Tướng đàn ông mắt một mí –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1.Hội Làng Cựu Ấp
Thời gian: tổ chức vào ngày 10 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Liên Châu, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Tam Giang Đại Vương Thổ Lệnh.
Nội dung: Ngoài hoạt động dâng hương tạ ơn Tam Giang Đại Vương Thổ Lệnh, hội làng còn tổ chức đua thuyền cướp kén: Thuyền đua xuất phát từ đình Chải, bơi sang làng Xuân Viên bên kia sông cướp né kén đem về lấy may.
2. Hội Cúng Biển Mỹ Long
Thời gian: tổ chức từ ngày 10 tới ngày 12 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: miếu bà Chúa Xứ, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn bà Chúa Xứ và Cá Ông.
Nội dung: Lễ hội cúng biển Mỹ Long hay còn gọi là Lễ hội nghinh Ông có cách nay khoảng 300 năm diễn ra từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 5 (âm lịch) tại miếu bà Chúa xứ, khóm 4, thị trấn Mỹ Long, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Lễ hội này xuất phát từ tín ngưỡng thờ Đức Ông Nam Hải (cá Voi) của ngư dân. Lễ hội cúng biển Mỹ Long là lễ hội truyền thống dân gian đặc sắc gắn liền với lịch sử, tín ngưỡng, phong tục tập quán của cư dân vùng đất Mỹ Long - Cầu Ngang, là điểm tựa tinh thần, nơi vui chơi giải trí, giao lưu cộng cảm và trao truyền đạo lý, tình cảm; nơi để mọi người thỉnh cầu, bày tỏ ước muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, cho mùa vụ đầy ắp cá tôm, phúc lộc thọ mọi nhà. Trong những ngày lễ hội, hàng chục ngàn khách thập phương từ các tỉnh lân cận đổ về trẩy hội và tham gia nhiều trò chơi dân gian như: đua thuyền buồm, đua thuyền chèo, dự khán xem hát bội - múa bóng rỗi, đi cà kheo... Các lễ chính thức của lễ hội cúng biển Mỹ Long bao gồm: Nghinh Ông (đám rước trên biển), Chánh tế (tại miễu Bà), Dâng Mâm lộc (tại miễu Bà), Nghinh Ngũ phương (đám rước khắp thị trấn), Tống Quái (đám rước trên biển)...
Sáng sớm ngày 11/5 lễ Giỗ Tiền Chức diễn ra tại gian thờ Tiền Hiền trong miếu Bà Chúa xứ nhằm tạ ơn công lao và cầu mong các bậc tiền nhân ban thêm ân huệ. Đến 9 giờ thì tổ chức Nghinh Nam Hải tức (Cá Ông) còn gọi là Nghinh Ông. Đoàn nghinh khởi hành từ miếu ra cửa Cung Hầu để nghinh Nam Hải về. Khoảng 5 giờ chiều thì Tế Thần Nông và chiến sĩ trận vong tại sân miếu. Tuy là phối tự nhưng lễ tế Thần Nông được tổ chức quy mô, trang trọng, có cả học trò lễ, đội lân, đội nhạc; có đọc văn tế và người tham gia chật kín cả sân miếu. Mục đích nghi lễ là tế Thần Nông vị thần nông nghiệp và các chiến sĩ trận vong vì dân, vì nước cùng về chứng giám, phối hưởng mà tiếp tục phù hộ cư dân.
Lễ Chánh tế Chúa Xứ: Vào lúc 10 giờ đêm 11 sáng ngày 12 tháng 5 âm lịch tổ chức Chánh tế Chúa Xứ trong chính điện trước bàn thờ Bà Chúa Xứ. Vật cúng lễ Chánh tế là xôi, heo trắng. Học trò lễ có cặp đăng, cặp đài và cặp thài. Đến giờ trống nhạc nổi lên các học trò lễ, ban quý tế lần lược tiến hành hiến tuần hương, tuần hoa, tuần quả, tuần rượu, dâng sớ và tuần trà. Sau lễ Chánh tế là hát bóng rỗi đây là hình thức diễn xướng tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ đồng thời nó cũng là loại hình nghệ thuật biểu diễn phục vụ người dự lễ hội.
Sang ngày 12/5 lúc 7 giờ sáng thì tổ chức lễ Nghinh ngũ phương quanh chợ Mỹ Long để tống tiễn những sui rủi của năm qua, đón nhận mai mắn sẽ đến. Liền sau đó thì tổ chức lễ Tống tàu.Chiếc tàu được thiết kế rất cẩn thận bằng ván gỗ theo kiểu tàu đánh cá chiều dì khoảng 3,5m chiều ngang 1,5m được trang trí rất tỉ mĩ có cả hình nộm của tài công, các ngư phủ cùng các vật cúng thí như chuối, gạo, muối, bánh, tiền vàng mã... Phía trước đầu tàu bày một bàn lễ vật cúng tế gồm: 01 con heo trắng, 01 thau huyết heo, 01 thau lòng heo, 01 mâm bánh bò, 01 chén huyết cùng một ít lông heo, trà, hoa, rượu.
Vào lễ vị pháp sư đóng vai trò điều hành cùng các vị hương chức tiến hành nghi thức. Nghi lễ thực hiện xong, các vật cúng ở bàn cúng được đưa vào tàu và tiến hành tống tàu. Đoàn đi cũng có lân, nhạc, trống, chiêng, vị pháp sư, các hương chức, hầu bóng, chức việc khoảng 2.000 - 3.000 người. Từ miếu đoàn đi vòng qua chợ Mỹ Long rồi đến Vàm Lầu trong tiếng trống, tiếng nhạc rộn rã. Đến Vàm Lầu tàu chở vật cúng được hạ thủy rồi được một tàu đánh cá khởi hành kéo ra cửa biển Cung Hầu cách Vàm Lầu khoảng 4 km.
Đến vị trí tống tàu các tàu dừng lại, vị chủ tế khăn áo chỉnh tề rồi châm ba tuần rượu, một tuần trà khấn nguyện Đại Càn Quốc Gia Nam Hải rồi ra hiệu lệnh tháo dây tống tàu gởi theo đó bao ước mơ, hy vọng cho một mùa đánh bắt mới may mắn, tốt đẹp.
Lễ hội cúng biển Mỹ Long góp phần tạo ra đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, củng cố bền vững khối đoàn kết cộng đồng. Đây là lễ hội truyền thống giàu tính nhân văn, sáng tạo đã trở thành một sinh hoạt văn hóa mang đậm tính dân gian và là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tâm linh của người dân.
H11: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Phối tất cả những vị trí đối xứng lên địa bàn 12 cung của lá số thì chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H12. H12: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Xét nghiệm nội dung H11 và H12, không khó để chúng ta nhận ra rằng hai sao Thái Dương và Thái Âm chuyển động ngược chiều nhau. Thái Dương chuyển động thuận chiều kim đồng hồ còn Thái Âm thì chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Chuyển đổi địa bàn 12 cung hình vuông trở về lại 12 cung hình tròn rồi cho quỹ đạo của Thái Dương [TD1 cho tới TD12] nằm ở vòng ngoài đi thuận theo chiều kim đồng hồ và cho quỹ đạo của Thái Âm [TA1 cho tới TA12] nằm ở vòng trong đi ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ thấy kết quả giống như hình H13. Thái Dương và Thái Âm cùng nằm trên trên trục Sửu Mùi [TD1-TA1 ở Sửu và TD7-TA7 ở Mùi] còn tất cả những vị trí khác đều đối xứng qua trục Sửu-Mùi. Thí dụ như Thái Dương ở Dần [TD2] đối xứng với Thái Âm ở Tí [TA2] qua trục Sửu-Mùi, Thái Dương ở Mão [TD3] đối xứng với Thái Âm ở Hợi [TA3] qua trục . . . H13: Vị Trí Đối Xứng Của Cặp Thái Dương -Thái Âm Nhìn vào hình H13, thêm một lần nữa không khó để chúng ta nhận ra là sự chuyển động của Thái Dương và Thái Âm khế hợp chặt chẽ và hoàn toàn với hai dòng vận hành trên Việt Dịch Đồ, hình H14. H14: Việt Dịch Đồ (Nguồn: Việt Dịch của Hà Hưng Quốc) Hai dòng vận hành này đại diện cho hai dòng hành khí, Hành Khí Âm (HKA) nằm bên trong [vòng màu xanh lá] chuyển động ngược kim đồng hồ và Hành Khí Dương (HKD) nằm bên ngoài [vòng màu đen] chuyển động thuận chiều kim đồng hồ. Như chúng ta đã biết Tí là vị trí “âm cực dương sinh” còn Ngọ là vị trí “dương cực âm sinh.” Nếu chúng ta gán một con số định lượng cường độ cho HKA và HKD ở mỗi vị trí [cũng là ở mỗi thời điểm trong chu kỳ sinh hoá trên Việt Dịch Đồ] thì con số nhỏ nhất sẽ nằm tại Tí và con số lớn nhất sẽ nằm tại Ngọ cho HKD, và hoàn toàn ngược lại cho HKA. Hãy cho con số nhỏ nhất đó là số không [0] và giả dụ thêm là sự thay đổi trong cường độ của hành khí từ một vị trí này sang vị trí kế bên là tăng thêm hay giảm bớt một đơn vị cường độ, và hãy cho đơn vị cường độ đó là một [1], thì kết quả theo đó sẽ giống như hình H15. Dấu cộng [+] trước mỗi con số là để chỉ khí dương và dấu trừ [-] trước mỗi con số là để chỉ khí âm. Cường độ của HKD tăng dần từ Tí tới Ngọ và giảm dần từ Ngọ tới Tí, tăng dần từ +0 tới +6 và giảm dần từ +6 tới +0. Cường độ của HKA tăng dần từ Ngọ tới Tí và giảm dần từ Tí tới Ngọ, tăng dần từ -0 tới -6 và giảm dần từ -6 tới -0. H15: Hành Khí Của Cặp Thái Dương-Thái Âm Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi Hình H15 tuy là giúp cho chúng ta dễ dàng nhìn thấy sự chuyển dịch của hành khí qua từng thời điểm [vị trí], cường độ của hành khí tại mỗi thời điểm và dạng biến đổi của dòng hành khí một cách tổng quát nhưng lại không giúp cho chúng ta dễ dàng nhận ra sự đối xứng của Thái Dương và Thái Âm được mã hoá trong từng cặp TD1-TA1, TD2-TA2, TD3-TA3 . . . cho tới TD12-TA12. Để làm nổi lên yếu tố đối xứng, chúng ta có thể xếp đặt lại thông tin trong hình H15 một cách khác. Và kết quả cho thấy giống như trong hình H16. H16: DNA Của Cặp Thái Dương – Thái Âm Đối Xứng Qua Trục Sửu Mùi Dòng hành khí dương của sao Thái Dương và dòng hành khí âm của sao Thái Âm được trình bày dưới dạng dây sóng. Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Dương chuyển dịch tuần tự từ TD1 tới TD12. Mỗi chu kỳ của dây sóng Thái Âm chuyển dịch tuần tự từ TA1 tới TA12. Hai dây sóng đi ngược chiều nhau. Và mỗi điểm TDn trên dây sóng Thái Dương được nối với một điểm TAn trên dây sóng Thái Âm và chúng đối xứng nhau qua trục Sửu-Mùi. Dạng dây sóng của hai dòng hành khí được hình thành do “phiên dịch” khoảng cách giữa Thái Dương và Thái Âm ở mỗi thời điểm đối xứng qua trục Sửu-Mùi. Có nghĩa là khi Thái Dương và Thiên Phủ cùng tại Sửu thì khoảng cách TD1-TA1 là 0 độ, Thái Dương tại Dần và Thái Âm tại Tí thì khoảng cách TD2-TA2 là 60 độ, Thái Dương tại Mão và Thái Âm tại Hợi thì khoảng cách TD3-TA3 là 120 độ, Thái Dương tại Thìn và Thái Âm tại Tuất thì khoảng cách TD4-TA4 là 180 độ, Thái Dương tại Tỵ và Thái Âm tại Dậu thì khoảng cách TD5-TA5 là 120 độ, Thái Dương tại Ngọ và Thái Âm tại Thân thì khoảng cách TD6-TA6 là 60 độ, Thái Dương và Thái Âm tại Mùi thì khoảng cách TD7-TA7 là 0 độ. Và chiều dài của mỗi dây nối liền một TD với một TA đại diện cho một khoảng cách vừa nói. Tưởng tượng một đường thẳng chạy từ Sửu tới Mùi ở hai đầu của dãy sóng, xuyên qua Sửu và Mùi ở giữa, và chia dãy sóng thành hai phần trên và dưới. Đường thẳng tưởng tượng này chính là trục đối xứng Sửu-Mùi. Dãy sóng của cặp Thái Dương – Thái Âm có hình dạng giống như cấu trúc DNA cho nên chúng ta tạm gọi nó là DNA của cặp Thái Dương – Thái Âm. Như chúng ta được biết, bất cứ sao nào cũng đều có vị trí miếu địa, vượng địa, đắc địa hay hãm địa cho riêng nó. Thái Dương và Thái Âm cũng không ngoại lệ. Vị trí miếu, vượng, đắc, hãm của hai sao Thái Dương và Thái Âm mà chúng ta biết hiện nay có thể nói là đạt được sự đồng thuận của các danh gia Tử Vi ngoại trừ một vài bất đồng nhỏ. Tổng kết trong hình H17 cho thấy điều này. H17: Vị Trí Miếu, Vượng, Đắc, Hãm Của Thái Dương Và Thái Âm Giống như Tử Vi và Thiên Phủ, dựa vào những gì vừa được khám phá thì chúng ta cũng có thể nói dường như Thái Dương và Thái Âm là hai sao được hư cấu trên nền tảng âm dương. Chúng đại diện cho cái gì thì chưa biết. Nhưng đã là được cấu tạo trên nền tảng âm dương thì qui luật của âm dương tự nó sẽ quyết định tính chất miếu, vượng, đắc, hãm chứ không thể nào quyết định bởi qui luật ngũ hành. Dựa vào sự quan sát và phán đoán này, chúng ta có thể tiến hành kiểm nghiệm tính chất miếu, vượng, đắc, hãm của cặp sao Thái Dương – Thái Âm với thông tin đã có sẵn trong các hình H15 và H16. Khác với Tử Vi và Thiên Phủ, tuy là cặp Thái Dương – Thái Âm cũng là một cặp sao hư cấu của hai dòng hành khí vận hành ngược chiều trong cùng một hệ thời-không và tuy là tính đối xứng qua trục Sửu-Mùi là chìa khóa xác định sự tương tác của hai dòng hành khí đó nhưng nó không có chiếc chìa khóa “bình hòa” như Tử Phủ cho nên chúng ta có thể xét cường độ hành khí của chúng độc lập với nhau được. Nói một cách khác, tương tác của hai dòng hành khí âm dương này nằm ở một dạng khác, không giống như dạng tương tác củaTử Phủ. Từ những thông tin trong hình H16 chúng ta có thể rút ra và kiến tạo đường biểu diễn MVĐH (miếu, vượng, đắc, hãm) của Thái Dương và Thái Âm như cho thấy trong hình H18.
H18: Đường Biểu Diễn MVĐH của Thái Dương Và Thái Âm Nhìn vào đường biểu diễn MVĐH của Thái Dương trong hình H18 chúng ta nhận ra được:
Tên sao | Đẩu phẩn | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Tứ hóa |
Phá quân | Bắc đẩu (thứ 7) | Âm thủy | Hao | Phu thê, tử tức, nô bộc | Giáp: Quyền, Qúy: Lộc |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Phá Quân là âm thủy, là sao thứ 7 trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là hao, chủ về họa phúc, làm chủ các cung phu thê, tử tức, nô bộc, là đại tướng trước điện của Tử Vi đế tọa. Phá Quân là sao bất lợi đối với lục thân.
Sao Phá Quân có tính cách thô bạo, hiếu thắng dễ kích động, bộc trực, dũng cảm, có quyết tâm, có tài lãnh đạo, có lòng báo thù mãnh liệt, vì vậy mà có khả năng sáng tạo, tính đột phá, tính biến hóa và tính nguy hiểm, là một trong ba thành phần của "Trúc la tam hạn" Sát, Phá, Lang. Nhưng tính biến hóa thăng trầm của sao Phá Quân rất lớn, nên thành tựu nhanh mà thất bại cũng nhanh, đủ để hưởng một đời người. Phá Quân còn bất lợi với tiền tài, nữ mệnh gặp nó cũng bị bất lợi về tình cảm.
Sao Phá Quân có tính thô bạo lại xung động, chỉ có sao Tử Vi mới có thể thuần thục được Phá Quân; chỉ có Thiên Lương, Lộc Tồn mới hóa giải được tính hung bạo của Phá Quân và tăng thêm cho nó tính hòa hoãn. Phá Quân gặp sao Văn Xương tại cung Chấn (Mão), nếu gặp cát tinh sẽ thành hiển quý. Nếu Phá Quân đồng cung hoặc hội chiếu với cát tinh như Thiên Khôi, Thiên Việt, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phù, Hữu Bật, sẽ tăng thêm khả năng lãnh đạo và sức sáng tạo.
Sao Phá Quân gặp sao Thiên Phủ sẽ làm kẻ tiểu nhân gian xảo. Gặp sao Thiên Cơ thì thành phường trộm cắp. Đồng cung với sao Liêm Trinh, Hỏa Tinh, Linh Tinh, thì dễ bị kiện tụng. Đồng cung với sao Cự Môn, thì có tranh chấp cãi vã. Đồng cung với sao Thiên Hình, Hóa Kị, thì dễ bị tàn tật. Cùng sao Vũ Khúc nhập cung tài bạch, chủ về dễ bị thất bại. Cùng sao Văn Xương thủ mệnh, chủ về một đời hàn sĩ. Gặp các hung tinh sẽ chủ về phá bại. Gặp cung hãm sẽ họa không nhỏ. Nếu gặp cả lưu sát, chủ về phá tán gia sản. Cùng sao văn khúc đóng tại cung Thủy (Tý, Hợi), thì dễ bị thương tật, lưu lạc tha hương. Nữ mệnh gặp nó dễ khốn cùng lưu lạc.
Sao Phá Quân nhập miếu thủ mệnh tại hai cung Tý, Ngọ, không bị sát tinh xung phá, là cách "An tinh nhập miếu", chủ về thăng quan tiến chức, có chí khai sáng sự nghiệp.
Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 hoặc mùng một Tết thì sao? Trường hợp này hiếm nhưng không phải không có. Nếu ngày 30 tháng chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó, nếu để sang năm mới thì có nhiều điều bất tiện. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng một đầu năm. trường hợp chết đúng ngày mùng một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng mùng hai làm lễ phát tang.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Cây sả là một trong những loại cỏ rất tự nhiên, dễ trồng và khá nhiều tinh dầu. Dầu sả được đặt trong nến và lồng đèn có thể khiến muối phát sợ. Những nghiên cứu cho thấy, tinh dầu sả còn có tác dụng trị muỗi và xua đuổi muỗi tốt hơn gấp nhiều lần thuốc trị muỗi thông thường.
Ngoài được coi là loại thảo mộc phòng chống muỗi, cây sả còn được coi là một loại gia vị thơm ngon cho một số món ăn.
Cũng được coi là một loại thảo dược vừa có lợi cho sức khỏe con người vừa giúp phòng chống và xua đuổi muỗi. Được biết tinh dầu của cây húng thơm cũng có thể giúp phòng chống muỗi hữu hiệu cho cả gia đình bạn.
Từ lâu cây hương thảo cũng được coi là một loại thảo dược hấp dẫn và đầy công hiệu với sức khỏe. Ngoài tác dụng có thể nấu ăn được, cây hương thảo còn giúp xua đuổi và phòng chống muỗi.
Tuy cây hương thảo ưa sống và phát triển tốt trong khí hậu nhiệt đới, nhưng khi mùa đông đến, bạn vẫn có thể lấy lá hương thảo và đun nó trong nồi nước để chống muỗi cho cả gia đình.
Cúc vạn thọ cũng được coi là một trong những loại cây “khắc tinh” của nhiều loại côn trùng gây hại cho con người. Chúng cũng là một loại cây giúp phòng chống và xua đuổi muỗi cũng như các côn trùng khác có thể tấn công rau quả hoặc loài rệp vừng.
Vì thế, bạn có thể trồng cúc vạn thọ với đủ các loại màu sắc khoe hương vừa giúp sân vườn bạn rạng rỡ vừa phòng chống muỗi.
Húng chanh là loại cây rất dễ trồng, dễ dàng phát triển ngay cả trong bóng râm. Mọi người thường sử dụng húng chanh làm rau thơm, phơi khô làm trà thảo dược và đặc biệt đây cũng là cây có khả năng đuổi muỗi vô cùng tuyệt vời.
Khi nói đến những loại cây có tác dụng trong việc đuổi muỗi thì không thể bỏ qua bạc hà. Trong thành phần của tinh dầu bạc hà mèo có chứa nepetalactone – một loại hóa chất mà muỗi rất sợ. Vì vậy trồng bạc hà quanh sân và hiên nhà là cách đuổi muỗi đơn giản nhưng hiệu quả gấp chục lần DEET (một loại chất thường có trong các sản phẩm đuổi côn trùng).
Một trong những cách chống muỗi tự nhiên là sử dụng cây hoa oải hương. Không chỉ có sắc tím hút hồn, oải hương còn sở hữu mùi hương quyến rũ và giúp thư giãn thần kinh. Tuy nhiên muỗi lại không hề thích thú với mùi này. Nếu có thể bạn hãy trồng những chậu oải hương quanh nhà hoặc trên cửa sổ. Hoa oải hương được phơi khô còn có thể dùng làm trà thảo dược cũng rất tốt.
Hoa phong lữ đẹp và cũng có mùi hương rất quyến rũ, nhưng muỗi và côn trùng lại rất sợ. Bạn có thể trồng những chậu hoa phong lữ trong nhà vừa có tác dụng trang trí, tô điểm cho ngôi nhà mà lại không lo muỗi làm phiền.
Lưu ý: Nếu chẳng may bị muỗi đốt, bạn cũng có thể sử dụng ngay một số loại tinh dầu có trong chúng để thoa lên trên vết muỗi cắn nhằm thoát khỏi tình trạng bị sưng và ngứa ngáy.
