Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Hướng dẫn chọn loại hoa để đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh

Tùy vào đối tượng khác nhau hoặc sở thích của người đã khuất mà chúng ta có thể chọn nhiều loại hoa để dâng lên người đã mất khi đi tảo mộ.
Hướng dẫn chọn loại hoa để đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tết Thanh Minh là dịp con cháu đi tảo mộ, bày tỏ lòng thành kính đối với tổ tiên. Thông thường, chúng ta nên chọn các loại hoa thông dụng như hoa huệ, hoa cúc hay hoa hồng… Tuy nhiên, tùy vào đối tượng khác nhau hoặc sở thích của người đã khuất mà chúng ta có thể chọn nhiều loại hoa để dâng. 


Huong dan chon loai hoa de di tao mo trong Tet Thanh Minh hinh anh
Hoa cúc
  Chọn những loài hoa thể hiện sự tiếc thương, nhung nhớ
 
Bước vào tiết Thanh Minh, vạn vật như bừng sống lại, những sự khởi đầu mới, những vòng tuần hoàn mới lại bắt đầu. Theo truyền thống, cành liễu mềm mại và hoa đào tươi thắm là 2 loại thực vật thường được dùng trong lễ tảo mộ. Ngày nay, những loài hoa như hoa cúc, hoa hồng, hoa ly, hoa loa kèn trắng… lại được ưa chuộng hơn.
 
Mang ý nghĩa tượng trưng cho sự tiếc nuối, sự tiếc thương với người đã mất, nên những loài hoa màu trắng sẽ là thích hợp nhất cho việc tảo mộ. Một số người cũng thích chọn những loài cây bình dị và có sức sống mãnh liệt như cây hương thảo, cây sống đời… để mang ý nghĩa người ra đi sẽ sống mãi trong tim người ở lại. Hoa màu vàng, phổ biến nhất là hoa cúc vàng, cúc đại đóa cũng thể hiện sự đau buồn và nhớ nhung, bạn cũng có thể chọn để dâng lên.

Huong dan chon loai hoa de di tao mo trong Tet Thanh Minh hinh anh 2
Hoa ly
Chọn hoa theo tuổi tác hoặc sở thích của người đã mất

Chẳng có quy tắc nào với việc chọn hoa đi tảo mộ cả, bởi vậy, bạn hoàn toàn có thể chọn loại hoa theo sở thích hoặc theo tuổi tác của người đã mất. Nếu người đã mất ra đi lúc tuổi đã cao thì bạn có thể chọn nhiều hoa có màu đỏ, hồng – tông màu này sẽ thể hiện tình cảm nhớ nhung nồng ấm của con cháu. Nếu người đã mất ra đi lúc còn trẻ thì còn thể chọn nhiều loại hoa màu trắng vàng, đặc biệt với người mất lúc chưa lập gia đình thì nên chọn loại hoa trắng như tưởng nhớ tới sự trong trắng, trinh bạch của họ. 
 
Nếu người đã mất lúc còn sống thường hay thích một loại hoa nào đó thì bạn cũng hoàn toàn có thể chọn loại hoa đó để dâng lên. 
 
Cần lưu ý: Với những loại hoa có hương thơm quá nồng, màu sắc qua sặc sỡ thì tốt nhất là không nên dâng lên để tránh việc người khác nghĩ rằng bạn thiếu tôn trọng người đã khuất.

Huong dan chon loai hoa de di tao mo trong Tet Thanh Minh hinh anh 3
Hoa hồng
Chọn hoa phù hợp với vị thế người đã mất

Khi đi tảo mộ trong tiết Thanh Minh, tốt nhất là bạn nên chọn những loại hoa mộc mạc, màu sắc không quá sặc sỡ, nên lấy màu vàng và trắng làm chủ đạo, cũng có thể xen thêm một chút sắc tím.
 
Nếu hoa để dâng lên người bề trên thì bạn có thể dùng các loại hoa cúc màu vàng hoặc trắng.
 
Nếu hoa dùng để dâng lên người cùng thế hệ có thể dùng các loại cúc trắng vàng hoặc các loại hoa hồng, hoa ly, hoa loa kèn…
 
Nếu người đã mất là bạn bè hoặc ít tuổi hơn thì có thể chọn loại hoa lúc sinh thời người đó thích là được, không cần phải quá câu nệ hình thức. Hãy nhớ rằng quan trọng là loại hoa được chọn có thể thể hiện được tình cảm của bạn với người đã khuất, còn chọn hoa gì, hoa màu nào đều không cần quá khắt khe vì tảo mộ trong tiết Thanh Minh, tấm lòng nói lên tất cả chứ không có luật lệ nào quy định cả. 
 
► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất

Lichngaytot.com
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn chọn loại hoa để đi tảo mộ trong Tết Thanh Minh

Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Đền Hoàng Bà - Hưng Yên được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định,
Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xuất phát từ trung tâm thành phố Hưng Yên, xuôi theo đê sông Hồng về phía đông khoảng 3km, ta sẽ thấy một ngôi đền toạ lạc trên gò đất cao, quay về hướng đông nam. Bên phải là dòng sông Hồng cuộn chảy, bên trái là con đê bao quanh như một bức tường thành. Phía trước là cánh đồng, phía sau là xóm làng, thấp thoáng nhà mái ngói, mái bằng trong những vườn nhãn xum xuê xanh mướt. Đó là Đền Hoàng Bà, xã Quảng Châu, thành phố Hưng Yên.

Lịch sử đền Hoàng Bà

Đền Hoàng Bà được tạo dựng từ đầu thế kỷ XVII, thờ bà Trần Mã Châu, một vị nữ tướng tài ba đã có công lao to lớn, cùng Hai Bà Trưng đánh tan quân Tô Định, giành lại độc lập cho đất nước.

Tương truyền, sau Trưng Vương lên ngôi được 3 năm thì quân Nam Hán lại sang xâm lược nước ta. Trần Mã Châu được lệnh ra quân quyết chiến với giặc. Quân giặc bao vây tứ phía. Trên mình ngựa, tay cầm song kiếm, bà tả xung hữu đột, thấy giặc ngổn ngang. Được nửa ngày, gió thổi làm lộ thân hình, tướng giặc biết đó là nữ liền hô to: “Sĩ tốt khoả thân mà đánh” khiến bà lúng túng, bị thương, quay ngựa chạy về đến Bảo Châu thì hoá. Đó là ngày 3/3 năm Ất Mùi (năm 43 sau CN)

. Dân làng nơi đây đã lập đền thờ, tế lễ để ghi công đức của Hoàng Bà. Cảm phục và thương xót bậc lương thần đã quên mình vì nước, Trưng Vương truy phong cho Bà là “Thượng đẳng Phúc thần” và chuẩn phê cho làng Bảo Châu là nơi đền chính, phụng sự tế tự.

Tương truyền đền Hoàng Bà rất linh thiêng. Các triều đại nối tiếp về sau đứng lên dẹp giặc, gây dựng cơ đồ đều được Châu Nương linh thiêng hiển ứng, âm phù giúp nước, nên lại được phong: “Thượng đẳng tối linh anh linh hiển ứng” . Đến nay đền còn giữ được 7 sắc phong qua các triều đại. Triều Lê Thái Tổ phong cho Bà là: “Phương Dung trinh thục mĩ nga nhân Uyển Huệ Hoà công chúa.” Gần đây nhất là triều Khải Định năm thứ 4 (tháng 7 năm 1919), sắc phong cho Bà là: “Trinh tĩnh Trung đẳng thần”.

Kiến trúc đền Hoàng Bà

Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, đền Hoàng Bà đã nhiều lần phải trùng tu tôn tạo, song vẫn luôn giữ được nét xưa; uy nghi, giản dị, thanh tao. Hiện đền còn giữ được khá nhiều hiện vật quý giá, như: kiệu bát cống, kiệu võng, kiệu Bà, đại tự, hoành phi, câu đối, ca ngợi công đức Hoàng Bà với nhiều nội dung sâu sắc. Đặc biệt, đền còn giữ được bức tượng Hoàng Bà bằng gỗ quý rất đẹp từ thời Bà còn sống.

Hàng năm, đền mở hội từ ngày 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Con em quê hương ở khắp mọi nơi cùng khách thập phương nô nức về dự hội, tưởng nhớ người nữ tướng anh hùng của dân tộc và ôn lại truyền thống chống ngoại xâm của ông cha ta.

Năm 1997, Đền Hoàng Bà đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia. Đây mãi sẽ là nơi tôn vinh, tri ân công đức của Hoàng Bà – vị nữ anh hùng dân tộc trong buổi đầu dựng nước, nơi bồi đắp lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc cho muôn đời con cháu mai sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Hoàng Bà - Hưng Yên

Những lý giải thú vị về việc đặt tên chữ T (P7)

Ẩn sau mỗi cái tên sẽ là một tính cách, một số phận khác nhau, cùng khám phá những lý giải thú vị về việc đặt tên chữ T nhé !
Những lý giải thú vị về việc đặt tên chữ T (P7)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi cái tên mang một tính cách, một số phận khác nhau.


Trú: Đa tài, ôn hòa, trung niên vất vả, cuối đời phát tài, phát lộc.

Trúc: Cuộc đời thanh nhàn, lanh lợi, đa tài nhanh trí, trung niên phát tài, phát lộc, cuối đời con cháu ăn nên làm ra.

Trực: Tính cách ôn hòa, hiền hậu, danh lợi vẹn toàn, thành công, hưng vượng, gia cảnh tốt.

Trúc: Trí dũng song toàn, số an nhàn, phú quý, trung niên cát tường, có số xuất ngoại.

Trung: Là người tinh nhanh, chính trực. Thuở nhỏ nhiều tai ương, ra ngoài được tài lộc,  phúc thọ, hưng gia, cuối đời lo nghĩ nhiều.

Trướng: Là người tài năng, trung niên vất vả, cuối đời cát tường.

Dat ten chu T va vai ly giai thu vi (P7) hinh anh
Tên vần T

 

 Trường: Thật thà, mau miệng, thuở nhỏ gặp tai ương, trung niên cát tường, cuối đời thịnh vượng, nếu là nữ dễ phải tái giá.

 Trưởng: Tính tình cứng rắn, dũng cảm, khẳng khái, đa tài, cuộc đời thanh nhàn, trung niên gặp tai ương, cuối đời cát tường.

Trượng: Ý chí cao, hoài bão lớn nhưng thiếu hòa nhã, trung niên phát tài, phát lộc, gia đình không hòa thuận, cuối đời vất vả.

Truy: Ưu tư, phiền muộn vì sự nghiệp, trung niên cẩn thận lắm tai ương, cuối đời cát tường.

Truyền: Đa tài, xuất ngoại sẽ cát tường, cuối đời hay sầu muộn hoặc lắm bệnh tật.

Từ: Đa tài, nhanh trí, cuộc đời thanh nhàn, phú quý, trung niên thành công hưng vượng, cuối đời u sầu.

Tụ: Cần kiệm thu vén cho gia đình, số thanh nhàn, đi xa sẽ cát tường, trung niên sống bình dị, cuối đời hạnh phúc.

Tứ: Số vất vả, nghĩa lợi phân minh, trung niên bôn ba vất vả, kỵ xe cộ, tránh sông nước.

Tú: Số trắc trở trong tình cảm, nếu kết hợp với người mệnh cát được cát, kết hợp với người mệnh hung sẽ gặp hung.

Tự: Trắc trở trong tình yêu, an phận thủ thường, cuối đời cát tường.

Tử: Trí dũng song toàn, thanh nhàn, phú quý, trung niên vất vả, cuối đời ăn nên làm ra. Là con trai thì số có 2 vợ, là con gái thì ôn hòa, hiền hậu.

Tư: Vợ hiền, con ngoan, phúc lộc trời ban, cả đời thanh nhàn, vinh hoa phú quý, thành công, phát tài, phát lộc.

Tuần: Bôn ba vất vả nhưng trung niên thành công, phát tài, phát lộc, cuối đời con cháu ăn nên làm ra.

Tuân: Kết hôn muộn sẽ đại cát, trung niên có một số vấn đề về bệnh tật. Đa tài, hiền hậu, cuối đời phát tài, phát lộc.

Tuấn: Tuấn tú, đa tài, trên dưới hòa thuận, trung niên thành công, hưng vượng, xuất ngoại sẽ cát tường, danh lợi song toàn.

Tuất: Tuấn tú, linh hoạt, đa tài, nhanh trí. Thuở nhỏ vất vả, trung niên phát tài, phát lộc, hiếm muộn con cái.

Túc: Có số xuất ngoại, bản tính thông minh, đa tài nhanh trí, dễ gặp trắc trở trong tình cảm, trung niên thành công, phát tài, phát lộc.

Tuế: Thanh nhàn, đa tài, anh minh, trung niên bình dị, cuối đời cát tường.

Tùng: Học thức uyên thâm, cần kiệm lập nghiệp, trung niên thành công hưng vượng, có số xuất ngoại.

Tụng: Sống tình cảm, thanh nhàn, đa tài, phúc lộc song hành, trung niên cát tường, gia cảnh tốt.

Tước: Có số làm quan, nhiều tài lộc, cuộc đời thanh nhàn, phú quý, trung niên thành đạt, khắc bạn đời, khắc con cái.

Tướng: Có tài năng, lý trí, khắc bạn đời, khắc con cái, nếu là nam thì số 2 vợ, trung niên lập nghiệp thành công.

Tượng: Khắc cha, khắc mẹ, lúc trẻ gặp khó khăn, trung niên vất vả. Là người đa tài nhanh trí, cuối đời thành công, phát tài, phát lộc.

Tường: Thông minh, lanh lợi, hoạt bát, cuối đời cát tường.

Tương: Vui ít, buồn nhiều, gia cảnh tốt, được hưởng vinh hoa phú quý.

Tuy: Thanh tú, lanh lợi, cẩn thận gặp họa trong tình cảm, trung niên cát tường, cuối đời hưng vượng, gia cảnh tốt.


Theo Tên hay thời vận tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lý giải thú vị về việc đặt tên chữ T (P7)

Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Thân –

Giáp Thân (1944, 2004) 1. Sinh lực XX: Đây là vận may quan trọng nhất cần tìm hiểu, nó cho biết liệu có mối nguy hiểm tiềm ẩn nào đe doạ tính mạng của bạn hay không. Sự đe doạ tính mạng có thể xuất hiện theo nhiều kiểu khác nhau và có thể xuất hiện m
Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Thân –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự đoán vận may năm 2015 của người tuổi Thân –

Muốn rước về tài lộc, may mắn, 12 con giáp nên thử những mẹo phong thủy sau

Chỉ cần thực hiện những mẹo phong thủy dễ như trở bàn tay dưới đây, bạn sẽ rủng rỉnh tiền bạc và ngập trong may mắn.
Muốn rước về tài lộc, may mắn, 12 con giáp nên thử những mẹo phong thủy sau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong
Tuổi Tý
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-1
Tuổi Mão
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-2
Tuổi Ngọ
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-3
Tuổi Dậu
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-4
Tuổi Sửu
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-5
Tuổi Thìn
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-6
Tuổi Mùi
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-7
Tuổi Tuất
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-8
Tuổi Dần
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-9
Tuổi Tỵ
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-10
Tuổi Thân
nghe-nghiep-theo-12-con-giap-giup-co-tien-tai-danh-vong-11
Tuổi Hợi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn rước về tài lộc, may mắn, 12 con giáp nên thử những mẹo phong thủy sau

Những lỗi phong thủy khiến bạn rước họa vào nhà

Có nhiều gia đình hay hay trưng bày cóc ngậm tiền ở bàn thờ thổ địa, thần tài, ban ngày cho cóc hướng ra ngoài cửa, tối đến quay cóc hướng vào trong nhà. Đó là một lỗi phong thủy xua đuổi "tài vận", vì những linh vật khi đã trưng bày không nên quay đi quay lại nhiều lần, theo nhiều hướng.
Những lỗi phong thủy khiến bạn rước họa vào nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

1./ Di chuyển cóc phong thủy

Trong phong thủy, cóc 3 chân ngậm tiền hay còn gọi là Thiềm Thừ là một linh vật rất được ưa chuộng sử dụng để cầu tài lộc. Theo kinh nghiệm trong phong thủy. Thiềm Thừ thông nhân tính nên khi khai quang tốt nhất chỉ nên có 1 mình gia chủ. Sau ngay khi khai quang, cóc ngậm tiền nhìn thấy ai đầu tiên thì sẽ mãi mãi phù hộ cho người đó.

Có nhiều gia đình hay hay trưng bày cóc ngậm tiền ở bàn thờ thổ địa, thần tài, ban ngày cho cóc hướng ra ngoài cửa, tối đến quay cóc hướng vào trong nhà. Điều này hàm ý "đớp" tiền ở ngoài rồi "nhả" vào nhà mình. Tuy nhiên, nếu bạn nào đã có lần đọc truyền thuyết về Thiềm Thừ hẳn sẽ biết "Ông đến từng nhà và nhả tiền vào nhà" chứ không phải kiếm tiền ở ngoài mang về. Đó là một lỗi phong thủy xua đuổi "tài vận", vì những linh vật khi đã trưng bày không nên quay đi quay lại nhiều lần, theo nhiều hướng. Cách tốt nhất và đúng nhất là đặt cóc hướng vào phía trong nhà, hướng vào bàn thờ ông địa, thần tài tượng trưng cho việc cóc mang tài lộc nhảy vào trong nhà.

Một số vị trí cực kỳ kiêng kị khi đặt cóc ngậm tiền: trong phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Nếu đặt ở những vị trí này thay vì mang tài lộc đến thì cóc lại trở nên hung dữ mang lại vận rủi, tàn phá năng lượng tốt đẹp của gia chủ. Bạn cũng không nên đặt cóc trong phòng ngủ.

2./ Tích trữ nước nhiều càng tốt

Tất cả mọi nhà đều cần nhiều nước – yếu tố phong thủy giúp thu hút nhiều lợi nhuận và tài lộc. Nhiều gia đình quan niệm khi bị hết nước thì tài lộc sẽ ngừng do vậy họ hay tích trữ nước trong các chai nước lớn ở khắp các ngõ ngách trong nhà.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia phong thủy thì điều đó hoàn toàn bất hợp lý. Nguồn nước tốt nhất khi dòng chảy được xuyên suốt, và trong phong thủy cũng vậy. Sai lầm phong thủy khi tích trữ nước chỉ khiến cho tiền tài ứ đọng và không được sinh sôi, nảy nở.

3./ Nhà gần chùa chiền, nghĩa trang...

Nhiều người thích sống gần chùa chiền, nghĩa trang, nhà thờ. Họ cho rằng những nơi đó tôn nghiêm và sẽ giúp mang đến nhiều điều tốt lành. Tuy nhiên, những khu vực này sẽ tích tụ nhiều năng lượng âm khiến phong thủy suy giảm.

Những gì một ngôi nhà cần nguồn năng lượng tổng thể nghiêng về dương một chút bởi vì đó là một ngôi nhà của người sống – cần có rất nhiều ánh sáng, sự chuyển động, và hài hòa của các yếu tố. Do đó, gia chủ nên chọn sống ở những khu vực có bầu không khí sôi động với phong cảnh đẹp xung quanh nhà cùng nội thất bắt mắt. Khi một ngôi nhà bị thiếu năng lượng dương, gia chủ sẽ gặp các vấn đền về sức khỏe, thiếu tiền, các mối quan hệ gặp khó khăn, tai nạn, thương tích, v.v.

4./ Treo cầu thủy tinh lên tất cả các cửa nhà

Treo một quả cầu thủy tinh lên cửa sổ để phản xạ ánh sáng mặt trời là một trong các biện pháp phong thủy thu hút năng lượng tốt. Tuy nhiên bạn đừng lạm dụng nó. Cầu thủy tinh hình tròn – tượng trưng cho nguyên tố đất. Do đó nếu treo nhiều sẽ mang năng lượng âm rất lớn đến cho căn nhà, thậm chí không khác gì âm khí ở nghĩa trang vậy.

5./ Hài hòa tất cả mọi thứ

Đôi khi mọi người cố gắng hài hòa tất cả mọi thứ và chính sai lầm phong thủy này gây ra vấn đề. Ví dụ như dùng tông màu đỏ tươi cho nhà bếp để kết hợp với nguyên tố lửa. Tuy nhiên, bạn biết đó: nhiều lửa sẽ gây cháy. Cũng tương tự như vậy với phòng tắm được dùng tông màu xanh dương và những rèm cửa hình bãi biển. Nhiều nước sẽ gây lụt lội, chết đuối. Hài hòa là tốt nhưng khi cái gì quá lên thì sẽ là vấn đề.

Đừng chỉ mù quáng tin vào các mẹo phong thủy truyền miệng. Thậm chí nhiều trong số các thầy phong thủy cũng chỉ là các tay mơ ba hoa phét lác để kiếm tiền mà không có chút kiến thức nào cả. Nhiều gia đình thậm chí còn đặt gương ở phía trên bồn cầu và buộc ruy băng đỏ vào vòi nước bồn rửa chén - không có một tác dụng nào cả. Phong thủy không chỉ là vấn đề tâm linh mà nó chỉ thực sự có tác dụng khi hợp lý và thực tế. Ngôi nhà bạn sẽ có phong thủy tốt khi được bài trí đẹp và hợp lý.

6./ Để vòi nước rò rỉ

Quan niệm phong thủy cho rằng, việc để hệ thống ống nước rò rỉ mà không sửa chữa ngay, đồng nghĩa với việc năng lực tài chính, năng lượng cá nhân, thậm chí là sức khỏe của gia chủ đang có vấn đề. Không những thế vòi nước rò rỉ cũng đồng nghĩa với việc làm tiêu tan những nguồn khí tích cực của ngôi nhà. Chính vì vậy nếu như trong nhà xuất hiện tình trạng rò rỉ nước thì cần phải sửa chữa ngay.

7./ Quá nhiều gương trong nhà

Việc dùng gương trong phong thuỷ chủ yếu để tán khí, tức là dựa vào tính phản quang của gương để phân tán ánh sáng. Nhưng gương phân tán được khí xấu thì cũng có thể tiêu tán đi những khí tốt. Vốn khó phân định rạch ròi, nên dùng gương trong nhà cũng giống như dùng dao hai lưỡi. Ngoài ra, trong nhà treo gương quá lớn theo phong thủy sẽ dễ gây tà. Nếu vợ chồng bạn thường xuyên soi gương thì càng dễ hao tán tài sản.

8./ Để tiền lung tung

Trong thực tế có rất nhiều người có thói quen để tiền lung tung trong nhà. Tuy nhiên, theo phong thủy, muốn tài vận tốt, tiền phải được để tập trung lại một chỗ mới tụ được tài khí. Để tiền lung tung chính là sai lầm làm phân tán tài khí. Không những thế, khi đi mua bán có lúc tiền thừa quá ít nên nhiều người hay có thói quen không lấy lại. Có thể giá trị về mặt trao đổi không đáng là bao, nhưng về phong thủy thì rất quan trọng. Dù là tiền lẻ nhưng nó là của mình. Nếu tiền của mình mà không thu về nghĩa là bạn đang để tài vận về tay người khác.

9./ Để cây chết trong nhà

Phong thủy có câu hình nào khí đấy. Những hình ảnh không tốt, hình thái không tích cực sẽ có những tương tác bất lợi đến công việc, sức khoẻ của chủ nhà. Việc để cây chết, hay lọ hoa héo trong nhà sẽ tạo ra không khí ảm đạm, u uất cho tâm lý con người sống trong môi trường đó.

Gia chủ cần phải luôn luôn tạo cho ngôi nhà màu sắc tươi vui, như vậy mới có năng lượng tốt. Do vậy, hãy chú ý chăm sóc tốt các loại cây trồng, dù trong nhà hay ngoài trời.

10./ Hướng của giường không theo nguyên tắc

Đầu giường nên tránh dựa vào cửa, hay quay ra cửa. Người xưa từng nói “Người sống quay ra, làm ma quay vào”, tức người sống nằm trên giường phải quay chân ra cửa mới dễ hấp thụ dương khí, đồng thời có thể biết được những ai đi vào, chủ động hơn, tránh bị bất ngờ, giật mình; còn “làm ma quay vào” nghĩa là bàn thờ phải quay vào trong, nếu bàn thờ quay ra, khí chạy vào sẽ gây động, người đứng khấn cũng bất an. Việc bạn sơ suất để đầu giường dựa vào bếp, nhà vệ sinh, là nơi trường khí thấp, không ổn định sẽ dễ gây đau đầu, mệt mỏi, trầm cảm, mất ngủ, hay ngủ mê….

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lỗi phong thủy khiến bạn rước họa vào nhà

Mơ thấy ăn thịt bò: Có cơ hội cứu vãn trong chuyện làm ăn buôn bán –

Bò là động vật có vú, mạnh mẽ, cho sức kéo, sữa và thịt. Nếu mơ thấy thịt bò sống, bạn có thể giữ vững bí mật đời sống riêng tư. Mơ thấy cảnh người khác mời bạn ăn thịt bò, nhưng bạn lại từ chối, hàm ý trong cuộc sống hiện thực, nếu bạn cần sẽ có ngư
Mơ thấy ăn thịt bò: Có cơ hội cứu vãn trong chuyện làm ăn buôn bán –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy ăn thịt bò: Có cơ hội cứu vãn trong chuyện làm ăn buôn bán –

Mơ thấy chậu cảnh: Tình yêu của bạn cần được quan tâm bảo vệ –

Mơ thấy chậu cảnh có hoa, lá, đại diện cho tình yêu của nhân loại. Cây lá hoa cỏ tăng trưởng không chỉ nhờ vào điều kiện tự nhiên, mà còn nhờ vào bàn tay chăm sóc của con người. Thế nên, chăm bón chậu cảnh trong mơ tượng trưng cho sự khống chế, chi p
Mơ thấy chậu cảnh: Tình yêu của bạn cần được quan tâm bảo vệ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chậu cảnh: Tình yêu của bạn cần được quan tâm bảo vệ –

Bài sưu tầm các môn phái Tử Vi

Một bài sưu tầm về tổng quan các môn phái Tử Vi rất hay! Mời bạn đọc tham khảo
Bài sưu tầm các môn phái Tử Vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những dòng chảy lớn luận đoán Tử Vi

Tình hình nghiên cứu Tử vi Đẩu Số trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát ly phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào một thời kỳ mới, phương pháp luận đoán đã dần dần hướng vào hoàn thiện chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ, mà còn rất nhiều Môn phái bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau.

Do phương pháp luận đoán của Tử Vi Đẩu Số thường dựa vào "kinh nghiệm" để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ Trụ có những nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ nét. Nhưng, nói một cách khái quát về các xu hướng luận đoán, thông thường được phân thành hai xu hướng lớn, hai dòng chảy lớn khi luận đoán. Đó là khuynh hướng luận đoán của phái Chủ Tinh và khuynh hướng luận đoán của phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh, lại phân thành hai chi phái, đó là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.

Phái Chủ Tinh

Phái Chủ Tinh xem trọng hiệu lực của các sao Chính và tính chất cách cục tình lý của sao. Mang tác dụng của các sao lớn suy diễn đến mức độ tinh tế, và được phối hợp với các sao nhỏ, để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng lên hay giảm đi. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong Mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán vận mệnh đời người, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái Tử Vi Đẩu Số thuộc loại rất cơ bản.

Phái Thái Tuế

Ngoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn một bí kíp một bộ phận về "hành vận", có khuynh hướng tu chính bộ phận Mệnh Cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung Địa chi theo từng năm, để luận đoán cát hung, hưng suy của niên vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán, thì lại có hai loại biến hóa khác, một môn phái chủ trương Sao động mà Cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn Lưu tinh thì "Phi động". Và môn phái thứ hai thì chủ trương Sao động mà Cung đồng thời cũng động, tức 12 cung bản mệnh "Phi động" theo từng năm, Lưu tinh cũng biến động theo Năm.

Phải Tiểu Hạn

Ngoại trừ việc xem trọng "hiện tượng" vốn có của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận Đại hạn - Tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm của Mệnh gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy Cụng vị của Tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố "Phi động" vào 12 cung địa chi theo từng Năm, lấy cung vị Tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc "Cung động" và "Sao động", biến hóa theo chiều nghịch lần lượt 12 cung, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, những biến động trong đời sống của con người.

Tam Hợp phái và Tứ Hóa pháp

Các phái hệ có thêm vào Tử Vi Đẩu Số các phương thức luận đoán, như Ngũ hành, Bát quái, Thần sát, Quan sát, Trung hạn, hoặc Lục Nhâm,... hay không, nói chung, phần lớn các hệ phái đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống. Chẳng hạn như, vận dụng cục tính và tình lý của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp "Tam phương Tứ chính". Theo dòng chảy, các Môn phái lấy phương pháp luận cung Mệnh theo Tam phương làm chủ yếu, thì được gọi chung là phái Tam Hợp.

Khoảng thập nhiên 80 ~ 90 của thế kỷ trước, các thuyết Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số kế tiếp nhau ra đời ở Đài Loan, hay nói theo bình diện xã hội đó là công khai xiển dương Môn phái. Nhóm Môn phái này, được một số người gọi là phái "Tứ Hóa". Về sau theo đà càng lúc càng nhiều người phát biểu sự truyền thừa Học thuyết Phi tinh của môn phái mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái "Phi Tinh". Theo truyền thuyết, các phái "Phi Tinh" có nguồn gốc lâu đời, lấy Quái khí luận của Đạo gia làm xương sống lập thuyết, chú trọng vận dụng Cung vị trùng điệp, Thái cực điểm, Thể Dụng, và Quỹ tích của Phi tinh hóa.

Cái gọi là "Đồ Hóa Tứ tượng", hay còn được gọi là "Tứ tượng Hóa đồ", mà gọi tắt là "Tứ Hóa". Tứ tượng là quy luật tự nhiên của Trời Đất, giống như bốn Mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao (tinh, thần, đẩu, diệu) gọi là "tinh tính" (tính của sao); các Sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh ra sự ưa - ghét, hợp Cách hay không hợp Cách, đó gọi là "tinh tình" (tình của sao), và các Sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các Sao được gọi là "hóa diệu" (sao biến hóa). Tử Vi Đẩu Số vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát - hung. Các sao này, vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu cho "Số". Cho nên, Tử Vi Đẩu Số chỉ là sự vận dụng của "Số", mà không còn là "tinh chiêm" như đã luận thuật từ trước.

Các Sao theo một quy luật nhất định bay vào các Cung, nhưng sự cát - hung của một Cung cá biệt, không thể chỉ lấy Sao ở một vị trí Cung mà đoán định. Bởi vì, vị trí các Sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của Tứ tượng. Các Tinh và Cung phối hợp với nhau, sẽ cho ra 144 loại Mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp Sao theo quy luật Tứ tượng mà "phi" (bay), đó gọi là "Phi tinh".

Do đó, "Phi tinh Tứ hóa" là mượn Can để độn Tinh (sao), lấy giả tượng phối hợp với Chi để ứng thời, làm căn bản cho Phi tinh Tử Vi Đẩu Số!

Trước kia, các phái Tam Hợp đều được gọi chung là "Nam phái", còn các phái Tứ Hóa thì được gọi chung là "Bắc phái".

Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: "Tam hợp pháp" và "Tứ Hóa pháp" (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).

"Tam hợp pháp" là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hợp", thêm vào cung Thiên di làm "Tứ chính" hợp thành "Tam phương Tứ chính". Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.

"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hội", nhưng "Tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm "Tứ chính", khác với "tam hợp pháp" ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.

Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.

Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.

Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm". Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm".

Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.

Định hình khoa Đẩu Số

Tam hợp Nam phái

1) Phái Trung Châu

- Khởi nguồn: Khởi nguồn ở Lạc Dương, tổ sư là Bạch Ngọc Thiền và Ngô Cảnh Loan, theo truyền thuyết, phái này mỗi đời chỉ thu nhận một đệ tử và truyền miệng khẩu quyết cho nhau. Mãi cho đến khi Vương Đình Chi công khai sở học, mới gọi là phái Trung Châu. Trước Vương Đình Chi, có một phân chi là Lục Bân Triệu.

Ở Hương Cảng hai chi phái Tử Vi Đẩu Số mà người ta rất quen thuộc, đó là chi phái Lục Bân Triệu và chi phái Vương Đình Chi. Tuy Vương Đình Chi từng phát biểu các nghiên cứu của mình và trước tác khá nhiều, nhưng hiếm ai tự xưng mình là truyền nhân của phái Trung Châu Vương Đình Chi.

Ngược lại, truyền nhân của phân chi Lục Triệu Bân thì có rất nhiều phân chi. Nhưng bất luận thế nào, đối với giới nghiên cứu Tử vi Đẩu Số ở Hương Cảng và Đài Loan, phần lớn đều không xa lạ gì học thuyết của phái Trung Châu Vương Đình Chi.

- Đặc điểm: Lục Bân Triệu thì được chân truyền Khâm Thiên Giáp bí cấp, còn Vương Đình Chi thì nổi danh với Tử Vi tinh quyết. Nhưng vì chưa có ai trực tiếp nhìn thấy hai bản bí kíp được gọi là "khẩu khẩu tương truyền" này, cho nên người ta chỉ có thể lần dấu vết của chúng trong các trước tác của họ.

Phái Trung Châu chú trọng tính chất các sao và cách - cục tình của sao, khi luận vận mệnh yêu cầu người ta phải có năng lực suy lý. Thí dụ như, một hệ thống sao gặp một hệ thống sao khác thì sẽ sinh ra biến hóa; phương pháp luận vận mệnh là phải từ những biến hóa này mà suy diễn ra.

Nói một cách khái quát, lý luận của phái Trung Châu khá gần với lý thuyết trong thư tịch truyền thống là Tử Vi Đẩu Số toàn thưTử Vi Đẩu Số toàn tập. Nhưng phái Vương Đình Chi ngoài việc nghiên cứu sâu cách - cục tình của sao, còn vận dụng Tứ Hóa đa dạng hơn so với phương pháp truyền thống.

Ngoại trừ lý luận "các hệ thống sao liên quan mật thiết với nhau", bộ sao Tứ Hóa của các can Canh, Mậu và Nhâm cũng khác với truyền thống. Còn các sao lưu niên như: Văn xương, Văn khúc, Hồng loan, Kình dương, Đà la và Lộc tồn, Thiên mã,.v.v... cách vận dụng cũng khác nhiều.

2) Phái Tử Vân

- Khởi nguồn: Tử Vân trước bái lão sư họ Hà làm thầy, về sau dựa vào các thư tịch mà tự nghiên cứu, sau 30 năm nỗ lực nghiền ngẫm, rồi tự lập thành môn phái. Các trước tác nghiên cứu của ông cũng được giới nghiên cứu Đẩu Số hoan nghênh.

- Đặc điểm: Tử Vân tự sáng tạo lý luận như "Tam đại luận", "Thái tuế nhập quái luận", "Thái tuế cung vị luận". Trong đó "Tinh bàn hỗ động" của "Thái tuế nhập quái" là chưa từng xuất hiện trong khoa Tử Vi Đẩu Số truyền thống, nhưng có lưu truyền trong hệ phái Phi tinh. Cho nên, lý luận của hệ phái Tử Vân, có thuyết là do ông tự sáng tạo, có thuyết là do ông mượn bí truyền của phái khác rồi cải biên lại. Bất luận là như thế nào, lý luận của ông đều được xây dựng trên cơ sở của phái Tam Hợp truyền thống, tức là Tử Ví Đẩu Số toàn thưTử Vi Đẩu Số toàn tập.

3) Phái Hiện Đại

- Khởi nguồn: Nhân vật đại biểu của phái hiện đại là Liễu Vô cư sỹ. Liễu Vô cư sỹ vốn là đệ tử của Tử Vân, nhưng vì ông kiên trì với lý luận của mình, nên tự sáng lập thành một phái riêng. Từ tháng 4/1985, ông cùng với nhóm 8 người, gồm Hứa Hưng Trí, Tuệ Canh thuật sỹ, Lạc Đà Sinh, Quách tiên sinh, Thái Quân Siêu, Phổ Giang Đăng Chi, Nam Ngư, và Phi Vân cư sỹ xuất bản cuốn Hiện Đại Tử Vi, từ đó tiếng tăm của phái Hiện Đại Tử Vi không ngừng lan rộng.

- Đặc điểm: Liễu Vô cư sỹ phản đối phương pháp gộp Tử Vi và Tử Bình lại với nhau để cùng tham chiếu, đề xướng trả Tử Bình về với Tử Bình, trả Tử Vi về với Tử Vi, phản đối mang "Thần sát" và "Quan sát" vào Đẩu Số, rất khác với quan niệm "tập đại thành các nhà" của sư phụ ông là Tử Vân. Do ông giữ vững quan niệm của mình, cho nên được nhiều người ủng hộ. Cũng giống như Vương Đình Chi, Liễu Vô cư sỹ rất thích bình chú cổ tịch, cho rằng Tử Vi Đẩu Số là nằm hết trong các trước tác của tiền nhân.

