phủ định những câu nói này thì “vấn đề” sẽ không còn nữa không? Khí âm dương ngũ hành không đo lường được, không thấy được thì người ta không thở nữa chăng? Không biết lương thực là hợp chất của cacbon và nước thì người ta không ăn nữa chăng? Đã đành là dự đoán học của Trung Quốc có nhiều phái và thuật số rất phức tạp thì vì sao lại không bỏ công phu nghiên cứu nó, đem những trí tuệ này kết tinh lại để tạo ra hạnh phúc cho xã hội, giúp mọi người hướng đến cái tốt, tránh xa cái rủi. Thuật số Trung Quốc là một bộ phận văn hóa thần bí phương Đông mà văn minh phương Tây đang hướng tới. Rất nhiều câu đố trên thế giới được giải thích nhờ thuật số đó.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hiện đại hóa, ngày nay tuy đã chế tạo được vệ tinh, rađa, v.v.. , đủ các loại máy tiên tiến và kỹ thuật đo lường, điều khiển từ xa, nhưng cũng chỉ là những công cụ nặng về vật lý. Khoa học ngày nay chưa phát triển đến mức cảm truyền được giữa sinh vật và vật lý, do đó năng lực dự đoán còn bị hạn chế. Thế giới ngày nay vừa phải ứng dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất, nhưng cũng không thể xem nhẹ những phương pháp cổ. Có những vấn đề có thể máy đo hiện đại chưa đo được nhưng dùng phương pháp cổ thì lại thành công, vì ngày xưa không có máy móc tiên tiến để mà dự đoán, nên mới bức người ta phải có đủ các dạng bản lĩnh dự đoán,trong đó bao gồm cả các nhà triết lý khoa học. Có thể ngày nay con người đã thoái hóa về năng lực đó. Chỉ ra những bí ảo này rồi lấy các thiết bị hiện đại để vũ trang, như thế thì tiên đồ của dự đoán hiện đại sẽ rất rộng lớn. Các học giả trong và ngoài nước đã ứng dụng dự đoán theo “ Chu dịch” và giành được những thành tựu kiệt xuất trên các mặt thiên văn, hóa học, sinh học. Lẽ nào trong dự đoán về địa chất, khí tượng, bệnt tật, nhân sự lại không thể có sự phát triển to lớn.
Cùng với những khám phá bí mật về khoa học nhân thể, tôi tin tưởng rằng nhất định trong các lĩnh vực đó khoa học dự đoán cũng sẽ đạt được những thành tích tương xứng. Ngài Thiệu Vĩ Hoa – học giả về ứng dụng dự đoán theo “Chu dịch” nổi tiếng của Trung Quốc – chính là người đã đi tiên phong trên các mặt này. Ong không những đã xé tan cái vỏ mê tín hơn 40 năm nay về ứng dụng “ Chu dịch” đảo ngược vị trí cho nó mà con giới thiệu một lượng lớn các kinh nghiệm đã được thể nghiệm trong thực tế về quy luật dự đoán theo Bát quái và dự đoán mệnh vận theo Tứ trụ cho rộng rãi độc giả những người khát khao muốn nắm quyền chủ động về thông tin – và đưa lại sức sống mạn mẽ cho môn thuật số của Trung Quốc khi nó đã lâm vào cảnh gần như bị bỏ rơi. Thầy Thiệu Vĩ Hoa đã không ngừng tìm kiếm, khám phá , chọn lọc khiến cho những thành tích nghiên cứu “ Chu dịch” của ồng trước đó bao gồm cả các mặt như tướng pháp, tướng tay trở thành những cống hiến cho sự hiểu biết về bản thân con người, về mệnh vận. Sự tư duy gắn với nhịp thở của thời đại, kết hợp di sản văn hóa cổ đại với việc ứng dụng vào các lĩnh vực kinh doanh, quản lý hiện đại, thuận với vận khí tam nguyên của thế giới, thuận với trào lưu của lịch sử nhất định sẽ được sự thừa nhân và hoan nghênh rộng rãi. Con đường ứng dụng dự đoán càng đi càng rộng mở, đó là xu thế tất yếu của sự phát triển lịch sử.
i thì đó là một điều đen đủi. Bát quái chia các phương hướng nói chung thành tám hướng Chấn, Tốn, Khảm, Li, Càn, Đoài, Cấn, Khôn. Trong đó, Chấn, Tốn, Khảm, Li được coi là bổn quẻ Đông; còn lại Càn, Đoài, Cấn, Khôn là bổn quẻ Tây. Quẻ Chấn đại diện cho hướng Đông, quẻ Tốn đại diện cho hướng Đông Nam, quẻ Khảm đại diện cho hướng Bắc, quẻ Li đại diện cho hướng Nam, quẻ Càn đại diện cho hướng Tây Bắc, quẻ Đoài đại diện cho hướng Tây, quẻ Cấn đại diện cho hướng Đông Bắc, quẻ Khôn đại diện cho hướng Tây Nam. Một ngôi nhà (bao gồm cả các công ty hay những toà nhà lớn) nếu nằm ở hướng chính Đông nhìn về hướng chính Tây sẽ có quẻ mệnh là Chấn, nếu nằm ở hướng Đông Nam nhìn về hưống Tây Bắc thì quẻ mệnh là Tốn, nếu nằm ở hướng chính Bắc nhìn về hướng chính Nam thì quẻ mệnh là Khảm, nằm hướng chính Nam nhìn về hướng chính Bắc có quẻ là Li, nằm ở hướng Tây Bắc nhìn về hướng Đông Nam có quẻ mệnh là Càn, nằm hướng chính Tây nhìn về hướng chính Đông thì quẻ mệnh là Đoài, nằm hướng Đông Bắc nhìn về hướng Tây Nam có quẻ mệnh gọi là Cấn, nằm hưống Tây Nam và nhìn về hướng Đông Bắc thì có quẻ mệnh là Khôn.

Trong số các quẻ mệnh trên, ngôi nhà nào có quẻ mệnh là một trong các quẻ Chấn, Tôn, Khảm, Li sẽ thuộc nhóm nhà nằm ở các hướng Đông. Còn ngôi nhà nào có quẻ mệnh là một trong bốn quẻ Càn, Đoài, Cấn, Khôn sẽ thuộc nhóm nhà nằm ỏ các hướng Tây.
Nếu một người tự bỏ vốn để kinh doanh độc lập thì cần phải lấy năm sinh của chính người đó để xem số tướng. Nếu là các công ty chung vốn làm ăn thì nên xem số bằng năm sinh của người đứng đầu công ty (như chủ tịch hội đồng quản trị). Nhưng nếu người chịu trách nhiệm lón nhất của công ty trên thực tế chỉ có vai trò đứng tên chứ không tham gia trực tiếp vào điều hành hoạt động kinh doanh của công ty thì phải xem bằng năm sinh của người chịu trách nhiệm điều hành thực tế lớn nhất (như tổng giám đốc). Để xác định xem quẻ mệnh của một công trình kiến trúc có phù hợp với số mệnh con ngưòi sống và làm việc trong đó hay không, cần lưu ý một số điểm sau:
– Hướng của cổng hoặc cửa chính của công trình kiến trúc gọi là “hướng”, hướng ngược lại của nó gọi là “tọa”. Phong thủy học coi “tọa” là cơ sở. Chẳng hạn một ngôi nhà quẻ Đoài và “tọa Tây hướng Đông” (tức nằm ở hướng Tây nhưng nhìn về hướng Đông) đồng nghĩa với cửa chính của nó nằm ở hưóng Đông nhưng từ trong cửa nhìn ra sẽ là hướng Đông.
– Khi đo đạc để xác định vị trí và phương hướng, phải đặt la bàn (hoặc kim chỉ nam) ở vị trí trung tâm của công trình kiến trúc. Khi kim la bàn dừng hẳn lại, nếu đầu mũi kim chỉ về hướng nào thì đó chính là hướng chính Bắc. Từ hướng chính Bắc, sẽ xác định được góc độ của các hướng còn lại. Trước tiên nên phác thảo một sơ đồ vẽ hình ngôi nhà. Sau khi đã xác định chính xác vị trí cửa chính, phòng bếp, phòng khách theo một tỉ lệ nhất định, hãy sử dụng la bàn để đối chiếu. Thông qua cây kim la bàn, chúng ta có thể xác định được cửa chính thích hợp nằm ở hưóng Đông hay hướng Đông Bắc, hay hướng Bắc của cả ngôi nhà, cũng có thể biết được vị trí chính xác để xây phòng bếp vị trí ngồi của người phụ trách cao nhất của ngôi nhà.
– Sau khi đã xác định được sơ đồ và vị trí thích hợp, có thể kiểm tra đối chiếu với sơ đồ số mệnh của người phụ trách cao nhất để biết được các vị trí ấy có phù hợp với số mệnh của người này hay không.
– Khi thiết kế xây dựng công ty, phải coi việc xác định vị trí của cửa chính, văn phòng hay phòng vệ sinh, phòng bếp và vị trí lắp đặt các thiết bị quan trọng… là công việc trọng tâm. Đối với các văn phòng làm việc thì trọng tâm cần lưu ý là cửa chính, phòng vệ sinh, phòng bếp, phòng tiếp khách hoặc phòng làm việc…
– Trong các công ty hay nhà xưởng, cửa chính và phòng làm việc nhất thiết phải nằm ở hướng cát (hướng may mắn). Trong khi đó, phòng bếp, phòng vệ sinh và khu vực chứa rác nên nằm ở hướng hung (hướng dữ). Còn ở các văn phòng thì cửa chính, phòng tiếp khách vị trí ngồi của người phụ trách và vị trí các chủ quản quan trọng nên được bố trí ở hướng cát, bếp và phòng vệ sinh nên nằm ở hướng hung.
– Nếu cửa chính mở tại hướng Bắc, vị trí ngồi của ngưòi phụ trách ở hướng Nam, phòng tiếp khách nằm ở hướng Đông, phòng bếp hướng Tây Bắc, phòng vệ sinh hướng Tây mà người có quẻ mệnh thuộc một trong bốn quẻ Đông là Chấn, Tốn, Khảm, Li thì sự phối hợp đó sẽ đem lại may mắn. Ngược lại, nêu quẻ mệnh của người đó nắm trong bốn quẻ Tây là Càn, Đoài, Cấn, Khôn thì đó là một điềm dữ.
Tý, Sửu, Tị và Mùi là 4 con giáp vô cùng may mắn vì sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, ít khi phải lo lắng về bệnh tật và sức khỏe, từ đó dễ dàng gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như trong cuộc sống.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Việc bài trí cây cảnh ở cửa hàng để chiêu tài có lẽ không phải là chuyện gì quá mới mẻ, nhưng cần phải có hiểu biết nhất định thì việc đó mới hiệu quả chứ không đơn giản tùy tiện để đâu cũng được. Đó là vì khi bày cây cảnh, phải chọn lựa sao cho thuộc tính của cây kết hợp được với phong thủy cửa hàng thì mới có thể tạo ra môi trường tốt, giúp chủ nhân buôn may bán đắt, tấn tài tấn lộc.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thông qua đôi mắt, chúng ta có thể nhìn ra được sự lương thiện hay tàn ác, phẩm cách, lòng can đảm, sự hiểu biết, trí tuệ và cả sức khỏe cơ thể… của một người. Đôi mắt to hay bé và vị trí của nó còn có thể phản ánh rất rõ ràng cá tính của một người. Những kiểu mắt khác nhau mang trong mình ý nghĩa không giống nhau, hãy cùng tìm hiểu nhé!
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Mắt nhỏ | Mắt to | Mắt vừa nhỏ vừa dài | Mắt tròn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Mắt lồi ra | Hốc mắt lõm vào | Liếc mắt liên tục | Mắt to mắt bé |
iOne
Một buổi sáng cuối Xuân đầu Hạ, hai chú tiểu của chùa Pháp Vân ra mở cổng chùa thì thấy một cái bọc nhỏ đặt trong một cái hộp giấy cứng không có nắp đậy, trong cái bọc đó là một đứa bé gái khoảng một tháng tuổi, đang thiếp ngủ ! Mười ba năm sau, đứa bé gái bị cha mẹ bỏ vào nhà chùa đó đã trở thành một thiếu nữ mắt phượng mày ngài, mặt trái xoan, dáng dấp thanh tú.
Hai chú tiểu ngày nào đã trở thành sư thầy, nói với nhau : “Chúng ta làm ơn cứu mạng như thế cũng được rồi, nay nên trả đứa bé lại cho cha mẹ nó, để nó ở lại đây tất sẽ gây họa lớn ! Cái trán cao rộng, hơi gồ và sáng bóng, mũi thì dài sống mũi lại quá mảnh khảnh, lưỡng quyền cao rộng nên có số sát phu, đàn ông mà dây dưa với nó tất chết bất đắc kỳ tử !” Rồi ngay sau đó, hai sư thầy gửi cô bé cho một vị giáo sư, nói là nó có tư chất thông minh, nhờ giáo sư kèm cặp, sau ắt sẽ trở thành nhân tài của đất nước ! Quả nhiên, chỉ sau ba năm, cô bé đã học xong tất cả chương trình phổ thông trung học. Các bài thi đại học những năm trước đó, cô bé đều làm dễ dàng như ăn kẹo ! Vị giáo sư đã hoàn tất mọi thủ tục để cô bé tham dự kỳ thi đại học tới, cô bé ắt sẽ đỗ thủ khoa, cả nước sẽ bị một phen bất ngờ !…
Nhưng, người bị bất ngờ lại chỉ là hai ông sư thầy của chùa Pháp Vân : Trước ngày thi một ngày, bà vợ vị giáo sư dắt cô bé trả lại cho nhà chùa mà rằng :
- Đứa bé này thông minh thật, đúng là Thần đồng, nhưng nó đã đem tai họa đến cho nhà tôi : ông chồng tôi gần hết đời mới đạt được công danh, vậy mà chỉ sau một đêm dan díu với nó đã chết thật thảm thương ! (Khóc) Sáng nay, ông ấy dậy sớm tập thể dục như mọi ngày, vậy mà không thể trở về nhà với tôi được nữa : một chiếc xe tải to đùng đã nghiến nát ông ấy rồi !
Hai vị sư thầy đành để cô bé ở lại chùa. Việc truy tìm tung tích cha mẹ đứa bé vẫn chưa có kết quả. Hai vị sư thầy bàn với nhau : “Nó đã đem tai họa đến cho người ta, vậy phải cho nó cơ hội chuộc lại tội lỗi : cho nó đi học nghề chữa bệnh cứu người . Công, tội có thể bù đắp, hóa giải cho nhau !” Cô bé liền được gửi đến ở phòng mạch Đông Y của một Lương Y danh tiếng, nghe nói đã bốn đời hành nghề chữa bệnh cứu người, cha ông đã từng thọ giáo bậc danh y Hải Thượng Lãn Ông !
Cô bé đến phòng mạch Đông Y chưa được ba bảy hai mươi mốt ngày thì bà vợ ông Lương Y đã dắt nó đến trả cho nhà chùa mà không nói một lời ! Hai sư thầy đi tìm hiểu sự việc thì được biết : một lần đang xem bệnh, kê đơn bốc thuốc cho con bệnh thì cô bé đi vào nói đau bụng không thể chịu nổi. Vị Lương y đành bỏ dở công việc mà tìm cách cắt cơn đau cho cô bé. Sau một hồi day huyệt, cô bé đã hết đau bụng nhưng vị Lương Y đã bị cơ thể cô bé làm cho mất hồn, không thể kiềm chế được cơn sóng tình dục cứ dâng lên cuồn cuộn. Sau cuộc giao hoan vội vàng với cô bé, vị Lương Y chẳng còn minh mẫn để kê đơn bốc thuốc cho con bệnh, kết quả là cái toa thuốc ấy đã giết chết con bệnh, người nhà con bệnh tức thì vác dao đến đòi mạng, chẳng kịp ngăn cản !
