Người có mệnh Nhị Hắc Cự Môn thích hợp làm nghề gì? –
nuôi trâu bò, mèo…
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
nuôi trâu bò, mèo…
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Xem bói 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Người tuổi Dần dẫn đầu danh sách những con giáp có vận thế mạnh nhất tháng 10 |
Tuổi Mùi là đại diện đầu tiên của con giáp có vận thế kém nhất tháng 10 |
Trong những chương tiết phía trên của cuốn sách này, chúng ta đã biết, bát tự của nam giới lấy chính tài ta khắc hoặc thiên tài là vợ, nhưng chồng trong bát tứ của vợ, lại phải triệt để ngược lại, lấy quan (chính quan) sát (thiên quan) khắc ta là chồng. Cũng vậy, khi xem cho con cái, nam mệnh lấy thiên quan (thất sát) khắc ta là con trai, Chính quan là nữ, còn nữ mệnh thì lấy thực thần ta sinh là con trai, thương quan là con gái.
Do trong xã hội phong kiến, đàn bà mọi việc đều phải dựa vào chồng “chồng lợi thì vợ cũng lợi, chồng khổ thì vợ cũng khổ”, cho nên mệnh cho nữ xấu hay tốt, trước hết phải xem vị trí quan sát của chồng thịnh hay suy để định sang hèn. Tiếp đến phải xem sao của con, vì rằng nuôi con để dựa lúc về già, bởi vì người đàn bà bản thân không có thu nhập, do đó cuối đời vinh hay nhục, toàn dựa vào sao của con xấu hay tốt.
Trong tình hình chung, quan, sát, tài đắc địa, có lợi cho chồng, thực thần đắc địa, có lợi cho con. Chồng có lợi thì xuất thân giàu sang, cả đời hưởng phúc. Con có lợi thì cuối đời được nuôi dưỡng tốt. Do thực thần có thể sinh tài, lại có thể sinh quan. Ví dụ có người chồng can ngày bát tự Ất Mộc sinh ra là Đinh Hoả, sau đó lại do thực thần Đinh Hoả sinh Thổ, Mộc có thể khắc Thổ, cho nên Thổ là tài của Ất Mộc. Tiếp đó lại do Thổ sinh Kim, Kim là quan khắc Ất Mộc. Vì duyên cớ ấy cho nên nữ mệnh phần lớn lấy thực thần, tài, quan làm dụng thần của bát tự. Nếu như quan, sát, tài, thực trong bát tự sinh ra không đắc địa, lại không sinh vượng hoặc là khuyết hàm, khi hành vận lại không bổ sung được, thê thì suôt đời khốn khổ, chẳng nói làm gì.
Lễ giáo phong kiến lại tôn sùng phụ nữ trinh tiết, trưóc sau như một, cho nên trong bát tự nếu thấy quan thì không được sát, nếu thấy sát thì không được thấy quan, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ cần không có sát lẫn vào trong đó, hoặc trong tứ trụ thuần là sát, không có quan tinh lẫn vào, thì đều có thể gọi là con gái nhà lành.
Trong Tam mệnh thông hội của Dục Ngô Sơn nhân đòi Minh soạn, có nói rất kỹ về bát pháp, bát cách của nữ mệnh, xin dẫn giải như sau;
I. Bát pháp
1. Thuần: gọi là thuần có nghĩa là thuần nhất. Ví như quan tinh thuần nhất, sát tinh thuần nhất, có tài (tài có thể sinh quan) có ấn (ấn thụ hộ thân), lại không gặp hình xung như vậy là thuần. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh dưới đây.
Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Bính Thân
Tân Dậu trong bát tự là bản thân, mà Dậu với Tân mà nói, do ư chính ở lộc địa của lâm quan, cho nên bản thân sinh vượng. Ngưòi xưa nói: vượng không theo hoá theo Lý thì thiên can hợp cục, Bính Tân cần phải hoá Thuỷ, bây giờ bản thân duyên lộc, cũng phải hoá mà không hoá. Ở đây sao chồng Tân Kim là chính quan Bính Hoả khắc ta, liên hệ với mệnh này sinh vào tháng Mậu Ngọ đúng vào thời hoà vượng của tháng 5 nông lịch, cho nên sao chồng kiện vượng. Lại liên hệ với can năm Quý Thuỷ, rất khéo hình thành mỗi quan hệ chính quan vói Bính Hoả sao chồng. Trong dụng thần, chính quan là một cát tinh, cho nên rất có lợi cho chồng. Nếu lại liên hệ với can tháng Mậu Thổ lại là cát thần thực thần của sao chồng Bính Hoả, và Bính Hoả cũng Mậu Thổ cùng quy lộc (Lâm quan) đên địa chi Tỵ của trụ năm, có thể nói là khó có được.
Sau khi xem sao chồng lại đến sao con. Tân Kim sinh Nhâm Thuỷ là con, mà thân trong cung con ở chi giờ lại khéo hàm chứa Nhâm Thuỷ mà mối quan hệ của Nhâm Thuỷ với Thân trong 12 cung lại đúng ở vào đất trưòng sinh vạn vật hướng sinh. Hơn nữa thiên can Quý Mậu hợp hoà, Bính Tân hợp Thuỷ, Thuỷ Hoả có tượng ky tế, địa chi Tỵ, Ngọ, Dậu, Thân, Canh Kim trong kỷ, Canh Kim trong than, Tan Kim trong Dậu đều là tài khcí của Bính Hoả sao chồng và Đinh Hoả trong chi tháng Ngọ, cho nên tự nhiên lấy chồng được làm quan mà ăn lộc trời, thuộc về mệnh chồng vinh con sang.
2. Hoà: gọi là Hoà có nghĩa là điềm tĩnh. Ví như trong bát tự bản thân nhu nhược, chỉ có một ngôi sao chồng khắc ta mà tứ chi lại không có thần công phá xung kích, nó liễm được khí trung hoà nên “Hoà” vậy. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh.
Năm Nhâm Thìn Tháng Tân Hợi
Ngày Kỷ Mão Giờ Kỷ Tỵ
Thiên can Kỷ Thổ của trụ ngày trong mệnh là bản thân, Giáp Mộc trong trụ thang hội là sao chồng. Hợi đối với Giáp Mộc mà nói, ở chỗ đất trường sinh vạn vật hưởng vinh. Những điều nói trên gọi là chồng được quan tinh, con đường trường sinh, cho nên chồng vượng, con lợi, còn như Ất Mộc trong chi ngày Mão, tuy là thất sát của bản thân Kỷ Thổ nhưng có Canh Kim trong chi giờ tỵ chế ước, cho nên “lấy sát lưu quan”, là quý tượng trong nữ mệnh.
3. Thanh: gọi la “thanh” có nghĩa là thanh khiết. Trong nữ mệnh, hoặc chỉ có một quan, hoặc chỉ có một sao chồng đắc thời, trong trụ có tài có quan, có ấn trợ thân, không có khí hỗn đục, mới có thể đắc thanh quý. Lấy một ví dụ nữ mệnh như thế này:
Năm Kỷ Mùi Tháng Nhâm Thân
Ngày Ất Mùi Giờ Giáp Thân
Trụ ngày bản thân Ất Mộc, lấy chi ngày chi giờ trong đó thân chinh Canh Kim làm sao của chồng. Thân với Canh mà nói, ở vào lộc địa của lâm quan, cho nên sao chồng đắc thời mà Ất Mộc lấy thực thần Đinh Hoả ta sinh làm sao con, mà trong chi ngày Mùi bản thân lại hàm chứa Đinh Hoả, mà Mùi với Đinh mà nói lại cũng ở vào Vượng địa của lâm quan, cho nên sao con đắc địa. Ất Mộc lấy Nhâm Thuỷ làm chính ấn, mà trị tháng Nhâm Thuỷ lại toạ ở Trung Kim, nguồn thuỷ không thiếu, hơn nữa kỷ Thổ trong chi ngày Mùi lại là thiên
tài do Ất Mộc đưa đến. Như vậy tài vượng sinh quan, tứ trụ lại không có hình xung phá hại.
Thơ rằng:
Tài cung ấn thụ tam ban vật
Nữ mệnh phùng chi tất vượng phu
Cho nên người đàn bà có mệnh là phu nhân, được hai nước phong chức.
4. Quý : gọi là “Quý” là danh hiệu tôn vinh. Trong mệnh có quan tinh và được tài khí trợ sinh, trong tứ chi lại không có hình cung phá bại, đó gọi là nghiêu vũ trong nữ mệnh quý vậy. Sách nói: mệnh mà nhân không sát (thiên quan), quý được làm phu nhân. Lại nói: “nữ mệnh vô sát phùng nhị đức, khả nhị quốc chi phong”. Gọi là Nhị Đức, không chỉ riêng Thiên Đức, Nguyệt Đức, với nữ mệnh mà nói, tài cũng là Đức, quan cũng là Đức nếu lại có ấn thụ, thực thần, như vậy càng thêm tôn quý. Nêu một nữ mệnh dưới đây.
Năm Ất Dậu Tháng Bính Tuất
Ngày Quý Mão Giờ Quý Tỵ
Thiên can trụ ngày Tân Kim, không chỉ lấy can năm Ất Mộc ta khắc làm thiên tài, trước tiên được một đức và lấy Bính Hoả của Canh Kim khắc ta trong can tháng làm quan nhân, mà quan nhân này lại toạ ở một khố tàng vạn vật và Tỵ trong chỉ giờ lại kéo tháng đến làm lộc địa của lâm quan, cho nên lại được thêm một đức. Ngoài hai đức ra, can giờ Quý Thuỷ quý là quan của Bính Hoả chồng. Bản thân Tâm Kim sinh ra Quý Thuỷ là con, mà Thuỷ của con lại toạ ở Tỵ lâm quan, có thể nói “phu lộc đồng vị” hơn nữa can giờ Quý lai gặp chi ngày Mão, được gọi là Thiên Ất quý nhân. Như vậy vừa là quý nhân, lại là tài quan song mỹ, cho nên chồng và con đều phát, cả hai được phong.
5. Trọc: gọi là “trọc” tức là đục mà không trong. Bát tự nữ mệnh nếu xuất hiện ngũ hành mất vị trí, Thuỷ Thổ làm tổn thương nhau, bản thân rất nguy hiểm, ngôi sao đại biểu cho chồng không hiện ra, mà thiên quan lại rối tạp, trong tứ chi lại không có Tài, Quan, An, Thực, những người này phân lớn là kỹ nữ, tỳ thiếp, dâm đãng, ở đây xin nêu lên một nữ mệnh như thế này.
Năm Ất Hợi Tháng Ất Hợi
Ngày Quý Sửu Giờ Kỷ Mùi
Bản thân Quỷ Thuỷ sinh vào tháng 10 tháng Hợi, quá nhiều Thuỷ. Quý Thuỷ lấy Mậu Thổ làm chính quan xem ở chính quan không hiện rõ mà dẫn can giờ Kỷ Thổ làm Thiên phu nhưng mà trong chi ngày Sửu và chi giờ Mùi Kỷ Thổ đều có thiên phu ở hỗn tạp với nhau, hơn nữa trong trụ ngày không có tài, Ất Mộc vốn là thực thần của Quý Thuỷ nhưng Ất Mộc sinh ở can tháng rất khoẻ, Kỷ Thổ bị khắc, như vậy ngũ hành mất vị trí, khó tránh khỏi ma quỷ đến người, trước trong sau đục, không thể hưởng phúc.
6. Lạm: gọi là “lạm” có nghĩa là tham lam, tức là nói trong thiên can tứ trụ có nhiều phu tinh (sao chồng) trong địa chi lại ngầm có tài vượng đái sát. Như vậy khó tránh khỏi tửu sắc vô độ, tư túi đắc tài. Gặp phải mệnh này, nếu không khắc phu tái giá thì thân làm nô tì, vì rằng thái quá hoặc bất cập sẽ đi theo hướng phản diện. Ví dụ mệnh như thế này:
Năm Canh Dần Tháng Bính Tuất
Ngày Canh Thân Giờ Đinh Hợi
Bản thân Canh Kim sinh vào tháng thu, chi ngày lại gặp lâm quan lộc địa, bản thân tự vượng. Trong đó trụ tháng nặng hơn trụ giờ, đáng lẽ Bính Hoả là chồng nhưng chi năm Dần và chi tháng hội thành Hoả cục, ở can giờ lại thấu xuất Đinh Hoả, không tránh khỏi rất yêu Hỏa. Lại như bản thân Canh trong Kim lại ngầm khắc vói chi năm chi tháng Dần Hợi Mộc là tài mà Nhâm Thuỷ trong Hợi lại là cát thần thực thần của Canh Kim, thực thần có thể sinh tài. Vì vậy tuy nói người đàn bà này lớn lên xinh đẹp có phúc, nhưng lại không thiếu lạm dâm mà đắc tài.
7. Xướng: gọi là “xướng” tức là xướng ca vô loài Trong bát tự nếu xuất hiện thân vượng phu tuyệt, quan suy thực thịnh, hoặc trong tứ trụ không thấy quan sát, hoặc có mà bị coi là hung thần thương quan, thương tận, hoặc quan sát hỗn tạp mà thực thần thịnh vượng, những người này nếu không là mệnh kỹ nữ, cũng là ni cô tì thiếp, khắc phu dâm bổn, chỉ ở một mình. Xem mệnh như thê này:
Năm Đinh Hợi Tháng Canh Tuất
Ngày Mậu Thìn Giờ Canh Thân
Can ngày bản thân Mậu Thổ, lẽ ra là phu tinh (sao chồng) khắc ta Giáp Mộc trong chi năm Hợi, nhưng do Mộc này ở vào tháng 9 tháng tuất của mình thu, trong vượng tướng hưu tù tử, ở vào tử thất thời nguyên khí, giờ đây lại gặp can tháng Canh Kim giám lâm, cho nên rõ ràng là khắc tuyệt, lại xem Canh Kim trong chi giờ Thân, lẽ ra thuộc về thực thần của Mậu Thổ, nhưng Thân với Canh mà nói lại là lộc định của lâm quan, cho nên thực thần có lực, hơn nữa Mậu Thìn vốn thuộc sao khôi cương, có lợi cho đàn ông, không lợi cho đàn bà, giờ đây khôi cương chiếu lâm, lại có thể sinh thực, nêu lại kết hợp với Canh Kim của can tháng can giờ thì không tránh khỏi thực thần vượng quá mức. Tuy nói Ất Mộc trong Thìn cũng là sao chồng khắc ta nhưng toạ ở bên dưới Mậu Thổ, không thể thấu xuất, nên không thể lấy để dùng. Ngoài ra Nhâm Thuỷ trong chi năm Hợi, Quý Thuỷ trong chi ngày Thìn, Nhâm Thuỷ trong chi giờ Thân đều là tài của bản thân Mậu Thổ, Mậu Thìn vốn thuộc khôi ải, bản thân cường vượng, bây giờ phu tinh khắc ta đã tử tuyệt mà xung quanh lại đầy những thực thần sinh ta, cho nên gọi là Thân vượng phùng sinh, tham thực tham tài, là một ca nữ xinh đẹp không có chồng.