4) Phái Thiên Cơ

- Khởi nguồn: Thiên Cơ thượng nhân Hoàng Xuân Lâm là người sáng lập ra tuyệt học của phái Thiên Cơ, đó là thuyết Đẩu Số hỷ kị thần, của Mật Tông Bí Truyền và lý luận về "Hỷ Khí". Chỉ dựa vào tên của môn phái, thì có thể liên quan tới thuật tinh chiêm của Mật Tông đã lưu truyền cả ngàn năm. Nếu quả thật như vậy, thì sự truyền thừa của Thiên cơ thượng nhân có thể nói là đã có một lịch sử lâu đời.

- Đặc điểm: Lấy lý luận Tam hợp truyền thống làm cơ sở, tinh yếu của Đẩu Số hỷ kị thần cũng tương tự như phương pháp dùng Ngũ hành sinh khắc, để lấy dụng thần trong khoa mệnh lý Tử Bình. Ngoại trừ việc xem xét khí của sao, cung vị thiên can, ngũ hành của địa chi ra, phái này còn xét tới Ngũ hành nạp âm của can chi hợp lại. Về điểm này, trong các điển tịch của lý luận Tam hợp truyền thống đều có ghi chép, nhưng rất khó hiểu. Có thể nói phái Thiên Cơ đã giải thích tường tận chỗ thiếu xót này.

5) Phái Tinh Hóa

- Khởi nguồn: Phái Tinh Hóa do Thẩm Bình Sơn sáng lập, cũng giống như Tử Vân, ông tập đại thành các nhà, rồi sáng tạo ra phương pháp luận mệnh vận độc đáo của riêng mình.

- Đặc điểm: Thẩm Bình Sơn tổng hợp lý thuyết như Phi tinh, Tinh hóa, Quá cung luận, Biến cục, Tam hạn pháp để sáng tạo ra phương pháp luận đoán của riêng mình, khá mới mẻ. Nhưng xét về phương diện nội dung, có thể nói Phi tinh pháp của phái này cũng tương tự như lý luận "các hệ thống sao liên quan mạt thiết với nhau" của Vương Đình Chi. Tinh hoa pháp thì lấy các chính diệu Tứ Hóa mà biến hóa ra. Còn phương pháp luận đoán đại hạn, trung hạn, và tiểu hạn, thì lấy Đại hạn phân chia tỉ mỉ thành các "trung hạn", để tính toán chuẩn xác thời gian và sự việc cát hung ứng nghiệm của các tổ hợp sao. Có thể nói đây là một phái hệ rất đặc biệt trong hệ phái Tam Hợp truyền thống.

6) Phái Chiêm Nghiệm

- Khởi nguồn: theo truyền thuyết phái Chiêm Nghiệm có hai nhân vật đại biểu: một người là Thiết bản đạo nhân Trần Nhạc Kỳ, tự xưng là truyền nhân duy nhất đời thứ 41 của Trần Hi Di, một người khác là Thiên Ất trượng nhân, được cho là truyền nhân đời thứ 54 của phái Chiêm Nghiệm.

- Đặc điểm: Phái Chiêm Nghiệm có truyền thống vận dụng cách - cục tình sao, lại dung hợp với Kỳ môn Độn Giáp, thêm vào lý luận phi hóa 12 cung của phái Phi tinh, nội dung rất rộng. Về phương diện đoán lưu vận, ngoại trừ bản mệnh cơ bản, địa bàn, Thái tuế bàn, còn thêm Tiểu hạn và Đẩu quân, tổng cộng là 5 bàn.

7) Phái Thấu Thiên

- Khởi nguồn: Phái Thấu Thiên còn gọi là phái Minh Đăng, xuất phát ở Mân Việt (Phúc kiến), có thời gian chưởng môn các đời của phái Thấu Thiên sang Nhật Bản, về sau lại trở về Đài Loan. Theo truyền thuyết, phái Thấu Thiên truyền thừa cho nhau đến nay đã 13 đời, trưởng môn đương đại là Trương Diệu Văn, từng du học ở Nhật.

- Đặc điểm: Ngoại trừ sự khác biệt về cách an cung Mệnh và cung Thân, thì Mệnh bàn không an cung can, nội dung còn lại so với thư tích cổ đại đồng tiểu dị.

8) Phái Thiên Vận Hợp Tham

- Khởi nguồn: Sở Hoàng là người sáng lập phái Thiên Vận

- Đặc điểm: Ngoại trừ việc vận dụng lý luận truyền thống theo Tử Vi Đẩu Số toàn thư, đây là người hiện đại đầu tiên của trào lưu mang Tử Vi Đẩu Số dung hợp với Tứ Trụ, lấy "cung khí", "hỷ kị thần", và "Tử Kiếp" để luận đoán.

9) Phái Tân Thuyên

- Khởi nguồn: Tuệ Tâm Trai chủ là người sáng lập.

- Đặc điểm: Phái Tân Thuyên của Tuệ Tâm trai chủ, cũng là một trong phái hệ trung thành với lý luận truyền thống. Giống như Liễu Vô cư sỹ và Vương Đình Chi, ông trước tác vô số, cống hiến khá nhiều.

10) Phái Tam Hợp

- Khởi nguồn: Người sáng lập là Cung Giám lão nhân

- Đặc điểm: Thực ra đây là một môn phái Phong thủy. Trên thực tế, phái Trung Châu cũng có Huyền Không tam quyết, nhưng môn phái này có quan hệ với Phong thủy rất mật thiết. Tuy đã thu nhập không ít lý luận phi hóa của phái Phi Tinh, nhưng về kết cấu cơ bản, vẫn không rời lý luận truyền thống và cách - cục tình của sao.

Phi Tinh Bắc phái

1) Phái Hà Lạc

- Khởi nguồn: Phái Hà Lạc do Tăng Quốc Hùng người Đài Loan sáng lập.

- Đặc điểm: Lấy Hà Lạc Lý Số và lý luận Hóa Kị làm cơ sở. Chú trọng nghiệm chứng thực bàn, là một môn phái Phi tinh khá thực tế.

2) Phái Khâm Thiên môn

- Khởi nguồn: Phái Khâm Thiên môn do Mai Huyện Tố Tâm lão nhân người Quảng Đông sáng lập ra.

- Đặc điểm: Bí kíp của môn phái Khâm Thiên môn là Hoa Sơn Khâm thiên Tứ hóa Tử vi Đẩu số Phi tinh bí nghi. Nội dung gồm có

+ "Phi sách",

+ "Phi tinh",

+ "Phi cung",

+ "Phi vận",

+ "Cửu tinh bố thập nhị cung thất tinh quyết"

+ "Tứ phụng Tam kỳ lưỡng nghi tiêu"

+ "Tiên thiên Tứ hóa Phi tinh kỳ phổ"

+ "Thập can bộ thiên quyết"

Đây là một môn phái rất chú trọng lý luận Phi Tinh, có ảnh hưởng sâu xa trong hệ phái Phi tinh Tử vi Đẩu số. Các nhân vật đại biểu kế tục gồm có Phương Ngoại Nhân tiên sinh, Pháp Đường chủ nhân, và Phương Vô Kị

3) Phái Tiên Tông

- Khởi nguồn: Người sáng lập phái Tiên tông là Chính Huyền Sơn Nhân, pháp hiệu là Huyền Chân Tử, người Miêu Lật, Đài Loan. Tương truyền ông được thần tiên truyền thụ cho môn Tử Vi Đẩu Số của đạo trưởng Lư Sơn Tiên Tông, trước tác có Thiên Địa Nhân Tử vi Đẩu số gồm 13 tập

- Đặc điểm: Chủ chương Tử vi và Tử bình cung tham chiếu, nạp âm ngũ hành. Phương pháp tính tháng Nhuận cũng rất độc đáo. Tuy hệ thống cơ bản của phái Tiên Tông vẫn không trái với phái Phi Tinh, nhưng về lai lịch chi hệ thì không khảo chứng được, vì do thần tiên truyền thụ!

Các Môn phái khác

1) Nhất Diệp Tri Thu Thuật

- Khởi nguồn: Đây là môn phái do Phan Tử Ngư sáng lập, là một đại sư rất nổi tiếng ở Phả Lập, ông sinh năm Dân quốc thứ 19 tại Phúc Châu, lúc còn nhỏ đã bái Hòa thượng Nhất Trần ở chùa Cổ Sơn Dũng Tuyền làm thầy. Các cách luận mệnh số của Nhất Diệp Tri Thu khác với những môn phái khác. Tự nhận tổ sư của Môn phái mình là Tôn Tư Mạc mà không phải là Trần Hi di

- Đặc điểm: Nhật Diệp Tri Thu thuật đề xướng "Thiết khẩu trực đoán" (tức đoán định một cách trực tiếp). Phan Tử Ngư xem trọng hoàn cảnh của từng Cung, có nét hơi giống với Phật môn nhất trưởng Kinh. Thực ra, khi còn trẻ, Phan Tử Ngư đã được học phương pháp "Phi Yến Quỳnh Lâm", cũng chính là "Phi tinh chuyển yến quan quyết", hoặc cũng là "Thập bát Phi tinh Dịch yến quỳnh lâm" trong Bắc phái Phi tinh.

2) Phái Khoa Kỹ

- Khởi nguồn: Đổng sự trưởng môn của phái Khoa Kỹ Tử Vi là Trương Thịnh Như

- Đặc điểm: Trương Thịnh Như muốn mang khoa học vào môn Tử vi Đẩu Số, và phổ cập hóa khoa Tử Vi Đẩu Số giống như môn chiêm tinh của Tây phương. Lý tưởng thì rất cao, nhưng phương pháp lại không được mọi người công nhận là truyền thống.

(Sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài sưu tầm các môn phái Tử Vi

Sao Thiên Cơ

Phương Vị: Nam Đẩu Tinh Tính: Âm Hành: Mộc Loại: Thiện Tinh Đặc Tính: Huynh đệ, phúc thọ Tên gọi tắt thường gặp: Cơ Một tr...
Sao Thiên Cơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phương Vị: Nam Đẩu TinhTính: ÂmHành: MộcLoại: Thiện TinhĐặc Tính: Huynh đệ, phúc thọTên gọi tắt thường gặp:
 

Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 2 trong 6 sao thuộc chòm sao Tử Vi theo thứ tự: Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh.
Vị Trí Ở Các Cung

  • Miếu địa ở các cung Thìn, Tuất, Mão, Dậu.
  • Vượng địa ở các cung Tỵ, Thân.
  • Đắc địa ở các cung Tý, Ngọ, Sửu, Mùi.
  • Hãm địa ở các cung Dần, Hợi.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo
Cung Mệnh có Thiên Cơ đắc địa thì thân hình cao, xương lộ, da trắng, mặt dài nhưng đầy đặn. Thiên Cơ hãm địa thì thân hình nở nang, hơi thấp, da trắng, mặt tròn.
Tính Tình
Thiên Cơ đắc địa là người nhân hậu, từ thiện, rất thông minh, khôn ngoan, có óc xét đoán, có nhiều mưu trí, làm việc gì đều có chiến lược, chiến thuật hẳn hoi.
Thiên Cơ hãm địa thì có óc kinh doanh, kém thông minh nhưng cũng là người nhân hậu, tài ba.
Công Danh Tài Lộc Phúc Thọ
Thiên Cơ đắc địa thì được hưởng giàu sang và sống lâu, nhất là khi hội tụ với nhiều cát tinh. Đặc biệt ở Thìn, Tuất thì khả năng nghiên cứu rất cao, nhất là trong ngành chính trị, chiến lược, tham mưu giỏi. Ở Mão Dậu, đồng cung với Cự Môn, người đó có tài tham mưu, kiêm nhiệm cả văn lẫn võ. Tài năng và phú quý rất hiển hách. Riêng với người nữ thì đảm đang, khéo léo, lợi chồng ích con, được hưởng phú quý và phúc thọ song toàn.
Nếu Thiên Cơ hãm địa thì lận đận, bôn ba, làm nghề thủ công. Riêng với người nữ thì vất vả, muộn gia đạo, hoặc gặp nghịch cảnh chồng con, đau đớn vì tình. Nếu gặp sát tinh như Hóa Kỵ, Thiên Hình, thì tai họa, bệnh tật rất nặng và chắc chắn không thọ.
Những Bộ Sao Tốt
  • Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn, Tuất: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược.
  • Thiên Cơ, Cự Môn ở Mão Dậu: Có tài năng, đức độ, mưu trí, phú quý song toàn, có năng khiếu về chiến lược, chính lược; nhưng nổi bật nhất ở chỗ rất giàu có, duy trì sự nghiệp bền vững.
  • Thiên Cơ, Vũ Khúc, Hồng Loan (nữ mệnh): Có tài năng về nữ công, gia chánh (thợ may giỏi, khéo tay, chân).
  • Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương (Cơ Nguyệt Đồng Lương): Nếu đắc địa cả thì người đó có đủ đức tính của một bậc nho phong hiền triết. Nếu có sao hãm thì thường làm thư lại, công chức.
Những Bộ Sao Xấu
  • Thiên Cơ, sát tinh đồng cung: Trộm cướp, bất lương.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương ở Thìn Tuất gặp Tuần Triệt hay sát tinh: Gặp nhiều gian truân, trắc trở lớn trên đường đời, có chí và có số đi tu. Nếu gặp Kình, Đà, Linh, Hỏa hội họp, có Tướng xung chiếu thì là thầy tu hay võ sĩ giang hồ.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phụ Mẫu
  • Đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Cha mẹ khá giả.
  • Đơn thủ tại Hợi, Tý, Sửu: Cha mẹ bình thường. Cha mẹ và con không hạp tính nhau. Có cha mẹ nuôi, hoặc cha mẹ chắp nối.
  • Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Thân: Cha mẹ khá giả.
  • Thiên Cơ, Thái Âm đồng cung tại Dần: Cha mẹ khá giả, nhưng sớm có sự xa cách cha mẹ.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Cha mẹ giàu sang và sống lâu.
  • Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Cha mẹ xa cách, thiếu hòa khí.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phúc Đức
  • Tại Hợi, Tý, Sửu: Bạc phúc, họ hàng ly tán.
  • Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Có phúc, họ hàng khá giả.
  • Cự Môn, Thiên Lương đồng cung hay Thiên Cơ, Nguyệt tại Thân: được hưởng phúc, sống lâu, họ hàng khá giả.
  • Tại Dần: không được hưởng phúc đồi dào nên suốt đời chẳng được xứng ý toại lòng. Họ hàng bình thường, người nữ hay trắc trở về chồng con.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Điền Trạch
  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung, Cự Môn, Nguyệt ở Thân hay Cự Môn.
  • Thiên Cơ ở Mão: Có nhiều nhà đất.
  • Tại Hợi Tý Sửu Dần: Nhà đất bình thường.
  • Tại Tỵ Ngọ Mùi: Tự tay tạo dựng nhà đất.
  • Thiên Cơ, Cự Môn tại Dậu: Phá sản hay lìa bỏ tổ nghiệp, nhà đất ít.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Quan Lộc
Vì Thiên Cơ chủ sự khéo léo, tinh xảo chân tay, lại có mưu trí, tháo vác, thêm sự khôn ngoan học rộng, cho nên Thiên Cơ ở Quan thường rất có lợi.
  • Thiên Cơ đơn thủ tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Phú quý. Nhưng không được rực rỡ hiển hách. Nên chuyên về kỹ nghệ, máy móc.
  • Thiên Cơ tại Hợi, Tý, Sửu: công danh muộn màng, chật vật. Nên chuyên về doanh thương hay kỹ nghệ.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: công danh hiện đạt. Bất cứ làm việc gì cũng cẩn thận, hay suy xét xa gần. Thích đàm luận về chính trị và quân sự. Có năng khiếu về chính trị, quân sự, tham mưu, dạy học, thủ công, doanh thương, kỹ nghệ, cơ khí. Đây là bộ sao đa nghệ nhất.
  • Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Được hưởng phú quý vững bền. Có nhiều mưu trí và rất ưa thích máy móc.
  • Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt. Nhưng muộng màng và gặp nhiều trở ngại.
  • Thiên Cơ, Thái Âm ở Thân, nên chuyên về y khoa hay sư phạm. Buôn bán cũng phát đạt.
  • Thiên Cơ, Riêu, Tướng: Làm bác sĩ rất mát tay.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Nô Bộc
Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Có tôi tớ, bạn bè tốt, hay giúp đỡ mình, có công lao với mình.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Thiên Di
  • Tại Tỵ, Ngọ, Mùi hay Cơ Lương đồng cung hay Cơ Nguyệt đồng cung ở Thân: nhiều may mắn về buôn bán ở xa, được quý nhân phù trợ, trong số đó có người quyền quý (Lương) hay chính vợ (Nguyệt) giúp đỡ mình rất nhiều.
  • Thiên Cơ, Cự Môn: Cũng giàu nhưng bị tai tiếng, khẩu thiệt vì tiền bạc.
  • Tại Hợi, Tý, Sửu: Bất lợi khi xa nhà.
  • Thiên Cơ, Tả Phù, Hữu Bật: Được người giúp đỡ.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tật Ách
Sao Thiên Cơ tượng trưng cho bệnh ở ngoài da, bệnh tê thấp, hạ bộ, chân tay bị yếu gân, da có bớt, tỳ vết, có sẹo, dễ bị tai nạn xe cộ, hoặc bị tai nạn đi đường, khó ngủ, hoặc nằm mà đầu óc hay phải suy tính, dễ bị lao tổn đến sức khỏe, hệ thống thần kinh, hệ thống hô hấp, gan, mật.
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Bệnh tâm linh, khí huyết.
  • Thiên Cơ,Thiên Lương đồng cung: Bệnh ở hạ bộ.
  • Thiên Cơ, Thái Âm: Có nhiều mụn nhọt.
  • Thiên Cơ, Kình hay Đà: Chân tay bị yếu gân.
  • Thiên Cơ, Thiên Khốc, Thiên Hư : Bệnh phong đàm, ho ra máu.
  • Thiên Cơ, Thiên Hình, Không Kiếp: Bệnh và tai nạn bất ngờ.
  • Thiên Cơ, Tuần, Triệt: Cây cối đè phải chân tay, bị thương.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tài Bạch
  • Thiên Cơ, Cự Môn hay Thiên Cơ, Lương hay Thiên Cơ ở Ngọ Mùi: Phát tài, dễ kiếm tiền và kiếm được nhiều tiền. Riêng với Cự Môn thì phải cạnh tranh chật vật hơn.
  • Ở các cung khác: Làm ăn chật vật, thất thường. Duy chỉ có đồng cung với Thái Âm ở Thân thì tự lực lập nên cơ nghiệp khá giả. Nếu có Lộc Mã thì đại phú.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Tử Tức
  • Thiên Cơ, Lương hay Nguyệt Đức là người có từ 3 đến 5 con. Nếu Thiên Cơ đơn thủ thì ít con.
  • Cự Môn, Thiên Cơ (hay Cơ Nguyệt ở Dần Thân): Có con dị bào.
Thông thường bộ sao Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Tử là chỉ dấu về con dị bào, dù không đủ bộ.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Phu Thê
  • Tại Tỵ, Ngọ, Mùi: Sớm lập gia đình, vợ chồng lấy nhau lúc còn ít tuổi, hoặc người hôn phối nhỏ tuổi hơn mình khá nhiều.
  • Tại Hợi, Tý, Sửu: Vợ chồng khắc tinh, thường chậm gia đạo.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung: Lấy con nhà lương thiện, vợ chồng hòa hợp, thường quen biết trước hoặc có họ hàng với nhau. Gia đạo thịnh.
  • Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung: Vợ chồng tài giỏi có danh chức. Nhưng vì ảnh hưởng của Cự Môn nên hai người thường bất hòa, thường phải hai lần lập gia đình.
  • Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần, Thân: Gia đạo tốt. Nhưng trai thì sợ vợ trong trường hợp Thái Âm ở Thân.
  • Thiên Cơ, Thiên Lương, Tả Phù, Hữu Bật: Gái kén chồng, trai kén vợ. Cả hai rất ghen tuông.
Ý Nghĩa Thiên Cơ Ở Cung Huynh Đệ
  • Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung: Có anh chị em dị bào, thường là cùng mẹ khác cha.
  • Thiên Cơ đơn thủ: Ít anh chị em.
Thiên Cơ Khi Vào Các Hạn
  • Thiên Cơ, Thương Sứ: Đau ốm, tai nạn, đánh nhau.
  • Thiên Cơ, Tang Khốc: Tang thương đau ốm.
  • Thiên Cơ Lương Tang Tuế: té cao ngã đau.
  • Thiên Cơ, Khốc Hỏa Hình: Trong nhà thiếu hòa khí.
  • Thiên Cơ, Kỵ Hỏa Hình Thương Sứ: Tang thương đau ốm, khẩu thiệt quan tụng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiên Cơ

Nghi lễ trừ tà thời khởi thủy và nỗi hoài nghi tâm linh

Các nghi thức trừ tà xuất hiện từ cách đây hàng triệu năm, trên khắp thế giới, cho thấy niềm tin vào ma quỷ của con người đã hình thành từ lâu và ngày càng
Nghi lễ trừ tà thời khởi thủy và nỗi hoài nghi tâm linh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

phát triển, chứ không có dấu hiệu biến mất theo thời gian hay tiến bộ khoa học.


► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Nghi le tru ta thoi khoi thuy va noi hoai nghi tam linh hinh anh
 
Ở vùng Lưỡng Hà thời cổ đại, người ta tin rằng nghi lễ trừ tà có thể giúp trị bệnh và tất cả các loại bệnh tật đều là do những linh thể đen tối tiến nhập vào cơ thể một người và trú ngụ ở đó. Các phiến đá Assyria có đề cập đến việc niệm các câu thần chú và đọc kinh hướng đến các vị Thần, cũng như trực tiếp thách thức ma quỷ. Những linh mục thành Babylon thời cổ đại đã tiến hành nghi thức trừ tà bằng cách phá hủy một tấm bia bằng gốm hay sáp có in hình tượng một con quỷ.
 
Trong Ấn Độ giáo, các kinh sách cổ gọi là Vệ Đà được biên soạn từ năm 1000 TCN, trong đó có đề cập đến các linh hồn quỷ dữ quấy nhiễu đến công việc của các vị thần Ấn Độ giáo và gây hại cho chúng sinh. Các vị thần đã ra tay trừ tà, xua đuổi ma quỷ bằng phép thuật để trừ hại cho dân.
 
Các câu chuyện từ thời Ba Tư cổ đại, có niên đại khoảng năm 600 TCN, cung cấp bằng chứng cho thấy nhà tiên tri Zoroaster, người sáng lập Hỏa giáo, đã thực hiện các nghi thức trừ tà bao gồm việc cầu nguyện, tiến hành nghi lễ, và sử dụng nước thánh.
 
Trong Công giáo, có rất nhiều ví dụ về việc Chúa Giê-su tiến hành các nghi thức trừ tà, và một đệ tử chân chính phải có khả năng xua đuổi tà ma. Trong một điển tích nổi tiếng, Chúa Giê-su đã gặp một người điên và ra lệnh cho những linh hồn xú uế rời khỏi anh ta; các linh hồn này sau đó đã tiến nhập vào một đàn lợn, chúng nhảy xuống một bờ vực rồi rơi xuống nước chết đuối.
 
Thời Trung cổ, nghi lễ trừ tà này được hồi sinh khi các bệnh tâm lý được quy là do ma nhập. Những cách thức man rợ nhằm chữa trị các chứng bệnh tâm thần chủ yếu được giao phó cho các giáo sĩ, và họ đã trừ tà cho bệnh nhân thông qua một loạt các biện pháp gây ra những đau đớn kinh khiếp về thể xác, như quất roi.
 
Qua nhiều thế kỷ, các nghi thức trừ tà thường dùng đến việc tụng kinh, ra lệnh ma quỷ tự trục xuất, xông hơi, nước thánh, cây lê lư, sự ăn năn, muối, và hoa hồng. 
 
Tuy nhiên, nghi thức trừ tà bị nhiều người hoài nghi. Rất nhiều nhà khoa học tin rằng cái gọi là việc bị ma ám chỉ là một dạng bệnh lý tâm thần, như rối loạn tâm căn, hưng cảm, rối loạn tâm thần, hội chứng Tourette, tâm thần phân liệt hoặc rối loạn nhân cách. Những người không tin vào các nghi thức này cho rằng ảo tưởng về hiệu quả của trừ tà đối với những người có triệu chứng bị ma nhập là do sự gợi ý, hay hiệu ứng placebo (giả dược), vốn cũng đã được viện dẫn để giải thích các hiện tượng như chữa bệnh bằng đức tin.
 
Liệu hiện tượng bị ma nhập là thật hay chỉ đơn giản là kết quả của sự mất cân bằng y học hay tâm lý thì vẫn là một câu hỏi được tranh luận rất sôi nổi. Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng niềm tin vào hiện tượng ma nhập và các nghi thức trừ tà hầu như không thay đổi kể từ thời khai thủy của nền văn minh nhân loại và vẫn tồn tại cho đến ngày nay.   ST
 
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghi lễ trừ tà thời khởi thủy và nỗi hoài nghi tâm linh

Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Những lưu ý như không treo gương đối diện cửa sổ, gần cửa ra vào sẽ có ích cho những ai muốn đổi tài vận trong năm 2015.
Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Kỵ treo gương đối diện với cửa sổ

Đây là một trong những kiến thức cơ bản nhất về treo gương theo phong thủy. Gương trong phòng khách tuyệt đối kiêng kỵ treo ở vị trí đối diện với cửa sổ. Theo quan niệm dân gian, nếu thẳng hướng cửa sổ có nhà khác sinh sống, việc treo gương sẽ gây bất lợi cho nhà đó.

Trường hợp không có người khác thay thế, điều bất lợi và xui xẻo sẽ đến với chính chủ nhân ngôi nhà. Ngoài ra, khi có ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào gương sẽ tạo cảm giác chói chang, không thoải mái.

3-1df58-1465-1421130680.jpg

2. Không nên treo gương ở gần hoặc đối diện cửa ra vào

Theo quan niệm cổ xưa, mỗi chiếc gương đều có một vị “thần gương” ngự trị, cửa ra vào cũng có “thần cửa” canh gác. Do đó, nếu treo gương ở gần hoặc đối diện với cửa ra vào, ánh sáng chói lọi của thần gương sẽ “bắt nạt” thần cửa và thần tài, khiến những vị thần này sợ hãi mà bỏ đi. Điều đó đồng nghĩa với việc chủ nhân ngôi nhà sẽ không được hưởng tài phúc trọn vẹn.

Ngoài ra, nếu bạn làm kinh doanh, việc treo gương đối diện với cửa ra vào này sẽ khiến việc kinh doanh bất lợi, tổn hao nhiều tiền của.

3. Kiêng treo gương trên trần phòng khách

Một số gia chủ có sở thích khác người, ốp gương mỏng lên trần nhà. Điều này không những phá thế phong thủy mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của các thành viên trong nhà.

Khi ngồi ở phòng có treo gương kiểu này, bạn sẽ có cảm giác như bị ức chế, có cái gì đó đè nặng lên đầu. Khi có ánh nắng hoặc ánh đèn, gương sẽ phản chiếu ánh sáng gây chói mắt, khó tập trung và thư giãn.

Mr.Bull (theo TX)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Treo gương hợp phong thủy để đổi tài vận

Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Học thuyết lý luận của Đông y có cơ sở từ triết học âm dương ngũ hành, lấy học thuyết ngũ hành làm chủ. Xem tử vi bắt bệnh là dựa vào ngũ hành dự đoán sức khỏe.
Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Học thuyết lý luận của Đông y có cơ sở bắt nguồn từ triết học âm dương ngũ hành, lấy học thuyết ngũ hành làm chủ. Xem tử vi bắt bệnh chính là dựa vào ngũ hành bản mệnh mà dự đoán về tình trạng sức khỏe.


Xem tu vi bat benh dua vao hoc thuyet ngu hanh hinh anh
 
Xem tử vi bắt bệnh, theo “Hoàng Đế nội kinh” gan thuộc tính Mộc, tim thuộc tính Hỏa, tỳ thuộc tính Thổ, phổi thuộc tính Kim, thận thuộc tính Thủy. Trong đó có quan hệ tương sinh tương khắc, tức gan sinh tim, tim sinh tỳ, tỳ sinh phổi, phổi sinh thận, thận sinh gan. Và thận khắc tim, tim khắc phổi, phổi khắc gan, gan khắc tỳ, tỳ khắc thận. Sinh khắc tuần hoàn, tác động qua lại, sinh sôi liên tục.
Xem tu vi bat benh dua vao hoc thuyet ngu hanh hinh anh
 
Phương pháp mệnh lý học trọng yếu lấy ý tưởng ngũ hành có cơ sở lý luận tương tự, như dân gian có câu “nhìn người bắt bệnh”. Xem tử vi bắt bệnh theo nguyên tắc sau.  

1. Người hình Kim nguyên tắc, kiên trì

  Người hình Kim mặt rộng, mũi cao, tay chân gầy gò, thể hình hơi gầy, da trắng. Nói ít nhưng thường nói lời khiến người khác sửng sốt, làm việc kĩ lưỡng, có nguyên tắc. Người này hành động cấp tốc, mạnh mẽ vang dội, tính cách cương trực, nói một là một, dễ dàng thu được uy tín. Tính cách ngay thẳng quá độ dẫn đến tính khí táo bạo, đồng thời không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, dẫn đến độc tài, khư khư cố chấp.   Người hình Kim ở vị trí phổi cùng ruột già xuất hiện bệnh tật, đồng thời phải chú ý khí quản và toàn bộ hệ hô hấp.  

2. Người hình Mộc đa sầu đa cảm

  Người mệnh Mộc vóc người gầy, vóc dáng cao. Nam có phong thái ngọc thụ lâm phong, thư sinh yếu đuối; nữ thân thể thướt tha, da trắng, dáng vẻ hoa nhường nguyệt thẹn, là mỹ nhân điển hình. Người này thích tĩnh mà không thích động, không thích tham gia trò vui. Thận trọng mẫn cảm, đa sầu đa cảm, ảo tưởng, có khí chất lãng mạn khí chất.    Tính cách nhược điểm là lòng dạ hẹp hòi, năng lực hợp tác đoàn thể kém, khuyết thiếu sức cạnh tranh. Làm việc do dự thiếu quyết đoán, dây dưa dài dòng, chấp hành lực cũng so với kém, xử lý cảm tình không dứt khoát, đồng thời hay ghen tị.   Người hình Mộc chú ý bệnh về gan, có thể phát sinh những chứng bệnh ngoài mong muốn.  

3. Người hình Hỏa tràn ngập sức sống

  Người hình Hỏa hình thể nhỏ gầy, sắc mặt hồng hào, tinh khí tràn trề, cả người tràn ngập sức sống. Tính cách phấn chấn, tinh thần cao vút, yêu thích mạo hiểm cùng khiêu chiến, đối với người khác nhiệt tình như lửa. Tính cách nhược điểm là tính khí táo bạo, dễ nổi giận, năng lực tự kiềm chế kém.   Người mệnh Hỏa cần lưu ý bệnh tật về tim. Cũng phải đặc biệt cẩn thận phương diện ruột non, hệ thống tuần hoàn huyết dịch, dưỡng sinh chăm sóc sức khỏe.  

4. Người hình Thủy cao thâm khó dò

  Người hình Thủy hình thể mập, da tối màu, nam mệnh bụng to. Đi lại khó khăn, hành động khá là chậm chạp, biểu hiện bất định, làm cho người ta cảm thấy cao thâm khó dò. Tính cách rất dễ dàng cùng mọi người hoà đồng. Hơn nữa là người hiền lành, chưa bao giờ nói xấu ai. Tính cách nhược điểm là đa nghi, cực đoan, lòng dạ chật hẹp, khó lường, làm người nhìn không thấu.   Người mệnh Thủy cần chú ý phương diện thận cùng bàng quang xuất hiện bệnh tật. Đồng thời cũng phải chú ý thêm não cùng hệ thống bài tiết.  

5. Người hình Thổ tài năng ẩn giấu

  Người hình Thổ thể trạng cường tráng, vóc người cân xứng, cơ chắc, bắp thịt đầy đặn, da dẻ màu nâu đồng, dáng đi ổn định, vững như núi, làm cho người ta có cảm giác uy vũ hùng tráng. Tính cách trung thành trung hậu, gặp chuyện cẩn thận trấn định, người tài năng dù vẻ ngoài thô mộc, ngốc nghếch. Tính cách nhược điểm chính là hành động có chút chậm chạp, làm cho người ta cảm thấy chất phác, thật thà.   Xem tử vi bắt bệnh người mệnh Thổ cần lưu ý về khí trong người. Mặt khác ruột và toàn bộ hệ tiêu hoá cũng là bộ phận dễ bị bệnh, nên cần kiểm tra thường xuyên.
► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Cách hóa giải cho người có bát tự vượng Thổ Vợ chồng mệnh gì kết hợp với nhau thì đại cát đại lợi? Phương pháp hóa giải bát tự vượng Thủy khuyết Hỏa

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi bắt bệnh dựa vào học thuyết ngũ hành

Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

GiờNgày Tý Sửu Dẩn Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Dần-Thân * *     * *   *     *   Mão-Dậu *   * *     * *   *     Thìn-Tuất     *   * *     * *   * Tị-

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ngayhoangdao

Giờ\Ngày

Sửu

Dẩn

Mão

Thìn

Tị

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

Dần-Thân

*

*

   

*

*

 

*

   

*

 

Mão-Dậu

*

 

*

*

   

*

*

 

*

   

Thìn-Tuất

   

*

 

*

*

   

*

*

 

*

Tị-Hợi

 

*

   

*

 

*

*

   

*

*

Tý-Ngọ

*

*

 

*

   

*

 

*

*

   

Sửu-Mùi

   

*

*

 

*

   

*

 

*

*

* Lưu ý:
Các ô có sao là giờ Hoàng Đạo. Mỗi ngày có 6 giờ Hoàng Đạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

SAO THIÊN QUAN - THIÊN PHÚC

thiên quan (Hỏa) thiên phúc (Hỏa) *** 1. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc: Cả 2 đều là phúc tinh và đồng ...
SAO THIÊN QUAN - THIÊN PHÚC

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thiên quan (Hỏa) thiên phúc (Hỏa) 


***

1. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc: Cả 2 đều là phúc tinh và đồng nghĩa với nhau:
a. Về tính tình:             - có thiện tâm, nhân hậu, hiền lành, đức độ, hay làm việc thiện, hay cứu giúp người             - có tín ngưỡng, tin tưởng nơi Phật Trời, nhân quả             - có khiếu đi tu, có thể đắc quả Hai sao này giống nghĩa với Tứ Đức và Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần
b. Về phúc thọ:             - chủ sự cứu giải tai họa, giảm bớt hung nguy             - giảm bệnh tật             - tăng phúc thọ do việc tu nhân tích đức, giúp người, người giúp

2. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc và một số sao khác: Thiên Tướng, Riêu, Y và Thiên Quan, Thiên Phúc: bác sĩ rất mát tay, lương y chữa bệnh giỏi
Cơ Nguyệt Đồng Lương, Thiên Quan, Thiên Phúc: lương y, người hảo tâm, phúc thiện, hay làm công tác xã hội.
Tử, Tham đồng cung: đi tu, cứu độ được nhiều người.

3. Ý nghĩa của thiên quan, thiên phúc  ở các cung: Đóng ở bất luận cung nào, 2 sao này đều mang lại sự lành, sự thiện cho các cung đó. Tốt nhất là ở cung Mệnh, Thân, Phúc, Di, Tật.
a. ở Quan hay Di, Mệnh: Hay giúp đỡ người khác và được nhiều kẻ khác giúp đỡ.
b. ở Tài: Hay dùng tiền bố thí, cúng đường, sử dụng tiền bạc vào mục đích lương thiện, xã hội.
c. ở Điền: Có khi hiến điền, nhà cửa cho việc nghĩa.
d. ở Hạn: Được nâng đỡ, giúp đỡ trong công danh, tiền bạc.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO THIÊN QUAN - THIÊN PHÚC

Yêu xa bền vững nhờ dùng vỏ ốc phong thủy

Giữ gìn mối quan hệ yêu xa rất khó khăn và đòi hỏi tình yêu đích thực, dùng vỏ ốc phong thủy một cách khôn ngoan có thể được tình yêu bền vững đôi bên
Yêu xa bền vững nhờ dùng vỏ ốc phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giữ mối quan hệ yêu xa bằng cách sử dụng vỏ ốc phong thủy một cách khôn ngoan. Ngay từ thời xa xưa vỏ ốc đã được coi là vật phẩm phong thủy biểu tượng cho lòng trung thành, thủy chung của con người.

Dân gian quan niệm rằng, người đeo vỏ ốc trên áo hoặc mang theo bên mình sẽ được bảo vệ, tránh khỏi tai họa, gặp hung hóa cát. Ngay từ thời xa xưa đây cũng được coi là biểu tượng của lòng trung thành, sự thủy chung. Nó còn mang lại nhiều may mắn trong kinh doanh và giúp tình yêu phương xa bền vững, có thể tiến tới hôn nhân.