Hai vị sư thầy sau khi biết chuyện thì mười phần kinh hãi ! Mặc dù hai vị sư thầy nghiên cứu rất kỹ về thuật tử vi tướng số nhưng trong thâm tâm họ đều không mấy tin vào những chuyện tào lao đó, chẳng qua chỉ là trò chơi của tạo hóa ! Nhưng đến sự việc xảy ra ở phòng mạch Đông Y này thì cả hai vị sư thầy đều run sợ trước sự huyền bí của định mệnh mà thuật tướng số chỉ hé mở được phần nào sự huyền bí đó ! Suy nghĩ nát nước mà hai vị sư thầy vẫn chưa biết phải cho cô bé có tướng cách dị thường này đi đâu, chùa Pháp Vân này chưa có lệ thu nhận sư nữ mà tung tích cha mẹ cô bé vẫn chưa thấy tăm hơi gì ? Thời gian cứ đều đặn trôi đi từng ngày, từng ngày, nó không thể dừng lại để đợi hai vị sư thầy nghĩ xong kế vẹn toàn, một tuần lễ trôi qua như một cái chớp mắt. Sang ngày thứ tám, một vị sư thầy có việc phải đi Tây Nguyên. Ba ngày sau, vị sư thầy ở nhà được báo mộng, người báo mộng lại là đích thân Bồ Tát:”Đêm hôm trước khi đi Tây Nguyên, sư huynh con đã dại dột giao hoan với cô bé có tướng sát phu đó. Hôm qua, xe chở sư huynh con đã lăn xuống vực ở tỉnh Kon Tum, chiếc xe cháy rụi, sư huynh con đã bị cháy thành than rồi! Tiếc thay, trồng cây sắp đến ngày hái quả mà lại…Con ráng mà giữ thân đặng tu thành chính quả, đừng như sư huynh mà uổng công mấy chục năm tu hành!”. Vị sư thầy chỉ còn biết ôm bài vị của sư huynh mà khóc không thành tiếng!…
* * *
Khi tôi đang lang thang kiếm sống ở Sài Gòn thì bất ngờ gặp một người bạn cũ là chuyên gia Hán-Nôm ở Hà Nội vào Sài Gòn làm việc. Khi biết được tình cảnh đang thất nghiệp của tôi, người bạn nói :
- Giá như ông nghe tôi, hồi còn làm ở Viện Văn học mà tranh thủ theo học một khóa Hán-Nôm thì bây giờ tôi có thể nhận ông làm việc ở chỗ tôi. Bây giờ phong trào tìm về cội nguồn rất rầm rộ, rất nhiều văn bia, thần tích, gia phả…cần được biên dịch…
- Tôi không thích nói “Giá như…”, ông không giúp được gì cho tôi cũng không sao ! – Tôi nói cứng – Mà ông cũng chẳng phải ái ngại cho tình cảm của tôi bây giờ. Cái số tôi nó “bèo dạt mây trôi” dài dài, tôi đã quen rồi !
Người bạn vụt nhớ ra điều gì, vội nói :
- Ông nói tới chuyện tướng số làm tôi nhớ đến một vị sư thầy ở chùa Pháp Vân, vừa là bà con xa vừa là học trò Hán-Nôm của tôi. Vị sư thầy này rất giỏi tử vi tướng số, nếu ông có hứng thú, tôi sẽ dẫn ông tới chơi !
Dĩ nhiên là tôi rất hứng thú và người bạn chuyên gia Hán-Nôm liền dẫn tôi đến chùa Pháp Vân.
Khi chúng tôi đến chùa Pháp Vân, vị sư thầy vẫn chưa thôi ôm bài vị của sư huynh mà khóc thầm ! Gặp người bạn chuyên gia Hán-Nôm và tôi, vị sư thầy mới dứt được nỗi đau mất sư huynh đã kéo dài ba ngày ! Sau khi kể cho chúng tôi nghe đầu đuôi câu chuyện về cô bé có tướng sát phu, vị sư thầy nói :
- Tôi đã được Bồ Tát báo mộng sắp thành chính quả, vì thế bằng mọi giá phải cho cô bé đi khỏi chùa này. Tôi rất mong sư phụ và thí chủ đây giúp tôi !
- Chúng tôi xin sẵn lòng, sư thầy cho biết giúp như thế nào ? – Tôi và người bạn Hán-Nôm cùng nói .
Vị sư thầy im lặng giây lát như lấy hơi rồi nói :
- Tôi không ngờ cái tướng sát phu của cô bé lại hiệu nghiệm kinh hoàng như vậy. Tôi đã đành phải lấy cái tướng cách đó ra mà đặt tên làm giấy khai sinh cho cô bé, gọi chệch đi một chút : Sa Phi ! Tôi chợt nghĩ, cái tên đó gần giống với tên một loại đá quí, vì thế tìm một người có tên là một loại đá quí mà gả cho cô ta thì tai họa sẽ giảm thiểu đi nhiều, nếu người đó có lá số tử vi gần giống với lá số tử vi của Hàn Tín thì không còn lo ngại gì nữa !
Nghe tới đó, tôi giật mình kinh ngạc vì thấy mình đáp ứng đủ cả hai điều kiện mà sư thầy vừa nói. Tôi càng kinh ngạc hơn khi vị sư thầy chăm chú nhìn tôi một lát rồi nói :
- Thí chủ đây đã lập lá số tử vi chưa ? Nếu chưa tôi xin làm giúp !
Tôi lấy lá số tử vi của mình ra đưa cho vị sư thầy mà nói :
- Tôi mới lập lá số này được một tháng, nhờ thầy xem lại !
Vị sư thầy đón lấy lá số tử vi của tôi, liếc nhanh qua rồi nắm chặt lấy hai tay tôi mà rằng :
- Người cứu mạng tôi đây rồi ! Hẳn là Bồ Tát đã đưa tới !
Mọi việc đã được quyết định chóng vánh như là vị sư thầy đã chuẩn bị sẵn từ trước : vị sư thầy thuê cho tôi một căn nhà nhỏ ở vùng ven đô, tiền trả trước một năm, ba ngày nữa tôi sẽ đem xe hoa đến đón cô dâu Sa Phi về đó làm lễ động phòng ! Tất nhiên mọi chi phí cho tiệc cưới (gọn nhẹ), sư thầy lo hết !…
Ngày thứ nhất, tôi làm xong cái việc khá quan trọng là tân trang căn nhà nhỏ, nơi sẽ trở thành tổ ấm gia đình của tôi sau nhiều năm phiêu bạt giang hồ, lăn lóc khắp rừng xanh núi đỏ cho đến biển bạc sóng cồn ! Có lẽ cái nhu cầu cần có điểm dừng đã quá mạnh khiến cho tôi không hề cảm thấy run sợ mảy may khi phải đối mặt với sứ giả của tử thần ! Có lúc tôi cũng tặc lưỡi mà cười thầm : “Có chết trong tay người đẹp cũng còn hơn là chết tan xác nơi sa trường mịt mù bom đạn ! Vả lại, vị sư thầy đã cam đoan với tôi rằng , cái tướng sát phu dù có dữ dội tới cỡ nào cũng không hại được tôi, vì tôi đã có quý nhân phù trợ, hơn chục lần tôi đã thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc đã khẳng định chắc chắn điều đó !”. Quả nhiên, trong giấc ngủ ở nhà mới đêm đầu tiên, tôi đã được Phật Tổ Như Lai hiện ra báo mộng : Ngài hiện ra trong ánh hào quang rực rỡ, nhìn tôi bằng ánh mắt nhân từ, tuy Ngài không nói gì nhưng đã mỉm cười với tôi ! Tôi hiểu ra ngay cái ẩn ý ở sau sự kiện này : tôi đã có công cứu nạn người nhà Phật (tức vị sư thầy chùa Pháp Vân) nên số phận đã mỉm cười với tôi, tôi cứ im lặng làm theo sự xếp đặt của số phận, không nói gì cả, vì im lặng là vàng mà !
Ngày thứ hai, tôi đi thuê xe ô-tô đón dâu và một bộ complê và mua một vài thứ lặt vặt cần dùng. Xong việc, cũng vừa tới bữa trưa, tôi vào một nhà hàng nơi con hẻm yên tĩnh để tự thưởng cho mình một chầu no say, đặng ngày mai bước vào cuộc chiến đấu mới đầy bí hiểm ! Vừa uống xong li bia đầu tiên thì thật bất ngờ, Siêu – người bạn học với tôi từ năm học lớp mười ở trường Hải An (Hải Phòng), đi vào, một mình ! Sau phút hàn huyên tôi mới được biết : Tốt nghiệp đại học Thủy sản, Siêu về làm việc ở Sở Thủy Sản Hải Phòng một thời gian rồi lên cơ quan Bộ, một thời gian sau nữa làm giám đốc một công ty xuất nhập khẩu thủy hải sản, hiện đang chuẩn bị nhận chức phó Tổng giám đốc của một Tổng công ty rất lớn. Hỏi đến chuyện vợ con, Siêu rầu rĩ nói :
- Ngày mai là ngày tao cưới vợ lần thứ hai. Nếu như vợ trước của tao đẹp như hoa hậu thì vợ này không thua gì Thị Nở của anh Chí Phèo !
Tôi ngạc nhiên :
- Thế thì thôi đi, như mày lấy vợ đẹp có khó gì ?
- Không thể thôi dễ dàng như mày nói thế được ! – Siêu nói thong thả - Cô nàng tuy xấu mã nhưng lại tốt tướng, phải nói là quý tướng, đó là tướng “vượng phu ích tử” : nàng vừa có ngọc đới yêu vi vừa có song long nhiễu nguyệt, người như thế trong ngàn người mới có một ! Hơn nữa, cha và mẹ nàng đều có thế lực cực mạnh ở trong giới kinh doanh và quan trường !
- Thế thì còn rầu rĩ cái nỗi gì ! Cứ cưới cô vợ Thị Nở ấy đi, khi nào thích “ăn phở” thì một cú điện thoại là có liền, mà “phở” bây giờ được “nâng cấp” tới cỡ siêu người mẫu, hoa hậu, ngôi sao điện ảnh…thậm chí có cả “hàng ngoại” với đủ các màu da, các quốc tịch ! – Tôi nói như là rất sành sỏi trong đề tài này !
Siêu như là không hứng thú với cái đề tài “phở”, hỏi sang chuyện làm ăn của tôi và tỏ ra ái ngại cho cảnh ngộ hiện tại của tôi. Siêu nói :
- Chịu khó chờ một thời gian nữa, khi nào tao nhận chức, tao sẽ lấy mày về làm việc ở Phòng thông tin – tuyên truyền, chắc là mày sẽ làm tốt ! Còn chuyện vợ con thì sao ?
Khi tôi đưa tấm hình của Sa Phi cho Siêu xem và nói ngày mai sẽ là ngày đón dâu, Siêu kinh ngạc thốt lên :
- Tiên nữ giáng trần ! Không thua gì tứ đại mỹ nhân bên Tàu ngày xưa ! Cô gái này có vẻ đẹp bế nguyệt của Điêu Thuyền !
- Chính xác! – Tôi thừa nhận – Dung nhan thì hao hao như Điêu Thuyền, nhưng tư chất thì đặc biệt thông minh, trí nhớ thật siêu phàm. Đọc sách chỉ một lần là hiểu ngay và nhớ hết, có thể đọc ngược Truyện Kiều không sai một chữ! Cô ta đã tự học ba ngoại ngữ Anh, Pháp và Trung Hoa! Tuy không học qua trường nào nhưng có thể giải nhanh chóng tất cả các đề thi đại học!…
Những câu chuyện về cô gái Sa Phi đã thực sự cuốn hút anh bạn Siêu của tôi, nhất là chuyện sát phu kỳ lạ và kinh hoàng! Khi chúng tôi đã uống hết một thùng bia Heineken, Siêu nói “xì-tốp” và kêu một ấm trà Thái rồi châm rãi nói:
- Mày phải hủy bỏ ngay đám cưới này! Để rồi tao sẽ làm mối cho mày một người vợ có tướng cách cực quý, vừa vượng phu ích tử vừa rất xinh đẹp, lại có chức danh Phó Giám đốc đàng hoàng !
- Dù có là Nữ hoàng bây giờ muốn cưới tao, tao cũng không ham. Đã nhận lời người ta rồi, mọi việc đã hoàn tất, không thể thất tín được, nhất là với người nhà Phật! Hình như trong chuyện này, cả Phật Tổ Như Lai và Quan Âm Bồ Tát đều nhúng tay vào! – Tôi nói to như quát.
Hai người hai quan niệm khác nhau thật khó mà có thể đi đến một sự hòa hoãn. Những tưởng cuộc tranh luận của chúng tôi sẽ dẫn đến xung đột vì chúng tôi vốn cùng nóng tính và từ thời học trò vốn chẳng ai chịu thua ai. Song, anh bạn Siêu của tôi tỏ ra bình tĩnh và sành đời hơn. Không hiểu sao, Siêu bỗng đưa cho tôi cái điện thoại di động mới cứng và nói :
- Cái điện thoại di động này tao mua cho mụ vợ, nhưng hôm nay gặp lại mày ở đây, tặng mày luôn. Mày hãy gọi cho một người thân nào đó bất kỳ mời mai đến dự lễ cưới của mày, nếu người đó nhận lời ngay thì mọi điều mày nói từ nãy đến giờ đều đúng ! Còn nếu mày gọi tiếp cho hai người nữa mà không ai nhận lời thì mày phải nghe tao, hủy đám cưới !
Tôi nhận cái điện thoại di động từ tay Siêu, ấn ngay số máy điện thoại của bà chị cả. Vừa nghe thấy giọng nói của tôi, bà chị đã nói ngay, giọng mếu máo :
- Mẹ ốm nặng, tình hình rất nguy kịch, cậu ra Hà Nội ngay, chị sẽ ra sau vì cả ba đứa cháu của cậu đều đang sốt ói mửa lung tung !…
Nhận được tin dữ, tôi bảo Siêu đưa tôi đến chùa Pháp Vân ngay. Vị sư thầy chấp nhận quyết định chớp nhoáng của tôi : tôi phải đi Hà Nội ngay, Siêu sẽ thay tôi giải quyết vụ cô gái tướng sát phu !…
* * *
Ra Hà Nội, tôi chỉ được báo hiếu mẹ một tháng thì mẹ tôi qua đời. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, mẹ tôi chỉ đọc cho tôi nghe một câu ca dao cổ :
“Con ơi, nhớ lấy câu này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi !”
Sau cái chết của mẹ, mọi suy nghĩ của tôi về sự đời như là có sự thay đổi rất lớn : Nếu như trước đây tôi “coi trời bằng vung”, sẵn sàng “bán trời không văn tự” thì bây giờ lúc nào tôi cũng cảm thấy sợ hãi, thấy mình yếu đuối, bé nhỏ vô cùng, cô đơn vô cùng ! Tệ hại hơn là trong giấc ngủ thường có ác mộng : cảnh bom đạn nơi chiến trường ngày xưa cứ hiện về không ngớt, và kết cục những cơn ác mộng ấy là một chùm bom cứ lao thẳng vào người tôi, có lần là cả một tốp hơn chục chiếc máy bay “Thần Sấm”, “Con Ma” cứ nhằm tôi mà lao tới cùng với những âm thanh gầm rú ghê rợn !…Và cuối cùng tôi đã rút ra phương châm xử thế : tránh mọi va chạm với người đời và tránh xa mọi tai ương có thể xảy ra ! Để làm được như thế, không có cách nào tốt hơn là làm theo các ẩn sĩ thời xưa !