8. Dâm: gọi là dâm là dâm ô quá mức. Bát tự của loại người này, bản thân tuy nhiên đắc địa nhưng phu tinh (sao chồng) thái quá, tối sáng giao nhau, người mà can ngày thân vượng, trong tứ trụ đều là quan sát thì đúng như vậy. Phu tinh xuất hiện ỏ thiên can gọi là minh, xuất hiện ở địa chi gọi là ám. Ví dụ 1 Đinh 3 Nhâm, hoặc Đinh Hoả đồng thời gặp phải thiên can Nhâm Thuỷ, Quý Thuỷ trong địa chi thìn, Quý Thuỷ trong địa chi Thìn, Quý Thuỷ trong Tý đều là những điền hình về tứ trụ thái quá hoặc minh ám giao nhau. Loại đàn bà đối với đàn ông quả là không thể dung nạp được, nêu một ví dụ:
Năm Mậu Thìn Tháng Nhâm thìn
Ngày Nhâm Tuất Giờ Quý Hợi
Nhâm Tuất trong mệnh và Quý Hợi, một trụ ở vào lộc địa của lâm quan, một trụ ở vào trạng thái đế vượng vạn vật trưởng thành, có thể gọi là bản thân đắc địa. Nhưng ở phu tinh, minh có trụ năm Mậu Thể là chính phu, ám có 3 Mậu Thổ (gồm 2 Thìn một Mậu) thành ám phu của Mậu Thổ, như vậy phu tinh giao tập, dâm hết chỗ nói
II. Bát cách
1. An tỉnh giữ phận: gọi là an tỉnh giữ phận tức là mệnh nữ phụ tinh trong bát tự có khí, can ngày tự vượng. Tài thực được đất, không có hình xung. Hãy xem một mệnh này.
Năm Quý Tỵ Tháng quan Canh Thân
Ngày Ất Mão Lộc Giờ Đinh Hợi
Canh ngày bản thân Ất Mộc, toạ ở chi ngày Mão là lộc địa lâm quan của Ất Mộc mà chi giờ Hợi cũng chi ngày Mão lại phùng hợp cục, cho nên can ngày tự vượng. Lại xem phu tinh, At Mộc lấy Canh Kim khắc ta làm chính quan hay ở chỗ, chi tháng thân ở nơi phu tinh toạ lại thuộc lộc địa lâm quan của Canh Kim mà chi năm Tỵ lại là đất trường sinh của Canh Kim, hơn nữa Nhâm Thuỷ trong chi giờ Hợi là thực thần thiên trù của Canh Kim, nên gọi (chồng) ăn thiên lộc, quan tinh mỹ vượng. Như vậy bản thân, quan tinh đều hưởng vượng khí, hai bên không xâm lấn nhau, tứ trụ lại không có thất sát lẫn vào, vì thế có thể thấy đó là mệnh của một phu nhân an tĩnh giữa phần, hoà nhã lịch thiệp.
2. Phúc thọ đểu đủ: đây là một loại cách cục thân toạ đất vượng, thông với ngụyên khí, can chi phò nhau, tổ hợp hữu tinh, mà Tài Quan Ân thụ đều đắc vị, không làm thóat tài hoại Ân, Thương quan, quả là cách cục thuần tuý. Nếu thân vượng mà vận hành vào đất tài, thực, cũng thuộc mệnh phúc thọ đều đủ. Nêu một ví dụ về nữ mệnh này:
Năm Bính Ngọ Tháng Canh Tý
Ngày Tân Dậu Giờ Quý Tỵ
Can ngày Tân toạ đất Dậu, chuyên lộc tự vượng. Tân Kim lấy Bính Hoả làm quan, mà quan tinh quy lộc ở chi giờ Tỵ, phu tinh đắc địa. Tân Kim lấy Quý Thuỷ là con, can giờ thực thần Quý Thuỷ quy lộc ở can tháng Tý Thuỷ, cho nên tử tinh (sao con) cũng đắc địa. Hơn nữa can chi phò nhau, không làm hại nhau, lại sinh vào Quý thuỷ tháng 11 dương lệch, trở thành tượng Kim Bạch Thuỷ thanh. Như vậy mệnh chủ xinh đẹp đoan chính, phu vượng tử quý, cho nên có thể đoán là một mệnh phúc thọ đều đủ.
3. Vượng phu thương tử: xem nữ mệnh ở vượng phu thương tử, mấu chốt là phải xem trụ ngày, vì rằng giờ là đất quy súc lại. Cách xem: hai sao ca con, dần quy về giờ, phu tinh sinh vượng, tử tinh suy bại vậy lấy một nữ mệnh là ví dụ:
Năm Bính Tuất Tháng Bính Thân
Ngày Đinh Tỵ Giờ Tân Hợi
Ngày sinh Đinh Hoả, toạ ở đế vượng Tỵ, bản thân đắc địa. Đinh Hoả lấy Nhâm Thuỷ chế ta trong chi tháng thân làm quan tinh mà chi giờ Hợi là lộc địa lâm quan của quan tinh Nhâm Thuỷ, chi tháng Thân Kim lại là đất trường sinh của Nhâm Thuỷ. Hơn nữa tháng 7 Kim vượng , Canh Kim trong thân và Tân Kim can giờ cùng với hai thiên can Bính Hoả của can giờ, can tháng là ấn thụ, tài thần của Nhâm Thuỷ quan tinh, cho nên đoán biết ông chồng thông minh phú quý. Đinh Hoả lấy thực thần kỷ Thổ làm chỗ dựa cho con cái bản thân, bây giờ trong trụ kia thấy Kỷ Thổ, cho nên lấy quyền đem Mậu Thổ tàng trong chi là tử tinh. Nhưng đem Mậu Thổ tàng trong chi Quý dẫn về cung chi giờ Hợi, Giáp Mộc trong Hợi là thất sát khắc phạt Mậu Thổ, thế đem Mậu Thổ đặt vào tuyệt địa. Vì rằng tử tinh bị khắc, cho nên trong mệnh khó có con, hoặc có thì cũng khó nuôi.
4. Vượng tử thương phu: về mệnh vượng tử thương phu, có thể từ trụ tháng, trụ giờ mà đoán biết. Quan tinh có khí đắc thời, chồng có thể thanh quư phát phúc; nếu không đắc nguyệt khí, ở trụ giờ lại không có vượng khí, thế thì chồng có thể vì mất khí mất thời mà nguy đến tính mệnh. Lại như tử tinh quy dẫn về giờ, nếu gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng mà không hình khắc, chứng tỏ tử tinh đắc địa mà sinh vượng, phần lớn có thể làm nên. Xin nêu một ví dụ.
Năm Kỷ Mão Tháng Giáp Tuất
Ngày Ất Mão Giờ Mậu Dần
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm chính quan. Sinh vào tháng Tuất, Canh Kim phùng Tuất, ở vào đất suy của nguyên khí, lúc dẫn quy về giờ, chi giờ Dần lại là đất trường sinh của Bính Hoả, mà Thìn Tuát hội cục, đều thuộc Hoả, nên đoán tử tinh hưởng vượng.
5. Thương phu khắc tử: nữ mệnh này, quan tinh và tử tinh mất tháng mất giờ, lại bị khắc tiết, cho nên không đẹp. Xem một nữ mệnh.
Năm Bính Tý Tháng quan Canh Tý
Ngày Ất Hợi Giờ Bính Tý
Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm quan tinh. Bây giờ tháng Tý Kim hàn Thuỷ Lạnh, thực là Tử địa của Canh Kim
khí, trong tứ trụ không có Thổ đến sinh Kim. Cho nên đức ông chồng không lâu bền. Ất Mộc lấy Bính Hoả làm con, dẫn đến Tý cung ở giờ, thuộc về Thuỷ Hoả xung kích, là đất thuỷ vượng Hoả diệt, tuy nhiên năm đến can giờ đều có hai Bính Hoả, làm thế nào chịu nổi Thuỷ ở địa chi tứ trụ tuôn ra, cho nên con cái khó lòng tránh khỏi nguy nan.
6. Thiếu niên chết yểu: sách đoán mệnh cho rằng trong nữ mệnh vốn có quan tinh bị thương, hành vận lại thông đến đất quan, hoặc vô quan kiến thương, hành vận lại lâm đất quan và thân nhược quan sát quá nặng, sát nặng khắc thân, như thế nếu không chết thì cũng dâm ồ làm tràn. Ngoài ra nếu mang theo nhận không bị chế, hành vận lại phù hợp ở đất nhận, cũng không phải điềm lành.
Ví dụ:
Năm Đinh Mão Tháng Quý Sửu
Ngày Canh Thìn Giờ Bính Tý
Bản thân Canh Kim, Đinh Hoả là quan, bây giờ địa chi Tý Thìn và Quý Thuỷ trong Sửu củng là thương quan của quan tỉnh bị khắc chế nên bị hại vì chết đuối.
Lại như:
Năm Ất Dậu Tháng Mậu Tý
Ngày Bính Dần Giờ Kỷ Hợi
Ngày sinh Bính Hoả toạ chi Dần là đất trường sinh của Bính Hoả, đáng tiếc sinh vào tháng Tý giờ Hợi, quan sát quá nặng, giống như vượng Hoả gieo vào Thuỷ Thịnh, cho nên lo lắng sẽ chết khi sinh đẻ Lại xem một bát tự
Năm Nhâm Tý Tháng Quý Mão
Ngày Giáp Tuất Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, cho tháng Mão là Dương nhận, trụ Đinh Mão lại thương quan, Dương nhận, đồng thời địa chi Tý Mão dụng hình, Mão Tuất tương hợp, phu tinh. Tài tinh trong trụ yếu sức, vì vậy ngày Kỷ Mão, tháng Ất Sửu năm Quý Dậu phạm gian dâm mà chết.
7. Chính thiền tự xử: tam mệnh thông hội cũng rất thích thú về cách nói chính thiên tự xử. Sách nói: chính thiên tự xử là gì? là vợ chồng tương hợp, lại gặp Tỷ kiên phân tranh. Nếu một ngôi phù tinh có hai ngôi thể tinh tương hợp, gọi là tranh hợp. Nếu bản thân tự vượng, thân kia lại suy, tứ trụ không xung thì ta chính mà là thiên, nếu thân kia vượng mà ta suy, tứ trụ xung ta thì thân kia vượng mà ta thiên, nêu thân ta vượng hửu khí thì phu theo ta là chính, ta thân suy mà có ngôi vượng khác thì theo ngôi khác, ta ngược lại là thiên. Bảo rằng thân kia vượng, tranh đoạt chồng ta, ta đành phải là thiên, hoặc tự vượng thái quá, trụ không có phu tinh, cũng là thiên, hoặc quan sát hỗn tạp, hoặc thương quan quá nặng, cùng là thiên, càng dâm ô. Hãy xem:
Năm Nhâm Tý Tháng Bính Ngọ
Ngày Tân Dậu Giờ Tân Mão
Bản thân Tân Kim, lấy can tháng Bính là quan tinh. Nhưng Bính lại hợp với can giờ Tân, thì lấy đây là mệnh hai đàn bà tranh một chồng, hay ở bản thân toạ tại lộc địa lâm quan chi Dậu, thân vượng có lực, mà can giờ Tân Kim lại toạ ở tuyệt địa Mão, suy nhược không chịu nổi công kích. Vì vậy kết quả tranh giành ta làm chính thê, còn kẻ kia làm thiếp. Lại như:
Năm Quý Mùi Tháng Nhâm Tuất
Ngày Quý Tỵ Giờ Nhâm Tý
Bản thân Quý Thuỷ, Mậu Thổ là quan. Đáng tiếc Nhâm Tý dựa Thân Thuỷ vượng. Quý Thuỷ Thuỷ nhược, do nhược không thắng vượng, cho nên kê kia thắng ta suy, đành phải làm thứ phòng. Nhưng trụ giờ Nhâm Thuỷ nặng mà tràn trề, toạ chi Tý dưới Nhâm gặp chi năm Mùi, kèm theo đào hoa cho nên kê kia tuy là chính thất (vợ cả) nhưng lại khó tự xử.
8. Chiêu giá bất định: sao lại gọi ,là chiêu giá bất định? Nghĩa là: trong nguyệt lệnh có phu tinh thấu can, tương hợp với kỷ, bản thân Tỵ tòng phục, phu tinh lại là nguyên khí, giờ dần phu tinh, hoặc sát tinh lại thích hưởng vượng địa đê khắc bản thân kỷ, lại tòng phục thiên phu, nên gọi là chiêu giá bất định (gả cưới không khẳng định) nếu phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, hẳn gã chồng chậm, hoặc lấy chồng không minh bạch, hoặc chồng chẳng giúp được gì, hoặc có ngoại tình. Lại như:
Năm Quý Dậu Tháng Giáp Tý
Ngày Kỷ Mùi Giờ Ất Hợi
Bản thân Kỷ Thổ, Giáp Mộc là quan, sinh vào tháng Tý mất thời không vượng. Nhưng chi giờ phùng hợi, hợi là đất trường sinh của Giáp Mộc, quan tinh đương vượng, nhưng can giờ Ất Mộc lại chế bản thân là sát, can ngày toạ Mùi, lại là đất thương khố (kho tàng) của ất Mộc, dẫn đến sát tinh cũng vượng. Như vậỵ, mệnh chủ ở vào trạng thái gả cho Giáp mà biến Ất, gả cho Ất mà biến Giáp, do dự không quyết nên gọi là “chiêu giá bất định”. Bát pháp, bát canh mà sách cổ nói ở trên, ý thức phong kiến nặng nề, mà còn có những lời nói chủ để mua vui, cho nên hy vọng độc giả có con mắt phê phán trong khi nghiên cứu phân tích.