► Trắc nghiệm vui để biết những điều thú vị về bạn |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Nhiều gia đình Việt trên bàn thờ tổ tiên thường cắm trụ sắt ở chính giữa bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và để đốt hương vòng. Để cắm trụ sắt mà không "động" bát hương, ngày 23 tháng chạp là thời điểm tốt nhất được chọn bao sái bát hương (tỉa chân hương), rồi cắm trụ sắt thật thẳng, vững vào chính giữa bát hương. Sau khi hoàn tất việc dọn dẹp ban thờ, khấn vái xong gia chủ sẽ thắp hương vòng lên trụ sắt. Nhưng nhiều nhà tâm linh cho rằng, bát hương cần tĩnh và nghiêm cẩn, không nên tùy tiện cắm bất cứ thứ gì vào bát hương, bởi như thế sẽ “động” bát hương, gây xui xẻo cho gia chủ.. Ông Nguyễn Mạnh Cường (nhà nghiên cứu Phật học, Viện Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng con người) chia sẻ, nhiều nhà tâm linh đã chứng thực chuyện bát hương có liên quan tới cái đầu của gia chủ. Khi bốc bát hương mà lèn chặt, hoặc bát hương bốc tơi nhưng sau một thời gian tro hương sẽ chắc lại. Chỉ thế thôi, nhưng gia chủ không biết mà khơi tro tơi lên, sẽ có thể dẫn tới đau đầu cho gia chủ.
Để tránh động bát hương, nên thắp hương vòng trong đĩa, không tùy tiện cắm que sắt vào trong bát hương để đốt hương vòng. Vì vậy việc cắm trụ sắt vào bát hương để đặt hương vòng lên đó đốt, về mặt tâm linh sẽ có thể khiến gia chủ thỉnh thoảng sẽ bị đau đầu bất chợt mà không xác định được nguyên nhân. Nhưng khi bỏ trụ sắt cắm hương vòng ra, đầu gia chủ sẽ nhẹ hẳn. Theo các nhà tâm linh, một ban thờ nếu có đủ ngũ hành là tốt (đại ý Kim là đồ kim loại. Mộc là hương. Thủy là nước. Hỏa là đèn nến. Thổ là bát hương, tro). Nhưng các đồ kim loại như đỉnh đồng, lư đồng, bát hương đồng, hạc đồng, đỉnh đồng, chân nến… hiện có ý kiến không nên đặt quá nhiều trên ban thờ, và đã có nhiều nhà không dùng nữa, bởi nếu đặt đồ kim loại nặng và lớn gia chủ sẽ rất dễ bị bệnh. Gia đình và xã hội
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)
Theo sự khảo cứu của nhà bác học Hà Lan tên là De Groot thì Quan Âm Nam Hải trong kiếp chót của Đức Phật Quan Âm, Ngài hạ phàm làm một vị công chúa Ấn Độ, con vua Linh Ưu, niên hiệu Diệu Trang.
Vào năm 2587 trước Chúa giáng sanh thuộc vào thời đại kim thiên (ciel d’or) bên Ấn Độ có một tiểu quốc kêu là Hưng Lâm. Nhà vua trị vì nước ấy tên Linh Ưu (Spirituel Excellent) lấy niên hiệu là Diệu Trang (Miao Tchoang). Tứ vi xứ Hưng Lâm là như vầy: Phía Tây giáp ranh Thiên Trúc Quốc (Inde), Phía Bắc giáp ranh Xiêm La, phía Đông giáp ranh Phật Chai Quốc (Sumatra), phía Nam giáp ranh Thiên Chơn Quốc (Tiên Tchan). Trong nước Hưng Lâm cảnh tượng thái hòa là nhờ có vua hiền, tôi giỏi, bá tánh chuyên lo cày cấy, nông trang.
Chánh thê của nhà vua là bà hoàng hậu Bửu Đức. Từ ngày nhà vua tức vị đến nay đã 40 năm rồi mà bà hoàng hậu chưa hạ sanh đặng vị hoàng tử nào. Thấy thế bà lấy làm buồn và xin nhà vua đi cùng bà lên núi Huê Sơn cầu tự.
Núi Huê Sơn ở về hướng Tây. Trên núi ấy có một vị thần rất linh thiêng. Ai cầu chi thì đặng nấy. Vua nghe theo, một ngày kia quân gia rần rộ, xa giá nhắm Huê Sơn trực chỉ. Cầu tự xong về triều thì một ít lâu bà có thai và đến ngày sanh đặng một vị công chúa đặt tên là Diệu Thanh (Miao Tsing). Cách một ít lâu hoàng hậu lại hạ sanh một nàng công chúa tên là Diệu Âm (Miao Yin) và sau rốt sanh ra nàng công chúa Diệu Thiện (Miao Chen). Vị công chúa thứ ba này ngày sau tu hành đắc đạo lấy hiệu là Quan Âm (Quan Yin).
Vì nhà vua không có con trai nên vua nhứt định truyền ngai vàng lại cho một trong ba vị phò mã (rể vua). Hai công chúa đầu là Diệu Thanh và Diệu Âm thì nhà vua đã đính hôn cho hai vị quan to thinh danh nhứt trong triều. Trái lại nàng công chúa thứ ba là Diệu Thiện thì cương quyết không chịu lấy chồng và nhứt định phế trần đi tu để thành chánh quả. Nghe con quyết định như thế nhà vua nổi cơn thịnh nộ và buộc nàng Diệu Thiện phải tuân lịnh xuất giá. Thấy thế nàng mới xin vua cha nếu ý định nhà vua như vậy thì ít nữa xin cho nàng kết hôn với một thầy thuốc và thưa rằng: “Ý con là muốn cứu chữa hàng quan lại bất tài và ngu xuẩn, những tai nạn do sự nắng lửa mưa dầu, tuyết giá mà ra, những tính xấu xa ích kỷ về nhục dục, các tật nguyền, bịnh hoạn do sự già nua cằn cỗi mà ra, sự phân chia giai cấp, sự khinh rẻ kẻ nghèo và sự tư lợi”.
Nàng lại nói to lên rằng: “Chỉ có Đức Phật là được chứng quả bồ đề, minh tâm kiến tánh”. Nghe vậy nhà Vua lại càng tức giận thêm bèn hạ lệnh lột hết áo quần của công chúa và nhốt nàng vào huê viên để bị đói lạnh mà chết. Công chúa không sờn lòng. Trái lại nàng cảm ơn vua cha đã phạt nàng như thế và chỉ vui tươi mà chịu khổ hình. Các bà mệnh phụ được lệnh ra khuyến dụ nàng hồi tâm tuân ý thánh chỉ. Nàng khư khư một mực và nhứt định vào chùa Bạch Tước ẩn tu, nhập thất tham thiền. Chùa Bạch Tước thuộc quận Long Thọ (Loung Chou), tỉnh Nhữ Châu (Ju Tcheou). Hay tin ấy nhà vua không cấm cản chi, đinh ninh rằng ra nơi ấy một ít lâu công chúa chịu không nổi với những nỗi khổ cực, sẽ chán nản mà về triều.
Nơi Bạch Tước Tự có mật lệnh của nhà vua phải buộc nàng làm những công việc đê tiện, hèn hạ và mệt nhọc nhứt. Nàng vẫn cúi đầu vâng chịu, không một tiếng than, là vì khi nàng làm phận sự có những hùm beo, chim chóc và thần thánh giúp sức. Biết được thế cho nên bà sư cụ chùa Bạch Tước mới cụ sớ về triều tâu vua mọi sự. Vua cha bèn nghĩ ra một chước cốt làm nàng kinh khủng bỏ chùa mà về đền. Một bữa kia quân lính đến bao vây và phóng lửa thiêu chùa bốn mặt. Sư cụ và tất cả ni cô kinh tâm tán đởm chạy ngược chạy xuôi tầm phương tẩu thoát. Tiếng kêu trời kêu đất inh ỏi! Nàng Diệu Thiện điềm tĩnh như thường. Nàng chỉ lâm râm cầu Đức Phật mà nàng nguyện theo gương và xin Ngài đến cứu nàng. Nàng bèn rút trâm cài đầu đâm vào họng và phun máu tươi lên không trung, tức thì mây kéo mịt mù, thiên hôn địa ám, mưa xuống như cầm chĩnh mà đổ. Bị đám mưa to các ngọn lửa đỏ ngất trời kia lần lần êm dịu rồi tắt. Thấy vậy quân chạy về phi báo. Nhà vua liền hạ lệnh bắt nàng và đưa về đền.
Khi điệu nàng về tới, nhà vua dạy mở yến tiệc ca xang, bày một cuộc lễ hội thật lớn cốt để đem nàng trở lại quãng đời phong lưu khoái lạc. Nhưng các cuộc bài trí ấy cũng không hiệu quả gì và cho đến những điều hăm dọa ghép nàng vào tử hình cũng không thấm vào đâu. Cùng thế nhà vua mới hạ lệnh trảm quyết nàng và dạy ba quân điệu nàng khỏi đền mới hành hình. Thần hoàng bổn cảnh liền tâu sự ấy lên cho Ngọc Đế rõ. Đức Ngọc Đế hạ lệnh cho thần hoàng bổn cảnh giữ gìn hồn nàng đừng cho nhập địa phủ. Giờ hành hình đến, giám sát vừa giơ gươm lên thì gươm gãy làm hai. Giám sát bỏ gươm rút giáo toan đâm thì giáo lại tét làm hai. Giám sát chỉ còn một nước là xử giảo nàng (thắt cổ). Đến giờ hành hình thì có một trận cuồng phong thổi tới, làm cho trời đất tối tăm mà chung quanh mình nàng thì hào quang hiện ra sáng rỡ. Thần bổn cảnh liền hóa ra một con hổ, từ trong rừng xanh nhảy ra và cõng thây nàng chạy thẳng vô núi. Những kẻ đi xem hoảng chạy tứ tung. Quan quân và giám sát ảo não muôn phần, lật đật về triều tâu vua mọi sự. Nhà vua không nao núng và lại cho rằng cọp tha thây là một sự trừng phạt nặng nề, gán thêm vào sự trừng phạt của nhà vua để phạt nàng về tội bất hiếu và tội bất tuân lệnh vua cha.
Nhờ huyền diệu ấy mà nàng Diệu Thiện tuy chết nhưng xác vẫn còn nguyên. Lúc ấy nàng mơ màng như thấy một giấc chiêm bao, cơ hồ như nàng đã lướt gió tung mây… Khi tỉnh lại nàng lấy làm lạ mà thấy mình ở vào một thế giới không nhật nguyệt, tinh tú, không núi non, không người, không loài vật.
Bỗng chốc nàng thấy hiện ra trước mắt một vị thanh niên mặc áo màu xanh dương, hào quang chói rạng. Vị ấy đến trước mặt nàng, tay cầm một tờ giấy dài và nói rằng: Mình vưng lệnh Diêm Chúa (Yama) mời nàng xuống viếng Diêm Cung để thấy rõ ràng cảnh khốn khổ và những hình phạt mà kẻ có tội phải chịu sau khi chết.