Biết tôi có ý định tìm chỗ ở ẩn, Lò Giàng Páo – cậu học sinh cũ của tôi khi tôi dạy ở trường dự bị đại học Dân tộc Trung ương – nói sẽ dẫn tôi lên quê hương Hà Giang của cậu núi non trùng điệp, rất nhiều chỗ sơn thủy hữu tình có thể dựng Am cỏ như người xưa ! Páo là người Lô Lô, rất nhiệt tình nên chỉ sau một tuần, tôi đã làm xong thủ tục chuyển vùng . Chỉ chờ Páo xin nghỉ phép là thầy trò chúng tôi có thể lên đường …
Sáng hôm ấy, tôi đang thơ thẩn ở Viện Bảo tàng dân tộc để chờ Páo thì bất ngờ gặp lại Giàng A Thạc – học cùng với tôi hồi lớp Năm ở trường Lương Ngọc Quyến – Thái Nguyên . Khi biết ý định muốn lên rừng của tôi, anh chàng họ Giàng người H’mông cười chảy nước mắt rồi kéo tôi đi, vừa đi vừa nói :
- Tao có thằng bạn rất thân, hóa ra lại là bạn học với mày hồi lớp Mười ở Hải Phòng . Mày nhớ thằng Đông chứ, tốt nghiệp trường Đại học Mỏ - Địa chất, nó về làm ở một đoàn Địa chất ở Thái Nguyên, tao với nó chơi với nhau từ đó. Rồi nó được đi làm luận án tiến sĩ ở Nga, rồi về làm bên Dầu khí. Lần này nó rủ tao về Vũng Tàu. Chắc chắn là mày gặp nó là sẽ bỏ ngay ý định lên rừng mà sẽ đi xuống biển với chúng tao !
Quả nhiên khi gặp Đông, tôi bị Đông thuyết phục đi Vũng Tàu với Đông và anh bạn người H’Mông, và điều đặc biệt là Đông sẽ nhờ tôi làm quản lý trang trại của Đông ở Đồng Nai – như vậy là vẫn có chỗ cho tôi dựng Am cỏ làm Ẩn sĩ. Thì ra Đông làm công tác Thanh tra của ngành Dầu khí. Đông kể cho tôi nghe khá nhiều chuyện thuộc loại “thâm cung bí sử” của ngành Dầu khí và lấy làm tiếc rằng tôi không còn làm báo nữa vì nếu còn làm báo sẽ được có những tài liệu “độc nhất vô nhị” về những vụ tham nhũng động trời mà Đông đang thu thập chứng cớ. Nếu như trước đây, hẳn là tôi sẽ bám riết lấy Đông mà khai thác tài liệu, nhưng giờ thì tôi đã “tắt lửa lòng”, không muốn quan tâm đến thế sự nữa, điều mà tôi quan tâm ở Đông là cái trang trại của Đông ở Đồng Nai. Vì thế, sau ba ngày tắm biển sảng khoái ở Vũng Tàu, tôi thúc giục Đông đưa tôi đến trang trại…
Trang trại của Đông thật là trên cả tuyệt vời, nếu tả cảnh thuần túy và thật cô đọng, ngắn gọn cũng phải hết năm chục trang sách khổ 13×19. Còn nói về tiềm năng phát triển kinh tế của trang trại thì cũng không dưới năm mươi trang! Tuy nhiên, điều thu hút sự chú ý của tôi ở cái trang trại này không phải là thiên nhiên kỳ thú mà là những người đang làm việc ở đây, mà đáng chú ý nhất là một người đàn bà trạc tứ tuần có tên gọi là Sái phu nhân. Tôi té ngửa khi chợt nhân ra khuôn mặt của Sái phu nhân rất giống cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân! Chẳng lẽ đó chỉ là sự giống nhau ngẫu nhiên? Nhưng sau khi tìm hiểu thì sự ngờ vực của tôi đã có lời giải: bà Sái phu nhân chính là mẹ đẻ của cô gái Sa Phi! Và cái tên Sái phu nhân cũng do chữ “sát phu” mà ra: từ năm mười bảy tuổi đến năm bốn mươi tuổi, bà ta đã mười lần lên xe hoa và cả mười tân lang đều chết “bất đắc kỳ tử”, điều đáng ngạc nhiên là cả mười tân lang đều là quan chức cỡ giám đốc, Tổng giám đốc, trong đó có hai vị thuộc ngành du lịch, hai vị ở ngành Ngân hàng, hai vị ở ngành Dầu khí, hai vị ở ngành Thủy hải sản và hai vị ở ngành Thương mại! Với “chiến tích” đó, bà Sái phu nhân còn có tên gọi “Thập đạo Nữ tướng quân”, đó là giới sử học gọi còn cánh nhà báo thì gọi là “Dũng sĩ diệt giám đốc”!…
Khi tôi nói rằng tôi đã gặp cô gái Sa Phi ở chùa Pháp Vân thì bà Sái phu nhân bỗng khóc rống lên một hồi rồi nói:
- Tôi thật đáng chết khi bỏ con bé vào chùa Pháp Vân!… Con ơi, con hãy tha tội cho mẹ! Sau đó ba năm, tôi có nhờ người đến tìm nhưng không thấy, tính đến nay đã gần hai mươi năm trời, không biết con tôi thế nào? Nếu ông biết con tôi ở đâu dẫn nó về đây với tôi, tôi xin tình nguyện làm tôi tớ cho ông mãi mãi!…
Vốn có tính dễ mủi lòng trước những lời cầu xin đẫm lệ, tôi nhận lời đi tìm Sa Phi, vả lại tôi cũng có chút “duyên nợ” với cô gái này! Tôi lập tức đi tìm Siêu. Có lẽ đến nhà cô gái xấu như Thị Nở nhưng có tướng “vượng phu ích tử” mà chắc là Siêu đã cưới làm vợ thì sẽ gặp Siêu. Nhưng khi tôi đến thì cô Thị Nở nói với tôi:
- Anh Siêu chê em xấu xí quá nên đã hủy hôn mà cưới cô gái có cái tên “Sa Sát” gì đó rồi! Nghe nói họ đang hưởng tuần trăng mật ở Đà Lạt, anh lên đó sẽ gặp ngay!
Tôi đến ngay Công ty của Siêu thì họ cũng nói vậy và cho tôi số máy di động của Siêu. Tôi gọi ngay cho Siêu thì người trả lời lại là tiếng Sa Phi:”Em là Sa Phi đây! Anh Siêu của em đang ở đâu hả ? Chúng em đang ở thác Đăm Bri, anh ấy vừa rơi xuống thác cách nay năm phút, đội cứu hộ đang tìm nhưng chưa thấy xác!…”. Không biết cô gái Sa Phi còn nói gì nữa không mà tôi chỉ nghe thấy tiếng thác dội ầm ào!…
![]() |
1. Tướng mũi
Tướng mũi ảnh hưởng nhiều đến tổng thế gương mặt, như vậy cũng có kiêng kị. Tục ngữ có câu “Mũi dại, lái phải chịu đòn” là ám chỉ điều này, mũi tốt nhất là nên thẳng, không nên lệch hay cong vẹo.
2. Đuôi lông mày cụp
Theo cổ nhân, “bát tự mi” – lông mày hình chữ bát là đặc trưng của người có tâm can không tốt, mưu sâu kế hiểm. Cũng có thể là người không chuyên chính trong chuyện tình cảm, có chút dâm tục. Câu tục ngữ “Mi phân bát tự, tham hoa liễu” là ngụ ý điều này.
3. Lông mày xếch (hình bát tự ngược)
Kiểu lông mày này cho thấy người này tâm địa độc ác nhưng suy nghĩ lại đơn giản (hữu dũng vô mưu), người ta gọi kiểu lông mày này là lông mày hình hổ. Lông mày của nam giới thì đậm nhưng thô, lông mày của nữ giới thì mảnh và nhạt. Nếu lông mày dày và thô, dài (cả nam và nữ) thì người này thường hung ác, âm địa ác độc. 4. Lông mày đậm và thô – là người trường thọ
Tất nhiên, người có kiểu lông mày này thì khá là trường thọ, bởi vậy không nên nhổ hoặc tỉa bớt. Đặc biệt là có vài sợi dài hẳn hơn so với những sợi khác, những sợi này gọi là “Thọ mi”. Thọ mi càng dài thì càng tốt, thọ mi kị nhất là nhổ hoặc cắt bớt, mặc dù có phần vướng (che khuất tầm nhìn) thì cũng không nhổ, nếu không sẽ bị giảm thọ. 5. Lông mày thưa và ít
Những người như vậy sẽ không có anh em hoặc nếu có thì cũng rất ít. Hậu duệ của người này cũng khó phát triển được, không gặp may mắn, tài chính kém. 6. Mắt không nên lệch
Người mắt lệch thường là người có tâm địa bất chính, không được mọi người yêu mến.
![]() |
| Mắt lệch là người có tâm địa bất chính |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Hương Giang (##)
Bàn tay nói lên tính cách nổi bật của mỗi con người. Việc coi bói qua bàn tay cho chúng ta biết được cuộc đời này mình được sung sướng cực khổ ra sau.Chúng ta hãy coi bói bàn tay của mình theo kiểu nào nhé !



Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
Tính: Âm
Hành: Thủy
Loại: Hung Tinh, Dâm Tinh
Đặc Tính: Họa phúc, uy quyền
Tên gọi tắt thường gặp: Tham
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 3 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Miếu địa ở các cung Sửu, Mùi.
Vượng địa ở các cung Thìn, Tuất.
Đắc địa ở các cung Dần, Thân.
Hãm địa ở các cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Sao Tham Lang, Hỏa Tinh đồng cung miếu địa hay Tham Lang, Linh Tinh đồng cung miếu địa: phú quí tột bậc, danh tiếng lừng lẫy. Rất hiển đạt về võ nghiệp. Rất tốt cho hai tuổi Mậu Kỷ vì ứng hợp với cách này.
Tham Lang, Trường Sinh ở Dần Thân: Sống rất lâu.
Sao Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung ở Tứ mộ: thì ngoài 30 tuổi công danh, sự nghiệp mới có sự tiến triển tốt đẹp, làm nên sự nghiệp nhưng phải có thêm cát tinh nhiều ở Mệnh. Nếu thêm cả Hỏa Linh thì rất quí hiển. Nhưng nếu cung Thân ở Tứ mộ có Tham Vũ thì lại là hạ cách, không quí hiển được, nhất là thiếu cát tinh.
Các cách trên nếu có thêm sao tốt như Khoa, Quyền, Lộc, Xương, Khúc, Tả, Hữu thì rất tốt cả về công danh, tài lộc, phúc thọ, tâm tính.
Sao Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung gặp Phá Quân: Lụy thân vì sa đọa tửu, sắc.
Sao Tham Lang, Liêm Trinh đồng cung ở Tỵ, Hợi: Con trai đàng điếm, du đãng, con gái dâm dật đĩ thõa, giang hồ. Chỉ có sao Hóa Kỵ hay Tuần Triệt mới hóa giải được bất lợi này.
Sao Tham Lang, Liêm Trinh ở Dần Thân gặp Văn Xương đồng cung: Phải có phen bị tù hình khổ sở (nếu thiếu sao giải).
Tham Lang, Liêm, Tuyệt, Linh đồng cung: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).
Sao Tham Lang, Liêm, Kình, Kiếp Không, Hư Mã: Suốt đời cùng khổ, hoặc chết non, bệnh chết hụt, vợ chồng lấn lướt, bất hòa (phong).
Sao Tham Lang, Kình (hay Đà đồng cung) ở Tý Hợi: Giang hồ, lãng tử, chơi bời lang thang hay hoang đàng. Nếu ở Dần thì còn bị đánh đập vì chơi bời.
Sao Tham Lang, Thất Sát: Trai trộm cướp, gái giang hồ; nếu thêm hung tinh thì nguy hiểm càng tăng.
Sao Tham Lang, Thất Sát, Tang Môn, Bạch Hổ ở Dần, Ngọ: Bị sét đánh, thú cắn.
Sao Tham Lang, Không Kiếp ở Mão Dậu: Đi tu phá giới.
Sao Tham Lang Đào, Tham Lang Hồng hay Tham Lang Liêm: Dâm đãng, lăng loàn. (Nếu gặp Tuần Triệt thì đoan chính).
Phúc Thọ Tai Họa:
Sao Tham Lang ở cung đắc địa thì sống lâu, dù thiếu thời có vất vả. Nếu hãm địa thì nhiều bệnh, hay bị giam cầm nếu không bỏ quê hương cầu thực thì yểu, cô độc.
Riêng sao Tham Lang ở Mão, Dậu là người yếm thế, làm việc gì cũng thất bại và hay gặp sự chẳng lành. Người này chỉ có chí hướng đi tu. Nếu gặp thêm sát tinh hay Kỵ, Hình thì hay bị nạn khủng khiếp, giam cầm và yểu tử. Nói chung, Tham Lang đi cùng với ác tinh, sát tinh là phá cách, tai họa nhiều thêm.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Mệnh:
Tướng Mạo:
Cung Mệnh có Tham Lang miếu, vượng hay đắc địa thì có thân hình cao lớn, vạm vỡ, da trắng, mặt đầy đặn, nhiều lông, tóc, râu rậm rạp. Riêng trường hợp miếu địa, có nốt ruồi kín.
Còn Tham Lang hãm địa thì thân hình cao vừa tầm, hơi gầy, da thô, xấu, mặt dài nhưng không đầy đặn, tiếng nói vang, cổ cao.
Tính Tình:
Sao Tham Lang ở các cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người thông minh, có nhiều tài khéo, làm nghề gì cũng có máu văn nghệ, nghệ thuật, thời trang, đa tình, thủ công tinh xảo, khéo léo, có tài tổ chức, ưa hoạt động, đôi khi có sự hiếu thắng hoặc tự đắc, nhưng cũng hay chán.
Sao Tham Lang ở cung hãm địa là người cô độc, dù có người thân cũng không hạp tánh nhau, tánh tình hay mưu cầu, mưu tính ngược xuôi, đôi khi có sự gian hiểm, dối trá, ích kỷ, có nhiều dục vọng, tham vọng, hay ghen tuông, cạnh tranh, rong chơi phiêu lãng. Nếu không thì có những thú vui giải trí về văn nghệ, cờ bạc, đánh cờ, săn bắn, đua ngựa. Hoặc hay vào ra, sinh sống ở những nơi phồn hoa đô hội, phong lưu tài tử. Hay làm liều, nên dễ sanh ra chuyện tham ô, lừa đảo, dối trá, trộm cắp, xấu máu về tiền bạc, tửu sắc.
Công Danh Tài Lộc:
Sao Tham Lang ở cung đắc địa trở lên thì giàu sang. Nhưng vì Tham Lang là sao Bắc Đẩu nên càng về già càng thịnh vượng, an nhàn, sung sướng. Nếu có thêm cát tinh, thì mức tài lộc, công danh càng tăng. Nếu đồng cung với Kỵ thì buôn bán giàu có.
Sao Tham Lang ở hãm địa là người có óc kinh doanh thường chuyên kỹ nghệ, thương mại, thủ công, nhưng tài lộc, công danh chật vật. Nhưng dù miếu, vượng, đắc hay hãm địa, hoặc gặp Kỵ hay Riêu đồng cung, thường bị giam cầm (nếu thiếu sao giải) hoặc hay bị tai nạn sông nước.
Sao Tham Lang ở cung vượng địa nếu có sao Hóa Kỵ đồng cung, hoặc xung chiếu, hoặc hợp chiếu, là người có óc kinh doanh, thích làm ăn buôn bán. Nếu có thêm Văn Xương, Văn Khúc, là người có tay nghề khéo, tinh vi, sắc sảo, có hoa tay, ưa thích văn chương, cây cảnh, nghệ thuật, nhưng hay chóng chán, hoặc hay bị phá ngang bỏ dở nửa chừng, nửa đời sau mới có danh phận, sự nghiệp.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Tài Bạch
Nếu ở Thìn Tuất thì chóng phát đạt, nhất là về già. Sao Tham Lang, Vũ Khúc đồng cung thì chỉ phát được lúc già, sau 30 tuổi. Rất hợp với nghề kinh doanh mua bán mà trở thành giàu có, nếu không thì cũng có tay nghề khéo léo, tinh xảo, thủ công, bán quán mà phát tài. Người rất tài hoa, khéo tay, có tính nghệ sĩ.
Đồng cung với Tử Vi thì tầm thường. Sao Tham Lang, Liêm Trinh thì phải cạnh tranh khó nhọc mới được tiền, mà kiếm tiền nhưng cũng không bền, nên làm giàu chậm mà chắc chắn.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Phu Thê:
Sao Tham Lang ở Thìn, Tuất, vợ hay chồng tài giỏi, giàu sang, nhưng gái thì ghen, chồng thì ăn chơi. Có thể hình khắc nếu lập gia đình sớm.