9. Được phong nhất phẩm
Năm tài Đinh Tỵ tài quan ấn
Tháng quan Mậu Thân quan ấn kiếp
Giờ Thực ất mão thực
ơ mệnh này, quan tinh thực thần toạ lộc, ấn thụ đương lệnh phùng sinh, tài sinh quan vượng, không thương ấn thụ, ấn thụ đương lệnh, đủ để phù thân, thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, nhìn xem toàn cục ngũ hành dừng đều, an tường thuần thuý, biết là phu vinh tử quý, là phu nhân nhất phẩm hai đời.
10. Phu quý tử quý
Năm quan Kỷ Tỵ tài sát ấn
Tháng kiếp Quý Dậu ấn
Ngày Nhâm Thìn
Giờ thực Giáp Thìn thương sát kiếp
Thu thuỷ thông nguồn, ấn tinh thừa lệnh, quan sát tuy vượng, chê hoá hợp nghi, hay là giờ can thấu xuất Giáp Mộc, chết sát Thổ thú, một khí thuần tuý, cho nên nhân phẩm đoan trang, giỏi thi thử. Kết hợp hành vận không Hoả, cơ quan không trợ giúp, ấn không bị thương, nên có phu tinh hiển quý, con nối dõi giỏi giang, được vinh hạnh phong hàm nhị phẩm.
11. Nữ trung tài tử
Năm Canh Thìn Tháng Nhâm Ngọ
Ngày Ất Hợi Giờ Quý Mùi
Ất Mộc sinh vào tháng Ngọ, Hoả thế mạnh mà can năm Canh quan nhu nhược, tốt ở chỗ can tháng Nhâm Thuỷ, can giờ Quý Thuỷ thông căn chế Hoả, chi năm Thìn Thổ tiết Hoả sinh Kim, hơn nữa chi tháng Ngọ Hoả sinh chi năm Thìn Thổ, chi năm Thìn Thổ sinh can năm Canh Kim, can năm Canh Kim sinh can tháng Nhâm Thuỷ, Can tháng Nhâm Thuỷ sinh can ngày Ất Mộc, như vậy tiếp tục tương sinh, khiến Hoả trong trụ không mãnh liệt Thổ không táo, Thuỷ không cạn, Mộc không Thổ, cho nên thuần tuý trung hoà, là nữ trung tài tử.
12. Dĩ ân vĩ phu
Ví dụ
Năm Bính Dần Tháng Tân Mão
Ngày Quý Dậu Giờ Mậu Ngọ
Can ngày Quý Thuỷ sinh vào tháng Mão là tháng tiết khí, trong trụ tài quan đều vượng, can ngày nhu nhược, cho nên lấy Ấn tinh phù ta làm phù tinh. Nhìn thấy khắp toàn cục, phù tinh thanh mà đắc nguyệt nên hành vận đến sửu vận, mấy năm liền cung Kim tiết Hoả, sinh liền hai con, về sau vận hành đến Mậu Tý, vì Tý Thuỷ xùng đẫy Đinh Hoả trong chi giờ Ngọ khiến Dậu Kim không bị thương, chồng có tin mừng thi cử đỗ đạt. Nhưng một khi giao vào Đinh Hợi, tài tinh ngược đãi, nên buông tay mà chết. Phân tích mệnh này, bệnh ở tài khí quá vượng, lấy Bính Hoả can năm hợp với Tân Kim can tháng, lấy Đinh Hoả can giờ khắc phá chi ngày Dậu Kim, hơn nữa Dần, Mão dương quyền sinh Hoả, cho nên hành vận một khi đi vào Đinh Hợi, Hợi với chi năm Dần hợp hoá Mộc, giúp dựng lên vượng thần mà Đinh Hoả lại khắc Tân Kim nên không có lộc.
13. Dĩ tài vi tử
Ví dụ:
Năm Bính Thìn Tháng Quý Tỵ
Ngày Đinh Sửu Giờ Giáp Thìn
Đinh Hoả sinh vào tháng Tỵ, Quý Thuỷ phu tinh thanh thấu, Giáp Mộc ấn thụ đẹp đứng một mình, cho nên phẩm cách đoan trang, trinh khiết. Tiếc là Bính Hoả ở can năm chi tháng quá vượng, sinh trợ thiên quan, để bị phá vỡ. Nhưng may lớn trong không may là chi tháng Tỵ cùng chi ngày Sửu hợp thành Kim cục, tài t́nh đắc dụng. Người xưa có câu nói: “Thân vượng tài vi tử, thể suy ấn tác nhi” cho nên lấy tài làm con, dạy con thành danh, về sau do hai con đều quý, được phong tam phẩm.
14. Hình phu nan thủ
Ví dụ:
Năm Đinh Mùi Tháng Ất Tỵ
Ngày Giáp Ngọ Giờ Đinh Mão
Bản thân Giáp Mộc, sinh vào tháng Tỵ, chi thuộc nam phương, can thấu lưỡng Đinh, tương như hoà thế mãnh liệt, khiến cho Giáp Mộc tiết khí thái quá. Trong cục lại không ấn thụ sinh thân. Cho nên chỉ có thể lấy chi giờ Mão Mộc làm dụng thần. Kết hợp đại vận, lúc trẻ nhập Hoả địa. Cho nên chồng chết sớm. Do người này thông minh xinh đẹp, mà lại nông nổi khác thường, về sau một khi vận đến Mậu Thân, tranh chiến cùng Mộc Hoả, nên không thư tiết được.
15. Phu tử tự vằn
Ví dụ:
Năm Mậu Tuất Tháng Kỷ Mùi
Ngày Bính Thìn Giờ Mậu Tuất
Khắp cục thương quan, ngũ hành khuyết Mộc, ấn tinh không thấy, cách thành thuận cục. Người này thông minh xinh đẹp tiếc tứ trụ Kim Thuỷ ít quá, Thổ của thương quan quá khô và dày, mà phu tinh Tân Kim lại mộ ở Tuất, cho nên dâm loạn cực kỳ, chồng gặp hung tai mà chết, về sau theo người khác, không được 2-3 năm lại khắc, chờ đến Ất Mão Mộc vận, phạm vượng của Thổ, tự vẫn mà chết.
16. Khi phu dâm tiện
Ví dụ
Năm Mậu Ngọ Tháng Ất Sửu
Ngày Mậu Tuất Giờ Bính Thìn
Can ngày Mậu Thổ, sinh vào tháng Sửu Kim tàng Thổ vượng, khiến cho can tháng quan tinh Ất Mộc không thể dựa vào gốc, nếu lấy Ất Mộc thông vối chi giờ Thìn khố. Thì Ất Mộc trong Thìn lại gặp Tân Kim trong Mậu khắc phạt, hơn nữa chi năm, chi ngày, can giờ ấn thụ sinh thân, cho nên bản thân cường vượng, đủ để dối gian, đặt phu quân ra bên ngoài. Kết hợp ở tuổi trung niên hành nhập tây phương Kim vận, biết đó là loại đàn bà dâm tiện.
17. Thuỷ tính dương hoa
Ví dụ
Năm Đinh Mùi Tháng Quý Sửu
Ngày Cánh Tý Giờ Đinh Hợi
Hàn Kim hỉ Hoả, đáng tiếc địa chi Hợi Tý Sửu hội thành Thuỷ cục, can tháng Quý Thuỷ khắc can năm Đinh Hoả, Quý Thuỷ trong chi tháng Sửu xung diệt dư khí Đinh Hoả trong Mùi, mà can giờ Đinh Hoả lại do hư thoát vô căn nên không đủ để dùng, hơn nữa ngũ hành tứ trụ thiếu Mộc, cho nên Mùi đủ sức làm sống lại Đinh Hoả mà quản chế Canh Kim. Do vậy, ngày sinh Canh Kim tự hành sự một mình, không đếm xỉa bị Đinh Hoả quản thúc thuộc loại đàn bà thuỷ tính dương hoa.
18. Hợp đa dâm lạm
Ví dụ
Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý
Ngày Tân Tỵ Giờ Bính Thân
Mệnh này, can tháng Nhâm Thuỷ hợp với can năm Đinh sát, can giờ Bính Hỏa đắc lộc ở Tỵ cho nên thân gia đình dòng dõi, đẹp mà khéo, người ta đều gọi bà là “Thái Dương Phi”. Xem cả cuộc đời bà khi 4-5 tuổi xinh đẹp khác thường, cho đến 13-14 tuổi đẹp như người trong tranh, năm 18 tuổi kết vợ chồng với một thư sinh, anh chàng này bình thưòng chăm chỉ học hành nhưng sau khi kết hôn yêu đương đắm đuôi, một năm sau bỏ học, mà cuối cùng mắc bệnh lao mà chết. Sau khi chồng chết, người đàn bà này càng tự do phóng khoáng, cuối cùng thân bại danh liệt, không nơi nương tựa mà đi đến bước đường cùng tự vẫn. Phân tích nữ mệnh này, trong mệnh cục này thiên can địa chi hợp lại quá nhiều, cho nên Nhậm Thiết Tiêu nói: trong thập can của chồng, duy Bính Tân hợp dùng quan hoá thương quan, gọi là tham hợp vong Quan và Tỵ Thân hợp cũng hoá Thương quan, Đinh Nhâm hợp thì ngầm hoá tài tinh, ý là đem Bính Nhâm Hoả đặt ra ngoài muôn đứng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống hồ can chi đều hợp, nên không phải là ý trung nhân. Nhà mệnh lý học cận đại, Viên Thụ Sách là người nổi tiếng đã soạn ra cuốn mệnh lý tham nguyên. Trong quyển 7 bộ sách có ghi hai nữ mệnh mà ông đã đoán, có thể dùng để nghiên cứu nhằm phê phán.
19. Đoán cho bà X
Năm Ất Hợi Tháng Bính Tuất
Ngày Mậu Ngọ Giờ Nhâm Tuất
An mệnh Ất Mậu
5 Đinh Hợi 15 Mậu Tý
25 Kỷ Sửu 35 Canh Dần
45 Tân Mão 55 Nhâm Thìn
65 Quý Tỵ 75 Giáp Ngọ
Ngày sinh Mậu Thổ, lấy can năm Ất Mộc làm phù tinh, lây chi Tuất Canh Kim là Tử tinh. Đang vào mùa thu, Mộc rụng Kim tàng nên phu tinh không vượng, tử tinh không nhiều, nhưng được mệnh cung Ât Dậu trợ giúp cho hai tinh cha con, vẫn làm cho bố con cùng thịnh, huống hồ can giờ Nhâm Thuỷ lại sinh ra Ất Mộc sao? Nếu mệnh mà phu tinh phối với Thuỷ Mộc tương đối nhiều thì nhuần hoà, 3-4 con nối dõi, chỉ hiềm dương nhận hội hợp, không tránh được lao tâm vất vả. Trước 30 tuổi, bực dọc không yên. 10 năm gần đây, hỉ khí đầy nhà, con cái vây quanh. 41 tuổi giao Dần vận, tam hợp hóa Hoả, không thể không táo Thổ, huyết bệnh ở phế gan, cần phải đề phòng, về sau ngoài 44 tuổi Mậu Ngọ, 47 tuổi Tân Dậu bị tổn thương ra, đến 60 tuổi đều mạnh khoẻ như ý, thọ ngoài lục thập hoa giáp.
20. Đoán cho người đàn bà đẹp
Năm Đinh Sửu Tháng Tỵ Dậu
Ngày Mậu Tý Giờ Bính Thìn
An mệnh Giáp Thìn
9 Canh Tuất 19 Tân Hợi
29 Nhâm Tý 39 Quý Sửu
49 Giáp Dần 59 Ất Mão
69 Bính Thìn 79 Đinh Tỵ
Mậu Thổ lấy chi Thìn Ất Mộc làm phù tinh, lấy Tân Kim của Dậu làm tử tinh, giờ Mộc ở mộ địa mà đắc mệnh quan Giáp Thìn trợ giúp, Kim được hợp với năm sửu, tựa như phu vinh tử thịnh vây, nào biết Giáp ở mệnh cùng cũng Kỷ của can tháng hoá Thổ, Tỵ mất tác dụng của Mộc, Sửu Dậu hợp Kim, là kẻ thù của Mộc, không thể coi là con được. Vì vậy chồng khó thọ đến già, con khó thành đạt, trước 23 tuổi còn được, 24 tuổi được đại vận Tân Kim, lưu niên Canh Kim cùng đến đánh phá Giáp Ất, làm Mộc khô mục, chồng bị chết, con không ngăn mà đến. May là ngày sinh Thổ dày, thắng được Thuỷ vận, con người vững như vàng đá, chịu mọi phong sương. Đức hạnh được truyền tụng trong làng xóm, danh nêu trong ấp, đáng trọng đáng kính, thọ ngoài sáu mươi.