Vận may về danh vọng

Theo quan điểm phong thủy, đặt vỏ ốc vào cung tài vận trong ngôi nhà sẽ giúp kích thích vận may trong kinh doanh, làm ăn buôn bán hay thúc đẩy công việc tiến triển thuận lợi.

Để tạo ra những may mắn về danh vọng, gia chủ có thể đặt một vỏ ốc lớn ở khu vực phía Nam của phòng khách. Ngoài ra, cũng có thể đặt chúng ở hướng Đông Bắc hoặc Tây Nam để tăng cường năng lượng tích cực cho khu vực này. Theo đó, ở hướng Đông Bắc sẽ kích thích thêm vận may về giáo dục, học hành. Còn ở hướng Tây Nam lại giúp cải thiện và tăng cường may mắn trong các mối quan hệ.

Các mối quan hệ hài hòa, bền vững

Như đã đề cập phía trên, nếu trưng bày vỏ ốc lớn ở phía Tây Nam sẽ giúp cải thiện, tăng cường các mối quan hệ, kể cả xã giao và tình yêu đôi lứa. Do đó, nếu bạn đang có một tình yêu xa, hai người thường xuyên xa cách thì có thể đặt vật phẩm phong thủy này ở phía Tây Nam của phòng ngủ hoặc hướng nhân duyên trong ngôi nhà.

Cách làm này sẽ mang đến cho bạn nhiều sự may mắn, cơ hội gặp gỡ và tạo điều kiện cho mối quan hệ được nở hoa kết trái.

Ngoài ra, ở bất cứ trường hợp nào bạn cũng có thể bày biểu tượng vỏ ốc trong ngôi nhà hoặc bàn làm việc nhằm kích thích những vận may về giao tiếp. Từ đó các mối quan hệ xã giao được cải thiện, cơ hội thăng tiến của bạn càng thêm rộng mở.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Yêu xa bền vững nhờ dùng vỏ ốc phong thủy

Chọn màu trang sức hợp với phong thủy

Vật phẩm, trang sức có màu sắc phù hợp phong thủy của mệnh cung sẽ đem lại cho người đeo sức khỏe, may mắn, tiền tài…
Chọn màu trang sức hợp với phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

kim.jpg

Mệnh Kim

Theo quy luật tương sinh, Thổ sinh Kim. Đất bao bọc và nuôi dưỡng kim loại vì vậy người mệnh Kim nên sử dụng trang sức đá quý tự nhiên có màu của đất như màu nâu đất, màu vàng thổ để có sức khỏe dồi dào. Hoặc các màu sắc tương hợp khác như màu trắng, màu ghi. Ngoài ra để Kim có thể khắc chế Mộc, bạn nên sử dụng các loại trang sức màu xanh lá cây, xanh da trời.

Tránh dùng các loại trang sức có màu thuộc hành Hỏa như đỏ, hồng, tím, cam.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Kim: đá thạch anh vàng (citrine), đá mã não màu đỏ, bạc trắng, vàng, sapphire trắng…

thuy.jpg

Mệnh Thủy

Theo lý thuyết âm dương ngũ hành, người mệnh Thủy hợp nhất với những loại trang sức như bạc, đá màu trắng hoặc những sắc ánh kim bởi Kim sinh Thủy theo quan hệ tương sinh. Để được tương hợp, bạn nên chọn đá có màu mệnh Thủy, đại diện của nước như các màu xanh hoặc ánh trắng pha đen.

Tuyệt đối không nên dùng các loại vật phẩm màu vàng sậm, nâu đất vì đó là các màu sắc thuộc hành Thổ sẽ ngăn chặn chế ngự được Thủy, gây bất lợi cho người sử dụng.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Thủy: đá sapphire đen, thạch anh pha lê, thạch anh trắng,…

mộc.jpg

Mệnh Mộc

Người mệnh Mộc hợp nhất với các loại trang sức có màu sắc bắt nguồn từ Thủy, đó là màu đen, xám, màu xanh nước biển, màu nâu. Đặc biệt hợp với màu nâu, là màu của gỗ - đại diện cho Mộc. Lựa chọn các màu sắc này cho trang sức, vật phẩm đeo bên người sẽ có tác dụng nuôi dưỡng nguồn năng lượng, mang lại tài lộc, danh vọng cho chủ nhân. Bên cạnh đó để đạt tương hợp có thể dung các màu sắc Mộc như xanh lá sẽ tốt cho sức khỏe.

Nên tránh các trang sức màu trắng, bạc, màu kem như đá thạch anh trắng, thạch anh pha lê, mã não ghi, sapphire trắng,…

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Mộc: các loại đá quý như đá Topaz, đá Peridot, đá thạch anh khói, thạch anh xanh, đá mã não,…

hỏa.jpg

Mệnh Hỏa

Người thuộc cung mệnh này nên chọn các loại trang sức có màu sắc tương sinh thuộc hành Mộc như xanh lá cây, xanh da trời, vì Mộc sinh Hỏa. Còn có các tông màu thuộc hành Hỏa như tím, đỏ, cam, hồng mang lại nguồn năng lượng dồi dào, biểu hiện cho sức mạnh, đam mê và cả sự may mắn.

Tuyệt kỵ các loại đá màu đen, xám, xanh nước biển vì đó là các màu sắc tượng trưng cho nước (Thủy), sẽ đem lại sự kém may mắn do nước (Thủy) sẽ dập tắt lửa (Hỏa).

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Hỏa: trang sức có gắn đá hoặc làm từ đá ruby, đá garnet, đá thạch anh hồng, ngọc lục bảo…

thổ.jpg

Mệnh Thổ                                                                       

Để mang lại sức mạnh tinh thần và sự thoải mái trong tư tưởng, người mệnh Thổ nên sử dụng các loại trang sức màu vàng nhạt, đại diện của Mẹ trái đất, tạo cảm giác ổn định và nuôi dưỡng. Tương hợp với mệnh Thổ còn có các màu sắc gắn liền với đất, màu nâu tạo sự ổn định, mang lại cảm giác an toàn và được bảo vệ. Ngoài ra còn có các sắc màu gắn liền với Hỏa như màu đỏ, hồng, cam, tím đem lại may mắn, thịnh vượng và sức khỏe cho người đeo.

Không nên dùng trang sức màu xanh lá cây, xanh da trời vì chúng đại diện cho hành Mộc, là tương khắc hút hết sự màu mỡ và làm suy kiệt đất (Thổ), khiến người sử dụng nó vì vậy mà suy yếu về sức khỏe, khó khăn về tài chính.

Một số loại trang sức đá quý phù hợp với người mệnh Thổ: trang sức gắn đá thạch anh vàng, đá thạch anh tím, đá garnet, đá ruby,…

Thùy Trang


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn màu trang sức hợp với phong thủy

Quẻ Quan Âm: Vĩ Bội Ngộ Tiên, Vĩ Bội gặp tiên

Quẻ Quan Âm thứ 90 Quẻ Quan Âm: Vĩ Bội Ngộ Tiên đoán rằng sẽ gặp được quý nhân giúp đỡ, thêm những việc vui mừng, được nhiều tài lộc, phú quý lâu dài.
Quẻ Quan Âm: Vĩ Bội Ngộ Tiên, Vĩ Bội gặp tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 90 được xây dựng trên điển cố: Vĩ Bội ngộ Tiên hay Vĩ Bội gặp tiên.

Thử quái công danh thành tựu chi tượng. Phàm sự nghi tiến đại cát dã.

Quẻ thượng cát thuộc cung Dậu. Nếu hỏi về công danh trong tương lai thì sẽ có quý nhân phù trợ giúp đỡ. Những việc vui mừng sẽ từ từ kéo đến, có tài lộc và bạc tiền dài lâu.

Điển cố quẻ Quan Âm: Vĩ Bội Ngộ Tiên

Vĩ Bội là một thư sinh nghèo đời Đường, tuổi đã gần bốn mươi nhưng vẫn chưa thi đỗ, nên không có công danh.

Một hôm, vào buổi tối, Vĩ Bội nằm mơ thấy một người toàn thân mặc áo giáp nói với Vĩ Bội rằng: “Sau khi trời sáng, ngươi hãy đi cứu một con ba ba!”

Ngày hôm sau, khi Vĩ Bội cưỡi lừa đi qua cầu Lạc Dương, thấy có một người câu cá đang bán cá trên cầu, trong chiếc giỏ có một con ba ba. Con ba ba rất to, chiếc giỏ lại rất nhỏ, xem chừng con ba ba sắp tắt thờ đến nơi. Con ba ba nhìn Vĩ Bội, miệng lúc ngậm lúc mở, như có gì muốn nói, ánh mắt lấp lánh lại như đang cầu xin cứu mạng. Vĩ Bội cảm thấy con ba ba thật đáng thương, hỏi giá tiền thì người câu cá nói hai nghìn đòng. Lúc này đúng giữa mùa đông, mà Vĩ Bội chỉ mặc manh áo mỏng, rõ ràng là không có gì để cầm cố. Vĩ Bội nhìn sang con lừa bên cạnh, bèn nói với người câu cá rằng, muốn dùng con lừa để đổi lấy con ba ba để đi phóng sinh. Người câu cá thấy Vĩ Bội lời lẽ khẩn thiết, liền đồng ý. Vì vậy Vĩ Bội nhận con ba ba đang thoi thóp thờ từ tay người câu cá, vội vàng chạy đến mép nước, thả con ba ba xuống nước. Còn mình thì đi bộ.

Thời đó có một thầy đoán mệnh tên là Hồ Lư, nghe nói ông có khả năng dự đoán sự việc rất chuẩn xác, Vĩ Bội bèn đến xem một quẻ. Hồ Lư tiên sinh nói: “Ta có một người bạn, ông ấy là cao nhân ờ đây, thường hết lời khen ngợi đức tốt của cậu. ông ấy rất muốn gặp cậu, cậu hãy cùng tôi đi gặp mặt!”

Hai người cùng đi đến một nơi, nhẹ nhàng gõ cửa. Người gác cửa vào thông báo xong, liền mời họ vào trong, thấy bên trong nhà cửa rất nguy nga tráng lệ. Ngay sau đó, có một ông lão đi ra, râu tóc đều bạc trắng, tự giới thiệu mình là Nguyên Tuấn Chi, cúi đầu hành lễ với Vĩ Bội. Vĩ Bội rất kinh ngạc hỏi: “Tôi là một thư sinh nghèo hèn, lại được lão tiên sinh coi trọng như thế, không hiểu nguyên nhân vì sao?” ông lão nói: “Lão phu bị nạn sắp chết, may lại được ngài cứu giúp, lẽ nào có thể không báo đáp!” Thì ra đây chính là con ba ba đã được Vĩ Bội cứu thả đi.

Ông lão nhiệt tình thiết đãi họ suốt một ngày. Đến chập tối, Vĩ Bội xin từ biệt, đang muốn hỏi về tiền đồ của mình, ông lão liền lấy từ trong tay áo ra chín tờ giấy, nói với Vĩ Bội rằng: “Ta biết ngài muốn xem về tiền đồ, nên đã chép ra tiền đồ vinh hoa phú quý trong cuộc đời của ngài, để mong báo đáp.” Rồi lại nói với Hồ Lư tiên sinh rằng: “ông hãy cho ta mượn năm mươi quan tiền, mua cho cậu Vĩ một con vật để cưỡi, để cậu ta mau đi về phía tây, sớm đạt được nguyện vọng.” Vĩ Bội lại quỳ xuống tạ ơn, rồi cùng vói Hồ Lư tiên sinh ra đi.

Ngày hôm sau, Vĩ Bội xem kỹ những tờ giấy mà ông lão đưa cho, thấy trên đó có viết rằng tháng năm năm sau sẽ thi đỗ, và ngày tháng nào Vĩ Bội được nhậm chức quan gì, sẽ trải qua mười bảy lần thăng tiến, năm tháng ngày giờ đều ghi rất rõ ràng. Cuối cùng đến đúng thời điểm đó được thăng chức làm Quan sát sứ ở Giang Tây, cuối cùng làm quan đến chức Ngự sử đại phu.

Năm Nguyên Hòa thứ 8 (tức năm 813), Vĩ Bội làm quan ở Hồng Châu, cây bồ kết trước sảnh nờ hoa, vì thế Vĩ Bội từ quan, theo hướng bắc về quê cũ, trên đường trờ về phương bắc thì qua đời. Con trai ông là Vĩ Trụ làm quan đến chức Thượng thư bộc xạ đồng bình chương sự (tức là chức Tể tướng); người con khác là Vĩ Tụ làm quan đến chức Quan sát sứ ở Phúc Kiến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Vĩ Bội Ngộ Tiên, Vĩ Bội gặp tiên

Xem lá số tử vi biết nhân phẩm thiện ác

Bát tự không những thể hiện cuộc đời, vận mệnh mà còn có thể thấy được nhân phẩm, tính cách của một người, hãy xem lá số tử vi để hiểu rõ hơn.
Xem lá số tử vi biết nhân phẩm thiện ác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự không những thể hiện cuộc đời, vận mệnh mà còn có thể thấy được nhân phẩm, tính cách của một người. Để biết được bản chất thiện ác, thuận tiện trong quá trình giao lưu thì hãy xem lá số tử vi biết nhân phẩm. Chính lá số này sẽ hiển hiện rõ về những cá tính ẩn sâu và những cá tính thể hiện ra bên ngoài.

Xem la so tu vi biet nhan pham thien ac
 
Trong bát tự mệnh lý, Thập Thần là yếu tố quan trọng để xác định vận số. Những Thập Thần đại diện cho sự thiện lương, công chính là Thực Thần, Chính Ấn, Chính Quan và Chính Tài. Những cát tinh này đại diện cho người tính cách hiền lành, an phận thủ thường, trọng tình trọng người, khá bảo thủ và coi trọng đạo đức lễ phép. 
Xem thêm bài viết Xem bát tự - lý giải về Thập Thần
 
Xem lá số tử vi biết nhân phẩm, tất cả những lời nói, việc làm của người này đều hướng về chính nghĩa, chính đạo, không lừa dối người khác, tâm địa tốt đẹp, làm người giữ chữ tín và trọng lời hứa. Thường lấy hành động để thể hiện phẩm cách của chính mình.   Bát tự mà có những Thực Thần đại biểu tà ác, không tuân thủ quy củ là Thương Quan, Thất Sát, Kiếp Tài, Kiêu Thần. Đây là 4 hung thần, bất tuân lễ pháp, tùy ý làm bậy, không trọng thị nhân luân quy phạm đạo đức, khá tự cho mình là đúng, vì đạt được mục đích mà không chừa thủ đoạn nào.    Vì lẽ đó dễ dàng lừa dối người, hại người khác, nói mà không làm. Người này trong xã hội là người hay nói về nhân lễ nghĩa trí tín, khiến người khác tưởng là tốt nhưng phần nhiều nói một đằng làm một nẻo, về sau mới lộ rõ bản chất và bị xa lánh.    Như vậy có phải là trong bát tự có cát tinh chính là người tốt còn bát tự có hung tinh chính là người xấu? Không phải như vậy, nếu có cát tinh nhưng cát tinh bị hung tinh khắc chế thì trái ngược lại còn tệ hơn. Tiêu biểu là tình trạng Thực Thần bị Kiêu Thần ức chế. Vốn Thực Thần đại biểu khoan dung, phúc hậu, có khuynh hướng tâm linh nhưng nếu Kiêu Thần khắc thì lòng dạ nhỏ mọn, ý đồ khó lường, không có tình thương, tâm tính độc ác. 
Xem thêm bài viết Xem bát tự đoán tài vận cả đời
 
Vì thế cát tinh trong mệnh phải không bị quản chế mới có thể thoải mái thể hiện tâm tính và sức mạnh của bản thân. Nếu bị quản chế thì điềm hung nhiều hơn điềm cát, không thể phát huy những sức mạnh và nội lực tiềm ẩn, lá số biến tướng thành các cách cục không lành. 
Xem bat tu doan tinh cach
 
Bên cạnh đó, bát tự có hung tinh không nhất thiết là người xấu, người tà ác. Chỉ khi hung tình không chế hóa thời gian mới có thể thể hiện bản tính hung ác, hung tinh gặp cát tinh chế hóa thì gặp dữ hóa lành, gặp nguy hóa an, chẳng những không ác mà trái lại càng thể tính chính nghĩa.   Ví dụ như Thất Sát có chế hóa, Thất Sát đại biểu cho tiểu nhân, tính chất hung ác, cướp bóc nếu bị Thực Thần khắc chế hoặc Chính Ấn chế hóa thì lại thành người ghét ác như kẻ thù, giữ gìn chính nghĩa. Gặp Chính Quan thì là người chấp pháp, vì bảo vệ lẽ phải sẵn sàng hi sinh đổ máu.    Xem lá số tử vi luận nhân phẩm cần xét tới các yếu tố biến hóa, thay đổi như vậy. Hung tinh chuyển cát so với cát tinh lại càng cát, cát tinh chuyển hung so với hung tinh lại càng hung.    Mệnh cục có cát tinh lẫn hung tinh nhưng lại không chế hóa lẫn nhau thì người này có tính hai mặt. Khi thì là thiên sứ, khi lại là ác quỷ. Người có lá số tử vi Quan Sát hỗn tạp, không có sao nào vượt trội thì khi là người chính nghĩa, lúc là kẻ gian tà, rất khó đoán định. 
 
Loại Thập Thần vào gần tới ngảy chủ hoặc có sức mạnh lớn thì sẽ chủ yếu thể hiện tâm tính đối lập. Xem bát tự đoán tính cách có thể nắm được then chốt về nhân phẩm của một người. Các yếu tố khác như ngũ hành, thần sát đều mang tính chất phụ trợ, bổ sung mà thôi, Thập Thần là chính yếu. 
Xem thêm bài viết Bát tự chỉ đường mách nước quý cô chọn chồng như ý
 
Đương nhiên, nếu muốn tiến sâu xa hơn, nhìn thấy thực chất và cốt lõi của một con người thì cần ngộ đạo ở mức cao hơn, nghiên cứu chuẩn mực hơn. Đây mới chỉ là phần kiến thức sơ đẳng, có ý nghĩa cơ bản nhất.    Nếu hiểu được bản tính, ý nghĩa của Thập Thần, xem mệnh cục xuất hiện sao này, bị chế hóa hay không thì có thể nắm được phẩm chất cơ bản của một người. Kiến thức tử vi này giúp tự nhìn nhận bản thân đồng thời biết phần nào về người khác, từ đó có đường hướng chuẩn, lựa chọn đúng người để kết giao.
Bát tự vượng Quan, có chức có quyền Cách xác định quý nhân vận theo tử vi Xem bát tự dự đoán đại vận nguy hiểm để biết tuổi thọ
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem lá số tử vi biết nhân phẩm thiện ác

Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Trong 12 con giáp, có những con giáp nổi danh là người chung tình và kiên định trong tình yêu. Có được tình yêu ấy là niềm hạnh phúc và may mắn khó gì sánh nổi.
Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 con giáp, có những con giáp nổi danh là người chung tình và kiên định trong tình yêu. Có được tình yêu của họ là niềm hạnh phúc lớn lao, cũng là sự may mắn khó có gì so sánh được. Cùng điểm danh những con giáp nếu yêu thì nhớ luôn trân trọng này nhé.   Tình yêu là điều đẹp đẽ nhất trên thế giới này. Ai yêu mà chẳng mong mình gặp được người chung thủy, hai người chung sống hạnh phúc tới đầu bạc răng long. Song ở đời người chung tình quả thực không nhiều, nhất là ở thời đại mà tình yêu được ví như những món ăn nhanh được bán nhan nhản ngoài đường thì lại càng hiếm hoi hơn.

comment left Không có gì thật cao quý và đáng kính trọng bằng lòng chung thủy.
Cicero
comment right
  Bạn có biết xem bói tử vi thì trong số 12 con giáp, ai là người có tiếng chung tình, một lòng một dạ với người mình yêu không? Hãy cùng Lịch ngày tốt khám phá xem với những con giáp nào thì chung tình là đức trời sinh nhé.


Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh
 
 

Tuổi Sửu

  Những người sinh năm Sửu có thể bị cho là hơi khô khan và không mấy tình cảm. Họ không dễ động lòng, mà ngay cả khi đã bị tình yêu làm cho rung động thì có lẽ cũng mất khá nhiều thời gian để họ hoàn toàn thoải mái thả mình vào đám mây hồng bồng bềnh của tình yêu.   Sự thực không phải họ là người lạnh lùng mà chỉ là vì họ quá cẩn trọng và tỉ mỉ. Họ biết mình là người yêu say đắm, hết lòng hết dạ với người mình yêu. Họ e sợ bản thân vì quá yêu mà suy nghĩ được mất, vì trao trái tim cho người không biết nâng niu mà sẽ bị tổn thương.   Người tuổi Sửu không dễ yêu, nhưng yêu ai là sẽ toàn tâm toàn ý, chung thủy với người đó đến tận cuối cuộc tình. Có thể nhiều người không tài nào hiểu nổi triết lý tình yêu của họ, khi họ quyết thu mình trong vỏ bọc để bảo vệ bản thân, mặc cho tình yêu vẫy gọi bên ngoài. 
 
Nếu bạn yêu một người tuổi Sửu, hãy kiên nhẫn và thể hiện tình cảm nồng nàn, cháy bỏng nhưng cũng rất mực chân thành với họ. Nhất định sẽ có ngày họ cảm động và dành cả trái tim cho bạn. Ngày đó và những ngày tháng về sau, bạn sẽ cảm nhận được niềm hạnh phúc xứng đáng cho tất cả những vất vả ngày trước đó.

Bạn có biết Những nàng giáp nào chung thủy trong tình yêu nhất không?

 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 2
 

Tuổi Thìn

  Vốn là những đứa con của Rồng, người tuổi Thìn cũng có nét cao ngạo như vậy trong tình yêu. Họ thể hiện tham vọng mãnh liệt trong công việc và khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp, nhưng lại tỏ vẻ không quan tâm đến chuyện tình cảm.   Song bạn đừng để vẻ bề ngoài lạnh lùng đó của họ đánh lừa, bởi trong thâm tâm, họ luôn coi trọng tình cảm. Cũng chính vì coi trọng nên họ không quá vồ vập hay thể hiện tình cảm ra ngoài mặt, bởi người tuổi Thìn cho rằng cái gì đến nhanh thì đi cũng nhanh.   Thích một người, họ sẽ không dễ dàng thay lòng đổi dạ. Ngay cả khi chưa từng mở lời, họ vẫn nhất mực chung tình với hình bóng trong trái tim mình. Chỉ cần đã nhận ra người mình có tình cảm thì họ sẽ giữ mối tình đó rất lâu dài, đồng thời lên kế hoạch để giành được trái tim người đó.   Khi đã có được người mình yêu, họ sẽ trân trọng người ấy và nâng niu trong bàn tay mình. Dù có phải trải qua bao nhiêu khó khăn, khổ cực, thậm chí là đau khổ tới mức nào, họ cũng quyết nắm tay người ấy đi tới tận cuối con đường.   Chữ yêu không dễ nói ra, nhưng nếu bạn đã được nghe điều đó từ người tuổi Thìn dù chỉ một lần thôi, vậy thì chúc mừng, bạn đã là người vô cùng quan trọng trong trái tim họ. Dù không hay nói lời tình cảm, nhưng những hành động của họ chính là thước đo tình cảm rõ rệt nhất đó.
 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 3
 

Tuổi Ngọ

  Người tuổi Ngọ có tiếng là ngay thẳng, trung thực. Trong tình yêu, họ cũng là người rất mực chung tình, không bao giờ có suy nghĩ lăng nhăng, bất trung với người mình yêu. Lòng tự tôn rất lớn khiến họ luôn ý thức được mình là ai, đâu mới là người mình yêu và trao trọn tình cảm suốt cuộc đời này.   Dù đứng trước dụ dỗ lớn tới thế nào, họ cũng quyết không để bị dao động. Bản thân họ cũng rất ghét bị phản bội, không chịu được việc người khác tùy ý chà đạp lên trái tim mình. Rút ra từ chính cảm giác của bản thân, họ không cho phép mình làm tổn thương người mình yêu.   Chọn con tim hay là nghe lý trí, nếu rơi vào hoàn cảnh đáng tiếc nhất, khi người yêu không chung tình với mình thì người tuổi Ngọ sẽ sẵn sàng từ bỏ con người bội bạc ấy, song phải mất rất nhiều thời gian mới có thể quên đi người đó. 

Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy, bạn đã biết chưa?
  Họ rất khó khăn mới có thể cho phép một người bước vào trái tim mình, vì thế mà khi chia tay, biết bao kỉ niệm sẽ còn sống mãi trong trái tim họ. Thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng hành trình ấy là khá dài với người tuổi Ngọ. Đoạn tình cảm thất bại ấy sẽ để lại bóng đen trong tâm trí họ cả đời.   Yêu một người tuổi Ngọ, đừng bao giờ làm tổn thương họ nghe bạn. Đến bên nhau đã khó, ở cạnh nhau lại càng khó hơn, nhưng có tình yêu thì mọi chuyện đều có thể. Đừng buông tay để lỡ một người chung tình quý giá đến vậy bên mình.

 

Top nhung con giap chung tinh nhat the gian hinh anh 4
 

Tuổi Tuất

  Con giáp này là người quảng giao, có duyên ăn nói, cũng có vô số bè bạn chung quanh. Gặp một người mình có cảm tình, họ thường mong muốn trở thành bạn bè với người đó chứ hiếm khi nghĩ tới chuyện tình cảm mà giữ ai đó cho riêng mình.   Nhưng ai rồi cũng sẽ gặp được tình yêu của cuộc đời, người tuổi Tuất cũng vậy. Đến một ngày nọ, họ gặp được một người mà họ sẽ rơi vào lưới tình từ ánh mắt đầu tiên. Một người tìm đủ mọi cách để ở bên một người khác, thậm chí là phải từ bỏ tất cả những gì mình có, bạn nói người đó có chung tình hay không?   Yêu một người chỉ cần một cái chớp mắt, nhưng quên một người lại cần tới cả cuộc đời. Người tuổi Tuất là một người như vậy. Đã yêu ai là họ sẽ dành tất cả trái tim mình cho người đó, cả nguồn sống thu bé lại chỉ bằng người trong trái tim họ.   Một người ngay thẳng, vui vẻ và chính trực như người tuổi Tuất, chẳng ai nghĩ họ sẽ có ngày say đắm vì tình. Nhưng khi ngày đó tới, họ sẵn sàng tung hê tất cả để có được người mình yêu. Họ sẽ làm hết sức mình có thể để dành cho người đó những điều tốt đẹp nhất. Ở bên người mình yêu là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đối với người tuổi Tuất “đệ nhất chung tình”.

An An

Top 3 con giáp Nam lọt vào hàng quý hiếm vừa chung thủy lại siêu kiếm tiền Vạch mặt anh chàng lăng nhăng khiến chị em chạy mất dép Top 3 chàng giáp “thiên hạ đệ nhất chung tình”

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top những con giáp chung tình nhất thế gian

Xem đường chỉ tay để biết chỉ số EQ của bạn |

EQ là một bộ những kỹ năng bao gồm: Biết mình; tính lạc quan; khả năng lựa chọn cách phản hồi cảm xúc phù hợp nhất; sự cảm thông với mọi người. Vậy bạn có biết chỉ số EQ của mình là bao nhiêu không? Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn cách xem chỉ tay xác
Xem đường chỉ tay để biết chỉ số EQ của bạn |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem đường chỉ tay để biết chỉ số EQ của bạn |

Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Giết người bằng ánh mắt - Sức mạnh sát nhân của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Mời bạn đọc cùng tìm hiểu
Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Đôi mắt rất quen thuộc với con người nhưng khả năng kì lạ của mắt thì mới đây các nhà khoa học mới khám phá ra.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật


Giet nguoi bang anh mat - chuyen that nhu dua (phan 2) hinh anh
 

3 - Đôi mắt sát nhân - Giết người bằng ánh mắt

Nhà khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng dị thường người Nga Igor Vinokurov, trong một cuốn sách đã kể lại câu chuyện ly kỳ sau: tại một viện nghiên cứu thuộc Cơ quan điều tra hình sự Matxcơva, ông trưởng phòng nổi tiếng là khó tính và coi thường cấp dưới bỗng đột ngột qua đời. 
 
Cuộc điều tra cho thấy vào hôm đó, ông ta khiển trách gay gắt một nhân viên dưới quyền. Người này im lặng nhưng đã nhìn thẳng vào mặt ông ta với vẻ dữ dội khiến ông bất thình lình ngã gục, đập đầu xuống bàn rồi tắt thở. Cảnh sát không thể tìm ra nguyên nhân cái chết bởi trước đó, ông này hoàn toàn khỏe mạnh. 
 
Chuyên gia giải phẫu bệnh lý sau khi mổ tử thi cho biết, trái tim của người chết dường như đã bị ai đó nắm lấy và bắt nó ngừng đập, tương tự như với quả lắc của đồng hồ. Mọi người chỉ còn biết nghi ngờ cái nhìn căm thù của người cấp dưới là nguyên nhân khiến ông trưởng phòng thiệt mạng. 
 
Sức mạnh “sát nhân” của ánh mắt thật ra được nhiều người biết đến từ lâu. Năm 1553, nhà khoa học nổi tiếng khắp châu Âu là Corneniut Agrip đã viết trong tác phẩm “Nhãn khoa”: “ở Tactari, Ilirin và Tariban có những phụ nữ có thể làm hại tất cả những ai mà họ nhìn trong lúc giận dữ”. 
 
Một trường hợp gây chấn động xảy ra tại Paris vào thế kỷ 19, dưới thời đế chế 2. Ca sĩ Massol là người rất thành công trên sân khấu opera thời đó. Ông không chỉ có giọng hát tuyệt hay mà còn nổi tiếng vì ánh mắt long lanh khác thường. Một hôm như thường lệ, ông hát khúc Aria trong vở opera “Lời nguyền” của nhạc sĩ Halevy, cặp mắt của Massol ngước lên phía mái rạp, bỗng người thợ máy đang di chuyển phông màn trên đó ngã nhào xuống sân khấu và chết ngay tức khắc. 
 
Trong lần biểu diễn khác, ánh mắt ông tình cờ dừng lại hơi lâu chỗ người nhạc trưởng. Người này ngay lập tức cảm thấy nôn nao khó chịu và hai ngày sau thì chết vì một cơn rối loạn thần kinh khác thường. Lần thứ ba, Massol được khuyên nên nhìn vào lô ghế trống trong góc khán phòng khi biểu diễn. Nhưng không ngờ, lô ghế trống hôm đó là chỗ đã được đặt trước bởi một thương nhân đến muộn. Ông này cũng lăn ra chết vào ngày hôm sau. Sau một loạt những sự việc bi thảm đó, Massol đã quyết định từ bỏ sân khấu. 
 

4- Quan điểm của các nhà khoa học

Theo tiến sĩ sinh học Grant Demirchoglian – Viện sĩ Thông tấn Viện hàn lâm Khoa học tự nhiên Nga, những công trình nghiên cứu mới đây nhất của ngành nhãn khoa đều chứng tỏ rằng: con mắt – cũng như bất kỳ một hệ thống quang điện tử nào – không những có thể thu nhận mà còn phát xạ các tín hiệu. 
 
Bản thân cấu tạo của nhãn cầu và võng mạc mắt cũng gợi cho người ta liên tưởng tới một chiếc gương parabol có khả năng phản hồi các tia xạ. Các tia phát xạ phản hồi từ mắt là loại sóng ngắn nên có tác dụng xuyên thấu tựa như tia rơn-ghen hay laser. Nó có thể tác động đến hệ thần kinh trung ương, cũng như hoạt động của toàn bộ cơ thể. 
 
Ai cũng biết là trên tròng đen của mắt có những điểm chịu trách nhiệm về hoạt động của tất cả các cơ quan bên trong. Nếu phóng một tia laser hẹp vào một khu vực nào đó của tròng đen, chẳng hạn vào khu vực của tim, có thể làm tim ngừng đập. 
 
Những nhà Yoga đã từng biểu diễn khả năng uốn cong một vật bằng “nhãn lực” khi nhìn chăm chú vào nó. Nếu có thể chứng minh được các tia phát xạ từ mắt cũng có bản chất tương tự như tia laser, chúng ta có thể tin được về sự tồn tại của các nhân vật trong các truyện viễn tưởng có khả năng tiêu diệt hay đốt cháy kẻ thù chỉ bằng cái nhìn.
 
Để có thể khám phá bí mật của cái nhìn, tiến sĩ Gion Prat và nhà vật lý kiêm nhà tâm lý học Airon Stevenson thuộc đại học Tổng hợp Devengerxki (bang Corolado – Mỹ) đã tiến hành khoảng 800 thí nghiệm. Kết quả là các ông đã phát hiện tới 90% trường hợp trong số những người được thí nghiệm có khả năng dùng mắt phát ra các bức xạ kỳ lạ mang năng lượng sinh học. 
 
Những bức xạ ấy nếu nằm trong dải sóng milimet với tần số cực cao thì có thể gây tác động vật lý lên mọi vật xung quanh tạo nên những hệ quả rõ rệt. Vì vậy, chúng ta đừng coi thường sự tác động đó, đôi lúc, mắt có sức mạnh khôn lường.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có thể tin hay không chuyện giết người bằng ánh mắt ?

Tại sao người Thái Lan xăm kinh Phật lên mình?

Tục xăm kinh văn lên người của người Thái mang ý nghĩa tâm linh, được coi là nghi thức linh thiêng, ẩn chứa pháp thuật.
Tại sao người Thái Lan xăm kinh Phật lên mình?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thái Lan là đất nước sùng Phật giáo, vì vậy đời sống văn hóa có nhiều điểm gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trong đó, có tục xăm kinh văn lên người. Tục xăm hình này của người Thái mang ý nghĩa tâm linh, được coi là nghi thức linh thiêng, ẩn chứa pháp thuật.


Tai sao nguoi Thai Lan xam kinh Phat len minh hinh anh
 
Tục xăm hình kinh văn ở Thái Lan có lịch sử từ lâu đời, xuất phát từ lòng tín nhiệm Phật giáo và tôn sùng tín ngưỡng của dân tộc này. Trước khi tiến hành xăm hình, cần tổ chức nghi thức tổ sư, cầu khấn tổ sư ban cho pháp lực để có thể mang kinh văn trên người. Tiếp theo là chọn hình phù hợp. Tất cả những kinh văn xăm lên người đều như một dạng phù chú nên chỉ xăm một lần và không sửa đổi.
  Các hình xăm thường được lựa chọn là bản tôn hoặc thần bảo hộ, trong đó tiêu biểu nhất là hầu thần, hổ thần, tượng thần, song vĩ diêm xà, chiêu tài nữ thần, những vị thần tượng trưng cho sự dũng mãnh, bảo hộ bình an, tiễu gian trừ ác, tăng cường nhân duyên và may mắn.    Nhưng xăm kinh văn thông thường người Thái sẽ lựa chọn một đoạn trong kinh Phật bằng tiếng Phạn. Đây được coi là thứ ngôn ngữ tâm linh bí ẩn có tác dụng cực cao khi xăm lên mình. Một số các đoạn kinh văn phổ biến nhất bao gồm:   1. Ngũ điều kinh văn, đại biểu cho bình an, thuận lợi, nhân duyên, tài vận, khỏe mạnh.   2. Ngũ điều kinh Kim Cương đem bình an, thuận lợi, nhân duyên, tài vận, khỏe mạnh, chắc chắn ổn định bình an, không dễ dàng bị ngoại lực ảnh hưởng.
Tai sao nguoi Thai Lan xam kinh Phat len minh hinh anh
 
Nếu xăm cả ngũ điều kinh văn và ngũ điều kinh Kim Cương thì tác dụng tăng lên vô hạn:
   (1) Bình an: kẻ thù đều rời xa, vấn đề giải quyết dễ dàng, tai nạn rời xa bên người.    (2) Thuận lợi: đi đến đâu cũng có quý nhân trợ giúp, sự nghiệp thuận buồm xuôi gió, mục tiêu đều có thể thực hiện được.    (3) Nhân duyên: xinh đẹp như a phổ tiên nữ, kết bạn với rất nhiều bằng hữu.    (4) Tài vận: tài phú sẽ không mất đi, chịu khó làm việc còn có tài phú, công tác tốt.    (5) Khỏe mạnh: cường tráng sẽ không sinh bệnh, ốm đau tiêu biến.   3. Hầu thần cáp nô mạn: thông minh, thích hợp nhân viên công vụ, thăng quan phát tài.   4. Lạp hồ thiên thần: phòng tiểu nhân, tránh tiểu nhân, khai vận chiêu tài, ác linh không dám tới gần.   5. Hồ Điệp vương: gia tăng nhân duyên, tăng mị lực, cảm tình thuận lợi, được hoan nghênh.
Xăm mình - dấu hiệu của quỷ Hai hình xăm chữ cực tốt theo phong thủy Khám phá hình xăm biểu trưng của 12 chòm sao Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao người Thái Lan xăm kinh Phật lên mình?

Giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài –

Đã bao giờ bạn nằm ngủ mơ thấy ông thần tài (ông địa) chưa? Hôm nay chúng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài (ông địa) là gì? Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa) Người hỏi: Trần Lan Vi Email: lanvi_bb@***.com Câu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đã bao giờ bạn nằm ngủ mơ thấy ông thần tài (ông địa) chưa? Hôm nay chúng mình sẽ cùng đi giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài (ông địa) là gì?

Nội dung

  • 1 Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa)
    • 1.1 Chiêm bao mơ thấy bàn thờ ông Thần tài hoặc mơ thấy mình thắp nhang cho thần tài
    • 1.2 Ngủ nằm mơ thấy ông thần tài cười với mình
  • 2 Mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu
  • 3 Mơ thấy được ông Thần tài cho tiền là điềm báo gì
  • 4 Mơ thấy Thần tài gõ cửa
  • 5 Mơ thấy thần tài hay ông địa là đánh đề con số gì?
  • 6 Trong mơ nhìn thấy ông Thần tài nói chuyện với người lạ
  • 7 Mơ thấy thần tài cho của
  • 8 Mơ thấy mình thắp nhang cho ông địa
  • 9 Nằm mơ thấy mình bầy nhiều hoa quả lên bàn thờ ông Địa và đèn cầy đã được thắp sáng
    • 9.1 Chiêm bao mơ thấy tượng ông Địa (Thần Tài) bị vỡ
  • 10 Ngủ nằm mơ thấy bát nhang của ông Địa, Thần tài bị xoay dịch hoặc đổi chỗ hoặc bi mang đi chỗ khác hoặc bát hương bị biến mất.

Ngủ mơ thấy mình nói chuyện với ông Thần Tài (Ông Địa)

Người hỏi: Trần Lan Vi

Email: [email protected]***.com

Câu hỏi: Chào AloGam.com, có một giấc mơ mà mình đã nằm mơ thấy 3 lần, đó là mình mơ thấy nói chuyện với ông thần tài, không hiểu đây là điềm báo gì?

Giải đáp: Chào Vi, giấc mơ này ngụ ý như một lời nhắc nhở bạn cần phải rèn luyện tính tự lập và phải tự tin hơn trong giao tiếm để có thể tạo dựng những mối quan hệ bên ngoài một cách tốt hơn. Điều này sẽ có thể giúp bạn có thêm được nhiều cơ hội thành công hơn trong công việc

Chiêm bao mơ thấy bàn thờ ông Thần tài hoặc mơ thấy mình thắp nhang cho thần tài

Là điềm báo tốt, giấc mơ ngụ ý kế hoạch mà bạn đang theo đuổi sẽ gặt hái được nhiều thành công.

Ngủ nằm mơ thấy ông thần tài cười với mình

Giấc mơ này là điềm báo lành, nó ngụ ý cho thấy bạn sẽ gặp nhiều may mắn và thuận lợi trong công việc trong thời gian tới.

Mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu

Người hỏi: Nguyễn Minh Thành

Email: [email protected]***com.vn

Câu hỏi: Mình nằm mơ thấy dùng khăn lau chùi cho ông thần tài và bỗng nhiên ông thần tài bị vỡ đầu. Mình cảm thấy hơi lo không biết đây có phải điềm báo gì không?

Trả lời: Chào Thành, giấc mộng này của bạn là điềm báo không được tốt. Giấc mơ dường như đang muốn báo cho bạn biết trước về sự trở ngại liên quan đến việc kinh doanh buôn bán hoặc nhà cửa đất đai trong khoảng thời gian tới. Nhìn chung khi mơ thấy giấc mơ này bạn cần chú ý thận trọng hơn khi đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến tiền bạc trong khoảng thời gian này.

Mơ thấy được ông Thần tài cho tiền là điềm báo gì

Đây là một giấc mơ thiêng và hàm ý báo hiệu trước cho bạn biết sẽ có một bước ngoặt lớn trong công việc và tình cảm cảu bạn khiến cuộc đời bạn sang một trang mới thành công hơn.

Mơ thấy Thần tài gõ cửa

Giấc chiêm bao này là điềm báo tốt lành, sắp có một tin vui nào đó đến với bạn có thể là từ công việc hoặc chuyện tình cảm.

Mơ thấy thần tài hay ông địa là đánh đề con số gì?

Các con số liên quan đến giấc mơ thấy ông thần tài hay ông địa là: 36 – 39 – 79 – 10

Trong mơ nhìn thấy ông Thần tài nói chuyện với người lạ

Là điềm báo khuyên bạn nên bắt đầu triển khai kế hoạch phát triển sự nghiệp mà đã ấp ủ bấy lâu, nếu bạn kiên trì theo đuổi thì chắc chắn thành công sẽ đến.

Mơ thấy thần tài cho của

Theo các nhà tâm lý học thì giấc mơ này cho thấy bạn đang muốn chính tỏ cho mọi người thấy mình là người thực sự có năng lực kiếm được nhiều tiền. Giấc mơ chỉ rằng bạn muốn chứng tỏ cho mọi người rằng, bạn là người thực sự có năng lực.

Mơ thấy mình thắp nhang cho ông địa

Giấc mộng này là điềm báo gia đình sẽ được thịnh vượng.

Nằm mơ thấy mình bầy nhiều hoa quả lên bàn thờ ông Địa và đèn cầy đã được thắp sáng

Đây là điềm báo trong thời gian tới bạn sẽ có quý nhân giúp đỡ để đạt được những kế hoạch đã đặt ra trong công việc.

Chiêm bao mơ thấy tượng ông Địa (Thần Tài) bị vỡ

Đây là một giấc mơ xấu, nó hàm ý cảnh báo bạn trong khoảng thời gian này sẽ có thể gặp nhiều điều không may mắn khiến bạn bị hao tổn tiền bạc. Cũng có thể sẽ có những chuyện rắc rối xảy ra trong công việc khiến bạn phải bận lòng suy nghĩ

Ngủ nằm mơ thấy bát nhang của ông Địa, Thần tài bị xoay dịch hoặc đổi chỗ hoặc bi mang đi chỗ khác hoặc bát hương bị biến mất.

Đây cũng là những giấc mơ mang lại điềm báo không lành. Điềm báo liên quan đến những giấc mơ này là sự cảnh báo về sự hao tổn tiền bạc, sự trở ngại trong công việc làm ăn kinh doanh hoặc gia đi có tranh cãi khiến mọi người trở nên căng thẳng với nhau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mã các giấc mơ thấy ông thần tài –

Phong thủy tăng cường sự giàu có cho gia chủ

Theo phong thủy, sự giàu có không đơn thuần chỉ về tiền bạc, mà gồm cả tài chính, sức khỏe và các mối quan hệ hòa hợp trong gia đình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vấn đề tài chính làm bạn mệt mỏi và căng thẳng, cộng thêm những cơ hội tốt đẹp cứ vụt qua trong tiếc nuối. Nguyên nhân có thể là do năng lượng giàu có của bạn bị chặn lại. Phong thủy là cách tuyệt vời để kích hoạt các kênh năng lượng, do đó, bạn có thể thu hút thêm sự thịnh vượng đến với cuộc sống. Điều này rất dễ thực hiện, chỉ áp dụng những lời khuyên đơn giản sau đây cho từng khu vực trong nhà.

Chào đón sự thịnh vượng

Tại lối vào chính của ngôi nhà, treo 3 đồng tiền xu được nối với nhau bởi dây ruy băng màu đỏ lên tay nắm cửa. Chiều dài dây ruy băng thích hợp là từ 22 - 40 cm và số 3 tượng trưng cho sự giàu có trong phong thủy. Bạn có thể tìm mua xâu tiền xu ở hầu hết các cửa hàng bán đồ phong thủy, thờ cúng.

Đảm bảo rằng khi mở cửa chính ra không bắt gặp bất kỳ vật cản nào phía trước. Bí quyết này cũng đúng với tất cả các cánh cửa khác trong nhà. Tra dầu vào bản lề cửa kêu cót két, lau sạch cửa kính và cân nhắc việc sơn màu cánh cửa. Màu đỏ là màu sắc tốt đẹp cho sự thịnh vượng.

Bạn cũng nên tìm mua tượng cóc ba chân (hay còn gọi là Thiềm thừ) để bày trong nhà. Cóc ba chân có rất nhiều kiểu dáng, có thể ngậm hoặc không ngậm tiền xu trong miệng và cõng thêm biểu tượng khác trên lưng. Vật phẩm phong thủy đáng yêu này có khả năng thu hút sự may mắn.

 phong thuy tang cuong su giau co cho gia chu - 1

Luôn giữ cho hành lang đủ ánh sáng, sạch sẽ và gọn gàng. Nên trang trí những chậu hoa cảnh dọc hành lang, hoa có màu đỏ là lựa chọn tốt nhất và nhóm chúng thành từng cụm 3 cây một.

Làm mới lại các phòng

Phong thủy đòi hỏi mọi thứ phải được tổ chức chặt chẽ và sạch sẽ, hãy lên kế hoạch làm mới lại tổng thể ngôi nhà một lượt. Loại bỏ những thứ cũ rích, không còn giá trị sử dụng hoặc đã lâu không dùng đến sẽ giúp bạn mời gọi cái mới. Thiết lập vị trí đặc biệt cho những đồ vật thường có xu hướng xuất hiện rải rác trong nhà, như vậy, bạn có thể giữ cho không gian sống luôn trật tự. Đừng quên rằng chính sự lộn xộn sẽ cản trở nguồn năng lượng tích cực tiếp cận ngôi nhà của bạn.

Bạn có thể làm mới nguồn năng lượng của mọi căn phòng chỉ đơn giản bằng cách bố trí lại đồ nội thất. Có một nguyên tắc phong thủy đúng với bất kỳ không gian nào, đó là "Ít hơn là nhiều hơn". Quá nhiều đồ nội thất, đồ linh tinh... sẽ mang đến cảm giác gò bó, chật chội và ngăn cản dòng chảy của cơ hội mới.

Cây xanh tươi tốt, đặc biệt là các loài cây lá tròn rất lý tưởng để trưng bày ở cả bên trong lẫn bên ngoài ngôi nhà. Bởi vì hình dáng lá tròn giống hệt với đồng tiền xu.

Nếu bạn làm việc tại nhà, treo một chiếc chuông gió trên trần nhà, ngay phía trên khu vực làm việc để "lôi kéo" nguồn khí tốt lành, trí tuệ và thành công.

Tiếp sức cho khu vực giàu có

Bên trong nhà hoặc căn hộ của bạn, xác định rõ khu vực Đông Nam. Đây là khu vực tài lộc, là nơi tuyệt vời để đặt bàn thờ hoặc các vật phẩm phong thủy tài lộc đặc biệt. Đặt một vài đồng tiền xu trên bàn thờ hoặc thiết kế một đài phun nước tại đây để giữ cho dòng chảy của sự giàu có, thịnh vượng được thông suốt. Nhóm các đồ vật thành bộ ba, ví dụ như bộ 3 cây nến... để tăng cường vận may.

 phong thuy tang cuong su giau co cho gia chu - 2

Xem xét đặt một bể cá ở khu vực Đông Nam và mỗi khi cho cá ăn, hãy nghĩ tới sự giàu có, dư thừa sẽ đến với bạn.

Trường hợp khu vực Đông Nam trong nhà đón được ánh sáng lúc bình minh hoặc hoàng hôn, bạn nên đặt chậu hoa cảnh có màu đỏ hoặc tím ở đây. Đỏ và tím là 2 màu sắc có liên quan trực tiếp tới sự giàu có.

Phòng tắm và phòng bếp

Bếp nấu là đồ vật quan trọng nhất trong phòng bếp. Lý do là bởi, quan niệm phong thủy truyền thống cho rằng nó gắn kết chặt chẽ với sự giàu có. Bếp nấu phải được vệ sinh hàng ngày, thuận tiện khi sử dụng.

Các bậc thầy phong thủy tin tưởng nước có thể cuốn trôi tiền tài, đòi hỏi bạn phải dành sự chú ý đặc biệt đến tất cả yếu tố nước hiện diện xung quanh. Mỗi khi không sử dụng chậu rửa, đậy kín nắp cống thoát nước để ngăn năng lượng thoát ra ngoài. Tương tự, tập thói quen đậy nắp bồn cầu xuống khi không dùng tới. Gam màu đất như màu vàng sáng, màu be... đại diện cho đập ngăn nước, rất phù hợp dùng cho tường hoặc sàn phòng bếp, phòng tắm hoặc phòng giặt.

Ngoại thất

Khu vực giàu có trong sân vườn nhà bạn cũng nằm ở hướng Đông Nam. Thiết kế một thác nước để tạo ra dòng chảy tiền bạc, của cải mạnh mẽ hơn. Chuông gió, cối xay gió, cánh quạt... hay thứ gì xoay tròn được cũng giúp thu hút thêm nguồn khí tích cực. Trồng một vài khóm hoa lâu năm màu đỏ hoặc tím. Đối với bàn ghế, ghi nhớ quy tắc bộ ba, chẳng hạn như sắp xếp 3 chiếc ghế ngồi sát nhau...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tăng cường sự giàu có cho gia chủ

Tử Vi hoàn toàn khoa học

Một bài viết sưu tầm trên mạng của Whatebear về các bài viết của TS Đằng Sơn. Mời các bạn cùng đọc.
Tử Vi hoàn toàn khoa học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết ghi chép lại một số phần của cuốn Tử Vi Hoàn Toàn Khoa Học của Tiến Sỹ Đằng Sơn. Bài này chép lại một thread của WhateBear trên diễn đàn Tử Vi Lý Số

Tử Vi Lý Số: Thuyết Tạ Phồn Trị về nguồn gốc chính tinh và tứ hóa

Khởi điểm của ông Trị chỉ có đúng địa bàn 12 cung. Với giả sử rằng lý tuần hoàn của trái đất ứng với một đời người (một năm = một đời người chết già) ông suy ra được rằng Thái Âm ứng với tháng, Thái Dương ứng với giờ bằng lý thiên văn.

(Theo tôi, nhìn ra Thái Âm ứng tháng, Thái Dương ứng giờ là đã tìm ra cái chìa khóa quan trọng nhất của khoa Tử Vi. Theo lời ông Trị tự thuật thì ông suy ngẫm về cái bí mật của cặp sao Âm Dương liên tục 18 năm mà không tìm ra manh mối gì cả, sau nhờ thiền đốn ngộ mới hiểu ra cái lý của chúng).

Các sao còn lại là kết quả tất yếu, như sau:

1- Tử Phủ phải có mặt vì Âm Dương không phản ảnh đúng những biến đổi trên mặt địa cầu (lý này do tôi bổ túc).

2- Trong hoàn cảnh quân bình nhất của địa cầu, mọi cung đều phải có sao. Hoàn cảnh này là tháng 2 (tiết xuân phân) và tháng 8 (tiết thu phân). Nhưng địa bàn còn 9 cung trống, số sao thêm phải gần 9 mà thỏa lý âm dương, tức là thỏa lý số chẵn, do đó số sao thêm phải là 10, cộng với 4 sao có sẵn là Âm Dương Tử Phủ, kết quả tổng số sao phải là 14. (Tạ Phồn Trị).

Từ cách hình thành trên đây, có thể thấy Âm Dương Tử Phủ khác với 10 sao còn lại, nên tôi gọi chúng là 4 đế tinh. Hình như cách gọi này nhiều người không thích, nên cần phân biệt thêm là Tử Phủ ví như hai vua ở trung ương (Tử chính Phủ phụ), Âm Dương như hai ông tướng vùng (mỗi người một cõi, không có chính phụ).

3- Dùng lý của hậu thiên bát quái, định ra hai nhóm cung âm dương trên địa bàn, coi nhóm sao bắc đẩu ứng với âm, nhóm nam đẩu ứng với dương thì ra thứ tự các sao ứng với tháng 2 y hệt như lưu truyền, tức Tử Phủ Dần, Thái Âm Mão, Tham Lang Thìn v.v… (Tạ Phồn Trị)

Tái khám phá này là một đột phá to lớn của ông Trị, vì xưa nay những người nghiên cứu hoặc không hiểu 14 chính tinh ở đâu mà ra, hoặc cho rằng mình hiểu thì lý luận lại thiếu tính khoa học.

4- Dùng lý chẵn của âm dương và đòi hỏi tụ tán của tháng 2 (bình hòa), tháng 5 (cực đoan) thì phân ra được hai chùm sao Tử, Phủ. (Phần này do tôi bổ túc).

Kế tiếp, về tứ Hóa:

- Tứ Hóa ứng với 4 sự biến đổi lớn trên địa cầu, do vị trí tương đối của mặt trời mà sinh ra, nên Lộc Quyền Khoa Kỵ chẳng gì khác hơn là 4 thực thể tương ứng của 4 mùa xuân hạ thu đông. (Đây không phải là tái khám phá của ông Trị, vì nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi đã tin như vậy từ lâu rồi).

- Hóa ứng với thế cực đoan, thế cùng (cùng tắc biến) nên hoàn cảnh được xử đụng để định tứ hóa là tháng 5 hoặc tháng 11. Hai tháng cho lời giải như nhau nên chọn tháng 5. Thái Âm ứng tháng nên tháng 5 thì Thái Âm cư Ngọ, ngoài ra phải thêm một lý nữa là mượn tính bình đẳng (nhiệt độ) của trục Mão Dậu để đưa hai sao Liêm Phá từ Mão sang Dậu để tăng độ cực đoan đến mức tối đa trong bài giải tứ Hóa. Kết quả được Phủ Tỵ, Đồng Âm Ngọ, Tham Vũ Mùi, Cự Nhật Thân, Liêm Phá Dậu (mượn cung của Tướng), Cơ Lương Tuất, Tử Sát Hợi. (Tạ Phồn Trị).

- ”Ta” có bản chất của ta, đồng thời chịu ảnh hưởng bên ngoài, cộng lại thành số mệnh. Trong bài toán tử vi “ta” ứng với tháng ngày giờ, ảnh hưởng bên ngoài ta ứng với năm, gồm có can năm và chi năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Ảnh hưởng bên ngoài ta có thể phân làm hai loại, một là của mặt trời, hai là các thiên thể còn lại trong thái dương hệ. Ảnh hưỏng của các thiên thể còn lại trong thái dương hệ được phản ảnh qua các sao thuộc chi năm, nhất là vòng Thái Tuế. Ảnh hưởng của mặt trời vì thế phải được phản ảnh qua can năm. Do đó tứ Hóa định bằng can năm. (Phần này do tôi bổ túc).

- Phó tinh là sao không có bản sắc riêng, nên không có yếu tố biến hóa. Do đó phó tinh không hóa. Phó tinh gồm có: Tướng là phó tinh của Phá Quân, Phủ là phó tinh của Tử Vi, và Sát là phó tinh của Thiên Phủ (Tạ Phồn Trị).

- Lộc Quyền ứng với hai mùa Xuân Hạ. Xuân Hạ cùng ứng với sự sinh động, tiến bộ, hòa hợp nên Lộc Quyền được xét chung với nhau, theo lý “Lộc trước Quyền sau”. Thêm nữa, vì hai mùa Xuân Hạ phối hợp tốt đẹp với nhau, trong bài toán Tử Vi hai chùm Tử Phủ được phối hợp với nhau và vận chuyển thuận lý (theo chiều thời gian) để định Lộc Quyền. Ra được kết quả y hệt như bảng Lộc Quyền hiện hành. (Tạ Phồn Trị).

Theo tôi đây là một tái khám phá rất vĩ đại, vì nguồn gốc tứ Hóa là một bí mật to lớn của khoa Tử Vi, các lập luận khác mà tôi được đọc qua đều thấy rất hàm hồ tùy hứng.

- Kỵ ứng với mùa đông. Đông có tính chết chóc, thụt lùi, chia rẽ nên bài toán hóa Kỵ có hai đặc điểm. Một là hai chùm Tử Phủ phải tách rời nhau và đều vận chuyển nghịch lý. Hai là năm dương thì chính nhóm sao dương (tức chùm sao Tử Vi) bị hóa Kỵ, năm âm thì chính nhóm sao âm (tức chùm sao Thiên Phủ) bị hóa Kỵ. Dùng luật này suy ra kết quả của nhóm can dương là: Giáp Dương, Bính Liêm, Mậu Cơ, Canh Đồng, Nhâm Vũ. (Tạ Phồn Trị)
Kết quả này của ông Trị hết sức quan trọng, vì nó giải vấn nạn can Canh. “Canh Nhật Vũ Âm Đồng” hay “Canh Nhật Vũ Đồng Âm”. Theo lý luận này của ông Trị can Canh Âm không thể nào hóa Kỵ vì Âm là sao của nhóm âm, không thỏa điều kiện năm dương sao dương hóa Kỵ.

- 14 chính tinh không đủ để giải bài toán hóa Kỵ cho 5 can âm, vì vậy Tử Vi phải đặt thêm cặp sao Xương Khúc. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng của ông Trị. Nó giải thích lý do tại sao Xương Khúc có mặt trong bài toán Tử Vi.

- Hóa Khoa ứng với mùa thu, dừng lại, điều chỉnh sau sự phát triển quá độ của mùa hạ. Điều chỉnh là không tiến cũng không lùi vì vậy luật định hóa Khoa phải khác với Lộc Quyền, và cũng khác với Kỵ. (Tạ Phồn Trị).

- Khi giải bài toán hóa Khoa, 14 chính tinh và Xương Khúc vẫn chưa đủ, nên phải thêm hai sao Tả Hữu. (Tạ Phồn Trị).
Đây là một luận đề quan trọng khác của ông Trị. Nó giải thích tại sao Tả Hữu có mặt trong bài toán Tử Vi.

Mặc dù có vài góc cạnh bất đồng với ông Trị, tôi tin là ông đã lật mở những bí mật quan trọng bậc nhất của khoa Tử Vi. Thuyết của ông giải thích được tại sao có 14 chính tinh, tại sao các chính tinh lại theo thứ tự như vậy, tại sao tứ hóa lại được an như vậy mà không khác; đều là những vấn nạn hàng đầu của khoa Tử Vi. Ngoài ra, cùng trong cái lý nhất quán ấy ông suy ra được lý do hiện hữu của hai cặp sao bí mật của Tử Vi là Xương Khúc Tả Hữu cũng như lý do tại sao chúng được tham dự trong bài toán tứ Hóa (các sao Không Kiếp Hình Riêu Thiên Địa Giải Thai Cáo Thai Tọa Quang Quý thì có thể suy ra được sau khi chấp nhận sự hiện diện của Xương Khúc Tả Hữu nên không bàn đến ở đây).

Quan trọng hơn nữa đối với tôi là thuyết của ông Trị hoàn toàn phù hợp với phương pháp lý luận của khoa học hiện đại. Điểm này cần nhấn mạnh, vì trước và sau ông Trị đã có nhiều vị cố giải thích lý do hiện hữu của 14 chính tinh và tứ Hóa rồi, nhưng tôi thú thật là đọc qua các lý luận ấy tôi chẳng thấy phù hợp chút nào với kiến thức khoa học hiện đại. Chẳng hạn thuyết cho rằng mỗi chính tinh ứng với một sao trên trời có vấn đề lớn là trục trái đất liên tục xoay trong vũ trụ nên vị trí các sao bây giờ đã khác hẳn mấy ngàn năm trước, và vài ngàn năm sau lại càng khác xa hơn nữa.

Tôi rất vui mừng vì thế hệ sau tôi còn nhiều người muốn nghiên cứu khoa Tử Vi một cách nghiêm chỉnh như anh. Trước khi trả lời câu hỏi, tôi cần nói rõ rằng mấu chốt của bài toán LQKK được ông Trị hé mở mới 11 năm trước thôi (1995), và ngay trong chính lời giải của ông Trị tôi đã thấy có vài vấn đề mà tôi đã mạn phép sửa chữa.

Nói rõ thế để anh cũng như các bạn trẻ khác thấy rằng việc nghiên cứu Tử Vi cũng như nghiên cứu khoa học, chẳng có ai có mọi lời giải, chúng ta -bất chấp tuổi tác phái tính- phải học hỏi lẫn nhau, và trong các vấn đề chưa ngã ngũ thì mỗi người phải tự đốt đuốc mà đi, tìm con đường cho riêng mình, rồi khi thấy người ta có điểm hay thì mạnh dạn bỏ cái dở kém cùa mình mà học cái ưu việt của họ; ngược lại thấy cái sai của người hay cũng phải dám mạnh dạn bỏ đi hoặc sửa lại cho đúng. Tóm lại phải luôn luôn mở mắt ngóng tai, lọc cái sai chọn cái đúng, tuần tự nhi tiến.

Lời mào đầu như vậy đã xong, nay tôi xin vào đề:

Theo tôi, Tử Vi là bài toán tổng hợp của rất nhiều tín hiệu. Chủ trương của tôi là không bỏ tín hiệu nào cả, nhưng phải phân định tín hiệu nào là chính, tín hiệu nào là phụ.
Các cung trên lá số chứa sẵn một loại tín hiệu, đó là tín hiệu ngũ hành. Tín hiệu này dĩ nhiên có ảnh hưởng, nhưng vấn đề là ảnh hưởng của nó mạnh bao nhiêu. Câu hỏi này chỉ trả lời được khi ta xét mỗi một vấn đề từ gốc rễ của nó.

Trong bài toán tứ Hóa, nhờ bài giải nhất quán của ông Trị (phù hợp với cách an tứ Hóa được lưu truyền) ta có thể tin rằng tứ Hóa quả đã được người xưa đặt ra để tương ứng với 4 trạng thái của địa cầu (Xuân Hạ Thu Đông) và phản ánh 4 cảnh biến của đời sống (Sinh Thành Trụ Diệt). “Hóa” như vậy có nghĩa là biến đổi từ một hoàn cảnh có sẵn. Thực thể nhận sự biến đổi dĩ nhiên là các chính tinh liên hệ hoặc Xương Khúc Tả Hữu.

Vì là tác nhân của sự biến đổi, khả năng tạo biến đổi dĩ nhiên phải là tính chất chính của tứ Hóa. Biến đổi có ý nghĩa nhất khi nó chính là đáp số phù hợp với đòi hỏi của hoàn cảnh. Từ đó tôi suy ra rằng hóa Lộc mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Lộc, hóa Quyền mạnh nhất trong hoàn cảnh cần Quyền v.v…

Lấy trường hợp hóa Lộc. Tôi ví Lộc như đồ ăn. Chính tinh miếu vượng không bị phá cách như nhà giàu no đủ, thêm đồ ăn cũng tốt đấy (nhưng phải coi chừng bội thực hoặc “ăn no rửng mỡ” thành tai hại). Ngược lại chính tinh cực hãm thì như Hàn Tín sắp chết đói, hóa Lộc dù theo lý ngũ hành kém cỏi bao nhiêu vẫn là “bát cơm Phiến mẫu”, chính là yếu tố “cùng tắc biến” thay đổi cả một đời người.

Thành thử tôi cho rằng yếu tố quan trọng nhất để định độ mạnh yếu của LQKK là hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH).

Các thuyết như Lộc Quyền đắc ở mộc hỏa, hãm ở kim thủy, hóa Lộc vô dụng ở tứ Mộ, Kỵ đắc ở tứ mộ v.v… đa số dựa trên lý ngũ hành của các cung.
Chúng ta đều biết các khoa mệnh lý đều dựa trên hai thuyết hợp lại là âm dương và ngũ hành (gọi chung là thuyết âm dương ngũ hành). Dựa trên cách hình thành, tôi cho rằng trong khoa Tử Vi lý âm dương đóng vai chủ yếu, ngũ hành chỉ là phụ mà thôi. Thế nhưng các luật ngũ hành của tứ Hóa theo tôi vẫn có chỗ hữu ích, miễn là ta biết giới hạn phạm vi (mà tôi cho là khiêm nhượng) của chúng khi áp dụng vào thực tế.

Vắn tắt, khi luận tứ Hóa tôi coi hoàn cảnh của chính tinh (hoặc XKTH) là chủ yếu, lý ngũ hành và các lý khác (kể cả Tuần Triệt) như gia vị tăng giảm hiệu ứng mà thôi.

Ngoài ra, cũng xin tiết lộ một tái khám phá của tôi (hoàn toàn lý thuyết, còn cần nhiều kiểm chứng) là Khôi Việt có công năng giải cái nguy của Kỵ. Đặc biệt khi chính tinh hoặc Xương Khúc cực hãm lại hóa Kỵ, được có Khôi hoặc Việt cùng cung hoặc hội họp thì chẳng sợ cái nguy của Kỵ nữa.

Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn thế này. Thời còn trẻ, tôi mê Tử Vi rồi bỏ nó vì thấy nó không trả lời được nhiều câu hỏi có thể gọi là “cắc cớ” của tôi, chẳng hạn:

1. Chính tinh: Tại sao Tử Vi có 14 chính tinh? Chính tinh được đặt ra bằng lý nào? Tại sao đúng 14 chính tinh mà không phải 12 (số cung trên địa bàn) hoặc 16 (vì 16=2×8 mà 8 là bát quái)? Tại sao Tử Vi hành thổ, Thất Sát hành kim v.v…? Một số sao mỗi sách nói một hành khác nhau vậy sách nào đúng, và tại sao đúng? Tại sao Thiên Đồng hãm ở Dậu (cung chính kim, sinh tính thủy của Thiên Đồng), tại sao Tử Vi kém ở Tí mà miếu ở Ngọ v.v…

2. Tứ hóa: Tứ hóa có ý nghĩa gì? Tại sao tứ Hóa an theo can năm mà không theo chi năm, hoặc tháng, hoặc giờ? Tại sao tứ Hóa an theo sao khác thay vì theo cung? Tại sao can Giáp lại Liêm Phá Vũ Dương mà không phải Phá Liêm Dương Vũ chẳng hạn, v.v…

Khi trở lại mệnh lý rồi, đọc nhiều sách tôi vẫn chẳng tìm được lời giải, mãi khi tình cờ đọc được sách của ông Trị mới như thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mặc dù ông Trị chưa có lời giải cho 100% mọi câu hỏi của tôi, tôi cho rằng ông đã mở được cánh cửa bí mật nghìn năm của khoa tử vi, hy vọng chúng ta sẽ nương theo đó mà đạt những bước tiến mới giúp khoa Tử Vi nhảy vọt tới trước.

Hình như bạn cũng có nhiều câu hỏi giống tôi ngày xưa. Nhưng bây giờ bạn may mắn hơn vì bạn có một cái chìa khóa quan trọng trong tay, đó là những bước khởi đầu do ông Trị đề ra. Chỉ việc đọc sách cho kỹ (gạn lọc lỗi chính tả) bạn cũng sẽ nắm được cái chìa khóa đó y như tôi vậy.

Chúc việc nghiên cứu của bạn sớm thu hoạch nhiều kết quả.

Vài dòng đóng góp.

***

Nền tảng của mọi khoa mệnh lý Á đông là thuyết âm dương ngũ hành, điểm này thiết tưởng cần nhấn mạnh, kẻo không chú ý thì bị lạc đề mà không hay.

Tinh đẩu trong Tử Vi không gì khác hơn là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của Tử Vi (cũng như thần sát là các lời giải của thuyết âm dương ngũ hành trong trường hợp đặc thù của các khoa ngũ tinh khác với Tử Vi).

Bởi vậy, rất cần chú ý. Đừng nệ vào ngôn từ, mà phải nắm cái gốc. Một khi hiểu tinh đẩu chính là lời giải của âm dương ngũ hành rồi thì sẽ có cái nhìn khác về tinh đẩu.
Tinh đẩu = một cách diễn tả lý âm dương ngũ hành.

Tóm lược lại, theo tôi âm dương ngũ hành là cái lý bề sâu của khoa Tử Vi, tinh đẩu là cách diễn tả bề mặt của cái lý đó cho mọi người dễ hiểu; nên nếu bảo “Tử Vi tinh đẩu quan trọng hơn âm dương ngũ hành” tôi sẽ đồng ý, ấy bởi vì nếu đã hiểu ý nghĩa tinh đẩu rồi mà còn thêm âm dương ngũ hành vào nữa tức là áp dụng một phép tính hai lần, may lắm thì chỉ thừa thãi mà thôi, nhưng nếu xui xẻo thì phạm sai lầm to lờn.

Vậy tại sao phải đặt vấn đề âm dương trọng hay ngũ hành trọng khi xét tinh đẩu? Xin thưa là vì có nhiều vị làm việc “xét lại” ý nghĩa tinh đẩu bằng lý âm dương ngũ hành, rồi thiên về một khía cạnh nào đó mà diễn giải, tạo thành cơ nguy là càng diễn giải càng xa rời cái ý nghĩa của âm dương ngũ hành vốn đã nằm sẵn sau các tinh đẩu. Cần chú ý đến âm dương ngũ hành khi xét tinh đẩu là cốt để tránh cái nguy cơ đó.

Thí dụ: Xét cách Thiên Đồng cư Dậu. Cách này sách bảo là hãm địa. Đây là một kết quả mà người xưa đã tìm ra và đã bao hàm ý nghĩa âm dương ngũ hành ở đằng sau rồi. Thế nhưng đời sau có người không biết lại lập luận rằng “Thiên Đồng thuộc dương thủy, mà Dậu là âm kim sinh thủy, nên Thiên Đồng miếu vượng ở Dậu”. Nếu coi ngũ hành là tiêu chuẩn xét tinh đẩu thì lập luận này có vẻ đúng (nhưng thực ra nó sai). Chính vì thế mà tôi mới nhấn mạnh rằng khi xét cách cục (tức tinh đẩu) thì phải coi âm dương là chính, ngũ hành là phụ. Một khi áp dụng quy luật ấy, sẽ (tái) khám phá rằng quả nhiên Thiên Đồng hãm ở Dậu là hợp lý.

Dĩ nhiên, nếu đã nắm vững ý nghĩa của tinh đẩu rồi thì chẳng cần dùng lý âm dương ngũ hành làm gì cho thừa thãi. Nhưng mấy người trong làng nghiên cứu Tử Vi dám xưng là nắm vững ý nghĩa tinh đẩu? Riêng tôi có chủ trương hồ nghi nên phương pháp của tôi là dùng lý âm dương ngũ hành để tái lập lại ý nghĩa của mọi tinh đẩu (y như kiểu reverse engineering của người tây phương).

Tái lập ý nghĩa tinh đẩu rất tốn công sức, nhưng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng ta đạt một mức hiểu biết có tính gốc rễ đáng tin cậy, thay vì phải học thuộc lòng tính chất tinh đẩu theo các sách xưa, vừa mất công vừa lo ngại họa tam sao thất bổn.

Kế tiếp, xin bàn chuyện sao đồng hành với bản mệnh.

Nhận xét sơ khởi: Tinh đẩu phản ảnh lý âm dương ngũ hành theo quy luật của khoa Tử Vi (có khác với các khoa khác).

Tôi cho rằng trong bài toán Tử Vi, cần phân biệt hai lực lượng là “ta” và “ngoài ta”. Theo suy luận của tôi, trong các tinh đẩu thì “ta” được đại biểu bởi các sao liên hệ đến tháng ngày giờ gồm có chính tinh và các phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Quang Quý Thai Tọa Thai Cáo Thiên Địa Giải (Triệt thì tôi còn trong vòng suy nghĩ, chưa ra kết quả tối hậu). “Ngoài ta” thì được đại biểu bằng can năm và chi năm. Tức là Tứ Hóa, vòng Thái Tuế, vòng Lộc Tồn v.v… đều là những lực lượng “ngoài ta” cả.

Còn lại nạp âm của năm sinh, tức là “bản mệnh” thì có liên hệ thế nào với khoa Tử Vi, là “ta” hay “ngoài ta”. Ở đây tôi dùng lời giải có sẵn của thuyết tam tài, theo đó can năm đại biểu trời, chi năm đại biểu đất, “bản mệnh” là thực thể do cả trời đất cộng lại mà thành, nên đại biểu nhân, tức là “ta”. Đây là cái “ta” ngoài lá số.

Cùng ứng với cái “ta” cả thì phải ăn khớp với nhau mới tốt. Bởi vậy có nhu cầu so sánh, xem bản mệnh có phù hợp với cái “ta” trong lá số không. Phù hợp thì như hai bộ phận ráp lại ăn khớp, tất có sự tốt đẹp, không phù hợp thì như hai bộ phận trái cựa, dù tốt cũng không hoàn hảo.

Như vừa trình bảy ở trên, cái “ta” trong lá số được đại biểu bởi chính tinh, Tả Hữu Xương Khúc và các sao liên hệ. Quan trọng nhất dĩ nhiên là chính tinh.