Sao Tham Lang ở Dần, Thân là số vợ hay chồng ưa ghen tuông, đa tình, hoặc nhiều tình cảm, đôi khi bạc tình, hôn nhân rất chóng thành nhưng cũng dễ tan. Tuy nhiên nếu có sao Lộc Tồn, Phúc Đức, Thiên Đức, Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Quan, Thiên Phúc, thì người hôn phối rất đứng đắn, con nhà danh giá, có lòng từ thiện, ưa thích vấn đề tâm linh, huyền bí.
Sao Tham Lang, Tử Vi đồng cung thì nên muộn lập gia đình mới êm đẹp lâu dài, nhưng trong nhà vẫn có sự bất hòa vì hay ghen.
Sao Tham Lang, Liêm Trinh thì không được tốt cho lắm như muộn lập gia đình, duyên nợ khó khăn, trắc trở, chắp nối, góa bụa. Duyên nợ dễ gặp cảnh lập gia đình nhiều lần, hoặc chắp nối, lấy nhau lúc còn nghèo khó, hoạn nạn, bị hình khắc gia đạo tức là bất hòa, xa cách. Tuy nhiên nếu không có sao xấu thì duyên nợ tốt, chóng thành, người hôn phối có tài năng, liêm khiết, trung trinh, biết lễ độ, tự kiềm chế lấy mình, thẳng thắn.
Sao Tham Lang, Vũ Khúc thì muộn lập gia đình mới tốt, hoặc phải lấy người lớn tuổi hơn nhiều, vợ chồng đều tháo vác, tài hoa, có nghề khéo, đặc biệt.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Thiên Di:
Chỉ tốt ở Thìn Tuất sinh kế dễ dàng nhờ gặp quí nhân. Với các sao khác như Tử Vi, Liêm Trinh thì bất lợi hay bị tai nạn vì kiện tụng, tù tội, tiểu nhân. Ở Tý Ngọ và Dần Thân cũng không hay. Đặc biệt với Vũ Khúc thì phát tài nhờ buôn bán, đương sự là phú thương.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Quan Lộc:
Sao Tham Lang ở cung Tý Ngọ Dần Thân, thường là quân nhân, chức vị tầm thường, công danh nhỏ thấp, thất thường. Ở cung Tý Ngọ thì tham nhũng. Nếu buôn bán thì lại thịnh vượng.
Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh thì cũng là võ nghiệp nhưng thấp kém lại hay bị hình tù. Đồng cung với Tử Vi thì bình thường. Nếu đồng cung với Vũ Khúc thì là doanh thương đắc phú, nhất là về hậu vận. Làm viên chức thì không bền.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Phúc Đức:
Sao Tham Lang ở Thìn Tuất và đặc biệt đi với Vũ Khúc thì tốt đẹp, hưởng phúc thọ, nhất là về già. Họ hàng cũng hiển vinh, nhất là nghiệp võ hay buôn bán, thường tha hương lập nghiệp. Còn ở Dần, Thân, Tý Ngọ, đồng cung với Tử Vi thì kém và bạc phước, dòng họ ly tán, sa sút, có khi dâm đãng.
Sao Tham Lang đồng cung với Liêm Trinh thì phúc đức không tốt, phải đi xa, lưu lạc, trong đời dễ gặp họa vì hình tù, kiện tụng truyền kiếp, bị vu oan giá họa, họ hàng ly tán, cơ hàn. Đi vào công danh hay gặp trắc trở, nếu yên phận thì về già phong lưu.
Ý Nghĩa Tham Lang Ở Cung Tử Tức:
Sao Tham Lang là sao mang ý nghĩa phong lưu, phóng đãng, nên nếu gặp các sao tốt thì con cái đứng đắn, tài hoa. Nếu không có sao tốt thì con cái hay ham vui, không thích ở gần cha mẹ, đường đời gặp nhiều gian truân, lận đận, duyên nợ khó khăn, hay gặp tai nạn, bệnh tật, tật nguyền, con hai giòng, có đứa yểu tử.
Tham Lang Khi Vào Các Hạn
Nếu Tham Lang nhập hạn ở Tứ Mộ, thì hoạnh phát tài danh, nhất là khi có Linh Hỏa hội chiếu.
Sao Tham Lang Vũ Lộc Mã: Được nhiều tiền và có danh chức.
Sao Tham Lang Hồng Đào: Lập gia đình.
Sao Nếu Tham Lang hãm địa thì hao tiền, phóng đãng, có thể bị tù hay họa. Gặp thêm sát tinh càng thêm nguy kịch.
Top 1. Cô nàng tuổi Tuất
Cá tính khá cô lập nên chuyện tình yêu của cô nàng tuổi Tuất thường không được suôn sẻ. Khi yêu, nàng khó toàn tâm toàn ý đầu tư vào mối quan hệ của mình và khiến đối phương cảm thấy không thể nào hòa hợp. Thêm vào tính cách độc lập và xem trọng sự nghiệp nên nàng thường tập trung vào công việc và củng cố cuộc sống tự do của mình. Đây cũng là cô nàng không thích làm việc nhà và hơi “bá đạo” trước mặt người khác phái.
![]() |
Top 2. Cô nàng tuổi Sửu
Cố chấp và không thích thỏa hiệp nên nàng thường xảy ra mâu thuẫn với nửa kia. Những cuộc cãi vã không cho phép nàng nhún nhường nên tình cảm luôn gặp khó khăn, khó tiến triển tốt đẹp và dễ có nguy cơ đổ vỡ. Đây cũng là kiểu người rất nghiêm túc, yêu cầu cao với bản thân và thích áp đặt người khác.
Top 3. Cô nàng tuổi Thìn
Ý chí kiên cường và trọng sự nghiệp nên cô nàng này thường tỏ ra mạnh mẽ và quá độc lập trước người khác phái, khiến đối phương e dè vì sợ yêu nàng sẽ mất đi bản lĩnh nam nhi. Khi yêu, nàng ít khi có thể dịu dàng, cũng không biết nũng nịu, tuy tỏ ra cứng cỏi nhưng lại là người thường chịu thiệt thòi trong tình cảm.
Khang Ninh (theo QQ)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |
| => Chuyên trang Tử vi - ## gửi đến bạn đọc công cụ tra cứu Tử vi hàng ngày, Tử vi trọn đời chuẩn xác nhất |
Những người phụ nữ đẹp nhất ngày 8/3
Khi kết hôn, không phải xem tuổi có hợp nhau hay không mà quan trọng là xem cả hai đã sẵn sàng cho việc lập gia đình và có đủ khả năng bao dung, chấp nhận điểm yếu, lỗi lầm của nhau hay chưa.

Đó là ý kiến của Thiền sư Pháp Hạnh, một du sĩ có nhiều tác phẩm hội họa nổi tiếng cũng như nhiều bài pháp hay về hạnh phúc trong một buổi đàm đạo với các Phật tử khi nhiều Phật tử trẻ hỏi ông rằng có tuổi hợp nhau để kết hôn không? Trai gái yêu nhau nhưng đi xem bói thì thầy bói nói là tuổi không hợp nếu lấy nhau sẽ tuyệt mệnh thì nên làm thế nào?
Thiền sư Pháp Hạnh cho rằng, tuổi nam nữ có hợp nhau hay khắc nhau là dựa trên quan điểm ngũ hành: ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc. Thông thường mọi người thích ngũ hành tương sinh, cho là có như thế thì mọi sự mới hanh thông, thuận lợi, phát triển… Nhưng thực tế ngũ hành tương khắc cũng tốt, thậm chí còn tốt hơn ngũ hành tương sinh.
“Vì ngũ hành tương khắc là khắc chế nhau, giữ cho mọi thứ ở thế quân bình, không quá vượng. Nếu mình có thói hư tật xấu mà không có ai khắc chế, ngăn cản thì mình sẽ đi đến đâu. Nếu chồng có thói quen ăn trộm mà vợ còn ủng hộ, khen ngợi, thì người chồng sẽ phạm tội nhiều đến chừng nào?", vị thiền sư dí dỏm.
Như vậy, thuận hay khắc đều tốt cả. Quan trọng là khi kết hôn, không phải xem tuổi có hợp nhau hay không mà cần xem hai điều. Đó là hai người đã sẵn sàng cho việc lập gia đình, cho việc có vợ, có chồng, và có con hay chưa? Hai người có đủ khả năng bao dung, chấp nhận điểm yếu, lỗi lầm của nhau hay chưa?
Cũng theo Thiền sư Pháp Hạnh, tương tự, tuyệt mệnh thì… cũng không sao. Nếu hai vợ chồng mà ý thức mình không sống lâu cùng nhau được thì mỗi giây phút đều cố gắng sống tốt, yêu thương nhau còn hạnh phúc hơn các cặp vợ chồng khác không biết quý trọng cuộc sống bên nhau khiến cho cả cuộc đời lúc nào cũng căng thẳng. Tuyệt mệnh như thế là đoạn tuyệt tham, đoạn tuyệt sân, đoạn tuyệt si.
Theo các thiền sư, thực tế các quan điểm về xem tuổi xung khắc hay ngày giờ tốt để dựng vợ gả chồng đều không quá quan trọng. Quan trọng là tâm con người. Những thói quen này đa phần là do tập tục để lại. Mọi người thực hiện vì thói quen, truyền thống, do sợ hãi (nếu không làm theo thì áy náy, sợ bị rủi ro, thất bại).
Do đó, khi thực hiện các công việc quan trọng như tang gia, cưới hỏi thì nên chiều theo ý kiến của mọi người cho vui vẻ thôi (bởi vì đối với mình thì ngày giờ nào cũng thế). Đó là tôn trọng tập tục và giữ sự hòa hợp với mọi người.
Các năm:

Dần – Ngọ – Tuất: Hướng tốt: Đông – Tây; hướng xấu: Bắc
Thân – Tý – Thìn: Hướng tốt: Đông – Tây; hướng xấu: Nam
Tị – Dậu – Sửu: Hướng tốt: Nam – Bắc; hướng xấu: Đông
Hợi – Mão – Mùi: Hướng tốt: Nam – Bắc; hướng xấu: Tây
Sao Thiên cơ tại cung Tỵ, Hợi là độc tọa thế bìnhbiết đầu cơ, có sáng kiến, kiếm tiền vất vả, thích hợp việc làm công ăn lương, tránh kinh doanh buôn bán, cần phải tiếp tục theo đuổi công việc, bỏ ra tâm huyết, trải qua cạnh tranh và thử thách, đồng thời tìm cách kiếm thêm việc phụ thì mới có thể có thành tựu tốt, cuộc sống ổn định vui vẻ. Tọa cung Tỵ tương đối cát lợi.
Sao Thiên cơ tại cung Tỵ, Hợi là độc tọa thế bình, sao Thái âm (cung Hợi là nhập miếu, cung Tỵ là rơi vào thế hãm) tại cung Phúc đức triều chiếu. Cung Mệnh không có chủ tinh, cung Thiên di là sao Thái dương, Thiên lương (cung Mão: Sao Thái dương, Thiên lương đều là nhập miếu; cung Dậu: Sao Thái dương là thế bình, sao Thiên lương là thế địa) cùng tọa thủ, cung Quan lộc là sao Thiên đồng, Cự môn không đắc thế địa; cung Điền trạch là sao Tham lang thế vượng.
Sao Thiên cơ túc trí đa mưu, có kiến thức về một ngành nhất định, giỏi về thiết kế phát minh, nghiên cứu phân tích, thích đưa ra ý kiến. Sao Thiên cơ độc tọa thế bình cung Tài bạch, biết đầu cơ, có sáng kiến, kiếm tiền vất vả, thích hợp việc làm công ăn lương, tránh kinh doanh buôn bán, cần phải tiếp tục theo đuổi công việc, bỏ ra tâm huyết, trải qua cạnh tranh và thử thách, đồng thời tìm cách kiếm thêm việc phụ thì mới có thể có thành tựu tốt, cuộc sống ổn định vui vẻ. Tọa cung Tỵ tương đối cát lợi.
Cung Mệnh không có chủ tinh, cần dựa vào cát tinh khác của bản cung và sao Thái dương, Thiên lương của cung đối diện (cung Thiên di) để tổng hợp và luận mệnh. Sao Thái dương, Thiên lương cùng tọa thủ cung Thiên di, sao Thái dương uy mãnh ngang ngược, quan tâm bác ái, cố chấp, hy sinh phục vụ. Hai sao kết hợp với nhau thì độc lập tự chủ, có lòng từ bi, thường hy sinh nhẫn nhịn, vui vẻ khi được phục vụ người khác, tính độc lập mạnh, làm việc gì cũng tự mình chịu trách nhiệm, thường có nhiều bạn bè, làm việc thiện không muốn người khác biết, có khổ sở thì tự mình cam chịu, xử sự thông minh, thích hợp với ngành phục vụ công chúng.
Đi ra ngoài được người khác quan tâm chăm sóc, có cơ hội phát triển, thường có kỳ duyên kỳ ngộ, gặp nguy nan thì thường hóa hung thành cát, thu nhập nhiều, xuất ngoại du lịch, di chuyển, học tiếp đều cát lợi.
Sao Thái âm tọa cung Phúc đức, có phúc âm của thượng tổ, thu nhập không ổn định, dịu dàng có tình thương, thanh lịch nho nhã, coi trọng phẩm chất cuộc sống.
Sao Tham lang tọa cung Điền trạch, thích hợp sống ở nơi phồn hoa náo nhiệt, nhà ở thoải mái, sau trung niên thì mới tích lũy quản lý được tài sản.
Sao Thiên đồng, Cự môn cùng tọa thủ cung Quan lộc, công việc ổn định, có thể tiến từng bước, không cạnh tranh với ngưòi khác, ít bị loại trừ, thiếu sự bền lòng.
Hòn non bộ là bộ phận quan trọng trong tạo cảnh sân vườn. Do vậy không thể thiết kế một cách đơn lẻ mà cần có sự phối hợp với nhiều yếu tố khác.
![]() |
(Theo Phong thủy vườn tược nhà ở cây xanh trong nhà)
ờng làm việc hài hoà giúp khích lệ và trợ giúp cả bạn lẫn những người bạn làm việc cùng? Thế còn việc sở hữu những kỹ năng suy nghĩ sáng tạo và hiệu suất hơn?

Nếu câu trả lời của bạn là “Có” đối với một trong các câu hỏi trên, bạn có thể nên quan tâm tới việc sử dụng Thuật phong thuỷ, một nghệ thuật sắp đặt của người Trung Hoa cổ.
Rất nhiều công ty Hồng Kông ngày nay đã áp dụng thuật phong thuỷ và tận hưởng nhiều lợi ích từ đây. Rõ ràng nhất đó là tạo ra được một môi trường làm việc yên bình, thành công và sinh lời.
Thật tuyệt vời khi bước vào cuộc hành trình tới thế giới diệu kỳ của “gió và nước.” Chúng ta sẽ có thể biết cách sử dụng dòng chảy năng lượng gọi là “chi” để cải thiện bản thân và hoạt động kinh doanh.
Phong thuỷ là một triết lý đã chứng minh ích lợi trong hơn ba nghìn năm qua. Hãy sắp xếp lại bàn làm việc và tâm trí của bạn. Hãy để chân lý mênh mông của Thuật phong thuỷ mang lại sự cân bằng tốt đẹp cho cuộc sống công việc.
Thuật phong thuỷ
Phong thuỷ là nghệ thuật sắp đặt vật thể của người Trung Hoa cổ nhằm đem lại những ảnh hưởng có lợi hay bất lợi. Sự sắp đặt này được dựa trên dòng chảy năng lượng “chi” theo cấu trúc âm và dương.
Về ngữ nghĩa, theo tiếng Hồng Kông, “phong” và “thuỷ” là “gió” và “nước.” Nhờ “gió” và “nước” mà các dòng năng lượng chảy qua tự nhiên và vạn vật. Dòng chảy năng lượng này không nên gặp trở ngại và cần có sự cân bằng để loại bỏ mọi sự bất thường.