Khi xem nữ mệnh thì khác với nam, kẻ phú quý một đời quan tụ, kể thuần tuý tứ trụ hưu tù, nếu đục tràn ngũ hành xung vượng, kẻ mỵ dâm quan sát đan nhau, không quan đa hợp đó là bất lương. Các trụ sát nhiều, không là khắc chế. Ấn thụ nhiều thì già không con, thương quan vượng còn trẻ mất chồng, tứ trụ không thấy phu tinh, không là trinh khiết, ngũ hành nhiều gặp Tý chiếu (chỉ thực thần nhiều) khó tránh hoang dâm, thực thần một ngôi phùng sinh vượng, bảo con đến bái thánh minh, quan sát không tạp gặp ấn phù, lấy chồng sẽ gặp hội thanh vân. Giữ phòng lạnh mà trinh khiết, Kim Trư Mộc hổ (chỉ ngày Tân Hợi, Giáp Dần) tương phùng (hai ngày này tuy khắc phu mà thủ chính), nhà không ngủ một mình, Thổ hầu Hoả Xà (chỉ ngày Mậu Thân, Đinh Tỵ) gặp nhau (hai ngày này khắc phu bất chính). Tài vượng sinh quan, phù thực vô thương mà phu vinh tử quý, quan thực lộc vượng nhất ấn hữu trợ mà sau được sủng ái. Thương quan lặp lại không tài ấn, nhà bại hình phu, quan sát trùng phùng gặp tam hợp, hoang dâm vô sỉ. Hợp nhiều, quan nặng là người tham dâm hiếu sắc. Quan tạp khí suy, thê thiếp ham dục tội chồng. Thân vượng quan hung, không ni cô thì là con hát tôi đòi, thực thần biến đức, trước nghèo hèn mà sau vinh hoa, ngoài ra, lúc xem đoán mệnh còn có một cách nói khắc phu nhảm khí. Dầu tiên, phàm nữ mệnh, ngày sinh ở quan, quỷ, tử, mộ, tuyệt, chủ khắc phu, ví như nữ mệnh sinh ngày Bính Tuất, Canh Tý, tra thiên Ngũ hành Vượng, Tưóng, Hưu, Tù, Tử và 12 cung nói ở trên, Bính gặp Tuất ở trạng thái đúng vào chỗ cuối của đời người mà quy mộ, mà Canh gặp Tý lại ở vào trạng thái đúng vào lúc vạn vật chết, vì vậy đều có thể tìm chồng. Nhưng cũng có người cho rằng, nữ mệnh sinh ngày Tân Mão, tuy phùng tuyệt địa, thì lại đẹp nhiều xấu ít, như vậy khó lòng mà nói khái quát được.
Hơn nữa, nữ mệnh, năm sinh ngày sinh cùng một ngôi thì khắc phu. Năm sinh ngày sinh đái lục Giáp, gọi là đái Giáp, chủ khắc phu, ngày và tháng cùng đái Giáp cũng vậy. Lấy ví dụ nói, nếu nữ mệnh sinh vào năm Giáp Ngọ lại gặp ngày sinh cũng là Giáp Ngọ, thế thì không thể không khắc phu. Dĩ nhiên, đây đều là cách nói không có căn cứ, không đứng vững được, không cần tin.
Điều thú vị là, trong sách đoán mệnh còn có nhiêu ca quyết đoán phụ nữ mang thai, sinh con trai hoặc sinh con gái trong tam mệnh thông hội ghi.
Bảy bảy bốn chín hỏi cô ngày nào có
Trừ năm sinh của mẹ, lẻ là nam chẵn là nữ
Chẵn là nam không bình thường
Thọ mệnh chẳng lâu dài.
Căn cứ bài ca quyết này, lấy 49 làm cơ số, nếu tuổi mẹ là 31 (theo tuổi mụ), tháng mang thai theo âm lịch là tháng giêng, thế thì lúc tính 49+1 (tháng giêng) bằng 50-31 bằng 19, 19 thuộc số lẻ, cho nên con trai. Nếu tính ra số lẻ sinh con trai, số chẵn sinh con gái, nhưng kết quả sinh ra, số lẻ sinh con gái, số chẵn sinh con trai, như vậy trái ngược, thọ mệnh không dài mà chết yểu. Nhưng có điều làm người ta nghi hoặc không hiểu được là, có sách lại đem tuổi mẹ cộng với 19 thế thì ngược hẳn với cách tính mang thai của tam mệnh thông hội.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
26 lời khuyên giá trị mẹ dành cho con gái. Con yêu dấu, khi con sinh ra đời mẹ đã mong muốn những điều tốt đẹp nhất cho con. Và con biết không, có những điều mẹ luôn hi vọng rằng con sẽ không bao giờ phải đối mặt với chúng…
1. Đau khổ vì một kẻ không ra gì
Con gái à, đã là một kẻ không ra gì rồi, thì việc con đau khổ vì kẻ đó cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa cả. Họ hoàn toàn không xứng đáng để con gái của mẹ phải đau đớn nhiều như vậy.
2. Bị chính người bạn của mình phản bội
Người bạn luôn bên cạnh mình, trải qua mọi điều cùng mình lại quay lưng lại phản bội mình… quả thật là một điều đau lòng. Nhưng con gái ơi, có những chuyện phải trải qua rất nhiều thử thách mới có thể giúp con nhận biết đúng đắn về một người. Hãy cảm thấy may mắn vì mình đã sớm nhận ra được sự thật về người tưởng-rằng-thân-thiết lắm.
3. Bị thất vọng với cả thế giới này – một thế giới vốn chẳng thể đổi khác
Ở những bước chân chập chững vào đời, hẳn là cô bé con của mẹ đã có nhiều mong mỏi, hy vọng đầy màu hồng. Thế nhưng, cuộc sống lại luôn đem đến cho con những thất vọng, hết lần này đến lần khác. Con có quyền vấp ngã và cảm thấy thất vọng. Và rồi mọi thứ vẫn tiếp diễn, con phải đứng lên và lại tiếp tục bước đi. Ngồi đó ôm nỗi thất vọng chỉ khiến con trở nên hèn nhát và yếu đuối mà thôi.
4. Tuyệt vọng với câu nói “con không thể”
Con gái bé bỏng của mẹ, chắc con không biết rằng, ngày sinh con, mẹ đã liên tục gào lên rằng “tôi không thể làm được” vì đau đớn. Mẹ đã muốn bỏ chạy hết tất cả. Thế nhưng, rồi mẹ đã nghe được tiếng con òa khóc. Đó là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong đời mẹ. Mẹ chỉ muốn nói con biết rằng, chỉ cần thực sự cố gắng, mọi nỗ lực sẽ được đáp đền.
5. Ganh tị với những người không có gì ngoài vẻ đẹp giả tạo
Hãy tự hào với vẻ đẹp vốn có của con, vì nó là duy nhất và tự nhiên nhất! Và xin lỗi con, cô gái của mẹ. Mẹ xin lỗi vì đã không thế sinh con ra với vẻ đẹp kiêu sa. Nhưng mẹ hứa, mẹ sẽ luôn bên cạnh và giúp con trở thành cô gái xinh đẹp nhất, cả nhan sắc lẫn tính tình.
6. Tự ti trước những lời phán xét và nghĩ rằng mình vô dụng vì những lời “cáo buộc” như thế
Nếu con cũng nghĩ mình vô dụng thì hoá ra họ nói đúng à? Tự tin lên nào con gái. Hãy nhìn vào con lật đật – món đồ chơi ngày bé của con. Dù cho con có nghiên lật đật thế nào, thì nó cũng sẽ bật dậy mạnh mẽ và lại đứng thật vững vàng. Hãy làm một con lật đật trước những gièm pha, phán xét của người đời, con nhé!
7. Cảm thấy không an toàn ngay cả với chính những người phụ nữ xung quanh
Các cô gái vốn có quá nhiều ganh ghét với nhau. Nhưng con xứng đáng để được yêu thương chứ không phải cạnh tranh và lo sợ khi ở cạnh họ.
8. Quá thần tượng vào vẻ hào nhoáng của truyền thông mang lại
Các nghệ sĩ luôn xuất hiện long lanh, nhưng chỉ là trên truyền hình thôi con ạ. Vì cuộc đời này không ai “cho không, biếu không” điều gì. Đằng sau những hào nhoáng đó, là rất nhiều “cái giá” phải đánh đổi. Tất cả chúng ta đều có một cuộc đời riêng và không thể mãi bóng bẩy thế được đâu con.
9. Gặp phải những tên đàn ông chẳng biết gì về vẻ đẹp sâu sắc thật sự
Sẽ có những lời nói gieo rắc vào con rằng đàn ông chỉ chú trọng vẻ bề ngoài. Nhưng con biết không, đó chỉ là những kẻ tầm thường không biết đến cái gọi là “vẻ đẹp thật sự” – thứ chỉ có thể xuất phát từ sâu thẳm bên trong mỗi người.
10. Lo sợ những điều không thể gọi tên
Nếu đã không thể chỉ mặt đặt tên, tại sao chúng ta phải lo sợ con nhỉ? Những cảm giác lo sợ vô hình đó chỉ khiến con càng thêm hoang mang, lo lắng mà thôi.
11. Bị những sai sót quấy nhiễu
Chẳng bất kì ai trên đời này là hoàn hảo cả. Và nếu con mắc sai lầm thì cũng chẳng sao đâu con gái ạ. Quan trọng là học từ những sai lầm mà tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Càng dày dạn kinh nghiệm, con sẽ càng vững vàng hơn.
12. Thất vọng trước những lời-hứa-được-bảo-vệ
Sẽ có những lời hứa từ những người con đặt niềm tin rằng sẽ không bỏ rơi con khi khốn khó, và rồi lời hứa bị phá vỡ. Con yêu dấu, hãy luôn biết tha thứ. Và trước hết, quan trọng hơn, mẹ muốn con học cách tự bảo vệ mình. Vì không cha mẹ nào có thể bên con dài lâu mà che chở cả. Đừng ngồi đó mà trông chờ được bảo vệ. Không ai tốt với mình hơn chính mình đâu con.
13. Xấu hổ về vóc dáng
Có vẻ như không bất kì một cô gái nào lại không có những nỗi lo sợ, xấu hổ về vóc dáng của mình cả. Con gái cưng, mẹ đã từng rất xấu hổ khi vòng eo lại to ra, còn chân thì chỉ có một khúc. Thế nhưng, vóc dáng không nói lên được vấn đề gì cả con ạ. “Mập đẹp, ốm dễ thương, cao sang, lùn quý pháí”, hãy yêu bản thân mình và đừng hành hạ nó với những lần giảm cân khổ sở nữa. Mẹ chỉ mong con gái mẹ luôn sống thật khỏe mạnh mà thôi.
14. Những cuộc gọi quấy nhiễu từ những gã xung quanh
Và mẹ mong con biết cách cho họ biết đâu là phép lịch sử tối thiểu của một người văn minh!
15. Làm việc trong môi trường bất bình đẳng giới
Chắc chắn sẽ rất khắc nghiệt khi thế giới mỗi ngày đều phải đấu tranh và con thì quá nhỏ bé. Tuy nhiên đừng bỏ cuộc, hãy chứng tỏ rằng dù là nữ giới nhưng con không yếu đuối con nhé.
16. Đánh rơi những khoảnh khắc vì nỗi lo tương lai
Hãy tận hưởng hiện tại, tương lai mãi là ẩn số mà con chẳng thể nào lo lắng được đâu.
17. Cảm thấy tồi tệ với những điều con không thể thay đổi
Đây chính là lúc con phải học cách chấp nhận và cho bản thân được thử thách. Cuộc sống luôn thay đổi, và chúng ta cũng không ngoại lệ đâu con à.
18. Tức giận về những điều không đáng
Đã là không đáng thì sao còn phải tức giận về nó, phải không con? Việc bực tức sẽ khiến con gái của mẹ nhăn nhó, cau mày. Lúc đó, đến cả mẹ cũng phải thừa nhận rằng, trông con thật xấu xí đấy, bé con.
19. Nghi ngờ khả năng của bản thân
Nếu con còn không tin mình có thể thì còn ai khác dám làm điều này đây?
20. Bị những căng thẳng của cuộc sống hàng ngày uy hiếp
Ai cũng bị chúng “uy hiếp”, nhưng con sẽ phản kháng thế nào đây cô bé?
21. Không tin vào lòng tốt của con người
Mẹ biết thế giới thật khắc nghiệt, nhưng đừng để lòng tin biến mất. Thế giới luôn có đủ người tốt để con yên tâm sống. Và trước hết, chính con cũng nên là một người tử tế và chân thành.
22. Rơi nước mắt vì những điều không đáng
Cuộc sống đã có quá nhiều điều buồn khổ, hãy lưu giữ nước mắt cho những thứ xứng đáng hơn. Hoặc nếu con có muốn khóc, hãy quay về ôm lấy mẹ con nhé.
23. Ám ảnh bởi vật chất và tình dục
Đây chính là nỗi ám ảnh tưởng chừng như kinh hoàng nhất. Nhưng mẹ biết con đủ tỉnh táo để vượt qua, nếu con cố gắng sống bằng một tâm hồn yêu đời, tràn ngập đức tin.
24. Bận tâm với những kẻ tồi tệ
Như mẹ đã nói, đã gọi là kẻ-tồi-tệ, thì đừng phí công bận tâm đến làm gì cả, con gái à. Mẹ mong con sẽ biết đâu là những điều tốt đẹp mà con nên chú tâm đến, hơn là phí hơi sức cho những kẻ-tồi-tệ hoàn toàn không xứng đáng.
25. Hối tiếc về những việc con đã không làm
Đừng lãng phí tuổi trẻ, hãy làm tất cả những gì con có thể.
26. Cảm giác rằng con không xứng đáng với cuộc sống này
Ngay từ khi mẹ sinh ra con, trao cho con một vóc hình, con vốn đã vô cùng xứng đáng với cuộc sống này, con yêu dấu. Và mẹ còn nhiều điều lo lắng khác tưởng chừng như không bao giờ là đủ. Nhưng con yêu dấu, mẹ luôn có niềm tin với con, tin rằng con đủ mạnh mẽ để có thể đối diện và giải quyết chúng, con gái của mẹ. Những lúc quá tuyệt vọng và mệt mỏi, hãy trở về, gia đình mình vẫn luôn bên cạnh, che chở cho con.
► Mời các bạn xem tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác |
- Lê Tuyết Đào: Hoa lê nở trắng sân, giống như làn sóng tuyết trắng cuồn cuộn chảy, mang hình ảnh và khí thế sống động, nên thơ.
- Phan Liễu Phong: Gió thổi cành dương liễu đưa nhè nhẹ dưới nắng xuân man mác.
- Trần Ngọc Lâm: Trong đá có ngọc, trong ngọc có đá. Khi đất trời còn hỗn hợp, chưa khai phá thì gọi là Thạch Ngọc Lâm, ý tại ngôn ngoại.
- Phạm Bích Nguyệt: Ánh trăng tròn sáng trong như ngọc chiếu xuống mặt nước, như rắc ánh vàng, khi tròn khi vỡ. Giang Nguyệt có nghĩa gốc của từ Thiên Nguyệt, song, Thiên Nguyệt hàm chứa triết lý sâu sắc hơn.