Vấn đề là làm sao so sánh cái “ta” ngoài số (tức bản mệnh) và cái “ta” trong lá số (tức chính tinh?). Ở đây lý âm dương không có lời giải rõ rệt nào, do đó không có cách nào khác hơn là dùng lý ngũ hành.
Kế tiếp, giữa hai cái “ta” ngoài lá số và trong lá số thì cái nào gần với con người thật của ta? Thiết nghĩ phải là cái ta ngoài lá số, vì cái ta ấy phối hợp can năm và chi năm, nên có giao cảm tự nhiên với thiên (can) và địa (chi).

Từ đó suy ra:

1.-Chính tinh đồng hành với bản mệnh là lý tưởng hơn hết, vì như vậy là hai cái ta “như hai mà một”, ứng hợp hoàn toàn.
2.-Chính tinh sinh bản mệnh cũng tốt (vì cái ta thật sự được cái ta lý thuyết sinh cho) nhưng không bằng trường hợp 1, vì như vậy là hai cái ta khác nhau, thế nào cũng phải có lúc trái cựa.
3.-Bản mệnh sinh chính tinh tạm tốt, nhưng kém trường hợp 2, vì cái ta thật sự phải sinh cho cho cái ta lý thuyết, không những có lúc trái cựa, mà còn bị nhiều mệt mỏi nữa.
4.-Bản mệnh khắc chính tinh là cái ta thật khắc cái ta lý thuyết, bất lợi.
5.-Chính tinh khắc bản mệnh là cái ta thật sự bị khắc, bất lợi hơn hết.

Từ lý luận trên, có thể thấy rằng đòi hỏi tương ứng ngũ hành giữa bản mệnh và chính tinh là kết quả của một lập luận hợp lý. Chỉ có vấn đề cấp độ mạnh yếu của tương ứng này là không rõ mà thôi. Tôi cho rằng đây là một tương ứng khá mạnh, ấy bởi vì ngũ hành là cái lý duy nhất có thể xử dụng để suy ra kết quả trong trường hợp này.

Tóm lại, tôi đồng ý sự tương ứng ngũ hành giữa chính tinh và bản mệnh là một yếu tố quan trọng. Về điểm này, tôi tin theo kết luận của cụ Thiên Lương.

Nhưng vì đã coi âm dương là lý quan trọng nhất của Tử Vi- tôi không tin độ tương ứng (ngũ hành) giữa bản mệnh và chính tinh là yếu tố áp đảo. Về điểm này, chủ trương của tôi có phần khác với học phái Thiên Lương.

Vài dòng đóng góp.

1. Một vị bảo rằng tôi nói ông Tạ Phồn Trị thiền đốn ngộ 18 năm suy ra rằng can Canh Thiên Đồng hóa Kỵ.
Sự thật: Chuyện ông Trị đốn ngộ ra là cái lý của cặp sao Âm Dương, không phải cái lý của tứ Hóa. Ông cũng không hề nói rằng ông ngồi thiền 18 năm, chỉ nói là bế tắc về ý nghĩa của cặp Âm Dương 18 năm, nhờ thiền đốn ngộ mới suy ra (thời gian thiền không rõ, nhưng đốn ngộ có thể trong một giây hoặc một sát na).
Xem lại bài đầu tôi viết trong mục này sẽ thấy y hệt như thế.

2. Một vị khác bảo rằng ông Trị cho rằng thuyết ngũ hành là lời giải gần đúng của thuyết âm dương.
Sự thật: Ông Trị không hề chủ trương ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương (và riêng bản thân tôi nghi rằng ông Trị vẫn cho rằng thuyết ngũ hành là toàn bích như mọi người khác).
Thuyết “ngũ hành chỉ gần đúng” này là do tôi tái khám phá ra bằng phương pháp khoa học, chẳng dính líu gì với ông Trị.

3. Khá nhiều người cho rằng ông Trị chủ trương khảo sát Tử Vi bằng phương pháp hoàn toàn khoa học.

Sự thật: Chủ trương của ông Trị khó biết vì ông chỉ ra đúng một quyển sách mỏng “Chu dịch dữ tử vi đẩu số” rồi biến mất, nhưng từ sách này tôi thấy ông là một dịch lý gia theo nghĩa rất cổ điển, nào là số thái huyền, nào là cách an Tử Vi liên hệ đến “đế xuất hồ Chấn”, nào là cách Cự Nhật ứng với quẻ “thủy hỏa kí tế”, nào là Càn Tốn đối nhau, Khôn Cấn đối nhau trong hậu thiên bát quái v.v…

Thú thật đọc sách của ông Trị tôi thấy quá huyền hoặc, hiển nhiên không phải là một quyền sách khoa học.

Nhưng đời này rất lạ, có nhiều khi bằng phương pháp phi khoa học người ta lại tìm ra phát kiến mới có giá trị khoa học.

Tôi là người trọng khoa học, đọc sách của ông Trị tôi thấy cái giá trị khoa học ẩn tàng bên trong nên mới dùng ngôn ngữ khoa học để chứng minh những điều ông đã tái khám phá. Một mục đích của tôi là tạo cơ hội cho những người trong giới khoa học nhận ra rằng Tử Vi hoàn toàn phù hợp với khoa học hiện đại rồi tham dự vào việc nghiên cứu, giúp Tử Vi mau chóng tiến bộ như mọi ngành khoa học khác thay vì cứ lẩn quẩn như ngàn năm qua trong trạng thái của một khoa học phôi thai.

Nếu việc khoa học hóa những tái khám phá của ông Trị về chính tinh và tứ Hóa có tính gượng ép thì người có tội là tôi, không phải ông Trị, vì -như đã nói- ông Trị không dùng ngôn ngữ khoa học mà chỉ dùng ngôn ngữ của dịch học và thuyết âm dương ngũ hành thôi.

Cuối cùng, một điểm có tính học thuật:

Một vị viết trên vietlyso.com rằng khi can Giáp xuất hiện, cùng sát na đó các can Ất, Bính, Đinh v.v… cũng có mặt trong bài toán Tử Vi; rồi dựa vào đó mà phê bình, rằng thuyết của ông Trị không thỏa lý này.
Tôi e vị này đã hiểu lầm thuyết của ông Trị, vì sự kiện “mọi can cùng hiện” cũng chính là giả sử mà ông Trị sử dụng, không những thế nó chính là một trong những mấu chốt quan trọng nhất (theo tôi thì nó chính là điểm đột phá) giúp ông định được cách an tứ Hóa.

Không phải mọi người đều đồng ý rằng Tử Vi nên được khoa học hóa, nên thiết tưởng cần trả lời tại sao nên khoa học hóa Tử Vi.

Khởi từ nhận xét:

Ở một thời xa xưa Tử Vi chỉ có người dạy và người học. Nhưng trong vòng trăm năm trở lại đây, có lẽ thời gian thẩm thấu đã đủ, người ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề với khoa này. Đặt vấn đề với Tử Vi rất dễ dàng, vì xưa nay cách học Tử Vi nặng về khẩu quyết mà thiếu nguyên lý, nên có thể nói rằng bất cứ đề tài nào liên hệ đến Tử Vi cũng có dẫy đầy câu hỏi.

Có đặt câu hỏi thì tất nhiên sẽ có trả lời câu hỏi. Ở Việt Nam trong hạ bán thế kỷ 20 có ông Thiên Lương viết hai tập Tử Vi nghiệm lý, xiển dương một số cách luận có phần khác truyền thống, trong đó quan trọng nhất là cái lý của vòng Thái Tuế. Ở Đài Loan, HK từ cuối thập niên 1970 cho đến cuối thập niên 1990 có thể gọi là một giai đoạn trăm hoa đua nở của khoa Tử Vi. Đột ngột số sách Tử Vi biến từ vài quyển thành mấy trăm quyển, kỳ nhân dị sĩ xuất hiện khắp nơi, trong đó người bảo là có bí mật gia truyền ngàn năm muốn lộ ra ngoài, người bảo mình nhờ thiền mà ngộ ra Tử Vi, nói chung đều xưng cách của mình là “đại đột phá”, “vô tiền khoáng hậu” v.v…

NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)

HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.

ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.

Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.

Có hai thuyết chính.

Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.

Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.

Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.

Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.

Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:

- Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.

- Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.

Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.

Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?

Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.

Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.

Vài dòng ghi nhận.

Chữ “âm dương” mà tôi nói đến trong “âm dương là chính ngũ hành là phụ” ám chỉ toàn bộ “thuyết âm dương” không chỉ là cách phân loại âm dương đặc thù (như Thiên Đồng là dương thủy).
Khi xét toàn bộ thuyết âm dương thì sự phân phối của các sao trên địa bàn đã có hàm chứa tính âm dương rồi. Cơ sở lý luận chính của tôi ở đó. Xét các tổ hợp khác nhau với điều kiện là hoàn cảnh của (hai ông tướng vùng) Âm Dương có ảnh hưởng quan trọng đến các sao tĩnh (rồi thêm ngũ hành vào sau cùng nếu cần thiết) thì sẽ thấy tại sao Thiên Đồng hãm ở Ngọ, Thìn.

GIỚI HẠN VÀ TRIỂN VỌNG CỦA VIỆC KHOA HỌC HÓA TỬ VI

Khi muốn khoa học hóa bất cứ một ngành gì đã hiện hữu, ta phải lùi thật nhiều bước để trở về một vị trí nào đó mà tập thể những người tương đối có trí tuệ và kiến thức có thể đồng thuận trên nền tảng của một hệ tư duy có lớp lang gọi là “lô gích” rồi từ đó mới lại bước đi, cũng theo các quy luật của lô gích.

Tại sao lại đặt vấn đề lô gích? Thưa vì có nhiều chuyện trên đời này không thể nào dùng lô gích mà suy được (như thánh nữ đồng trinh Maria, như hiện tượng đốn ngộ, như hiện tượng đột ngột khỏi hẳn ung thư nhờ kiên trì cầu nguyện phật, chúa v.v…); đó là những chuyện nằm ngoài lô gích. Những chuyện nằm ngoài lô gích không ở trong phạm trù của khoa học nên không thể dùng tiêu chuẩn của khoa học mà luận xét. Cần nói rõ thế, vì nhiều người tự xưng là khoa học gia cứ dùng tiêu chuẩn khoa học để lên án những hiện tượng nằm ngoài lô gích mà không biết rằng khi làm thế là chính mình đã đi ngược lại đòi hỏi của lô gích.

Bởi vậy, bước đầu của người nghiên cứu Tử Vi bằng khoa học là phải nhận biết công trình của mình có giới hạn riêng của nó, dù đạt thành công đến tột đỉnh cũng không thể nào vượt qua giới hạn ấy được. Phải biết thế để khỏi cạnh tranh vô lý với những kỳ nhân nằm ngoài lô gích, như chỉ nhìn lá số Tử Vi rồi nói vanh vách cuộc đời phải như thế nào, và đều đúng cả (có thật, cá nhân tôi đã gặp qua). Thí dụ này quan trọng, vì dùng lô gích bình thường sẽ phải dựa vào thực tế là chỉ có 500 ngàn lá số để kết luận rằng không thể nào nhìn lá số mà đoán đời người ta vanh vách được. Để khỏi loãng đề tài hiện tại tôi sẽ giải thích hiện tượng kỳ nhân mệnh lý sau (và dĩ nhiên lời giải thích ấy không thể nào hoàn toàn lô gích).

Nhưng tại sao lại bỏ quá nhiều công lao để nghiên cứu Tử Vi bằng phương pháp khoa học để rồi khi xem Tử Vi vẫn thua xa các kỳ nhân? Thưa vì người học Tử Vi thì đông mà kỳ nhân cực hiếm. Thực trạng là vì thiếu phương pháp khoa học, hầu hết giới học tử vi (kể cả giới nghiên cứu tử vi) đều ở trạng thái mò mẫm, như người trong hầm tối chẳng có lối ra. Trạng thái mò mẫm đó tạo thành cảnh vàng thau lẫn lộn, chẳng biết đâu là đúng là sai, nên người học Tử Vi sau khi đạt một mức cơ bản nào đó rồi thì tiến hay lùi thật khó mà xác định, tức là bị kẹt trong một cái vòng lẩn quẩn, không có con đường rõ ràng nào để tiến về phía trước. Giả như việc khảo sát Tử Vi bằng khoa học thành công, thì mặc dù không thể đào luyện kỳ nhân, chúng ta cũng thành công trong việc giúp người học Tử Vi liên tục tiến về phía trước thay vì dậm chân tại chỗ hoặc chạy trong cái vòng lẩn quẩn.
Đó là phần trình bày về giới hạn và triển vọng của phương pháp khoa học khi áp dụng vào Tử Vi. Kế tiếp tôi xin luận những điều kiện mà các bước đầu của khoa Tử Vi phải thỏa khi ta khảo sát nó bằng phương pháp khoa học.

TẠI SAO TÔI BÁC BỎ THUYẾT THIÊN VĂN CỦA CẶP TỬ PHỦ?

HỎI: Về cặp Tử Phủ ông bảo thuyết của ông Tạ Phồn Trị “quá huyền hoặc” và ông đề xướng thuyết của riêng ông. Thuyết này của ông không nói gì đến tính thiên văn của Tử Phủ, nhất là không nhắc đến chòm sao bắc đẩu, vốn được nhiều nhà nghiên cứu cho là thực thể thiên văn tương ứng của sao Tử Vi. Vậy có phải là thiếu sót chăng?

ĐÁP: Tôi có đọc thấy trên vài mạng mệnh lý khá nhiều lời phê bình, cho rằng tôi đã thiếu sót, sai lầm trầm trọng vì không nhận ra rằng 14 chính tinh đều có gốc ở thiên văn. Có người dựa trên sự kiện rằng tôi hay viện dẫn sách ông Trị mà kết luận rằng đây là điểm thiếu sót, sai lầm của ông Trị.

Để làm sáng tỏ vấn đề, tôi xin thưa ngay rằng ông Trị không hề đi ngược lại truyền thống thiên văn của các nhà nghiên cứu cũ. Người đi ngược truyền thống là tôi, và từ cái nhìn “ngược truyền thống” -nhưng dựa trên khoa học- tôi thấy lập luận của ông Trị về cặp Tử Phủ là huyền hoặc. Sau đây tôi xin tóm lược lập luận của ông Trị rồi trình bày lý do tại sao tôi không chấp nhận nó.
Ta đã biết vào lúc khai sinh của địa bàn, tức tháng Giêng giờ Tý thì Thiên Phủ ở Sửu, Tử Vi ở Mão.

Ông Trị nhận xét rằng ở thời điểm này nhìn lên phương bắc tất thấy sao đuôi của chòm Bắc Đẩu ở chính đông, ứng với phương Mão trên địa bàn, cùng lúc đó sao Long Đầu ứng với cung Sửu.
Vì trục trái đất gần khít với sao Bắc Cực (tức sao Alpha–UMi), một quan sát viên trên mặt đất (ở bắc bán cầu) sẽ thấy cả hai sao này cứ mỗi giờ âm lịch chuyển 30 độ theo chiều nghịch.
Chiều nghịch quan sát thấy trên trời bắc chính là chiều thuận trên địa bàn, mỗi 30 độ ứng với một cung, nên nếu đuôi chòm Bắc Đẩu đã ở Mão vào giờ Tý thì sẽ ở Thìn vào giờ Sửu, ở Tỵ giờ Dần v.v… tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình sao Tử Vi.

Tương tự, cho ngày và giờ cố định rồi thì cứ mỗi tháng hai sao Phá Quân và Long Đầu cũng chuyển 30 độ theo chiều nghịch nên tiết lập xuân (tháng Giêng) sao Long Đầu ở cung Sửu tất tiết lập hạ (tháng 4) ở cung Thìn, lập thu (tháng 7) ở Mùi, lập đông (tháng 10) ở Tuất; tức là hoàn toàn phù hợp với vận trình của sao Thiên Phủ.

Cho nên, dùng hoàn cảnh của tiết lập xuân làm điều kiện ban đầu (initial conditions) và “giờ tháng nghịch chiều” làm cái lý vận hành để giữ hoàn cảnh của vũ trụ không đổi, ông Trị kết luận Tử Vi ứng với đuôi của chòm Bắc Đẩu thất tinh, Thiên Phủ ứng với sao Long Đầu. Đó là cái lý hình thành của cặp Tử Phủ theo ông Tạ Phồn Trị.

Mười chính tinh còn lại thì ông Trị cho rằng không dính líu gì đến các sao trên trời. Tôi đã thấy một số người suy diễn rộng hơn, cho rằng mỗi một chính tinh đều phản ảnh vận hành của một sao có thật trên trời. Nhưng dù chỉ cho cặp Tử Phủ ứng với sao thật như ông Trị hoặc cho hết thảy 14 chính tinh ứng với sao thật như một số vị khác, tựu chung thì yếu tố để liên kết vẫn là tương ứng phương vị trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Chẳng hạn như trường hợp ông Trị thì hoàn cảnh đặc thù ấy là giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân (ứng với Tử Vi ở Mão, Thiên Phủ ở Sửu).

Cần ghi nhận rằng ông Tạ Phồn Trị chẳng phải là người đầu tiên cho rằng các sao trong khoa Tử Vi ứng với sao thật trên trời. Thí dụ cận đại có “Tử vi đẩu số giảng nghĩa”, một tài liệu Tử Vi nổi tiếng do tiền bối Lục Bân Triệu soạn trong thập niên 1950 cho lớp Tử Vi của ông gần đây được nhiều nhà bình chú. Trong tài liệu này, phần an sao có viết khá dài về liên hệ giữa Tử Vi và thiên văn. Đoạn đầu như sau:
“Tử Vi dựa vào sự vận chuyển biến hóa của chòm bắc đẩu, chòm nam đẩu, các sao trong Tử Vi đàn, và các tạp tinh để tượng trưng cát hung họa phúc của đời người. Nam đẩu, bắc đẩu, Tử Vi đàn nguyên là những sao quan trọng nhất và được biết tới nhiều nhất trong thiên văn cận đại…”

Tôi xin phép chỉ dịch đến đấy, bởi thiết nghĩ bấy nhiêu đủ cho ta biết thuyết cho rằng Tử Vi liên hệ mật thiết với bắc đẩu, nam đẩu v.v… không phải là mới lạ, mà đã lưu hành tối thiểu nửa thế kỷ rồi. Và rất dễ hiểu, vì tên gọi của 14 chính tinh và một số phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc v.v… đều là tên sao có thật; nếu xưa này người ta chưa từng nối kết các sao trong Tử Vi với sao thật trên trời mới là chuyện lạ.

Bây giờ tôi xin trình bày lý do tại sao tôi cho rằng loại lập luận này là huyền hoặc. Tôi sẽ chỉ phê bình lập luận của ông Trị, nhưng lý lẽ này cũng áp dụng cho các lập luận tương tự.

Tôi sẽ nhìn nhận ngay rằng thuyết của ông Trị về cặp Tử Phủ (và các thuyết thiên văn tương tự khác) có tính hấp dẫn rất mạnh, bởi nó khơi động tính tò mò của con người về những liên hệ có thể có giữa con người và các vì sao trên trời. Chính tôi cũng bị loại thuyết này hấp dẫn, nhưng tiêu chuẩn khoa học bắt buộc tôi phải đứng về phe phản đối vì có hai vấn đề sau đây.

Vấn đề đầu tiên là: Trên trời có muôn vì sao cùng ứng hợp phương vị với Tử Vi, Thiên Phủ; tại sao chọn hai sao Phá Quân và Long Đầu làm sao tương ứng? Vì hai sao này tương đối sáng chăng? Nhưng nếu độ sáng là tiêu chuẩn thì hai sao này làm sao sáng bằng mặt trăng, mặt trời là biểu tượng của Thái Âm Thái Dương? Vậy thì lấy lý nào để nói Tử Vi là sao vua, ngự trị các chính tinh khác kể cả cặp Âm Dương?

Ngắn gọn, cách chọn sao của ông Trị không thỏa đòi hỏi độc nhất; một đòi hỏi hết sức quan trọng của khoa học. Trong thập niên 1980 đã có một danh gia mệnh lý Đài Loan là ông Phương Vô Kỵ cố gắng giải quyết vấn nạn này. Ông Vô Kỵ cho rằng hai chòm Bắc Đẩu và Nam Đẩu (tức chòm sao Nhân Mã Sagittarius) có từ trường rất mạnh nên chúng đặc biệt hơn các chòm sao khác. Nhưng như thế lại có vấn đề, vì từ lực giảm rất nhanh với khoảng cách. Nếu lấy từ lực làm tiêu chuẩn thì lực áp đảo phải là các thiên thể trong thái dương hệ; và nếu vậy thì một lần nữa ta lại gặp bế tắc là tại sao Tử Vi lại ứng với uy quyền cao hơn cặp Âm Dương, trong khi mặt trời (ứng với Thái Dương) hiển nhiên là thiên thể quan trọng nhất của thái dương hệ (chú 6). Mặt trăng có kém thế hơn mặt trời, nhưng nếu hỏi một em bé (chưa có suy nghĩ thiên vị) mặt trăng hay chùm bắc đẩu quan trọng hơn, tôi nghĩ câu trả lời hiển nhiên sẽ là mặt trăng.

Vấn đề thứ hai trình bày kế tiếp đây tôi nghĩ còn nghiêm trọng hơn nữa. Các độc giả đã đọc qua sách thiên văn hẳn biết rằng trục của trái đất (tức trục tưởng tượng xuyên qua bắc cực và nam cực) không vĩnh viễn song song với một phương cố định trong vũ trụ, mà liên tục xoay chuyển như trục của một con quay (tức con vụ, con bông vụ, con cù) lúc sắp ngã vậy. Nếu ta vẽ trên tinh cầu (một mặt cầu tưởng tượng ở trời cao) quỹ tích của các điểm mà trục trái đất vạch thành thì sẽ được một vòng tròn. Phải mất khoảng 26 ngàn năm trục trái đất mới đi hết vòng tròn này để trở lại vị trí ban đầu. Thời gian 26 ngàn năm đối với một đời người là rất dài, nhưng xét trên chiều kích của khoa học thì cũng như một tích tắc mà thôi. Và khi trục trái đất trên trời cao dời đi đủ xa thì đuôi chòm Bắc Đẩu sẽ không ở phương đông vào giờ Tý ngày đầu của tiết lập xuân nữa!

Khi ấy ta sẽ làm gì? Phải chăng là cho một sao khác ở lân cận đâu đó ứng với Tử Vi để tái lập sự ứng hợp đã mất đi giữa thời gian và vị trí? Sự điều chỉnh này, nếu có, sẽ dựa trên lý nào? Làm sao thiết lập tính độc nhất của nó?

Sự thật là chòm Bắc Đẩu hiện đang lìa xa dần vòng cung bắc cực. Chính ông Phương Vô Kỵ (đã dẫn ở trên) có nhìn nhận trong sách của ông rằng 8 nghìn năm nữa chòm Bắc Đẩu sẽ không còn ở phía trên xích đạo; lúc ấy thật khó mà cho rằng nó có vị trí thiên văn đặc biệt hơn các chòm sao khác; bảo là nó ứng với sao cao quý nhất của 14 chính tinh, tức sao Tử Vi, thì lại càng gượng ép, nếu không muốn nói là hàm hồ.

Vì những vấn nạn đã nêu trên, mọi thuyết cho rằng mỗi một chính tinh của môn Tử Vi có một sao tương ứng trên trời sẽ phải chấp nhận thêm tối thiểu một điều kiện là khoa Tử Vi chỉ có giá trị khi một số điều kiện đặc thù về phương vị của các sao này được thỏa. Như vậy, vì trục quay trái đất liên tục di chuyển, trong mỗi chu kỳ 26000 năm khoa tử vi chỉ có giá trị trong một khoảng thời gian X nào đó mà thôi.

Tức là giá trị khoa học của khoa Tử Vi có tính tuần hoàn; có khi nó sai, có khi nó đúng?! Thật khó tưởng tượng là giá trị của một thuyết khoa học lại có đặc tính kỳ cục này.

Có người sẽ biện luận đời vốn không phải là cõi thập toàn nên dĩ nhiên không có thuyết tuyệt đối hoàn chỉnh; và nếu coi cái “kỳ cục” kể trên là một phần của tính không hoàn chỉnh của Tử Vi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi xin phép hoàn toàn bất đồng. Bởi mặc dù đời này không có sự hoàn chỉnh tuyệt đối, các thuyết vẫn có độ hoàn chỉnh cao thấp khác nhau. Nếu phải lựa một trong hai thuyết, ta không thể nói vì cả hai đều không hoàn chỉnh nên tha hồ lựa chọn theo ý thích, mà phải xử dụng những tiêu chuẩn khoa học cập nhật nhất để loại thuyết kém hoàn chỉnh và giữ thuyết hoàn chỉnh hơn.

Trở lại vấn đề, tôi xin thưa rằng cái “kỳ cục” kể trên có thể tránh được nếu ta bỏ hẳn việc ép các sao có thật trên trời vào 14 chính tinh. (Chú thích tại chỗ: Mặt trời và mặt trăng là ngoại lệ vì liên hệ với trái đất rất mật thiết và có tính vĩnh hằng, nên ứng với Thái Dương và Thái Âm là hợp lý).

Vì thế tôi lập luận cặp Tử Phủ được đặt ra để phản ảnh những thay đổi mùa màng của địa cầu, vì cặp Âm Dương đã không làm được chuyện ấy. Xét rốt ráo thì cái lý mà tôi đưa ra cho cặp Tử Phủ vẫn là lý thiên văn, nhưng dựa trên kết quả hiển hiện (mùa màng) nên thỏa điều kiện độc nhất của khoa học, lại không lệ thuộc vào vị trí trục quay của trái đất nên không bị mối nguy là chắc chắn trở thành sai lạc trong vài ngàn năm nữa.
Tóm lại ta hiện có hai thuyết đều có tính thiên văn. Một thuyết thì lý tương ứng không thỏa điều kiện độc nhất, lại chắc chắn sẽ trở thành sai lầm trong vài ngàn năm nữa và vì thế khó biết có đúng trong hiện tại hay không; một thuyết hiện đã tương ứng với thực tế và sẽ tiếp tục tương ứng với thực tế ngày nào trái đất còn tự xoay quanh nó và quanh mặt trời.

Xét từ quan điểm khoa học ta phải chọn thuyết nào? Câu trả lời xin dành cho quý vị.

MUỐN KHOA HỌC HÓA MỆNH LÝ PHẢI LÀM GÌ

Sau đây là một bài viết của tôi cho các ngành mệnh lý nói chung, dĩ nhiên áp dụng cho Tử Vi.

Tính ưu việt của khoa học và thực trạng lạc hậu của mệnh lý

Trong nhiều bài rải rác khắp nơi tôi đã đưa lập luận để chứng minh rằng mệnh lý hội đủ các đặc tính của một ngành khoa học, nhưng nhận ra tính khoa học tiềm ẩn trong mệnh lý không làm cho mệnh lý biến ngay thành một phần của tri thức khoa học mà chỉ là bước đầu trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý.

Đi từ thực trạng huyền học của mệnh lý đến cái đích khoa học là một công cuộc cải cách; muốn cải cách một hoàn cảnh đã tồn tại lâu đời ta phải bắt đầu bằng cách nhận diện rạch ròi những khó khăn trở ngại, rồi suy ra phương thức khắc phục. Điểm bắt đầu hợp lý và giản dị nhất là đi trở lùi về lịch sử để làm việc ôn cố tri tân.

Khởi từ lúc văn minh loài người hình thành, đã có một thời gian rất dài mệnh lý được coi là một phần của tri thức chính thống. Ở Á đông ngày xưa, kiến thức được quy về 4 chữ “nho y lý số”, và tiêu chuẩn trí thức cao cấp nhất là trên thông thiên văn, dưới đạt địa lý, giữa hiểu nhân sự (“thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung tri nhân sự”); đều bao hàm mệnh lý. Ở tây phương trước đây, các nhà thiên văn học cũng thường là chiêm tinh gia; như ông Kepler nổi tiếng với ba định luật diễn tả quỹ đạo và vận tốc của các hành tinh quanh mặt trời là một điển hình.

Hạ bán thế kỷ 17, khi khoa học bắt đầu chiếm ưu thế trong các hệ tri thức của nhân loại nhờ vật lý Newton thì cũng là lúc các khoa nghiên khảo mệnh lý (gọi chung là mệnh lý học) bắt đầu bị đẩy lùi vào bóng tối, không còn được coi là kiến thức chính thống nữa. Hơn ba thế kỷ đã trôi qua, khi bài này được viết, tình hình chung đại khái vẫn thế. Nếu hỏi giới khoa học nghĩ gì về mệnh lý, e rằng câu trả lời phổ thông nhất là “mê tín dị đoan”, và câu trả lời lịch sự nhất vẫn mang nặng tính chất hồ nghi.

Tại sao mệnh lý bị coi là mê tín, tại sao giá trị của mệnh lý bị giới khoa học hồ nghi? Xin thưa đây chỉ giản dị là một trường hợp “cạnh tranh thích ứng sinh tồn” giữa hai đối thủ là khoa học và huyền học. Với phương pháp và thủ tục hiệu quả của riêng nó, khoa học đã đạt những thành tựu xuất chúng. Các bộ môn huyền học (bao gồm mệnh lý) vì không điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh nên lâm vào cảnh lạc hậu. Giữa sự ưu việt và sự lạc hậu, người trí thức nên chọn cái nào? Thiết tưởng câu trả lời quá hiển nhiên; thế nên đa số giới trí thức chọn khoa học. Mà đã chọn khoa học thì nhẹ cũng phải hồ nghi giá trị của mệnh lý, nặng tất coi mệnh lý là nhảm nhí.

Nhưng chi tiết hơn thì những lý do nào khiến mệnh lý lạc hậu đến nỗi mang tiếng “mê tín dị đoan”? Theo thiển ý, có 4 lý do chính:

1. Khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân.
2. Phương pháp luận lỗi thời (thiếu khả năng thích nghi).
3. Tự cho mệnh lý giá trị quá cao.
4. Thiếu khả năng và thủ tục truyền đạt kiến thức.

Sau đây xin trình bày từng lý do một và đề nghị phương thức giải quyết.

Đề nghị 1: Bỏ khuynh hướng thần thánh hóa cổ nhân

Khi nghiên cứu mệnh lý, ta hay gặp hai chữ “thánh nhân”; như Chu Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử là “thánh nhân” của dịch lý; các ông Thiệu Khang Tiết, Dã Hạc là “thánh nhân” của bói dịch v.v… “Thánh nhân” đây được hiểu là “đỉnh cao trí tuệ”. Thánh nhân “phán” điều gì ta phải coi là điều ấy đúng. Dám đặt câu hỏi về một điều thánh nhân đã phán là hành động phạm thượng không thể tha thứ được. Trọng thánh nhân được coi là một đức tính phải có của người học mệnh lý, không chỉ vì “tiên học lễ hậu học văn” mà còn vì niềm tin rằng đây là điều kiện để có cảm ứng tốt đẹp giúp cho sự tiến bộ trên đường học tập.

Khác với mệnh lý, khoa học không có một thánh nhân nào cả. Xét hai khoa học gia đứng hàng đầu lịch sử là Newton và Einstein là rõ. Ông Newton tìm ra quy luật “vạn vật hấp dẫn” giải thích được đủ loại chuyển động, từ động tác rơi của một chiếc lá vàng nhỏ bé đến vận trình của các thiên thể vĩ đại; phát kiến ấy tự cổ chí kim dễ ai sánh kịp? Nhưng ông Einstein thay vì coi ông Newton là thánh nhân lại hồ nghi là thuyết của ông (Newton) còn thiếu sót. Thái độ “phạm thượng” này không những chẳng làm hại ông Einstein hoặc khiến khoa học ngừng trệ, mà dẫn đến hai thuyết Biệt Tương Đối và Tổng Tương Đối (Special Relativity and General Relativity).

Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của câu chuyện. Trong thập niên 1920’s, khi ông Einstein đã đạt vị trí cao nhất trong giới khoa học, nhân loại lại chứng kiến một cuộc cách mạng mới, tức cuộc cách mạng của vật lý lượng tử. Lịch sử khoa học ghi rõ từ năm 1927 trở đi, người phản đối vật lý lượng tử dữ dội nhất chính là ông Einstein. Nhưng nhờ sự lãnh đạo của Neils Bohr, phái lượng tử đã thành công trong việc xiển dương những lý thuyết của họ, với kết quả (ngoài ý muốn) là ông Einstein bị đẩy từ thế tiền phong vào vị trí lạc hậu.

Giả như ông Einstein coi ông Newton là thánh nhân thì có lẽ đến ngày hôm nay nhân loại vẫn chẳng có hai thuyết Tương Đối, và chúng ta vẫn nhai lại những gì ông Newton khám phá ra hơn 300 năm trước. Giả như Neils Bohr và những người tin tưởng ông coi Einstein là thánh nhân thì vật lý lượng tử có lẽ đã không thể thành hình rõ nét để dẫn đến cuộc cách mạng điện tử, giúp máy điện toán trở thành phổ thông rồi kích khởi cuộc cách mạng truyền thông của ngày hôm nay.

Các dữ kiện có thật trăm phần trăm trên đây là minh chứng hùng hồn rằng nhiều bước tiến của khoa học xảy ra được chính vì khoa học không có “thánh nhân”. Không có thánh nhân nên chẳng có ai để tôn thờ, nương dựa; phải tự đốt đuốc mà đi thành thử chẳng thể lập lại cái cũ, như thế mới có thể tìm ra con đường mới lạ cho riêng mình. Cái lý này phật Thích Ca đã giải thích rõ trước khi ngài nhập niết bàn, trong thiền học có công án “phùng phật sát phật” đại khái cũng là lý ấy, người viết chẳng dám lạm bàn thêm nữa.

Nhìn trở lại trường hợp mệnh lý, khuynh hướng thần thánh hóa người xưa đã vô hình chung biến thành một trở ngại vô cùng to lớn, khiến mệnh lý ngày nay thay vì tiến bộ lại có phần thoái hóa so với ngày xưa. So với văn minh khoa học hiện đại, thực trạng của mệnh lý lại càng thảm hại, nói là như đom đóm so với mặt trăng chẳng phải là quá đáng. Mà cũng dễ hiểu. Thần thánh hóa người xưa thì thành tựu cao tột cũng không thể vượt quá việc diễn giải những kiến thức cũ của họ thay vì phát triển những tư duy mới. Không có tư duy mới thì dĩ nhiên không tiến bộ, mà mình không tiến trong khi người ta tiến thì bảo sao không bị tụt lại, lẽo đẽo sau lưng người ta?
Thế nên (mặc dù có thể bị lên án “phản truyền thống”) người viết cường điệu rằng đòi hỏi đầu tiên trong công cuộc khoa học hóa mệnh lý là chấm dứt thói quen thần thánh hóa người xưa. Dĩ nhiên, bởi mọi cái tồn tại lâu đời đều phải có một giá trị nào đó, ta phải biết quý trọng và chịu học hỏi, nghiền ngẫm những gì được người xưa truyền lại. Nhưng đồng thời ta phải giữ thái độ hồ nghi, luôn luôn đặt câu hỏi về giá trị của những gì người xưa để lại cho ta bởi dù siêu việt bao nhiêu thì người xưa vẫn là con người, tức là họ có thể phạm sai lầm.

Đề nghị 2: Khoa học hóa phương pháp luận của mệnh lý

Một lý do khiến khoa học vượt thắng nhiều hệ tri thức khác (kể cả triết học) là vì nó có một phương pháp đặc thù, nay được gọi là ‘phương pháp khoa học’. Phương pháp khoa học đã được bàn nhiều trong các sách giáo khoa, ở đây chỉ xin nêu ưu điểm chính của nó. Ưu điểm này có thể bao gồm trong bốn chữ “khả năng đãi lọc”!

Để thấy tại sao “khả năng đãi lọc” là một ưu điểm lớn của khoa học hãy xét trường hợp tiêu biểu là có 2 thuyết được đặt ra để giải thích cùng một hiện tượng. Hiện tượng được giải thích dĩ nhiên phù hợp với cả hai thuyết nên không thể dùng nó để đãi lọc xem thuyết nào sai. Gặp hoàn cảnh này, thủ tục đương nhiên của khoa học là suy luận thêm một bước nữa để ra hai kết quả có thể kiểm chứng được của thuyết [1] và thuyết [2] mà ta sẽ gọi lần lượt là X’ và X’’. Ta biểu diễn hoàn cảnh này như sau:

[1] => X’
[2] => X’’

Kế đó thực hiện thí nghiệm kiểm chứng, nếu kết quả là X’ thì thuyết [1] tồn tại, thuyết [2] bị đãi lọc (tức là bị bác bỏ); ngược lại nếu kết quả là X’’ thì thuyết [2] tồn tại, thuyết [1] bị bác bỏ.