Âm và Dương là biểu tượng và niềm tin vào tự nhiên, vào sự hiện hữu của một thế giới vạn vật hài hoà. Không có gì hoàn toàn là dương hay âm; trong một vật thể luôn có ít nhất một phần nào đó của âm hay dương.
Âm là mặt đen, biểu lộ sự yếu đuối, bị động, đen tối, lạnh lẽo, mùa đông và phụ nữ. Còn dương là mặt sáng, biểu lộ sự mạnh mẽ, chủ động, sáng sủa, ấm áp, mùa hè và nam giới. Thuật phong thuỷ được dựa trên học thuyết âm dương này.
Bát quái
Đây là một trong những công cụ hiệu quả nhất trong thuật phong thuỷ để tạo ra những thay đổi tích cực. Bát quái là một biểu đồ tám cạnh thể hiện 8 điểm của la bàn.
Mỗi hướng của la bàn tập trung vào một khía cạnh khác biệt của cuộc sống, chẳng hạn hướng Đông Nam ảnh hưởng tới sức khoẻ và giàu có. Sử dụng kiến thức này có thể giúp bạn đạt được các mục tiêu trong tất cả các khía cạnh cuộc sống.
Áp dụng trong kinh doanh
Thuật phong thủy đã và đang được áp dụng rộng rãi hơn trong thế giới kinh doanh. Cách đây không lâu, khách sạn MGM nổi tiếng tại Las Vegas, Mỹ theo thuật phong thuỷ đã cho xây dựng hai con sư tử bằng đá khổng lồ để tránh kinh doanh thua lỗ. Các công ty đang ngày một quan tâm nhiều hơn tới thuật phong thuỷ và những ứng dụng của nó trong kinh doanh.
Bố trí, sắp đặt lại bàn làm việc và không gian làm việc
Theo thuật phong thuỷ, hiệu quả công việc và sự giàu có trong kinh doanh có thể được nâng cao bằng việc sắp xếp lại và thiết lập trật tự trên bàn làm việc của bạn. Những dòng năng lượng mạnh mẽ không thể tuôn chảy đều nếu có sự bừa bộn trên bàn làm việc cản trở hướng đi và làm tắc nghẽn chúng.
Hãy loại bỏ mọi thứ khỏi bàn làm việc của bạn và dọn sạch mọi sự bừa bộn xung quanh đó. Bạn chỉ đặt trở lại những vật dụng nào được sử dụng hàng ngày và giấy tờ trên bàn làm việc phải gọn gàng và được giới hạn trong những công việc cần thiết. Những vật dụng và giấy tờ khác nên được đặt ở đâu đó, trong ngăn bàn, ngăn kéo tủ, giá tài liệu…
Giờ đây bàn làm việc của bạn đã gọn gàng, hãy đặt thêm vào đó vật gì đấy đáng yêu, tích cực và giúp thăng tiến sự nghiệp. Bạn nên sử dụng bát quái để hướng dẫn cách bày trí, chẳng hạn để gia tăng sự giàu có cho kinh doanh, hãy đặt tượng giả cổ màu đỏ hay màu tía vào góc đông nam của bàn.
Định vị bàn làm việc của bạn trong phòng hay trong văn phòng
Trong thuật phong thuỷ, ví trí bàn làm việc có ảnh hưởng lớn tới hạnh phúc, thành công và sự thịnh vượng của bạn trong cuộc sống kinh doanh. Vị trí tốt nhất của bàn làm việc nên ở nơi có thể nhìn ra toàn bộ gian phòng và sau lưng là tường.
Bạn cũng nên có tầm nhìn ra cả cửa số và cửa ra vào, nhưng đừng bao giờ hướng thẳng tới cửa ra vào. Đường ra vào cửa hay cửa sổ không nên hướng trực tiếp tới lưng bạn bởi nếu thế sẽ đem lại nhiều điều xấu.
Hoa và cây cảnh
Hoa và cây cảnh sẽ mang lại nhiều nhân tố tích cực cho môi trường làm việc. Bên cạnh vẻ đẹp tự nhiên, nó còn cải thiện chất lượng không khí, hoà đồng chúng ta với thế giới tự nhiên bên ngoài và màu sắc xanh tươi sẽ khích lệ những phát triển kinh doanh và cá nhân.
Song bạn cần tránh cây xương rồng hay các loài cây có lá sắc cạnh bởi điều đó có thể dẫn tới các điều xấu. Để đem lại những điều tốt đẹp, hoa và cây cảnh cần tươi và sum suê. Nếu cây cảnh chết, hãy bỏ nó ngay và thay thế bằng một cây khác. Cũng rất tốt nếu dùng cây cảnh bằng nhựa hay bằng lụa nhưng bạn cần giữ chúng không bị bám bụi.
Nước
Nước là biểu tượng mạnh mẽ nhất trong thuật phong thuỷ. Dòng chảy năng lượng của nó rất có lợi cho sức khoẻ và sự thịnh vượng của bạn nhưng cần quan tâm kỹ lượng để giữ cho nước luôn mới và sạch.
Các đài phun nước hay tháp nước là rất tuyệt vời nhưng cần chắc chắn rằng dòng chảy của nước không bị cản trở, tù đọng hay quá nhanh. Những tháp nước nhỏ được thiết kế đặt trên bàn cũng là một lựa chọn tốt nếu không gian bị giới hạn.
Một lựa chọn khác đó là bể cá cảnh hay bể thuỷ sinh. Bạn nên nuôi cá vàng ánh bởi vì vàng ánh là một biểu tượng của người Hồng Kông cho tiền bạc và có qua đó có tác dụng thu hút tiền bạc.
Một cách tuyệt vời nữa để đưa nước vào kinh doanh đó là sử dụng bất cứ vật dụng nào minh hoạ cho nước.
Văn phòng tại nhà
Thuật phong thuỷ cũng coi trọng sự thiết yếu phải giữ cho cuộc sống cá nhân và công việc tách biệt nhau khi bạn có văn phòng làm việc tại nhà. Một lối vào riêng biệt từ bên ngoài cho văn phòng tại nhà của bạn là một lựa chọn.
Nếu không thể, bạn nên bố trí căn phòng ở gần cửa trước hay cửa sau của căn nhà. Khi phòng làm việc tại nhà là một phần của căn phòng lớn hơn, hãy chắc chắn bạn ngăn tách nó bằng một vách ngăn hay những cây cảnh lớn. Một khu vực được trải thảm cũng thích hợp để làm nỗi bật nơi làm việc.
Trần nhà trong nơi làm việc của bạn như thế nào? Một trần nhà phẳng sẽ đảm bảo các dòng chảy năng lượng tốt nhất; còn bằng không bạn nên treo chiếc chuông gió để loại bỏ những điều xấu.
Bạn còn có thể đẩy mạnh dòng chảy năng lượng cá nhân và những điềm tốt trong tương lai bằng việc ăn mặc hợp lý và chăm sóc sức khoẻ, vệ sinh và hình thức của bạn. Đừng làm việc tại nhà khi còn đang mặc bộ đồ ngủ pyjamas.
Chắc phải mất hàng năm để hiểu đầy đủ và sâu rộng về thuật Phong thuỷ. Bạn nên tham khảo tài liệu về phong thủy để tìm hiểu thêm về bí quyết thành công từ hàng nghìn năm trước đây. Cho dù bạn là một nhân viên hay nhà quản lý, có rất nhiều yếu tố tuyệt vời bạn có thể ứng dụng từ Phong thuỷ vào môi trường làm việc, công việc và sự nghiệp của mình một cách có lợi nhất.
Trong những chương tiết phía trên của cuốn sách này, chúng ta đã biết, bát tự của nam giới lấy chính tài ta khắc hoặc thiên tài là vợ, nhưng chồng trong bát tứ của vợ, lại phải triệt để ngược lại, lấy quan (chính quan) sát (thiên quan) khắc ta là chồng. Cũng vậy, khi xem cho con cái, nam mệnh lấy thiên quan (thất sát) khắc ta là con trai, Chính quan là nữ, còn nữ mệnh thì lấy thực thần ta sinh là con trai, thương quan là con gái.
Do trong xã hội phong kiến, đàn bà mọi việc đều phải dựa vào chồng “chồng lợi thì vợ cũng lợi, chồng khổ thì vợ cũng khổ”, cho nên mệnh cho nữ xấu hay tốt, trước hết phải xem vị trí quan sát của chồng thịnh hay suy để định sang hèn. Tiếp đến phải xem sao của con, vì rằng nuôi con để dựa lúc về già, bởi vì người đàn bà bản thân không có thu nhập, do đó cuối đời vinh hay nhục, toàn dựa vào sao của con xấu hay tốt.
Trong tình hình chung, quan, sát, tài đắc địa, có lợi cho chồng, thực thần đắc địa, có lợi cho con. Chồng có lợi thì xuất thân giàu sang, cả đời hưởng phúc. Con có lợi thì cuối đời được nuôi dưỡng tốt. Do thực thần có thể sinh tài, lại có thể sinh quan. Ví dụ có người chồng can ngày bát tự Ất Mộc sinh ra là Đinh Hoả, sau đó lại do thực thần Đinh Hoả sinh Thổ, Mộc có thể khắc Thổ, cho nên Thổ là tài của Ất Mộc. Tiếp đó lại do Thổ sinh Kim, Kim là quan khắc Ất Mộc. Vì duyên cớ ấy cho nên nữ mệnh phần lớn lấy thực thần, tài, quan làm dụng thần của bát tự. Nếu như quan, sát, tài, thực trong bát tự sinh ra không đắc địa, lại không sinh vượng hoặc là khuyết hàm, khi hành vận lại không bổ sung được, thê thì suôt đời khốn khổ, chẳng nói làm gì.
Lễ giáo phong kiến lại tôn sùng phụ nữ trinh tiết, trưóc sau như một, cho nên trong bát tự nếu thấy quan thì không được sát, nếu thấy sát thì không được thấy quan, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ cần không có sát lẫn vào trong đó, hoặc trong tứ trụ thuần là sát, không có quan tinh lẫn vào, thì đều có thể gọi là con gái nhà lành.
Trong Tam mệnh thông hội của Dục Ngô Sơn nhân đòi Minh soạn, có nói rất kỹ về bát pháp, bát cách của nữ mệnh, xin dẫn giải như sau;
I. Bát pháp
1. Thuần: gọi là thuần có nghĩa là thuần nhất. Ví như quan tinh thuần nhất, sát tinh thuần nhất, có tài (tài có thể sinh quan) có ấn (ấn thụ hộ thân), lại không gặp hình xung như vậy là thuần. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh dưới đây.
Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Bính Thân
Tân Dậu trong bát tự là bản thân, mà Dậu với Tân mà nói, do ư chính ở lộc địa của lâm quan, cho nên bản thân sinh vượng. Ngưòi xưa nói: vượng không theo hoá theo Lý thì thiên can hợp cục, Bính Tân cần phải hoá Thuỷ, bây giờ bản thân duyên lộc, cũng phải hoá mà không hoá. Ở đây sao chồng Tân Kim là chính quan Bính Hoả khắc ta, liên hệ với mệnh này sinh vào tháng Mậu Ngọ đúng vào thời hoà vượng của tháng 5 nông lịch, cho nên sao chồng kiện vượng. Lại liên hệ với can năm Quý Thuỷ, rất khéo hình thành mỗi quan hệ chính quan vói Bính Hoả sao chồng. Trong dụng thần, chính quan là một cát tinh, cho nên rất có lợi cho chồng. Nếu lại liên hệ với can tháng Mậu Thổ lại là cát thần thực thần của sao chồng Bính Hoả, và Bính Hoả cũng Mậu Thổ cùng quy lộc (Lâm quan) đên địa chi Tỵ của trụ năm, có thể nói là khó có được.
Sau khi xem sao chồng lại đến sao con. Tân Kim sinh Nhâm Thuỷ là con, mà thân trong cung con ở chi giờ lại khéo hàm chứa Nhâm Thuỷ mà mối quan hệ của Nhâm Thuỷ với Thân trong 12 cung lại đúng ở vào đất trưòng sinh vạn vật hướng sinh. Hơn nữa thiên can Quý Mậu hợp hoà, Bính Tân hợp Thuỷ, Thuỷ Hoả có tượng ky tế, địa chi Tỵ, Ngọ, Dậu, Thân, Canh Kim trong kỷ, Canh Kim trong than, Tan Kim trong Dậu đều là tài khcí của Bính Hoả sao chồng và Đinh Hoả trong chi tháng Ngọ, cho nên tự nhiên lấy chồng được làm quan mà ăn lộc trời, thuộc về mệnh chồng vinh con sang.
2. Hoà: gọi là Hoà có nghĩa là điềm tĩnh. Ví như trong bát tự bản thân nhu nhược, chỉ có một ngôi sao chồng khắc ta mà tứ chi lại không có thần công phá xung kích, nó liễm được khí trung hoà nên “Hoà” vậy. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh.
Năm Nhâm Thìn Tháng Tân Hợi
Ngày Kỷ Mão Giờ Kỷ Tỵ
Thiên can Kỷ Thổ của trụ ngày trong mệnh là bản thân, Giáp Mộc trong trụ thang hội là sao chồng. Hợi đối với Giáp Mộc mà nói, ở chỗ đất trường sinh vạn vật hưởng vinh. Những điều nói trên gọi là chồng được quan tinh, con đường trường sinh, cho nên chồng vượng, con lợi, còn như Ất Mộc trong chi ngày Mão, tuy là thất sát của bản thân Kỷ Thổ nhưng có Canh Kim trong chi giờ tỵ chế ước, cho nên “lấy sát lưu quan”, là quý tượng trong nữ mệnh.
3. Thanh: gọi la “thanh” có nghĩa là thanh khiết. Trong nữ mệnh, hoặc chỉ có một quan, hoặc chỉ có một sao chồng đắc thời, trong trụ có tài có quan, có ấn trợ thân, không có khí hỗn đục, mới có thể đắc thanh quý. Lấy một ví dụ nữ mệnh như thế này:
Năm Kỷ Mùi Tháng Nhâm Thân
Ngày Ất Mùi Giờ Giáp Thân
Trụ ngày bản thân Ất Mộc, lấy chi ngày chi giờ trong đó thân chinh Canh Kim làm sao của chồng. Thân với Canh mà nói, ở vào lộc địa của lâm quan, cho nên sao chồng đắc thời mà Ất Mộc lấy thực thần Đinh Hoả ta sinh làm sao con, mà trong chi ngày Mùi bản thân lại hàm chứa Đinh Hoả, mà Mùi với Đinh mà nói lại cũng ở vào Vượng địa của lâm quan, cho nên sao con đắc địa. Ất Mộc lấy Nhâm Thuỷ làm chính ấn, mà trị tháng Nhâm Thuỷ lại toạ ở Trung Kim, nguồn thuỷ không thiếu, hơn nữa kỷ Thổ trong chi ngày Mùi lại là thiên
tài do Ất Mộc đưa đến. Như vậy tài vượng sinh quan, tứ trụ lại không có hình xung phá hại.
Thơ rằng:
Tài cung ấn thụ tam ban vật
Nữ mệnh phùng chi tất vượng phu
Cho nên người đàn bà có mệnh là phu nhân, được hai nước phong chức.
4. Quý : gọi là “Quý” là danh hiệu tôn vinh. Trong mệnh có quan tinh và được tài khí trợ sinh, trong tứ chi lại không có hình cung phá bại, đó gọi là nghiêu vũ trong nữ mệnh quý vậy. Sách nói: mệnh mà nhân không sát (thiên quan), quý được làm phu nhân. Lại nói: “nữ mệnh vô sát phùng nhị đức, khả nhị quốc chi phong”. Gọi là Nhị Đức, không chỉ riêng Thiên Đức, Nguyệt Đức, với nữ mệnh mà nói, tài cũng là Đức, quan cũng là Đức nếu lại có ấn thụ, thực thần, như vậy càng thêm tôn quý. Nêu một nữ mệnh dưới đây.