Hình tượng Nguyệt - ánh trăng tròn sáng trong |
- Trần Chính Bình: Vuông vắn, thẳng thắn, vững chắc. Có vuông (Phương) mới có thẳng (Chính), có thẳng mới có vuông, chúng hỗ trợ cho nhau.
- Mai Điệp Xuyên: Hoa bướm và dòng nước hòa vào nhau, làm mê đắm lòng người.
- Nguyễn Vân Thiên: Đường nối với mây, đường xa mây theo che, mây trắng bay khắp trời, đường nối lên trời xanh, bức tranh cưỡi mây lên trời rất đẹp.
- Cao Mã Sơn: Trâu ngựa từng đàn khắp núi đồi, nước suối chảy róc rách, cỏ xanh mơn mởn.
- Phạm Vũ Điền: Sấm sét dẫn đến mưa, mưa rơi ruộng đồng, cây lúa trên đồng vui cười cùng gió, mưa thuận gió hòa hứa hẹn mùa xuân đẹp.
- Nguyễn Lương Xuyên: Mọc trên đất là cốc, gặt hái rồi là lương. Nhà nông cần cù đón năm được mùa ngũ cốc, lương thực đầy kho, xe trên đường, thuyền trên sông chở đầy lương thực.
Họ tên ghép theo hình tượng đem đến hình ảnh mới lạ, gợi ý liên tưởng, nội dung phong phú, hàm chứa triết lý sâu sắc. Khi đặt tên theo phương thức "ghép 3 hình tượng", cần chú ý 3 điều. Thứ nhất, nó phải mang hình tượng cụ thể, ý nghĩa rõ ràng. Thứ hai, 3 hình tượng đó phải có mối liên quan mật thiết với nhau. Thứ ba, những từ để ghép thành hình tượng phần lớn là những từ biểu thị sự vật cụ thể, biểu lộ sắc thái nhất định. Người đặt tên cũng cần hết sức chú ý đến chúng.
Theo Khoa học và nghệ thuật đặt tên...
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật |
Theo quan niệm phong thủy về hướng nhà, cửa chính của ngôi nhà hợp với tuổi của chủ nhân ngôi nhà sẽ mang đến nguồn năng lượng tốt nhất. Tuy nhiên, khi xây cất nhà cửa, đôi khi bất đắc dĩ mà hướng cửa này không thuận với tuổi của gia chủ.
Chuyên gia phong thủy Phạm Cương nhận định: "Đối với những căn nhà không hợp tuổi phong thủy với gia chủ có thể chỉnh sửa được 70 – 80%". Để khắc phục, mời bạn tham khảo một số cách đơn giản dưới đây, theo gợi ý của nhóm nhà nghiên cứu phong thủy Trần Đức Thịnh, Nguyễn Văn Trình:
Sử dụng một cửa khác thường xuyên hơn
Một cách đơn giản và điển hình để đối phó với hướng phong thủy xấu hoặc không thuận là làm suy yếu yếu tố phong thủy của nó. Nếu cửa chính là bạn có hướng phong thủy không may mắn, các kiến trúc sư thường đưa ra lời khuyên xây thêm một cửa phụ ở hướng khác.
Lúc này cửa chính chỉ mang tính chất tượng trưng, việc sử dụng cửa phụ thường xuyên hơn sẽ có tác dụng phong thủy ngăn nguồn năng lượng tiêu cực không có cơ hội lọt sâu vào nhà bạn. Giải pháp này không quá phức tạp và dễ thực hiện.
Trong dòng sông dài lịch sử, vô số câu chuyện đã được lưu giữ lại, truyền lại từ đời đời. Phảng phất đâu đó là hiện thực cuộc sống, những câu chuyện này mang đến một bức tranh thế giới cổ xưa làm say đắm lòng người.
Thời Xuân Thu, Tần Mục Công nước Tần có một cô con gái; lúc cô bé mới được sinh ra, có người đem dâng Tần Mục Công một viên đá ngọc bích, ông sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc xanh biếc trông rất đẹp.
Ðến hôm con gái Mục Công tròn 1 tuổi, trong cung bày bàn tiệc tổ chức ngày lễ “chọn đồ vật đoán tương lai” cho cô bé. Đây là một tập tục của người xưa, đến ngày tròn 1 tuổi, cha mẹ sẽ bày lên một cái đĩa bao gồm các đồ vật để con tự do lựa chọn theo sở thích của mình. Lúc này, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.
Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại sẵn tính thông minh trời ban, rất có tài thổi sáo, không cần học ai cả, mà tự thành âm điệu, hơn nữa nàng không cứng nhắc theo chỉ dạy của nhạc sỹ, mà tự thả hồn theo âm nhạc, tiếng sáo nghe rất tuyệt diệu. Mục công sai thợ làm một cái sáo bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi cái sáo ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng.
Mục Công rất yêu quý con gái, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là “Phượng lâu”, trước lầu có xây một cái đài cao gọi là “Phượng đài”. Năm Lộng Ngọc mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kén rễ cho nàng, Lộng Ngọc nói với cha rằng:
“Con muốn tìm người có tài thổi sáo và có thể họa xướng cùng với con, khi đó con sẵn lòng lấy người ấy làm chồng, còn không thì con cũng chẳng thiết tha gì”.
Mục Công sai người đi tìm nhưng chẳng được một người nào vừa ý. Một hôm, Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, nàng gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi lấy cái sáo bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sáo véo von vọng lên vòm trời, gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không khỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, cố ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn vang vọng không dứt.
Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nửa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sáo để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mở rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trai trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:
“Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy!”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói xong, lấy tay cởi bỏ ống ngọc tiêu đeo bên hông xuống, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.
Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm hồn, hỏi rằng: “Ca khúc này là gì?”
Chàng trai trẻ tuổi ấy nói: “Đây là khúc ‘Họa Sơn Ngâm’ đó!”
Lộng Ngọc lại hỏi: “Ca khúc này có học đưọc không?”
Chàng trai ấy nói: “Khi ta đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được”.
Chàng trai trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt, cầm lấy tay của Lộng Ngọc; Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục Công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Người nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:
“Hôm rằm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không rõ là người ở đâu”.
Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thường, mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:
“Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?”
Mạnh Minh nói:
“Tôi là đại thần nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi sáo, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công sai tôi đến đón!”
Tiêu Sử nói: “Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết đôi chút về nhạc điệu mà thôi, tôi đâu dám vâng mệnh”.
Mạnh Minh nói: “Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công”.
Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục Công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục Công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng: “Chúng thần ở nơi dân giã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho”.
Mục Công thấy Tiêu Sử dung mạo thanh tú, không phải là người thường, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng: “Ta nghe nhà ngươi có tài thổi tiêu, chắc là cũng tài thổi cả sáo nữa!”
Tiêu Sử nói: “Thần chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi sáo”.
Mục công nói: “Ta định tìm một người có tài thổi sáo, nếu chỉ biết thổi tiêu thì không sánh đôi với con ta được!”
Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử đi ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục Công rằng:
“Tiêu với sáo cũng là một loài, người ta đã có tài thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài”.
Mục Công lấy làm có lý, bèn bảo Tiêu Sử thổi tiêu. Tiêu Sử mới dạo một khúc thì thấy có gió mát hây hây; thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổng tước bay về, và các giống chim kêu ríu rít; một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục Công rất lấy làm hài lòng.
truyền thuyết, tiêu sử, tiêu, tiếng sáo, mục công, lộng ngọc, chuyện tình,
Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng: “Người ấy thật xứng làm chồng ta!”
Mục Công lại hỏi Tiêu Sử rằng: “Nhà ngươi biết sáo và tiêu làm ra từ đời nào không?”
Mục Công nói: “Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguồn gốc cho ta nghe”.
Tiêu Sử tâu rằng:
“Kỹ năng của thần là ở ống tiêu, vậy thần xin kể nguyên lai của ống tiêu: Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu.
Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa”.
Mục Công lại hỏi: “Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?”
Tiêu Sử nói:
“Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là dẫn đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác!”
Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục Công càng thấy bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:
“Ta có một người con gái, tên gọi Lộng Ngọc, cũng có biết âm nhạc, không muốn gã cho người ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên”.
Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:
“Thần vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý!”
Mục Công nói:
“Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi sáo thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi sáo nhiều lắm. Vả lại con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rằm tháng tám, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ”.
Tiêu Sử lạy tạ. Mục Công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:
“Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn”.
Tần Mục Công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến Phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục Công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chính cả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được thần thái của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm.
Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau chừng được nửa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.
Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:
“Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống làm họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này. Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi”.
Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng: “Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng!”
Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng Ngọc cưỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục Công. Mục Công thở dài mà than rằng:
“Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vị nữa !”
Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, công tôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục Công đều cho làm quan đại phu.
Một hôm, Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón. Mục Công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cảm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục Công đã đắc đạo thành tiên.
Theo truyền thống, việc lấy tên các loại hoa quý, thanh thoát như: Mai, Lan, Trúc, Cúc, Quế, Chi… để đặt tên cho con gái là rất phổ biến. Để bé yêu của bạn có được tên gọi độc đáo từ các loài hoa quý này, bạn cần chú ý tìm từ đệm đặc sắc và phù hợp với tên loài hoa mà mình đã chọn.
Chọn tên cho bé gái phải tóat lên sự dịu dàng, nữ tính |
Những tên có gắn với từ nói nói về vật quý dùng làm trang sức đẹp như: Ánh Hà, Thái Hà, Đại Ngọc, Ngọc Hoàn, Linh Ngọc, Ngọc Liên, Trân Châu… cũng đã được các bậc cha mẹ khai thác nhiều với dụng ý con mình quý giá như chính các vật phẩm ấy.
Nếu chọn cho con gái mình một cái tên dễ gợi liên tưởng đến màu sắc đẹp, trang nhã, quý phái như: Yến Hồng, Bích Hà, Thục Thanh, Hoàng Lam, Thùy Dương… thì hẳn cô công chúa của bạn sẽ có được sắc đẹp của những sắc màu đó.
Dùng những chữ thể hiện phẩm hạnh đạo đức, dung mạo đẹp đẽ để đặt tên như: Thục Phương, Thục Lan, Thục Trinh, Thục Đoan, Thục Quyên, Đoan Trang… cũng rất được ưa chuộng.
Ai cũng yêu thích những mùi hương ngọt ngào, quý phái. Vì vậy, dùng những từ gợi mùi hương quyến rũ như: Quỳnh Hương, Thục Hương, Hương Ngọc, Thiên Hương… là một gợi ý hay để đặt tên cho con gái của bạn.
Theo Tên hay thời vận tốt
► Mời các bạn tham khảo thêm: Nhân tướng học và sự liên quan tới số mệnh |
1. Tuổi Tỵ
Thời gian: tổ chức vào ngày mùng 2 tháng 8 âm lịch.
Địa điểm: huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Thành Hoàng Làng là nhị vị công chúa Áo Đỏ Đại Vương.
Nội dung: Hội Mai Viên có lễ dâng hương cúng Thành hoàng được diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm. Lễ vật dùng để dâng cúng là: lợn đen, xôi, rượu. Phần hội cũng khá đông vui, nam nữ thanh niên tổ chức các tiết mục liên hoan văn nghệ.
Những câu nói hay nhất về hạnh phúc trong cuộc sống. Qua bài viết này các bạn sẽ đọc được những câu nói hay nhất về hạnh phúc của các tác giả, nhà triết học nổi tiếng trên thế giới, những quan điểm về hạnh phúc đời sống hay nhất.
Cuộc sống của mỗi người thì ít nhiều gì cũng sẽ có hạnh phúc về vật chất cũng như tinh thần. Các bạn hãy đọc và suy ngẫm những câu nói nổi tiếng, câu nói hay về hạnh phúc trong đời sống dưới đây nhé.
1. Khi tôi ở một mình, tôi hạnh phúc.
When I am alone I am happy.
William Carlos Williams
———-
2. Người ít hiểu biết về bản chất con người tới nỗi muốn đi tìm hạnh phúc bằng cách thay đổi bất cứ thứ gì khác ngoài tâm tính của chính mình sẽ chỉ phí hoài cuộc đời trong những nỗ lực vô vọng.
He who has so little knowledge of human nature as to seek happiness by changing anything but his own disposition will waste his life in fruitless efforts.
Samuel Johnson
3. Hạnh phúc không có nghĩa là mọi việc đều hoàn hảo. Nó có nghĩa là bạn đã quyết định nhìn xa hơn những khiếm khuyết.
Being happy doesn’t mean that everything is perfect. It means that you’ve decided to look beyond the imperfections.
Khuyết danh
4. Nhiều người có ý tưởng sai lầm về điều sản sinh ra hạnh phúc đích thực. Nó không đạt được qua sự tự thỏa mãn mà qua sự trung thành với một mục đích đáng giá.
Many persons have a wrong idea of what constitutes true happiness. It is not attained through self-gratification but through fidelity to a worthy purpose.
Helen Keller
5. Không dễ để tìm hạnh phúc trong bản thân mình, và không thể tìm thấy nó ở đâu khác.
It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.
Agnes Repplier
6. Hạnh phúc là người thầy hà khắc, đặc biệt là hạnh phúc của người khác.
Happiness is a hard master, particularly other people’s happiness.
Aldous Huxley
7. Thu nhập cao là công thức tốt nhất cho hạnh phúc mà tôi từng biết.
A large income is the best recipe for happiness I ever heard of.
Jane Austen
8. Hãy kiên quyết đừng để mình trở nên nghèo túng: hãy sử dụng ít hơn bạn có. Sự nghèo túng là kẻ thù lớn đối với hạnh phúc của con người; nó phá hủy tự do, và nó khiến một vài đức hạnh trở thành không thực tế, và số còn lại cực kỳ khó khăn.
Resolve not to be poor: whatever you have, spend less. Poverty is a great enemy to human happiness; it certainly destroys liberty, and it makes some virtues impracticable, and others extremely difficult.
Samuel Johnson
9. Làm thế nào để có, để giữ, và để tìm lại hạnh phúc thực ra đối với hầu hết người đời ở mọi thời đại là động lực bí mật của tất cả những gì họ làm, và tất cả những gì họ sẵn sàng chịu đựng.
How to gain, how to keep, how to recover happiness is in fact for most men at all times the secret motive of all they do, and of all they are willing to endure.
William James
10. Hãy dừng bước để chắc chắn mọi điều bạn đang làm lúc này thực sự là điều sẽ khiến bạn hạnh phúc. Bạn không thể chỉ sống vì một vài mục tiêu nào đó trong tương lai và để nó trở thành tất cả. Bởi đó là điều một số người làm. Họ bước lên con đường và có vô số tấm biển nói, ‘Đường này. Đường đó.’ Nhưng sẽ ra sao nếu bạn tới nơi, bạn đạt được đúng những điều mình muốn, cũng như họ, chỉ có điều tất cả những gì không ổn thì vẫn không ổn. Nếu thế thì sao?
Stop and make sure that everything you are doing right now is really what makes you happy. You can’t just live for some goal in the future and have that be everything … have that be it. Because that is what some people do. They get on this road and there are all these signs saying, ‘This way. That way.’ But what if you get there, you get exactly what you wanted, like some people do, except all the things that were wrong, are still wrong. Then what?
Khuyết danh
11. Hành động có thể không mang tới hạnh phúc, nhưng không có hạnh phúc nào lại thiếu hành động.
Action may not bring happiness but there is no happiness without action.
William James
12. Sự tồn tại là cuộc mặc cả lạ lùng. Đời nợ chúng ta thì ít mà chúng ta thì nợ đời tất cả. Hạnh phúc thực sự duy nhất đến từ việc cống hiến hết bản thân vì một mục tiêu nào đó.
Existence is a strange bargain. Life owes us little; we owe it everything. The only true happiness comes from squandering ourselves for a purpose.
William Cowper
13. Anh không thể nói anh hạnh phúc nếu anh không thắng cuộc.
You cannot say that you are happy when you don’t win.
Arsene Wenger
14. Cả giàu sang lẫn sự vĩ đại đều không thể mang cho chúng ta hạnh phúc.
Neither wealth or greatness render us happy.
La Fontaine
15. Anh không bao giờ nên hướng con người về hạnh phúc, bởi hạnh phúc cũng chỉ là sự sùng bái của thị trường. Anh nên hướng con người tới sự yêu thương lẫn nhau. Dã thú giày vò con mồi cũng có thể hạnh phúc, nhưng chỉ loài người có thể yêu thương lẫn nhau, và đây là thành tựu cao nhất con người có thể mơ ước đạt tới.
One should never direct people towards happiness, because happiness too is an idol of the market-place. One should direct them towards mutual affection. A beast gnawing at its prey can be happy too, but only human beings can feel affection for each other, and this is the highest achievement they can aspire to.
Aleksandr Solzhenitsyn
16. Niềm hạnh phúc to lớn nhất của mọi cuộc đời là sự cô độc bận rộn.
The happiest of all lives is a busy solitude.
Voltaire
17. Hạnh phúc của một người là kết quả nỗ lực của chính anh ta, một khi anh ta đã biết nguyên liệu cần thiết của hạnh phúc chỉ là một ít can đảm, sự tự chối bỏ ở mức độ nhất định, tình yêu công việc, và trên hết, một lương tâm trong sạch.
One is happy as a result of one’s own efforts once one knows the necessary ingredients of happiness simple tastes, a certain degree of courage, self denial to a point, love of work, and above all, a clear conscience.
George Sand
18. Tiền bạc chưa bao giờ và sẽ không bao giờ khiến con người hạnh phúc, trong bản chất nó không có gì có thể tạo ra hạnh phúc. Một người càng có nó nhiều bao nhiêu càng muốn nó nhiều bấy nhiêu.
Money has never made man happy, nor will it, there is nothing in its nature to produce happiness. The more of it one has the more one wants.
Benjamin Franklin
19. Bạn được tha thứ cho hạnh phúc và thành công của mình chỉ khi bạn sẵn sàng hào phóng chia sẻ chúng.
You are forgiven for your happiness and your successes only if you generously consent to share them.
Albert Camus
20. Để hạnh phúc, chúng ta không được để tâm quá nhiều đến người khác.
To be happy, we must not be too concerned with others.
Albert Camus
21. Cuộc sống đồng điệu giữa những người yêu nhau là hạnh phúc lý tưởng.
Life in common among people who love each other is the ideal of happiness.
George Sand
22. Hạnh phúc của xã hội là kết thúc của sự cai trị.
The happiness of society is the end of government.
John Adams
23. Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc.
There is only one passion, the passion for happiness.
Denis Diderot
24. Những người thật sự yêu nhau không viết ra niềm hạnh phúc của mình.
Lovers who love truly do not write down their happiness.
Anatole France
25. Hạnh phúc giống như một nụ hôn… bạn phải chia sẻ nó để tận hưởng nó.
Happiness is like a kiss…you must share it to enjoy it.
Khuyết danh
26. Chiếc bàn, cái ghế, bát hoa quả và cây đàn vi ô lông; còn cần gì hơn cho hạnh phúc?
A table, a chair, a bowl of fruit and a violin; what else does a man need to be happy?
Albert Einstein
27. Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu bạn tiếp tục tìm kiếm thành phần của hạnh phúc. Bạn sẽ không bao giờ sống nếu bạn vẫn tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời.
You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. You will never live if you are looking for the meaning of life.
Albert Camus
28. Thế giới đầy những kẻ mà quan điểm về một tương lai thỏa mãn thực chất là sự quay trở lại quá khứ đầy lý tưởng.
The world is full of people whose notion of a satisfactory future is, in fact, a return to the idealised past.
Robertson Davies
29. Hạnh phúc không phụ thuộc vào điều kiện bên ngoài, thái độ tinh thần của chúng ta điều khiển nó.
Happiness doesn’t depend on any external conditions, it is governed by our mental attitude.
Dale Carnegie
30. Không ai hạnh phúc nếu không nghĩ mình hạnh phúc.
No man is happy who does not think himself so.
Publilius Syrus
31. Một nửa thế giới không thể hiểu hạnh phúc của người khác.
One half of the world cannot understand the pleasures of the other.
Jane Austen
32. Để sống, chúng ta phải tranh đấu không ngừng, chúng ta phải có lòng can đảm để hạnh phúc.
To live we must conquer incessantly, we must have the courage to be happy.
Henri Frederic Amiel
33. Hạnh phúc giống như những lâu đài trong chuyện cổ tích với cổng được rồng canh gác: chúng ta phải chiến đấu để chinh phục nó.
Happiness is like those palaces in fairy tales whose gates are guarded by dragons: we must fight in order to conquer it.
Alexandre Dumas
34. Hạnh phúc trong cuộc đời không phụ thuộc nhiều vào điều xảy ra với bạn bằng cách mà bạn đón nhận nó.
The happiness of this life depends less on what befalls you than the way in which you take it.
Elbert Hubbard
35. Hạnh phúc là khi điều bạn nghĩ, điều bạn nói và điều bạn làm hài hòa với nhau.
Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.
Mahatma Gandhi
36. Hạnh phúc đúng là món quà của thượng đế.
Le bonheur est bien un présent divin.
Aristotle
37. Chính là một dạng màu mè học đòi về tinh thần khiến người ta nghĩ rằng mình có thể thiếu tiền mà hạnh phúc.
It is a kind of spiritual snobbery that makes people think they can be happy without money.
Albert Camus
38. Tôi không tự hào, nhưng tôi hạnh phúc; và hạnh phúc mùa lòa, tôi nghĩ vậy, còn hơn lòng tự hào.
I am not proud, but I am happy; and happiness blinds, I think, more than pride.
Alexandre Dumas
39. Hạnh phúc không phải đích đến; nó là phụ phẩm.
Happiness is not a goal; it is a by-product.
Eleanor Roosevelt
40. Tôi không biết số phận anh sẽ thế nào, nhưng tôi biết rằng những người duy nhất trong các anh sẽ thực sự hạnh phúc là những ai đã tìm được cách để phụng sự.
I don’t know what your destiny will be, but one thing I know: the only ones among you who will be really happy are those who will have sought and found how to serve.
Albert Schweitzer
41. Đôi lúc cũng cần thiết dừng chân trong cuộc hành trình theo đuổi hạnh phúc, và chỉ đơn giản là cảm thấy hạnh phúc.
Now and then it’s good to pause in our pursuit of happiness and just be happy.
Guillaume Apollinaire
42. Thực sự thì tôi cho rằng không gì thực hơn hạnh phúc và không gì hạnh phúc và ngọt ngào hơn sự thật.
Indeed in general I hold that there is nothing truer than happiness, and nothing happier and sweeter than truth.
Gottfried Wilhelm Leibniz
43. Nhưng hạnh phúc còn là gì ngoài sự hài hòa giản đơn giữa một người và cuộc sống của anh ta?
But what is happiness except the simple harmony between a man and the life he leads?
Albert Camus
44. Để giữ được niềm vui bạn phải chia sẻ nó. Hạnh phúc chào đời đã là anh em sinh đôi.
To have joy one must share it. Happiness was born a twin.
Lord Byron
45. Hạnh phúc luôn luôn được tính toán.
Le bonheur est toujours compté.
Yoram Kaniuk
46. Dù chúng ta có lang thang tới đâu, hạnh phúc cũng được tìm thấy trong phạm vi hẹp, và ở giữa những điều trong tầm với của chúng ta.
What ever our wandering our happiness will always be found within a narrow compass, and in the middle of the objects more immediately within our reach.
Edward Bulwer Lytton
47. Chỉ kẻ ngu xuẩn mới hy vọng lúc nào cũng hạnh phúc.
Only a fool expects to be happy all the time.
Robertson Davies
48. Hạnh phúc và sự phi lý là hai đứa con của cùng một mẹ đất. Chúng không thể tách rời.
Happiness and the absurd are two sons of the same earth. They are inseparable.
Albert Camus
49. Điều chúng ta gọi là hạnh phúc là điều chúng ta không biết.
What we call happiness is what we do not know.
Anatole France
50. Con đường hạnh phúc có thể là con đường quên lãng.
La route du bonheur est peut-être la route de l’oubli
Yasmina Reza
Dù thế nào đi chăng nữa, bạn hãy luôn mỉm cười với cuộc sống hiện tại của mình, hãy tin rằng thế giới này còn bao điều tốt đẹp đang chờ bạn khám phá.
nhân cho những người độc thân mà còn mang con cái đến cho những người chưa có con, vì vậy nó còn bao hàm ý nghĩa trường thọ với con cái đầy đàn. Ngoài ra, góc Nhân duyên còn có khả năng cải thiện mối quan hệ giữa vợ chồng và các thành viên trong gia đình khi nó được kích hoạt.
Mỗi khi xác định hướng và góc Nhân duyên, bạn nên đặt các biểu tượng để kích hoạt năng lượng ở những khu vực này. Chẳng hạng các biểu tượng sau:
Chim uyên ương biểu tượng về hôn nhân hạnh phúc và tình yêu son trẻ theo quan niện của người Hồng Kông. Bạn có thể trưng bày một đôi chim uyên ương bằng gổ nếu góc Nhân duyên nằm Nam, Bắc, Đông, hoặc hướng Tây. Trưng bày chim uyên ương bằng đá nếu như góc Nhân duyên ở hướng Tây-Nam hoặc Đông-Bắc. Bạn có thể trưng bày chim uyên ương trên bàn, trên sàn, hoặc cho chúng bơi lội trên mặt gương mô phỏng mặt nước.
Bạn có thể dùng tranh ảnh hoặc hình chạm khắc vẹt xanh để thay thế cho chim uyên ương. Chú ý, bạn không nên nhốt vẹt xanh đang sống trong lồng, vì nó tượng trưng cho tình trạng mất tự do, không mang lại vận may.
Song Hỷ là biểu tượng được dùng khi có hỷ sự. Bạn có thể tìm mua chữ Song Hỷ thật lớn ở các cửa hàng hoặc có thể tự tay vẽ và cắt dán, điều quan trọng là chữ Song Hỷ phải có màu đỏ. Song Hỷ tượng trưng cho niền vui hôn nhân và rất có hiệu quả đối với những người độc thân dường như không thể tìm được bạn đời thích hợp.
Biểu tượng tình yêu
Thiệp Valentine hay các biểu tượng khác về tình yêu cũng là những công cụ kích hoạt năng lượng rất hiệu quả. Ngoài ra, bạn vẫn có thể sử dụng trí tưởng tượng để tạo ra những biểu tượng mới thích hợp với mình như dùng giấy dán tường thiết kế với hình trái tim, trưng bày khung ảnh hình trái tim hoặc biểu tượng nút vô tận..
Hoa hồng và hoa mẫu đơn đặt biệt thích hợp khi đặt ở góc Nhân duyên. Khi đặt hoa hồng tươi ở góc này, bạn nhớ bỏ bớt gai của chúng và thường xuyên thay hoa mới, bởi vì hoa héo sẽ tạo ra sát khí và đem lại những điều không may mắn. Tuy nhiên, bạn cũng không nhất thiết phải dùng hoa hồng tươi, những bông hồng bằng lụa cũng thích hợp và rất được ưa thích vì không bao giờ tàn.
Sao hạn được dùng khá phổ biến trong lịch pháp Phật giáo để phối với ngày hoặc định cát hung. Có 9 ngôi sao (gồm Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức, Thổ tú, La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô) dùng phối năm xem vận mệnh con người.
Người xưa cho rằng có mối liên hệ giữa thiên thể (9 sao) với con người. Người đời sau cho thêm nhiều quan điểm rắc rối khác vào nên dễ bị đánh đồng với mê tín. Cần có cái nhìn biện chứng hơn về phương pháp này.
Quan niệm về sao
Cùng một tuổi, cùng một năm nam giới và phụ nữ có sao khác nhau, luân phiên theo 9 sao. Trong năm nếu gặp sao tốt, xấu hay trung bình sẽ gặp những chuyện tương ứng với sao đó. Cát hung (tốt xấu) của các sao như sau:
Sao tốt: Thủy diệu, Thái dương, Thái âm, Mộc đức
Trung bình: Thổ tú
Sao xấu: La hầu, Thái bạch, Vân hớn, Kế đô
Cụ thể:
- Sao La hầu (Kim, xấu): Chủ về buồn rầu. Nam dễ kiện tụng chốn quan trường; nữ dễ đau buồn, lo lắng. Đây còn là sao về khẩu thiệt thị phi, hay mang đến nỗi buồn, tai nạn, tang sự, kiện tụng, thị phi, bệnh mắt, nữ gặp hạn huyết quang, sản nghịch...
- Sao Thái bạch (Kim, xấu): Chủ về mọi chuyện không như ý. Sao đại kỵ với nữ giới, nam giới đỡ hơn một chút. Cần đề phòng kẻ tiểu nhân phá rối. Kết hôn cẩn thận bệnh phần bụng. Sao Thái Bạch xấu hơn sao La hầu. Song người quyền quý gặp sao này có lợi, thêm đinh thêm khẩu.
- Sao Vân hớn (Hỏa, xấu): Còn gọi là tai tinh, chủ về bệnh tật. Phụ nữ gặp phải sao này có nhiều tai ương, có nạn huyết quang; nam giới gặp kiện tụng thị phi, gia đạo bất an, mọi việc cần thận trọng.
- Sao Kế đô (Thổ, xấu): Chủ về tai họa, người âm phá rối. Đại kỵ cho cả nam và nữ, nhưng nữ bị nặng hơn, thường mang lại sự buồn khổ, chán nản, thờ ơ. Trong nhà có chuyện buồn nên đi xa làm ăn. Lục súc bất lợi, phụ nữ có khẩu thiệt, thị phi. Nam giới gặp sao này chiếu mạng dễ bị phụ nữ hại. Phụ nữ gặp sao này chiếu mạng mà đang có thai thì lại may mắn.
- Sao Thổ tú (Thổ, trung bình): Chủ về việc liên quan đến quan trường. Đi lại không gặp may, dễ bị tiểu nhân phá. Gặp sao này chiếu mạng thì hay có nỗi buồn man mác, không có chủ định vững vàng, hay hoài nghi công việc làm ăn, không hăng hái, song không gặp tai họa gì. Thường 6 tháng đầu năm bình thường, 6 tháng cuối năm mới thuận lợi.
- Sao Thủy diệu (Thủy, tốt): Chủ về tài vận và phúc lộc. Nam giới gặp phúc lộc, rất may mắn, đi xa có lợi, thêm đinh; phụ nữ thì bất lợi hơn, chủ về khẩu thiệt thị phi, tuy tai họa không lớn, đi xa tránh qua sông qua đò.
- Sao Thái dương (Hỏa, tốt): Chủ về an khang, thịnh vượng, có lợi cho nam giới; nữ giới có chút tai ương. Gặp sao Thái dương sẽ làm ăn phát đạt, thăng quan tiến chức, gặp may mắn trong công việc, dễ nổi danh, tiền đồ sáng sủa. Đi xa có lợi, người quyền quý gặp sao này càng lợi thêm.
- Sao Thái âm (Thủy, tốt): Chủ về mọi chuyện như ý. Cầu danh lợi đều được, nên đi xa, gặp người trên có lợi. Phụ nữ gặp sao này sẽ được vui vẻ, hạnh phúc, có tiền tài, dễ đạt được các ước mơ, nhưng sinh nở bất lợi. Nam giới đi lại hanh thông, gặp sao này được bạn nữ giúp đỡ, nhất là về tiền bạc.
- Sao Mộc đức (Mộc, tốt): Sao Mộc đức chiếu mạng sẽ gặp nhiều may mắn trong công việc, có bạn mới, được thăng quan tiến chức, gặp quý nhân giúp đỡ, hôn nhân hòa hợp. Phụ nữ có hạn huyết quang. Nam giới đề phòng bệnh mắt. Gia đạo có chút bất hòa, nhưng nhân khẩu bình an không đáng ngại.
Quan niệm về hạn
Ngoài quan niệm về sao, còn có quan niệm về hạn, theo đó có các hạn sau:
- Hạn Huỳnh tuyền: Có chứng đau đầu, chóng mặt.
- Hạn Tam kheo: Đề phòng đau chân tay, chứng phong thấp, hay lo buồn cho người thân yêu. Tránh tụ tập chỗ đông người để tránh rủi ro.
- Hạn Ngũ mộ: Hao tài, bất an. Không cho ai ngủ nhờ trong nhà vì sẽ có tai bay vạ gió.
- Hạn Thiên tinh: Đề phòng ngộ độc. Mang thai cấm kiễng chân với đồ trên cao, kẻo ngã trụy thai.
- Hạn Toán tận: Hao tài. Đi đường không mang theo nhiều tiền của, không góp vốn làm ăn.
- Hạn Thiên la: Đề phòng cảnh phu thê ly cách, cần biết nhẫn nhịn trong nhà.
- Hạn Địa võng: Kỵ đi với người khác lúc trời tối. Không cho người khác ngủ nhờ.
- Hạn Diêm vương: Đau ốm lâu, nhưng làm ăn thuận lợi, được tài lộc dồi dào, vui vẻ.
Ngày giờ giải sao
Theo người xưa, dù sao tốt hay xấu đều cần hóa giải. Song hầu hết các chùa hiện nay chỉ làm lễ giải một số sao xấu như Thái Bạch, La hầu, Kế đô. Cách giải rất đơn giản là chọn giờ để tiến hành hóa giải sao xấu hay đón nhận sao tốt, cụ thể như sau:
Sao | Ngày âm lịch | Giờ |
Vân hớn | 29 | Tỵ (9-11) |
Kế đô | 18 | Mùi (13-15) |
Thổ tú | 19 | Thân (15-17) |
Thái bạch | 15 | Dậu (17-19) |
La hầu | 8 | Tuất (19-21) |
Mộc đức | 25 | Mão (5-7) |
Thái âm | 26 | Thìn (7-9) |
Thái dương | 27 | Ngọ (11-13) |
Thủy diệu | 21 | Hợi (21-23) |
Đây là những ngày giờ theo "quy định" sách cổ, chưa có lý giải thực sự hợp lý. Dẫn đến nhiều nơi làm cũng không theo lịch, chú trọng vào ngày rằm theo quan niệm “lễ cả năm không bằng rằm tháng giêng”, hoặc ngày nào thuận tiện cho nhà chùa.
Cách giải sao hạn
Vào ngày sao hạn chiếu mệnh, cần thắp đèn thắp nến, cầu xin bình an, tăng thêm phúc thọ. Đầu năm có hạn nên đến chùa, các tháng sau có thể làm ở nhà.
Tuy nhiên, cách làm đơn giản hơn nữa là áp dụng khoa học phong thủy, khá hiệu quả lại không sa đà vào nghi lễ khó kiểm chứng. Muốn biết chi tiết từng người, cần có năm, tháng, ngày giờ, địa điểm sinh, từ đó thấy rõ chu kỳ 9 sao và có hướng hóa giải theo ngũ hành.
Nguyên tắc là sao xấu thuộc ngũ hành nào tiết giảm đi, còn sao tốt thì chọn ngũ hành tương ứng, hoặc sinh ra ngũ hành đó. Cụ thể:
- Sao La hầu, Thái bạch (ngũ hành là Kim): Dùng Thủy tiết, đeo trang sức đá quý màu đen như: đá núi lửa, thạch anh đen, thạch anh tóc đen...
- Sao Vân hớn (ngũ hành là Hỏa): Dùng Thổ tiết, đeo trang sức đá quý màu vàng như thạch anh tóc vàng, lưu ly, hổ phách, thạch anh vàng...
- Sao Kế đô, Thổ tú (ngũ hành là Thổ): Dùng Kim tiết, như đeo trang sức đá quý màu trắng: mã não trắng, thạch anh trắng, kim cương, xà cừ...
- Sao Thủy diệu tốt, nhưng bất lợi cho nữ (ngũ hành là Thủy): Dùng Mộc tiết, như đeo trang sức màu xanh: phỉ thúy, ngọc lục bảo, thạch anh linh, khổng tước...
Nguyễn Mạnh Linh
Trưởng phòng Phong thủy Kiến trúc
Viện Quy hoạch & Kiến trúc Đô thị - ĐHXD
Trong dân gian có rất nhiều cách tính tuổi Kim lâu. Mỗi cách đều có cái hay và dở với độ chính xác chưa được kiểm chứng
Mỗi Kim lâu một loại tai họa
Theo kinh nghiệm dân gian và cổ thư để lại thì “một, ba, sáu, tám thị kim lâu”. Theo đó: Nam lấy số tuổi âm lịch chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà). Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (gây tai họa cho bản thân người chủ). Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (gây tai họa cho vợ của người chủ). Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (gây tai họa cho con của người chủ). Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (gây tai họa cho con vật nuôi trong nhà. Nữ: Hàng đơn vị của tuổi âm lịch mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu (tính để xem tuổi lấy chồng).
Cách tính này dựa vào Hà đồ, Cửu cung, Hậu thiên bát quái. Nếu ở vào các cung Càn thuộc mệnh Chủ, cung Chấn thuộc về vợ, cung Cấn thuộc con cái hoặc người thân, cung Tốn thuộc gia súc đề ở 4 góc của cửu cung là phạm Kim lâu không nên xây nhà.
Bắt đầu tính khởi 1 góc ở Tây Nam (Khôn), 2 đến Tây (Đoài), 3 đến Tây Bắc (Càn), 4 đến Bắc (Khảm), 5 vào cung giữa (trung ương), 6 ở Đông Bắc (Cấn), 7 ở Đông (Chấn), 8 ở Đông Nam (Tốn), 9 ở Nam (Ly), đến 10 lại về cùng giữa rồi tiếp hàng đơn vị ở hướng Tây Nam… Tính như vậy thì ta luôn luôn thấy 1 – 3 – 6 – 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ” lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh.
Cụ thể như sau:
Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất.
Phạm cung Càn: Nhị Kim lâu thê: Kỵ người vợ.
Phạm cung Cấn: Tam Kim lâu tử: Kỵ cho con cái.
Phạm cung Tốn: Tứ Kim lâu lục súc: Kỵ súc vật nuôi.
Có tám tuổi không cấm kỵ Kim lâu khi tạo tác và khi chết cũng không sợ trùng là tuổi: Kỷ Sửu – Tân Sửu, Kỷ Mùi – Tân Mùi; Canh Dần – Canh Thân; Nhâm dần – Nhâm Thân. Tránh những năm phạm Kim lâu: Là những năm: 12, 15, 17, 19, 21, 24, 26, 28, 39, 33, 35, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 71, 73, 75 âm lịch. Ngoài Kim lâu tạo tác (xây nhà) nói trên còn Kim lâu cho cưới gả, chỉ cần xem tuổi âm lịch nữ giới (đàn bà) nếu hàng đơn vị là 1, 3, 6, 8 là phạm Kim lâu, không nên cưới gả. Do cách vận hành của cửu cung, Hà đồ khác nhau nên có kết quả này (không trình bày ở đây).
Hãy tự tính cho mình
Theo cổ học phương Đông, 24 phương vị gồm 8 thiên can, 12 địa chi và 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn được mô tả theo hình vẽ dưới (ảnh tròn).
Các số dư 1, 3, 6, 8 đều thuộc Tứ Mộ (tức 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) và Tứ Sinh (tức 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi). Mùi và Thân thuộc Tây Nam. Tuất và Hợi thuộc Tây Bắc. Dần và Sửu thuộc Đông Bắc. Thìn và Tỵ thuộc Đông Nam. Đây cũng chính là phương vị của 4 quẻ Khôn, Càn, Cấn, Tốn. Từng quẻ nằm giữa hai ngôi Tứ Sinh và Tứ Mộ. Phong thủy quy định Nam ở phía trên, Bắc ở phía dưới (khác với cách nhìn ở bản đồ), Đông bên tay trái hình vẽ, Tây bên tay phải hình vẽ. Như vậy: Kim Lâu Thân là số 1 ở cung Khôn góc Tây Nam. Kim Lâu Thê là số 3 ở cung Càn góc Tây Bắc. Kim Lâu Tử là số 6 ở cung Cấn góc Đông Bắc. Kim Lâu Súc là số 8 ở cung Tốn góc Đông Nam.
Theo đó, có 8 tuổi không kỵ Kim Lâu là: Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Dần, Nhâm Dần, Canh Thân và Nhâm Thân. Với 8 tuổi này, nếu Hoàng ốc cũng tốt thì có thể xây nhà. 52 tuổi còn lại trong hoa giáp, nếu phạm Kim lâu, phải kiêng kỵ. Cách tính Hoàng ốc: Dùng 6 đốt của 2 ngón tay theo hình dưới để tính Hoàng ốc. Mỗi đốt ngón tay có tên tượng trưng như sau:
3 cung tốt là: Nhất Kiết, Nhì Nghi và Tứ Tấn Tài. 3 cung xấu là: Tam Địa Sát, Ngũ Thọ Tử và Lục Hoàng Ốc. Cách tính: Khởi 10 tuổi tại Nhất Kiết, 20 tuổi tại Nhì Nghi, 30 tuổi tại Tam Địa Sát, 40 tuổi tại Tứ Tấn Tài, 50 tuổi tại Ngũ Thọ Tử, 60 tuổi tại Lục Hoàng Ốc.
Việc xét theo bàn tay Kim lâu được tính như sau:
Dùng 9 đốt của 3 ngón tay theo hình dưới để tính:
5 cung Khảm, Ly, Chấn, Đoài và Trung cung được xây nhà. 4 cung Khôn, Càn, Cấn, Tốn kiêng kỵ không xây nhà.
Cách tính: Khởi 10 tuổi tại cung Khôn. 20 tuổi tại cung Đoài. 30 tuổi tại cung Càn. 40 tuổi tại cung Khảm. 50 tuổi tại Trung cung. 60 tuổi tại cung Cấn. 70 tuổi tại cung Chấn. 80 tuổi tại cung Tốn. 90 tuổi tại cung Ly. Ví dụ, người 28 tuổi âm lịch làm nhà. 20 tuổi bắt đầu từ cung Đoài, 21 tuổi tại cung Càn, 22 tuổi tại cung Khảm, 23 tuổi tại cung Cấn, 24 tuổi tại cung Chấn, 25 tuổi tại cung Tốn, 26 tuổi tại cung Ly, 27 tuổi tại cung Khôn, 28 tuổi tại cung Đoài. Như vậy, người này làm nhà vào năm 28 tuổi âm, thì được.
Trường hợp đặc biệt, nếu người chồng của gia đình đó đã mất thì lấy tuổi của con trai để tính việc xây nhà. Nếu gia đình đó không có con trai thì lấy tuổi của người đàn bà tính Hoàng ốc và Kim lâu cũng như trên để xây nhà.
Cách hóa giải vận hạn
Các chuyên gia cho biết, theo tài liệu cổ và kinh nghiệm dân gian nếu gặp những năm “tứ kim lâu”, “lục hoàng ốc” hoặc “tam tai” thì không nhất thiết không xây dựng hoặc cưới gả. Theo cách “có đóng, có mở” rất linh hoạt và giải toả tâm lý cho gia chủ có thể hoá giải như sau:
Nếu gặp năm Tứ kim lâu hoặc Tam tai thì gia chủ có thể “mượn tuổi” nghĩa là nhờ một người khác (thường là người thân) có tuổi không phạm phải Tứ kim lâu và Tam tai đứng ra thay để thực hiện công việc (cúng bái, động thổ, trông coi việc xây cất…). Nếu gặp năm Hoàng ốc thì sau khi xây cất xong, gia chủ trước khi đến ở (nhập) cho người khác (thường là người thân, không chạm Hoàng ốc) đến ở một thời gian, sau đó mới dọn đến ở chính thức. Việc cưới xin nếu gặp Kim lâu thì “xin dâu hai lần” để hoá giải việc “đứt gánh giữa đường”.
Tử vi đẩu số là bộ môn khoa học huyền bí, được xây dựng dựa trên tổng hòa các yếu tố dịch học, số học, thiên văn học, kinh nghiệm thực tế..., nhằm luận đoán vận mệnh con người. Lá số tử vi là một trong những khái niệm quan trọng nhất của bộ môn này.
Tết năm ngoái, Hoàng (19 tuổi, tập thể Đại học Bách Khoa, Hà Nội) đi chơi với bạn gái từ chiều tối 30. Hết ngắm hoa, ngắm phố, họ lại đến một cuộc nhậu linh đình với nhóm bạn. Ăn uống hát hò đến 10 giờ đêm, cả hội phóng ra đường, rồi chen chân trong đám đông đón giao thừa và xem bắn pháo hoa. 1h sáng, mệt phờ, Hoàng từ chối lời rủ rê đi chơi tiếp của đám bạn, về nhà để ngủ.
Nhưng vừa dừng xe, cậu đã nghe tiếng mẹ nói vọng xuống rằng cậu chưa được vào nhà, vì ông anh trai, người có nhiệm vụ xông đất năm nay, vẫn chưa về: “Con chịu khó đi loanh quanh đâu đó chơi thêm lát nữa đi. Năm nay thằng Hưng hợp tuổi, nó xông đất cho may mắn, nhé”. Hoàng rút điện thoại gọi anh thì được trả lời: “Anh về ngay đây, 15 phút nữa có mặt”. Cậu đi loanh quanh một lát rồi quay lại, mẹ vẫn chưa cho vào. Lại gọi điện cho anh, lại được hứa về ngay, cứ thế mãi đến 2h30, Hoàng mới được vào nhà khi ông anh ham vui về xông đất.Hầu như các gia đình Việt Nam đều quan tâm đến chuyện xông đất đầu năm, với quan niệm người đầu tiên bước chân vào nhà mình sẽ đem đến điều may hoặc rủi trong suốt cả năm, tùy thuộc vào việc họ có “tốt vía”, có hợp tuổi, hợp mạng với gia chủ hay không. Nhiều người rất cầu kỳ trong chuyện chọn người xông đất, và thực sự sợ hãi nếu người đầu tiên đến nhà mình trong năm mới lại không được như ý. Điều này dẫn đến lắm chuyện buồn cười như trường hợp của Hoàng.
Đối với Kiên, 25 tuổi, sống ở Thanh Xuân, Hà Nội, chuyện xông đất năm ngoái lại là một kỷ niệm vui. Là người độc thân, quê ở xa, bố mẹ đã qua đời nên anh không về quê mà đón năm mới ở Hà Nội. Cũng vì lý do này, một đồng nghiệp mời anh xông đất và ăn Tết cùng gia đình ở Hoàng Mai. Đêm 30 là phiên trực của người bạn này, anh ta dặn: “Cậu cứ đến đi, tớ đã dặn cả nhà rồi. Sau giao thừa vài tiếng tớ sẽ trốn về”.
Theo hướng dẫn của bạn, Kiên vào ngõ rồi đến ngách, loanh quanh mãi mới đến đúng số nhà được dặn, bấm chuông gọi cửa. Một cậu bé chạy ra hớn hở: “A, chú là bạn của chú cháu, đến xông đất phải không ạ?”. Đoán đây là đứa cháu mà bạn vẫn kể, Kiên tươi cười gật đầu. Anh vào nhà chúc mừng năm mới, rồi cùng uống sâm banh, nói chuyện rôm rả. Lát sau, anh con trai trở về, cả nhà ồ lên vui sướng, lại rót sâm banh. Trước lúc cụng ly, anh ta bảo bố mẹ giới thiệu khách, lúc đó ai nấy mới ngớ người ra. Hỏi lại, hóa ra vì nhà bạn Kiên ở quá sâu, đường lại quanh co nên sau khi đi vòng vèo, anh vào đúng số nhà nhưng lại là của một ngách khác.
Sau phút ngỡ ngàng, ai nấy lại nâng ly chúc mừng cho cuộc kỳ ngộ. Hai chàng trai trẻ làm quen, nói chuyện khá ăn ý. Kiên đang định nhờ hướng dẫn cho địa chỉ mình cần đến thì có điện thoại: “Cậu đang ở đâu đấy? Sao giờ này còn chưa tới”, anh chàng đồng nghiệp thắc mắc. Anh ta vô tình đã trở thành người xông đất ngoài dự kiến bởi về đến nhà vẫn chưa thấy bạn đâu.
“Lúc biết mình nhầm, tôi ngượng chín cả mặt. Nhưng hóa ra đó lại là duyên lành đầu năm, vì tôi có thêm một người bạn, một gia đình thân thiết”, Kiên tâm sự.
Đối với phần nhiều gia đình Việt Nam khác, xông đất chỉ đơn thuần là một mỹ tục có ý nghĩa tượng trưng, không đặt nặng chuyện chọn người. Ông Cường, sống ở Sơn Tây, Hà Nội, nói: “Năm nào nhà tôi cũng phân công thằng cháu nội xông đất. Tôi không biết tuổi nó có hợp không, nhưng vì cả nhà quý nó nhất nên dành cho nó cái vinh dự ấy. Vả lại, nó đáng yêu như thế, không thể đem đến điều xấu được”.
Còn chị Mai, nhà ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, cho biết năm nào nhà chị cũng phân công một ai đó trong gia đình xông đất, nhưng nhiều khi vì chuyện nọ chuyện kia nên sự việc xảy ra không như dự kiến. “Có khi người xông đất là họ hàng, hoặc bạn của chú em chồng. Nhưng là ai thì cả nhà cũng đều niềm nở đón tiếp. Đầu năm có khách đến chơi là quý lắm”.
Và với thái độ này, cả người xông đất lẫn gia chủ đều vui vẻ, nhẹ nhõm, sự may mắn trong năm mới cũng theo đó mà đến.
(Theo Zing.vn)
Bên cạnh việc chọn mua xe theo sở thích và nhu cầu sử dụng, người sử dụng còn quan tâm đến những cách để vận hành trên đường luôn an toàn. Dưới đây các bạn có thể tìm hiểu những kiến thức cơ bản về phong thủy để lựa chọn một chiếc xe hợp mệnh, hợp tuổi và cách trang trí bên trong sao cho mang lại nhiều may mắn cũng như tài lộc cho mình.
Quy luật Tương sinh - Tương khắc của Ngũ hành trong phong thủy
Xe bị trục trặc thường xuyên, hao tốn tiền bạc để sửa chữa, bị cọ quẹt hay bị phá phách một cách vô cớ, khi xảy ra tai nạn thì bị thương tật và chiếc xe bị hư hại nặng nề.
Dựa vào luật ngũ hành tương khắc ta có sự tương khắc giữa tuổi tác với màu sắc như sau:
Tóm lại khi khi chọn xe, bạn nên cân nhắc xem màu sắc có xung khắc với mệnh của mình hay không thông qua thuyết Ngũ Hành. Ví dụ, người chủ xe tuổi Ngọ và mệnh Hỏa thì không nên chọn xe màu đỏ vì nó sẽ làm tăng thêm tính Hỏa. Thay vào đó, người lái nên chọn một chiếc xe màu xanh đậm hoặc đen để làm dịu bớt tính Hỏa.
Ngoài ra, màu trắng hay xám cũng là lựa chọn phù hợp và an toàn hơn vì làm tính Hỏa suy yếu. Mặt khác, nếu người lái dễ bị mất tập trung và mang tuổi Hợi, mệnh Thủy thì nên chọn xe có màu xanh lá thuộc hành Mộc. Màu thuộc hành Kim (trắng hoặc bạc) cũng có tác dụng hỗ trợ những người tương tự.
Tuy nhiên, cách dựa vào ngũ hành Mệnh có độ chính xác không cao bởi nếu mọi người sinh cùng năm thì mệnh ai cũng giống ai, ngũ hành đều giống nhau, không phân biệt được giữa người sinh vào ngày này, giờ này, tháng này hoặc mùa này. Mặt khác chỉ xem xét tới ngũ hành của Mệnh nên đã bỏ qua mất các yếu tố về ngũ hành của ngày giờ tháng sinh cũng như sự tương tác qua lại giữa chúng. Trong nhiều trường hợp, lựa chọn ngũ hành theo bản Mệnh lại càng mất đi sự cân bằng âm dương của chính người chủ nhân đó, vô tình gây hại mà không biết.
Để có thể lựa chọn chính xác hơn và đúng bản chất của âm dương ngũ hành cần phải sử dụng phương pháp Tứ Trụ, luận ngũ hành của Giờ, Ngày, Tháng và Năm sinh. Xem xét hành nào vượng, hành nào suy, cái nào gây mất tính cân bằng ngũ hành để từ đó biết được ngũ hành cần bổ sung - chính là màu sắc của xe hợp tuổi theo ngũ hành đó.
Bạn có thể tra màu sắc xe bằng tiện ích trực tuyến Xem màu xe hợp tuổi theo Tứ Trụ
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác |
Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa cổ mang nhiều giá trị thẩm mỹ cũng như tín ngưỡng của người dân Hải Phòng. Ngôi chùa được dựng lên từ tấm lòng thiện tâm của con người bởi lẽ cho đến nay chùa có tên “Đồng Thiện”. Chùa Đồng Thiện tọa lạc trên địa bàn phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi Ni sư Thích Diệu Tâm.
Chùa Đồng Thiện có tên chữ là Hải Ninh tự nằm ở phường Vĩnh Niệm, quận Lê Chân, Hải Phòng. Theo văn bia ở chùa thì chùa Đông Thiện được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ này, do Hội đồng thiện đứng chủ hưng công. Công việc thiện tâm này của Hội đồng thiện được sự hưởng ứng của đông đảo tín đồ, thiện nam, tín nữ trong nước. Hội đồng thiện tỉnh Bắc Ninh đã quyên cúng cho việc làm tình nghĩa này cả một ngôi chùa khang trang đẹp đẽ.
Tên chùa Hải Ninh ra đời chính là để ghi nhớ về sự kiện thiện tâm đó của Hội đồng thiện Hải Phòng và Hội đồng thiện Bắc Ninh. Ngay từ buổi ấy chùa cũng được gọi là chùa Đồng Thiện với ý nghĩa là ngôi chùa được dựng nên từ tấm lòng thiện tâm của con người.
Kiến trúc với dáng bề thế, khang trang gồm nhiều tòa ngang dãy dọc, mặt quay hướng Đông Bắc. Chùa có hai lớp tam quan dọc theo đường “Thần đạo”, nối tam quan thứ nhất với tam quan thứ hai là một nhà thiêu hương và một hồ nước tròn, chu vi gần 400m. Kèm hai bên chùa là khu nghĩa trang rộng lớn, các mộ chí ở đây là cả một thế giới thu nhỏ của các loại hình kiến trúc cổ kim, đông tây, muôn sắc màu, san sát bên nhau yên bình và ấm cúng.
Nhà thiêu hương với kiến trúc một gian vuông vức, hai tầng tám mái chung quanh để thoáng không xây tường che, bốn bức dựng bốn cột tròn, kê trên chân tảng hình đôn đá, mái lợp ngói vẩy rồng rêu phong cổ kính, đao cong hình lá lật thâm thấp, thâm u. Thiêu hương là nơi quàn linh cữu của người xấu số, nơi các vị tăng ni chạy đàn cầu siêu thoát cho các sinh linh. Cả khối nhà là một thể thống nhất tượng trưng cho thái cực. Hai tầng tám mái là biểu tượng của lưỡng nghi (âm và dương). Ngôi nhà vuông tượng trưng cho tứ tượng, tám mái là biểu tượng của “bát quái”. Người xưa quan niệm rằng: thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật hữu hình.
Trong chùa còn có hai cây bảo tháp, mỗi cây cao 1,4 mét, hình lục giác, cạnh đáy 0,2 mét gồm 5 tầng, ngăn cách giữa các tầng là một mái đao cong. Trên đỉnh tháp có hình nậm rượu và một con rồng quấn quanh. Hai cây bảo tháp có 60 bức họa mà tác giả là ông Vương Ái Việt, hội viên Hội đồng thiện Hải Phòng, năm 1926 ông đã cúng hai cây bảo tháp này cho nhà chùa.
Chùa Đồng Thiện là ngôi chùa có giá trị thẩm mỹ cao, bình dị, không ồn ào, đã góp phần làm sáng tỏ thêm cái tính chất “Nhập thế gia trụ trì Phật pháp” của đạo Phật Việt Nam đậm tính nhân văn, đầy lòng nhân ái.