Hãy giả sử là X’ được chứng nghiệm, nhờ vậy thuyết [1] tồn tại, rồi sau đó có người lập ra thuyết [3] và thuyết này cũng cho kết quả X’. Lúc ấy người ta lại phải suy ra hai kết quả khác có thể kiểm chứng được:

[1] => Y’
[3] => Y’’’

rồi xét kết quả (Y’ hay là Y’’), dựa vào đó kết luận thuyết nào nên giữ, thuyết nào phải bỏ, cứ thế cứ thế…

Mà cũng không cần phải có nhiều thuyết cạnh tranh nhau thì diễn trình đãi lọc nói trên mới xảy ra. Giả như ngày kia có khoa học gia suy được rằng nếu thuyết [1] đúng thì nó phải cho kết quả Z’. Kiểm chứng được kết quả Z’ thì thuyết [1] tiếp tục tồn tại. Kết quả phản lại Z’ người ta buộc lòng phải kết luận rằng thuyết [1] còn khiếm khuyết (xem chú 1).

Với thủ tục đãi lọc này, các thuyết tồn tại trong khoa học không có tính chất “chắc chắn đúng” mà chỉ có tính chất “tạm thời được coi là đúng”. Sau nhiều cuộc chứng nghiệm, có một số thuyết bị bỏ hẳn để thay bằng thuyết mới, nhưng cũng có một số thuyết được người đời sau bổ khuyết, trở thành hoàn bị hơn và tiếp tục tồn tại với giá trị cao hơn lúc mới được phát minh.

Có thể nói mà không sợ quá lời rằng thủ tục đãi lọc diễn tả ở trên chính là tác nhân dẫn đến sự tiến bộ liên tục của khoa học.

Quay lại mệnh lý, trên lý thuyết thì chuyện đãi lọc cũng có đấy, nhưng ta chẳng thấy một thủ tục nào tạm gọi là hữu hiệu. Vấn đề này có thể thấy rõ hơn qua một thí dụ có thật lấy từ khoa Tử Vi.
Giới nghiên cứu tử vi đều biết Tử Vi có hai cách khởi đại hạn. Cách thứ nhất là khởi đại hạn ở mệnh. Giả như nam mệnh sinh năm dương (gọi là “dương nam”) mệnh lại cư ở vị trí ứng với mộc tam cục; tất vận hạn của mười năm từ 3 đến 12 tuổi ứng với cung an mệnh, sau đó cứ đi theo chiều thuận mỗi cung ứng mười năm.

Cách thứ hai là khởi đại hạn ở huynh đệ hoặc phụ mẫu. Cũng dương nam, mộc tam cục như trên thì đại hạn 3-12 tuổi ứng với cung phụ mẫu, rồi sau có cũng thuận hành mỗi cung ứng với mười năm.
Hai cách khởi đại hạn này sai biệt nhau đúng mười năm. Mười năm là một thời gian khá dài so với đời sống của con người nên chẳng phải là chuyện nhỏ. Vậy thì ai đúng ai sai? Mặc dù trên thực tế cách thứ nhất có số người theo đông đảo hơn hẳn cách thứ hai, câu trả lời hiện tại vẫn là “ai giữ ý kiến người nấy”.

Có độc giả sẽ thắc mắc hỏi: “Tại sao lại ‘ai giữ ý kiến người nấy’? Tại sao không làm một cuộc thí nghiệm để giải quyết vấn đề có vẻ tương đối giản dị này?”

Loại câu hỏi này đã được đặt ra khá nhiều lần khi có các cuộc tranh luận đúng sai giữa các thuyết mệnh lý khác nhau. Theo kinh nghiệm của người viết, khi bị đặt câu hỏi thường thường hai phe chống đối nhau đều đồng ý là sự khác biệt chỉ có thể giải quyết được bằng cách chứng nghiệm. Nhưng khi vào chi tiết, chứng nghiệm như thế nào thì mọi sự đồng ý đều chấm dứt.

Sở dĩ có sự bất đồng ý về phương pháp chứng nghiệm là vì giới mệnh lý và giới khoa học có một khác biệt hết sức cơ bản. Trong khoa học, chứng nghiệm là một công cuộc có phương pháp rõ rệt, với những quy luật được phát triển và đãi lọc lâu đời; những phe chống đối nhau đều hiểu điều đó. Ta có thể ví thủ tục chứng nghiệm khoa học như một môn thể thao có luật chơi rõ rệt. Người thua dù không phục đối phương cũng vẫn bị trọng tài chiếu theo các luật chơi đã định mà loại ra khỏi đấu trường. Mệnh lý vì chưa từng đặt ra vấn đề đãi lọc một cách nghiêm chỉnh, nên chỉ bạ đâu đãi lọc đấy theo tiêu chuẩn cá nhân tùy hứng mà thôi.

Mà đã gọi là cá nhân tùy hứng thì phải trở lại vấn đề “thánh nhân” đã nói đến ở phần trên bài này. Muốn thực lòng chịu chứng nghiệm thì phải dám có thái độ hồ nghi đối với những cái mình học của người xưa. Nên còn giữ thái độ thần thánh hóa người xưa thì có chứng nghiệm chăng nữa cũng chỉ là hình thức, bởi nếu kết quả chứng nghiệm không được như ý muốn thì sẽ phải khống chế, biện hộ cho “thánh nhân”, vậy thì làm sao đãi lọc cái sai được?

Cho là thoát được cửa ải “thánh nhân” (tức là chịu chấp nhận bác bỏ cái sai, ngay trường hợp đó là cái do người xưa truyền lại) thì vẫn còn một cửa ải nữa, lần này là kỹ thuật. Thủ tục đãi lọc của khoa học vốn chẳng giản dị. Ngay cả các kỹ sư được huấn luyện 4 năm ở đại học, khi làm thí nghiệm đãi lọc giả thuyết còn gặp nhiều lúng túng, nói gì đến giới mệnh lý, tối thiểu trong hiện tại đa số thiên về nhân văn hơn kỹ thuật; làm sao có thể tin là có khả năng để tiến hành thủ tục đãi lọc một cách đúng đắn? (chú 2).

Giải thích như trên không phải là coi thường giới nghiên cứu mệnh lý, mà là trình bày một thực trạng cần được điều chỉnh. Theo thiển ý, chỉ có cách điều chỉnh duy nhất là học hỏi nghiêm chỉnh phương pháp đãi lọc của khoa học, rồi tùy trường hợp mà áp dụng nó vào các ngành mệnh lý cho phù hợp. Người viết hiểu rằng chuyện này chỉ có thể xảy ra khi mệnh lý đã được chấp nhận là một khoa học, có lẽ phải vài mươi năm nữa.

Đề nghị 3: Đặt lại giá trị của mệnh lý

Trong làng mệnh lý có nhiều nhân vật, kể cả một số cao thủ, thật tâm cho rằng mệnh lý có khả năng tuyệt đối. Như trường hợp khoa tử vi chẳng hạn, một số không nhỏ người nghiên cứu cho rằng “cuộc đời được in trên lá số”, tức là lá số nói tương lai ra sao thì sự thật phải diễn ra y hệt như vậy; họ bảo nếu sự thật xảy ra khác với lời đoán là vì lấy lá số sai hoặc vì ‘thầy’ tài nghệ còn kém mà thôi.

Sự thật là, có nhiều cặp sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ sinh và phái tính nên có cùng lá số tử vi mà đời sống khác nhau (thành tựu khác nhau, lập gia đình khác năm, người đông con người ít con v.v…) Nhưng nếu đưa bằng cớ này ra, thì ta thường được trả lời rằng các cặp sinh đôi phải luận theo công thức khác.

Chuyện những người không có liên hệ máu mủ có đời sống khác nhau mặc dù sinh cùng năm tháng ngày giờ cũng chẳng hiếm. Nếu ta đưa vấn đề này ra thì thường được bảo rằng vì ông A vẫn ở nơi sinh quán, trong khi ông B xuất ngoại nên đời sống dĩ nhiên phải khác v.v…

Tóm lược lại các luận điểm kể trên:

1. Lá số ra sao cuộc đời phải như vậy.
2. Sinh đôi cùng năm tháng ngày giờ và phái tính đời sống có thể khác.
3. Không liên hệ máu mủ, nhưng sinh cùng giờ cùng phái tính, hoàn cảnh khác nhau đời sống có thể khác.

Chỉ cần nhìn thoáng qua cũng thấy ngay là hai điểm 2 và 3 mâu thuẫn với điểm 1. Vậy mà có khá nhiều người nghiên cứu tử vi, tài tử cũng như chuyên nghiệp, tin cả 3 điểm; thế mới là kỳ.
Người viết cho rằng đây là một loại hiện tượng ‘lỗ hổng tâm lý’, tức tâm lý thiếu lô gích về một mặt đặc thù nào đó. Mỗi lỗ hổng tâm lý thường phải có một nguyên ủy sâu xa. Theo thiển ý, nguyên ủy sâu xa của hiện tượng lỗ hổng tâm lý đã kể là ngay từ lúc khởi đầu người ta đã lỡ cho mệnh lý một giá trị quá cao, nên về sau dù hoàn cảnh mâu thuẫn thế nào cũng phải biện hộ cho giá trị quá cao đó. (Loại hiện tượng tâm lý này không hiếm trong tình trường; như anh A mê cô B quá độ thì dù cô B lầm lỗi đến bao nhiêu, anh A vẫn cố tìm lý lẽ để biện hộ cho cô cho bằng được.)

Muốn vượt thắng những lỗ hổng tâm lý loại này hoặc tương tự, chỉ có một cách, đó là áp dụng luận lý khoa học.

Một khi chấp thuận luận lý khoa học là tiêu chuẩn rồi, ta sẽ thấy nhu cầu bắt buộc là phải loại ngay các trường hợp mâu thuẫn. Và trong diễn trình loại bỏ mâu thuẫn, người viết chắc chắn rằng một kết quả tìm được sẽ là:

Mệnh lý không có tính tuyệt đối!

Có độc giả sẽ hỏi “Tại sao ông dám nói thế? Biết đâu đời này có số mệnh tuyệt đối thì sao?” Xin trả lời rằng “mệnh lý” không phải là “số mệnh” mà là ngành học nhắm mục đích diễn tả số mệnh. “Mệnh lý” và “số mệnh” khác nhau như hình vẽ quả cam và quả cam vậy. Nên chuyện có số mệnh tuyệt đối hay không chẳng dính líu gì đến tính thiếu tuyệt đối của mệnh lý.

Từ cái nhìn toán học, giả như ta diễn tả “số mệnh” bằng một hàm số S, và liệt kê ra tất cả những yếu tố có thể là biến số thì rất có thể năm tháng ngày giờ sinh là những biến số quan trọng nhất, như khoa Tử Vi chủ trương. Nhưng vì không có quy luật nào bảo ta rằng năm tháng ngày giờ sinh là những biến số duy nhất, nên để đầy đủ ta ký hiệu hàm số S như sau:
S(năm, tháng, ngày, giờ, X1, X2, X3,…,Xn)

Tức là ngoài năm, tháng, ngày, giờ sinh ra, S rất có thể còn lệ thuộc vào n biến số mà ta ký hiệu là X1 đến Xn; và rất có thể thứ tự ra đời trong trường hợp sinh đôi và hoàn cảnh sống là hai trong những biến số đó (chú 3).
Điểm chính yếu là, thuyết cho rằng năm tháng ngày giờ sinh định 100% cuộc sống con người không thể đứng vững được khi so sánh với dữ kiện thực tế (anh em sinh đôi, hai người khác đời cùng lá số v.v…). Nghĩa là Tử Vi không thể đúng 100%, nên nó chỉ có giá trị xác xuất mà thôi. Mà đã công nhận tử vi chỉ có giá trị xác xuất thì phải bác bỏ ngay thuyết cho rằng đời sống con người đã được in rành rành trên lá số.

Mặc dù trên đây chỉ nói đến khoa tử vi, ta có thể lý luận y hệt cho mọi ngành mệnh lý khác. Tóm lại, một khi chấp nhận luận lý khoa học thì phải đặt lại giá trị của mệnh lý, cho nó một vị trí khiêm nhường hơn nhưng đúng đắn và hợp lý hơn.

Đề nghị 4: Chọn toán học làm ngôn ngữ của mệnh lý

Là người học mệnh lý từ sách vở, chúng ta phải nhìn nhận một thực tế là các sách giáo khoa mệnh lý thiếu tính cập nhật. Ngôn ngữ trong các sách này còn bị ám ảnh bởi cái sợ thiên nhiên, quỷ thần của người xưa nên có nhiều tính huyền học hơn là khoa học. Các phần đòi hỏi tính toán thì xử dụng các phương pháp thô sơ đã lỗi thời của người xưa thay vì các phép mới mẻ hơn, tiện lợi hơn mà toán học khám phá ra sau này. Nói chung là lạc hậu, đi sau thời đại quá xa. Khuyết điểm này cần phải được tu sửa điều chỉnh thì mới mong một ngày nào đó mệnh lý có vị trí của một ngành khoa học.

Theo thiển ý, chỉ có một cách điều chỉnh hợp lý là xử dụng ngôn ngữ của khoa học, tức là diễn tả mệnh lý bằng toán học. Đây chính là ngôn ngữ mà người viết đã chọn lựa khi viết loại bài này cũng như các đề tài khác liên quan đến mệnh lý.

Tại sao chọn toán học làm ngôn ngữ để diễn tả mệnh lý? Thưa, vì toán học là một ngôn ngữ chính xác, và lịch sử khoa học đã chứng minh là nó hết sức hữu hiệu trong việc truyền đạt ý tưởng xuyên qua nhiều thế hệ. Nhờ toán học, người đời nay có thể đọc các sách khoa học viết từ mấy trăm, thậm chí cả ngàn năm trước mà không sợ hiểu lầm như trường hợp chúng ta đọc các sách mệnh lý cổ xưa (viết bằng chữ Hán cổ, với một số từ mà ngay người Trung Hoa thời nay cũng chẳng hiểu nghĩa gì). Hơn nữa, toán học lại là một khí cụ rất tiện lợi cho sự suy diễn khoa học, giúp ta có thể tìm ra những kết quả mới từ kiến thức cũ, điểm này lịch sử có dẫy đầy chứng minh thiết tưởng chẳng cần viết ra dài dòng làm gì.

Nhưng lựa chọn toán học thì phải tuân theo đòi hỏi chính xác của toán học. Vì đòi hỏi chính xác, toán học có quy luật trình bày riêng của nó. Khi mở một quyển giáo khoa vật lý dạy thuyết Tương Đối chẳng hạn, ta thấy cốt tủy những điều được giảng dạy là suy luận hiện đại, và nếu so sánh ta sẽ thấy khá nhiều khác biệt so với những gì Einstein đã viết ngày xưa, mặc dù Einstein là người khám phá ra thuyết tương đối. Ấy bởi vì ngay cả thuyết tương đối cũng không dừng lại với Einstein, mà đã được liên tục khai triển, mở rộng, điều chỉnh bởi các thế hệ đi sau ông để thành kiến thức cập nhật.

Đây chính là phương cách mà người viết đã chọn để trình bày vấn đề, tức là xử dụng lý luận cập nhật nhất, khoa học nhất, hiện đại nhất, thay vì lập lại những gì người xưa đã viết. Các độc giả đã quen với lối trình bày của các sách mệnh lý cổ có thể thấy hơi khó chịu, nhưng người viết tin rằng lần hồi ngay cả các độc giả này cũng thấy cái ưu điểm của lối trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ của khoa học. Riêng các độc giả thuộc thế hệ trẻ hoặc được huấn luyện trong môi trường kỹ thuật thì chắc chắn sẽ thấy lối trình bày này dễ hiểu hơn các sách mệnh lý cổ rất nhiều.

Dĩ nhiên đời này không có gì hoàn hảo. Ngôn ngữ toán học có ưu điểm là chính xác, dễ truyền đạt ý tưởng; nhưng nó cũng là một ngôn ngữ rất nhàm chán so với tiêu chuẩn thường ngày của chúng ta. Cũng dễ hiểu, vì khoa học chẳng phải là chỗ dụng võ của thi phú, văn chương.

CHÚ THÍCH

(1) Đây chính là diễn trình dẫn đến hai thuyết tương đối của Einstein cũng như thuyết vật lý lượng tử. Trước khi có hai thuyết tương đối của Einstein, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không giải thích được bằng vật lý Newton. Trước khi có vật lý lượng tử, các khoa học gia đã có một số kết quả thí nghiệm không thể giải thích được bằng vật lý cổ điển.
(2) Xét cách đãi lọc mà ta hay thấy trong làng Tử Vi chẳng hạn. Ông thầy tin cách X là “đại phú”, gặp khách hàng có cách X mà không giàu sụ ông vẫn có vài cách biện hộ, như “chắc là giờ lấy sai” hoặc “đây là ngoại lệ hiếm hoi vì…” v.v… Kết quả là với ông thầy, cách X vẫn là cách “đại phú”; tức là tưởng đãi lọc mà chẳng có đãi lọc gì cả.
(3) Nhiều trường phái Tử Vi cho rằng hoàn cảnh đã nằm trong lá số, tức là bao hàm trong năm tháng ngày giờ sinh; nhưng đây chỉ là một niềm tin, nên cũng rất có thể hoàn cảnh sống cũng là một biến số nằm ngoài lá số tử vi.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

Nếu một độc giả nào đó có duyên gặp quyển “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” (Chu Dịch và Tử Vi) của ông Tạ Phồn Trị (1) rồi mở ra đọc, có lẽ sẽ chẳng thấy sách này có chút khoa học tính nào cả. Ấy bởi vì trong sách ấy ông Trị vẫn dùng loại ngôn ngữ huyền hoặc như các sách mệnh lý cũ, và loại lý luận tùy hứng, hễ kẹt là mượn một câu nào đó của thánh nhân, phán ra bắt độc giả chấp nhận như chân lý.

Vậy thì tại sao tôi lại dám nói rằng thuyết của ông Trị hiện có khoa học tính cao nhất trong tất cả các thuyết được lưu hành?

Nguyên là tôi may mắn được hoàn cảnh cho phép cắp sách đến trường nhiều năm nên học được cách áp dụng “phương pháp khoa học” (2). Nhờ phương pháp này tôi có thể dùng tiêu chuẩn khoa học để làm việc đãi lọc khi đọc sách, nói theo tiếng lóng là việc “nhặt sạn” để gạn bỏ đi cái sai trái hoặc tầm thường hầu nhìn ra cái tinh hoa tuyệt học ẩn trong những công trình thoạt xét qua tưởng là không có gì cả.

Cần nói rằng tôi áp dụng phương pháp khoa học không chỉ với sách của ông Trị mà với tất cả các sách Tử Vi khác, như bộ “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của ông Vân Đằng Thái Thứ Lang, “Tử Vi chỉ nam” của ông Song An Đỗ Văn Lưu, “Tử Vi áo bí” của ông Hà Lạc Dã Phu, “Tử Vi nghiệm lý” của ông Thiên Lương, như phái “huyền không tứ hóa” của ông Chính Huyền Sơn Nhân, phái tạm gọi là “âm dương” (3) của ông Liễu Vô cư sĩ, phái Trung Châu (4) do ông Vương Đình Chi đại diện, phái “Nhất Diệp Tri Thu” (5) do ông Phan Tử Ngư đại diện, gần đây hơn là sách của các ông Trịnh Mục Đức (phái Hoa Sơn), Trương Thanh Uyên (có vẻ là một chi của Trung Châu phái) v.v…

Kết quả việc đãi lọc sơ khởi của tôi là mỗi sách, mỗi phái đều có một vài tinh hoa mà người nghiên cứu khoa học nên chú ý; nhưng chỉ có ông Liễu Vô cư sĩ và ông Tạ Phồn Trị là có hy vọng thỏa đòi hỏi của khoa học hiện đại.(Chú ý tại chỗ: Sách không thỏa đòi hỏi của khoa học không có nghĩa là sách không hay, chỉ là ta khó chuyển nó sang ngôn ngữ của khoa học, thế thôi).

So sánh riêng hai ông Liễu Vô cư sĩ và Tạ Phồn Trị thì rõ là hai thái cực. Ông Liễu Vô cư sĩ ra rất nhiều sách mệnh lý (trên 20 quyển là ít, có lẽ khi bài này được viết đã trên 40), ông Tạ Phồn Trị thì cho đến khi tôi rời Đài Loan năm 2001 chỉ có đúng một quyển là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số” thôi. Suy tư của ông Liễu Vô cư sĩ đã được nhiều người trong giới trí thức khoa bảng của Đài Loan chấp nhận và viết sách xiển dương phát triển thêm, có thể nói rằng ông đã trở thành sư tổ của một môn phái mới ở Đài Loan; còn ông Tạ Phồn Trị có vẻ là một ẩn sĩ (theo lời tựa thì sách của ông được viết ở Los Angeles, California, Hoa Kỳ; không phải ở Đài Loan), sách không phổ biến nhiều, xác xuất được đời biết đến phải coi là không đáng kể, bảo là phường vô danh tiểu tốt cũng chẳng phải quá lời. Về cách viết thì ông Liễu Vô cư sĩ rất rành mạch khúc chiết, lập luận phù hợp khoa học hiện đại; còn ông Trị thì viết theo lối xưa, tức là hay “phán” ra những câu có tính kết luận mà thiếu dẫn chứng và bắt người đọc chấp nhận.

Tôi nhìn nhận là trên hình thức thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ có vẻ hoàn toàn phù hợp khoa học hiện đại, nhưng có một điểm khiến tôi lo ngại là thuyết này bắt ta phải bỏ gần như phân nửa cái nền tảng cũ của Tử Vi (bỏ gần hết các sao). Suy nghĩ của tôi là người xưa có thể sai lầm, nhưng xác xuất để họ sai lầm ghê gớm đến độ như vậy mà khoa Tử Vi vẫn tồn tại đến ngày nay tôi nghĩ là nhỏ lắm.

Lại nghĩ thêm, lần hồi tôi cho rằng tôi đã tìm ra cái thiếu sót nếu không muốn gọi là sai lầm trong cơ sở tư duy của ông Liễu Vô cư sĩ.

CHÚ THÍCH

(1) Trước vì sách này thất lạc, tôi nhớ mang máng tên là “Dịch kinh dữ tử vi đẩu số”, sau may mắn tìm lại được, mới biết tên đúng là “Chu dịch dữ tử vi đẩu số”.
(2) Phương pháp khoa học là gì thì các sách giáo khoa đã nói nhiều, ở đây xin không nhắc lại.
(3) Ông Liễu Vô cư sĩ chủ trương loại bỏ tất cả mọi ảnh hưởng dính líu đến ngũ hành, kể cả sao Lộc Tồn. Phái của ông chỉ giữ chính tinh, tứ hóa, lục cát và lục sát.
(4) Tôi cho rằng phái này có cùng gốc với Tử Vi Việt Nam.
(5) Phái Nhất Diệp tri thu phối hợp thêm Thất Chính tứ dư vào Tử Vi, cách xem hết sức phức tạp.


VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (tiếp theo)

A. Phê bình chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ

Đóng góp chính của ông Liễu Vô cư sĩ cho khoa Tử Vi có thể thu vào 5 điểm:

1. Tử Vi hoàn toàn không dính líu gì đến ngũ hành.
2. Đại hạn phải khởi ở mệnh mới đúng, khởi ở huynh đệ hoặc phụ mẫu là sai. (“Mệnh cung bất khả vô đại hạn”).
3. Tử Vi trọng lý quân bình, nên mệnh và tam phương tứ chính không có SÁT TINH không những không tốt như sách cũ nói, mà phải luận là xấu!
4. (Lưu) Tứ hóa là nền tảng của việc xem hung cát của đại hạn cũng như lưu niên.
5. Xem đại hạn chỉ cần biết đến lưu Hóa của đại hạn, bất chấp tứ Hóa nguyên thủy (thuyết “Mệnh vận phân ly”).

Mỗi điểm trên đây tự nó là một luận đề, muốn chứng minh hoặc phản biện đều đòi hỏi thời gian và công sức. Quý vị nào hứng thú xin mời tham gia phản biện. Nhưng xin lượng sức, vì ông Liễu Vô cư sĩ chẳng phải tay mơ mà là một kiện tướng của cả hai khoa Từ Vi và Tử Bình, dám viết khá nhiều sách bình chú chê người xưa là thiếu khoa học và đề nghị sửa sai (Tử Bình chân thuyên hiện đại bình chú, Thanh triều mộc bản Tử Vi đẩu số toàn tập hiện đại bình chú, Đẩu số đàn vi hiện đại bình chú v.v…) Ông cũng chẳng phải là thiếu thực nghiệm, trái lại một lý do khiến ông thành danh là đoán trước vận mệnh các nhân vật chính trị ở Đài Loan mà kết quả ra đúng phóoc, và rõ ràng trên giấy trắng mực đen, chứ chẳng phải là lời đồn đại.

Riêng về Tử Vi, giờ có thể coi ông Liễu Vô cư sĩ là sư tổ của một phái mới ở Đài Loan, được nhiều người trong giới trí thức ủng hộ nồng nhiệt, có mấy người viết hàng loạt sách khác dựa trên phương pháp của ông. Những người theo ông Liễu Vô cư sĩ có đặc điểm là xem số chỉ dùng 14 chính tinh, lục sát (6), lục cát (6), và Tứ Hóa (4), cộng lại chỉ có 30 sao. Có người bỏ luôn Quyền Khoa, còn 28.

Trong phạm vi của đề tài này, tôi chỉ phản biện điểm 1, tức chủ trương loại hẳn ngũ hành ra khỏi Tử Vi của ông Liễu Vô cư sĩ mà thôi. (Tôi cũng không đồng ý với chủ trương “mệnh vận phân ly” của ông, nhưng đó là chuyện khác).

Vì mệnh lý Á đông chỉ có hai cái nền là âm dương và ngũ hành, không cần đi vào chi tiết cũng biết là ông Liễu Vô cư sĩ phải dùng thuyết âm dương trong Tử Vi. Vậy thì điểm khiến ông khác người là trong khoa Tử Vi thay vì dùng cả âm dương lẫn ngũ hành như người ta, ông lại bỏ ngũ hành đi chỉ dùng âm dương thôi.

Muốn làm được như thế thì âm dương và ngũ hành phải là hai thuyết hoàn toàn biệt lập với nhau, vì nếu không biệt lập thì khi cắt thuyết ngũ hành ta có thể làm hỏng thuyết âm dương và ngược lại.

Nay tôi đặt câu hỏi: “Có thật âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn biệt lập hay không?”

Câu hỏi này nghe có vẻ cắc cớ, nhưng đừng quên rằng “cắc cớ” là một đòi hỏi rất lớn của khoa học. Chính nhờ hay hỏi “cắc cớ” mà khoa học đã liên tục tiến bộ.

Tôi biết là đa số áp đảo nếu không muốn nói là toàn thể quý độc giả đều trả lời rằng dĩ nhiên âm dương và ngũ hành là hai thuyết hoàn toàn độc lập. Đây là câu trả lời tự nhiên nhất, vì chúng ta đã được dạy như thế, và chúng ta cũng cảm thấy như thế. Chính tôi cũng từng mấy mươi năm tưởng như thế.

Nhưng bây giờ tôi xin tuyên bố với quý vị rằng “Ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi”, và đây chẳng phải là một niềm tin của tôi, mà là một “tái khám phá” của tôi, suy ra được bằng lý luận khoa học, và đây không phải là lý luận khoa học áp dụng, mà là lý luận có tính cơ sở của khoa vật lý. Vì diễn đàn này không phải là một diễn đàn vật lý tôi chỉ xin hé mớ thế này:

1-Giả sử bình thường (của mọi ngành khoa học) là ba chiều của không gian luôn luôn tương đương nhau.
2-Giả sử trên đây sai lầm, vì chiều chuyển động khác với hai chiều còn lại (có thể chứng minh bằng thuyết tương đối của Einstein).
3-Có thể chứng minh rằng thuyết ngũ hành ứng với trường hợp 1, và thuyết âm dương ứng với trường hợp 2.
4-Vì 1 là hoàn cảnh gần đúng của 2, ngũ hành là trường hợp gần đúng của âm dương.
Gần đây tôi đọc thấy một số vị phê bình thuyết “ngũ hành là thuyết gần đúng của âm dương” một cách hết sức gay gắt. Tôi không ngạc nhiên, vì cái gì mới lạ cũng phải bị chống đối trước. (Lùi lại mười năm trước thì chính tôi cũng phải chống lại thuyết này).

Nhưng tôi xin lưu ý các vị chống lại thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” rằng ngoài âm dương ngũ hành ra, trên nền tảng khoa học chúng ta phải tìm chỗ đứng cho thuyết tứ nguyên tố của mệnh lý tây phương nữa.

Thuyết tứ nguyên tố có vẻ lạc loài khi ta cố xếp nó vào cạnh hai thuyết âm dương và ngũ hành, nhưng một kết quả của “tái khám phá” của tôi là tứ nguyên tố cũng chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương mà thôi. Tóm lại:

a. Âm dương diễn tả vũ trụ chính xác nhất.
b. Ngũ hành là một cách tính gần đúng của âm dương.
c. Tứ nguyên tố là một cách tính gần đúng khác của âm dương.
Trở lại chuyện ông Liễu Vô cư sĩ loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi. Một khi đã nhìn nhận rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của âm dương thì sẽ thấy ngay việc loại ngũ hành ra khỏi Tử Vi chẳng những sai lầm mà hoàn toàn không cần thiết.


THÊM CHI TIẾT VỀ TƯƠNG QUAN GIỮA ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Tôi vừa thấy một lời phản biện thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng” mà tôi đề xướng. Lời phản biện này rõ ràng đã dựa trên một sự hiểu lầm, dẫn đến nguy cơ là hiểu lầm chồng chất lên hiểu lầm, rồi tam sao thất bản và người ta tưởng là sự thật.

May sao, tôi còn giữ một bài cũ có nhắc sơ đến thuyết “ngũ hành = âm dương gần đúng”, nay xin cắt ráp để quý độc giả có thể thấy rõ ràng hơn cái nền chính của lập luận mà tôi đề xướng. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ.

Rất tiếc, tôi đã dành thời giờ cho việc khác, nên từ chối mọi cuộc tranh luận. Tuy nhiên, quý vị nào thấy tôi sai thì cứ việc làm như các nhà khoa học (họ rất ít khi tranh luận trực tiếp, vì sợ tình cảm xen vào làm hỏng lí trí), là viết một bài luận văn giải thích tại sao quý vị lại nghĩ như vậy để quý độc giả rộng đường luận xét.

Liên hệ khoa học giữa hai thuyết âm dương và ngũ hành

Lý do tại sao soạn giả cho rằng ngũ hành chỉ là một phép tính gần đúng của thuyết âm dương đã được trình bày trong loạt bài “Mệnh lý hoàn toàn khoa học”. Tiếc rằng khi bài này được viết “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” vẫn chưa được in thành sách. Để các độc giả chưa đọc “Mệnh lý hoàn toàn khoa học” có khái niệm tổng quát về lập luận của soạn giả mà không mất nhiều thời giờ, xin trình bày đại lược như sau:

- Vũ trụ vật chất của chúng ta gồm 4 chiều là 3 chiều không gian và một chiều thời gian. Từ kết quả của thuyết tương đối của Einstein, có thể chứng minh được rằng ba chiều không gian gồm hai chiều tương đương tạo thành chùm mặt phẳng thẳng góc với chuyển động. Chiều của chuyển động thì có lý tính khác với hai chiều kia (chú 3).

- Dùng những đặc tính kể trên để lập mô hình toán học của các hiện tượng hiện hữu, thì mô hình hợp lý nhất là các vòng tròn đại biểu hai lý tính âm dương nằm trên một mặt phẳng định hướng. Mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết âm dương, vì nó dẫn đến sự hình thành tất yếu của bát quái, và sự tương ứng giữa 64 quẻ với các hiện tượng của cuộc đời.

- Trong mô hình nói trên của thuyết âm dương, mặt phẳng đại biểu hai chiều không gian tương đương nên là môi trường hiện hữu của các vòng tròn âm dương. Các vòng tròn âm dương thì chẳng gì khác hơn là biểu tượng của hai cách giao thoa giữa chiều thời gian và chiều không gian còn lại, tức chiều chuyển động. (Ngoài ra, có thêm một đòi hỏi liên hệ đến thời gian là mặt phẳng phải được định hướng và có điểm trước, điểm sau).

- Nếu đặt giả sử gần đúng rằng không có sự khác biệt giữa ba chiều không gian (chú 4), tức là không gian hoàn toàn bình đẳng thì môi trường hiện hữu không chỉ là một mặt phẳng mà là toàn thể không gian ba chiều. Hai cách giao thoa giữa không gian và thời gian vẫn tồn tại, nhưng bây giờ phải được biểu diễn bằng các hình cầu với hai lý tính âm dương khác nhau. Các thực thể trong không gian bình đẳng này ứng với kết cấu bền bỉ nhất của các hình cầu. Kết cấu bền bỉ nhất là kết cấu có tính đối xứng cao nhất, nên mỗi thực thể được tạo bởi 4 hình cầu âm dương cùng lúc tiếp xúc với nhau (bốn tâm tạo thành hình tứ diện đều). Ly kỳ làm sao, chỉ có đúng 5 cách xếp 4 hình cầu âm dương khác nhau, nên mô hình này dẫn đến sự tồn tại tất yếu của 5 thực thể phân biệt. Độc giả có thể đoán được là mô hình này hoàn toàn phù hợp với thuyết ngũ hành (xin tự vẽ hình rồi kiểm soát lấy). Cường điệu hơn, nó chính là thuyết ngũ hành được diễn tả bằng hình học.

Sau khi đã chọn 5 thực thể (ngũ hành) làm nền tảng của mọi hiện tượng trong vũ trụ thì liên hệ 2 chiều trở thành tất yếu. Đây chính là liên hệ “sinh khắc” mà mọi người nghiên cứu thuyết ngũ hành đều quen thuộc. Nhưng liên hệ một chiều “sinh khắc” không phản ảnh được nhiều hiện tượng có thật trên cuộc đời (như liên hệ hai chiều “yêu nhau” chẳng hạn), nên ngũ hành phải phối hợp với lý âm dương mới thành hệ thống hoàn chỉnh.
Có thể thấy rằng ngay trên lý thuyết không thể có thuyết ngũ hành đứng riêng rẽ mà chỉ có thuyết ngũ hành đã phối hợp với âm dương thành thuyết âm dương ngũ hành; mặc dù vì thói quen ngắn gọn ta hay gọi thuyết này là thuyết “ngũ hành” mà bỏ hai chữ “âm dương”.

Đó là mệnh lý Á đông. Nhìn sang mệnh lý tây phương (phát xuất từ trung đông) ta thấy thuyết tứ nguyên (còn gọi là thuyết “tứ nguyên tố”, tức “four elements”) thay vì thuyết ngũ hành. Hiển nhiên thuyết tứ nguyên đã lâu năm hiện diện biệt lập với thuyết ngũ hành và ngược lại. Khi truy xét kỹ, ta khám phá ra rằng thuyết tứ nguyên tố cũng đã chứa sẵn cái nền rất đậm của thuyết âm dương, mặc dù các nhà nghiên cứu chiêm tinh tây phương hình như chẳng hề chú ý đến sự kiện hiển nhiên ấy.

Tóm lại, hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên không thể tự tồn tại mà chỉ có thể tồn tại trên cái nền của thuyết âm dương. Gọi thuyết ngũ hành là NH, thuyết tứ nguyên là TN, thuyết âm dương là AM. Ta thấy có hai thực thể tồn tại, một là tập hợp {NH, AM}, hai là tập hợp {TN, AM}, mà không hề có {NH} hoặc {TN} riêng rẽ. Dùng lý {B lệ thuộc A} => {có B tất phải có A} và {có A không nhất thiết có B} ta thấy lời giải hợp lý nhất là hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên đều phải lệ thuộc vào thuyết âm dương, nói cách khác ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ của thuyết âm dương.

Nhưng tại sao nhân loại không chỉ dùng thuyết âm dương mà lại sinh ra thêm hai thuyết phụ này? Để trả lời ta chỉ việc so sánh các liên hệ nội tại của ba thuyết âm dương, ngũ hành, tứ nguyên. Liên hệ “đối đãi” (vừa bổ khuyết vừa đối nghịch) của thuyết âm dương khi áp dụng vào các bài toán mệnh lý thường chỉ cho các kết luận hết sức mơ hồ, trong khi đó liên hệ “sinh khắc” của thuyết ngũ hành và “hợp xung” của thuyết tứ nguyên thường cho kết quả khá rõ nét. Vì vậy đáp án là: Hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên cần thiết vì chúng cho ta các kết quả rõ nét hơn thuyết âm dương. Nhưng nếu ngũ hành và tứ nguyên là hai thuyết phụ, lại khác nhau, thì dĩ nhiên độ chính xác của chúng không thể nào sánh bằng thuyết mẹ của chúng là thuyết âm dương. Thành thử ta kết luận ngũ hành và tứ nguyên chỉ có thể là hai phép tính gần đúng của thuyết âm dương, tương tự như lời giải gần đúng của hai ngành kỹ sư khác nhau cho cùng một phương trình vật lý vậy.