Năm Ất Dậu Tháng Bính Tuất
Ngày Quý Mão Giờ Quý Tỵ
Thiên can trụ ngày Tân Kim, không chỉ lấy can năm Ất Mộc ta khắc làm thiên tài, trước tiên được một đức và lấy Bính Hoả của Canh Kim khắc ta trong can tháng làm quan nhân, mà quan nhân này lại toạ ở một khố tàng vạn vật và Tỵ trong chỉ giờ lại kéo tháng đến làm lộc địa của lâm quan, cho nên lại được thêm một đức. Ngoài hai đức ra, can giờ Quý Thuỷ quý là quan của Bính Hoả chồng. Bản thân Tâm Kim sinh ra Quý Thuỷ là con, mà Thuỷ của con lại toạ ở Tỵ lâm quan, có thể nói “phu lộc đồng vị” hơn nữa can giờ Quý lai gặp chi ngày Mão, được gọi là Thiên Ất quý nhân. Như vậy vừa là quý nhân, lại là tài quan song mỹ, cho nên chồng và con đều phát, cả hai được phong.
5. Trọc: gọi là “trọc” tức là đục mà không trong. Bát tự nữ mệnh nếu xuất hiện ngũ hành mất vị trí, Thuỷ Thổ làm tổn thương nhau, bản thân rất nguy hiểm, ngôi sao đại biểu cho chồng không hiện ra, mà thiên quan lại rối tạp, trong tứ chi lại không có Tài, Quan, An, Thực, những người này phân lớn là kỹ nữ, tỳ thiếp, dâm đãng, ở đây xin nêu lên một nữ mệnh như thế này.
Năm Ất Hợi Tháng Ất Hợi
Ngày Quý Sửu Giờ Kỷ Mùi
Bản thân Quỷ Thuỷ sinh vào tháng 10 tháng Hợi, quá nhiều Thuỷ. Quý Thuỷ lấy Mậu Thổ làm chính quan xem ở chính quan không hiện rõ mà dẫn can giờ Kỷ Thổ làm Thiên phu nhưng mà trong chi ngày Sửu và chi giờ Mùi Kỷ Thổ đều có thiên phu ở hỗn tạp với nhau, hơn nữa trong trụ ngày không có tài, Ất Mộc vốn là thực thần của Quý Thuỷ nhưng Ất Mộc sinh ở can tháng rất khoẻ, Kỷ Thổ bị khắc, như vậy ngũ hành mất vị trí, khó tránh khỏi ma quỷ đến người, trước trong sau đục, không thể hưởng phúc.
6. Lạm: gọi là “lạm” có nghĩa là tham lam, tức là nói trong thiên can tứ trụ có nhiều phu tinh (sao chồng) trong địa chi lại ngầm có tài vượng đái sát. Như vậy khó tránh khỏi tửu sắc vô độ, tư túi đắc tài. Gặp phải mệnh này, nếu không khắc phu tái giá thì thân làm nô tì, vì rằng thái quá hoặc bất cập sẽ đi theo hướng phản diện. Ví dụ mệnh như thế này:
Năm Canh Dần Tháng Bính Tuất
Ngày Canh Thân Giờ Đinh Hợi
Bản thân Canh Kim sinh vào tháng thu, chi ngày lại gặp lâm quan lộc địa, bản thân tự vượng. Trong đó trụ tháng nặng hơn trụ giờ, đáng lẽ Bính Hoả là chồng nhưng chi năm Dần và chi tháng hội thành Hoả cục, ở can giờ lại thấu xuất Đinh Hoả, không tránh khỏi rất yêu Hỏa. Lại như bản thân Canh trong Kim lại ngầm khắc vói chi năm chi tháng Dần Hợi Mộc là tài mà Nhâm Thuỷ trong Hợi lại là cát thần thực thần của Canh Kim, thực thần có thể sinh tài. Vì vậy tuy nói người đàn bà này lớn lên xinh đẹp có phúc, nhưng lại không thiếu lạm dâm mà đắc tài.
7. Xướng: gọi là “xướng” tức là xướng ca vô loài Trong bát tự nếu xuất hiện thân vượng phu tuyệt, quan suy thực thịnh, hoặc trong tứ trụ không thấy quan sát, hoặc có mà bị coi là hung thần thương quan, thương tận, hoặc quan sát hỗn tạp mà thực thần thịnh vượng, những người này nếu không là mệnh kỹ nữ, cũng là ni cô tì thiếp, khắc phu dâm bổn, chỉ ở một mình. Xem mệnh như thê này:
Năm Đinh Hợi Tháng Canh Tuất
Ngày Mậu Thìn Giờ Canh Thân
Can ngày bản thân Mậu Thổ, lẽ ra là phu tinh (sao chồng) khắc ta Giáp Mộc trong chi năm Hợi, nhưng do Mộc này ở vào tháng 9 tháng tuất của mình thu, trong vượng tướng hưu tù tử, ở vào tử thất thời nguyên khí, giờ đây lại gặp can tháng Canh Kim giám lâm, cho nên rõ ràng là khắc tuyệt, lại xem Canh Kim trong chi giờ Thân, lẽ ra thuộc về thực thần của Mậu Thổ, nhưng Thân với Canh mà nói lại là lộc định của lâm quan, cho nên thực thần có lực, hơn nữa Mậu Thìn vốn thuộc sao khôi cương, có lợi cho đàn ông, không lợi cho đàn bà, giờ đây khôi cương chiếu lâm, lại có thể sinh thực, nêu lại kết hợp với Canh Kim của can tháng can giờ thì không tránh khỏi thực thần vượng quá mức. Tuy nói Ất Mộc trong Thìn cũng là sao chồng khắc ta nhưng toạ ở bên dưới Mậu Thổ, không thể thấu xuất, nên không thể lấy để dùng. Ngoài ra Nhâm Thuỷ trong chi năm Hợi, Quý Thuỷ trong chi ngày Thìn, Nhâm Thuỷ trong chi giờ Thân đều là tài của bản thân Mậu Thổ, Mậu Thìn vốn thuộc khôi ải, bản thân cường vượng, bây giờ phu tinh khắc ta đã tử tuyệt mà xung quanh lại đầy những thực thần sinh ta, cho nên gọi là Thân vượng phùng sinh, tham thực tham tài, là một ca nữ xinh đẹp không có chồng.
8. Dâm: gọi là dâm là dâm ô quá mức. Bát tự của loại người này, bản thân tuy nhiên đắc địa nhưng phu tinh (sao chồng) thái quá, tối sáng giao nhau, người mà can ngày thân vượng, trong tứ trụ đều là quan sát thì đúng như vậy. Phu tinh xuất hiện ỏ thiên can gọi là minh, xuất hiện ở địa chi gọi là ám. Ví dụ 1 Đinh 3 Nhâm, hoặc Đinh Hoả đồng thời gặp phải thiên can Nhâm Thuỷ, Quý Thuỷ trong địa chi thìn, Quý Thuỷ trong địa chi Thìn, Quý Thuỷ trong Tý đều là những điền hình về tứ trụ thái quá hoặc minh ám giao nhau. Loại đàn bà đối với đàn ông quả là không thể dung nạp được, nêu một ví dụ:
Năm Mậu Thìn Tháng Nhâm thìn
Ngày Nhâm Tuất Giờ Quý Hợi
Nhâm Tuất trong mệnh và Quý Hợi, một trụ ở vào lộc địa của lâm quan, một trụ ở vào trạng thái đế vượng vạn vật trưởng thành, có thể gọi là bản thân đắc địa. Nhưng ở phu tinh, minh có trụ năm Mậu Thể là chính phu, ám có 3 Mậu Thổ (gồm 2 Thìn một Mậu) thành ám phu của Mậu Thổ, như vậy phu tinh giao tập, dâm hết chỗ nói
II. Bát cách
1. An tỉnh giữ phận: gọi là an tỉnh giữ phận tức là mệnh nữ phụ tinh trong bát tự có khí, can ngày tự vượng. Tài thực được đất, không có hình xung. Hãy xem một mệnh này.
Năm Quý Tỵ Tháng quan Canh Thân
Ngày Ất Mão Lộc Giờ Đinh Hợi
Canh ngày bản thân Ất Mộc, toạ ở chi ngày Mão là lộc địa lâm quan của Ất Mộc mà chi giờ Hợi cũng chi ngày Mão lại phùng hợp cục, cho nên can ngày tự vượng. Lại xem phu tinh, At Mộc lấy Canh Kim khắc ta làm chính quan hay ở chỗ, chi tháng thân ở nơi phu tinh toạ lại thuộc lộc địa lâm quan của Canh Kim mà chi năm Tỵ lại là đất trường sinh của Canh Kim, hơn nữa Nhâm Thuỷ trong chi giờ Hợi là thực thần thiên trù của Canh Kim, nên gọi (chồng) ăn thiên lộc, quan tinh mỹ vượng. Như vậy bản thân, quan tinh đều hưởng vượng khí, hai bên không xâm lấn nhau, tứ trụ lại không có thất sát lẫn vào, vì thế có thể thấy đó là mệnh của một phu nhân an tĩnh giữa phần, hoà nhã lịch thiệp.
2. Phúc thọ đểu đủ: đây là một loại cách cục thân toạ đất vượng, thông với ngụyên khí, can chi phò nhau, tổ hợp hữu tinh, mà Tài Quan Ân thụ đều đắc vị, không làm thóat tài hoại Ân, Thương quan, quả là cách cục thuần tuý. Nếu thân vượng mà vận hành vào đất tài, thực, cũng thuộc mệnh phúc thọ đều đủ. Nêu một ví dụ về nữ mệnh này:
Năm Bính Ngọ Tháng Canh Tý
Ngày Tân Dậu Giờ Quý Tỵ
Can ngày Tân toạ đất Dậu, chuyên lộc tự vượng. Tân Kim lấy Bính Hoả làm quan, mà quan tinh quy lộc ở chi giờ Tỵ, phu tinh đắc địa. Tân Kim lấy Quý Thuỷ là con, can giờ thực thần Quý Thuỷ quy lộc ở can tháng Tý Thuỷ, cho nên tử tinh (sao con) cũng đắc địa. Hơn nữa can chi phò nhau, không làm hại nhau, lại sinh vào Quý thuỷ tháng 11 dương lệch, trở thành tượng Kim Bạch Thuỷ thanh. Như vậy mệnh chủ xinh đẹp đoan chính, phu vượng tử quý, cho nên có thể đoán là một mệnh phúc thọ đều đủ.
3. Vượng phu thương tử: xem nữ mệnh ở vượng phu thương tử, mấu chốt là phải xem trụ ngày, vì rằng giờ là đất quy súc lại. Cách xem: hai sao ca con, dần quy về giờ, phu tinh sinh vượng, tử tinh suy bại vậy lấy một nữ mệnh là ví dụ:
Năm Bính Tuất Tháng Bính Thân
Ngày Đinh Tỵ Giờ Tân Hợi
Ngày sinh Đinh Hoả, toạ ở đế vượng Tỵ, bản thân đắc địa. Đinh Hoả lấy Nhâm Thuỷ chế ta trong chi tháng thân làm quan tinh mà chi giờ Hợi là lộc địa lâm quan của quan tinh Nhâm Thuỷ, chi tháng Thân Kim lại là đất trường sinh của Nhâm Thuỷ. Hơn nữa tháng 7 Kim vượng , Canh Kim trong thân và Tân Kim can giờ cùng với hai thiên can Bính Hoả của can giờ, can tháng là ấn thụ, tài thần của Nhâm Thuỷ quan tinh, cho nên đoán biết ông chồng thông minh phú quý. Đinh Hoả lấy thực thần kỷ Thổ làm chỗ dựa cho con cái bản thân, bây giờ trong trụ kia thấy Kỷ Thổ, cho nên lấy quyền đem Mậu Thổ tàng trong chi là tử tinh. Nhưng đem Mậu Thổ tàng trong chi Quý dẫn về cung chi giờ Hợi, Giáp Mộc trong Hợi là thất sát khắc phạt Mậu Thổ, thế đem Mậu Thổ đặt vào tuyệt địa. Vì rằng tử tinh bị khắc, cho nên trong mệnh khó có con, hoặc có thì cũng khó nuôi.
4. Vượng tử thương phu: về mệnh vượng tử thương phu, có thể từ trụ tháng, trụ giờ mà đoán biết. Quan tinh có khí đắc thời, chồng có thể thanh quư phát phúc; nếu không đắc nguyệt khí, ở trụ giờ lại không có vượng khí, thế thì chồng có thể vì mất khí mất thời mà nguy đến tính mệnh. Lại như tử tinh quy dẫn về giờ, nếu gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng mà không hình khắc, chứng tỏ tử tinh đắc địa mà sinh vượng, phần lớn có thể làm nên. Xin nêu một ví dụ.
Năm Kỷ Mão Tháng Giáp Tuất
Ngày Ất Mão Giờ Mậu Dần
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm chính quan. Sinh vào tháng Tuất, Canh Kim phùng Tuất, ở vào đất suy của nguyên khí, lúc dẫn quy về giờ, chi giờ Dần lại là đất trường sinh của Bính Hoả, mà Thìn Tuát hội cục, đều thuộc Hoả, nên đoán tử tinh hưởng vượng.
5. Thương phu khắc tử: nữ mệnh này, quan tinh và tử tinh mất tháng mất giờ, lại bị khắc tiết, cho nên không đẹp. Xem một nữ mệnh.
Năm Bính Tý Tháng quan Canh Tý
Ngày Ất Hợi Giờ Bính Tý
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm quan tinh. Bây giờ tháng Tý Kim hàn Thuỷ Lạnh, thực là Tử địa của Canh Kim
khí, trong tứ trụ không có Thổ đến sinh Kim. Cho nên đức ông chồng không lâu bền. Ất Mộc lấy Bính Hoả làm con, dẫn đến Tý cung ở giờ, thuộc về Thuỷ Hoả xung kích, là đất thuỷ vượng Hoả diệt, tuy nhiên năm đến can giờ đều có hai Bính Hoả, làm thế nào chịu nổi Thuỷ ở địa chi tứ trụ tuôn ra, cho nên con cái khó lòng tránh khỏi nguy nan.
6. Thiếu niên chết yểu: sách đoán mệnh cho rằng trong nữ mệnh vốn có quan tinh bị thương, hành vận lại thông đến đất quan, hoặc vô quan kiến thương, hành vận lại lâm đất quan và thân nhược quan sát quá nặng, sát nặng khắc thân, như thế nếu không chết thì cũng dâm ồ làm tràn. Ngoài ra nếu mang theo nhận không bị chế, hành vận lại phù hợp ở đất nhận, cũng không phải điềm lành.
Ví dụ:
Năm Đinh Mão Tháng Quý Sửu
Ngày Canh Thìn Giờ Bính Tý
Bản thân Canh Kim, Đinh Hoả là quan, bây giờ địa chi Tý Thìn và Quý Thuỷ trong Sửu củng là thương quan của quan tỉnh bị khắc chế nên bị hại vì chết đuối.
Lại như:
Năm Ất Dậu Tháng Mậu Tý
Ngày Bính Dần Giờ Kỷ Hợi
Ngày sinh Bính Hoả toạ chi Dần là đất trường sinh của Bính Hoả, đáng tiếc sinh vào tháng Tý giờ Hợi, quan sát quá nặng, giống như vượng Hoả gieo vào Thuỷ Thịnh, cho nên lo lắng sẽ chết khi sinh đẻ Lại xem một bát tự
Năm Nhâm Tý Tháng Quý Mão
Ngày Giáp Tuất Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, cho tháng Mão là Dương nhận, trụ Đinh Mão lại thương quan, Dương nhận, đồng thời địa chi Tý Mão dụng hình, Mão Tuất tương hợp, phu tinh. Tài tinh trong trụ yếu sức, vì vậy ngày Kỷ Mão, tháng Ất Sửu năm Quý Dậu phạm gian dâm mà chết.
7. Chính thiền tự xử: tam mệnh thông hội cũng rất thích thú về cách nói chính thiên tự xử. Sách nói: chính thiên tự xử là gì? là vợ chồng tương hợp, lại gặp Tỷ kiên phân tranh. Nếu một ngôi phù tinh có hai ngôi thể tinh tương hợp, gọi là tranh hợp. Nếu bản thân tự vượng, thân kia lại suy, tứ trụ không xung thì ta chính mà là thiên, nếu thân kia vượng mà ta suy, tứ trụ xung ta thì thân kia vượng mà ta thiên, nêu thân ta vượng hửu khí thì phu theo ta là chính, ta thân suy mà có ngôi vượng khác thì theo ngôi khác, ta ngược lại là thiên. Bảo rằng thân kia vượng, tranh đoạt chồng ta, ta đành phải là thiên, hoặc tự vượng thái quá, trụ không có phu tinh, cũng là thiên, hoặc quan sát hỗn tạp, hoặc thương quan quá nặng, cùng là thiên, càng dâm ô. Hãy xem:
Năm Nhâm Tý Tháng Bính Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Tân Mão
Bản thân Tân Kim, lấy can tháng Bính là quan tinh. Nhưng Bính lại hợp với can giờ Tân, thì lấy đây là mệnh hai đàn bà tranh một chồng, hay ở bản thân toạ tại lộc địa lâm quan chi Dậu, thân vượng có lực, mà can giờ Tân Kim lại toạ ở tuyệt địa Mão, suy nhược không chịu nổi công kích. Vì vậy kết quả tranh giành ta làm chính thê, còn kẻ kia làm thiếp. Lại như:
Năm Quý Mùi Tháng Nhâm Tuất
Ngày Quý Tỵ Giờ Nhâm Tý
Bản thân Quý Thuỷ, Mậu Thổ là quan. Đáng tiếc Nhâm Tý dựa Thân Thuỷ vượng. Quý Thuỷ Thuỷ nhược, do nhược không thắng vượng, cho nên kê kia thắng ta suy, đành phải làm thứ phòng. Nhưng trụ giờ Nhâm Thuỷ nặng mà tràn trề, toạ chi Tý dưới Nhâm gặp chi năm Mùi, kèm theo đào hoa cho nên kê kia tuy là chính thất (vợ cả) nhưng lại khó tự xử.
8. Chiêu giá bất định: sao lại gọi ,là chiêu giá bất định? Nghĩa là: trong nguyệt lệnh có phu tinh thấu can, tương hợp với kỷ, bản thân Tỵ tòng phục, phu tinh lại là nguyên khí, giờ dần phu tinh, hoặc sát tinh lại thích hưởng vượng địa đê khắc bản thân kỷ, lại tòng phục thiên phu, nên gọi là chiêu giá bất định (gả cưới không khẳng định) nếu phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, hẳn gã chồng chậm, hoặc lấy chồng không minh bạch, hoặc chồng chẳng giúp được gì, hoặc có ngoại tình. Lại như:
Năm Quý Dậu Tháng Giáp Tý
Ngày Kỷ Mùi Giờ Ất Hợi
Bản thân Kỷ Thổ, Giáp Mộc là quan, sinh vào tháng Tý mất thời không vượng. Nhưng chi giờ phùng hợi, hợi là đất trường sinh của Giáp Mộc, quan tinh đương vượng, nhưng can giờ Ất Mộc lại chế bản thân là sát, can ngày toạ Mùi, lại là đất thương khố (kho tàng) của ất Mộc, dẫn đến sát tinh cũng vượng. Như vậỵ, mệnh chủ ở vào trạng thái gả cho Giáp mà biến Ất, gả cho Ất mà biến Giáp, do dự không quyết nên gọi là “chiêu giá bất định”. Bát pháp, bát canh mà sách cổ nói ở trên, ý thức phong kiến nặng nề, mà còn có những lời nói chủ để mua vui, cho nên hy vọng độc giả có con mắt phê phán trong khi nghiên cứu phân tích.
9. Được phong nhất phẩm
Năm tài Đinh Tỵ tài quan ấn
Tháng quan Mậu Thân quan ấn kiếp
Giờ Thực ất mão thực
ơ mệnh này, quan tinh thực thần toạ lộc, ấn thụ đương lệnh phùng sinh, tài sinh quan vượng, không thương ấn thụ, ấn thụ đương lệnh, đủ để phù thân, thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, nhìn xem toàn cục ngũ hành dừng đều, an tường thuần thuý, biết là phu vinh tử quý, là phu nhân nhất phẩm hai đời.
10. Phu quý tử quý
Năm quan Kỷ Tỵ tài sát ấn
Tháng kiếp Quý Dậu ấn
Ngày Nhâm Thìn
Giờ thực Giáp Thìn thương sát kiếp
Thu thuỷ thông nguồn, ấn tinh thừa lệnh, quan sát tuy vượng, chê hoá hợp nghi, hay là giờ can thấu xuất Giáp Mộc, chết sát Thổ thú, một khí thuần tuý, cho nên nhân phẩm đoan trang, giỏi thi thử. Kết hợp hành vận không Hoả, cơ quan không trợ giúp, ấn không bị thương, nên có phu tinh hiển quý, con nối dõi giỏi giang, được vinh hạnh phong hàm nhị phẩm.
11. Nữ trung tài tử
Năm Canh Thìn Tháng Nhâm Ngọ
Ngày Ất Hợi Giờ Quý Mùi
Ất Mộc sinh vào tháng Ngọ, Hoả thế mạnh mà can năm Canh quan nhu nhược, tốt ở chỗ can tháng Nhâm Thuỷ, can giờ Quý Thuỷ thông căn chế Hoả, chi năm Thìn Thổ tiết Hoả sinh Kim, hơn nữa chi tháng Ngọ Hoả sinh chi năm Thìn Thổ, chi năm Thìn Thổ sinh can năm Canh Kim, can năm Canh Kim sinh can tháng Nhâm Thuỷ, Can tháng Nhâm Thuỷ sinh can ngày Ất Mộc, như vậy tiếp tục tương sinh, khiến Hoả trong trụ không mãnh liệt Thổ không táo, Thuỷ không cạn, Mộc không Thổ, cho nên thuần tuý trung hoà, là nữ trung tài tử.
12. Dĩ ân vĩ phu
Ví dụ
Năm Bính Dần Tháng Tân Mão
Ngày Quý Dậu Giờ Mậu Ngọ
Can ngày Quý Thuỷ sinh vào tháng Mão là tháng tiết khí, trong trụ tài quan đều vượng, can ngày nhu nhược, cho nên lấy Ấn tinh phù ta làm phù tinh. Nhìn thấy khắp toàn cục, phù tinh thanh mà đắc nguyệt nên hành vận đến sửu vận, mấy năm liền cung Kim tiết Hoả, sinh liền hai con, về sau vận hành đến Mậu Tý, vì Tý Thuỷ xùng đẫy Đinh Hoả trong chi giờ Ngọ khiến Dậu Kim không bị thương, chồng có tin mừng thi cử đỗ đạt. Nhưng một khi giao vào Đinh Hợi, tài tinh ngược đãi, nên buông tay mà chết. Phân tích mệnh này, bệnh ở tài khí quá vượng, lấy Bính Hoả can năm hợp với Tân Kim can tháng, lấy Đinh Hoả can giờ khắc phá chi ngày Dậu Kim, hơn nữa Dần, Mão dương quyền sinh Hoả, cho nên hành vận một khi đi vào Đinh Hợi, Hợi với chi năm Dần hợp hoá Mộc, giúp dựng lên vượng thần mà Đinh Hoả lại khắc Tân Kim nên không có lộc.
13. Dĩ tài vi tử
Ví dụ:
Năm Bính Thìn Tháng Quý Tỵ
Ngày Đinh Sửu Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào tháng Tỵ, Quý Thuỷ phu tinh thanh thấu, Giáp Mộc ấn thụ đẹp đứng một mình, cho nên phẩm cách đoan trang, trinh khiết. Tiếc là Bính Hoả ở can năm chi tháng quá vượng, sinh trợ thiên quan, để bị phá vỡ. Nhưng may lớn trong không may là chi tháng Tỵ cùng chi ngày Sửu hợp thành Kim cục, tài t́nh đắc dụng. Người xưa có câu nói: “Thân vượng tài vi tử, thể suy ấn tác nhi” cho nên lấy tài làm con, dạy con thành danh, về sau do hai con đều quý, được phong tam phẩm.
14. Hình phu nan thủ
Ví dụ:
Năm Đinh Mùi Tháng Ất Tỵ
Ngày Giáp Ngọ Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, sinh vào tháng Tỵ, chi thuộc nam phương, can thấu lưỡng Đinh, tương như hoà thế mãnh liệt, khiến cho Giáp Mộc tiết khí thái quá. Trong cục lại không ấn thụ sinh thân. Cho nên chỉ có thể lấy chi giờ Mão Mộc làm dụng thần. Kết hợp đại vận, lúc trẻ nhập Hoả địa. Cho nên chồng chết sớm. Do người này thông minh xinh đẹp, mà lại nông nổi khác thường, về sau một khi vận đến Mậu Thân, tranh chiến cùng Mộc Hoả, nên không thư tiết được.
15. Phu tử tự vằn
Ví dụ:
Năm Mậu Tuất Tháng Kỷ Mùi
Ngày Bính Thìn Giờ Mậu Tuất
Khắp cục thương quan, ngũ hành khuyết Mộc, ấn tinh không thấy, cách thành thuận cục. Người này thông minh xinh đẹp tiếc tứ trụ Kim Thuỷ ít quá, Thổ của thương quan quá khô và dày, mà phu tinh Tân Kim lại mộ ở Tuất, cho nên dâm loạn cực kỳ, chồng gặp hung tai mà chết, về sau theo người khác, không được 2-3 năm lại khắc, chờ đến Ất Mão Mộc vận, phạm vượng của Thổ, tự vẫn mà chết.
16. Khi phu dâm tiện
Ví dụ
Năm Mậu Ngọ Tháng Ất Sửu
Ngày Mậu Tuất Giờ Bính Thìn
Can ngày Mậu Thổ, sinh vào tháng Sửu Kim tàng Thổ vượng, khiến cho can tháng quan tinh Ất Mộc không thể dựa vào gốc, nếu lấy Ất Mộc thông vối chi giờ Thìn khố. Thì Ất Mộc trong Thìn lại gặp Tân Kim trong Mậu khắc phạt, hơn nữa chi năm, chi ngày, can giờ ấn thụ sinh thân, cho nên bản thân cường vượng, đủ để dối gian, đặt phu quân ra bên ngoài. Kết hợp ở tuổi trung niên hành nhập tây phương Kim vận, biết đó là loại đàn bà dâm tiện.
17. Thuỷ tính dương hoa
Ví dụ
Năm Đinh Mùi Tháng Quý Sửu
Ngày Cánh Tý Giờ Đinh Hợi
Hàn Kim hỉ Hoả, đáng tiếc địa chi Hợi Tý Sửu hội thành Thuỷ cục, can tháng Quý Thuỷ khắc can năm Đinh Hoả, Quý Thuỷ trong chi tháng Sửu xung diệt dư khí Đinh Hoả trong Mùi, mà can giờ Đinh Hoả lại do hư thoát vô căn nên không đủ để dùng, hơn nữa ngũ hành tứ trụ thiếu Mộc, cho nên Mùi đủ sức làm sống lại Đinh Hoả mà quản chế Canh Kim. Do vậy, ngày sinh Canh Kim tự hành sự một mình, không đếm xỉa bị Đinh Hoả quản thúc thuộc loại đàn bà thuỷ tính dương hoa.
18. Hợp đa dâm lạm
Ví dụ
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Tân Tỵ Giờ Bính Thân
Mệnh này, can tháng Nhâm Thuỷ hợp với can năm Đinh sát, can giờ Bính Hỏa đắc lộc ở Tỵ cho nên thân gia đình dòng dõi, đẹp mà khéo, người ta đều gọi bà là “Thái Dương Phi”. Xem cả cuộc đời bà khi 4-5 tuổi xinh đẹp khác thường, cho đến 13-14 tuổi đẹp như người trong tranh, năm 18 tuổi kết vợ chồng với một thư sinh, anh chàng này bình thưòng chăm chỉ học hành nhưng sau khi kết hôn yêu đương đắm đuôi, một năm sau bỏ học, mà cuối cùng mắc bệnh lao mà chết. Sau khi chồng chết, người đàn bà này càng tự do phóng khoáng, cuối cùng thân bại danh liệt, không nơi nương tựa mà đi đến bước đường cùng tự vẫn. Phân tích nữ mệnh này, trong mệnh cục này thiên can địa chi hợp lại quá nhiều, cho nên Nhậm Thiết Tiêu nói: trong thập can của chồng, duy Bính Tân hợp dùng quan hoá thương quan, gọi là tham hợp vong Quan và Tỵ Thân hợp cũng hoá Thương quan, Đinh Nhâm hợp thì ngầm hoá tài tinh, ý là đem Bính Nhâm Hoả đặt ra ngoài muôn đứng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống hồ can chi đều hợp, nên không phải là ý trung nhân. Nhà mệnh lý học cận đại, Viên Thụ Sách là người nổi tiếng đã soạn ra cuốn mệnh lý tham nguyên. Trong quyển 7 bộ sách có ghi hai nữ mệnh mà ông đã đoán, có thể dùng để nghiên cứu nhằm phê phán.
19. Đoán cho bà X
Năm Ất Hợi Tháng Bính Tuất
Ngày Mậu Ngọ Giờ Nhâm Tuất
An mệnh Ất Mậu
5 Đinh Hợi 15 Mậu Tý
25 Kỷ Sửu 35 Canh Dần
45 Tân Mão 55 Nhâm Thìn
65 Quý Tỵ 75 Giáp Ngọ
Ngày sinh Mậu Thổ, lấy can năm Ất Mộc làm phù tinh, lây chi Tuất Canh Kim là Tử tinh. Đang vào mùa thu, Mộc rụng Kim tàng nên phu tinh không vượng, tử tinh không nhiều, nhưng được mệnh cung Ât Dậu trợ giúp cho hai tinh cha con, vẫn làm cho bố con cùng thịnh, huống hồ can giờ Nhâm Thuỷ lại sinh ra Ất Mộc sao? Nếu mệnh mà phu tinh phối với Thuỷ Mộc tương đối nhiều thì nhuần hoà, 3-4 con nối dõi, chỉ hiềm dương nhận hội hợp, không tránh được lao tâm vất vả. Trước 30 tuổi, bực dọc không yên. 10 năm gần đây, hỉ khí đầy nhà, con cái vây quanh. 41 tuổi giao Dần vận, tam hợp hóa Hoả, không thể không táo Thổ, huyết bệnh ở phế gan, cần phải đề phòng, về sau ngoài 44 tuổi Mậu Ngọ, 47 tuổi Tân Dậu bị tổn thương ra, đến 60 tuổi đều mạnh khoẻ như ý, thọ ngoài lục thập hoa giáp.
20. Đoán cho người đàn bà đẹp
Năm Đinh Sửu Tháng Tỵ Dậu
Ngày Mậu Tý Giờ Bính Thìn
An mệnh Giáp Thìn
9 Canh Tuất 19 Tân Hợi
29 Nhâm Tý 39 Quý Sửu
49 Giáp Dần 59 Ất Mão
69 Bính Thìn 79 Đinh Tỵ
Mậu Thổ lấy chi Thìn Ất Mộc làm phù tinh, lấy Tân Kim của Dậu làm tử tinh, giờ Mộc ở mộ địa mà đắc mệnh quan Giáp Thìn trợ giúp, Kim được hợp với năm sửu, tựa như phu vinh tử thịnh vây, nào biết Giáp ở mệnh cùng cũng Kỷ của can tháng hoá Thổ, Tỵ mất tác dụng của Mộc, Sửu Dậu hợp Kim, là kẻ thù của Mộc, không thể coi là con được. Vì vậy chồng khó thọ đến già, con khó thành đạt, trước 23 tuổi còn được, 24 tuổi được đại vận Tân Kim, lưu niên Canh Kim cùng đến đánh phá Giáp Ất, làm Mộc khô mục, chồng bị chết, con không ngăn mà đến. May là ngày sinh Thổ dày, thắng được Thuỷ vận, con người vững như vàng đá, chịu mọi phong sương. Đức hạnh được truyền tụng trong làng xóm, danh nêu trong ấp, đáng trọng đáng kính, thọ ngoài sáu mươi.