Nơi Diêm Cung mỗi khi nàng đi đến đâu nhờ sức thần thông và đức từ bi thuyết kinh của nàng các hồn bị giam cầm đều đặng cứu rỗi và thoát khỏi ngục môn hầu tái kiếp trở lại trần gian. Thập Điện Minh Vương cũng ao ước đặng nghe nàng thuyết pháp. Chiều ý Mười Vua, nhưng nàng xin rằng sau cuộc ấy các hồn tội nhân đều đặng phóng thích. Sau khi khoản ấy đã đặng các vua ưng thuận thì nàng mới dùng hết phép thần thông của nàng mà thuyết pháp. Trong nháy mắt chốn U Minh biến thành lạc cảnh và các âm hồn đều đặng trở lại cõi trần. Thấy mười cõi U đồ đã trống trơn, Thập Điện Minh Vương mới lật đật phán rằng: “Mười điện chúng ta không quyền giam cầm vong hồn nàng Diệu Thiện”. Và tức khắc dạy đưa nàng trở lại dương gian.
Khi tỉnh dậy nàng Diệu Thiện lấy làm bối rối chưa biết phải đi phương nào. Lúc ấy Đức Phật Thế Tôn hiện ra trên mây dạy nàng phải ra ở núi Phổ Đà, giữa Nam Hải thuộc cù lao Hương Đảo để tu thêm. Muốn đến đó phải trải qua ba ngàn dặm đường. Bởi thế, Đức Phật Thế Tôn mới ban cho nàng một trái bàn đào vườn Tây Vương Mẫu để nàng đỡ đói khát trong một năm và nhơn có đặng trường sanh. Nàng sắm sửa thượng trình. Thấy nàng sức yếu mà đường lại xa Đức Trường Canh Thái Bạch mới truyền cho thần bổn cảnh hóa ra con hổ, cõng đưa nàng ra nơi ấy. Thần bổn cảnh tuân y và trong giây phút nàng đã đến Phổ Đà Sơn.
Khi nàng tu đặng chín năm thì có một vị Phật Tiếp Dẫn đến cho các vị thần trấn Phổ Đà Sơn hay rằng nàng Diệu Thiện tu hành đạo pháp hiện nay cực kỳ cao siêu mà từ trước đến giờ chưa vị nào đạt được. Nàng đã đứng trên tất cả chư vị Bồ Tát và cai quản các đấng ấy. Hôm nay, ngày 19 tháng 02 chúng ta phải yêu cầu vị ấy nhận một địa vị cao thượng hơn để cứu rỗi và ban hạnh phúc cho quần sanh. Sơn thần Phổ Đà Sơn bèn triệu tập tất cả các thần tiên, thánh phật vùng ấy đến chầu và xưng tụng công đức của vị Bồ Tát mới vừa chứng quả và từ nay người thường gọi là Quan Âm Như Lai, Quan Âm Nam Hải, Phật Tổ Phổ Đà Sơn.
Tân Bồ Tát ngự trên tòa sen và tiếp kiến các đấng thiêng liêng đến bái kiến và khánh chúc. Lúc ấy chư thánh tiên mới định lựa một vị đồng tử để hầu Ngài. May đâu lúc ấy có một vị trẻ tuổi xưng là Hoàn Thiện Tài (Hoan Chen Tsai) nghĩa là người chỉ có đọc kinh mà đặng đức lành phép lạ. Thiện Tài đồng tử thú nhận rằng vì mồ côi cha mẹ chàng mới phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nay nghe tin Nam Hải Phổ Đà Sơn có Bồ Tát ngự nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu Ngài và xin làm đệ tử. Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, Ngài bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Vì quyền năng pháp lực chưa đặng cao cho nên đồng tử phải thiệt mạng. Bồ Tát liền dùng thần thông cứu tử. Khi đồng tử tỉnh dậy thì thấy một cái xác bên mình, Bồ Tát cho biết đó là xác phàm của đồng tử và hiện nay đồng tử đã bỏ xác phàm và nhập vào cõi thánh. Từ đó Thiện Tài đồng tử một lòng phụng sự Bồ Tát trong sự cứu độ chúng sanh.
Sau lại Đức Bồ Tát có thâu làm đệ tử nữ vị cháu gái của vua Nam Hải Long Vương tên là Long Nữ. Việc đã xảy ra như vầy. Ngày kia đệ tam thái tử con vua Long Vương hóa làm con cá, dạo chơi trên mặt biển, chẳng may vướng phải lưới của ông chài. Ông chài bắt cá ấy đem bán ngoài chợ. Ngự trên liên đài Bồ Tát biết rõ việc ấy, bèn sai Thiện Tài Đồng tử giả dạng thường nhơn đến mua cá ấy đem ra biển phía Nam thả. Nam Hải Long Vương nhớ ơn cứu tử con mình mới định dưng cho Bồ Tát một cục ngọc ban đêm chiếu sáng để giúp Ngài đọc sách không cần đèn, và dạy Long Nữ là con gái của đệ tam thái tử phải bổn thân đem ngọc đến dưng. Đến nơi dưng ngọc xong, Long Nữ rất cảm phục huyền năng và đức độ của Bồ Tát và cầu xin Ngài cho theo hầu Ngài cùng quy thuận Phật pháp. Bồ Tát ưng cho. Từ ấy Long Nữ đặng thâu làm đệ tử hiệp cùng với đồng tử Thiện Tài mà phụng sự Ngài.
Từ khi Diệu Trang Vương dùng chước độc mà hại nàng Diệu Thiện thì nhà vua phải một chứng bệnh hết sức khổ sở.
Thân thể nhà vua phải thúi tha đầy ung thư ghẻ chốc làm cho nhà vua nhức nhối đau đớn vô hồi. Đức Bồ Tát phóng đại quang minh biết rõ mọi sự. Nhà Vua lúc ấy hạ lệnh đăng bảng cầu danh y, Bồ Tát bèn giả dạng một nhà sư già đến xin chữa bịnh.
Khi đến trước mặt vua thì nhà sư bèn tâu phải kiếm cho đặng đôi mắt và một đôi cánh tay của thân nhân nhà vua mới trị đặng bịnh, nhưng mà phải ra núi Phổ Đà mới kiếm đặng hai món ấy. Vua liền phái hai vị quan cấp tốc đến Phổ Đà Sơn để tìm hai món vừa nói. Thấy vậy hai vị phò mã rất bất bình và âm mưu định giết nhà sư và sau đó thí vua mà soán ngôi.
Bồ Tát rõ sự việc ấy và đã sai Thiện Tài đồng tử giả làm tên thị vệ hầu bên cạnh vua. Khi một tên quân của hai vị phò mã dưng cho vua một chén thuốc độc nói dối là của nhà sư dạy đem cho vua ngự thì tên thị vệ kia tiếp bưng chén ấy và sẵn tay làm đổ ngay xuống đất. Đang lúc ấy một người lẻn vào phòng nhà sư để thích khách. Bồ Tát bèn dùng thần thông làm cho tên ấy tê liệt không còn hoạt động nữa và bị bắt trói. Cơ mưu bại lộ, hai vị phò mã vì sợ bị khổ hình nên đã uống độc dược tự tử. Hai vị công chúa phải tội liên can đều bị biếm vào lãnh cung đời đời cấm cố. Hai nàng mới ăn năn, noi gương em mình là Diệu Thiện lo tu hành. Khi hai nàng đã tấn hóa nhiều về con đường tu niệm thì Bồ Tát và Thiện Tài đồng tử hóa ra hai thớt tượng bạch mà đưa hai vị công chúa đến cảnh Phật Đài để tránh xa mùi tục lụy.
Từ ngày hai vị sứ giả phụng mệnh nhà vua, tuôn mây lướt sóng trải biết bao khổ cực mới đến Phổ Đà Sơn, Thiện Tài đồng tử phụng lịnh Bồ Tát hiện ra tiếp rước. Hai sứ giả trình bày mọi sự rồi được đến yết kiến Bồ Tát. Bồ Tát Diệu Thiện ngồi trên liên đài bèn trao cho hai vị sứ giả con mắt bên tả và cánh tay bên tả của mình. Việc xong sứ giả cáo tạ rồi hồi trào, và dưng lên cho vua và hoàng hậu hai món đã kiếm đặng. Hoàng hậu nhìn lên cánh tay tả thấy có nốt ruồi và sau khi nghe sứ giả tả dung mạo người đã cho nhà vua hai vật ấy thì quả quyết đó là con mình và đau đớn không ngần.
Nhà sư bèn trộn hai món ấy với ít vị thảo dược rồi đem tất cả đắp lên nửa thân bên trái của nhà vua thì nhà vua tức khắc khỏi đau phía bên mặt. Thấy thế nhà sư bèn tâu vua xin sứ giả ra Phổ Đà Sơn tìm cho đặng con mắt phía tay mặt và cánh tay mặt. Sứ giả vâng lệnh ra đi, không bao lâu đem về dưng đủ hai món. Nhà sư cũng làm y như trước thì nửa thân bên phải của nhà vua khỏi ngay. Từ ấy vua Diệu Trang hoàn toàn lành bịnh. Trong triều, ngoài quận ai ai cũng đồng biết rằng nhờ con chí hiếu là Diệu Thiện mà nhà vua mới khỏi bệnh ngặt nghèo.
Sau khi khỏi chết vua cùng hoàng hậu cám ơn cứu tử, định ra Phổ Đà Sơn một chuyến để tạ ơn. Xa giá đăng trình gặp không biết bao là nguy nan, nhưng đều nhờ Bồ Tát dùng phép thần thông mà cứu khỏi.
Đến nơi vua cùng hoàng hậu thấy Bồ Tát tọa thoàn trên liên đài mất cả hai mắt và hai tay. Nhìn biết là con mình nhà vua ăn năn xúc động vô cùng bèn quỳ xuống cầu nguyện cho con đặng sống và đặng huờn y hai con mắt và hai tay. Khẩn nguyện xong thì nhà vua và hoàng hậu thấy con mình hiện trước mắt, tay mắt đủ, hình dạng mạnh khỏe như xưa.
Thấy phép thần thông vô biên của Bồ Tát, vua cùng hoàng hậu nhất định lìa nơi điện ngọc đền vàng, lánh mình trần tục tìm đàng thiên thai.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Cát Phượng (##)
Thời buổi dân số gia tăng, người người đổ về thành thị. Đất chật người đông nên nhu cầu mua nhà ở chung cư ngày càng nhiều. Vậy 12 con giáp nên chọn tầng chung cư hợp tuổi mình như thế nào để an cư lạc nghiệp, phát lộc phát tài?
Việt Nam là nước dân số trẻ, với số dân tập trung đa số ở các đô thị lớn. Quỹ đất có hạn, khả năng kinh tế của người trẻ cũng không quá dư dả, vì thế nên mua hoặc thuê nhà chung cư để ở là một lựa chọn được khá nhiều người ủng hộ.
Ngoài cân nhắc về vị trí, giá cả, môi trường sống thì không ít người khi mua nhà chung cư đều muốn chọn tầng sao cho hợp phong thủy, nhưng không phải ai cũng biết tuổi mình, mệnh mình thì nên chọn tầng chung cư hợp tuổi như thế nào để cuộc sống hạnh phúc, tấn tài tấn lộc.
Vậy 12 con giáp nên chọn tầng chung cư nào thì thích hợp nhất. Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ một số thông tin hữu ích về vấn đề này, hy vọng có thể giúp cho các bạn phần nào trong hành trình chọn mua hay thuê cho mình một tổ ấm.