Những điều trên đây đã được luận trong loạt bài “mệnh lý hoàn toàn khoa học”, hy vọng một ngày gần đây được in thành sách, lúc ấy mọi sự sẽ rõ ràng hơn. Phần trình bày ở trên chỉ là đại lược mà thôi.

Trở lại vấn đề. Vì ngũ hành chính là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương (chú 2), ta không thể lấy lý do âm dương là yếu tố áp đảo trong bài toán Tử Vi mà bỏ ngũ hành. Thành thử bỏ thần sát với lý do “vì thần sát dựa trên ngũ hành” trở thành một lập luận rất khập khiễng, nếu không muốn nói là đi ngược lại cơ sở khoa học.

Mặc dù bất đồng ý với chủ trương bỏ ngũ hành của ông Liễu Vô cư sĩ, soạn giả nhìn nhận rằng ông có công đặt ra vấn đề thần sát một cách nghiêm chỉnh. Việc làm của ông khiến người nghiên cứu có quan tâm bắt buộc phải nhìn lại các thần sát dưới một lăng kính tỉ mỉ hơn, khoa học hơn.

CHÚ THÍCH

2) Chỉ nói thuyết ngũ hành là một cách tính gần đúng của thuyết âm dương, vì còn một cách tính gần đúng khá quan trọng khác là thuyết tứ nguyên tố. Những tương đồng và khác biệt giữa hai thuyết ngũ hành và tứ nguyên tố sẽ không được luận trong sách này. Các độc giả muốn tìm hiểu thêm xin đọc quyển “mệnh lý hoàn toàn khoa học” của cùng soạn giả.
3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết.
4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.

VÌ ĐÂU TÔI DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC? (kỳ 3)

B. Về lý do tại sao thuyết của ông Trị phù hợp với khoa học

Như tôi đã trình bày trong một lần trước, nếu đọc thẳng sách “Chu dịch dữ Tử Vi đẩu số” của ông Tạ Phồn Trị thì sẽ chẳng thấy tính khoa học ở đâu cả. Thế nhưng đây không phải là vấn đề vì đã có người (tức bản thân tôi) bỏ thời gian và công sức ra phân tích và xác định đặc tính khoa học ẩn tàng trong sách này. Những điều trình bày tiếp đây là cái tính khoa học mà tôi đã đào quật ra từ sách ấy cộng với những ý kiến cá nhân của tôi.
Để tránh trường hợp người khác nhận diện lầm lẫn tôi sẽ cố đề rõ ý nào của ông Trị, ý nào do tôi thêm vào.

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi
2. Cái lý của 14 chính tinh
3. Cái lý của tứ Hóa
4. Cái lý của các sao Tả Hữu Xương Khúc Hình Riêu Không Kiếp Thai Toạ Quang Quý Thai Cáo Thiên Địa Giải
5. Cái lý của các sao thần sát

Nay xin đi từng bước một

1. Nền tảng “tuần hoàn” của bài toán Tử Vi

Tử Vi là một trong nhiếu áp dụng của một ngành khoa học có tính cùng khắp mà ta tạm gọi là mệnh lý, tương tự như khoa kỹ sư không gian là một ứng dụng của hai ngành khoa học là lý và hóa vậy.

Mọi áp dụng đều phải khởi từ một hoặc nhiều giả sử nền tảng có tính đặc thù. Trước hết “nền tảng” có ý nghĩa nôm na là không thể bỏ được, nên “giả sử nền tảng” có nghĩa là giả sử không thể nào bỏ đi được, bất luận chiều kích hoặc phương pháp khai triển xảy ra như thế nào.

Tĩnh từ “đặc thù” ở đây rất quan trọng, vì mặc dù thuyết âm dương chắc chắn là một nền tảng của khoa Tử Vi (chú 1), nó cũng là cái nền tảng chung của nhiều ngành khác, bởi vậy “thuyết âm dương” không phải là cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi.

Có người sẽ trả lời rằng cái nền tảng đặc thù của Tử Vi là nó không cần biết đến tiết khí (mà chỉ cần biết đến năm tháng ngày giờ sinh). Tôi sẽ phản biện rằng đây không phải là câu trả lời chính xác, vì ngay khi bài này được viết vẫn có nhiều người trong giới nghiên cứu đang tìm cách mang tiết khí vào khoa Tử Vi, điều đó chứng tỏ rằng “không cần biết đến tiết khí” chỉ có giá trị của một thủ tục mà không có tính nền tảng.
Vậy cái nền tảng đặc thù của khoa Tử Vi là gì? Quý vị nào có hứng thú xin cứ tự nhiên góp ý, phần tôi sẽ giải thích sau tại sao tôi cho rằng cái nền tảng ấy là lý tuần hoàn.

CHÚ THÍCH:

(1) Không vội nói đến ngũ hành vì có thể có độc giả tin vào thuyết của ông Liễu Vô cư sĩ (cho rằng Tử Vi không dính líu gì đến ngũ hành).

VDTT đã viết: 4) Ba chiều không gian hoàn toàn tương đương chính là giả sử của vật lý Newton. Có thể thấy thuyết âm dương phù hợp với vật lý Einstein, thuyết ngũ hành phù hợp với vật lý Newton. Vì vật lý Newton có tính gần đúng so với vật lý Einstein, có thể suy ra thuyết ngũ hành có tính gần đúng so với thuyết âm dương.
Phải chăng vì như các ông bà phân tâm học nói, thỉnh thoảng con người lại buột miệng ra những cái sai cũ mà tôi viết đoạn chú thích trên đây, vì đoạn này rõ ràng sai.
Nó sai vì không và thời gian được kết hợp trong cả hai thuyết âm dương và ngũ hành, mà vật lý Newton cho rằng thời gian biệt lập với không gian, nên không thể so sánh thuyết ngũ hành với vật lý Newton được.

Tôi xin tự sửa lại như sau:

- Âm dương ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng đúng.
- Ngũ hành ứng với thuyết biển thời không của Einstein khi áp dụng gần đúng.
Tức là tôi trước sau như một cho rằng ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.
Tôi sẽ đào sâu thêm lý do trong phần sau.

VDTT đã viết: 3) Theo thuyết biệt tương đối (Special Relativity) của Einstein, một chiều dài L song song với chiều chuyển động sẽ lệ thuộc vận tốc chuyển động theo công thức L=L0(1-v2/c2)0.5, với L0 là một chiều dài cố định, v vận tốc chuyển động, c vận tốc không đổi của ánh sáng. Chiều dài L đại biểu không gian, nên có thể thấy theo vật lý Einstein thì chiều chuyển động không thể nào tương đương với hai chiều không gian còn lại. Có điều lạ lùng là ngay cả vật lý hiện đại cũng vẫn giả thử (một cách sai lầm rằng) 3 chiều không gian hoàn toàn tương đương nhau. Điểm này được luận kỹ hơn trong tập “kinh Dịch hoàn toàn khoa học”, tiếc là tập này chưa in khi bài này được viết. Tôi cứ tưởng chú thích như trên là đủ để những người có biết qua tân vật lý nhận ra sự khác biệt giữa chiều chuyển động và hai chiều kia, không ngờ kết quả không như ý muốn. Vì vậy tôi xin thêm những chi tiết sau. Quý vị nào muốn phản biện xin đọc cho kỹ trước khi kết luận.

Sự thay đổi độ dài trong chiều chuyển động theo vật lý Einstein dẫn đến kết quả là ta phải nối kết thời gian vào với không gian. Để thí dụ sự khác biệt giữa vật lý Newton và vật lý Einstein, xét một động tử A ở một thời điểm t.

Gọi (x,y,z) là tọa độ của A trong hệ thống trục bình thường, và (X,Y,Z) là tọa độ của A trong một hệ thống do (x,y,z) quay quanh gốc trục tọa độ (0,0,0) mà thành. Theo vật lý Newton:

x^2 + y^2 + z^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 (1)

Chú ý rằng t không có mặt trong hệ thức trên bởi vì theo vật lý Newton thì thời gian không ăn nhập gì với không gian.

Nhưng theo vật lý Einstein thì thời gian cũng tùy hệ thống trục mà thay đổi, nên hệ thức đúng phải là:

x^2 + y^2 + z^2 -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (2)

Chú ý rằng vế bên trái có thêm {-(ct)^2}, vế bên phải có thêm {-(cT)^2} đại biểu thời gian khác nhau của hai hệ thống trục.

Nhìn qua phương trình 2 ta có cảm tưởng là x,y,z hoàn toàn tương đương nhau, tương tự X,Y,Z cũng có vẻ hoàn toàn tương đương nhau. Nếu thế ta sẽ phát biểu là trong vật lý Einstein ba chiều không gian vẫn hoàn toàn tương đương với nhau. Đây chính là giả sử của khoa học hiện đại.

Thực tế như thế nào?

Nhờ thuyết biệt tương đối, ta biết rằng thời gian chỉ cộng hưởng với chiều chuyển động mà thôi, nên (2) mặc dù đúng nhưng còn thiếu sót (vì nó cho ta cảm tưởng rằng mọi chiều không gian đều có liên hệ bình đẳng trong tác dung của chúng với thời gian). Để có thể thấy rõ ràng hơn, ta chọn chiều chuyển động là x, khi ấy (2) trở thành:

x^2 + hằng số -(ct)^2 = X^2 + Y^2 + Z^2 – (cT)^2 (3)

Chú ý rằng y, z đã biến mất khỏi phương trình 3, và ta không thể thay x^2 bằng y^2 hoặc z^2. Nếu hỏi x, y, z có còn tương đương hay không, thiết tưởng câu trả lời đã quá rõ ràng rồi vậy.

Nếu quý vị nào thấy ý trên chưa rõ, xin thử giải đáp bài toán a,b,c khoanh dưới đây:

Trong vật lý Einstein, giả sử một vật điểm A di chuyển trên trục x, tìm câu trả lời chính xác nhất trong các câu trả lời sau đây:

(a) x^2 là yếu tố bất biến
(x^2 + y^2 + z^2 là yếu tố bất biến
© x^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến
(d) x^2 + y^2 + z^2 – (ct)^2 là yếu tố bất biến

Quý vị chọn c hay chọn d? Chọn c thì đồng ý với tôi (ý kiến mới), chọn d xin cứ tiếp tục giữ ý kiến (ý kiến hiện tại của giới khoa học mà tôi cho là thiếu sót).

Tôi đã bỏ công định ra mô hình của cả hai trường hợp, mô hình của thuyết âm dương ứng với ©, mô hình của thuyết ngũ hành ứng với (d). Tôi giải là © chính xác hơn (d), bởi vậy tôi mới nói ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương.

Nếu không thích, có thể viết lại để tránh nối kết âm dương và ngũ hành với nhau:
- Âm dương là phép tính chính xác của mệnh lý (ứng c).
- Ngũ hành là phép tính gần đúng của mệnh lý (ứng d).

Hy vọng đã rõ ràng hơn.

V/V NGŨ HÀNH CHỈ LÀ THUYẾT GẦN ĐÚNG

Khoa học không hề có ý kiến nhất thống như một số người tưởng lầm, thậm chí ngay cả cơ sở của khoa vật lý vẫn là đề tài bàn cãi sôi nổi. Chỉ có một quy luật là “cái đang nổi của ngày hôm nay chưa chắc là cái đúng của ngày hôm sau”. Quý vị còn hồ nghi có thể tìm đọc quyển “The Trouble With Physics: The Rise of String Theory, the Fall of a Science, and What Comes Next” của tiến sĩ Smolin về lý do tại sao ông cho rằng thuyết vật lý “nóng” nhất hiện nay là String theory đã đẩy lùi khoa vật lý. Sách này mới ra năm 2006.

Nhân đây xin kể một chuyện không xưa lắm. Năm 2002 sau khi tranh luận trên một diễn đàn vật lý của google, tôi được một vị cao niên người Mỹ liên lạc, xưng là đã có một thuyết có vài điểm tương đồng với tôi, từng đưa cho ông Richard Feynman xem thử và được ông Feynman bảo là sẽ liên lạc lại, tiếc thay (theo lời kể) việc liên lạc chưa xảy ra thì ông Feynman qua đời. Bản thảo này tôi còn giữ, tựa đề là “the foundation of physical reality”, soạn giả là tiến sĩ vật lý R.D. Stafford, viết năm 1982. Trong bản thảo này, tiến sĩ Stafford xét lại hiện trạng đầy mâu thuẫn nội tại của vật lý ra đề xướng một thuyết mới.

Tôi đã đọc kỹ bản thảo này và thấy nó có tính thuyết phục rất cao (dĩ nhiên có thể tôi thiên vị). Tôi nghĩ trình độ cao học vật lý trở lên đọc bản thảo này có thể hiểu, nhưng tôi cho rằng bất luận trình độ cao bao nhiêu cũng phải tốn rất nhiều công lực vì tài liệu này đòi hỏi người đọc nhiều kiến thức toán cao cấp. (Quý vị nào tò mò xin vào trang của ông Stafford, địa chỉ là http://home.jam.rr.com/dicksfiles và ấn chuột vào hình quyển sách, các chương sẽ hiện ra.)

Theo tiến sĩ Stafford kể thì ông đã về hưu. Ông bắt đầu suy nghĩ về một con đường mới cho vật lý trong thập niên 1960′s nhưng đến năm 2002 chỉ mới có TS Nobel vật lý Richard Feynman là người duy nhất thèm đọc qua ý kiến của ông mà thôi; những người khác (kể cả đồng nghiệp) cho là ông khùng điên vì dám chê Einstein, Heisenberg v.v… là còn thiếu sót.

Ông Stafford cho rằng sau cái chết của ông Feynman sẽ chẳng còn ai hiểu nổi công trình của ông nữa. Trong phần lời tựa (preface), ông than:

“I spent a substantial amount of time during the 1970′s and 80′s attempting to find interest and/or support for my work. By 1987 I had become convinced that I would find no one interested in my thoughts. What is written here is written for posterity as I strongly suspect that I will never personally meet anyone educated enough to follow my work who is also objective enough to comprehend that the academy might be wrong and that I could be right and yet not be recognized.”

Tạm dịch:

“Trong hai thập niên 1970 và 1980 tôi bỏ rất nhiều thời giờ tìm người quan tâm tới và/hoặc ủng hộ công trình của tôi. Đến năm 1987 tôi cho rằng tôi sẽ chẳng bao giờ tìm được ai quan tâm đến những suy nghĩ của tôi. Những gì tôi viết đây là cho đời sau vì tôi hết sức lo ngại rằng tôi sẽ chẳng bao giờ gặp ai đủ trình độ học vấn để hiểu công trình của tôi và đồng thời đủ vô tư để nhận ra rằng viện hàn lâm có thể sai và tôi có thể đúng mà không được công nhận.”

Theo tôi hoàn cảnh đầy thất vọng của tiến sĩ Stafford thật ra không có gì đáng ngạc nhiên, vì ông chẳng phài là người duy nhất cho rằng mình có thuyết mới; trên thế giới hiện tại chắc phải có cả ngàn, ngay cả chục ngàn người trình độ tiến sĩ đang ôm ấp một thuyết mới như ông. Vấn đề là ai chịu bỏ thời giờ để lần mò trong khu rừng lý thuyết và công thức toán dầy đặc mà xét xem quan điểm của người viết là đúng hay sai. Nhất là xưa nay sự sáng tạo và sự khùng điên chỉ cách nhau một khoảng cách nhỏ như sợi tóc.

Câu chuyên về tiến sĩ Stafford cho thấy cái khó khăn của người lập thuyết và cái khó khăn của việc đánh giá thuyết mới trong thời đại lạm phát kiến thức ngày hôm nay, khi mà khí cụ cơ bản của khoa học là toán học đã trở thành quá khó hiểu cho ngay cả những người trong giới nghiên cứu khoa học.

Cái khó khăn càng ngày càng tăng gia của toán học là một trong nhiều lý do phức tạp khiến giới khoa học chính thống, tức các giáo sư vật lý chính thức trong các đại học nổi danh thế giới, còn phải tranh cãi huyên thuyên về các ý kiến của nhau và không thể đồng ý ai sai ai đúng, nói gì đến ý kiến của một gã VDTT.

Bởi vậy tôi không hề hy vọng là ý kiến của tôi sẽ được chấp nhận trong vòng 5, 10 năm, thậm chí mấy mươi năm. Ngoài ra, vì biết rằng trong những vấn đề như thế này tranh luận thắng không có nghĩa mình đúng, tranh luận thua không có nghĩa mình sai, nên tôi đã quyết định từ chối mọi cuộc tranh luận, thời giờ xin dành cho việc khác.

Nhưng nhờ hệ thống internet những người nào biết đến khoa học giờ có thể thấy đại khái cái cơ sở lý luận của tôi (về lý do tại sao tôi cho rằng ngũ hành chỉ là phép tính gần đúng, âm dưong mới đúng) và của những người bất đồng ý với tôi. Các vị cho rằng mình có khả năng luận xét có thể đóng vai bồi thẩm đoàn bắt đầu làm việc so sánh ngay từ bây giờ. Ai nghĩ rằng tôi sai xin trình bày quan điểm của họ. Trình bày càng rõ ràng thì càng giúp việc đánh giá đúng đắn được rút ngằn thời gian.

Tối hậu thì thời gian sẽ là ông quan tòa vô tư hơn hết.

Kế tiếp xin trở lại các vấn đề của khoa Tử Vi.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (kỳ 4)

1. Lý tuần hoàn của khoa Tử Vi

Trước hết, như đã nói, tôi không thể nào biết ông Trần Đoàn nghĩ gì nên những điều tôi viết chẳng phải là tôi đoán ý ông Trần Đoàn mà là dựa theo những cái biết của khoa học hiện đại cộng với cái di sản khoa học đặc thù của Á đông mà người tây phương chưa được biết đến.

Theo tôi cái lý tối hậu của khoa học, kể cả khoa học tây phương, là thuyết “vạn vật đồng nhất thể” của Á đông. Nhận ra lý VVĐNT rồi thì sẽ thấy ngay rằng lý tuần hoàn là một mấu chốt để giải bài toán mệnh lý vì có thể coi đời một người chết già ứng với một chu kỳ tuần hoàn sinh thành trụ diệt, tương đồng với rất nhiều hiện tượng thiên nhiên trong cái vũ trụ vật chất mà chúng ta đang sống.

Quý độc giả có nghiên cứu Tử Bình hẳn đã nhận ra rằng khoa này dựa trên một lý tuần hoàn nhất quán, đó là lý tuần hoàn của lục thập hoa giáp. Bởi vậy năm tháng ngày giờ trong khoa bát tự đều theo một lý tuần hoàn chung với chu kỳ là 60.

Tôi xin lưu ý quý độc giả rằng khi chọn lục thập hoa giáp làm cái lý nhất quán, khoa Tử Bình đã phải trả bằng cái giá -mà tôi nghĩ khá đắt- là nó buôc lòng phải lờ đi một hiện tượng tuần hoàn có tinh rất tự nhiên, đó là hiện tượng tuần hoàn của mặt trăng. Mà đã gạt bỏ tính tuần hoàn của mặt trăng rồi thì đâu còn lý do gì để coi mỗi chu kỳ của mặt trăng là một tháng cho phải phiền toái vì tháng nhuận, vì thế tháng của khoa Tử Bình hoàn toàn dựa trên tiết khí (lệ thuộc vào góc của trục trái đất so với mặt trời) là rât hợp lý.

Khi muốn khảo sát một vấn đề bằng toán học, ta phải làm hai việc, một là tìm ra một cái lý toán học có tính xuyên suốt phù hợp với vấn đề cần khảo sát, hai là tìm giao điểm giữa cái lý ấy và thực tế để bảo đảm là có sự phù hợp giữa lý thuyết và thực tế (trong toán học gọi là điều kiện ban đầu hoặc điều kiện ngoại vi).

Bằng ngôn ngữ khoa học, có thể nói cái lý toán học của Tử Bình là luật tuần hoàn của lục thập hoa giáp, và lý này được ghép vào thực tế bằng cách chọn liên hệ tương đối giữa trái đất với mặt trời làm chủ điểm.
Câu hỏi là có cách nào vận dụng tính tuần hoàn của mặt trăng (mà khoa Tử Bình đã phải lờ đi) vào bài toán số mệnh hay không? Câu trả lời là có, và câu trả lời hùng hồn nhất mà ta biết thì chính là khoa Tử Vi vậy.

Tóm lại, Tử Vi là một cách giải bài toán số mệnh, nhưng khác với Tử Bình ở chỗ là nó áp dụng lý tuần hoàn của mặt trăng vào bài toán số mệnh. Cái giá mà nó phải trả là phải coi mỗi ngày là một phần tử của một chu kỳ của mặt trăng. Gọi một chu kỳ của mặt trăng là một tháng thì yếu tố ngày chỉ có thể lên đến tối đa là 29 hoặc 30 (ngày) nên không thể nào thỏa cái lý của lục thập hoa giáp. Bởi vậy, Tử Vi không tính can chi của ngày, chỉ tính ngày từ 1 đến 29 hoặc 30 mà thôi.

Tôi xin nhấm mạnh rằng Tử Vi bắt buộc phải coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng, tại sao thế? Thưa, vì đó là ưu điểm chính của nó so với khoa Tử Bình. Giả như nó cũng không coi lý tuần hoàn của mặt trăng là quan trọng (tức là chủ trương như khoa Tử Bình) thì chẳng có lý do gì để nó có hy vọng chính xác tương đương với khoa Tử Bình, và như vậy thì chẳng có lý do gì để sáng lập ra khoa Tử Vi cho mệt óc.

Phải lập luận dông dai vòng vo như thế để cốt lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng, xin đừng vội cho rằng tính tháng trong Tử Vi bằng tiết khí thì chính xác hơn, bởi nếu tính như vậy là bỏ cái nền tảng của Tử Vi mà lấy cái nền tảng của Tử Bình. Đây là trường hợp chỉ được chọn một trong hai (chọn sai thì thành “râu ông nọ cắm cằm bà kia”), nên đừng nên mong là nhờ định tháng bằng tiết khí mà Tử Vi sẽ chính xác hơn.

Hy vọng như vậy vấn đề “bất quá tiết” của Tử Vi đã được giải quyết bằng lý luận.

Ở trên ta thấy xét hiện tượng thật thì Tử Bình đã chọn mặt trời làm chủ điểm và vì thế phải lờ mặt trăng đi. Còn Tử Vi thì ta biết đã chọn mặt trăng làm chủ điểm, vậy còn liên hệ giữa mặt trời với trái đất trong khoa Tử Vi thì sao? Để trả lời ta nhận xét:

1-Các giờ trong ngày không có vấn đề gì cả. Vẫn có thể dựa theo mặt trời.
2-Các ngày trong tháng dĩ nhiên phải theo mặt trăng.
3-Các tháng trong năm thì có vấn đề trầm trọng cần giải quyết. Vì coi mặt trăng là chủ điểm thì năm phải có 12 hoặc 13 tháng, mà không thể theo đúng chu kỳ của trái đất quanh mặt trời nữa. Nhưng nếu xử dụng 13 tháng thì lại có vấn đề với môi trường dùng để giải Tử Vi, tức là địa bàn, vì địa bàn chỉ có 12 cung nên phải đổi 13 tháng thành 12, do đó phải có tháng nhuận.
Các đề mục từ 1 đến 3 trên đây chẳng có gì mới lạ mà chính là kiến thức cơ sở của khoa Tử Vi. Cần nhắc lại chỉ cốt để lưu ý với quý vị nghiên cứu rằng Tử Vi từ xưa đến nay ở hoàn cảnh không mấy gọn gàng như vậy là có lý do cả. Đừng tưởng sửa lại cho gọn gàng là giúp Tử Vi chính xác hơn, e làm nó thiếu chính xác hơn là đằng khác.

Cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều cố áp dụng lý tuần hoàn đến mức tối đa. Càng nhiều tương ứng với các hiện tượng tuần hoàn tự nhiên dĩ nhiên càng tốt.

- Tử Bình miễn cưỡng bỏ lý tuần hoàn của mặt trăng vì lý do đã trình bày (giữa lý tuần hoàn nhất quán của lục thập hoa giáp và lý tuần hoàn của mặt trăng phải chọn một bỏ một, quyết định bỏ mặt trăng). Vì Tử Vi thái dụng lý tuần hoàn của mặt trăng và đạt nhiều thành công to lớn, ta biết bỏ mặt trăng là một khuyết điểm lớn của khoa Tử Bình.

- Tử Vi thu nhập lý tuần hoàn của mặt trăng mà không phải bỏ lý tuần hoàn của mặt trời; đây là một ưu điểm vì định giờ theo mặt trời là lý tuần hoàn tự nhiên hơn hết (chắc chắn tự nhiên hơn là định giờ theo mặt trăng) bởi vậy dĩ nhiên cách định giờ phải theo mặt trời. Một vòng tuần hoàn của giờ thành ngày nên cách xác định khi nào đổi ngày dĩ nhiên cũng theo mặt trời. Nhưng bao nhiêu ngày thành một tháng thì lại phải theo mặt trăng, vì đó là ưu điểm to lớn nhất của Tử Vi so với Tử Bình. Mà đã theo mặt trăng như vậy thì phải chịu tháng nhuận, không thể tránh được.

Lý do phải có tháng nhuận (thay vì thỉnh thoảng cho một năm có 13 tháng) là vì Tử Vi muốn ghép tất cả mọi yếu tố vào địa bàn, mà địa bàn thì có đúng 12 cung (và 12 cung này có lý của chúng, không đổi được).
Vậy khuyết điểm của Tử Vi là không áp dụng được lý lục thập hoa giáp một cách nhất quán vào mọi đơn vị thời gian, chắc chắn phải là một nguồn sai số, tháng nhuận chắc chắn cũng là một nguồn sai số.

Có thể thấy rằng cả hai môn Tử Vi và Tử Bình đều khiếm khuyết, và đây là khiếm khuyết có tính cơ sở, tức là bất luận tiến bộ bao nhiêu khiếm khuyết ấy vẫn còn.

Ở Đài Loan nhiều phái coi Tử Vi riêng, Tử Bình riêng (chú ý: Nghĩa là coi riêng từng môn, không phải là dùng cách của Tử Vi để xem Tử Bình hoặc ngược lại), rồi theo kinh nghiệm của thầy mà phối hợp kết quả của hai môn (có điểm theo Tử Bình, có điểm theo Tử Vi, tùy kinh nghiệm của thầy); đó là một cách bổ khuyết hai môn.

- Thái Âm chỉ tương ứng với mặt trăng (theo lý “vạn vật đồng nhất thể”) nhưng không phải là mặt trăng. Dùng tiết khí hay tháng thật để luận Thái Âm không quan trọng vì hai cách tính này sai số luôn luôn nhỏ hơn 1, nhưng vì lý nhất quán khoa Tử Vi tất phải theo tháng thật (và chịu đựng xác xuất sai trong tháng nhuận). Ngày thì buộc lòng phải theo ngày âm lịch, vì đó chính là cơ sở của khoa Tử Vi (Thái Âm từ 1 đến rằm càng ngày càng mạnh, sau đó yếu đi).

Vài dòng chia sẻ.

****

THẾ NÀO LÀ CÁCH TÍNH “GẦN ĐÚNG”?

Hình như nhóm chữ “cách tính gần đúng” mà tôi xử dụng bị hiểu lầm là “cách tính ra kết quả gần đúng”, rồi từ đó diễn giải thêm ra thành những kết quả lạ lùng, kỳ dị mà bản thân tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ra nổi.

Tôi chẳng hiểu tại sao khi bàn luận về một chuyện hết sức cơ bản lại có sự hiểu lầm này, nhưng thiết nghĩ mọi sự hiểu lầm đều nên được giải tỏa càng sớm càng tốt kẻo dần dần hiểu lầm tưởng là hiểu thật.

Xin phép dùng tiếng Anh. Cách tính gần đúng là “approximation”.

Mục đích là tìm đáp số gần đúng nên mới đặt ra cách tính gần đúng, nhưng đời này có khi lực bất tòng tâm, chẳng phải cứ đặt ra cách tính gần đúng là sẽ được kết quả gần đúng!

Sau đây tôi xin trình bày tại sao “cách tính gần đúng” chưa chắc phải cho kết quả gần đúng, nhiều khi sai rất xa, có khi cho kết quả trái ngược lại ý ta là đằng khác.

Xin chú ý kỹ, kẻo sai lầm đáng tiếc.

A. ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG HẾT SỨC QUAN TRỌNG, KẺO SAI MỘT LY ĐI MỘT DẶM

Phép tính gần đúng chỉ có thể áp dụng trong điều kiện của nó, bằng không thì kết quả chẳng có gì là gần đúng cả. Đây chính là một trường hợp của ý nghĩa sai một ly đi một dặm.

Một thí dụ về phép tính gần đúng:

X= A + BC + DE (1)

Trong một điều kiện Alpha nào đó thì DE nhỏ hơn hai số kia nhiều, nên (khi điều kiện Alpha được thỏa), ta nói cách tính gần đúng ứng với (1) là:

X= A + BC (2)

Có thể thấy rằng nếu điều kiện Alpha không được thỏa mà áp dụng (2) thì có thể sẽ phạm lỗi sai một ly đi một dặm.

Tôi đã dùng thí dụ số học cốt cho mọi người dễ hiểu. Quý vị nào biết giải phương trình vi phân thuộc dạng hết sức mẫn cảm (“very stiff equations”) thì càng thấy rõ lý này hơn hết. Nhiều khi bỏ một chữ nhỏ thôi (để có phép tính gần đúng) mà kết quả ra hoàn toàn khác hẳn. Đây cũng là lý do tại sao khi dùng computer để giải phương trình vi phân (một thí dụ thực tế khác của cách tính gần đúng) người ta phải rất cẩn thận, kẻo kết quả ra hoàn toàn sai.

Các thí dụ này cho thấy tại sao “phép tính gần đúng” không chắc cho kết quả gần đúng. Cường điệu hơn kết quả của phép tính đúng và phép tính gần đúng có thể khác hẳn nhau. Ngược lại, khi thấy hai kết quả khác hẳn nhau, đừng vội nói rằng chúng không thể là kết quả của hai phép tính gần giống nhau.

B. DÙNG LƯỢNG ĐỂ ĐỊNH TÍNH GẦN ĐÚNG CÓ KHI VẪN SAI BÉT

Ngay cả khi tính ra gần đúng, kết quả vẫn có thể trái ngược. Một thí dụ là trường hợp dùng phép tính gần đúng để định lượng, nhưng kết quả lại thuộc dạng định tính.

Thí dụ: Dùng mô hình “gần đúng” để tiên đoán điểm, đoán được Phoenix Suns 113-Lakers 110. Sự thật Phoenix 112 – Los Angeles 113. Phép tính định lượng thì gần đúng (chỉ sai 0.9% cho đội Phoenix, 2.7% cho đội Los Angeles). Nhưng kết quả thì sai bét vì đoán Phoenix thắng mà sự thật Phoenix thua.

Cho nên:

1.-Ngũ hành là phép tính gần đúng của âm dương không có nghĩa âm dương có cái gì thì ngũ hành phải có một cái gần đúng như thế.
2.-Ngũ hành có vẻ khác hẳn âm dương không có nghĩa ngũ hành không thể là phép tính gần đúng của âm dương.
3.-Mặc dù là phép tính gần đúng của âm dương, ngũ hành có thể có trường hợp ra kết quả sai bét.

Đó là lý luận cơ bản của phép tính gần đúng. Xin lưu ý!

SO SÁNH BA CHIÈU KHÔNG GIAN THEO NHƯ CÁI NHÌN CỦA CẬU BÉ TRONG “CHIẾC ÁO MỚI CỦA NHÀ VUA”

Năm 1989, ông Roger Penrose, một tiến sĩ giáo sư toán lừng danh thế giới của nước Anh, ra quyển “Bộ óc mới của nhà vua” (The Emperor’s New Mind). Đây là một quyển sách bán rất chạy nhưng tương đối khó đọc vì xử dụng khá nhiều kiến thức toán và vật lý cao cấp. Đại khái ông Penrose tỏ ý không bằng lòng với hiện trạng của khoa học nói chung và khoa vật lý nói riêng.

Nhưng tại sao lại đặt tên sách là “Bộ óc mới của nhà vua”? Nguyên là sau khi đi vào rất nhiều chi tiết nhiêu khê, có khi công thức toán chằng chịt nguyên trang, ở cuối sách ông Penrose đưa ra một điểm hết sức triết lý, là có thể sự bế tắc hiện tại của khoa học một phần là do hoàn cảnh đã trở thành tương tự như truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua”, với những người thợ may nổi tiếng trầm trồ khen ngợi chiếc áo vô hình được thay bằng các khoa học gia thời nay. Vấn đề của các khoa học gia, ông Penrose nói, là có thể vì biết quá nhiều mà họ trở thành thiên kiến, nên cũng như trong truyện cổ tích “chiếc áo mới của nhà vua” người có đáp số đúng có lẽ phải như cậu bé, thứ nhất nhãn quan chưa bị những kiến thức đã học được từ trường sở hoặc cuộc đời làm cho vặn vẹo, thứ hai đầu óc thơ ngây nên chẳng biết sợ những lời chê bai, cứ thấy sao là nói vậy.

Lấy cảm hứng từ triết lý ấy, tôi xin mời các độc giả có hứng thú cố đóng vai trò của một cậu bé không thành kiến, tức là tôi yêu cầu quý vị hãy bỏ gần hết tất cả những gì quý vị đã học được trong khoa vật lý, kể cả vật lý Newton.

Tôi chỉ yêu cầu quý vị chấp nhận một điều giản dị là mọi vật thể đều có thể được diễn tả bằng các điểm trên một trục tọa độ gồm ba trục là x, y, z hỗ tương thẳng góc với nhau. Các vị nào không tin thì làm thử thí nghiệm này: Chọn một hình phẳng nào đó, bỏ nó lên một trục x,y; ghi xuống tọa độ của càng nhiều điểm càng tốt vào một tờ giấy, rồi đưa tờ giấy nhờ một anh cán sự kỹ nghệ họa vẽ xem ra hình thù gì. Tôi dám bảo đảm quý vị sẽ thấy hình vẽ ấy diễn tả khá đúng vật thể mà quý vị đã chọn. Thí nghiệm này tôi chọn hai chiều x, y thôi cho giản dị, nhưng thêm chiều thứ ba là z thì kết quả vẫn không đổi.

Kế tiếp tôi sẽ trình bày với quý vị một bảng kết quả của một thí nghiệm nhiều bước, và yêu cầu quý vị trả lời một câu hỏi.

Đối tượng của thí nghiệm này là một khối vuông mỗi cạnh 100m, với ba cạnh X, Y, Z lần lượt song song với các trục x, y, z của trục tọa độ. Nhờ lối xếp vuông vắn này, đo hình chiếu của hình vuông lên trục x ta được cạnh X, đo hình chiếu của hình vuông trên trục y ta được cạnh Y, đo hình chiếu của hình vuông trên trục z ta được cạnh Z.
Các bước của thí nghiệm như sau:

0. Giữ khối vuông đứng im không chuyển động, đo ba hình chiếu để được ba cạnh X, Y, Z.
1. Cho khối vuông chuyển động theo chiều x với vận tốc bằng phân nửa vận tốc ánh sáng. Đo ba hình chiếu để được chiều dài của ba cạnh X, Y, Z.
2. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều y (thay vì x).
3. Tương tự 1 kể trên, nhưng cho khối vuông chuyển động trong chiều z (thay vì x).

Sau đây là bảng kết quả thí nghiệm, xin trình bày cùng quý vị:

0. Không chuyển động: X=100m, Y=100m, Z=100m
1. Chuyển động chiều x: X= 87m, Y=100m, Z=100m
2. Chuyển động chiều y: X=100m, Y= 87m, Z=100m
3. Chuyển động chiều z: X=100m, Y=100m, Z= 87m

Định nghĩa: Nếu chuyển động theo chiều x thì x là chiều chuyển động, y và z là hai chiều còn lại. Hai trường hợp khác lý tương tự.

CÂU HỎI: Chiều chuyển động có giống hai chiều còn lại hay không?

Xin độc giả cho biết câu trả lời theo cái nhìn của cậu bé ngây thơ (và nếu hứng thú thì cứ tự nhiên thêm câu trả lời của cá nhân mình, nếu khác với câu trả lời của cậu bé ngây thơ).

Riêng tôi thì đã biết cậu bé trong tôi trả lời như thế nào rồi.

Chúng ta biết rằng quy luật thịnh suy và biến hóa của âm dương, quy luật thắng phục và sinh khắc của ngũ hành theo luật tuần hoàn không đầu cuối chi phối vạn vật trong gầm trời. Ví dụ:
1. Trong một năm bốn mùa xuân hạ thu đông thứ tự tuần hoàn: nếu phân âm dương thì mùa xuân hạ là dương còn mùa thu đông là âm; nếu phân ngũ hành thì mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim và mùa đông thủy.
2. Trong một ngày thì ban ngày là dương còn ban đêm là âm; từ giờ tý nhất dương sinh ra mà tý thuộc thủy, từ giờ ngọ nhất âm sinh mà ngọ thuộc hỏa.
3. Trong hệ can chi tuần hoàn thì thiên can thuộc dương còn địa chi thuộc âm; trong thiên can lại có ngũ hành âm và ngũ hành dương, trong địa chi cũng được phân thành ngũ hành âm và ngũ hành dương.
4. Và trong họa đồ bát quái tuần hoàn cũng vậy.