Khi xem nữ mệnh thì khác với nam, kẻ phú quý một đời quan tụ, kể thuần tuý tứ trụ hưu tù, nếu đục tràn ngũ hành xung vượng, kẻ mỵ dâm quan sát đan nhau, không quan đa hợp đó là bất lương. Các trụ sát nhiều, không là khắc chế. Ấn thụ nhiều thì già không con, thương quan vượng còn trẻ mất chồng, tứ trụ không thấy phu tinh, không là trinh khiết, ngũ hành nhiều gặp Tý chiếu (chỉ thực thần nhiều) khó tránh hoang dâm, thực thần một ngôi phùng sinh vượng, bảo con đến bái thánh minh, quan sát không tạp gặp ấn phù, lấy chồng sẽ gặp hội thanh vân. Giữ phòng lạnh mà trinh khiết, Kim Trư Mộc hổ (chỉ ngày Tân Hợi, Giáp Dần) tương phùng (hai ngày này tuy khắc phu mà thủ chính), nhà không ngủ một mình, Thổ hầu Hoả Xà (chỉ ngày Mậu Thân, Đinh Tỵ) gặp nhau (hai ngày này khắc phu bất chính). Tài vượng sinh quan, phù thực vô thương mà phu vinh tử quý, quan thực lộc vượng nhất ấn hữu trợ mà sau được sủng ái. Thương quan lặp lại không tài ấn, nhà bại hình phu, quan sát trùng phùng gặp tam hợp, hoang dâm vô sỉ. Hợp nhiều, quan nặng là người tham dâm hiếu sắc. Quan tạp khí suy, thê thiếp ham dục tội chồng. Thân vượng quan hung, không ni cô thì là con hát tôi đòi, thực thần biến đức, trước nghèo hèn mà sau vinh hoa, ngoài ra, lúc xem đoán mệnh còn có một cách nói khắc phu nhảm khí. Dầu tiên, phàm nữ mệnh, ngày sinh ở quan, quỷ, tử, mộ, tuyệt, chủ khắc phu, ví như nữ mệnh sinh ngày Bính Tuất, Canh Tý, tra thiên Ngũ hành Vượng, Tưóng, Hưu, Tù, Tử và 12 cung nói ở trên, Bính gặp Tuất ở trạng thái đúng vào chỗ cuối của đời người mà quy mộ, mà Canh gặp Tý lại ở vào trạng thái đúng vào lúc vạn vật chết, vì vậy đều có thể tìm chồng. Nhưng cũng có người cho rằng, nữ mệnh sinh ngày Tân Mão, tuy phùng tuyệt địa, thì lại đẹp nhiều xấu ít, như vậy khó lòng mà nói khái quát được.
Hơn nữa, nữ mệnh, năm sinh ngày sinh cùng một ngôi thì khắc phu. Năm sinh ngày sinh đái lục Giáp, gọi là đái Giáp, chủ khắc phu, ngày và tháng cùng đái Giáp cũng vậy. Lấy ví dụ nói, nếu nữ mệnh sinh vào năm Giáp Ngọ lại gặp ngày sinh cũng là Giáp Ngọ, thế thì không thể không khắc phu. Dĩ nhiên, đây đều là cách nói không có căn cứ, không đứng vững được, không cần tin.
Điều thú vị là, trong sách đoán mệnh còn có nhiêu ca quyết đoán phụ nữ mang thai, sinh con trai hoặc sinh con gái trong tam mệnh thông hội ghi.
Bảy bảy bốn chín hỏi cô ngày nào có
Trừ năm sinh của mẹ, lẻ là nam chẵn là nữ
Chẵn là nam không bình thường
Thọ mệnh chẳng lâu dài.
Căn cứ bài ca quyết này, lấy 49 làm cơ số, nếu tuổi mẹ là 31 (theo tuổi mụ), tháng mang thai theo âm lịch là tháng giêng, thế thì lúc tính 49+1 (tháng giêng) bằng 50-31 bằng 19, 19 thuộc số lẻ, cho nên con trai. Nếu tính ra số lẻ sinh con trai, số chẵn sinh con gái, nhưng kết quả sinh ra, số lẻ sinh con gái, số chẵn sinh con trai, như vậy trái ngược, thọ mệnh không dài mà chết yểu. Nhưng có điều làm người ta nghi hoặc không hiểu được là, có sách lại đem tuổi mẹ cộng với 19 thế thì ngược hẳn với cách tính mang thai của tam mệnh thông hội.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Lòng bàn tay màu hồng
Cá tính thẳng thắn, trung trực và sảng khoái, có sức hấp dẫn đặc biệt, khiến người tiếp xúc có cảm giác dễ gần và vui vẻ. Vì vậy, bạn đi đến đâu cũng rất được hoan nghênh, sự nghiệp cũng dễ dàng phát triển lớn mạnh.
Lòng bàn tay màu đỏ
Tính tình nóng nảy và bộc phát, dễ xử sự theo tình cảm. Chỉ cần gặp phải chút trắc trở, bạn rất dễ bỏ cuộc và cũng thường có hành vi kích động.
![]() |
Lòng bàn tay màu vàng
Thông thường bạn có thể chất hơi yếu đuối, tính tình hướng nội và cô độc, hay sợ sệt và thiếu quyết đoán. Thái độ tiêu cực nên khó làm nên việc lớn.
Lòng bàn tay xanh xao nhợt nhạt
Nội tâm của bạn vô cùng nhạy cảm, tâm trạng dễ dao động và rất hay để tâm đến lời nói, suy nghĩ của người khác. Bạn hay sầu não vì những chuyện nhỏ nhặt, cuộc sống khó vui vẻ.
Lòng bàn tay màu trắng
Bạn thiếu tinh thần và sức sống, thể lực kém, tâm trạng thiếu ổn định nên khó được người khác tín nhiệm. Tính tình hướng nội, không giỏi biểu đạt nên các mối quan hệ xã giao cũng không tốt.
Lòng bàn tay màu đen
Cơ thể yếu ớt, tâm trạng hướng nội và rất khó để giao tiếp với người khác. Bạn thường thu mình trong vỏ bọc tự tạo và có xu hướng sống cô lập.
Khang Ninh (theo Inka)
Chùa Bồng Lai tọa lạc tại thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bồng Lai còn có tên gọi khác là Chùa Hà Thạch. Chùa được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía.
Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc.
Lịch Sử: Tương truyền, chùa Bồng Lai được làm vào đời Trần, do ông Đỗ Nguyên Cảnh tổ chức nhân dân xây dựng. Ông Đỗ Nguyên Cảnh, một vị tướng của Trịnh Doanh, là người Hà Thạch, thấy dân làng không hoà thuận lắm bèn đem quân về đóng ở Xuân Lũng, ông cho gọi các thợ cả đến bàn bạc rồi đêm đến mới điều quân về làng tựu xà xếp cột dựng chùa, chọn hướng Thao Giang để tránh việc làng tranh cãi. Ông ra lệnh mỗi đầu xà, đầu cột đều phải đệm vải tấm để việc dựng được nhanh chóng và bí mật. Vì vậy chỉ qua một đêm. Sáng ra dân làng bỗng thấy một ngôi chùa đồ sộ như có phép thần thông biến hóa. Từ đó chùa rất được sự ái mộ của tăng ni phật tử và dân trong vùng, họ đều cho rằng chùa do trời dựng.
Chùa Bồng Lai gồm 2 toà kiến trúc hình chữ Đinh 丁. Chùa có cổng tam quan, sân chùa lát bằng gạch đỏ, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Tiền đường gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc theo kiểu quá giang gối tường bố trụ. Toà thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian có kết cấu vì kèo câu đầu và trụ báng chống nóc.
Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m, cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m, thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa.
Trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt trạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17.
Chiếc bệ được làm bằng đất nung duy nhất còn lại trên đất Phú Thọ được coi là nghệ thuật trang trí Phật giáo thời đại Lý Trần. Bệ được thiết kế giật cấp 3 tầng. Kết cấu bệ gồm các viên đất nung có kích cỡ khác nhau được lắp vào nhau, mỗi mặt là một khối hình trang trí nổi, tạo thành một tác phẩm nghệ thuật bệ đất nung hoàn chỉnh. Các họa tiết trang trí gồm: Hoa cúc, hoa văn cánh sen, hoa hải đường và trang trí hình con ly đang trong tư thế vờn mây. Nhìn chung đây là chiếc bệ đất nung quí hiếm còn sót lại của chùa Bồng Lai.
Chùa Bồng Lai có hơn 200 pho tượng tròn làm bằng chất liệu gỗ và đất, kỹ thuật tạo dáng đẹp, sơn thếp hài hòa, được bài trí ở 2 tòa trên các bệ xây giật cấp cao dần về phía trong.
Các pho tượng chùa Bồng Lai đều được các nghệ nhân tạc với kỹ thuật cao, tràn đầy tâm hồn dù chất lượng bằng gỗ hay đất cũng được phủ sơn nhiều lớp, bên ngoài thếp vàng, thếp bạc cẩn thận, xứng đáng là những pho tượng có tiếng là đẹp xưa nay.
Tượng được bài trí cân đối hài hòa từ tòa tiền đường vào thượng điện. Dáng tượng đẹp, đạt tới trình độ Phật tính cao bởi nghệ thuật tạo tượng còn khá nguyên vẹn của thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18.
Chùa Bồng Lai để lại một dấu tích khang trang với quy mô bề thế bên bờ sông Hồng, phong cảnh hữu tình, đã một thời là trung tâm sinh hoạt của cư dân trong vùng. Chùa Bồng Lai đã được Bộ văn hóa thông tin cấp “Bằng công nhận di tích lịch sử – văn hóa” cấp quốc gia.
10 – DỰ ĐOÁN CẦU TÀI Tài làm dụng thần Cần phân biệt 2 loại hình dự báo cầu tài: - Dự đoán tài vận của con người; - Dự báo cầu tài trong kinh doanh. 10.1 Dự báo tài vận của con người. - Cần có tài vượng, tử vượng, tử là nguồn tài, thổ cũng là nguồn tài. Các tiêu chí dự đoán: - Tài sinh T thì suốt đời được tài, nhưng T phải có tử sinh trợ. - Tài hưu bị T khắc thì không có tài, cầu tài không lợi. Ngược lại tài khắc T là của tìm đến mình, cầu tài là được. - Tài quá vượng, tài lâm nguyệt lại được hào động sinh là tài tinh, sẽ được nhiều tài. Hoặc tài động biến thành tài, nhật kiến là tài chồng chất, cầu được tài, nhưng phải chờ ngày tài vào mộ thì tài mới đến tay. - Tài trì T hoặc quan trì T là được tài. Tài sinh thế là tượng dễ được của. - Tài trì T, sinh T, hợp T, khắc T đều là của tìm đến mình, cầu là được. - Tài vương T vượng thì rất tốt. T hưu tù mà tài lâm vượng địa thì vẫn được tài. - T yên tĩnh mà được tài sinh thì dễ được tài. - Tài yên tĩnh, gặp ngày xung hào tài thì sẽ được tài. - Tử vượng tướng, động mà hợp tài, sinh tài thì có tài. - Tử lâm nguyệt kiến nhật thần, tử động mà tương hợp tương sinh với tài thì cầu được tài. - Tử gặp thanh long sinh tài, hợp tài, T vượng địa thì vận hanh thông. - Tử động sinh tài, động hóa tài, tài động hóa tử thì tài dồi dào. - Tử động biến hồi đầu khắc gặp bạch hổ thì đề phòng tai nạn. nếu là tử trì T thì ta không sao nhưng người nhà sẽ bị. - Tử bị tổn thương thì không có tài. - Quan hóa tài thì lợi cho cơ quan. - Quan phát động hợp T thì mãn ý. - Quan hóa tài mà khắc T là được tài. Ngược lại, tài hóa quan mà khắc T thì rất xấu. - Huynh động sinh Tử thì tài nhiều và vững chắc. - Huynh động là kìm hãm tài. nếu có quan động để kiềm chế huynh thì vẫn có tài. Nếu huynh lâm mộ thì đến ngày nhập mộ sẽ có tài. - Huynh động khắc tài, nhưng huynh bị nhật phá, nguyệt phá thì không khắc được tài. - Huynh lâm thái tuế thì cả năm hao tài. huynh động lâm thái tuế lại càng xấu. - Phụ hóa tài thì được tài, nhưng gian khổ vì phụ là thần gian khổ. - Phụ + huynh vượng khí gặp tài tuyệt địa thì không nên cầu tài. - T ở vượng địa thì có thể làm ra tài. - T, tài, tử hợp thành tài cục hoặc tử cục sinh thế thì nhiều tài. - Gặp quẻ lục hợp, tài vượng tướng hoặc T tương hợp với tài thì có tài lớn. - Nhật khắc tài thì ra khỏi ngày đó sẽ được tài. - Quẻ lục hợp biến thành lục xung, T bị nhật nguyệt phá thì không có tài. - Không có hào tài và hào tử tôn thì không có tài. - Gặp quẻ lục xung mà dụng thần bị khắc thì không có tài, lại còn đề phòng tai nạn. T + Ư tuần không thì cầu không được tài. - Gặp quẻ lục hợp mà tài bị nhật nguyệt xung thì bị phá tài ( trước hợp sau tan). 10.2 Dự báo trong kinh doanh. Quy Ước: T = ta Ư = người hoặc kế toán, khách hàng T,Ư tương sinh tương hợp tương hòa thì mới tốt. Những tiêu chí dự đoán: - Ư sinh T là mình lợi - T sinh Ư là người lợi - T khắc Ư là người khác làm theo ý mình - Ư khắc T là mình bị lừa dối - Ư lâm huynh, huyền vũ: bị mất trộm. - Ư lâm T, quan: tai họa: ( thin thổ quan- ư – tỵ hỏa H- T) - T lâm tài và Ư lâm tử là tượng người khác hà hiếp mình. Ư = T đều tuần không thì chủ và khách lừa dối nhau. - Ư sinh T thì giao dịch dễ dàng. - T = Ư tương xung tương khắc thì bạn cũ cũng thành thù. - Gặp quẻ lục hợp, hoặc T hợp tài, tử thành hợp cục thì hưng vượng. Lục hợp biến thành lục xung thì trước tốt sau tiêu điều. - Gặp quẻ phản ngâm (quẻ biến có hành khắc quẻ chủ) thì nên đóng cửa hàng. - Tài trì T là phồn vinh, tài khắc T thì sẽ được lời. - Tài là vốn, tử là nguồn, cả 2 vượng thì tài hưng thịnh. - Tài hóa tiến là giá sẽ lên cao; hóa thoái là giá sẽ xuống thấp - Tài suy hóa thành vượng thì tương lai giá sẽ lên cao. Tài vượng thành suy, tuyệt thì hãy bán mau và ngừng mua vào. - Tài vượng: nên bán thật mau; T suy: giữ hàng và mua chậm lại. - Hào tài ở quẻ nội suy, hoặc hào tài ở quẻ ngoại vượng sinh hợp T thì nên đi nơi khác cầu tài. - Tài tĩnh thì mới nên tích hàng. T , tài động thì nên bán hàng. - Tài suy, mộ, không, phá, động mà biến hung, hoặc bị nhật nguyệt hình xung khắc hại, lại thêm T và tài đều tuần không thì không thể mở cửa hàng. - Quan động thì hay gặp cãi cọ. quan khắc thì tai họa liên tiếp. - Quan trì T động hồi đầu khắc, lại bị nhật khắc T thì đề phòng bị bệnh ( vào tháng nào T lâm mộ). - Quan khắc t thì đáng sợ cho buôn bán, quan lâm huyền vũ lại khắc T thì bị quan quyền bắt hoặc bị cướp. - Huynh động là đáng sợ, sẽ thua thiệt. huynh dương thì thì không được lâu. - T, Ư lâm huynh phát động là không tốt. hoặc nhật nguyệt lâm tài để xung khắc T thì tốt.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thu Hương (##)
![]() |
![]() |
| ► Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về mười hai con giáp bạn nên xem |