Theo ngũ hành, ta có thể chia các tầng chung cư có đuôi số tương ứng như sau:
Số 1, 6: hành Thủy
Số 2, 7: hành Hỏa
Số 3, 8: hành Mộc
Số 4, 9: hành Kim
Số 0, 5: hành Thổ
Như vậy, chúng ta có thể căn cứ vào ngũ hành tương sinh tương khắc để mua được căn nhà chung cư ưng ý nhất, bạn có thể tham khảo thêm Bảng xem mệnh theo năm sinh cho tất cả các tuổi để biết tuổi mình thuộc mệnh gì. Nhà dùng để ở và nhà cho thuê, đầu tư bất động sản lại có những con số khác nhau, mời các bạn theo dõi nội dung chi tiết sau đây để biết cách chọn tầng chung cư hợp tuổi của mình nhé.
Để tới nội dung muốn xem nhanh nhất, mời bạn click vào Mục lục có nội dung tương ứng dưới đây.
MỤC LỤC
Tuổi Tý
Tuổi Sửu
Tuổi Dần
Tuổi Mão
Tuổi Thìn
Tuổi Tị
Tuổi Ngọ
Tuổi Mùi
Tuổi Thân
Tuổi Dậu
Tuổi Tuất
Tuổi Hợi
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 5, 8 hoặc 0 như tầng 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18…
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19…
Mời bạn tham khảo thêm: Kiến thức phong thủy quan trọng cho nhà chung cư.
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14, 18…
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17…
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2, 4, 7 hoặc 9 như tầng 2, 4, 7, 9, 12, 14…
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2, 4, 7 hoặc 9 như tầng 2, 4, 7, 9, 12, 14…
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Có thể bạn quan tâm: Nguyên tắc phong thủy bất di bất dịch khi chọn nhà chung cư.
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17…
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0, 1, 5 hoặc 6 như tầng 1, 5, 6, 10, 11…
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0, 1, 5 hoặc 6 như tầng 1, 5, 6, 10, 11, 15, 16…
Bạn đã biết Những điều đại kị khi ở chung cư là gì chưa?
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1, 2, 6 hoặc 7 như tầng 1, 2, 6, 7, 11, 12…
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19, 24, 29…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 1, 2, 6 hoặc 7 như tầng 1,2, 6, 7, 11, 12…
Nên chọn những tầng có đuôi là 3 hoặc 8 như tầng 3, 8, 13, 18, 23, 28…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Mời bạn đọc thêm: Khắc phục những lỗi phong thủy "chết người" của nhà chung cư.
Nên chọn những tầng có đuôi là 0 hoặc 5 như tầng 5, 10, 15, 20, 25…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 4, 8 hoặc 9 như tầng 3, 4, 8, 9, 13, 14…
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Nên chọn những tầng có đuôi là 1 hoặc 6 như tầng 1, 6, 11, 16, 21, 26…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 3, 5, 8 hoặc 0 như tầng 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18…
Nên chọn những tầng có đuôi là 2 hoặc 7 như tầng 2, 7, 12, 17, 22, 27…
Không nên chọn những tầng có đuôi là 4 hoặc 9 như tầng 4, 9, 14, 19…
Với những đô thị lớn, có quá nhiều tòa nhà bao bọc nhau thì việc chọn tầng nhà cao sẽ giúp gia đình bạn có tầm nhìn thoáng đãng và không gian sống đẹp hơn. Tuy nhiên, khi xét đến yếu tố thực dụng, thuận tiện cho nhu cầu đi lại và sức khỏe khi có sự cố xảy ra thì tầng thấp hơn lại phát huy tác dụng. Dù chọn tầng chung cư để mua ở hay đầu tư, hãy cân nhắc kĩ giữa yếu tố sử dụng và phong thủy để có được cho mình một căn nhà thực sự là tổ ấm gia đình.
An An
Lưu ý phong thủy khi chọn nhà chung cư Treo gương bát quái hóa giải nhà chung cư đối diện nhau là hạ sách Căn hộ chung cư hợp phong thủy cho các cặp vợ chồng trẻ (phần 1)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Phòng khách là nơi dừng khí và tiếp nhận các dòng khí xấu hoặc tốt đi vào nhà. Vì vậy, những vật phong thủy này sẽ có tác dụng tốt nhất khi bạn đặt tại phòng khách nhà mình.
Tượng Phật Di Lặc:
Phật Di-lặc được mô tả với cái bụng thật lớn và cái miệng cười thật tươi, thể hiện mong ước và tâm tư của đạo Phật trong việc đem nụ cười vào cuộc đời. Khi tượng phật Di Lặc được trưng bày trong nhà, đây được coi là biểu tượng cho sự an lạc, vui vẻ, may mắn và hạnh phúc, mang lại nhiều điều tốt lành cho gia chủ, gia đạo…
Tam đa Phúc Lộc Thọ:
Tượng trưng cho 3 vị thần đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc cho mọi nhà. Trong đó, Phúc Thần chủ về của cải và hạnh phúc, Lộc thần chủ về quan lộc và tài lộc, cầm quyền trượng. Thọ thần chủ về trường thọ. Khi đặt 3 vị thần này, bạn chú ý đặt ở vị trí cao và trang trọng, mặt quay ra cửa chính.
Quan thánh đế (Quan Vân Trường):
Là vị thánh chuyên trấn áp hung sát khí, chống lại ma tà quỷ quái. Vì vậy, tượng của ông chuyên dùng để trấn trạch, chế lại hung khí, đem lại sự bình an cho gia chủ.
Quan Công đứng tấn còn là vật khí lý tưởng cho các cửa hàng, công ty, cơ sở thương mại bởi ngoài tác dụng trấn áp hung khí cón mang lại sự thịnh vượng, trí tuệ và tiền bạc trong kinh doanh.
Bạn nên bày trong phòng khách của căn nhà hướng ra cửa. Dùng trong trường hợp nhà hướng Chính Bắc, Tây Bắc, Chính Tây. Có thể bày ở trung tâm của căn nhà hoặc căn phòng.
Long quy:
Là linh vật tốt lành có ý nghĩa trường thọ, có khả năng chiêu tài hóa sát, trấn trạch…Mọi nhà đều có thể bày linh vật này. Khi bày Long Quy, tốt nhất nên đặt ở chỗ cao ráo, sạch sẽ. Muốn dùng chiêu tài thì đặt ở hướng ra cửa chính của nhà.
Linh vật có tác dụng chiêu tài trấn trạch để tránh tà khí, bảo vệ sự bình yên cho ngôi nhà. Tỳ Hưu có tác dụng hóa giải “Ngũ hoàng sát” – một sát tinh trong phong thủy thường gây điều bất lợi cho các thành viên trong gia đình về sức khỏe và tài vận.
Biểu tượng của sự an lành, sức khỏe và trường thọ. Hồ lô đặc biệt thích hợp dùng cho nhà có trẻ nhỏ hay quấy khóc. Hãy treo hồ lô bên cạnh chỗ nằm của đứa trẻ, sẽ tránh được bệnh tật và khóc dạ đề cho trẻ.
Biểu tượng của trí tuệ, học hành đỗ đạt, thăng tiến trên con đường công danh, sự nghiệp. Ngoài ra, tháp Văn xương còn có khả năng ngăn ngừa sát khí, tà khí. Nó cũng rất hữu dụng cho những ai sắp trải qua những kỳ thi quan trọng hoặc những người muốn phát triển về trí tuệ và công danh sự nghiệp.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Trong quá trình thiết kế ban công, không phải ai cũng có thể chọn được vị trí ban công vừa hợp lý với cách bố trí trong nhà vừa hướng ra cảnh quan đẹp. Trong nhiều trường hợp, ban công đã được thiết kế sẵn trước khi chủ nhà đến ở. Chủ nhà có thể tự mình quan sát xem ban công nhìn ra môi trường xung quanh có tốt theo quan niệm của phong thủy không? Những trường hợp hướng ban công không tốt như nhà đối diện với miếu, bệnh viện, trước cửa có các góc nhọn chỉ vào nhà hoặc đường đâm thẳng vào trong nhà. Trong trường hợp này, gia chủ có thể bài trí các cây cảnh để hóa giải.
Dưới đây là một số loại cây cảnh có tác dụng hóa giải và bảo vệ ngôi nhà theo phong thủy
Thân cây xương rồng thường phát triển hướng lên trên, nó tương tự xương của con rồng. Vì thế, cây xương rồng có ý nghĩa đem đến sức mạnh, hóa giải hình sát mạnh ở xung quanh nhà.
Cây xương rồng có gai giúp hình sát mạnh xung quanh nhà
Là loại cây có hương sắc, hoa hồng rất thích hợp để trang trí ở ban công. Chủ nhà nên chọn loại hoa hồng thân gai bởi nó có tác dụng hóa giải những điều không tốt.
Huyết long là loại cây lá dài và bé màu xanh thẫm, có các đốm vàng giữa lá. Loại cây này dễ chăm sóc và có sức sống mạnh mẽ. Huyết long có thể ngăn các dòng khí xấu xâm nhập vào căn nhà.
Cây huyết long có thể ngăn lại các dòng khí xấu, không cho xâm nhập vào nhà
Đây là loại cây phát triển theo hướng ngang, luôn khỏe mạnh và vững vàng. Cây ngọc kỳ lân có tác dụng trấn giữ cho căn nhà.
Đỗ quyên là loại cây rất dễ sống, có gai và sum suê hoa lá. Loại cây này mang đến vận may cho gia chủ và hóa giải hình khí xấu ở ban công.
Cây đỗ quyên sum sê hoa lá mang đến vận may cho chủ nhà
Đối với các căn nhà ở tầng 1 chỉ có vườn hoa phía trước, không có ban công, gia chủ cũng có thể trồng các loại cây nêu trên, chúng sẽ hóa giải những điều không tốt trong phong thủy một cách rất hiệu quả.
(Theo Báo Xây dựng Online)
=> Xem bói tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
Chùa Hưng Ký tọa lạc trên địa phận làng Hoàng Mai thuộc thôn Đoài, nay là ngõ Hưng Ký, phố Minh Khai, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Chùa Hưng Ký còn có tên là Vũ Hưng Tự và mang hiệu là Võ Hưng Truyền Am. Đây là ngôi chùa gốm sứ độc nhất Hà thành. Chùa Hưng Ký là công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo cuối vương triều Nguyễn. Trên khuôn viên 3.000m². Chùa không phải được xây dựng từ gỗ, gạch ngói thông thường, mà được làm từ gốm sứ độc nhất vô nhị. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng bảo tồn năm 1992.
Chùa được ông Trần Văn Thành (tức Hưng Ký), nhà tư sản dân tộc chuyên sản xuất gạch, một tín đồ của Phật giáo xây dựng vào năm Bảo Đại thứ tám 1932.
Chùa gồm tam quan (cổng chùa), tam bảo, Phật điện, nhà tổ được bố trí hợp lý, tất cả đều được trang hoàng bởi những bức cuốn bằng gốm sứ, tạc khắc hoa văn tinh xảo qua gần 80 năm vẫn còn bóng màu men gạch.
Cổng tam quan hút người xem bởi thế đứng đồ sộ, được xây theo kiểu gác chuông hai tầng mái. Bốn cột đồng trụ đỉnh có chạm chim phượng, lồng đèn và đắp tứ linh. Cổng chính gồm tứ trụ nối với tam quan tạo nên thế nguy nga, vững chãi. Hai mặt ngoài cổng phụ có đắp phù điêu hình voi ngựa, tám góc mái chạm hình rồng chầu nguyệt. Các mặt trụ đều có câu đối chữ Hán, chữ Nôm bằng sứ tráng men màu trông hệt như một bức tranh thủy mặc.
Tòa tam bảo kiến trúc theo kiểu tường xây, chia làm 7 gian gồm 12 cột chính, mỗi cột cao 7 m, vuông 30 cm. Mái chùa được lợp ngói ống, đầu gắn chữ “Thọ”. Trên nóc mái có bày chính giữa một chiếc nậm đựng nước cam lồ, thứ nước mà nhà Phật dùng để cứu độ chúng sinh…
Hai gian đầu hồi tam bảo còn có hai tòa Thập điện Diêm vương được cấu trúc theo kiểu động, miêu tả chân thực cảnh sống nơi trần gian và ngục tối.
Chùa có thờ Phật tổ và Mẫu Liễu Hạnh. Tượng Phật ở chùa Hưng Ký không nhiều nhưng từng pho lại to lớn đồ sộ hơn các chùa khác. Chính giữa Phật điện là tượng Phật A Di Đà cao 3,86m. Nếu cộng cả bệ gạch cao 1,3m thì tượng cao 5,19m.
Phía trước Phật điện là tòa tam bảo, tại đây có đặt tượng đức Quan Âm và Đại Thế Chí Bồ Tát (A Di Đà tam tôn). Hai pho tượng này tạc bằng gỗ cao 3,3m, đứng trên tòa sen đặt trên bệ gạch cao 0,56m.
Một cụ rùa Hồ Gươm xấu số đã bị giết, hiện bộ xương đang được bảo quản trong chùa, cụ rùa này bị một vết thương lớn ở trên mai.
Chùa Hưng Ký đã tồn tại tính đến nay đã được 78 năm (1932). Trong 78 năm ấy, đất nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tàn khốc, vậy mà chùa vẫn còn khá nguyên vẹn. Có người ví di tích kiến trúc độc đáo chùa Hưng Ký tựa một bông hoa nghệ thuật, trải bao bão tố vẫn ngan ngát sắc hương giữa lòng thành phố.
Bát hương, bốc bát hương và sử dụng bát hương. Với người Việt, trong gia đình (ngay cả người theo Công giáo) nhà nào cũng có ban thờ và trong ban thờ một linh vật không thể thiếu được. Đó là bát hương hay bát nhang dùng để cắm cây hương sau khi đã thắp. Nhưng việc bốc bát nhang hay sắp đặt thế nào đâu phải ai cũng rõ.
Là một vật linh thiêng dùng thờ cúng trong gia đình, là biểu hiện Tâm linh trên ban thờ. Đó là nơi mỗi khi thắp hương tưởng niệm, cầu cúng hướng tới tổ tiên, các vị thần linh hay gửi lòng thành kính vào cõi vô hình rồi chủ nhân cắm nén hương vừa đốt vào.
Trong gia đình tùy theo trách nhiệm là con trưởng, con thứ v.v... mà thờ phụng. Thông thường có 3 cấp bậc:
Nhiều nhà lập 3 Ban thờ nhưng đa phần (trong đó có gia đình tôi) chỉ có một ban thờ. Một vẫn có tác dụng như vừa thờ gia tiên và thổ công, điều cốt yêu là định vị tâm thức vào ban thờ, đặc biệt khi cúng khấn. Nếu Tâm thành tuy một ban thờ nhưng thỉnh cầu vẫn tới cả Tổ tiên và Trời - Phật - Thánh - Thần; vẫn có tác dụng phù hộ độ trì, che chở bảo vệ cho gia chủ. Còn có lập nhiều ban thờ, thờ nhiều bát nhang mà phép tập hợp không đúng quy tắc thì vô tình gia chủ đã tạo ra sự tán phát, gây loạn năng lượng và khi đó không tác dụng phát huy sức mạnh Tâm linh khi cầu cúng.
Nhưng nhớ rằng các chư vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đều là những bậc sáng suốt, công bằng, vô tư, không biết ăn hối lộ của vật chất thế gian do người trần dâng cúng. “Đức năng thắng số” và Luật Nhân Quả là luật thiêng liêng của Trời Đất. Sự giàu có, thăng tiến không phải do van xin, mà là do phúc đức từ kiếp trước, do tu dưỡng hiện thân.Việc thờ cúng, cầu khấn chỉ có tác dụng phù trơh, thúc đẩy thêm và cốt nhất ở tâm thành. Còn nếu kiếp trước gây nhiều việc ác, kiếp nầy làm nhiều việc xấu, tâm địa ác độc thì có lạy cầu đến dập trán, bươu đầu cũng không thể khá hơn. Hoặc như có người chỉ chăm chăm đi cầu đầu năm, giả lễ cuối năm nhưng cha mẹ sống thì đối xử tệ bạc, khi chất quên cả ngày giỗ thì việc cầu cúng Thần, Thánh, Phật đó phỏng có ích gì?
Đặt bát hương trên ban thờ phải theo một nguyên tắc nhất định của từng vùng. Bát nhang là nơi giáng của các hương linh, thần, thánh, tổ tiên và cũng thể hiện sự thành kính của gia chủ đối với cõi âm. Bát nhang thờ là hình thức hội tụ tâm thức. Giống như một sợi dây vô hình để khi gia chủ thắp hương cầu nguyện là thần linh, tổ tiên có thể chứng giám được lòng thành. Vì vậy bát nhang phải có sự phân chia riêng cấp bậc giữa "quan lại" và chúng dân.
Với người dân vùng đồng bằng Bắc bộ và những cư dân gốc ở đây thường là đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn cho một ban thờ. Ba bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì: bà tổ cô bên trái, thổ công chính giữa và gia tiên bên phải, Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2 bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên ban thờ là không đúng cách, không tổ hợp được sức mạnh Tâm linh hoặc là, theo thời gian số người mất trong gia chủ tăng lên thì bàn thờ cỡ bao nhiêu để bày cho đủ số bát hương (cho Tổ tiên, Kị, Cụ, Ông Bà, Bố Mẹ, Bà Cô, Ông Mãnh...). Mặt khác cũng không được dán giấy ghi rõ bát hương nào thờ Thần, bát nào thờ Tổ tiên, bát nào thờ ai cụ thể. Bởi ghi như vậy là một việc làm trịnh thượng vô tình đã "phạm thượng" với bề trên: người trần, con cháu quy định cho chỗ đi về cho Thần linh và Tiên tổ!
Khi bốc bát hương phải nhờ thầy, đó là thầy chùa (sư) hoặc pháp sư (người tu tại gia). Khi bốc bát hương các Thầy chú nguyện, thỉnh thần linh, vong linh về an nhập. Thực chất đây là việc cung cấp cho các vật thờ cúng một nguồn năng lượng ban đầu và sau này trong quá trình thờ cúng, năng lượng đó ngày một tăng trưởng khiến cho độ linh thiêng ngày càng cao. Đây cũng tương tự như việc Khai quang, Điểm nhãn cho tượng mỗi khi đúc xong, việc này có tác dụng làm tăng linh khí của pho tượng và bát nhang trước khi thờ cúng, nhằm không cho các vong linh hỗn tạp tá vào. Theo dân gian chỉ sau khi hoàn thành công đoạn này thì việc mới biến một vật từ vô tri trở nên linh thiêng, bát nhang mới có các vị Thổ công, Thần linh, Gia tiên theo chứng minh cho thân chủ khi vái cúng và tạo được linh khí để có thể giúp đỡ, độ trì cho gia chủ.
Bát hương vốn là vật vô tri (bằng sứ hay bằng đồng) chỉ sau khi thực hiện các thủ tục bốc bát hương thì bát hương đó mới có tác dụng làn vật cắm nhang khi thờ cúng. Nếu bát hương không được bốc đúng cách cũng giống như nhà không chủ. Khi đó Thần, Phật, Tổ tiên giáng lâm độ trì thì ma quỷ cũng chen chân theo để quấy phá gia chủ.
- Khi mua bát hương cần chọn loại không có chữ Hán viết ở thành.
- Đầu tiên khi mua một bát hương về thì phải rửa qua nước muối rượu gừng có pha chút nước hoa hay thả vào mấy cánh hoa hồng cho thơm để làm sạch những phần hữu hình rồi phơ cho khô hay đem xông trầm hương. Nước đã dùng đổ ra trước sân hay vẩy chung quanh nhà, không đổ xuống cống.
- Sau đó lót ở đáy bát nhang một mảnh giấy trang kim vàng (vừa để lót, vừa phòng các đồ yểm trong bát không bị cháy theo khi bát nhang “hoá”).
- Bát nhang đã được làm đúng pháp là bát nhang có cốt: Cốt bát nhang có 7 thứ báu (Thất bảo) như vàng, bạc, ngọc, mã não, san hô,...Tối thiểu có 3 thứ: vàng, bạc, ngọc được bọc bởi 1 tờ giấy tráng kim dùng bút đỏ đã được làm phép chú bút, chú giấy, chú mực ghi một số chữ (do sư ghi, chữ thiên do các vị Thánh ngự ghế viết). Trong bát nhang còn có tiền âm ("Ngũ Lộ Thần tài"), tiền dương màu đỏ mệnh giá mang số 5 (sinh) được gấp thành các chiếc thuyền nhỏ xếp xung quanh khối cốt thất bảo.
- Sau đó đổ tro đốt bằng rơm nếp (hay trấu) mà ngày nay thướng có bán tại các hàng mã vào cho đầy, đứng cho cát vì cát nặng. Dùng trấu rất tốt bởi trấu bọc gạo là hạt ngọc của Trời, nó thanh sạch, cao quý.
- Nhiều người còn dán ra ngoài bát nhang ở chính diện, nơi in hình mặt trời có 2 con rồng chầu vào một mảnh giấy đỏ có viết chữ bằng mực Tàu tên của bát nhang.
- Sau cùng là đọc Kinh hay Chú Mật Tông, Tiên Gia tùy theo môn phái của Thày để an vị Bát nhang. Khi làm phép lần đầu, người bốc bát hương cắm cây chữ Thọ bằng đồng để thắp hương vòng; cắm 9 hay 3 cây nhang tùy bát của Phật hay các tầng khác. Lúc an vị cần đặt bát hương ngay ngắn sao cho mặt nguyệt (lưỡng nghi) nằm trên trục vuông góc với bàn thờ và theo hướng bàn thờ và Bát nhang chính ở vị trí giữa (so với 2 cạnh bên bàn thờ).
Chỉ khi hoàn thành các công đoạn này thì bát hương mới chính thức được đưa vào sử dụng làm vật thờ cúng và mới có đủ linh lực.
Bát hương đã bốc xong, gia chủ phải đặt nơi bàn thờ sạch sẽ, không nên để uế tạp. Mỗi khi sắp xếp lại ban thờ (thường vào 23 và 30 tháng Chạp) phải khấn vái, xin phép và chỉ được di chuyển bình hoa, chén nước, đỉnh đồng, đèn,... còn bát nhang, bài vị đã định vị thì không được xê dịch. Khi vệ sinh bát nhang, bài vị phải lấy tay giữ không cho xoay rồi lấy khăn sạch, ẩm, phun rượu cho pha gừng giã nhỏ, nước hoa lau cho sạch.
Đồng thời, khi chân nhang quá nhiều cần rút bớt, nhớ để lại 5 chân. Những chân nhang đã nhổ cần rồi đốt. thả tro xuống sông suối.
Bát nhang bỏ đi (ví dụ bát nhang của ban thờ vong) cần thả xuống sông suối (tốt nhất là đặt trên miếng xốp nổi), tránh vất nơi uế tạp. Nghiệm ra nhưng người (gia chủ hay vì chức trách) xử lý không đúng với bát hương sẽ gặp sự không may.
Mỗi khi cầu cúng cần mở rộng cửa, thắp đèn trước (khởi động), rót nước, rót rượu (dương cầu âm), rồi thắp hương (phát sóng) và khấn cúng (kêu cầu). Chú ý thắp 3 hay 5 nén hương bởi 3, 5 là số lẻ, thuộc Dương mà Dương thờ Âm là hợp lẽ. Nếu thắp quá nhiều hương sẽ mở đường cho Thập loại chúng sinh đến, tạo ra sự lộn xộn, phiền toái cho Thần, Tổ tiên mình thỉnh cầu. Nhớ rằng khi thắp phải để hương cháy đều, dùng tay phẩy nhẹ cho tắt lửa, không thổi. Khi cắm hương cần cắm cho ngay ngắn mới có tác dụng dẫn lời thỉnh cầu tới đúng nơi cần đến. Đồng thờ không cắm chồng các chân hương lên nhau nhằm tránh tạo ra những lớp thô (cũ) và thanh (mới) và phòng bốc hoả.
Trường hợp bát hương tự nhiên bốc cháy, dân gian cho rằng báo "điềm” hoá âm là khi chân hương cháy âm ỉ từ trong ra rồi đổ ra xung quanh thường liên quan đến mồ mả, thờ cúng còn hoá dương là cháy từ trên xuống có liên quan đến nhà cửa, cuộc sống hằng ngày. Khi đó cần để hoá hết nhưng nhớ phòng hoả hoạn đừng dùng lửa dập tắt tránh "Thuỷ Hoả giao tranh".
Nếu đang cầu cúng mà hương tắt cứ để thế mà châm lửa tiếp, đừng nhổ lên đốt lại bởi khi nhổ lên cắm lại thành hương thừa, mất gốc, cầu cúng mất linh nghiệm. Cổ nhân cho rằng, ngoài lý do hương kém phẩm thì cần phân biệt:
Thế đấy xung quanh bát hương có nhiều việc cần biết. Song còn do hoàn cảnh và tập tục mỗi nơi. Nhớ lại ngày trước chúng tôi chỉ đốt hương trong 3 ngày Tết. Bát hương tự tạo bằng cốc nhựa, bát ăn, bên trong đựng gạo. Ngay hôm cưới tôi, nhà vợ chưa kịp bầy bát hương tôi đã phải chặt một khoanh chuối, quấn giấy đỏ xung quanh. Sau này, khi đã đi nhiều, nghe lắm, chắt lọc sách vở tôi đã cỡ vạc ra nhiều nhưng có những điều vẫn chưa lý giải nổi, đặc biệt ngẫm ra mình thực hiện còn chưa đúng nghi thức trên. Sửa dần vậy nhưng cốt ở Tâm thành!
Trích từ trang Chùa Thiên Ân
1. Nếu đặt nhà tắm tại phía Bắc trong nhà, hoặc phía Đông Bắc được gọi là Hậu quỷ môn thì có thể mang lại hậu quả xấu. Nếu gặp kiểu phong thuỷ nhà ở này thì gia chủ có thể mắc bệnh xơ vữa động mạch, xơ gan, sỏi mật, tiêu chảy, loét dạ dày, táo bón, ngộ độc thực phẩm, khí huyết không dồi dào,... đặc biệt có ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ của người già.
Trong phong thuỷ nhà ở, để nhà tắm không mang lại tướng hung, tốt nhất hãy đặt nó ở phía Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía Đông (nhìn từ trung tâm của ngôi nhà). Đồng thời, phải tránh đặt tại phương vị tương xung với năm sinh của gia chủ (ví dụ như người sinh năm Mão, phải tránh đặt ở phía Đông). Có thể thấy, việc thiết kế vị trí nhà tắm quả thực không phải là chuyện đơn giản. 2. Nhà ở hiện nay thường thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc phía Đông Bắc là những nơi mà ánh mặt trời không thể chiếu vào. Hay nói một cách khác, phòng bếp, phòng khách đặt ở phía Đông Nam hoặc Tây Nam, còn nhà tắm đặt ở phía Bắc. Những người hay than phiền rằng sức khoẻ không tốt phải chăng có liên quan đến phong thuỷ nhà ở không tốt, qua điều tra được biết khoảng tới một nửa trong số họ là do thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc Đông Bắc. Nếu nhà tắm đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì phải chuyển ngay sang vị trí khác. Khi nói đến việc cải tạo hoặc di chuyển vị trí nhà tắm thì rất nhiều người đều nói rằng "không có không gian nên rất khó làm được". Sự thực thì không gian của nhà tắm là rất nhỏ, chỉ cần thực lòng muốn cải tạo hoặc di chuyển vị trí thì chắc là không gặp nhiều khó khăn, khi làm bạn sẽ cảm thấy đơn giản hơn nhiều so với những gì đã tưởng tượng. Chỉ cần tránh khỏi vị trí trung tâm 15 độ ở phía Bắc (phạm vi của Tý). Về phía Đông Bắc thì chỉ cần tránh 10 độ phía Đông Bắc (phạm vi của Sửu) và 10 độ trung tâm phía Đông Bắc (phạm vi của Cấn) là được. Nếu như nhà vệ sinh đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần vị trí của bệt xí lệch đi do với các phương vị 15 độ này là được. Nếu bệt xí đặt trong phạm vi này thì chỉ cần di chuyển bệt xí chứ không cần cải tạo lại cả nhà tắm. Nếu bức tường cạnh nhà tắm là tường của phòng bếp hoặc nhà kho thì tương đối ổn. Khi cải tạo thì chỉ cần hoán đổi vị trí là được. Chỉ cần cơ thể khoẻ mạnh thì có thể yên tâm làm việc, chẳng mấy chốc sẽ ăn nên làm gia, đương nhiên có thể thiết kế cho mình một ngôi nhà có phong thuỷ rất tốt. Do đó, để luôn khoẻ mạnh thì cải tạo vẫn là điều kiện tiên quyết. Như vậy sẽ tốt hơn cho bệnh tình của gia chủ hoặc người già. Do cách thiết kế của mỗi kiểu kiến trúc nhà ở đều khác nhau, có khi ngôi nhà rất đơn giản nhưng cơ bản lại không thể di chuyển nhà tắm. Lúc này hãy làm theo cách trên, đó là thay đổi vị trí của bệt xí. Nếu di chuyển bệt xí thì nên mở cửa sổ trong nhà tắm, hàng ngày để một đĩa muối ăn ở đó rồi đặt một chậu cây nhỏ, thông qua năng lượng xanh của cây cảnh và muối ăn để hóa giải tướng hung của nhà tắm. 3. Ngoài phía Bắc và Đông Bắc thì nhà tắm ở phía Tây Nam cũng thuộc tướng hung. Nếu muốn di chuyển thì chỉ có thể từ phía tây di chuyển sang phía Tây Bắc. Nhà tắm ở phía Tây cũng không tốt, tuy nhiên chỉ cần không có ai sinh năm Dậu, hoặc con gái đang trong thời gian chuẩn bị làm lễ cưới thì không cần phải lo lắng. Để yên tâm bạn có thể di chuyển bệt xí sang phía Tây Bắc, tức là phạm vi của Nhâm hoặc Quý. Kỳ cách quan trọng nhất là Âm Dương hóa Lộc hoặc hóa Quyền, thêm Xương Khúc phù tá . (Tưởng Giới Thạch tung hoành ở lục địa Trung Hoa, bị thua chạy ra Đài Loan rồi biến Đài Loan thành một cường quốc có cách Thái Âm hãm địa cư Thìn hóa Lộc, được thêm Khoa Quyền chiếu, lại có Khúc Xương phù tá).
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
1. Vị trí để tủ lạnh
Theo phong thủy học, vị trí bài trí tủ lạnh tốt nhất trong ngôi nhà là phòng bếp. Tủ lạnh vốn thuộc hành Kim, phòng bếp lại là nơi Hỏa vượng, mà Hỏa khắc Kim. Vì vậy, để tủ lạnh trong bếp sẽ có tác dụng làm cân bằng tính Hỏa. Nhưng cần chú ý, tủ lạnh không kê đối diện hoặc gần bếp vì khí nóng từ bếp và hơi lạnh từ tủ lạnh xung khắc với nhau sẽ gây ảnh hưởng sức khỏe của gia chủ. Ngoài ra, nó còn có thể khiến những người trong gia đình không hòa thuận.
Người thuộc mệnh Thủy nếu sự nghiệp thiếu thuận lợi, nên kê tủ lạnh ở nơi làm việc. Trong đó có thể để nước, bia, nước đá để sự nghiệp được thăng tiến và tài vận hanh thông. Ngoài ra người mệnh Thủy cũng có thể kê thêm một chiếc tủ lạnh khác trong phòng khách để hỗ trợ cho mệnh của mình.
Những người mệnh Mộc nên kê tủ lạnh ở chỗ khuất của ngôi nhà. Trong các quán bar, người ta thường kê tủ lạnh trong tủ gỗ. Đối với những người không hợp với Kim, đây là một cách tuyệt vời để hóa giải ảnh hưởng xấu từ tủ lạnh.
Không đặt tủ lạnh đối diện với cửa bởi điều này có thể khiến tài lộc của gia chủ không ổn định.
2. Cách lựa chọn màu tủ lạnh
Tủ lạnh là đồ dùng không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, nhưng đối với một số người, nó lại kị về mệnh. Để bài trí tủ lạnh hợp phong thủy, màu tủ lạnh hợp với mệnh của gia chủ bạn nên màu sắc tủ lạnh phù hợp một mặt có thể hóa giải tác dụng không mong muốn với người xung khắc Kim, đồng thời lại có tác dụng hỗ trợ với người hợp mệnh Kim.
Theo thuyết ngũ hành, Kim tương ứng với màu trắng, Mộc tương ứng với màu xanh lá cây, Thủy tương ứng với màu đen và xanh lam, Hỏa tương ứng với màu đỏ và tím, Thổ tương ứng với màu vàng và nâu. Người kị với Kim có thể lựa chọn tủ lạnh có màu đỏ, tím hoặc xanh lá cây để hạn chế tính Kim của tủ lạnh. Người hợp với Kim nên chọn tủ lạnh màu trắng, vàng, nâu để tăng thêm vận may.
3. Tủ lạnh không được để trống
Tủ lạnh liên quan thức ăn của người sử dụng. Thức ăn dồi dào ngụ ý chủ nhân không phải lo lắng về cơm ăn áo mặc. Ngược lại, tủ lạnh bị bỏ trống có nghĩa là tình hình kinh tế không khả quan, bởi vậy tủ lạnh nên để đầy đủ thức ăn.
4. Dọn dẹp tủ lạnh định kỳ
Tủ lạnh có liên hệ mật thiết với tài vận của gia chủ, do vậy chủ nhân cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ tủ lạnh. Như vậy mới khiến tài lộc sinh sôi.
5. Không đặt đồ điện hoặc đồ vật trên nóc tủ lạnh
Có người để tiết kiệm không gian, đã đặt lò vi sóng, lò nướng hay máy xay sinh tố lên nóc tủ lạnh. Chưa nói về góc độ phong thủy, thì về khoa học, sóng điện từ do các thiết bị điện này phát ra đã ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe người sử dụng.
Ngoài ra cũng không để đồ vật trên tủ lạnh. Nhiều người có thói quen tiện tay để đồ vật lên tủ lạnh, lâu ngày nóc tủ lạnh sẽ trở thành nơi chứa đồ. Việc này tưởng là vô thưởng vô phạt, nhưng thực ra nó lại ảnh hưởng đến sự tụ tài. Vì vậy tủ lạnh tốt nhất là nên lau chùi sạch sẽ, cả bên trong lẫn bên ngoài.
(Theo Afamily)
1. Ngũ hành Kim:
Kinh dịch là một di sản văn hóa phi vật thể của Trung Hoa nói riêng và thế giới nói chung. Bên trong bộ sách này chứa đựng hệ thống tư tưởng triết học đồ sộ của người Á Đông cổ đại. Kinh Dịch được nghiên cứu dựa trên sự biến đổi và vận động của vạn vật. Trong đó, ba yếu tố then chốt làm nên tư tưởng cốt lõi của kho tang này chính là thiên, địa, nhân. Khi con người thấu suốt 3 yếu tố đó thì hoàn toàn có khả năng làm chủ và vận hành theo quy luật tự nhiên.
Nhắc đến Kinh Dịch, nhiều người thường quy chụp rằng đây là một hình thức bói toán mang tính chất mê tín dị đoan. Thế nhưng, bản chất của Kinh Dịch chính là nghiên cứu về thiên, địa, nhân dựa theo những quy luật vận động và tồn tại vốn có. Đó là những triết lý mang tính khoa học và duy vật sâu sắc. Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa có một công trình nào chứng minh rằng Kinh Dịch chứa đựng triết lý thiếu căn cứ. Ngược lại, Kinh Dịch được xem như một kho báu bí ẩn mà người Á Đông thời cổ đại đã khơi nguồn được dựa vào những quan sát từ vạn vật.
Kinh Dịch được mở đường bởi nhà văn hóa Trung Hoa cổ đại Phục Hy. Lúc đó, Kinh Dịch vẫn còn đơn sơ. Về sau, Kinh Dịch được nghiên cứu và phát triển thành một hệ thống triết học qua các triều đại trong lịch sử Trung Hoa như nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu,… rồi được nhà triết học Khổng Tử tiếp tục xây dựng.
Cấu trúc khái quát của Kinh Dịch
Biểu tượng của kinh dịch được gọi là quẻ. Quẻ là các đường trừu tượng nằm trong tập hợp 64 tổ hợp. Trong mỗi quẻ lại chia thành 6 hào. Chúng được thể hiện dưới dạng các đoạn thẳng nằm ngang. Mỗi hào như thế có thể là đường nét liền (Dương) và đường nét đứt (Âm). Sáu đoạn thẳng này được xếp lên nhau từ dưới lên trên. Như vậy, chúng ta có được 64 tổ hợp của hào ứng với 64 quẻ. Mỗi quẻ là tượng trưng cho một trạng thái, diễn biến có thể xảy ra. Khi gieo quẻ bằng phương thức Kinh Dịch, người ta có thể chọn đúng tĩnh hoặc động. Đó là sự biến đổi từ Âm sang Dương hoặc ngược lại tạo thành một quẻ khác. Do đó, chúng ta sẽ căn cứ vào các thay đổi này nhằm có sự dự đoán những sự việc sẽ xảy ra trong tương lai.
Vì có đến 64 quẻ cùng với việc gieo quẻ sử dụng số ngẫu nhiên nên xác suất đồng nhất hoặc trùng hợp là điều vô cùng hi hữu.
Lợi ích của kinh dịch
Cho đến ngày nay, người ta đã công nhận nhiều lợi ích khác nhau mà kinh dịch mang đến cho cuộc sống con người. Kinh Dịch hình thành cho con người những hiểu biết về các quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ. Nhờ đó, chúng ta có thể nhìn thấy sự đơn giản và rõ ràng của mọi sự việc cho dù hình thức biểu hiện có phức tạp hoặc khác nhau đến đâu đi chăng nữa. Đồng thời, Kinh Dịch còn cho chúng ta hiểu rằng vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Từ đây, con người biết cách mềm dẻo và linh hoạt trong cuộc sống nhằm giải quyết những tình huống khác nhau một cách êm đẹp. Mặc khác, Kinh Dịch sẽ cho bạn hiểu được những nguyên lý bất biến của sự sống. Đó là yếu tố tạo nên trật tự của cuộc sống mà chúng ta không thể thay đổi. Nhờ đó, bạn sẽ có sự thay đổi linh hoạt nhằm điều chỉnh cho hài hòa mang đến cuộc sống viên mãn hơn.
Phổ biến nhất có thể nhắc đến những ứng dụng thiết thực của kinh dịch trong việc xây dựng và kiến thiết nhà cửa. Chẳng hạn, có một cặp vợ chồng nọ trước đây rất yêu thương nhau nhưng kể từ khi chuyển đến căn nhà mới mua thì liên tục xảy ra cãi vã và mâu thuẫn đến mức muốn tiến đến ly hôn. Nhưng nhờ gặp được một người am hiểu về kinh dịch, họ đã tìm ra được căn nguyên của vấn đề. Sở dĩ, gia đình hay xảy ra cự cãi là bởi vì ngôi nhà ấy nằm ở ngay ngã ba có đường đi đâm thẳng vào nhà. Ứng dụng của Kinh Dịch trong xây dựng nhà cửa còn giúp bạn biết cách bố trí sắp xếp lối đi, cửa ra vào, gian bếp, cầu thang, nhà tắm nhằm đảm bảo sự chan hòa yêu thương trong gia đình. Nếu con cái bạn thường không nghe lời và khó dạy bảo thì bạn nên xem lại hướng cầu thang của ngôi nhà mình đang ở.
Bên cạnh những ứng dụng về lĩnh vực xây dựng, bố cục nhà cửa thì Kinh Dịch còn mang đến nhiều lợi ích trong vấn đề mồ mã, hôn nhân gia đình và dự báo tương lai. Hệ thống triết học này sẽ mang đến cho bạn một cái nhìn đúng đắn và thấu suốt bản chất thật sự của mọi vấn đề. Kinh Thi không phải là bói toán bởi lẽ nó không quy chụp hay đánh đồng mọi sự việc theo kiểu dân gian như: Dần thân tị hợi tứ hoành xung, Tam tai, Trai Nhâm gái Bính,… Mà trái lại, Kinh Thi sẽ cho bạn thấy được tính khoa học bên trong mọi dự báo, nhận định. Đó chính là lý do mà Kinh Thi trở thành một hệ thống triết học được nhiều bậc Giáo sư, Tiến sĩ đầu tư nhiều thời gian nghiên cứu và giải mã. Cho đến nay, Kinh Thi vẫn còn là một kho báu đầy tiềm năng mà con người chưa khám phá hết được.
Kham Dư: Kham, có ý nghĩa là đất nhô lên, là từ đại diện cho “địa hình”; “dư” có nghĩa là thừa dư, có nghĩa là làm bằng, chuyên chở những phần nhô lồi của đất, có nghĩa là nghiên cứu địa hình. Trong “Sử ký” đặt các nhà Kham Dư tương đương với các nhà Ngũ hành, vốn cùng ngửa mặt xem thiên văn, cúi xuống xét ý nghĩa của non nước, thế đất, cảnh quan; người đời sau gọi chung là nhà phong thủy. Nhưng vẫn có người gọi là Kham Dư, nhưng không chỉ xem phong thủy mà còn chia thành nhiều dòng là: La la, Nhật Khoá, Huyền Không học, Táng pháp và Hình gia.
Thầy Phong thủy: Là người tìm long điểm huyệt, quý nhất là tìm được những huyệt tàng phong, nhận khí là quý nhất. Nhưng bản chất của phong là động, khí lại theo phong mà đến hoặc di: thủy có tính thu liễm, khi nếu gặp thủy thì có thể ngưng đọng để kết huyệt. Vì vậy, khi tìm huyệt để mai táng phải xem xét cẩn thận hai yếu tố Phong và Thủy, vì thế, người nghiên cứu vể tầm long điểm huyệt, kham thiên, dư địa gọi là thầy Phong Thủy. Sách Táng Thư chép: “Khí nhờ gió mà tan, gặp nước thì dừng”. Lại có người nói: Gió thuộc dương, nước thuộc âm, người học Kham dư đặc biệt chú trọng đến khí Âm
Dương, huyệt quý bởi tàng phong tụ khí, nên gọi chung là Phong Thủy.
Địa lý: Kham Dư hoặc gọi Phong Thủy hoặc cũng gọi là Địa Lý. Trong phần “Hệ từ thượng – Kinh Dịch” có viết: “Ngửa mặt xem thiên văn, cúi xuống xét địa lý”. Nhưng địa lý ở đây dùng không cùng nghĩa với Địa lý học hiện đại. Một người phương Tây tên là Chatley đã từng đưa ra khái niệm về Địa lý của Trung Quốc như sau: “Hệ thống lý thuyết này là một nghệ thuật giúp cho người sống và người chết có được một môi trường sống tốt nhất trong trời đất, luôn cầu mong được cân băng với môi trường âm dương”. Đó là lấy “địa lý” gọi thay “Kham Dư” thực ra người này đã có thiên kiến và chỉ nhìn thấy hiện tượng đời sống của các thầy phong thủy thời nay mà lược bỏ hai kiến thức có quan hệ mật thiết với phong thủy là Thiên văn và Kham Dư.
Thiên trì thủy: (ao nước trời) Còn được gọi là “vệ long tri”, thường là những ao nước tổ tông sơn hoặc cao cương sơn, phân thành ngũ cách: lưỡng trì kẹp long quý nhất; đơn trì hộ giả thứ chi: tiểu trì thủy, thủy bất lưu xuất, cũng không khô hoạt, gọi là “vệ long tỉnh” (giếng vệ long) lại là thứ; phi trì phi hồ, chỉ là những dòng nước nhỏ, còn gọi là “vệ long tuyền”, bốn cái này thuộc cát cách. Nếu long trì bị phá, thì long khí thoát theo nên có thể nói là trong cách Tốt có mang theo khí hung. Một nhà Phong thủy đời Tống cho rằng: Rất ít người biết đến Thiên trì thủy, chu vi, sâu nông của nó rất kỳ diệu, có thể thịnh vượng Thiên thủy, bao phủ cho long mạch, nhìn đầy vơi của Thiên trì thủy để đoán định thịnh suy: ở nơi đất bằng mà có Thiên trì thủy rộng và sâu thì đó chính Chân long tú thủy, vượng mạch, rất nhanh phát, bốn mùa đều tươi tốt, nhưng nếu khi nước trong hồ cạn thì báo hiệu điểm suy vi của thế đất
Tuổi Tý |
Tuổi Mão |
Tuổi Ngọ |
Tuổi Dậu |
Tuổi Sửu |
Tuổi Thìn |
Tuổi Mùi |
Tuổi Tuất |
Tuổi Dần |
Tuổi Tỵ |
Tuổi Thân |
Tuổi Hợi |