Vậy theo trên có thể tách âm dương ra khỏi ngũ hành và ngũ hành ra khỏi âm dương được không, sau đem hai mảng đó so sánh với nhau rồi cho mảng này là gần đúng của mảng kia.

Theo PV thì âm dương ngũ hành bất khả phân ly. Và nhận thức không có âm dương ngoài ngũ hành cũng như không có ngũ hành ngoài âm dương.

Tối hậu bằng lô gích ta biết khoa học chỉ có thể có một thuyết. Tại sao thế? Vì nếu có hai thuyết thì hai thuyết này hoặc mâu thuẫn nhau hoặc bố cứu cho nhau, nếu mâu thuẫn nhau thì tối thiểu một phải sai loại đi còn một, nếu bổ cứu nhau thì cộng lại chính là một thuyết xuyên suốt. Cứ thế mà lý luận dần đến tận cùng sẽ suy ra tối hậu vũ trụ vật chất chỉ có thể có một thuyết mà thôi.

Gọi thuyết tối hậu là A, các thuyết khác chỉ có thể là một mặt nào đó của A hoặc là phép tính gần đúng của A. Thuyết ấy là gì? Tôi cho là thuyết âm dương. Nếu thuyết âm dương đúng là thuyết tối hậu thì nó phải hàm chứa tất cả mọi thuyết còn lại.

Trường hợp ngũ hành, tôi tính ra thấy nó là một thuyết gần đúng. Tứ nguyên cũng là một thuyết gần đúng.

Dễ hiểu vì:

Sinh khắc là liên hệ một chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng thế nào cũng không thể bao hàm các liên hệ hai chiều như “yêu nhau” chẳng hạn. Thuyết ngũ hành cơ bản chỉ có sinh khắc dĩ nhiên thiếu sót.

Tương tự, hợp xung là liên hệ hai chiều chỉ ứng với một loại hiện tượng, dù diễn giải soi rộng bao nhiêu cũng không thể bao hàm các liêh hệ một chiều như “thắng thua” chẳng hạn. Thuyết tứ nguyên cơ bản chỉ có hợp xung dĩ nhiên thiếu sót.

Thiếu sót thì chỉ có thể “gần đúng”, chẳng thể nào “đúng” đuợc.

Người đông phương bảo rằng âm dương ngũ hành bất khả phân thì người tây phương sẽ bất đồng ý vì họ chẳng hề có thuyết ngũ hành mà vẫn phát triển về huyền học như thường. Đừng quên như thế!
Đông phương không cần thuyết tứ nguyên mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Tứ nguyên có thật là thuyết tất yếu không?

Tây phương không cần thuyết ngũ hành mà huyền học vẫn phát triển, tại sao? Ngũ hành có thật là thuyết tất yếu không?

Nhắc lại câu trả lời của tôi: Ngũ hành và tứ nguyên đều không phải là tất yếu! Chúng chỉ là hai cách giải gần đúng khác nhau khởi từ cùng một thuyết lớn trùm ở trên. Thuyết ấy chính là thuyết âm dương.

Nên tôi phân định:

Huyền học đông phương: Lấy âm dương làm nền, lấy ngũ hành trợ lực, thành hệ thống thực dụng gọi là “âm dương ngũ hành”.

Huyền học tây phương: Vẫn lấy âm dương làm nền, dùng tứ nguyên (đất nước gió lửa hoặc đất nước khí lửa cũng thế) mà thành hệ thống thực dụng.

Vì thực dụng khác biệt (ngũ hành / tứ nguyên), mỗi bên có sở trường và sở đoản khác nhau.

Xin thêm rằng tôi không chỉ đoán mò mà từ nguyên lý cơ bản lập ra mô hình của từng trường hợp, rồi thấy một mô hình phản ảnh thuyết âm dương, một mô hình phản ảnh thuyết ngũ hành, một mô hình phản ảnh thuyết tứ nguyên nên mới dám nói như thế.

Chẳng hạn, như đã trình bày ỏ một bài trước, quý vị thử hai loại hình cầu màu sậm là âm, màu nhạt là dương cho chúng gộp vào nhau thành hình tứ diện đều (là hình thể cân xứng nhất trong ba chiểu có thể tạo dựng bằng các khối cầu) để đại biểu thực thể hiện hữu, quý vị sẽ thấy có đúng 5 thực thể là:

AAAA (thủy)
ADDD
AADD (thổ)
AAAD
DDDD (hỏa)

Có thể thấy mô hình này dẫn đến thuyết ngũ hành.

Vài dòng chia sẻ.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC?

2. Lý hình thành của 14 chính tinh

Đọc các sách cổ cũng như sách gần đây ta thấy đủ loại thuyết cố giải thích sự hình thành của 14 chính tinh, nhưng thú thật khi đọc các thuyết ấy tôi lại nhớ một thí dụ mà ông giáo sư toán đệ nhất của tôi là CAH hay dùng để chỉ trích các cách chứng minh tùy hứng:

“Hôm nay trời sáng, nên hai vòng tròn trực giao”
Tức là -trên cơ sở khoa học- chẳng thấy lô gích ở đâu cả!

Độc giả nào đã đọc sách của ông Tạ Phồn Trị có lẽ cũng sẽ có cảm giác tương tự là sách này cũng chẳng rõ lô gích ở đâu, thế nhưng bản thân tôi thấy một khác biệt quan trọng, là mặc dùng không đặt nặng lô gích trong cách viết, những tái khám phá của ông Trị lại rất hợp lô gích, nghĩa là có thể được xếp đặt lại đề phù hợp với lô gích.

Về nguồn gốc 14 chính tinh ông Trị bắt đầu bằng cách giải cái lý của cặp Nhật Nguyệt với câu ‘phán’ theo kiểu sách cổ, xin dịch như sau “kỳ thật Nhật, Nguyệt chính là đại biểu của giờ và tháng” rồi ông đưa lý thiên văn cho thấy là nếu bắt đầu với tháng giêng giờ Tí, sau đó muốn thấy vũ trụ ở chỗ cũ tất tháng hai phải là giờ Hợi, tháng ba giờ Tuất v.v… chính là các cặp vị trí tương ứng của hai sao Âm Dương.

Mỗi lần ghi xuống tái khám phá này, tôi lại thêm một lần thán phục cái lý của người xưa (tức người lập ra Tử Vi) và một lần cám ơn ông Trị đã nhìn ra sự kiện này, vì tôi cho nó là chiếc chìa khóa quan trọng nhất trong cuộc hành trình tìm lại cái gốc khoa học của môn Tử Vi.

Sau đây là phần lý luận thêm của tôi để đặt cái tái khám phá của ông Trị vào khuôn mẫu khoa học.

Nhận xét sơ khởi:

1. Địa bàn thực tính là một hình tròn gắn vào địa cầu.
2. Xét giờ thì giờ nào cung ấy quay về phía mặt trời. Thí dụ giờ Tí tất cung Tí của địa bàn quay về mặt trời. Vì vậy mỗi cung của địa bàn có tương ứng tự nhiên với giờ.
3. Xét tháng thì một khi đã chọn một giờ cố định (như giờ Tí) thì tháng nào cung ấy quay về một phương cố định trong vũ trụ. Như tháng giờ Tí một ngày nào đó của tháng 1 cung Dần quay về một phương X nào đó thì đợi đúng một tháng sau tất cung quay về phương X phải là cung Mão.

Những kết quả trên đây là tái khám phá của tôi, đã giải thích ở một nơi khác, ở đây không lập lại.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Từ đó có thể thấy rằng:

1. Địa bàn ứng với giờ và tháng: Mỗi cung địa bàn tương ứng với một giờ, đồng thời tương ứng với một tháng.

2. Thuận lý và nghịch lý trên địa bàn: Vì các cung cứ đi thuận theo giờ mà hướng về phía mặt trời, đi thuận theo tháng mà hướng về một phương cố định trong vũ trụ, chiều thuận trên địa bàn (chiều kim đồng hồ) chính là chiều thời gian. Thời gian chỉ đi tới mà không đi lùi, nên đi thuận trên địa bàn hợp lý hơn đi nghịch, do đó -áp dụng thuyết âm dương- ta nói đi theo chiều thuận của địa bàn là “thuận lý”, đi ngược chiều của địa bàn là “nghịch lý”. Nói cách khác, trên địa bàn “thuận lý” có nghĩa là đi theo chiều kim đồng hồ, “nghịch lý” là đi ngược chiều kim đồng hồ.
Đó là xét tháng và giờ riêng rẽ. Trường hợp phối hợp tháng giờ thì phức tạp hơn, sẽ bàn sau.

3. Nền tảng toàn không của khoa Tử Vi: Theo một tiền đề của thuyết âm dương (dưới nhãn quan khoa học) thì mọi hiện tượng trong vũ trụ này đều là giả tướng do âm dương trộn lộn với nhau mà thành, nhưng tổng số thành của âm dương trong vũ trụ thì chỉ là một con số không.

Áp dụng lý vạn vật đồng nhất thể để giả sử con người là một “tiểu vũ trụ”. Giả sử này chỉ có thể gần đúng vì con người có liên hệ mật thiết với các phần tử khác của vũ trụ (và có thể với các vũ trụ ngoài vũ trụ này nữa), nhưng ta buộc lòng phải dùng nó vì nó vẫn cho kết quả chính xác nhất có thể đạt được trong khả năng tầm thường của chúng ta. Coi con người là một tiểu vũ trụ và dùng địa bàn để biểu diễn vận mệnh con người thì tổng số thành âm dương trên địa bàn (tức lá số) phải bằng không.

Ý nghĩa thực tế của điều kiện này là: Trên lá số mọi yếu tố đều phải có lực đối trọng, sao cho tổng thành âm dương gần bằng zéro.

4. Áp dụng lý toàn không vào Tử Vi: Ở trên ta đã trình bày cái cơ sở của lý toàn không, bây giờ ta sẽ luận cách áp dụng nó vào địa bàn.

Tứ nguyên chính là tứ đại. Khi đức phật ra đời thuyết này đã thịnh hành rồi. Hiện vẫn có một số nhà nghiên cứu cho rằng thuyết tứ đại (tứ nguyên) khởi từ Ấn Độ rồi truyền sang Trung Đông (thay vì từ Trung Đông truyền sang Ấn Độ).

Phật giáo chỉ nói đến tứ đại một cách biểu tượng (đại biểu vật chất), trong khi chiêm tinh và các khoa mệnh lý khác của tây phương thì coi tứ nguyên là cái nền để phát triển ra.

Thí dụ trong chiêm tinh tây phương thì:

Đất (Earth): Capricorn (cardinal), Taurus (fixed), Virgo (mutable).
Nước (Water): Cancer (cardinal), Scorpio (fixed), Pisces (mutable).
Gió (Wind / Air): Libra (cardinal), Aquarius (fixed), Gemini (mutable).
Lửa (Fire): Aries (cardinal), Leo (fixed), Sagittarius (mutable).

Đây là điểm kỳ diệu: Cardinal có tính tương tự “sinh”, Fixed có tính tương tự “vượng”, Mutable có tính tương tự “mộ”. Xếp theo thứ tự khởi từ Aries ta được 12 cung hoàng đạo:

1. Aries (Dương Cưu): Lửa sinh
2. Taurus (Kim Ngưu): Đất vượng
3. Gemini (Song Nam): Gió mộ
4. Cancer (Bắc Giải): Nước sinh
5. Leo (Hài Sư): Lửa vượng
6. Virgo (Xử Nữ): Đất mộ
7. Libra (Thiên Xứng): Gió sinh
8. Scorpio (Hổ Cáp): Nước vượng
9. Sagittarius (Nhân Mã): Lửa mộ
10. Capricorn (Bạch Dương): Đất sinh
11. Aquarius (Bảo Bình): Gió vượng
12. Pisces (Song Ngư): Nước mộ

Kỳ diệu thay, lý này y hệt như phép tam hợp hành của ngũ hành.

Thế nên càng ngày tôi càng tin vào giả thuyết gấn đây của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử mệnh lý người Đài Loan và Hoa lục, rằng ngũ hành là do tứ nguyên cải biến mà ra (Thí dụ: Xem sách “Đường Tống âm dương ngũ hành luận tập”, La Quế Thành, Văn Nguyên Thư Cục, Đài Bắc, tái bản năm 1992).

Vài dòng đóng góp.

T.B. Nhưng vì có 4 yếu tố thay vì 5, tứ nguyên phải dùng liên hệ khác với sinh khắc, liên hệ ấy là “hợp” và “không hợp” hoặc “hợp” và “xung”. Chú ý rằng sinh khắc là liên hệ một chiều, hợp xung là liên hệ hại chiều. Sự khác biệt về liên hệ dẫn đến kết quả khác hẳn nhau. Như trên địa bàn của mệnh lý Á đông, vì lý ngũ hành mà hai cung xung có tương quan khắc, trong khi đó trên tinh bàn (thiên bàn) của chiêm tinh tây phương, vì lý tứ nguyên mà hai cung xung có liên hệ “hợp” (thay vì “xung” nếu suy diễn giản dị từ lý ngũ hành rồi vội vàng áp dụng sang một cách sai lầm).

Kết quả: Đất Nước hợp nhau, Gió Lửa hợp nhau, Đất Nước “xung” với Gió Lửa và ngược lại. Tức là mỗi cung “xung” với hai cung bênh cạnh nó và “hợp” với cung đối diện nó (tức cung mà ta thường gọi là xung chiếu).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Áp dụng luật toàn không vào địa bàn

Hãy tưởng tượng 12 cung địa bàn như một cái nồi nước, bản chất không có mùi vị gì cả, còn người đặt ra khoa Tử Vi như ông đầu bếp. Bỏ bất cứ thứ gì vào cái nồi địa bàn sẽ làm cho tối thiểu một góc nào đó của địa bàn có mùi vị, cho nên nếu đã bỏ gia vị A vào thì sau đó phải tìm cách trung hòa bằng cách bỏ thêm gia vị B. Trong trường hợp B không đủ trung hòa A thì không những thêm B lại phải thêm C, có khi phải thêm D, E, F v.v…

Trung hòa xong A rồi thấy vẫn chưa được thì bỏ AA vào, bỏ AA vào thì lại phải trung hòa nó bằng BB, nếu BB không trung hòa nổi AA thì thêm CC, có khi phải thêm DD, EE, FF v.v… cứ thế cứ thế.

Theo quy luật này thì các sao trên lá số Tử Vi không thể nào đặt ra tùy hứng hay cứ nhắm mắt dựa theo các khoa cũ gắn vào địa bàn, mà phải có một thứ tự, quy luật nhất quán.
Chúng ta hãy bắt đầu.

Tại sao cái lý của khoa Tử Vi phải bắt đầu với cặp Âm Dương?

Bước đầu của việc thiết lập lá số Tử Vi bằng phương pháp khoa học ví như việc bỏ gia vị A vào cái nồi nước địa bàn còn đang trống rỗng. Vấn đề của người đầu bếp là bỏ gia vị nào vào nồi. Vấn đề của người lập ra khoa Tử Vi là bắt đầu với sao gì, và tại sao lại bắt đầu như thế?

Câu trả lời là cặp Âm Dương. Ấy bởi vì cặp Âm Dương đại biểu một cặp tháng giờ lý thuyết thỏa điều kiện cơ bản là giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Nhưng tại sao lại muốn giữ phương của trái đất y như lúc tháng giêng giờ Tí. Thưa vì bài toán Tử Vi giả sử rằng thời điểm khai sinh đã chứa tín hiệu họa phúc của đời người, thời điểm khai sinh của con người thì tương ứng với lúc mùa xuân bắt đầu, tức là tháng giêng giờ Tí, nên vì lý vạn vật đồng nhất thể phải giữ trái đất ở phương hướng y như lúc khai sinh của nó, và cặp Âm Dương là công cụ bảo đảm rằng điều kiện ấy luôn luôn được thỏa.

Bởi vậy Tử Vi bắt đầu với cặp Âm Dương mà không phải bất cứ sao nào khác (kể cả cặp Tử Phủ).

Mỗi áp dụng khoa học đều phải bắt đầu ở một điểm mấu chốt. Từ trước đến giờ đọc các sách Tử Vi tôi đều chỉ thấy cành lá, ngọn, không thấy gốc. Đến giờ phút này tôi vẫn chỉ thấy thuyết trên đây giải thích cái lý của cặp Âm Dương hợp lý hơn hết, chưa kể là nó thỏa tính tất yếu, một tính tối quan trọng của mọi công trình khoa học.

Chú thích tại chỗ: Tôi đã từng đọc thấy rải rác trên các mạng vài vị phê bình cái lý của cặp Âm Dương do ông Trị đề xướng. Vấn đề là các lời phê bình này đều có tính đại khái, không đưa lập luận. Vì đang khảo sát vấn đề trên nền tảng khoa học, tôi buộc lòng phải coi đây là những lời phê bình cho vui, có tính trà dư tửu hậu.

Các vị nào cho rằng thuyết về cặp Âm Dương của ông Trị sai tôi đề nghị các vị ấy ghi rõ lập luận của mình ra. Các vị nào có sẵn thuyết về cặp Âm Dương tôi đề nghị tự nhìn lại thuyết của mình, xem có nền tảng khoa học gì không, trước khi làm chuyện phê bình.

Còn các vị nào bất chấp khoa học thì xin cứ tiếp tục giữ quan điểm. Tôi xin dĩ hòa vi quý và không bàn đến tử vi với các vị ấy.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tính “giản dị” của dịch lý, khoa học và bài toán Tử Vi

Cặp Âm Dương cũng như gia vị A cho cái nồi nước Tử Vi mùi vị đầu tiên của nó. Trước khi làm việc trung hòa gia vị A ta cần xét lại xem còn có đặc điểm quan trọng nào của thiên nhiên mà cặp Âm Dương không phản ảnh được hay không. Kiểm soát lại ta sẽ thấy đó là mùa màng trên trái đất. Thí dụ tháng 2 là tiết xuân phân trời đất thái hòa tươi đẹp, hoàn cảnh của Âm Dương là Âm (tháng) cư Mão, Dương (giờ) cư Hợi. Giờ Hợi của tháng 2 thái hòa chẳng thấy đẹp đẽ ở chỗ nào cả.

Bởi thế phải thêm sao để phản ảnh đúng đắn mùa màng trên trái đất. Luật thêm sao phải có tính khoa học, tức là phải có tính giản dị.

Có độc giả sẽ thắc mắc tại sao lại có điều kiện “giản dị” kỳ cục này. Đây là một vấn đề có tính triết lý hết sức lý thú. Luận về dịch, ta đã nghe “dịch có ba nghĩa: Biến dịch, bất dịch, và giản dịch”. Biến dịch thì chính là ý nghĩa cơ bản của dịch nên không cần nói đến. Bất dịch đây có nghĩa là sự biến đổi (dịch) không phải tùy hứng mà phải theo những quy luật bất biến (tức là có tính khoa học).

Riêng về “giản dịch” thì tôi chưa thấy sách nào luận cả (chỉ đưa ý nghĩa là “phải giản dị” mới đúng), nên nhân đây lạm bàn. Nguyên “dịch” và “dị” chữ Hán viết y hệt nhau, nên “giản dịch” chính là “giản dị”. Tại sao “giản dị” lại dính líu đến dịch? Có lẽ cách diễn giải hay nhất là mượn một tư triết lý tương đồng của tây phương, gọi là “dao cạo Occam”. Triết lý “dao cạo Occam” nói rằng khi lập thuyết, nếu phải chọn giữa vài ba thuyết cùng giải thích được một vấn đề thì thuyết nên chọn phải là thuyết giản dị nhất. Nhìn từ một mặt khác, nếu lời giải thích của ta cho một vấn đề quá rắc rối thì có xác xuất cao là lời giải thích ấy sai. Trong phạm vi của bài viết này tôi sẽ không luận tới cái lý đằng sau “dao cạo Occam”, chỉ nhấn mạnh rằng nó đã trở thành một khuôn vàng thước ngọc cho khoa học tây phương.

Tôi cho rằng đây chính là ý nghĩa của hai chữ “giản dị” trong dịch lý.

Tuân theo khuôn vàng thước ngọc “giản dị” ta sẽ tìm cách giản dị nhất để phản ảnh mùa màng trên trái đất, rồi sẽ tính sau.

Dùng lý “giản dị” để thêm cặp sao Tử Phủ

Lý “giản dị” cộng với hoàn cảnh sẵn có (cặp Âm Dương) dẫn đến sự hình thành của cặp sao Tử Phủ. Cặp này thỏa tính giản dị vì chỉ cần nhìn tính tụ tán của chúng ta biết ngay khí hậu lúc nào thái hòa, lúc nào khắc nghiệt. Tức là chúng giúp ta diễn tả hoàn cảnh của địa cầu.

Cái lý chi tiết dẫn đến cặp Tử Phủ dĩ nhiên dài dòng hơn thế nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ chú trọng đến tính tất yếu có tính cơ sở của khoa Tử Vi, nên sẽ không vào chi tiết.

Cần nói rằng lý “giản dị” trên đây của cặp Tử Phủ là do tôi đề xướng, vì ông Trị cho rằng cặp Tử Phủ ứng với hai sao Phá Quân (trong chòm Bắc Đẩu) và Long Đầu. (Tôi đã phê bình ý kiến này của ông Trị trong một bài trước đây, nên không lập lại).

Dùng lý “giản dị” và “quân bình” để thêm 10 chính tinh còn lại

Thế nhưng thêm cặp Tử Phủ rồi vẫn không ổn lắm vì nếu xét toàn thể địa bàn thì hoàn cảnh thái hòa của tháng 2 (xuân phân) và tháng 8 (thu phân) không thấy khác gì cảnh cực đoan của tháng 5 (hạ chí) và tháng 11 (đông chí).
Cách giải quyết giản dị nhất là thêm một số sao để cho:

1-Tháng 2 và tháng 8 mọi cung đều có sao, phản ảnh cảnh bình hòa của trái đất.
2-Tháng 5 và tháng 11 số cung có hai sao và không sao đạt mức tối đa, phản ảnh cảnh cực đoan của trái đất.

Xem lại tháng 2 (tức Thái Âm cư Mão) thấy còn 9 cung trống. Vì đòi hỏi âm dương số sao thêm phải chẵn, tức phải là 10, 12, 14 v.v… Vì đòi hỏi giản dị phải chọn 10. Tổng số chính tinh do đó là 4+10=14.

Vậy là giải thích được tại sao có 14 chính tinh một cách hết sức giản dị, chẳng cần phải mượn câu này câu nọ của “thánh nhân” hoặc đưa ra một lý do mơ hồ nào đó để rồi tranh cãi chẳng bao giờ chấm dứt.
Còn tại sao chùm Tử Vi có 6 sao, chùm Thiên Phủ có 8 sao, tại sao sao X ở trong chùm Tử Vi, sao Y trong chùm Thiên Phủ v.v… đều là những kết quả tất yếu có thể suy ra được từ lý âm dương và hai điều kiện kể trên. Ở đây chỉ bàn cái cơ sở của khoa Tử Vi, nên không nói đến.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh.

Bước tiến quan trọng kế tiếp của bài toán Tử Vi là luận ra sự hiện hữu của tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC (tiếp theo)

Ý nghĩa của 14 chính tinh từ đâu ra?

Nguồn gốc của chính tinh có rất nhiều thuyết. Cá nhân tôi cho là đa số các thuyết này có tính “ráp nối” tức là được thiết lập một cách tùy hứng, nhưng dĩ nhiên người tin thuyết X phải cho thuyết X là đúng. Từ trước đến nay khuynh hướng chung là nhìn Tử Vi bằng con mắt huyền học nên không có tiêu chuẩn nào rõ rệt để biết thuyết nào đúng hay sai thành ra chỉ có cách là mỗi người giữ ý của riêng mình.

Nhưng một khi nhìn vấn đề bằng con mắt khoa học thì sẽ nhận ra điểm chung của các thuyết này là chúng không có manh mối rõ rệt nào có thể giúp ta suy ra tính chất của 14 chính tinh.

Giả như hỏi:

-Tại sao Tử Vi là sao tôn quý nhất, mà không phải là Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân v.v…
-Tại sao Cự Môn là ám tinh?
-Tại sao Tham Lang là sao chính đào hoa?
-Tại sao Thiên Lương có tính “thày đời”?

v.v… và nhiều tính chất khác của 14 chính tinh được ghi rõ trong sách vở thì tôi cho là các thuyết ấy sẽ đều không trả lời được.

“Trả lời được” ở đây phải hiểu theo nghĩa nhất quán, bởi có rất nhiều thuyết giải thích được một vài điểm nên mới thịnh hành; vấn đề là có giải thích được một số phần trăm đáng kể, như 80, 90% các điểm hay không?Nếu độc giả nào biết một thuyết -ngoài thuyết của ông Trị- giải thích được một số phần trăm đáng kể các tính chất của 14 chính tinh thì xin cho tôi biết vì đó quả là một cơ hội học hỏi, mở mắt cho tôi.

Một trong những ưu điểm lớn mà tôi nhận thấy trong thuyết của ông Tạ Phồn Trị là ta có thể nương theo nó để suy ra tính chất của 14 chính tinh một cách thứ tự lớp lang, tức là “có khoa học”.

Tự trong nội bộ 14 chính tinh phải thỏa lý “toàn không”, đây là một mấu chốt quan trọng của bài toán Tử Vi. Phối hợp mấu chốt này với tính xung hợp của địa bàn (không luận trong loạt bài này) thì có thể suy ra tính đối đãi của một số sao, tức là đạt được bước đầu trong việc xác định cá tính của 14 chính tinh.

Nhưng bước đầu ấy không đủ để xác định cá tính của 14 chính tinh vì nó chỉ là… bước đầu. Phương pháp của Tử Vi (mà tôi tình cờ tái khám phá ra) là cứ mỗi lần thêm một bài toán là mỗi lần xét lại lý toàn không, một lần tìm thêm ra một vài tính chất của chính tinh. Nói theo toán học, chính tinh giữ vai trò của những yếu tố điều chỉnh (optimization factors) trong bài toán tử vi cốt cho lý “toàn không” được thỏa. Giải xong hết các con toán cần thiết của Tử Vi rồi thì thấy đủ mọi mặt của các yếu tố điều chỉnh, tức là định được mọi đặc tính của 14 chính tinh như chúng ta đã biết.

Đi vào thực tế, từ cách hình thành ta đã thấy:

1. Bốn sao Âm Dương Tử Phủ (được đặt ra để phản ảnh vũ trụ và hoàn cảnh của địa cầu) phải khác với 10 sao còn lại (được đặt ra để lý quân bình đưọc thỏa).
2. Tử Phủ có liên hệ thực tế rõ rệt (dễ thấy) với hoàn cảnh nhìn thấy trên mặt đất, trong khi Âm Dương có liên hệ (khó thấy) với phần vũ trụ bên ngoài trái đất.
Từ đó có thể suy diễn ra một số tính chất đã biết của 14 chính tinh (và chính là lý do tại sao tôi dám nói Âm Dương Tử Phủ là bốn đế tinh, Tử Phủ lãnh đạo nhóm sao động, Âm Dương lãnh đạo nhóm sao tĩnh).
Từ các luật nhị hợp lục hại, liên hệ hợp xung trên địa bàn v.v… lại suy thêm một số tính chất nữa.
Một số tính chất quan trọng của chính tinh được suy ra từ bài toán kế tiếp, đó là bài toán tứ Hóa.

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao tứ Hóa được định bằng can năm? Tứ Hóa có tác dụng gì?

Xem lại các yếu tố được dùng để xác định vị trí 14 chính tinh ta thấy:

-Tháng và giờ (dùng để xác định vị trí cung mệnh, tức là địa chi của cung mệnh, trên địa bàn).
-Can của các tháng (dùng để xác định can của cung mệnh, rồi phối hợp với chi cung mệnh cho ngũ hành nạp âm, suy ra cục số).
-Ngày sinh (phối hợp với cục số để định vị trí sao Tử Vi).

Tóm lại, thấy có can tháng, chi tháng, ngày, giờ. Tức là mọi yếu tố liên hệ đến tháng ngày giờ đều được xử dụng cả, nhưng yếu tố năm thì hoàn toàn vắng bóng.

Đây là một sự tình cờ hay là hữu ý? Tôi cho rằng hoàn toàn hữu ý. Rõ ràng hơn, tôi cho rằng bài toán Tử Vi được phân ra làm hai vế, một vế lá “ta”, một vế là “ngoại cảnh”. Vế “ta” gồm tháng, ngày, giờ, vế “ngoại cảnh” chỉ có năm mà thôi.

Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một dịp khác. Ở đây chỉ muốn đưa ra luận đề, để có thể tiếp tục đi tới sau khi đã có 14 chính tinh. Theo luận đề này (mà tôi đề nghị) thì 14 chính tinh đại biểu “ta”, sự kiện này chỉ ghi ra cho đầy đủ bởi nó chẳng có gì mới lạ (có lẽ bất cứ ai mới nghiên cứu Tử Vi cũng đều có cảm tưởng rằng quả nhiên trong khoa Tử Vi các chính tinh chính là đại biểu của “ta”).

“Phân biệt” là mục đích của mọi ngành khoa học. Nói nôm na, “phân biệt” là xác định sự khác biệt. Như khi khảo sát hai thực thể, người nghiên cứu sẽ tức thì đặt câu hỏi “chúng giống nhau ở điểm gì? khác nhau ở điểm gì?” Khi khảo sát hai thực thể có vẻ giống nhau, người nghiên cứu phải hỏi “chúng có thật giống nhau không, chúng có điểm nào khác nhau không?”

Nhìn lại các yếu tố xác định 14 chính tinh, câu hỏi của ta là khoa Tử Vi đã phân biệt đến tận cùng hay chưa. Câu trả lời là chưa vì cùng can tháng, chi tháng, ngày, giờ có thể có hai năm khác nhau.

-Tháng khởi ở Giáp Dần có thể là năm Quý hoặc năm Mậu.
-Tháng khởi ở Bính Dần có thể là năm Giáp hoặc năm Kỷ.
-Tháng khởi ở Mậu Dần có thể là năm Ất hoặc năm Canh.
-Tháng khởi ở Canh Dần có thể là năm Bính hoặc năm Tân.
-Tháng khởi ở Nhâm Dần có thể là năm Đinh hoặc năm Nhâm.

Có thể thấy rằng, nhu cầu phân biệt bắt ta phải thêm tác dụng của can năm vào khi khảo sát các chính tinh. Nói cách khác, bước kế tiếp của ta là phải tìm cách nào đó phối hợp can năm với các chính tinh. Vì vị trí chính tinh đều đã định rồi nên can năm chỉ có thể phối hợp với tính chất của chính tinh. Suy ra can năm phải có tác dụng trên tính chất của chính tinh, nói cách khác can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Đó là lý luận sơ khởi dẫn đến bài toán tứ Hóa. Nó cho ta hai kết quả sơ khởi: Một là tứ Hóa phải được định bằng can năm; hai là tứ Hóa có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh.

Kết quả thứ nhất trước nay chúng ta chỉ nhắm mắt xử dụng, nhưng bây giờ thì chúng ta đã tái khám phá ra cái gốc khoa học của nó, tức là chúng ta hiểu tại sao tứ Hóa phải an bằng can năm, mà không thể bằng chi năm, can tháng, chi tháng v.v…

Kết quả thứ hai thì có phần “bất thường” so với lối xem Tử Vi truyền thống của đa số các thầy người Việt, theo đó tứ Hóa là bốn sao quan trọng, nhưng không có gì đặc biệt hơn các sao khác. Kết quả thứ hai đòi hỏi ta phải điều chỉnh lại cách xem này, vì tứ Hóa không chỉ giản dị là bốn sao đóng cùng cung với chính tinh, mà là bốn yếu tố phản ảnh sự đổi thay tính chất của chính tinh, nên không thể tách rời ra khỏi chính tinh được.

(Mỗi làng Tử Vi có ưu khuyết điểm khác nhau, nhưng riêng về cách xem tứ Hóa ưu điểm phải về tay các làng tử vi ngoài Việt Nam, vì họ đã nhìn ra rằng tứ Hóa là một phần bất khả phân của các chính tinh).

VÌ ĐÂU DÁM NÓI THUYẾT CỦA ÔNG TẠ PHỒN TRỊ KHOA HỌC HƠN CÁC THUYẾT KHÁC

Tại sao là tứ Hóa?

Đồng ý là cần thêm yếu tố của can năm vào bài toán chính tinh, đồng ý là can năm có tác dụng thay đổi tính chất của chính tinh ta vẫn có thể hỏi “Nhưng tại sao lại là tứ hóa, tại sao không là bát Hóa, thập Hóa, thập nhị Hóa, hoặc thập tứ Hóa v.v…?” Câu hỏi này quan trọng, vì nếu 4 hóa không phải là câu trả lời hợp lý duy nhất, thì tử vi vẫn có vấn đề trầm trọng khi nhìn dưới nhãn quan khoa học.

Tôi sẽ trở lại câu hỏi này sau.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử Vi hoàn toàn khoa học

Xem tướng ngón tay đoán vận mệnh

Nếu muốn hiểu được vận mệnh của mình cùng người thân thì có thể nhìn vào 10 ngón tay để xem xét. Nam thì xem tay trái, tay phải là phụ. Nữ thì xem tay phải,
Xem tướng ngón tay đoán vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

tay trái là phụ. 

Xem tướng tay để soi rõ vận mệnh:
 

Xem tuong ngon tay doan van menh hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Ngón cái: đại diện cho cha mẹ và khả năng giao tiếp
 
Khi dựng thẳng ngón cái, ngón cái càng cong về phía sau thì người đó năng lực càng cao, tốt nhất là ngón cái có thể cong chạm tới cổ tay. Ngược lại, nếu ngón cái cứng rắn thì người này phản ứng chậm, thường bị động, không có óc hài hước. Ngón cái càng to thì càng tốt, cho thấy người này gia cảnh không tầm thường, có người làm quan lớn.   Ngón trỏ: đại diện cho anh chị em
 
Nếu một người có ngón trỏ dài hơn so với ngón áp út thì rất coi trọng tình cảm, tình yêu. Ngón trỏ càng dài thì càng giàu tình cảm.   Ngón giữa: đại diện cho chính bản thân mình
 
Khi duỗi thẳng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út), thấy vị trí móng tay của 2 ngón trỏ và ngón áp út dài tới ½ móng tay của ngón giữa thì có nghĩa là ngón giữa của người này hơi ngắn. Điều này cho thấy đây là người không có chủ kiến, dễ bị người khác chế ngự, lấn át. Ngược lại, ngón giữa dài càng dài thì người này càng thông minh. Hơn nữa, nếu ngón giữa mềm mại, hơi cong về phía sau còn biểu thị người này tính khí nhẹ nhàng và dịu dàng.
Ngón áp út: đại diện cho vợ chồng

Xem tuong ngon tay doan van menh hinh anh 2
1. Vân tay hình con mắt của Khổng Tử
2. Vân tay hình sóng, hình núi
3. Vân tay hình tròn (hoa tay)
Xem xét vân tay đốt trên cùng của ngón áp út. Vân hình xoắn ốc (hoa tay) biểu thị mối quan hệ vợ chồng tốt đẹp, 2 vợ chồng tương trợ, hỗ trợ nhau rất tốt. Nếu một người có hơn 5 vân tay dạng này trên cả 10 đầu ngón tay thì là người sẽ có tài sản, có gia sản lớn.
 
Vân tay cuộn sóng là tình trạng kinh tế có chút thấp kém. Vân tay dạng núi thì tình cảm bạn bè có chút nhạt nhòa. Vân tay dạng ngang (con mắt của Khổng Tử) là người có duyên với nghiệp sách vở và cũng có năng lực quản lý.   Ngón út: đại diện cho con cháu
 
Người có ngón út dài tới đốt trên cùng của ngón áp út (còn gọi là “Tam quan”) thì là người có quý nhân tương trợ, hoàn cảnh gia đình cũng khá  tốt. Ngón út dài vừa tới Tam quan thì cũng có quý nhân phù trợ, chỉ là ít hơn mà thôi. Có người tay trái (biểu thị cho số mệnh) không quá Tam quan, tay phải (biểu thị cho con người) thì lại quá Tam quan, người này cần phải tự mình cố gắng bằng chính năng lực của mình, làm việc thiện để tích đức thì mới có thể “chiêu” được quý nhân tới giúp đỡ.
Phương Thùy

Phát hiện người có tướng tay nợ nần chồng chất
– Trên các đốt ngón tay xuất hiện nhiều vân dọc, bạn nên coi chừng về phương diện tiền bạc hay công việc sẽ gặp phải không ít khó khăn, phiền

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng ngón tay đoán vận mệnh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd