Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Quẻ Quan Âm thứ 80 Quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân đoán rằng làm việc phải có trước có sau, không nên thay đổi. Việc đã dự tính sẽ được trợ giúp
Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 80 được xây dựng trên điển cố: Trí Viễn đầu quân.

Quẻ thượng cát thuộc cung Mùi. Làm việc nên có trước có sau, đừng nên bất nhất thì sẽ có được sự tin tưởng mà không hỗn loạn. Những việc trong lòng dự tính cứ bình tĩnh mà thực hiện, sẽ có quý nhân đến trợ giúp.

Thử quái quý nhản tiềp dẫn chi tượng. Phàm sự hòa hợp đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Trí Viễn Đầu Quân

Tương truyền vào thời kỳ Nam Bắc Triều, ở trang trại nhà họ Lý có một viên ngoại họ Lý, sinh được hai người con, người con trai tên là Lý Hòng Tín, người con gái tên lầ Lý Tam Nương. Lưu Trí Viễn (895 – 948), cũng gọi là Lưu Tri Viễn, là vị hoàng đế khai quốc của nhà Hậu Hán trong thời kỳ Ngũ Đại, sau khi lên ngôi hoàng đế đổi tên là Lưu Hạo) xuất thân nghèo khố, sau khi vào quân đội, đi chăn ngựa ở Tấn Dương, gặp Lý thị, vào làm rể trong Lý gia trang, thành hôn với Lý Tam Nương.

Không ngờ Lưu Trí Viễn vốn có mệnh làm thiên tử, sau khi lạy nhạc phụ nhạc mẫu, thì hai ông bà đều qua đời. Vợ chồng Lý Hồng Tín vốn đã oán giận Lưu Trí Viễn, thấy cha mẹ qua đời, sợ Lý Tam Nương sẽ phân chia gia sản với mình, liền đổ cho Lý Tam Nương tư tình mà đính hôn, làm bại hoại gia phong, muốn hại chết vợ chồng Lưu Trí Viễn và Lý Tam Nương. Vì vướng mắc quan hệ gia đình, sợ để lại tiếng xấu bất nhân bất nghĩa, hai người bèn đuổi Lý Tam Nương đến thôn Ma Oa gánh nước tưới gai, lại đẩy Lưu Trí Viễn đến khu vườn có con yêu tinh dưa tác quái để trồng dưa. Lý Tam Nương biết được mưu kế của họ, ra sức ngăn cản Lưu Trí Viễn đến vườn dưa, nhưng Lưu Trí Viễn cậy mình có võ nghệ, vẫn quyết đi một mình.

Khu đất mà Lưu Trí Viễn trồng dưa nằm ở vùng núi lớn tại Dương Địch xưa nối thông với hai đất Trịnh, Mật, tương truyền ở đó thường có một con quái thú màu đỏ ẩn hiện, không ai dám đi qua, mọi người gọi đó là “Bất Quá nhai” (núi không dám đi qua). Những thương nhân và tiểu thương của hai vùng Trinh, Mật qua đây đều phải đi đường vòng. Buổị tối ngày thứ ba sau khi Lưu Trí Viễn đến khu ruộng trồng dưa, thì yêu tinh dưa xuất hiện, chỉ thấy toàn thân màu đỏ, giống lao trông như một đám lửa lao đến. Lưu Trí Viễn vốn võ nghệ tài giỏi, ở nhà Lý Tam Nương cũng đã luyện được công phu luyện ngựa, bèn dậm đất nhảy bật lên, cưỡi lên lưng con quái thú, chạy qua chạy lại mười tám vòng, thì con quái thú đã thấm mệt, toàn thân toát mồ hôi, toàn là màu máu. Thì ra nó chính là con ngựa quý “Hãn huyết bảo mã” nổi tiếng.

Sau khi yêu tinh dưa bị Lưu Trí Viễn thuần phục, có vị tiên chỉ cho đào sâu ba thước tại mảnh đất trồng dưa, đào được ba báu vật là bộ áo giáp bằng vàng, cây thương bằng bạc và thanh kiếm bằng đồng, lại dặn dò anh hây đầu quân khởi nghiệp, chắc chắn sẽ có thành tựu.

Lưu Trí Viễn có được con ngựa quý và thanh kiếm báu, bèn từ biệt Tam Nương, đi đầu quân.

Sau khi Lưu Trí Viễn đi, Lý Tam Nương phải chịu sự dày vò của anh trai và chị dâu. Chị dâu bắt cô mỗi ngày phải gánh mười ba gánh nước, đêm đến phải đẩy cối xay đến sáng. Lúc này, Lý Tam Nương đã có thai. Một tối, anh trai của Tam Nương đưa cơm cho cô, thấy cô đi được một bước thì thở dốc đến ba lần, thực không đành lòng, liền bảo cô ăn cơm, còn mình thì đẩy giúp cối xay. Không ngờ chị dâu cũng đi theo đến đấy, thấy vậy thì giật phắt cái bát trong tay Lý Tam Nương, ném xúống đất. Lúc này Lý Tam Nương thấy đau bụng, rõ ràng là sắp chuyển dạ, nhưng chị dâu lại cho là giả vờ, cầm cái giằng cối xay định đánh. Sau thấy Tam Nương quả thực sắp sinh con, bèn kéo chồng chạy đi. Tam Nương đành phải tự mình sinh nở, dùng miệng để cắn dây rốn cho con, nên đặt tên con là “Giảo Tề Lang” (chàng cắn rốn). Tam Nương gọi người gia đinh già đến, ngay đêm đó đưa đến chỗ Lưu Trí Viễn để nuôi nấng.

Mười sáu năm sau, một hôm Lý Tam Nương đang múc nước ở giếng, có một con thỏ trắng mang mũi tên trên mình chạy đến, để lại mũi tên rồi đi. Sau đó có một vị tướng trẻ đuối đến, nói chuyện với Lý Tam Nương, mới nhận ra là mẹ đẻ của mình. Vị tướng trẻ đó chính là Giảo Tề Lang, nhưng cậu không dám nhận mẹ ngay tại đó, mà giả làm cháu. Sau đó về báo cho cha là Lưu Trí Viễn, mang quân về thôn Sa Đà, vợ chồng, mẹ con được đoàn viên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Lưu Trí Viễn Đầu Quân

Đau phổi với nằm mơ thấy bơi –

Một người đi du học nước ngoài lâu ngày trở về, bị bệnh đau phổi rồi chết. Khi sắp chết người bệnh đề nghị với thầy thuốc là sau khi ông ta chết hãy kể lại giấc mơ này cho người khác biết. Sau khi người bệnh mất được 2 năm, thầy thuốc công bố giấc mơ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mà người bệnh đã kể:

 mơ thấy bơi

“Tôi ở một vùng có nhiệt độ cao, có lẽ là vùng biển châu Á. Nhưng tôi thấy không có mặt trời, có lẽ lúc đó là đêm tối. Mấy người bạn hẹn tôi đi bơi. Đến bờ biển, tất cả nhảy xuống biển. Lúc đó khí trời vẫn tốt nhưng lúc tôi nhảy xuống biển, trời nổi gió. Gió từ biển thổi vào rất to. Mặt biển đang yên lặng bỗng nổi sóng gió.

Lúc đó chân tay tôi rã rời, tôi dần chìm xuống. Tôi hoang mang sợ hãi, uống nhiều nước, không thở được, cố ngoi lên nhưng không được, rồi chìm nghỉm”.

Khi đó thầy thuốc căn cứ vào nội dung giấc mơ và nói với người bệnh:

– Ông mắc bệnh đau phổi vào độ tuổi 50.

Người bệnh này cần hít thở nhiều không khí trong lành nên thường nằm trên giường hít thở. Nhưng ông ta ngày càng đau, chức năng giảm sút.

Căn cứ vào ngũ hành để phân tích bệnh trạng có thể thấy: Phổi thuộc Kim, Kim sinh Thủy. Đây là quan hệ tương sinh, vì vậy người bệnh phổi nằm mơ thấy nước.

Sách Thiên Kim phương của Tôn Tư Mạo đời Đường có ghi: “Đa số người bị bệnh phổi nằm mơ thấy con trai con gái đẹp ăn mặc như người thân của mình, sống chung với nhau, trở thành bố mẹ, anh em hoặc vợ chồng”.

Bệnh phổi với bệnh viêm phế quản mãn tính đều được gọi chung là bệnh phổi, ngoài việc uống thuốc nên chú trọng về mặt tình cảm, làm cho tính cách hoạt bát, giảm nhẹ u uất là điều quan trọng.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Bơi giữa sông: 89 – 98

Bơi lội: 83 – 38 – 63 – 28

Bơi nước trong: 89 – 39


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đau phổi với nằm mơ thấy bơi –

Thú vị khi mơ thấy bạn bè

Bạn là một phần tất yếu của cuộc sống. Giấc mơ thấy bạn bè có thể dự báo những điềm sắp xảy ra trong cuộc sống của bạn.
Thú vị khi mơ thấy bạn bè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Bạn là một phần tất yếu của cuộc sống. Mơ thấy bạn bè có thể dự báo những điềm sắp xảy ra trong cuộc sống của bạn.


► Tham khảo thêm: Giải mã việc mơ thấy cá, mơ thấy máu theo thế giới tâm linh

Thu vi khi thay ban be trong giac mo hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy họp bạn, thường là điềm sắp gặp vận may. Nằm mộng thấy những người bạn, dự báo sắp tham gia vào một số hoạt động xã hội náo nhiệt.
 
Mơ thấy bạn tặng quà hay vật dụng, là điềm được tài lộc vào nhà.
 
Mơ thấy mình lừa bạn, có ý nghĩa được người khác phái yêu mình tha thiết.
 
Nếu trong giấc mơ thấy bạn bè sa sút, có khả năng bạn sẽ gặp phải một số phiền toái nho nhỏ.
 
Mơ thấy bạn bè đến thăm nhà mình, tín hiệu cho thấy bạn sẽ bắt đầu một tình yêu mới vô cùng lãng mạn và hạnh phúc.
 
Mơ thấy mình và bạn thân cùng nhau đi du lịch, rất có thể bạn sẽ gặp nhiều chuyện vui trong thời gian sắp tới.
 
Nếu mơ thấy bản thân và bạn cùng lớp bị thầy cô giáo phê bình, điều này báo hiệu vận may trong chuyện thi cử của bạn, cụ thể là điểm số rất cao, ngoài sự mong đợi của bạn.   Trong mơ thấy mình với bạn cùng lớp trốn học đi chơi, bạn cần chú ý hơn đến vấn đề sức khỏe. Nhiều khả năng bạn sẽ bị ốm và phải nghỉ học đó.   Mơ thấy bản thân cùng bạn bè ăn uống, tám chuyện vui vẻ. Đây là điềm báo không mấy tốt lành về phương diện tiền bạc, bạn cần đề phòng mất trộm.   Nếu trong mơ thấy mình và bạn bè cùng làm việc ở một đơn vị, điều này chứng tỏ bạn đang có những mối quan hệ xã giao rất tốt. Bạn có thể dựa vào đó để khẳng định năng lực bản thân và đạt được nhiều thành công hơn nữa.
 
Nếu mơ thấy bản thân cùng bạn bè chơi những trò đùa vui vẻ, bạn cần hết sức đề phòng kẻ xấu lợi dụng sự mềm yếu và tin tưởng để gây tổn thương cho bạn. Đặc biệt là phương diện tình yêu đôi lứa, bạn cần tỉnh táo và sống lý trí hơn nữa.   Mơ thấy mối quan hệ của mình với bạn bè xung quanh đang có sự rạn nứt hoặc phân ly, điều đó cho thấy bạn đang không hài lòng về cả tình bạn và tình yêu. Nguyên nhân là do hai phía chưa thực sự hiểu và thông cảm cho nhau.   Nếu gặp người bạn mà bản thân rất ghét hoặc không có cảm tình, điều này báo hiệu mọi áp lực của bạn đều “không cánh mà bay”, đồng thời những vấn đề phiền não cũng được giải quyết nhanh gọn. Thời kỳ thanh thản và an nhàn sẽ nhanh chóng trở về bên bạn, chỉ cần bạn kiên nhẫn chờ đợi.   Trong mơ thấy bạn rất thân, dấu hiệu này cho thấy sự hiếu thắng của bạn đã gây ra không ít rắc rối. Bạn quyết không nhượng bộ chỉ vì sự bảo thủ của mình. Tuy nhiên, giấc mơ này cho thấy, lần này người phải nhún nhường chính là bạn.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thú vị khi mơ thấy bạn bè

Văn khấn Lễ thần ngày mừng thọ

Trong ngày lễ Thượng Thọ cho ông bà bô mẹ, gia chủ gia chủ sửa soạn mâm lễ tạ hơn thần thánh đã phù hộ độ trì cho ông bà bố mẹ sống lâu, vạn thọ...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong tục xưa nhà nào có ông, bà, cha, mẹ thọ từ 70 tuổi trở lên đều làm lễ Thượng Thọ cho ông, bà, cha, mẹ. Đây là tập tục thể hiện đạo lý làm người, uống nước nhớ nguồn, kính trọng biết ơn người đã sinh thành nuôi dưỡng mình, rất đáng được trân trọng.

1. Sắm lễ:

Trong ngày lễ mừng thọ, gia chủ phải có mâm lễ: Hương hoa, quả, vàng mã cùng lễ mặn gà xôi hoặc lễ tam sinh (lợn, bò, dê), đem ra đình lễ Thần, gọi là bái tạ Thần Hưu (tạ ơn Thánh Thần đã phù hộ cho cha mẹ được sống lâu).

2. Dâng lễ:

Lúc lễ, cha mẹ ăn mặc đẹp, ngồi trên ghế đặt chính giữa, con cháu tế tự lễ bái. Con cái dâng lễ, mỗi người dâng một chén rượu, mừng thọ, hoặc nâng một làn quả đào gọi là bàn đào chúc thọ.

Con cháu lễ bái xong rồi tổ chức cỗ bàn ăn mừng, mời hàng xóm, khách khứa đến dự. Khách đem lễ vật đến mừng và chứng kiến sự hạnh phúc của cụ, sự hiếu thảo của con cháu. Họ hàng cũng có lời chúc mừng. Hai bên nhà có treo những câu đối, đại tự để mừng cụ. Có nhà còn mời ca nhi tới để ngâm thơ, ca hát.

3. Văn khấn lễ mừng thọ

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Con lạy chín phương Trời, mười phương phật, Chư Phật mười phương

Hôm nay ngày…….tháng…….năm……

Tại (địa chỉ)…………………………….

Hậu duệ tôn là:………… quỳ trước linh vị….. (đọc linh vị của Thủy Tổ, Tiên Tổ được liệt thờ trong nhà thờ họ)

Kín cẩn lạy tâu rằng:

Cúi nghĩ: tuổi tác tự Trời Phật ban cho

Hình hài nhờ Tổ Tiên mới có

Nay:

Toàn dân hớn hở đón xuân sang

Tín chủ mừng vui làm lễ thọ

Yết cáo chư vị Thần Linh

Kính lạy miếu đường Tiên Tổ

Xin rộng lòng nhân

Nguyện vun trồng đức độ

Mong Sao Ngày tháng mãi bền lâu

Ước gốc cành thê củng cố

Tưởng niệm công đức ngày xưa

Gọi chút hương khói lễ nhỏ

Ngửng trông chứng giám tấc thành

Cúi xin phù trì bảo hộ

Mong Tiên linh khơi rộng mạch Trường sinh

Cho hậu duệ leo lên thềm Thượng thọ

Trên Thiên tào tăng niên kỷ lâu dài, như rùa hạc vô cương

Dưới Hải ốc tươi phúc lộc dồi dào, như suối nguồn bất hủ

Khấn đầu cúi lạy Thần linh, tiên tổ thượng hưởng!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn khấn Lễ thần ngày mừng thọ

15/4 âm lịch mừng Đại lễ Phật Đản, kính ngưỡng Đức Phật Thích Ca

15/4 âm lịch hàng năm xưng ngày Phật Cát Tường, tức ngày Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra, thành đạo, nhập Niết Bàn. Ba ngày này trùng với nhau, gọi là Lễ Phật Đản
15/4 âm lịch mừng Đại lễ Phật Đản, kính ngưỡng Đức Phật Thích Ca

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

15/4 âm lịch hàng năm xưng ngày Phật Cát Tường, tức ngày Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra, thành đạo, nhập Niết Bàn. Ba ngày này trùng với nhau, gọi là đại lễ Vesak hay Lễ Phật Đản.


154 am lich mung Dai le Phat Dan, kinh nguong Duc Phat Thich Ca hinh anh
 
15/4 âm lịch là một trong những dịp lễ kỉ niệm lớn nhất của Phật Giáo bởi nó gắn liền với ba dấu mốc quan trọng trong cuộc đời của Đức Phật. Phật giáo Bắc tông cho rằng, ngày 15/2 âm lịch là ngày Phật Niết Bàn, ngày 8/4 âm lịch là ngày Phật sinh còn ngày 8/12 âm lịch là ngày Phật thành đạo. Nhưng Phật giáo Nam tông thì quan niệm, cả ba dịp này đều diễn ra vào ngày 15/4 âm lịch, còn gọi là tam kỳ đồng nhất khánh, Lễ Phật Đản. Biểu hiện rõ ràng nhất là Phật giáo các nước Sri Lanka, Thái Lan, Myanmar, Singapore, Malaysia, Indonesia.   Lễ này còn có danh xưng là Hoa lễ bởi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lúc xuất thể tương truyền trên trời dưới đất có rất nhiều hoa thơm, ngày Phật Niết Bàn cũng tán hoa vô số.    Vesak có nghĩa là ngày trăng tròn, tượng trưng cho sự viên mãn của Đức Phật, phúc tuệ đầy đủ, chân lý soi tỏ khắp nhân gian để lục đạo chúng sinh đều cảm nhận được. Phật gợi ra phương hướng loại bỏ muộn phiền u tối, chứng ngộ Phật tính. Vào ngày này, tất cả các chùa Phật giáo đều làm lễ lớn, trước Phật cung dưỡng hoa quả, đăng đèn.   Từ năm 1950, tập thể các nước theo đạo Phật và có đông đảo tín đồ Phật giáo đã đồng thuận họp bàn lấy ngày 15/4 âm lịch là ngày Đại lễ Phật Đản. Không chỉ có ý nghĩa to lớn về tâm linh mà Đại lễ này còn được Liên Hợp Quốc công nhận là một trong những nghi lễ vì con người lớn nhất trên thế giới.
154 am lich mung Dai le Phat Dan, kinh nguong Duc Phat Thich Ca hinh anh
 
Ngày nay, Đại lễ Phật Đản vẫn được duy trì tổ chức với quy mô lớn ở các nước có nền Phật học phát triển, trong đó có Việt Nam. Đây không chỉ là dịp kính ngưỡng, hướng về Đức Phật mà còn là cơ hội để Giáo hội Phật giáo các quốc gia họp mặt, trao đổi về giáo lý nhà Phật. Từ đó tuyên truyền, quảng bá, phát triển Phật giáo, hướng chúng sinh tới con đường tốt đời, đẹp đạo.   Trong ngày này, chúng ta nên đi lễ chùa để hưởng sự tịnh tâm, cúng dường tam bảo, dâng đăng đèn hoa quả lên Đức Phật để tỏ lòng chân tâm và quan trọng hơn hết là học Phật, noi gương Phật, chăm chỉ tích đức hành thiện, thấm nhuần tư tưởng từ bi hỉ xả của nhà Phật để có cuộc sống an nhiên tự tại, hưởng phúc lành.  
Miệng tụng Phật A Di Đà, kính ngưỡng ngày Phật đản sinh Tháng Phật đản niệm 33 hóa thân Bồ Tát cầu phúc chúng sinh (P1) Tháng Phật đản thành tâm cầu phúc
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 15/4 âm lịch mừng Đại lễ Phật Đản, kính ngưỡng Đức Phật Thích Ca

Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Chân thành, trung thực và có lối sống gắn liền với hiện tại, không quá mơ mộng viển vông là những điểm dễ nhận thấy ở người tuổi Sửu.
Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Sửu

Hơn thế, con giáp này còn sở hữu tính cách điềm đạm, xử lý mọi tình huống có đầu có cuối và không bao giờ trốn tránh trách nhiệm cũng như khuất phục trước thách thức ở hiện tại.

Suu-7211-1429251795.jpg

Đôi khi tính cố chấp và bướng bỉnh của người tuổi Sửu khiến họ đưa ra phán đoán nhầm lẫn. Thay vì đổ lỗi cho người khác, họ tự quy trách nhiệm cho mình và sửa chữa nó nhanh nhất có thể. Cách sống vô cùng thực tế nhưng lại không vụ lợi, toan tính cá nhân của người tuổi Sửu được mọi người yêu mến. Bạn thấy đấy, đội ngũ bạn bè của người tuổi Sửu khá hùng hậu và hoành tráng.

Á quân: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi trung thực, đôn hậu và vô cùng lương thiện. Họ làm việc bằng cả sự nhiệt huyết và chân thành của mình. Hơn thế, người tuổi Hợi có cách tư duy thực tế, nên nhanh chóng nhìn nhận ra vấn đề, không bao giờ rơi vào tình trạng “tâm hồn treo ngược cành cây”. Do đó, hiệu quả công việc của họ khá cao. 

Hoi-3107-1429251796.jpg

Cách đối nhân xử thế của người tuổi Hợi vô cùng hài hòa và cân bằng. Không có chuyện họ mưu lợi cá nhân trên công sức của người khác. 

No3: Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất lý tính, biết kiểm soát cảm xúc bản thân để đạt được những mục đích lớn. Lối tư duy hiện thực, rõ ràng và hợp logic của con giáp này giúp họ dễ dàng gặt hái được thành công trong công việc.

Tuat-1923-1429251798.jpg

Họ muốn chinh phục mục tiêu đã đề ra bằng chính thực lực của mình chứ không phải kiểu thực dụng, sống “kiếp tầm gửi” dựa dẫm, dùng người khác làm bàn đạp để thăng tiến. Ngoài ra, cá tính mạnh mẽ nhưng lại bộc trực và lương thiện của người tuổi Tuất mang lại cho mọi người cảm giác tin tưởng và dễ gần.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp sống thực tế chứ không thực dụng

Chùa Kim Liên - Hà Nội

Trong số các đình chùa Hà Nội thì chùa Kim Liên được đánh giá là một trong những ngôi chùa đẹp còn lưu giữ nguyên vẹn nét kiến trúc cổ xưa nhất.
Chùa Kim Liên - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số các đình chùa Hà Nội thì Chùa Kim Liên được đánh giá là một trong những ngôi chùa đẹp còn lưu giữ nguyên vẹn nét kiến trúc cổ xưa nhất. Chùa Kim Liên hay Kim Liên tự là ngôi chùa nằm trên một doi đất bằng phẳng thuộc phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Trong cuốn Văn hóa Việt Nam tổng hợp (1989-1995) do Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương đánh giá Chùa Kim Liên là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc sắc nhất Việt Nam.

Vào thời vua Lý Thần Tông (1128-1138) cho lập ở vị trí này một cung điện mang tên cung Từ Hoa để công chúa Từ Hoa cùng các cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nằm bên trong khu vực có tên là Trại Tằm Tang. Khi công chúa qua đời, trên nền cũ của cung điện dựng lên một ngôi chùa.

Sang thời Trần, trại Tằm Tang đổi thành phường Tích Liên và chùa được mang tên Đống Long. Đến thời Lê chùa mang tên Đại Bi. Tấm bia trong chùa dựng thời vua Lê Nhân Tông ghi rõ: “năm Thái Hòa thứ nhất (tức năm 1443) dựng chùa, gọi là chùa Đại Bi”. Năm 1771 đời Lê Cảnh Hưng chùa được trùng tu, sửa chữa lớn và mang tên Kim Liên Tự (chùa Kim Liên). Năm 1792, đời vua Quang Trung, chùa được xây dụng lớn, về diện mạo cơ bản giống như hiện nay. Năm 1793 cũng đời vua Quang Trung chùa đã hoàn tất về diện mạo.

Tam quan của chùa Kim Liên có kiến trúc gỗ độc đáo: một hàng bốn cột gỗ tròn, bên trên có hệ con sơn đua rộng ra phía tầng dưới, thu hẹp dần ở tầng tên đỡ bộ vì mái với những tàu đao vút cong. Đôi cột cái ở giữa to cao nâng dải mái vươn lên tạo thành cổng lớn, cao rộng hơn hai cổng hai bên. Kiến trúc tam quan của chùa còn có những bức chạm nổi trên mặt gỗ với hình rồng, hình hoa lá tinh xảo, uyển chuyển.

Phong cách kiến trúc của chùa Kim Liên, ảnh hưởng kiến trúc cung điện, cung đình. Bố cục của chùa bao gồm một trục đối xứng từ tam quan đến nhà Tổ. Từ tam quan đi vào một khoảng sân chùa, rồi đến chùa chính gồm ba nếp: chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng, xếp theo kiểu chữ “tam”.

Chùa Hạ là một ngôi nhà 5 gian, 6 hàng cột, 2 tầng, 8 mái. Trên bờ nóc được trang trí hình đầu rồng. Hai bên tường đầu hồi trổ cửa sổ tròn theo chữ nhà Phật sắc sắc-không không. Bộ khung nhà chạm trổ các hình hoa sen, lá, mây, rồng theo phong cách Lê Trung Hưng. Chùa Trung là một ngôi nhà 1 gian 2 chái, hẹp hơn nhưng cao hơn chùa Hạ. Chùa có 2 tầng, 8 mái và được nối với chùa Hạ bằng một đường ống máng chung. Lối trang trí của chùa Trung giống như chùa Hạ. Chùa Thượng có kích thước và trang trí như chùa Hạ và được nối với chùa Trung bằng một đường ống máng chung. Nhìn từ xa thấy rõ ba tòa nhà nhưng nhìn bên trong có cảm giác là một nhà có nhiều gian.

Mái chùa Kim Liên lợp ngói với cấu trúc hai tầng theo kiểu chồng diêm. Mỗi nếp 8 mái, có tám tàu đao hình rồng uốn cong. Chân cột kê trên đá tảng chạm hình hoa sen cách điệu.

Bên trong chùa Kim Liên có nhiều pho tượng rất đẹp, các pho tượng Phật được bày thành hai lớp, trên cùng là bộ Tam thế, tiếp theo là tượng A-di-đà, tượng Quan Thế Âm và tượng Đại thế chỉ ở hai bên cùng A Nan Đà, Ca diếp là hai đại đệ tử của Đức Phật. Lớp dưới là Quân âm chuẩn đề, tượng Ngọc Hoàng, dưới cùng là tòa Cửu Long. Ngoài ra, chùa Kim Liên còn có tượng Uy vương Trịnh Giang, người đã cấp tiền hưng công tu tạo chùa năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771). Các pho tượng đều mang phong cách điêu khắc thế kỷ 18-19.

Chùa còn lưu giữ được một tấm bia cổ hiện dựng phía bên phải cổng chùa trên bệ đá hình vuông, dù năm tháng đã làm phai mờ nhiều nét chữ nhưng còn xem được niên hiệu: Thái Hòa tam niên Ất Sửu, tức năm 1445 thời Lê Nhân Tông. Đây là tấm bia cổ nhất ở Hà Nội hiện nay.

Cảnh quan của chùa
Cảnh quan của Chùa Kim Liên

Chùa Kim Liên được coi là một trong những ngôi chùa đẹp nhất của đất Thăng Long, với những nét kiến trúc độc đáo vẫn soi bóng trên sóng nước Hồ Tây, bông sen vàng vẫn vươn cánh trên nền nước biếc. Ai đã tới Hà Nội, với lòng ngưỡng vọng những giá trị lịch sử văn hóa truyền thống, không thể không một lần tới thăm cảnh đẹp này. Cũng chính vì những lý do đó mà ngày càng nhiều hơn các đoàn khách du lịch quốc tế tìm đến đây để vãn cảnh chùa cũng là để thưởng lãm một trong những tuyệt tác về kiến trúc của Hà Nội.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Kim Liên - Hà Nội

Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Tuổi Trâu và tuổi Rắn có nhiều điểm chung hơn là sự khác biệt: Cả hai đều chăm chỉ, sâu sắc và coi trọng chất lượng hơn số lượng và vẻ hào nhoáng bề ngoài. Hai “hành tinh” này đều đặt gia đình ở ví trí hết sức quan trọng. Họ coi ngôi nhà của mình là
Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Tỵ có hợp nhau không? –

Sinh năm 1992 mệnh gì –

Người sinh 1992, Nhâm Thân, có Ngũ hành năm sinh là Kiếm Phong Kim, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung CẤN, hành THỔ, hướng Đông Bắc, quái số 8, sao Bát Bạch, Tây tứ mệnh (Hướng nhà tốt: Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu
Sinh năm 1992 mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh năm 1992 mệnh gì –

Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu

Lễ Vu Lan Báo Hiếu là một ngày rất quan trọng và đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Việt, thường được tổ chức vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm.
Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ Vu Lan Báo Hiếu là một ngày rất quan trọng và đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Việt, thường được tổ chức vào ngày 15/7 âm lịch hàng năm để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ.     Cứ mỗi dịp rằm tháng 7 Âm lịch, những người con lại có dịp thể hiện tình yêu thương của mình với đấng sinh thành trong ngày lễ Vu Lan. Bởi lễ Vu Lan là dịp để báo hiếu cha mẹ, để tìm về nguồn cội yêu thương, như truyền thống lâu đời của người Việt vốn trọng những tấm lòng thảo thơm như thế. Nhưng sẽ có rất nhiều bạn trẻ không biết thể hiện tình cảm của mình như thế nào. 
 

Sự tích về ngày Lễ Vu Lan báo hiếu


Chuyện kể lại rằng, Mục Kiền Liên đi theo Ðức Phật, tu hành đắc đạo có nhiều phép thần thông. Vì quá thương nhớ người mẹ đã khuất nên Mục Kiền Liên muốn biết mẹ mình khi ấy ra sao, ông dùng "mắt thần" tìm kiếm bốn phương, thấy mẹ đang ở trong "cõi quỷ", bị hành hạ khổ cực vì khi còn sống bà từng gây tội lỗi. Mục Kiền Liên thương mẹ, ông xuống "cõi quỷ" đưa mẹ bát cơm nhưng cơm liền hóa thành tro bụi.

Thương mẹ không biết phải làm gì, Mục Liên hỏi Đức Phật và Ngài cho biết dù tài giỏi Mục Kiền Liên cũng không cứu được mẹ, chỉ có một cách là hợp sức cùng mọi người. Rồi ngài thuyết kinh Vu lan (Ullambana Sutra) khuyên đến ngày rằm tháng Bảy, Mục Kiền Liên cùng mọi người sắm sửa cúng lễ sao thật thành tâm thì sẽ cứu được mẹ. Ðức Phật còn bảo chúng sinh muốn báo hiếu với cha mẹ thì theo cách đó mà làm. 

Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Từ đó, người dân thường tổ chức lễ cầu siêu cho người thân đã khuất vào ngày này. Và Rằm tháng Bảy cũng được chọn là ngày lễ Vu Lan. 
 
Nen lam gi trong ngay Vu Lan bao hieu
 

Lời chúc ngọt ngào dành cho cha mẹ và người thân 


Và hằng năm đến mùa Vu Lan, trong đó nhằm đúng ngày rằm tháng Bảy, mọi người lại cùng nhau bày tỏ tình cảm, lòng tri ân đối với ơn cha mẹ, ơn ông bà, tổ tiên. Ðó là báo hiếu đối với công ơn của người sinh thành - đạo hạnh đứng đầu trong "tứ ân" của nhà Phật, như kinh Phật viết: "Ân đức cha mẹ vô cùng, kể không bao giờ hết", "tột cùng điều thiện, không gì bằng hiếu. Tột cùng điều ác, không gì bằng bất hiếu"...
Ngày lễ Vu Lan chính là dịp các bạn nên nói những lời nói yêu thương với cha mẹ của mình dù biết rằng cha mẹ có thể hiểu được tình cảm của bạn dành cho họ. Đừng quên những lời từ trái tim bạn dành cho người đã nuôi dưỡng và sinh thành ra bạn ngày hôm nay.
  Những lời nói xuất phát từ trái tim trong ngày này sẽ quan trọng hơn cả những lời nói thường ngày. Hãy đừng quên dành cho cha mẹ những lời yêu thương sâu sắc.  
Xem thêm: Vu Lan báo hiếu, ngẫm về đạo làm con
 

Quà tặng ý nghĩa trong ngày Vu lan

  Một món quà đơn giản nhưng ý nghĩa nhân ngày lễ Vu Lan là điều bạn nên làm với các đấng sinh thành. Không cần phải những món quà đắt tiền hay mâm cao cỗ đầy, chỉ cần món quà nhỏ bày tỏ tấm lòng trong ngày này thì cha mẹ cũng cảm thấy ấm lòng rồi. Nếu như bạn không còn cha mẹ thì món quà ý nghĩa đó chính là việc bạn sống tốt mỗi ngày.

Ý nghĩa của bông hồng cài áo dịp lễ Vu Lan


Lễ cài bông hồng trong dịp Vu Lan được xem là một buổi lễ báo hiếu quan trọng đối với những người con Phật. Tuy nhiên, buổi lễ này không phải chỉ dành cho Phật tử mà tất cả mọi người không theo đạo vẫn có thể tham dự.

Hòa thượng Thích Nhất Hạnh giải thích ngay trong ấn phẩm Bồng Hồng Cài Áo: “Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng trên áo và anh sẽ tự hào được còn mẹ.   Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót xa, nhớ thương, không quên mẹ dù đã khuất. Người được cài hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi, có khóc than cũng không còn kịp nữa”. 
 
 
cai hoa trong ngay Le vu lan bao hieu
 

Mâm cơm cúng ngày lễ Vu Lan

  Trong ngày này, bạn có thể đi chùa để thắp hương và cầu xin cho cha mẹ của mình. Nếu như với những ai không may mắn khi cha mẹ đã qua đời thì hãy cầu xin đức phật giúp tìm đường chỉ lối cho cha mẹ được an nghỉ nơi suối vàng.
Vào ngày này, bạn nên làm một lễ cúng tạ ơn các thần linh và làm mâm cơm tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu thoát và cầu bình an cho gia đình. Việc cúng Rằm tháng Bảy có thể đến chùa, hoặc có thể cúng tại nhà. Gồm các lễ: cúng Phật, cúng thần linh, cúng gia tiên, cúng thí thực cô hồn và cúng phóng sinh.

Tham khảo thêm: Lễ Vu Lan: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng? 
 

Cúng tại chùa

  Theo các sư thầy ở nhà chùa thì việc cúng lễ Vu Lan trước tiên nên được thực hiện tại chùa rồi mới làm ở nhà. Trước tiên, bạn cần đến đăng ký làm lễ ở một ngôi chùa mà bạn hay lui tới cúng lễ hàng tháng hoặc một ngôi chùa gần nơi bạn đang sinh sống. Nếu đăng ký ở một ngôi chùa có tiếng cũng tốt nhưng không vì thế mà phải chen chúc ở một nơi quá đông người, quan trọng là bạn thành tâm với việc mình đang làm.   Tùy từng ngôi chùa sẽ có cách tổ chức các khóa lễ Vu Lan khác nhau. Mục đích của việc cúng lễ dài ngày là để cầu an và cầu siêu cho các vong linh, từ đó giúp cho con cháu được hưởng cuộc sống an lành, hạnh phúc.   Cách đăng ký và cúng lễ Vu Lan tại chùa như sau:     - Bạn đến chùa xin một bản đăng ký phả độ gia tiên.   - Điền đầy đủ thông tin nhà chùa yêu cầu.   - Phô tô một bản gửi cho nhà chùa để nhà chùa viết sớ hàng năm, một bản lưu tại nhà.   - Đến dự khóa lễ tụng kinh theo ngày mà nhà chùa hẹn.   - Kết thúc khóa lễ, nhà chùa đọc tên số thứ tự, người đại diện hộ gia đình lên nhận sớ cùng một lễ vàng hương.   - Mở sớ ra đọc, sau đó đi vái khắp các ban trong chùa.   - Cuối cùng đem hóa sớ, vàng và hương.   - Sau khi hóa vàng, bạn có thể dự hoặc không dự bữa ăn chay tại nhà chùa.
ngay Le vu lan bao hieu Phat giao
 

 Cúng ở nhà

  Theo các chuyên gia tâm linh thì việc cúng lễ Vu Lan tại nhà nếu được làm vào đúng ngày Rằm tháng 7 là tốt nhất. Việc cúng lễ Vu lan tại nhà thường được các gia đình tiến hành từ ngày 10 đến trước ngày rằm tháng 7 âm lịch.   Cúng Phật   Trước tiên, sắp một mâm cơm chay hoặc đơn giản hơn là mâm ngũ quả để cúng Phật rồi thụ lộc tại nhà. Khi cúng, tốt nhất là đọc một khóa kinh (Kinh Vu Lan) để hiểu rõ về ngày này, hồi hướng công đức cho những người thân trong quá khứ được siêu sinh. Kinh Vu Lan khá dài, nhưng không đến mức quá dài, lại thuộc thể thơ song thất lục bát nên đọc cũng nhanh.   Cúng thần linh và gia tiên   Người Việt vẫn thường dạy con cháu, lễ cúng thần linh thường cúng gà trống để nguyên con và xôi (hoặc bánh chưng bóc hết lá nhưng không cắt thành miếng. Lễ đầy đủ phải có thêm rượu, chè, trái cây và bình hoa tươi. Lễ cúng gia tiên nên có một mâm cơm, có thể là món mặn, có thể là món chay tùy vào hoàn cảnh và căn cơ của người đang sống.   Trên mâm cúng gia tiên bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm làm bằng giấy tượng trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo, giày dép, áo bào, cung điện, ngựa, các vật dụng trang sức…, mũ kepi, người giúp việc…đến những vật hiện đại: nhà cao tầng, xe ô tô, xe máy, điện thoại… để cho người cõi Âm có được một cuộc sống tiện nghi giống như người Dương trần.   Tuy nhiên, nhiều khi không cần mâm cao cỗ đầy, không cần chen chúc nơi cửa chùa, bạn hãy làm những điều tưởng như nhỏ nhất, đôi khi chỉ là sống chậm, nhớ về những người thân yêu đã đi xa, thăm người thân yêu cao tuổi... thì Lễ Vu lan báo hiếu đã trọn vẹn.

Minh Minh

Rằm Tháng 7 kể chuyện Lễ Vu Lan của Phật giáo Món chay ngon ấm lòng mùa Vu Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nên làm gì trong ngày Vu Lan báo hiếu

Những tập tục kiêng kỵ ngày đầu xuân

Tin rằng đầu năm làm những điều tốt đẹp thì cả năm sẽ may mắn, sung túc, nên Tết đến người Việt dạy con cháu phải sống vui vẻ, hòa thuận, tránh làm những việc "gở” sẽ mang đến xui xẻo như: quét nhà, làm vỡ đồ đạc, đòi nợ, cãi nhau...
Những tập tục kiêng kỵ ngày đầu xuân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trao đổi với VnExpress.net, Tiến sĩ Nguyễn Đệ, Giảng viên khoa Văn hóa học, Đại học Văn hóa TP HCM cho biết, trong đời sống người dân Việt, Tết Nguyên Đán được xem là thời điểm rất quan trọng. Nếu như ngày Mùng Một Tết bắt đầu một mùa xuân mới của đất trời, thì đối với con người nó có ý nghĩa bắt đầu của một chu trình sống, làm việc cũng như một chu trình tình cảm mới.

Không biết tự bao giờ những tập tục ngày đầu xuân này đã chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa cũng như tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngày nay, con người hiện đại vẫn truyền tai nhau giữ nét truyền thống này như một phương thức tâm linh để tự bảo vệ trước những điều bất trắc, điềm “gở”, đồng thời chủ động đón điều lành đến nhà.

Đề cập riêng về hệ quả của việc tuân thủ hay không những điều kiêng kỵ này, Tiến sĩ Đệ cho rằng, nó tùy thuộc vào quan niệm và tín ngưỡng riêng của từng người, từng gia đình. Bởi trên thực tế chưa có trường hợp cụ thể nào chứng minh được tính đúng sai của nó. Song ông nhìn nhận, việc hiểu biết các tập tục này sẽ giúp người ta biết cách cư xử sao cho tế nhị, tránh gây hiểu lầm, khó xử trong các mối quan hệ.

Xuân Tân Mão 2011 đang đến gần, ông Đệ cũng chia sẻ 14 điều kiêng kỵ phổ biến trong ngày Tết ở nước ta như sau:

Kiêng quét nhà:

Dân gian cho rằng nếu quét nhà vào 3 ngày đầu năm thì cả năm đó gia đình sẽ nghèo túng, khánh kiệt. Hoặc có thể quét nhà nhưng tập để rác ở một góc nhà chứ không hốt đi.

Tập tục này xuất phát từ truyền thuyết, ngày xưa ở Trung Hoa có một lái buôn thật thà tên là Âu Minh. Khi ông đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần thương ban cho một người hầu tên là Như Nguyệt. Từ ngày thương gia này đem Như Nguyệt về nuôi, trong nhà làm ăn phát đạt, chỉ vài năm là giàu to.

Một hôm Như Nguyệt phạm lỗi, Âu Minh không kiềm được cơn giận đã ra tay đánh cậu bé. Như Nguyệt hoảng sợ trốn vào đống rác và sau đó biến mất tăm. Từ ngày đó, Âu Minh làm ăn sa sút, buôn bán không được nên nghèo kiết xác. Dân làng bàn tán xôn xao cho rằng Như Nguyệt là một vị thần đã mang lại sự giàu có, hưng thịnh mà nhà Âu không biết quý trọng. Từ đó, dân gian đã lập bàn thờ Như Nguyệt và đặt tên là Thần Tài với hy vọng vị thần này sẽ độ trì cho gia đình được nhiều tài lộc.

Cũng xuất phát từ truyền thuyết này mà ngày Tết, nhân dân có tục kiêng hốt rác trong ba ngày đầu năm vì sợ hốt mất Thần Tài ẩn trong đống rác đổ đi thì cả năm đó làm ăn sẽ thất bát. Vì thế từ trước đó cho đến đêm giao thừa, dù bận rộn đến đâu mọi người cũng phải dọn dẹp nhà cửa, sân vườn, đồng thời ý tứ ức giữ gìn nhà cửa không vứt rác bừa bãi.

Riêng ở Nam bộ người ta còn cho rằng sau khi quét dọn phải cất hết chổi, bởi nếu trong ngày Tết bị mất chổi là điềm gở, cả năm đó nhà sẽ bị trộm vào vét sạch của cải.

Kỵ mai táng:

Tết Nguyên Đán được gọi là “Tết Cả”, là ngày vui nhất của một năm, có ý nghĩa rất thiêng liêng mở đầu cho một vận hội mới của đất trời, của con người và cả dân tộc. Vì thế dù gia đình có tang cũng phải tạm gác chuyện buồn để hòa chung với niềm vui toàn dân tộc. Vì vậy có tục lệ cất khăn tang trong ba ngày Tết, tức là nhà có đại tang kiêng đi chúc Tết, mừng tuổi bà con, xóm giềng, còn ngược lại bà con xóm giềng lại cần đến chúc Tết và an ủi gia đình bất hạnh đó.

Trường hợp gia đình có người chết vào ngày 30 tháng Chạp mà gia đình có thể định liệu được thì nên chôn cất cho kịp trong ngày đó. Đa số các gia đình kiêng để sang ngày mùng Một đầu năm. Còn nếu qua đời đúng Mùng Một Tết thì chưa phát tang vội nhưng phải chuẩn bị mọi thứ để sáng Mùng Hai làm lễ phát tang.

Kỵ cho nước, cho lửa:

Người ta rất kỵ người khác đến xin lửa nhà mình. Vì quan niệm lửa là đỏ, là may mắn, cho người khác cái may trong ngày Mùng Một Tết thì cả năm đó trong nhà sẽ gặp nhiều điều xui rủi như làm ăn thua lỗ, trong nhà lủng củng, ra đường hay gặp tai vạ.

Ngoài ra, cũng kiêng cho nước đầu năm vì nước được ví như nguồn tài lộc, nguồn công năng cho gia đình. Nếu cho nước thì sẽ bị mất “lộc”.

Bởi quan niệm này nên ngay từ những ngày cuối năm, dân gian luôn chủ động đưa nước đầy ắp lu vại, lửa hồng trong bếp để tránh phải đi xin mấy ngày đầu năm.

Kỵ vay mượn, trả nợ ngày đầu năm và đầu tháng:

Người xưa dạy, không nên vay hoặc cho tiền bạc, đồ đạc vào những ngày đầu năm mới vì sẽ khiến gia đình rơi vào cảnh túng thiếu cả năm. Điều kiêng kỵ này xuất phát từ quan niệm ngày đầu xuân con người mở cửa để đón lộc vào nhà, còn nếu cho mượn hoặc trả giống như “dâng” tài lộc vào tay khác.

Kiêng ăn thịt chó, cá mè, vịt, trái chuối…

Là những loài mà tên gọi của nó gắn liền với những điều không may lành như “trượt vỏ chuối”…

Không làm vỡ đồ đạc:

Vỡ bát đĩa, ấm chén hoặc cãi nhau, chửi tục, khóc lóc, buồn tủi, nói điều xui rủi…sẽ khiến gia đình bất hòa, chia rẽ.

Kiêng mặc quần áo màu đen (hoặc trắng): 

Theo quan niệm của người xưa, màu đen và trắng là màu của tang lễ, chết chóc. Thay vào đó nên mặc đồ màu hồng, đỏ, vàng, xanh... tạo nên sự phấn khởi và vui vẻ để đón chào năm mới.

Kiêng đi chúc Tết vào sáng Mùng Một Tết:

Xuất phát từ phong tục xông nhà xông, xông đất đầu năm, người đầu tiên bước vào nhà ai trong ngày Mùng Một Tết chính là người quyết định đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo cho gia đình ấy trong cả năm. Vì thế người ta nên tránh đi chúc Tết vào sáng Mùng Một nếu không được gia chủ mời vì sợ sẽ mang đến điều không tốt đẹp gia đình đó.

Kiêng giặt giũ vào Mùng Một và Hai Tết:

Vì ngày sinh của thần Thủy là ngày 1, 2 tháng Giêng Âm lịch, do đó nên tránh giặt quần áo trong hai ngày này để phòng xui xẻo.

Không treo tranh ảnh có nội dung tiêu cực:

Không treo tranh khóc lóc, đánh ghen, tai nạn. Ngược lại nên dùng những bức tranh thể hiện sự may mắn, sung túc như đàn lợn, gà, em bé, vàng bạc…

Kiêng Mở tủ:

Một số gia đình kiêng mở tủ vào ngày Mùng Một Tết do tin rằng mở tủ lấy tài sản tức là “tống tiễn” tài lộc ra khỏi nhà. Do vậy, người lớn thường nhắc trẻ con cần lấy sẵn đồ đạc, quần áo diện ngày đầu năm ra ngoài trước lúc giao thừa. 

Kiêng chụp hình hoặc chúc Tết người đang nằm ngủ:

Bởi đây là tư thế của người chết, người bệnh, nên chụp hình hoặc chúc Tết lúc này không khác gì “rủa” họ bệnh tật, chết chóc cả năm. Ngoại trừ trường hợp nằm để tạo dáng chụp ảnh…

Kiêng xuất hành ngày Mùng Năm:

Người Việt thường tin rằng Mùng 5 là ngày nguyệt kỵ không thích hợp cho xuất hành. Chẳng vậy mà ca dao Việt Nam có câu: "Mồng năm, mười bốn, hăm ba. Đi chơi cũng thiệt nữa là đi buôn".

Kiêng xõa tóc:

Ở vùng quê Việt Nam và một số gia đình gốc Hoa, người ta kỵ việc xõa tóc của các thiếu nữ. Họ cho rằng tóc xõa rũ rượi gợi lên liên tưởng đến những hình ảnh ma quái, cõi âm. Vì vậy, tốt nhất, vào những ngày này, phụ nữ nên chọn các kiểu tóc buộc, tết, kẹp gọn gàng khi ra đường. Tuy nhiên theo ghi nhận của Tiến sĩ Nguyễn Đệ, tập tục này không phổ biến lắm.

Thi Ngoan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tập tục kiêng kỵ ngày đầu xuân

Xem tướng môi và nhân trung của bạn –

Xem môi Môi đối với miệng là cánh cửa, là rào dậu thành quách, tương quan mật thiết và… Xem môi Môi đối với miệng là cánh cửa, là rào dậu thành quách, tương quan mật thiết và phò trợ chế hoá lẫn nhau. Xem tướng nhân trung , môi và răng Do đó môi cần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem môi Môi đối với miệng là cánh cửa, là rào dậu thành quách, tương quan mật thiết và…

xem-nhan-trung-biet-doi-song-tinh-duc-cua-nang-4-XemBoi.Us-1

Xem môi
Môi đối với miệng là cánh cửa, là rào dậu thành quách, tương quan mật thiết và phò trợ chế hoá lẫn nhau.

Xem tướng nhân trung , môi và răng
Do đó môi cần đầy đặn nở nang, không cần mỏng mẻo lỏng lẻo. Môi trên che miệng cần kín, môi dưới chở miệng cần đều, không nên méo cạnh mà rất nên nở góc.

Xem nhân trung

Nhân trung nghiêng bên trái là tổn hại cha, nghiêng bên phải là làm hại người mẹ.
Nhân trung đối với thẩm mỹ quan rất cần thiết, chưa thấy phụ nữ nào đẹp có quyền mà không cỏ nhơn trung. Cho nên tướng pháp thời xưa cũng theo con mắt mà phân biệt tốt xấu.

Xem răng
Răng và lưỡi của con người cũng là phần quan trọng trong phép xem tướng. Răng là tinh hoa của bá cốt. Còn lưỡi là tinh hoa của ngũ tạng.
Răng cần phải lớn đều và khít khao, màu sắc trắng ngà hơi dài là răng quí. Răng vững chắc khít dầy là sống lâu, răng lởm chởm quanh queo không ngay là xảo quyệt lại lộ cả răng ra ngoài là yểu mạng.
Răng thưa nhiều kẻ hở là bần hàn, răng ngắn khuyết hảm màu sắc u tối là kẻ ngu đần. Răng khô yểu, ác ngang bướng, răng khít rịt nói không hở là giàu mà hiểm ác keo kiệt, con cái khó nhờ cậy, thân quyến chớ đến gần.
Thân thể mạnh mà răng rụng sớm không thọ, 38 cái răng là bậc đại phú quí, 36 cái răng cũng là bậc thượng lưu, 34, 32 cái răng là bậc trung lưu hữu phước, 30 là thường nhơn, 28 cải là hạ tiện bần bạc yểu mạng.
Răng màu trắng làm việc dễ thành công, răng màu vàng hay bị ố hoen làm việc hay gặp thất bại.
Răng giống như hạt ngọc là giàu sang, xem tựa như hột bắp, hột bầu, hột lựu non là có phước có lộc, xem như hạt nếp hạt gạo là trường thọ, như trái dâu là mạng yểu.
Răng trên lớn dưới nhỏ, tánh nóng mà ưa rượu thịt, trên nhỏ nhọn dưới lớn tánh hiền hoà thật thà. Răng như răng rồng con cháu vinh quang, như răng trâu răng bò một đời cũng làm nên danh vọng. Xem như răng chuột là kẻ tham.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng môi và nhân trung của bạn –

Phong thủy văn phòng kinh doanh phát đạt –

Trong phong thủy cho rằng, nước có thể tích địa khí, cho nên không được coi thường sức mạnh của nước. Vì vậy cần bài trí nước trong nhà để thu hút tài lộc: Trong phong thủy cho rằng, nước có thể tích địa khí, cho nên không được coi thường sức mạnh c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy cho rằng, nước có thể tích địa khí, cho nên không được coi thường sức mạnh của nước. Vì vậy cần bài trí nước trong nhà để thu hút tài lộc:

Trong phong thủy cho rằng, nước có thể tích địa khí, cho nên không được coi thường sức mạnh của nước. Muốn văn phòng được vượng tài, ngoài bố cục tổng thể phù hợp với yêu cầu về phong thủy thì có thể dùng nước. Các loại nước suối, sông, hồ và biển đều là nước của đất, nước ở giếng là nước trong nhà. Hiện nay, đa số các nhà đều không thể thay đổi các vị trí nước nói trên theo ý muốn được, do đó chỉ có thể dùng nước giếng để tăng tài lộc. Sau khi tìm được vị trí vượng tài thì có thể dùng nước để bài trí. Sau đây là một số cách bài trí nước trong nhà để thu hút tài lộc:

1. Guồng phong thủy: đó là vật trang trí với mục đích cầu tài lộc được lưu hành trong thời gian gần đây, nó được lắp ráp chủ yếu bằng chậu đồng, ở chính giữa có một cái trụ bằng đồng, xung quanh trụ đồng có nhiều chậu nhỏ, túi nhỏ hoặc cốc nhỏ, còn nước được hút lên trên đỉnh bằng ống đồng ở giữa, khi túi nước trên đỉnh đầy thì nước sẽ tràn xuống các túi nước ở tầng bên dưới, cuối cùng nước chảy cả vào trong chậu, sau đó lại tiếp tục một vòng tuần hoàn mới. Đồng thuộc hành Kim trong Ngũ hành, còn nước tượng trưng cho tài lộc, chậu đồng dùng để chứa nước, tức là tích tụ nước, do đó guồng phong thủy là thứ tích tụ tiền của. Số túi ở các tầng của guồng phong thủy thường là 4, 6, hoặc 9 cái. Trong Hà đồ số 6 là Thủy để tăng cường Thủy khí, số 4 và số 9 trongNgũ hành thuộc Kim, Kim sinh Thủy, có thể tăng khả năng vượng tài của nước.

4

2. Bồn cảnh phun sương: đó là một bồn cây cảnh, xung quanh là nước, ở giữa là cỏ và hòn giả sơn, có một số công cụ được sử dụng để biến dòng nước được hút lên thành dạng sương tỏa ra khắp bồn cảnh. Đặt bồn cảnh phun sương ở hướng đẹp trong nhà có thể tăng thêm tài vận, nhưng không đặt ở nơi kỵ có nước, vì có thể gây hao tổn tài lộc. Trong “Thủy long kinh” có viết: “Thần long trên núi không xuống thủy, thần long dưới nước không lên núi”, đó chính là đạo lý này. Tài vị trong văn phòng có liên quan đến tài vận, sự nghiệp, danh tiếng trong công ty. Nếu tài vị ở hướng Đông Nam của văn phòng thì thuộc hành Mộc trong Ngũ hành, màu thích hợp là màu xanh lục, do đó đặt vậy may mắn thuộc hành Mộc ở hướng này sẽ có hiệu quả thu hút tài lộc, trong đó những loại cây có lá xanh và tròn là tốt nhất. Tuyệt đối không được để hoa giả, hoa khô, vì Âm khí quá nặng. Ngoài ra cũng có thể để bể cá, trong bể nuôi 8 con cá vàng và 1 con cá đen. Cần lưu ý, kích thước bể cá phải phù hợp với không gian bên trong văn phòng, quá to hoặc quá nhỏ đều không được. Nếu văn phòng lại có bếp thì nơi có nước trong bếp chính là nơi đặt chậu rửa, nó cũng cần đặt vị trí đẹp. Trong phong thủy, nước ở vị trí Linh thần và Chiếu thần là vượng nhất. tại vị trí Linh thần có nước là đại cát, tại vị trí Chiếu thần có nước cũng đại cát, nhưng tại Chính thần có nước lại là đại hung, chủ về phá tài. Hướng Linh thần, Chiếu thần và Chính thần từ năm 2004 đến năm 2023 (năm Giáp Thân đến năm Quý Mão) là hạ viễn bát vận: Linh thần ở hướng Tây Nam, nên có nước vượng tài; Chiếu thần ở hướng Đông nên có nước, tích tài lộc; Chính thần ở hướng Đông Bắc kỵ có nước chủ về phá tài.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng kinh doanh phát đạt –

ĐỊA THẾ PHONG THỦY

Địa hình, địa thế khu đất ở và những ảnh hưởng đối với nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa thế và địa điền

Địa hình là hình dạng khu đất. Địa hình khu thổ cư có thể có ranh giới cong quẹo, có thế vuông văn lại cũng có thể hai bề rộng hoặc hai bề dài không bằng nhau. Ranh giới ngay ngắn khiến khu thổ có hình vuông hay hình chữ nhật thì rất tốt. Ranh giới ngay ngắn khiến cho cả khu thổ cư có một đầu lớn và một đầu nhỏ thì xấu. Đầu trước nhà nhỏ hơn phía sau thì lúc đầu trạch chủ chịu nhiều gian nan hay không thuận lợi, nhưng về sau càng hanh thông hơn. Nếu thế đất phía trước rộng, phía sau hẹp thì sự sinh hoạt của trạch chủ dẫu cho lúc trước phát đạt, lâu dần phải suy tàn. Vì vậy người ta ít chuộng thế đất “Đầu voi đuôi chuột” này. Thế đất tốt là thế đất đúng cách, giúp làm ăn thuận lợi. Thế đất xấu thì ngược lại. Dĩ nhiên còn nhiều các yếu tố khác thuộc nhân sự, chứ chẳng phải chỉ có địa thế phong thủy và địa cuộc riêng đủ năng lực giúp người nên cửa nên nhà, chớ nên mê tín để mua lấy tiếng cười miệng thế.

Địa thế phong thủy 

(1,2,3 Đất dạng hình vuông, hình chữ nhật -  cát.

4 Đất mở rộng về phía sau - cát.

5, 6 Đất hẹp phía sau, đất hình tam giác - hung ).

Đại điện là mặt đất. Bề mặt khu thổ cư bằng phẳng là tốt, nếu chỗ bị khuyết hõm, chỗ lại mô, gò là xấu. Tính theo cửa lớn, những xấu hại như sau:

Nền nhà cửa Càn (Tây Bắc) mà khuyết cung Ly (chính Nam) thì con gái thứ có nhiều hành vi mờ ám, mông muội.

Nhà cửa Khảm (chính Bắc) mà nền nhà khuyết phía cung Tốn (Đông Nam) thì thứ nam èo uột khó nuôi, nhiều bệnh, tệ hơn là mất sớm.

Nhà cửa Cấn (Đông Bắc) mà nền nhà khuyết cung Khôn (Tây Nam): Trưởng tử không con.

Nhà của Chấn (chính Đông), rìa quanh nền nhà, tức là bìa bên thềm mà khuyết lõm phía cung Càn (Tây Bắc) thì trưởng tử ít bộc lộ tâm tư, hay giấu nhẹm hành động của mình.

Nhà cửa Tốn (Đông Nam), khuyết ở bìa nền hướng Chấn (Chính Đông): Trưởng tử chết non.

Nhà cửa Ly, khuyết bìa bên hướng Càn: Trưởng tử không có con kế tự.

Nhà cửa Khôn, khuyết ở bìa nền hướng Cấn: Con trai thứ mất sớm từ nhỏ.

Nhà cửa Đoài, chung quanh bề nền nhà lồi lõm cùng khắp thì chủ nhà bại thoái.

Nhà cửa Khảm bìa nền nhà cao đầy ở cung Càn thì đàn ông lớn tuổi rất mê đắm tửu sắc.

Gần sông, gần đường đi.

Mặt tiền nhà hướng ra sông, nếu gần sông, hay hướng ra đường, nếu gần đường là đúng cách.

Có sách nói nhà có ba mặt nước đổ dồn lại tất đại phát. Kinh nghiệm của tôi sau khi nghe lời truyền dạy của cha ông thì hoàn toàn ngược lại: Đại phát đâu chưa biết, chỉ thấy có nước lênh láng mỗi khi trời mưa, gia cảnh thật khó ngóc đầu lên được. Lý do cha ông tôi chê địa thế này vì “ nước mọi nơi đổ dồn về, đạp trôi hết tiền của”.

Tổ phụ tôi cũng chê địa thế “đầu ghềnh, cuối bãi”. Không biết có phải vì mỗi khi thủy triều xuống sẽ cuốn theo hết cả sự cần lao trong nhà, lại phải chịu áp lực nặng nề mỗi khi thủy triều thủy triều lên. Tôi chỉ thấy quả thực những ngôi nhà đầu ghềnh cuối bãi, đầu doi cuối vịnh, chưa có ngôi nhà nào có hoàn cảnh khả quan.

Nếu nhà ở gần sông, suối, chẳng khác nào đánh trận theo thế “thủy bối”, dựa lưng vào sông, biển, một thế trận quyết tử, không thắng tất chết. Nỗ lực của các tướng sỹ thường có hạn, nhà ở thì có tính chất bền vững lâu đời. Đời người lúc thịnh lúc suy, sức người có khi mạnh khi yếu, những lúc suy yếu thì lấy gì chống đỡ với hoàn cảnh theo thế thủy bối. Chắc chắn cơ nghiệp sẽ theo dòng nước cuốn trôi!

   Địa thế phong thủy

 Nhà dựa lưng về sông

Xem hướng nhà phù hợp với tuổi của gia chủ

Còn nhà xoay lưng ra đường chẳng khác gì người ngoảnh mặt lại với thế cục, mà cuộc đời là trường tranh đấu. Đâu có cái thế tranh đấu mà ngoảnh mặt? Vậy nhà quay lưng ra đường nói lên hành động “ngã nón chào thua” của trạch chủ.

Sông và đường cái, đường công cộng, không phải lúc nào cũng ngay thẳng, lúc thì cong bên trái, lúc thì quẹo bên phải. Nếu đường hay sông uốn qua trên trái, chỗ cong bên phải tạm gọi là góc bẹt, chỗ cong bên trái tạm gọi là góc nhọn: nhà cất ở góc bẹt thì đắc cách, nhà cất bên góc nhọn là bại cách. Nếu đường hay sông lượn qua bên phải: nhà cất ở góc bẹt là đắc cách, cất ở góc nhọn là bại cách.

Địa thế phong thủy

(Đường hình cung, ôm nhà như chiếc đai ngọc)

Lý do là chỗ uốn khúc của đường hoặc sông có hai lực khác nhau: lực bên góc bẹt thoáng hơn vì tỏa ra, lực bên góc nhọn quần lại, tù hãm hơn.

Đường cái hay đường hẻm mà đâm thẳng vào cửa nhà, dù là đã ngăn cách bằng một con đường hay một con sông cũng là điều đại kỵ: vì đây là thế xuyên tâm sát, gia chủ không chết bất ngờ thì cũng khó cất đầu lên nổi. Cái lực ấy nếu chỉ đâm vào một phần của mặt tiền nhà cũng coi là bất lợi, dù kém trường hợp đâm thẳng vào cửa cái.

Địa thế phong thủy

 Đường đâm thẳng trực xung với nhà (Thương sát)

Tiền đề hậu cao và thế tiền cao hậu đề.

Cũng đòng thời quay mặt ra đường, nhưng cả dãy nhà ở bên này lô lại có sự phát triển không giống dãy nhà ở bên kia lộ, vì nhà ở một bên lộ mà dựa lưng vào đồi cao chẳng hạn, còn nhà bên kia lộ xoay lưng xuống ruộng thấp. Con đường lúc đó trở thành cái bờ đê ngăn lưng chừng cửa của những ngôi nhà bên phía khu ruộng thấp. Đó là sự khác biệt giữa hai địa thế tiền đê, hậu cao (trước nhà thấp sau nhà đất cao hơn). Thế tiền đê hậu cao là thuận cách, giúp đem lại sự thịnh đạt. Thế tiền cao hậu đê là phá cách, đem lại sự âm trầm và suy bại. Địa thế của cách tiền đê, hậu cao còn giúp cho con cái trong nhà nối truyền được chí khí trượng phu, quân tử.

Địa thế có núi cao.

Phía sau nhà đất cao hơn thế đất trước nhà: Tốt đẹp, như người nằm có gối kê đầu. Vậy nhà gần núi buộc phải dựa lưng vào núi. Nếu xoay mặt tiền về hương núi, bấy giờ nhà như bị treo ngược, cái lực từ núi đổ, gây sức ép nặng nề cho nhà. Chiến trận mà đặt vào thế đất quải địa (thế đất treo ngược) như vậy tất quân tan, tướng chết. Hệ luận của cách này là không nên chơi non bộ cao  quá 1m 20 trước mặt tiền nhà, khi đặt non bộ có tầm vóc đồ sộ như vậy không khác gì núi thật.

Đường trong khuôn viên thổ cư.

Trước đây có phong tục: ai có việc muốn băng qua sân nhà người khác đều phải xin phép chủ nhân ngôi nhà. Cố nhiên những người hỏi này không phải là những người hàng xóm hay những người thân cận. Sở dĩ phải có lời xin phép vì sân nhà người ta không phải là lối đi, không phải là thông hành đại dịch cho bất cứ ai, không bao giờ làm lối đi ngang qua trước của nhà, trước mặt tiền nhà cũng không làm lối đi từ cửa thẳng ra đường, khiến cho có cái lực ngược lại từ đường đâm vào cửa, dễ dẫn đến tai họa diệt nhân đinh, vô nhân kế tự. Làm lối đi xa cửa hay tránh né một bên cửa thì vô hại. Xa hay gần tùy địa thế.

Làm đường đi sau nhà thì nên đề phòng trộm cắp, nhưng tiêu hao tiền bạc vì những lú do khác thì không biết đâu mà tiên liệu. Tốt hơn là chớ làm đường xe ở phía sau nhà, làm ở bên hông nhà thì được.

Tuy nhiên, làm đường bên trái của hông nhà không thuận tiện bằng làm đường bên phía phải hông nhà. Bên trái hay bên phải của hông nhà là tính theo hướng từ trong nhà nhìn về phía trước, chứ không phải từ nhà nhìn vào. Bên trái nhà ứng với Thanh long thuộc Mộc cần tĩnh, nên trồng nhiều cây cối, hoa cảnh. Bên phải nhà là hướng Bạch hổ, cần sinh động, nên mới làm đường đi (Chấn, Mộc, Thanh long; Đoài, Kim, Bạch hổ).

Chớ khai đường mương dẫn nước, đường thoát nước, ao hồ, rãnh nước, ở ngay phía trước nhà, trước nhà bếp, trước miệng hỏa lò (hỏa môn). Phạm vào điều này: Tiền tài thoái tán, người trong nhà giảm dần, gia đạo suy vi dẫn đến tuyệt tự. Nếu không phải tư gia mà là công sở, cơ quan công quyền mà phạm điều này thì nhân dân trăm họ trong vùng khốn khổ, xiêu tán, là đền chù thì đồ đạc sinh tâm phản phúc, lụn bại đến không còn hương khói, là nhà máy, công xưởng thì dẫn đến cảnh hoang tàn, đổ nát.

Đình chùa, mồ mả.

Nhà cất trước cửa miếu, chùa, đình thần: Xấu nếu xây dựng chỉ là ở một bên, nhà ở bên phía phải của đình chùa được thuận thế hơn những nhà cất bên phí trái. Phải hay trái là tính từ trong miếu, chùa nhìn ra phía trước.

Nhà ở phía sau mồ mả: tốt, nhất là những người có quan chức.

Nhà cất phía trước mồ mả: bại vong.

Nhà ở chẳng nên đối diện với tượng đài, bia tưởng niệm lộ thiên, dù gì đó cũng có hình tượng của anh hùng nghĩa sỹ trên thế gian, hay những bậc thần thông quảng đại như Thánh thần, Tiên, Phật. Kiêng như vậy để tránh những áp lực từ những nơi này đưa vào nhà.

Đó là mối liên hệ của nhà ở với đình, chùa, mồ mả, tưởng cũng nên nói tới mối quan hệ giữa mồ mả và đình chùa.

Mồ mả của người dân phải chôn cách đình, chùa ít nhất là 50m. Phạm điều này vong nhân khó siêu thoát. Quyến thuộc của vong nhân muốn táng xác gần đền chùa để người quá cố được nghe sư tăng tụng niệm kinh điển. Quan niệm này trái với chính pháp của Phật môn, chẳng giúp ích gì được cho vong nhân.

Mồ mả của tăng ni trong chùa chỉ được an táng và xây tháp sau chùa Tổ, nơi Đức Đông Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Dù bậc cao tăng đắc đạo cũng không được phép xây ngang tháp với Chùa Tổ. Phạm vào điều này: mắc tội kiêu mạn. Hai điều kể trên mà không được tôn trọng: Ngôi tam bảo dần dà đi đến chõ khói lạnh hương tàn.

Những tu tạo phụ.

Trước cửa nhà có xây lập, chất chồng những hòn đá màu hồng, đỏ và đen: gọi là nhà lửa (hỏa ốc), chắc phải gặp hỏa tai, nhất là ngôi nhà phạm ngũ quỷ(Liêm trinh – Hỏa) thì tai họa máu, lửa thật khó thoát.

Cây đòn dông của nhà khác đâm thẳng vào mặt tiền nhà mình dù cách con đường hay một con sông chắn ngang cũng là điều tối kỵ. Tác hại của nó chính là sự bất an như tai nạn, đau bệnh, quan tụng, xào xáo trong nhà mà bị cây đòn dông này đâm thẳng vào mặt tiền, nếu đâm thẳng vào cửa cái còn nguy hại cho trạch chủ nữa. Nó giống như cây phương thiên họa kích của Lã Bố đâm thẳng vào yết hầu Đổng Trác. Nhà bị thế đòn dông đâm, nếu không tổn hại sinh mạng, suy bại về tài sản, sức khỏe, rốt cuộc sẽ tàn lụi.

Hai bên nhà chính, lại lập thêm nhà hướng phụ vào nhà chính, thì kho lẫm suy hao.

Phía sau nhà chính, lại xậy thêm nhà hướng thẳng vào nhà chính, là “thế trực xạ”, như vậy gây bất lợi cho thân mạng của trạch chủ.

Phần bên tay phải của phía sau nhà (thuộc Bạch hổ, nhưng ở nửa phần sau của ngôi nhà), nếu lập thêm một ngôi nhà ngang ở cung Tị (thuộc sơn hướng Thìn, Tốn, Tị), thì trong nhà sẽ có người chết vì tự vẫn.

Phần bên tay trái ở phía sau ngôi nhà (thuộc Thanh long, nhưng ở phía sau), nếu có thêm một gian nhà ngang thì ở trong sẽ có người chết vì tai nạn sông nước.

Phía trước nhà, lại xây thêm một ngôi nhà nhỏ hướng vào thẳng cửa thì nhà sẽ sản sinh ra con cháu ngỗ ngược, bất hiếu.

Quanh nhà có giếng và ao, tối kỵ hướng Tây (cung Đoài) vì cung Đoài tượng trưng cho ao đầm, nay lại còn thêm ao, giếng thì thủy qua đa, thủy là sao Văn khúc, là dâm tinh, rất bất lợi cho con gái (Đoài chỉ thiếu nữ).

Đào hầm hố (chữ Hán là Khanh) quanh nhà cũng cần lưu ý, nếu đào tại cung càn đàn ông lớn tuổi trong nhà mang tai tiếng, họa hoạn, tại cung Khảm, con cái chết yểu, tại cung Cấn chẳng phát văn tài mà con mang bệnh tật, tại cung Khôn tổn hại cho người đàn bà lớn tuổ trong nhà, tại cung Đoài con gái út mang bệnh.

Cầu tiêu không làm gần giếng đã đành, nhưng cũng không được xây ngay trước mặt tiền của ngôi nhà, khiến chiêu lấy những xấu xa, quái dị, đảo lộn lẽ luân thường. Các sơn hướng sau đây có thể dùng làm nhà cầu: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý và Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Cần tránh các sơn hướng: Càn, Khô, Tốn, Cấn, Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Dần, Thân, Tị, Hợi.

Cầu tiêu, nhà tắm, chuồng gia súc, trên nguyên tắc phải ở phương vị hung để trấn áp bớt hung sát, nguy hại. Lập các nơi uế trược còn phải phụ thuộc vị trí của ngôi nhà, nên thực tế rất khó áp dụng các sơn hướng trên. Cốt yếu là dùng nó để trấn áp các hướng xấu.

(Trích trong Dương cơ chứng giải – Lộc Dã Phu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: ĐỊA THẾ PHONG THỦY

Hóa giải khi cửa hàng ở ngã ba, ngã năm?

Đối với nhà ở ngã ba, ngã năm bị con đường đâm vào, bạn có thể hóa giải bằng cách treo bát quái lồi trước cửa.
Hóa giải khi cửa hàng ở ngã ba, ngã năm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Anh Tô Ngọc Hùng (TP.HCM) hỏi: Cửa hàng cơ quan anh có vị trí ở ngã năm đường lớn, rất hạn chế về buôn bán. Nhiều người khuyên nên treo gương bát quái trước cửa để làm ăn tốt hơn. Xin hỏi, điều này có đúng không? Hoặc hóa giải bằng cách nào?

Chuyên gia phong thủy Phạm Cương, Công ty cổ phần Nhà Xuân cho biết: Gương bát quái là một loại gương đặc biệt. Cấu tạo bao gồm gương soi ở tâm điểm và tám quẻ bát quái: Càn, Khảm, Cấn Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài ở xung quanh theo một trật tự nhất định. Theo quan niệm của người xưa, gương bát quái bảo vệ những người sống trong ngôi nhà không bị tà khí xâm phạm.

Khi treo bát quái hướng về ngã ba đường, nóc nhà, những vật trực chiếu hay những hình ảnh xấu về phong thuỷ... thì gương soi ở tâm bát quái sẽ giữ vai trò phản xạ lại các luồng xung sát. Còn tám quẻ có nhiệm vụ hoá giải, chống lại các lực hướng tới. Gương bát quái có hai loại là bát quái lõm và bát quái lồi.

Ngoài ra, nếu diện tích mặt tiền rộng, bạn có thể thiết kế tiểu cảnh nước với cây cối hoặc hòn giả sơn trấn trước cửa vừa để điều tiết các dòng khí vào nhà vừa tạo môi trường cảnh quan hài hòa trong đô thị.

(Theo Vietnamnet)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải khi cửa hàng ở ngã ba, ngã năm?

Tuổi Canh Ngọ 1990 hợp làm ăn với tuổi nào?

Bạn muốn biết tuổi Canh Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào, người sinh năm 1990 hợp làm ăn với tuổi nào, tuổi hợp làm ăn với Canh Ngọ,... Dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn các tuổi hợp làm ăn với tuổi Canh Ngọ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn muốn biết tuổi Canh Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào, người sinh năm 1990 hợp làm ăn với tuổi nào, tuổi hợp làm ăn với Canh Ngọ,... Dưới đây Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn các tuổi hợp làm ăn với tuổi Canh Ngọ.

Tuổi Canh Ngọ 1990 hợp làm ăn với tuổi nào?

Xem thêm những bài viết liên quan

+ Tuổi Kỵ Tỵ hợp làm ăn với tuổi nào?

+ Tuổi Mậu Thìn hợp làm ăn với tuổi nào?

+ Tuổi Đinh Mão hợp làm ăn với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Canh Ngọ:

Tuổi Canh Ngọ, sinh năm 1990, năm con ngựa, cung mệnh Ly, mạng cốt tinh Thổ.

Tính tình của người tuổi Canh Ngọ:  Tài năng lại thông minh nên rất dễ thành công. Nóng tính những dễ tha thứ, hay giúp đỡ người khác. Ham hoạt động, thích tự do nên dễ thích ứng với công việc.

Tuổi Canh Ngọ hợp làm ăn với tuổi nào?

Nghề hợp với tuổi Canh Ngọ: Nếu làm nghề kinh doanh sẽ nhanh chóng phát tài, thịnh đạt.

Tuổi hợp làm ăn với Canh Ngọ gồm Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi ( thuộc hành Hỏa) khi kết hợp lam ăn với Canh Ngọ sẽ được thuận lợi, thịnh vượng.

Những người có mệnh Kim khá hợp tuổi làm ăn với Canh Ngọ, đó là các tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi. Với những tuổi này thì người tuổi Canh Ngọ thường gặp thua thiệt khi kết hợp làm ăn, nên họ thường là trợ lí hoặc cấp dưới của những người mệnh Kim thì công việc mới thuận buồm xuôi gió.

Những người có mệnh Thổ khi thì có tuổi hợp làm ăn với Canh Ngọ, đó là các tuổi Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi. Khi kết hợp làm ăn với những người tuổi này thì công việc bình hòa, không ai hại ai, cùng nhau bàn bạc làm ăn.

Những người có mệnh Thủy thì hợp làm ăn với những người sinh năm 1990. Những tuổi hợp mệnh Thủy gồm Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu thì khi kết hợp làm ăn thì người tuổi Canh Ngọ có điều kiện để phát triển, tiến lên.

Tuổi Canh Ngọ không nên kết hợp làm ăn với tuổi:

Những tuổi mà người sinh năm 1990 không nên kết hợp làm ăn là Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu (thuộc hành Mộc) khi kết hợp làm ăn thì công việc dễ bị tiểu nhân hại và thua thiệt nhiều.

Màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Canh Ngọ:

Màu hợp với tuổi Canh Ngọ: Màu nâu, hồng, đỏ, tím, vàng, vàng nhạt.

Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Canh Ngọ: Đối với nam giới nên đặt bàn làm việc nhìn về hướng Bắc, đối với nữ giới tuổi Canh Ngọ nên đặt bàn làm việc nhìn về hướng chính Tây.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Canh Ngọ 1990 hợp làm ăn với tuổi nào?

Đi tìm nhân sinh quan trong Tử Vi hay làm thế nào để sửa số?

Một bài viết rất hay về nhân sinh quan trong Tử Vi và làm thế nào để sửa số mệnh của tác giả Cam Vũ. Đây là một bài trình bày rất hay!
Đi tìm nhân sinh quan trong Tử Vi hay làm thế nào để sửa số?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết trích từ phụ lục của tác giả Cam Vũ viết trong cuốn Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu

* Tác giả Cam Vũ chính là nick name MinhMinh trên trang tuvilyso.org

Theo quan niệm: thiên địa vạn vật đồng nhất thế của triết học Trung Hoa, thì sự hình thành và biến hóa của vũ trụ đều do sự sinh hóa không ngừng của 7 yếu tố chính gọi là âm dương ngũ hành, phát xuất từ khối nguyên thủy gọi là Thái Cực, cũng là 1 lối quan niệm về sự hình thành và biến hóa của vũ trụ này cũng được cổ nhân Trung Hoa đồng hóa cho con người vì con người là 1 nhân thân tiểu thiên địa hay còn gọi là tiểu vũ trụ. Nên những sinh động biến hóa trong con người cũng được hình thành do 2 khí âm dương và 5 chất ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Thủy tổ khai sáng ra nền tư tưởng này là:

  • Vua Phục Hy: 4447 - 1142 trước Tây lịch Vua Văn Vương: 1144 - 1142 trước Tây Lịch.
  • Ðức Khổng Tử: 551-479 trước Tây Lịch.

Khổng Tử đã hoàn chỉnh và lập thành sách để dạy cho môn sinh. Bắt đầu từ thời Châu được gọi là Kinh Dịch. Nội dung nói về sự biến hóa của trời đất, ứng dụng sự hiện diện của âm dương ngũ hành và quy tắc sinh khắc biến hóa vào mọi lĩnh vực từ lý số đến chính trị quân sự xã hội, kinh tế văn hóa, y học, dạy con người xử thế nào cho hợp thời phải đạo – giúp cho con người hiểu được thời để xuất sử, tiến thoái cho đúng lúc nhất nhất đều không ra khỏi căn bản là sự sinh động của âm dương ngũ hành.

Vào đời nhà Tống lúc mà nền văn hóa Trung Hoa rất thịnh vượng, các triết gia thời ấy đều chuyên tâm vào việc nghiên cứu con người để tìm giải pháp cho cuộc sống, tìm nguyên tắc cho việc xử thế ngõ hầu mưu cầu hạnh phúc cho mọi người. Tất cả bộ môn nhân văn đều tập trung vào môn khảo cứu con người và xã hội cần thiết cho việc tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ. Tất cả đều thấm nhuần tinh thần nhân bản thật hoàn mỹ, thủy tổ của Tử Vi: Trần Ðoàn, còn gọi là Hy Di Lão Tổ, một đạo gia kiêm nho gia thời Bắc Tống đã thấm nhuần tinh hoa của nền triết học này. Môn Tử Vi ra đời như một một học nghiên cứu hoàn con người hiện tại cho con người biết được bản dự thảo cuộc đời mình, cũng vẫn đưa trên nguyên lý âm dương ngũ hành, nên cũng không đi ngoài tư tưởng của Dịch Học. Trên tinh thần biến hóa không ngừng, hẳn bản dự thảo kia cũng không ngừng cố định ở 1 điểm A là A nào đó, nó có thể là A, rồi đến Á rồi đến B hay xa hơn nữa mà cái hàm súc của Tử Vi sẽ chỉ cho ta biết phải làm thế nào vậy.

1. Can Chi của tuổi tương ứng với quái dịch

Khi biết được can chi của tuổi thì nạp âm của can chi ấy đã tạo thành 1 quẻ dịch của một trong 64 quẻ. Ý nghĩa của cuộc đời của tuổi ấy. Và phải sống thế nào để có lợi cho sự nghiệp.

a. Thập can tương ứng với bát quái

  • Giáp là Cấn: Là sơn: Núi.
  • Ất là Chấn: Là lôi: Sấm sét.
  • Bính là Tốn: Là Phong: gió
  • Ðinh là Tỵ: Là hỏa: Lửa
  • Mậu là Tốn: Là phong: gió
  • Kỷ là Ly: Là hỏa: là lửa
  • Canh là Khôn: Là địa: đất.
  • Tân là Ðoài: Là Trạch: Hồ, Ao, Ðầm
  • Nhâm là Càn: Là Thiên: Trời
  • Quí là Khảm: Là Thủy: Nước

b. Thập nhị chi tương ứng với bát quái

  • Tý là Khảm
  • Sửu là số 5 thuộc trung ương
  • Dần là Cấn
  • Mão là Chấn
  • Thìn là số 5 thuộc trung cung
  • Tỵ là Tốn
  • Ngọ là Ly
  • Mùi là số 5 trung cung
  • Thân là Khôn
  • Dậu là Ðoài
  • Tuất là số 5 thuộc trung cung
  • Hợi là Càn

Lưu ý: số 5 thuộc trung cung thì tùy nam hay nữ luân giải: nam là quái khôn, nữ là quái Cấn.

Như vậy mỗi nạp âm (tức can chi của năm sinh, của tuổi 1 người) cho ta ý thiên về 1 quẻ dịch của 1 đời người.

Thí dụ: đàn ông, tuổi Canh Dần, Canh là Khôn vi Địa, Dần là Cấn vi Sơn, Quẻ Khôn ở trên, kết hợp với quẻ Cấn ở dưới thành ra quẻ địa sơn khiêm có nghĩa là: ở đời càng nhún nhường khiêm tốn càng có lợi cho sự nghiệp.

Như trên ta thấy cách thành lập quẻ được xếp theo: lấy hàng Can làm thương quái, lấy hàng Chi làm hạ quái.

Thượng quái và hạ quái kết hợp với nhau ra 1 trong 64 quẻ.

Thí dụ: Tuổi Ất Dậu, đàn bà, Ất là Chấn vi Lôi, Dậu là Ðoài vi Trạch, quẻ Chấn ở trên quẻ Ðoài ở dưới tạo thành quẻ lôi trạch quy muội có nghĩa là: những công việc làm vì vui thú, vì cao hứng thì chẳng được lành, càng đi càng vất vả, có nhiều ngang trái trong cuộc sống.

c. Sau đây là phần ý nghĩa các quẻ dịch

1. Phong thiên tiêu súc
Mây u ám mà không mưa, chưa có gì, việc làm nên đợi chín mùi hãy hành động.

2. Phong trạch trung phù
Trứng sắp nở không nên do dự nữa mà hỏng việc phải có gan tới phút cuối cùng.

3. Phong hỏa gia nhan
Ngọn lửa ở bếp, thời vẻ vang đã hết, cần an phận thì yên ổn hơn.

4. Phong lôi ích
Biết mình trong lợi ích chung, nên nhường nhịn để cùng hưởng lợi.

5. Phong thủy hoán
Buồm căng trước gió cơ hội tốt đang dần dần tới nên thận trọng mà đón nhận, vẫn có thử thách và nguy hiểm.

6. Phong sơn tiệm
Dục tốc bất đạt, loài chim biển khi cất cánh bay lên phải biết giữ sức để bay xa vì sông nước quá mênh mông.

7. Phong địa quan
Gío đang lớn thành bão, chớ vội vàng mà hỏng việc, nên nại chờ thời có thuận lợi.

8. Thuần tốn
Tự lượng sức mình thấy chưa đủ khả năng thì nên tìm cách ẩn náu kẻo có hại.

9. Thủy thiên nhu
Hãy trau dồi cho có khả năng để khi thuận lợi mà phát huy không nên vọng động sớm mà có hại.

10. Thủy trạch tiết
Phải chừng mực, tiết đồ để khỏi bị suy thoái.

11. Thủy hỏa ký tế
Thành công viên mãn.

12. Thủy lôi trân
Mầm non trong khối băng tuyết, tuy hy vọng mà nhiều bấp bênh gian nan, cần tu bổ khả năng chu đáo hơn.

13. Thủy phong tinh
Giếng nước ngọt có trước mắt người đang khát, ở đời nếu làm việc gì nên quyết định ngay kẻo lỡ mất cơ hội.

14. Thủy sơn kiển
Tưởng băng giá làm tê cóng tay, phải biết khi nguy hiểm ở trước mắt thì không nên làm, hay dừng lại là thuận lý.

15. Thủy địa tỵ
Khi thuận lợi vui vẻ phải cẩn thận đang có mầm khó nhọc xảy ra.

16. Thuần Khảm
Khi cảm thấy nhiều khó khăn đang đến như thác lũ kéo về. Cần nhẫn nại mới đương đầu vượt thắng được.

17. Trạch thiên quải
Tượng Hổ gầm dưới trăng, khi có tài mà chưa gặp thời chớ nên bất mãn, sẽ có lúc thuận lợi để khai triển sở trường.

18. Trạch hỏa cách
Khi việc cần đến phải bỏ cũ để làm mới hơn, chớ nuối tiếc do dự, càng gây cấn càng vẻ vang và thành công lớn.

19. Trạch lôi tùy
Khi hoàn cảnh khó thay đổi, cần ở thế nhu thuần là biết phận, không nên vọng động mơ tưởng thái quá.

20. Trạch phong đại quá
Tham thì cực thân, phải cận thận khi đến đích là lúc hết sức lực.

21. Trạch thủy khôn
Chịu vất vả thì sau này tốt tươi hơn.

22. Trạch sơn hàm
Những hỉ sư đến, với tầm tay, nên cố giữ mà hưởng thụ lâu dài.

23. Trạch địa tụy
Khi làm việc gì học hỏi cho kỹ; thành công đòi hỏi nhiều về quá trình kinh nghiệm của người khác.

24. Thuần đoài
Miệng lưỡi là gốc của họa phúc, thuận lợi xen lẫn với hiểm nghèo, làm việc gì cũng phải cẩn thận.

25. Ðịa thiên thái
Cuộc đời gặp được nhiều việc đắc ý sở cầu nhưng đừng nên thái quá.

26. Ðịa trạch lâm
Mềm dẻo, dĩ nhu chế cương thì thành công, tuy cơ mà ứng biến.

27. Ðịa hỏa minh di
Khi có nhiều tai họa vây quanh, nên tìm cách ẩn hơn là tranh đua, chỉ mua lấy bất lợi.

28. Ðịa lôi phục
Khi gặp thất bại nên rút tỉa kinh nghiệm thì sẽ thành công.

29. Ðịa phong thăng
Muốn thoải mái chớ tự phụ, khả năng nhiều cần giúp đỡ người khác.

30. Ðịa thủy sư
Khi gặp nổi khổ tâm, đừng nản chí, sáng suốt thì thoát khỏi thất bại.

31. Ðịa sơn Khiêm
Ở đời càng nhường nhịn là khôn ngoan, sẽ đạt thắng lợi nhiều.

32. Thuần Khôn
Nhu hòa và phải biết lùi đúng lúc là đã thành công thì tránh được họa hại.

33. Hỏa thiên đại hữu
Tương mặt trời ở chính ngọ phải thận trọng, lúc cao nhất là sắp bước sang kỳ suy thoái vất vả.

34. Hỏa trạch khuê
Phải tranh đấu mới được việc, vẫn cần đề phòng tất cả chỉ là tạm thời, phải chịu đựng.

35. Hỏa lôi phệ hạp
Phải quyết định dứt khoát mọi trở ngại mới mong thành công ở đời.

36. Hỏa phong đỉnh
Ở đời khi mong ước điều gì, cần góp nhặt tất cả khả năng, điều kiện.

37. Hỏa thủy vi tế
Khi thành công một phần, chớ tự mãn vì sự việc cần, đòi hỏi tiến tới nữa.

38. Hỏa sơn lú
Cuộc đời như người lữ khách nhiều lo âu, đang trong cơn thất thế, cần an phận, bình tĩnh.

39. Hỏa địa tấn
Vạn sự khởi đầu nan, cần vững tâm để có khí thế ban đầu.

40. Thuần ly
Ở đời, sự việc khi khí thế đang phát triển thì đừng nên quá đà mà trở thành ảo mộng.

41. Lôi thiên đại tráng
Không kìm hãm được mình, thành ra hỏng việc.

42. Lôi trạch qui muội
Vì tình mà quên lý, cái thế lỡ làng, nên nhẫn nhục là hơn.

43. Lôi Hỏa Phong
Lúc thành công nhất cũng là lúc báo hiệu suy tàn tới nơi, cần phòng xa.

44. Lôi Phong Hằng
Cố gắng tạo căn bản, đó là nắm vững lẽ thường, nên trầm tĩnh mà làm việc.

45. Lôi thủy giải
Tượng que: tuyết tan được nắng xuân. Khi thuận lợi đã đến nên nắm lấy mà hành động.

46. Lôi sơn tiểu quá
Cuộc sống ở đời thiếu thuận hòa, điều bất lợi càng lúc càng nhiều.

47. Lôi địa tụ
Phải biết lo xa để khỏi phiền gần, có phòng xa thì mới vui vẻ

48. Thuần lôi
Sau cơn mưa trời lại sáng, cứ yên tâm với những nỗi biến động của cuộc đời.

49. Thiên trạch lý
Ở đời khi đã bắt tay vào việc phải tùy cách đối phó khéo léo mà cư xử.

50. Thiên hỏa đồng nhân
Sự việc ở đời cần sự giúp đỡ của những người chung quanh cho nên quyết định một mình.

51. Thiên lôi vô vọng
Khi gặp lúc thất vọng cần trầm tĩnh để phân biệt cái thất bại với cái thành công. Thủ phận chờ lúc không phải là đã chịu an phận.

52. Thiên Phong cấu
Cuộc đời gặp lúc họa vô đơn chí, có nhiều tai họa dồn dập, phải bình tĩnh mà nhận định, chớ cuống cuồng.

53. Thiên thủy Tụng
Ở đời càng bớt va chạm càng tốt, giảm cứng rắn để đoạt thắng lợi.

54.Thiên sơn độn
Khi cơn nguy đến, chạy trước là thượng sách, tìm nơi ẩn mình mà tu dưỡng, sẽ vinh quang sau này.

55.Thiên Ðịa Bỉ
Ở đời khi gặp lúc cũng ví như vào ngõ cụt thì nên chịu phận nhục mà thu hồisức lực, chớ vong động rồi sẽ gặp thoải mái hơn.

56.Thuần Cấn
Bay cao quá sẽ rớt đau hơn, khi thành công chớ khinh thường, nên củng cố kinh nghiệm để tạo thành công mới.

57. Sơn thiên đại súc
Ở đời mọi sự việc càng chuẩn bị chu đáo, sẽ vững lòng tiến đến thành công.

58. Sơn trạch tổn
Ở đời nếu biết hy sinh những cái lợi trước mắt cách tạm thời, sẽ hanh thông hơn trong tương lai kế cận.

59. Sơn hảo bi
Ở đời nhưng cơ hội tốt đến với mình chỉ thoáng qua ví như sự huy hoàng của ngọn đèn sắp tàn.

60. Sơn lôi hi
Trước khi làm việc gì phải mất công quan sát nhiều điều kiện thì mới được tốt đẹp.

61. Sơn Phong Cổ
Ở đời mỗi lần sự việc xấu đến với mình, hay lan rộng từ trong ra ngoài nên phải đề phòng, nên tĩnh thì hơn.

62. Sơn Thủy Mông
Càng gặp chua cay thất bại càng nên học hỏi, chớ nản cứ kiên nhẫn, thời cơ sẽ đợi mình.

63.Sơn địa bác
Khi gặp tình thế bi quan, chớ nản lòng, trong đó vẫn còn lối dẫn đến thành công. Cứ bình tĩnh mà tìm sẽ thấy.

64. Thuận Cấn
Ở đời phải biết chữ tùy khi ngại ở trước mắt.

Trên đây chỉ là tóm tắt ý chính, lời khuyên bảo cho mỗi quẻ, để cho dễ nhớ, nếu muốn đào sau cho tường tận, ngọn nguồn, nên tìm đọc thêm các sách Chu–Dịch-vì ở đây không hoàn toàn thuộc phạm vi của Dịch Lý nên chỉ xin được phép khái lược để gây cho độc giả ý niệm về Dịch. Tuy vậy những lời bảo của mỗi quẻ dịch tương ứng với mỗi tuổi, vẫn được trình bày cách đơn giản và dễ hiểu.

2. Ý Nghĩa của mệnh và Thân

Theo các sách Tử Vi của người xưa để lại, đều thấy nói, từ lúc mới sinh cho đến năm 30 tuổi thì cuộc đời ảnh hưởng do cung mệnh, do đó lấy cung Mệnh làm chính. Cuộc đời ngoài 30 tuổi trở ra tới lúc chết thì ảnh hưởng do cung Thân (Thân đây là cung an Thân chứ không phải cung Thân trong địa chi Tý Sửu Dần..). Do đó phải lấy quan niệm tam thập nhi lập – con người sống ở đời trong vòng 30 tuổi. Là cái thời gian để trui luyện dùi mài kinh sử, luyện tập khả năng để khi rời mái gia đình tức là từ 30 tuổi trở ra, mới đem cái sở trường ra để tạo sự nghiệp giúp đời, lúc ấy mới chính là lúc hành động. Thế cuộc biến đổi, quan niệm tam thập nhi lập ngày nay không còn nữa, để phù hợp với đại cuộc, cung mệnh chỉ được khả coi nặng khi đương số có trong mái gia đình và khi ra hoạt động với không không phân biệt tuổi tác thì ấy chính là lúc Thân hoạt động. Nhưng mỗi động tác con người đều là sự kết thúc của những năng lực tiềm tàng trong nội giới

Thân chính là cái ứng dụng của Mệnh - hay nói một cách rõ ràng dể hiểu hơn:

  • Mệnh là tư tưởng của con người
  • Mà Thân là cái ta hành động vậy

Trên địa bàn một lá số, chỉ thoáng nhìn cung mệnh, rồi đến cung an thân, ta có thể hiểu được con người của lá số ấy có tư tưởng gì và hành động ra sao? Mà mọi kết thúc của hành động chính là những tác nhân (nguyên nhân tác động) gây nên những điều hoặc có lợi, hoặc có hại cho bản ngã.

Vậy phải hành động thế nào cho có lợi cho bản ngã, khi nào chiều theo tư tưởng vẫn tự nó phát sinh, khi nào nên dứt bỏ, phải xét lại; ấy chính là cái “biệt” của người trí giả vậy.

Muốn biết về ý nghĩa của mệnh, thân, thế nào chỉ căn cứ vào vòng Thái Tuế và các sao ở cung mệnh hay Thân và ý nghĩa các sao liên hệ để luận.

Thí dụ: 1 lá số dương nam Canh Dần tháng 9 ngày 3 giờ Thân. Như vậy mệnh Lập tại Dần có Tham Lang gặp Thái Tuế. Thân đóng ở Ngọ có Quan Phù gặp Thất sát ngộ Tuần Triệt - có nghĩa là con người trong tư tưởng lúc nào cũng mang niềm tự hào, thích ra tay nghĩa hiệp nhưng hành động thì lại hay nóng nảy (quan.???? Thất sát) mà hỏng việc (Tuần Triệt cản) mà như vậy thì lại sinh ra bất mãn ở con người. Thái Tuế càng thất bại, càng gặp việc khó càng kiêu kỳ, chính vì cái tư tưởng (mệnh) Tham Lang nên khi làm việc chỉ hăng hái buổi đầu rồi tư tưởng sẽ thay đổi để dễ bỏ dở công việc để làm việc mới khác. Vậy muốn sống cho được thành công, người này phải biết mềm mỏng, kiên nhẫn và cương quyết trước sự việc, khi gặp trở ngại đừng nản chí, cứ tiếp tục làm sẽ thành công.

3. Thiên Tài, Thiên Thọ hay Nhân Quả

Sao THIÊN TÀI được khởi từ cung mệnh là cung tý tính theo chiều thuận đến năm sinh.

Sao THIÊN THỌ được khởi từ cung an thân là cung tý cung tính theo chiều thuận đến năm sinh.

Như, trên đã trình bày cái lý hàm súc của mệnh, Thân Thiên tài đi theo mênh, Thiên Thọ lại tùy với Thân như ngầm bảo cho thấy phải gieo cái Nhân ở đâu thì sẽ gặt hái kết quả cho đời, vậy nêu tính ra sẽ thấy người sinh năm:

  • Tý sao Thiên tài ở Mệnh
  • Sửu sao Thiên tài ở Phụ Mẫu
  • Dần sao Thiên tài ở Ðiền
  • Thìn sao Thiên tài ở Quan
  • Tỵ sao Thiên tài ở Nô
  • Ngọ sao Thiên tài ở Di
  • Mùi sao Thiên tài ở Ách
  • Thân sao Thiên tài ở Tài
  • Dậu sao Thiên tài ở Tử
  • Tuất sao Thiên tài ở Phối
  • Hợi sao Thiên tài ở Bào
  • Dần sao Thiên tài ở Phúc

Sao Thiên Thọ nằm ở đâu thì những kết quả gặt hái được sẽ do từ cung ấy.

Thí dụ: Tuổi Canh Dần ngày 3 tháng 9 giờ Thân. Thân cư quan Lộc, Thiên tài Phúc Ðức, Thiên thọ cư tài bạch, ở người này nếu muốn được sự thoải mái may mắn về tiền bạc, phải đối xử với họ hàng bà con thật rộng lượng, cho phải đạo, gạt bỏ mọi tị hiềm.

  • Người tuổi Tý THIÊN TÀI ở Phụ Mẫu nghĩa là phải đối xử với cha mẹ cho ra người hiếu tử.
  • Người tuổi Dần THIÊN TÀI ở Phúc: phải đối xử với họ hàng cho phải đạo.
  • Người tuổi MÃO, THIÊN TÀI ở Ðiền: lo nhà cửa, nơi che mưa trú nắng là quan trọng.
  • Người tuổi THÌN, THIÊN TÀI cư Quan: phải chăm lo bồi đắp cho công danh của mình.
  • Người tuổi TỴ, THIÊN TÀI cư Nô: phải đối xử rộng rãi và cho có nhân tình với bạn bè, với người giúp việc.
  • Người tuổi Ngọ, THIÊN TÀI ở Di: phải có những hoạt động xã hội giúp đỡ tha nhân.
  • Người tuổi Mùi, THIÊN TÀI ở Ách:phải chăm lo đến sức khỏe của mình.
  • Người tuổi Thân, THIÊN TÀI ở Tài: phải biết chi tiêu rộng rãi nhưng lo xa.
  • Người tuổi Dậu, THIÊN TÀI ở Tử Tức: nếu chăm lo cho con cháu sẽ được hưởng phúc.
  • Người tuổi Tuất, THIÊN TÀI ở cung Phối ngẫu: nên cư xử cho đúng đạo vợ chồng.
  • Người tuổi Hợi, THIÊN TÀI ở Bào: nếu biết lo toan bao bọc xây dựng cho anh em, sẽ được đền bù xứng đáng.

Tử Vi là 1 khoa học nhân văn nghiên cứu về con người hiện thực, cho nên Tài, Thọ ở đây là cái Nhân quả nhãn tiền có ngay từ cuộc sống này. Những thoải mái, may mắn mà ta đạt được (Thiên Thọ), sẽ xảy ra ngay sau cái nhân là Thiên Tài mình gieo được.

4. Ðạo lý ẩn tàng trong chính tinh của Tử Vi

Người nghiên cứu Tử Vi, nếu đặt bút làm con tính thì ai cũng có thể thấy cứ 1 hội (60) thì có được 512.640 lá số tử vi khác nhau, nhưng trong khi ấy thì nhân loại có khoảng 6 tỉ người như thế, tính trung bình thì cứ 12,000 người có cùng 1 lá số giống nhau; thế nhưng trên thực tế số người số người có cùng một lá số lại vẫn có những sứ mệnh khác nhau. Ðiều này đã gây thắc mắc không ít cho học giả. Thật ra khi truyền bá môn lý học này. Cổ nhân có ý muốn hệ thống hóa các đặc loại con người, rồi theo đó mà có lời bảo cho từng loại phải sống sao cho chan hòa cùng nhau (xã hội hoàng kim thịnh vượng là vậy) chứ không hẳn chỉ nhằm vào việc đoán vận mệnh phú quý, thọ yểu mà thôi. Mỗi lá số đều có những cấu trúc tinh đẩu khác nhau chỉ thoáng qua thế chính tinh đã thấy rõ 3 cách phân bố.

a. Nhân cách: là thể nhị hợp của Liêm trinh với Thiên Lương, của Thiên Cơ với Phá Quân, của Vũ Khúc với Thái âm, của Thiên Phủ với Thái Dương và của Tham Lang với Thiên Ðồng.
b. Ðịa cách: là tính xung đối của Thiên tướng với Phá Quân, của Thất Sát với Thiên Phủ.
c. Thiên cách: là tính hình hại của chính tinh, xin nhắc lại tính hình hại của 12 cung địa chi, còn gọi là Lục Hại.

  • Tỵ hình Dần
  • Thìn hình Mão
  • Ngọ hình Sửu
  • Mùi hình Tý
  • Thân hình Hợi
  • Dậu hình Tuất

Ở thế này luôn luôn thấy tính cách hình Hợi của Tử Vi với Cự Môn, của Thiên tướng với Thiên Cơ, của Thái Dương với Thất Sát.

Sự hình thành chặt chẽ các thế đứng của 14 chính tinh trải đều trên địa bàn 12 cung dù trong bất cứ ở cung nào cũng không ra ngoài 3 thể cách đã nêu trên, đây cũng là 1 trong những huyền ảo của Tử Vi. Chính là ẩn tàng cái đạo lý làm người khi ta nghiệm lý về Tử Vi.

Mỗi cách số của Tử Vi đều có cái thuận lợi riêng và cũng có cái bất lợi riêng của nó, người thâm cứu về Tử Vi không phải là chỉ biết khi nào đáo vận Thái tuế, lúc nào đáo hạn Thiên Không, cái biết này chỉ là cái dụng sơ đẳng, tầm thường. Quan trọng hơn là ta phải biết cái “thể” rõ nét mà xử lý với đời như thế nào cho phải đạo.

  • SUY NGẪM VỀ NHÂN CÁCH: Chính tinh ở thế nhị hạp. Ta thấy bàng bạc lời khuyên bảo chí tình: sống thanh bạch nhưng giữ cho phẩm chất thanh cao (thế Liêm trinh hỏa sinh Thiên lương mộc). Muốn đổi cũ thay mới phải biết cân nhắc tính toán cho cẩn thận khôn ngoan, không thể phủ định tất cả (Phá quân thủy sinh Thiên cơ mộc), sống có tình cảm chan hòa nhân ái chứ không nên vì đồng tiền mà thành cô đơn ti tiện (Vũ khúc Kim sinh Thái âm thủy - khi phú quý song toàn, có nghĩa là khi được địa vị cho sang cả phải có lòng nhân hậu trong sáng (Thái dương hỏa sinh Thiên phủ thổ). Phải thành khẩn tu tâm, hối cải các lỗi lầm để diệt bớt dục vọng, đừng tham lam mà chỉ tính chuyện canh cải sửa đổi hời hợt (Thiên đồng thủy sinh Tham lang mộc).
  • SUY NGẪM VỀ ÐỊA CÁCH: Chính tinh thế xung đối thấy rõ ràng thuật xử thế lấy độc trị độc, cao nhân tất hữu cao nhân trị (Phá quân xung với Thiên tướng ). Lấy đạo cương nhu mà dung nạp nhau, đạo đức kiềm chế hung bạo (Thiên phủ xung với Thất sát).
  • SUY NGẪM VỀ THIÊN CÁCH: Tính hình hài của tinh đẩu cho thấy lời chỉ dạy về kinh nghiệm sống ở đời phải biết. Khi đạt địa vị cao sang phải biết nghe lời phê phán sự bình phẩm của xã hội là cách tu sửa bản thân chính đáng, hoàn mỹ đó là Cự Môn với Tử Vi.
  • Trí và Dũng không cân xứng là đau khổ, thiếu cái này sẽ mất cái kia đó là Tướng quân với Thiên cơ.

Quân tử khó chung đụng với tiểu nhân, sự trong sáng, nghiêm túc không dung chứa tà mị vũ phu đó là thế hình nhau của Nhật với Phá quân. Ðời người theo tính lý của Tử Vi chỉ là 1 bản dự thảo của một con người.

Không một thế lực nào có thể độ mạng cho ta được, đời ta do tay ta gầy dựng tùy ý ta chọn lựa để tiếp nhận lấy những sự xảy đến với ta.

Không nên chê trách MẪU THIÊN KHÔNG. Những cũng chớ vội tôn sùng người THÁI TUẾ, vấn đề khẩn yếu là dựa vào cấu trúc của các tinh đẩu ở lá số của mình mà xử thế với đời sao cho nên người tốt lành trong xã hội.

Toàn bộ nội dung bài viết về phần quẻ dịch năm sinh và nguyên lý Tài Thọ đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số (lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó vào phần "LỜI KHUYÊN ỨNG XỬ" để đọc nội dung hướng dẫn lời khuyên ứng xử theo nội dung bài viết.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đi tìm nhân sinh quan trong Tử Vi hay làm thế nào để sửa số?

Soi nhân trung xem chỉ số giàu có của bạn

Nhân trung là phần lõm ở giữa mũi và miệng, nếu bạn có nhân trung ngắn thì bạn không có ham muốn về tiền, nhân trung lồi báo hiệu bạn có sức khỏe tốt và khả năng kiếm tiền giỏi.
Soi nhân trung xem chỉ số giàu có của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

soi-nhan-trung-xem-chi-so-giau-co-cua-ban
Số 1 Số 2 Số 3
Số 4 Số 5

Mộc Trà (theo Lol)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Soi nhân trung xem chỉ số giàu có của bạn

Canh Dần mệnh gì –

Người sinh 1950, Canh Dần có Ngũ hành năm sinh là Tùng Bách Mộc, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Nam, Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 5, sao Ngũ Hoàng, Tây tứ mệnh (Nhà hướng tốt: Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá m
Canh Dần mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Dần mệnh gì –

Kết Luận-Tài Liệu Nghiên Cứu

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Trở về trang nhà
Kết Luận-Tài Liệu Nghiên Cứu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

IX.- Kết luận
     Tử-vi không phải là một khoa học độc lập, nó là kết tinh trong nhiều khoa học khác trong học thuật tư tưởng Á-châu. Người sáng lập ra không phải là Hy-Di tiên sinh. Ông chỉ là người kết hợp các khoa lại. Chính ông, ông cũng công nhận khoa này có trước ông. Ông chỉ là người bổ túc và đưa nó trở thành một khoa nổi tiếng.
     Khoa Tử-vi truyền vào Đại-Việt thời Lý do Trần Tự Mai, hay Hoàng Bính mang vào không cần thiết. Dù Tự Mai hay Hoàng Bính thì Tử-vi đó cũng thuộc chính phái. Nhưng bí truyền trong dân gian. Đợi mãi đến khi ông Lê Quý Đôn đi sứ Trung-hoa về mang theo bộ Tử-vi của Nam phái, bấy giờ khoa Tử-vi mới được đại chúng hóa. Nhưng cũng chính vì vậy khoa Tử-vi ở Việt-nam có hai trường phái: Một trường chính phái, học rất mau, theo sát Hy-Di tiên sinh.
     Một trường phái nữa ảnh hưởng Nam phái, vì thất truyền thành ra không có hệ thống nào cả.
     Những người nghiên cứu Tử-vi cần phân biệt rõ hai hệ thống, để lúc học mới khỏi bị bỡ ngỡ. Tuy nhiên không phải những sách vở nào của Nam phái cũng hỗn tạp, không phải những vị nào của Nam phái đều đoán liều cả. Tử-vi cũng như y học cần đi đến đối tượng là kết quả, ai đoán trúng, người đó đạt được học thuật. Cũng như y học, nói, viết không phải là cứu cánh, mà ai trị khỏi bệnh, người đó có lý.
      Một vấn đề trước mắt của chúng ta là, làm sao có đủ sách cho các vị nghiên cứu tìm hiểu.

      Sách vở của cổ nhân chỉ là nền móng lúc đầu. Tại sao xưa kia Hy-Di tiên sinh đã tìm ra được nhiều nguyên lý Tử-vi, ngày nay chúng ta không thể đi sâu hơn tìm ra những nguyên lý khác. Cái xe hơi thế kỷ thứ 18 thô sơ, người sau cải tiến dần, nay trở thành những xe tối tân. Tử-vi là khoa học, chúng ta có thể tìm thêm, nghiên cứu rộng, để đưa ra những phát hiện mới. Bấy giờ mới đi tìm vận số con người, lại có thể đi xa hơn, phát triển phá cách, trợ cách, một lối phát huy độc đáo đời Trần, cần được đào sâu để đạt được tuyệt đích khoa học vậy.

Viết tại Bruxelles, mùa Đông, Tân-dậu (1981)
Trần Đại Sỹ
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Hầu hết bằng Hoa-văn, và vài bộ bằng Việt-ngữ, gồm những bộ ghi trên.

        1. Thư tịch về khoa Tử Vi
        2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
        3. Khoa Tử Vi đời Tống
        4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
        5. Tử Vi vào Việt Nam
        6. Khoa Tử Vi đời Trần
        7. Khoa Tử Vi đời sau
        8. Dị biệt chính, Nam phái
        9. Kết luận

Quay về | Trở về trang nhà



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kết Luận-Tài Liệu Nghiên Cứu

Sự sống sau cái chết

Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm năng cho các rung động nảy sinh.
Sự sống sau cái chết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nhà khoa học kể lại câu chuyện tâm linh
(Đọc trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được  tạp chí Time bình chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn, 2010).

(Ông nói: Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện).
Câu chuyện, đã trở thành nổi tiếng trong tài liệu cận tử, thuộc về một nghệ sĩ tên là Mellen-Thomas Benedict chết vì u não năm 1982. Việc ông chết một tiếng rưỡi rồi hồi tỉnh thật không thể tin được đối với các tiêu chuẩn phương Tây. Trong Phật giáo Tây Tạng ông có thể được coi là một delog, và các kinh nghiệm của Benedict chi tiết như mọi câu chuyện của  các delog khác. Tôi sẽ kể chi tiết câu chuyện này vì cuộc du hành của Benedict thực sự đã cung cấp cả một bách khoa toàn thư về cõi sau sự sống.    
Ông phát hiện ra mình ở bên ngoài thể xác, nhận biết rằng thi thể vẫn nằm trên giường. Lĩnh hội mở rộng-ông có thể nhìn bên trên, xung quanh và bên dưới ngôi nhà của mình-và ông cảm thấy mình bị bao bọc trong bóng tối, nhưng chẳng bao lâu một ánh sáng chói lòa trở nên rõ rệt. Ông di chuyển về hướng ánh sáng, biết rằng nếu rơi vào đó ông sẽ chết.
   
Tại điểm này, Benedict đã ra một quyết định kinh ngạc. Ông đề nghị kinh nghiệm dừng lại và nó dừng lại. Việc ông tìm cách khống chế những gì xảy ra sau cái chết có thể không làm một rishi ngạc nhiên, nhưng nó gần như duy nhất trong tài liệu cận tử.

Benedict ra lệnh dừng lại như vậy để ông có thể nói chuyện với ánh sáng. Trong khi ông hành động như vậy, ánh sáng thay đổi hình dạng liên tục, khi thì tạo nên hình Chúa Trời hay đức Phật, khi thì chuyển thành các hình thù phức tạp như đàn tràng mandala hoặc các hình ảnh nguyên bản và các kí hiệu như ông muốn.

Ánh sáng nói với ông (hay chính xác hơn là truyền thông tin vào tâm trí ông) rằng người chết được cho “một vòng liên hệ ngược” của các hình ảnh tương xứng với hệ thống tín ngưỡng riêng họ: tín đồ Thiên Chúa giáo nhìn thấy các hình ảnh Thiên Chúa giáo, Phật tử nhìn thấy các hình ảnh Phật giáo… Là một cái vòng, người chết có thể đi vào bên trong kinh nghiệm và tạo hình nó, như Benedict đã làm. (Ánh sáng giải thích rằng ông là một ca hiếm; đa số người ta đi tiếp mà không hỏi gì cả).
   
Việc Benedict nhìn thấy nhiều hình ảnh hoán đổi nhau có thể liên quan tới niềm say mê các tôn giáo và truyền thống tâm linh của thế giới sau khi ông bị chẩn đoán mắc ung thư. Sau đó Benedict nhận ra cái ông nhìn thấy thực ra là ma trận Bản Ngã Tối Cao, mà ông mô tả là “mandala của linh hồn con người”; chính là hình mẫu vũ trụ của ý thức.

Ông nhận ra mỗi người có Bản Ngã Tối Cao là siêu linh mà cũng là kinh mạch trở về nguồn. Những thuật ngữ này, gần như không thay đổi, nghe giống Vedanta thuần túy. Điều này gây nên sự ngờ vực, bởi vì Benedict có thể bị các kinh sách Ấn Độ ông đọc cách đó không lâu ảnh hưởng mạnh mẽ. Tuy nhiên, về phía ông, kinh nghiệm đã trải qua là hoàn toàn bột phát và hiện thực.   


 
Chăm chú nhìn ma trận của các linh hồn, Benedict nhận ra là tất cả chúng liên kết với nhau; nhân loại hình thành một tồn tại; mỗi chúng ta là một khía cạnh của tổng thể này. Ông bị lôi kéo vào cái ma trận mà ông mô tả là đẹp không tả xiết. Nó toát ra một tình thương trị liệu và bổ dưỡng xâm chiếm ông. Ánh sáng truyền đạt tới ông rằng ma trận linh hồn hình thành một mức năng lượng vi diệu bao bọc quanh trái đất và ràng buộc mọi người lại với nhau.

Benedict đã mất hàng chục năm dồn hết tâm trí vào lĩnh vực giải trừ vũ khí hạt nhân và sinh thái học, nhưng vấn đề khó khăn khiến ông hết sức bi quan. Ông nói giờ đây ông được đối diện với vẻ đẹp thuần khiết của mỗi linh hồn con người và thật bàng hoàng.    
Ông đặc biệt kinh ngạc khi không có linh hồn nào chứa đựng cái ác, và ánh sáng cho ông biết linh hồn không thể nào độc ác di truyền. Sự kiếm tìm tình yêu nằm trong mọi hành vi của con người, và khi người ta bị lôi kéo vào những hành vi tồi tệ, nguyên nhân gốc rễ là thiếu tình thương. Khi ông hỏi như thế có phải là nhân loại có thể được cứu rỗi, một hồi kèn vang lên trong ánh sáng xoáy ốc, và Benedict được nhắn nhủ rằng chớ bao giờ quên câu trả lời: loài người đã được cứu rỗi, dù cho tình hình hiện tại có vẻ kinh khủng đến thế nào đi chăng nữa.
   
Benedict trải nghiệm sự khoan khoái tột độ khi ông bị hút sâu hơn vào ánh sáng, đạt tới vùng khác vi diệu hơn và bao la hơn nhiều. Ông nhìn thấy một “dòng ánh sáng khổng lồ, thoáng đạt và chan chứa sâu trong trái tim sự sống”. Khi ông hỏi cái gì đấy, ánh sáng trả lời rằng đó là dòng sông sự sống và ông cần uống nước từ đó để trái tim mình thỏa mãn.
   
Tràn ngập nỗi tò mò vô hạn, bây giờ ông xin ánh sáng hé mở cho ông cả vũ trụ “phía sau mọi ảo ảnh nhân loại”. Ông được đề nghị cưỡi lên dòng sự sống, và khi thực hiện, ông vừa vượt qua một đường ngầm và nghe thấy “những tiếng động nhẹ nhàng”. Tốc độ của ông vượt quá tốc độ ánh sáng khi ông rời khỏi hệ mặt trời, xuyên qua tâm giải Ngân hà, và nhận biết vô số thế giới và nhiều hình thái sự sống, tất cả trong một sự hối hả chóng mặt. Ở đây Benedict có một phát hiện quan trọng, rằng điều tưởng như là du hành xuyên qua vũ trụ thực ra chỉ là mở rộng ý thức của chính mình. Sự hiện diện của các ngân hà và tinh vân lướt qua chính là ý thức của ông trôi qua hết giới hạn không-thời gian này đến giới hạn khác.
   
Benedict mô tả toàn bộ các dải ngân hà mất hút vào một điểm, về các hình thái sự sống bộc lộ sự tồn tại của chúng, về một ánh sáng thứ hai chứa đựng mọi rung động trong vũ trụ. Theo các rishi Veda, đó là các rung động nguyên thủy mà từ đó vạn vật xuất hiện, có nghĩa là Benedict đã là nhân chứng của chính hoạt động ý thức. Benedict đã tìm được ngôn ngữ riêng của mình cho giai đoạn này, khi nói rằng ông đối mặt với hình ảnh ba chiều của vũ trụ.
   
Khi đi vào vùng ánh sáng thứ hai, ông thể nghiệm sự chuyển biến sang im lặng và tuyệt đối bất động. Có một điều xảy ra là ông có thể nhìn thấy vô tận. Ông ở trong trống rỗng, hoặc là tiền sáng thế như cách ông gọi, và ý thức của ông vô hạn. Ông đã tiếp xúc với cái tuyệt đối không phải là một kinh nghiệm tôn giáo mà là một trong những nhận thức không ràng buộc. Ông nhận thấy vạn vật tự phát sinh không có bắt đầu hay kết thúc. Thay vì một Big Bang, sự kiện duy nhất đã tạo ra vũ trụ, Benedict nhận thấy hàng triệu Big Bang liên tục sản sinh ra những vũ trụ mới. Bởi vì ông ở ngoài thời gian, điều này xảy ra đồng thời ở khắp mọi hướng.
   
Sau khi đạt đến sự diện hiện vũ trụ này, cuộc du hành của Benedict tự quay về, từng bước một, và ông thức dậy trên giường mình tại nhà với nhận thức không lay chuyển, giờ đây rất giống trong tài liệu kinh nghiệm cận tử, rằng cái chết là ảo giác.
   
Ông Benedict đã đồ rằng sẽ trở về cõi trần là một đứa bé, với một kiếp sống mới. Thế nhưng khi mở mắt ra, ông vẫn có cơ thể cũ, cái cơ thể đã chết hơn một tiếng đồng hồ theo lời kể của nhân viên nhà tế bần có mặt lúc đó (ở đó không có máy đo đạc hay bác sĩ). Nhân viên nhà tế bần, người khóc bên xác Benedict, cam đoan với ông rằng ông đã có mọi dấu hiệu của cái chết, kể cả cơ thể lạnh cứng dần. Một ống nghe khoách đại không phát hiện ra nhịp tim. (Dưới góc độ y học, xác nhận này tự thân quá kì quặc khiến một người hoài nghi phải trừ hao mọi phần khác trong câu chuyện của Benedict).
   
Mặc dầu lúc đầu bị mất phương hướng ghê gớm, ông Benedict cảm thấy dễ chịu hơn là trong cuộc sống trước kia. Phải mất ba tháng ông mới dám liều đi chụp não lại, dễ hiểu là ông lo ngại về khối u-nhưng lại nhận được những tin tuyệt vời. Mọi dấu vết của khối u ác tính đã biến mất, vị bác sĩ chuyên khoa ung thư giải thích đó là sự thuyên giảm tự phát, một trường hợp u ác tính tự tiêu biến rất hãn hữu. Đây là sự lãng tránh vấn đề khỏi bệnh thông qua cái chết chưa từng bắt gặp trong sách y học, và hiện tượng khỏi bệnh ung thư ác tính cấp, như tôi được biết, là hiếm xảy ra nhất.

2. Nói về hoạt động trí não
* Trí óc vận hành trong cái manh mún, từng phần, chia chẻ. Nó tự chuyên môn hóa. Nó không bao giờ là cái toàn thể, cái mà nó muốn nắm giữ, muốn hiểu biết nhưng vô hiệu. Vì chính bản chất của nó, nên tư tưởng luôn luôn không toàn vẹn, cảm thức cũng thế; tư tưởng, phản ứng của kí ức chỉ có thể vận hành trong cái đã biết, hoặc lí giải từ kiến thức. Trí óc là sản phẩm của sự chuyên môn hóa. Nó không thể vượt lên trên chính nó. Nó chia chẻ và tự chuyên môn hóa thành nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo sĩ, luật gia, kĩ thuật gia, nông gia… Nó hoạt động bằng cách phóng chiếu lên giai cấp xã hội, đặc quyền, quyền hành, uy thế của nó. Sự vận hành não bộ và giai cấp xã hội liên kết với nhau chặt chẽ, vì trí óc là một cơ quan tự bảo vệ. Chính từ nhu cầu này mà những yếu tố đối nghịch và chống trái của xã hội phát sinh. Nhà chuyên môn thì không có khả năng nhìn được toàn diện.  
(…) Năng khiếu và thiên tư hiển nhiên là nguy hại, vì củng cố tính vị ngã; vì mang tính chia chẻ vụn vặt nên nuôi dưỡng xung đột. Năng khiếu chỉ có giá trị trong sự nhìn thấu toàn diện đời sống, sự nhìn thấu này nằm trong lĩnh vực của tâm chứ không phải của trí óc. Năng khiếu với sự vận hành của nó nằm trong giới hạn của trí óc, do đó năng khiếu trở nên nhẫn tâm, lãnh đạm đối với tiến trình toàn thể của đời sống. Năng khiếu gây ra lòng kiêu hãnh, ham muốn, và sự thành tựu của nó trở thành ưu tiên hàng đầu, nó đưa đến thù ghét, vô trật tự, đau khổ; nó chỉ có giá trị nếu nhận thức được toàn thể sự sống. (…).
 
(…) Trí óc vận hành bằng cách tự chuyên môn hóa với sự chia chẻ manh mún, với những hoạt động cô lập lại nó trong địa hạt giới hạn của thời gian. Trí óc không có khả năng nhìn thấy toàn thể sự sống; dù có được giáo hóa đến đâu, trí óc cũng chỉ là một phần chứ không phải là toàn thể. Chỉ có tâm mới thấy được cái toàn thể, và phạm vi của tâm bao trùm luôn trí óc; trí óc dù có làm gì đi nữa cũng không thể chứa đựng được tâm.
 
Để nhìn thấy toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái buông xả. Buông xả hoặc phủ nhận không phải là đối nghịch của khẳng định; những cái đối nghịch đều liên kết với nhau. Sự phủ nhận không có cái đối nghịch. Để có được cái nhìn toàn thể, trí óc phải ở trong trạng thái phủ nhận tuyệt đối; nó không được can thiệp vào bằng cách lượng giá, biện bạch, kết án và tự vệ. Trí óc phải im lặng mà không bị ép buộc; ép buộc sẽ làm cho trí óc chết cứng, chỉ có khả năng mô phỏng và tùy hợp. Chính trong trạng thái phủ nhận mà trí óc tĩnh lặng không lựa chọn. Chỉ chính lúc đó cái nhìn toàn thể mới phát sinh. Lúc đó tâm hoàn toàn tỉnh thức, và trạng thái này không gồm có người quan sát cũng như vật bị quan sát, mà chỉ có ánh sáng, chỉ có sáng suốt. Sự đối kháng và xung đột giữa người tư duy và tư tưởng kết thúc. (Jiddu Krishnamurti-danh nhân giác ngộ. Bút hoa (The Krishnamurti’s notebook); Ẩn Hạc dịch).

* Cần phải thừa nhận rằng trong các khoa học tự nhiên cũng có một phần lớn mang tính chủ quan. Với vai trò là sinh vật biết tư duy, nhà khoa học không thể quan sát Tự nhiên một cách hoàn toàn khách quan. Einstein từng nói: “Các khái niệm vật lí là những sáng tạo tự do của trí tuệ con người, ngay cả khi chúng có vẻ như được quyết định chỉ bởi thế giới bên ngoài.

Những cố gắng của chúng ta nhằm nắm bắt hiện thực cũng tựa như những nỗ lực của người tìm cách hiểu cơ chế hoạt động của một chiếc đồng hồ kín mít. Anh ta chỉ nhìn thấy mặt đồng hồ và các kim chuyển động, thậm chí còn nghe cả tiếng tích tắc, nhưng anh ta không có cách nào để tháo vỏ đồng hồ ra.

Nếu đủ thông minh, anh ta sẽ tạo ra hình ảnh của một cơ cấu đã gây ra tất cả những gì anh ta quan sát được, nhưng anh ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng hình ảnh mà anh ta tạo ra là duy nhất có thể giải thích được những quan sát của mình. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh được mô hình của mình với cấu trúc thực, và thậm chí cũng không thể hình dung ra được liệu sự so sánh này có một ý nghĩa nào không”. (Trịnh Xuân Thuận-nhà vật lí thiên văn.Cái vô hạn trong lòng bàn tay; (đồng tác giả: Mathieu Ricard); Phạm Văn Thiều & Ngô Vũ dịch).

* Thực ra, ngành sinh học thần kinh đã chứng tỏ được rằng “hiện thực” chỉ xuất hiện đồng nhất đối với các sinh vật cùng loài có cùng một hệ thần kinh. Các loài khác nhau thì cảm nhận thế giới theo các cách khác nhau. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu đối với loài cá, chim và côn trùng đã chứng tỏ rằng màu sắc và hình dạng của các vật được các loài vật này cảm nhận theo những cách hoàn toàn khác với con người. Hiện thực chắc chắn bị thay đổi tùy theo hệ thống thần kinh cảm nhận nó. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).
* Nếu người ta phân tích một trong những cách tri giác nào đó, như cách tri giác của con người chẳng hạn, thì người ta sẽ nghiệm thấy đơn giản rằng, trong một số điều kiện, người ta quan sát và đo lường một số hiện tượng theo cách có thể tái tạo được. Nhưng làm như vậy, hiện thực của “vật” không vượt qua thân phận ban đầu của nó, tức là cái “nhãn mác tinh thần”. Quá trình thực nghiệm này chưa bao giờ chứng tỏ rằng cái mà người ta quan sát là tồn tại tự thân và có các đặc tính nội tại.

Chúng ta có thể nhìn thấy một nghìn lần hai Mặt trăng bằng cách áp một nghìn lần hai ngón tay vào nhãn cầu của chúng ta, và chắc chắn là việc nhìn thấy hai Mặt trăng này không hề có nghĩa là có hai Mặt trăng thật! (Mathieu Ricard-nhà sinh học; sách đã dẫn).

* Định lí về tính không đầy đủ của Godel thực tế ngụ ý rằng có tồn tại những giới hạn đối với sự suy luận logic, chí ít là trong toán học. Định lí này thường được coi là một phát minh logic quan trọng nhất của thế kỉ XX. (…) Năm 1931, ông đưa ra một định lí có lẽ là tuyệt vời và bí hiểm nhất trong số các định lí toán học.

Ông đã chứng tỏ được rằng một hệ thống số học nhất quán và phi mâu thuẫn chắc chắn sẽ chứa các mệnh đề “không giải quyết được”, tức là các phát biểu toán học mà người ta không thể bằng logic nói được chúng là đúng hay sai.

Mặt khác, không thể chứng minh được rằng một hệ thống là nhất quán và phi mâu thuẫn chỉ dựa trên cơ sở của các tiền đề (các mệnh đề đầu tiên được chấp nhận không cần chứng minh) có trong hệ thống này.

Ngược lại, cần phải “đi ra ngoài hệ thống” và đưa ra các tiền đề phụ bên ngoài hệ thống. Theo nghĩa này, hệ thống tự bản thân nó chỉ có thể là không đầy đủ. Chính vì thế, định lí của Godel cũng thường được gọi là “định lí về tính không đầy đủ”.
 
Định lí này quả thật chẳng khác gì cú sét trong thế giới toán học. Godel đã chứng minh rằng logic có những giới hạn và rằng giấc mơ của Hilbert (biết chứng minh một cách chặt chẽ sự nhất quán của toàn bộ toán học) là một ảo tưởng. Nó cũng có những ảnh hưởng rất lớn đến các lĩnh vực khác của tư duy như triết học hay tin học. (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).

* Từ khi khoa học hiện đại ra đời vào thế kỉ XVI, vốn tri thức của chúng ta đã tăng lên theo hàm mũ, nhưng nó không làm cho chúng ta tỏ nên minh triết hơn.

Tình hình càng trở nên cấp bách khi con người hiện nay đang có khả năng sẽ làm đảo lộn sự cân bằng sinh thái của toàn bộ hành tinh, thậm chí còn có thể tự hủy diệt mình, khi các vấn đề đạo đức ngày càng trở nên gay gắt, và khoảng cách giàu nghèo vẫn không ngừng nới rộng thêm… (Trịnh Xuân Thuận; sách đã dẫn).

 
* Nghiệp có thể chuyển thành chiếc chìa khóa để tìm hiểu chính bộ não. Các nhà thần kinh học lúng túng trước cái họ gọi là “hiệu ứng liên kết”, một lực lượng huyền bí kết nối các vùng khác nhau trong não lại. (…).  
(…) Chúng ta đều mang trong tâm trí mình một cơ sở dữ liệu thông tin rộng lớn mà chúng ta coi là nền tảng. Cơ sở dữ liệu này nắm giữ mọi thứ quan trọng mà chúng ta tin tưởng về thế giới. Đó là thế giới quan của chúng ta. Chúng ta phụ thuộc vào nó để sống sót thậm chí một thời gian ngắn. Các niềm tin phát triển qua nhiều thế kỉ, và do vậy một số nhà nghiên cứu coi niềm tin như bản thể dạng “gene ảo” trở thành các đặc tính cố định của bộ não. (…).
 
(…) Thế giới quan cung cấp lối mòn cho hành vi, không may là nhiều khi nguy hiểm. Các đặc tính như chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và sự hiếu chiến tồn tại như các phản xạ tự nhiên. (…). Đây chính là cái Bhagavad-Gita ngụ ý với tên gọi là hiệu ứng trói buộc của nghiệp. (…). (Deepar Chopra-tiến sĩ y học, giảng dạy ở Đại học Boston. Sự sống sau cái chết: gánh nặng chứng minh; Trần Quang Hưng dịch).

* Cho tới đây chúng ta chỉ mới nói cái tác dụng bóp méo của dồn ép; còn một phương diện nữa mà ta phải đề cập đến không đưa đến bóp méo, nhưng biến một kinh nghiệm thành phi thực bằng tác động của não. (…).    
Tiến trình tác động óc não này được nối kết với tính chất mơ hồ của ngôn ngữ. Ngay khi tôi bày tỏ một cái gì bằng một chữ, một sự vong thân xảy ra, và trọn cả cái kinh nghiệm đã bị cái chữ ấy thay thế. Trọn cái kinh nghiệm chỉ thực sự hiện hữu vào cái giây phút nó được biểu thị bằng ngôn ngữ. Cái tiến trình thông thường của tác động óc não tỏa rộng và mãnh liệt trong văn hóa hiện đại hơn bất cứ lúc nào trước đây trong lịch sử. Chính vì càng ngày người ta càng đề cao kiến thức trí năng (…). (Erich Fromm-nhà phân tâm học. Thiền và phân tâm học (nhiều tác giả); Như Hạnh dịch).

* Dĩ nhiên chúng ta phải sử dụng các ngôn từ khi một điều gì đó được truyền đạt từ người này sang người khác, nhưng các ngôn từ chỉ là sự nêu trỏ suông chứ không phải là chính sự thực. Như kinh bảo, chúng ta phải dùng đến ngọn đèn ngôn từ để đi vào trong cái chân lí nội tại của kinh nghiệm vượt khỏi ngôn từ và tư tưởng.

Nhưng quả thực là hoàn toàn khờ dại khi tưởng ra rằng ngọn đèn ấy là mọi sự. (Daisetz Teitaro Suzuki-thiền sư học giả. Nghiên cứu Kinh Lăng Già; Thích Chơn Thiện & Trần Tuấn Mẫn dịch).

* Một vài năm trước đây, một thí nghiệm với các con mèo con đã được các nhà khoa học tại Trường y khoa Harward thực hiện. Ngay từ khi sinh ra, người ta đã nuôi một số mèo trong một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang; tất cả các tác nhân kích thích thị giác trong môi trường của chúng đều nằm ngang. Một nhóm khác được nuôi trong một khu vực với các vạch kẻ sọc thẳng, và đó là tất cả những gì mà chúng có thể nhìn thấy.

Khi những con mèo này lớn lên, trở thành những con mèo già khôn ngoan; còn những con mèo chỉ tiếp xúc với những vạch ngang thì chỉ nhìn thấy thế giới nằm ngang, ví dụ như chúng va đụng vào những chân đồ đạc như thể những cái chân này không có ở đó. Những con mèo được nuôi dưỡng trong thế giới thẳng đứng cũng gặp vấn đề tương tự với thế giới ngang.

Lẽ đương nhiên những điều này không có gì liên quan đến hệ thống lòng tin ở những con mèo này. Khi người ta nghiên cứu trí não của chúng, một nhóm mèo sẽ không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới ngang, còn nhóm kia cũng không có sự nối kết liên thần kinh để nhìn thấy thế giới thẳng đứng.

Sự trải nghiệm giác quan ban đầu của những chú mèo này và cách thức chúng hiểu sự trải nghiệm đó theo nhận thức của chúng ngay từ những ngày đầu mới sinh khi thị lực của chúng phát triển, đã thực sự hình thành sự phân tách hệ thần kinh của chúng. Rốt cục, những chú mèo này chỉ nhận biết được những gì mà người ta đã tạo ra cho chúng và chúng nhận biết được lập tức.
   
Một số nhà tâm lí học đã có thuật ngữ rất thú vị về hiện tượng này - họ gọi nó là “sự cam kết nhận thức sớm”. Sớm là vì chúng ta tiến hành việc này ngay từ giai đoạn đầu cuộc sống của chúng. Nhận thức là vì nó ảnh hưởng đến sự phân tách hệ thần kinh mà chúng ta nhận ra hay nhận biết về thế giới. Và sự cam kết là vì nó cam kết với chúng ta một thực tế nhất định.

Một số nhà khoa học có thể nói với bạn rằng ngay lúc này hệ thần kinh bạn đang sử dụng sẽ tiếp nhận dưới một phần tỉ của các tác nhân kích thích hiện hữu. Các tác nhân kích thích mà hệ thần kinh của bạn tiếp nhận được là những tác nhân tăng cường sự vận động, ý tưởng, cách hiểu của bạn về những gì mà bạn nghĩ là tồn tại ngoài kia.

Nếu bạn đã có cam kết với thực tế thì những thứ mà tồn tại bên ngoài khung cam kết sẽ bị hệ thần kinh của bạn loại ra, hệ thần kinh mà bạn sử dụng để tạo ra sự quan sát.

Tuỳ thuộc vào loại cơ quan thụ cảm mà bạn có, tuỳ thuộc vào loại hình các sự quan sát mà bạn muốn tạo ra và các câu hỏi mà bạn tự hỏi khi bạn tạo ra những quan sát này, tuỳ thuộc vào tất cả những điều đó, bạn tiếp nhận một phần giới hạn nhất định của thực tế. Rốt cục, hệ thần kinh của con người chỉ có thể tiếp nhận bước sóng ánh sáng từ 400 đến 750 nanomet. Và nếu chúng ta ngẫu nhiên đồng ý với các quan sát từ các giác quan của chúng ta và sự lí giải cho những quan sát này, thì chúng ta đã tạo ra một khuôn khổ cho những lí giải mà chúng ta thống nhất.
   
Chúng tôi gọi phương pháp này là “khoa học”. Chúng tôi thường coi khoa học như là một phương pháp khám phá sự thật khi mà trên thực tế, khoa học - như cách nó được kết cấu và hoạt động cho đến nay - thực sự cũng chẳng phải là một phương pháp để khám phá sự thật. Nói đúng hơn, nó là một phương pháp khám phá khung khái niệm hiện tại của chúng ta về những gì chúng ta cho là sự thật. (…). (Deepak Chopra-tiến sĩ y học. Vật lí lượng tử và ý thức (Trí tuệ nổi trội); Vũ Thị Hồng Việt dịch).

* Nền vật lí này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những liên quan vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái toàn thể.    
(…) Ngày nay vật lí hiện đại đã phát triển một thái độ rất khác. Nhà vật lí đã nhìn nhận rằng, tất cả lí thuyết của họ về hiện tượng tự nhiên, kể cả những quy luật mà họ mô tả, tất cả đều do đầu óc con người sáng tạo ra; tất cả là tính chất của hình dung của chính chúng ta về thực tại, chứ không phải bản thân thực tại.
   
(…) Trong vật lí lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn xoá nhoà, trong đó người và vật hoà nhập làm một.
   
(…) Sự thay đổi thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay đổi sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi từ tâm can - từ ý định ngự trị và điều khiển thiên nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo động. (Fritjof Capra-giáo sư tiến sĩ vật lí. Đạo của vật lí; Nguyễn Tường Bách dịch).  

* (…) Dần dà trong quá trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ – là khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).      
(…) Liệu con người trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình tái tạo con người (sinh đẻ đứa trẻ) trên Trái đất, đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu. Trong quan niệm tôn giáo, khi đứa bé chào đời đu-khơ nhập vào đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy chủ yếu của con người.

Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế giới tế vi. Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người có khả năng vặn các trường xoắn của thế giới tế vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ trong quá trình tư duy.

Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành đu-sa (sinh trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể khác hỗ trợ cơ thể người hoạt động. Sau khi xác thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới tế vi để rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là con người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế vi, là sự kết hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể và thế giới tế vi.
   
Mọi ngưòi đều biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể, đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…) Chính con người khác biệt với con vật ở chỗ: bộ máy tư duy của con người có nhiệm vụ hoàn thiện đu-khơ (đưa vào đó nhiều thông tin xây dựng) và bằng cách đó, hoàn thiện hình thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói cách khác, là đứa con thể xác của sự sống nơi thế giới tế vi, con người có sứ mệnh thông qua thế giới vật thể thúc đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi. Con người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó. (…)
   
(…) Sự sống và cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn, thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại  về địa ngục và thiên đường có cơ sở. (Erơnơ Munđasep-nhà bác học lớn quốc tế. Chúng ta thoát thai từ đâu; Hoàng Giang dịch).

3. Một số trích đoạn (tùy hứng) từ một tác phẩm có giá trị lớn của ngài Deepak Chopra – một nhà khoa học đáng kính, một hành giả có sự chứng ngộ. (*)
(Các trích đoạn này góp thêm cảm hứng thăng hoa tâm trí đại thừa, giác ngộ).

* (…) Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó. Đâu đó trong thời không có những bình diện khác nhau đồng thời tồn tại. (…) Các bình diện tồn tại khác nhau tương ứng với các tần số ý thức khác nhau.

Thế giới vật chất chỉ là biểu hiện của một tần số nhất định. (…) Thế kỉ 20, khoa học phương Tây tìm hiểu ra rằng mọi vật thể rắn thực ra đều được tạo nên bởi những rung động vô hình. (…) Cũng đúng như các bình diện khác nhau của vật chất, tinh thần cũng có những bình diện khác nhau. (…) Nếu Trái đất là bình diện tinh thần đậm đặc, thì chắc chắn phải có những bình diện tinh thần cao hơn, chúng tôi gọi là Loka, mà giới thần bí học phương Tây biết đến như “bình diện siêu hình”. Các bình diện siêu hình có số lượng dường như vô tận này chia ra thành các thế giới siêu hình cao hơn và thấp hơn, và thậm chí thế giới thấp nhất cũng rung động với tần số cao hơn thế giới vật chất.
  * Để tìm ra vật chất và năng lượng đến từ đâu, vật lí học thừa nhận một trường vũ trụ chứa đựng không chỉ những gì chúng ta quan sát thấy mà cả mọi thứ có khả năng tồn tại. Vật lí hiện đại thấy thật dễ dàng làm thế giới vật chất biến mất trong hư vô, nhưng điều này gây hoang mang, cũng hoang moang như sự biến mất của người chết. Đây là cách biến mất của hòn đá, cây cối, hành tinh hay hệ thiên hà hoạt động.    
Trước hết, hòn đá, cây cối hay hành tinh biến mất khỏi tầm nhìn khi các nhà khoa học nhận ra rằng các vật chất thể rắn được tạo nên từ các nguyên tử không thể phát hiện bằng mắt thường.
   
Thứ hai, các nguyên tử biến mất khi người ta phát hiện ra rằng chúng được tạo nên từ năng lượng, đơn giản là các rung động trong trống rỗng.
   
Cuối cùng, năng lượng biến mất khi người ta phát hiện ra rằng các rung động là sự kích thích tạm thời trong một trường và trường đó tự nó không rung động mà duy trì một “điểm không” phẳng và bất biến. (…).

(…) Hỗn nguyên vì sao không hoàn toàn chiếm ưu thế thực sự vẫn là một bí ẩn lớn chỉ có thể được lí giải bởi Akasha (trường ý thức). (…). Các rishi tập trung vào ý thức như một nguyên lí vũ trụ. Nhưng để có một vũ trụ biết tư duy, họ cần phải giải thích trí tuệ vũ trụ hoạt động như thế nào, tự duy trì và tự tổ chức tư duy ra sao. Nếu “trường trí tuệ” hoàn toàn ổn định, nó sẽ là một vùng chết, hoặc nhiều nhất là chứa một tiếng ồn liên tục, vô nghĩa. (…).    
(…) Từng bước một, vật lí học bị lôi cuốn vào hư vô bởi vì không có gì trong thế giới hữu hình phù hợp để giải thích điều cần được giải thích. Điểm không trở thành “trường của trường” chứa đựng mọi hạt vô hình, hoặc ảo, trong vũ trụ. Theo tính toán, điểm không chứa năng lượng 10 lũy thừa 40 lần nhiều hơn vũ trụ hữu hình-tức là 40 số không sau số 1. Hư vô trở thành sự trao đổi năng lượng sôi sục, không chỉ giữa các photon và electron mà trong mọi sự kiện lượng tử có thể hình dung được. Đột nhiên cái vô hình trở nên mạnh mẽ hơn cái hữu hình một cách lạ thường. Nhưng với cách đó “trường của trường” có giống tâm trí, điều mà các rishi đang tìm kiếm hay không?
   
(…) Cái thực tế rằng những khoảng không, hay khe hở, giữa các vật liệu gene thật là quan trọng đưa chúng ta trở lại hư vô, nơi có cái gì đó sắp xếp các sự kiện ngẫu nhiên sao cho chúng có ý nghĩa.

(…) Có những việc khác mà trí óc có thể thực hiện tương tự như trong vũ trụ. Trí óc có thể theo dõi hai sự kiện riêng biệt trong thời gian-ví dụ chúng ta làm thế nào nhận ra một khuôn mặt đã nhìn thấy vài năm trước.

Tương tự như vậy, vũ trụ theo dõi hai electron trong một đôi bất kì. Chúng sẽ luôn luôn là một đôi thậm chí chúng cách xa nhau hàng triệu năm ánh sáng. Thật lạ thường, nếu một electron trong đôi thay đổi vị trí hay trục quay thì cái khác trong đôi cũng thay đổi cùng một lúc mà không cần phải truyền một tín hiệu nào đó du hành qua không gian. Trường Điểm Không truyền tin không theo thời gian, khoảng cách hay vận tốc ánh sáng. (…).
   
(…) Vì mục đích tìm kiếm bằng chứng cho cõi sau sự sống, việc chỉ ra ý thức tồn tại khắp nơi là vấn đề sống còn, bởi vì lúc đó không có nơi nào chúng ta đến sau khi chết mà không có ý thức.

(…) Nếu tâm trí của chúng ta có thể thay đổi trường lượng tử thì sao? Khi đó chúng ta sẽ có mối liên kết giữa hai mô hình, tư duy và vật chất. Mối liên kết này đã được thực sự đưa ra bởi Helmut Schmidt, một nhà nghiên cứu làm việc cho phòng thí nghiệm không gian của hãng Boeing tại Seattle.   (…) Schmidt đã chứng tỏ rằng một người quan sát có thể thay đổi hoạt động trong trường lượng tử bằng việc chỉ sử dụng tâm trí, điều này ủng hộ khả năng tại một tầng sâu nào đó tư duy và vật chất là một. Khẳng định của các rishi rằng chúng ta nằm trong trường Akasha (trường ý thức) có vẻ đáng tin hơn, nó khiến cho khả năng chúng ta không rời bỏ trường này sau khi chết cũng trở nên đáng tin hơn; nếu không chúng ta sẽ là thứ duy nhất trong Tự nhiên không là thành phần của trường này. (…).    
(…) “Ở cấp độ sâu sắc nhất, các nghiên cứu (Princeton) cũng giả định rằng hiện thực do mỗi người trong chúng ta tạo ra duy chỉ bằng sự chú ý của mình. Ở cấp thấp nhất của tư duy và vật chất, mỗi người trong chúng ta đang sáng tạo thế giới”. (L.M.Taggart).  (…).
   
(…) Akasha có thể được lí giải là một vùng nơi tâm trí hoạt động. 

(…) Thứ gì đó sắp xếp chính xác đến vậy điều cần một nguyên lí để giữ chúng cùng nhau và một môi trường để đưa thông tin từ một đầu của tạo hóa đến đầu kia. Khái niệm cũ về thinh không không đủ, nhưng Akasha (trường ý thức) thì đủ.    
(…) Mỗi rung động gửi những tín hiệu qua trường, và đến lượt mình trường gửi các tín hiệu ngược lại. Vũ trụ, hóa ra liên tục tự giám sát mình bằng cách phối hợp mọi rung động xảy ra bất cứ đâu trong vùng hữu hình hay vô hình.

(…) Chỉ dưới sự quan sát, một electron nhảy từ hiện thực ảo vào vũ trụ hữu hình, và hễ khi người quan sát ngừng nhìn, nó lại rơi ngược vào trường.
(…) Các rishi tuyên bố rằng chết cho phép chúng ta nhìn thấy hiện thực vĩnh hằng rõ ràng và tham gia vào nó đầy đủ hơn. Trong cơ cấu của Laszlo, trường Akasha (trường ý thức) hoạt động y hệt đối với mọi vật chất, năng lượng và thông tin. Các tương tác của chúng trong vũ trụ hữu hình là những phản ánh của các mối liên hệ vô hình có tầm quan trọng lớn hơn nhiều xảy ra ngoài sân khấu. (…).
(…) Khi bạn xem ti vi, cái gì hiện thực hơn, hình ảnh bạn nhìn thấy hay là trạm phát tín hiệu? Tất nhiên là trạm phát hiện thực hơn, bức tranh chỉ là hình ảnh. Tương tự như vậy, Laszlo nói, Trường Điểm Không-Akasha-hiện thực hơn vũ trụ hữu hình. Akasha (trường ý thức) tổ chức và phối hợp mọi phóng chiếu chúng ta gọi là thời gian, không gian, vật chất và năng lượng. (…).    
(…) Đặt vào các điều kiện của loài người, chúng ta không cần phải sợ cái chết là một hành vi biến mất bởi vì sự sống luôn là một. Điều chúng ta quý nhất trong chính mình, khả năng của chúng ta suy nghĩ và cảm nhận, không phải có từ lúc đi vào thế giới vật chất. Nó được chiếu vào thế giới vật chất từ một nguồn, Trường Điểm Không, là gốc rễ của ý thức, mở rộng hàng tỉ năm về trước và hàng tỉ năm về sau có thể dự đoán được. Hoàn toàn không phải là nhãn quan tôn giáo, mô hình này giải thích vũ trụ tốt hơn bất kì mô hình nào khác, và cho chúng ta thứ mà các rishi và các nhà vật lí học hiện đại đòi hỏi: cây cầu bắc giữa tư duy và vật chất.
  * Ngưỡng cửa của nguồn là im lặng. Nhưng bạn phải bước qua ngưỡng cửa vào phòng nơi hiện thực sinh ra. Ở đó bạn phát hiện ra rằng sáng tạo bắt nguồn từ tồn tại, ý thức và tiềm năng cho các rung động nảy sinh. Ba điều này hiện thực nhất trong vũ trụ bởi vì tất cả cái khác chúng ta gọi là hiện thực đều từ đó mà ra. (…).
(…) Hiện nay quần chúng được biết rõ là các nghiên cứu về cầu nguyện chứng nhận là nó có tác dụng. Trong một thí nghiệm đặc trưng, những người tình nguyện, thường chọn trong các nhóm nhà thờ, được đề nghị cầu nguyện cho người ốm trong bệnh viện. (…) . Kết quả của các thí nghiệm này lạc quan đến kinh ngạc. Trong một trường hợp biết rõ nhất, tiến hành tại Đại học Tổng hợp Duke ở Bắc Carolina, các bệnh nhân được cầu nguyện nhanh chóng phục hồi hơn và có ít di chứng hơn các bệnh nhân không được cầu nguyện. Ở đây chúng ta có thêm một chứng minh là tất cả chúng ta được kết nối với nhau trong cùng một trường ý thức. Các đặc tính của trường này vận hành lúc này và ở đây:

   Trường hoạt động như một tổng thể.    Nó liên kết các sự kiện cách xa ngay tức thời.    Nó nhớ mọi sự kiện.    Nó tồn tại ngoài thời gian và không gian.    Nó sáng tạo toàn vẹn bên trong mình.    Sáng tạo của nó lớn lên và mở rộng theo hướng tiến hóa.    Nó là ý thức.
(…)Trường ý thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết mọi sự kiện.
   
(…) Chúng ta cần nhớ nguồn gốc chung của mình. Tinh thần con người suy thoái khi chúng ta hạn chế mình trong một kiếp người và giam trong một thể xác. Trước hết chúng ta là tâm trí và tinh thần, và điều đó đặt ngôi nhà của chúng ta ra sau các vì sao.
   
Biết rằng rồi một ngày mình sẽ quay về vùng để tìm nguồn gốc khiến tôi tự tin vô hạn vào mục tiêu cuộc sống. Cũng nhiệt thành như một tín đồ sùng đạo, tôi tin vào quan niệm này. Lòng tin của tôi luôn đổi mới mỗi lúc tôi có một khoảnh khắc chứng nghiệm đưa tôi chạm đến sự tĩnh lặng tồn tại của chính mình. Khi đó tôi không còn mảy may sợ hãi cái chết – mà thực ra, tôi đang chạm vào cái chết ngay lúc này, một cách vui vẻ. Nhà thơ Tagore nói về nó hết sức xúc động:
   
“(…) Và bởi vì tôi yêu cuộc sống này / Tôi cũng sẽ yêu luôn cái chết”.

* Khoa học ủng hộ tuyên bố rằng trường có khả năng nhảy vọt sáng tạo và chuyển hóa vô tận. (…).    
(…) Hóa ra nếu anh chỉ cần nghĩ về cỗ máy SQUID, không hề tìm cách thay đổi nó, thiết bị ghi cho thấy sự thay đổi trong từ trường xung quanh. (…).
   * (…) Những người nghi ngờ khả năng tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ thông thường có thể thực sự tác động đến thế giới. Điều này đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.   * (…) Các bậc thánh nhân và hiền nhân có đặc quyền hiện diện đi đó đây tự do trong các cõi siêu hình mà không bị hạn chế bởi các ham muốn. Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa hai thế giới, và nếu những người thương yêu bị bỏ lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp tục xốn xang.
* (…) Khoa học trong thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn tại của các thế giới vô hình. Hoàn toàn ngược lại.   * (…) Tiếp theo, như người chết đuối nhìn thấy cả cuộc đời mình trôi qua trước mắt, nghiệp của một người bung ra như chỉ gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc đời này diễu ngược lại qua màn ảnh của tâm trí. Bạn thể nghiệm lại tất cả các thời điểm trọng đại từ khi sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh động và rõ ràng khiến bạn nhìn thấy chính xác từng thời điểm có nghĩa gì. Cái đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng, không có sự tha thứ hay những giải thích duy lí. Bạn chịu trách nhiệm cho mọi điều đã làm. (…).   * Có thể là ý thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng gây sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ đại nhất thế giới.
(…) Điều làm cho sự đảo ngược này quan trọng là nó phù hợp thực tế. Các nhà thần kinh học chứng thực rằng đơn giản một ý định, một hành vi có mục đích của ý chí có thể thay đổi bộ não. Ví dụ những nạn nhân đột quỵ, có thể ép mình, với sự giúp đỡ của bác sĩ, chỉ sử dụng tay phải của họ nếu chứng liệt xảy ra về bên đó của cơ thể. (…).
* (…) Ramana học cách nhập nội trong cái định để thể nghiệm im lặng, và sau nhiều năm, nó đến với anh, nơi giải thoát khỏi hoạt động thường xuyên của tâm trí. (…).    (*): (Trích trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh; tác giả: Deepak Chopra; dịch giả Trần Quang Hưng; NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2010 ).                 
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn) sưu tầm

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự sống sau cái chết

Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Theo phong thủy, mỗi năm sẽ có vài con giáp gặp năm tuổi (năm không tốt) hay còn gọi là xung Thái Tuế. Vì thế, bạn hãy tham khảo cách hóa giải hướng nhà để được sao Thái Tuế phù hộ bình an.
Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy học cho rằng, Thái Tuế có ảnh hưởng rất lớn đến gia chủ nhưng ảnh hưởng đó lại không tốt. Khi Thái Tuế bay tới hướng nhà ta đang ở sẽ gây ra nhiều chuyện như kiện tụng, tranh chấp, thị phi, tai ương, tiểu nhân... mà người ta thường gọi là gặp thời vận xấu. Tuy nhiên, ít ai ngờ là hướng nhà mình đang sống gặp phải Thái Tuế sát.

Bạn có thể tham khảo vào sự sắp xếp như sau đây để biết hướng nhà của mình tới năm nào thì phạm Thái Tuế sát.

Nhà tọa lạc hướng Bắc thì tới năm Tý là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông Bắc thì tới năm Dần, Sửu là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông thì tới năm Mẹo là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Đông Nam thì tới năm Tỵ, Thìn là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Nam thì tới năm Ngọ là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây Nam thì tới năm Thân, Mùi là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây thì tới năm Dậu là phạm Thái Tuế.

Nhà tọa lạc hướng Tây Bắc thì tới năm Hợi, Tuất là phạm Thái Tuế.

Đặc biệt, trường hợp người tuổi Tý, nhà tọa lạc hướng Bắc mà gặp Thái Tuế sát vào năm Tý, vận hạn lại càng xấu hơn...

Cách hóa giải hướng nhà:

Để hóa giải khi gặp phải Thái Tuế sát, bạn chỉ cần đặt một chiếc gương bát quái trước cửa chính. Nhưng gương bát quái không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng khi ta mua từ cửa hàng về để dùng. Vì thế, bạn phải làm thủ tục “khai quang” cho gương bát quái ở chùa thì mới sử dụng gương mới mang lại hiệu quả.

Đặc biệt, bạn cần lưu ý rằng việc đặt bất cứ vật phẩm nào để hóa giải sát khí trong phong thủy cũng đều phải xem giờ tốt và ngày Trực trừ.

(Theo CafeLand)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải hướng nhà gặp Thái Tuế

Những con giáp hưởng phúc trước, nếm đau khổ sau

Dù được hưởng phúc lộc trời ban nhưng những con giáp này không nỗ lực cố gắng nên thường có số mệnh sướng trước khổ sau.
Những con giáp hưởng phúc trước, nếm đau khổ sau

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



► Mời các bạn xem tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác

1. Người tuổi Thân

 
Bản tính người tuổi Thân thông minh, hiếu động và nhạy bén hơn người nên các mối quan hệ trong xã hội ngày càng mở rộng theo thời gian và mang lại không ít thành công bước đầu cho họ. 

Nhung con giap huong phuc truoc, nem dau kho sau hinh anh
Tuổi Thân 

Điều đó khiến con giáp này dễ kiêu ngạo, tự mãn, đánh giá quá cao bản thân, tự ý quyết định mọi chuyện nên đôi khi gặp phải thất bại thảm hại. Nếu không nghiêm túc xem xét lại vấn đề, người tuổi Thân sẽ hưởng phúc trước, nếm đau khổ sau là điều đương nhiên.
 
2. Người tuổi Hợi
 
Đa phần người tuổi Hợi đều không có tham vọng lớn trong sự nghiệp. Họ chỉ mong cuộc sống yên bình, ngày đủ ba bữa ăn là được. Cách nghĩ này khiến cho năng trực trí não và chân tay của họ đều yếu đi. Nếu phải đương đầu với khó khăn, thách thức, người tuổi Hợi khó mà vượt qua nổi. 

Nhung con giap huong phuc truoc, nem dau kho sau hinh anh 2
Tuổi Hợi

Điều đó lí giải lý do tại sao mà con giáp này thường có số sướng trước khổ sau. Dù được trời phú cho năng lực tốt lại nhiều may mắn nhưng vì không chịu học hỏi, bồi dưỡng khả năng nên cuộc sống sau này sẽ vô cùng vất vả.
 
3. Người tuổi Dần
 
Tháo vát, hành sự trượng nghĩa và chu đáo là những ưu điểm nổi bật trong tính cách của người tuổi Dần. Nhờ đó mà sự nghiệp của họ phát triển nhanh và sớm gặt hái được thành công.

Nhung con giap huong phuc truoc, nem dau kho sau hinh anh 3
Tuổi Dần 

Tuy nhiên, đa phần họ lại thích phưu lưu, mạo hiểm. Khi sự nghiệp chuyển sang một bước ngoặt mới, cuộc sống vật chất dư giả, họ sẽ tìm đến những thú vui mạo hiểm như cờ bạc, cá độ. Nếu không có người bạn đời thông minh và cảm hóa được mình, người tuổi Dần rất dễ lún sâu, cuối cùng sẽ tay trắng.
 
4. Người tuổi Tuất
 
Cuộc đời của người tuổi Tuất sướng hay khổ là do chính họ quyết định. Với tính tình siêng năng, tháo vát, con giáp này dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, về đời sống tình cảm lại khá rụt rè, dễ bị người khác lợi dụng vì đặt lòng tin một cách mù quáng. 

Nhung con giap huong phuc truoc, nem dau kho sau hinh anh 4
Tuổi Tuất 

Không ít lần người thân hoặc bạn bè nhắc nhở, thậm chí cảnh báo họ về điều này nhưng họ lại cố chấp, không chịu nhìn thẳng vào sự thật và vẫn cho rằng quyết định của bản thân là đúng đắn. Do đó, họ càng lún sâu vào những mối quan hệ phức tạp bao nhiêu thì cuộc đời, sự nghiệp càng xuống dốc bấy nhiêu.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp hưởng phúc trước, nếm đau khổ sau

8 dấu hiệu biểu lộ sự may mắn trên khuôn mặt

Vầng trán cao, chiếc cằm lớn, lông mày rậm... là những bộ phận được cho là may mắn trên khuôn mặt đấy nhé!
8 dấu hiệu biểu lộ sự may mắn trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

8-dau-hieu-bieu-lo-su-may-man-tren-khuon-mat
Mắt sáng Miệng quả lê
Vầng trán cao Mũi to
Chiếc cằm lớn Lông mày rậm
Gò má cao Tai dài

Mộc Trà (theo Buzz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 dấu hiệu biểu lộ sự may mắn trên khuôn mặt

Lựa chọn của 12 sao: Vật chất hay tình cảm?

Quan niệm trong tình yêu về một túp lều tranh hai trái tim vàng giờ chỉ là “ảo tưởng”, mọi người sống thực dụng hơn nên quan điểm về tình yêu cũng sẽ khác đi.
Lựa chọn của 12 sao: Vật chất hay tình cảm?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Cuộc sống hiện đại bị chi phối khá mạnh mẽ bởi vật chất, quan niệm trong tình yêu về một túp lều tranh hai trái tim vàng giờ chỉ là “ảo tưởng”, mọi người sống thực dụng hơn nên quan điểm về tình yêu cũng sẽ khác đi.

Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 2
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 3
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 4
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 5
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 6
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh goc
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 7
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 8
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 9
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 10
 
Lua chon cua 12 sao Vat chat hay tinh cam hinh anh 11
 
=> Xem thêm: Mật ngữ 12 chòm sao, Horoscope được cập nhật mới nhất
Phương Thùy

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn của 12 sao: Vật chất hay tình cảm?

Đặc điểm của phụ nữ không nên lấy làm vợ

Tướng phụ nữ không nên lấy làm vợ: Dù dáng vẻ bề ngoài của những cô gái này có sức hấp dẫn lớn, nhưng theo nhân tướng học thì đó lại là những nét tướng cách
Đặc điểm của phụ nữ không nên lấy làm vợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dù dáng vẻ bề ngoài của những cô gái này có sức hấp dẫn lớn, nhưng theo nhân tướng học thì đó lại là những nét tướng cách xui xẻo, khiến cuộc sống vợ chồng gặp nhiều bất hạnh.


Xem nốt ruồi trên mặt phụ nữ đoán tính cách chuẩn xác

1. Ánh mắt đưa đẩy
 
Nữ giới có ánh mắt đưa đẩy, nhìn ngang liếc dọc mà ít khi nhìn trực diện vào người nói thường không coi trọng trinh tiết, có lối sống vô cùng phóng khoáng, là tuýp phụ nữ không nên lấy làm vợ.
 
Nếu có người yêu là cô gái này, bạn sẽ được chiều chuộng hết mức. Tuy nhiên, cuộc sống sau hôn nhân lại là “địa ngục trần gian” đối với bạn bởi nhiều khả năng bạn sẽ bị “cắm sừng” khi không đáp ứng được nhu cầu trong “chuyện ấy”.

Dac diem cua nhung nang chi nen yeu, khong nen cuoi hinh anh
 
2. Dáng đi uốn lượn, lắc mình
 
Người có dáng đi uốn mông, lắc mình đầy khiêu gợi, thiếu tế nhị thường không chung thủy, dễ có các mối quan hệ tình cảm bất chính.
 
Ngoài ra, nếu có dáng đi nhún nhảy như chim sẻ là dấu hiệu của người có sức khỏe kém, nóng tính. Khi gặp khó khăn, họ không biết bình tĩnh để tìm ra cách giải quyết hợp lý. Vận mệnh của người này thường không tốt.
 
3. Xương gò má cao
 
Phụ nữ có xương gò má cao thường khá ngang bướng, cư xử thiếu tế nhị, hay xung khắc với chồng và con, cuộc sống gia đình không hạnh phúc. Đây cũng là kiểu phụ nữ không nên lấy làm vợ.
 
4. Giọng ồm ồm như đàn ông
 
Các nàng có chất giọng ồm ồm như đàn ông thì chuyện yêu đương đã không thuận lợi chứ chưa nói tới hôn nhân. Theo đó, cuộc sống gia đình của người này gặp nhiều trắc trở, dễ phải sống cảnh cô đơn. Công việc lại không thuận lợi, gặp thất bại hơn là thành công.
 
5. Có ria mép dày
 
Phụ nữ nếu quanh miệng có lông măng thô và đậm giống như có ria mép là người có tính cách mạnh mẽ, thích lấn át chồng. Họ có nhu cầu rất cao về đời sống tình dục, nếu không được đáp ứng đầy đủ, quan hệ vợ chồng dễ có nguy cơ đổ vỡ. Đây là nét tướng phụ nữ không nên lấy làm vợ.

6. Hầu và chân răng đều lộ
 
Nữ giới mà có phần yết hầu lộ và gồ lên như nam giới, hàm răng cũng lộ chân thì gặp nhiều xui xẻo trong cuộc sống. Người này tính cách nhiệt tình, biết quan tâm chia sẻ với người khác nhưng dục vọng quá lớn, dễ thất bại trong hôn nhân nếu không được đối phương thỏa mãn nhu cầu.
 
Theo Ngày nay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc điểm của phụ nữ không nên lấy làm vợ

Xem tướng cười để biết tham vọng của bạn –

Khi được ai đó kể cho bạn nghe câu chuyện vô cùng hài hước, bạn sẽ phản ứng ra sao? tiếng cười của bạn như thế nào? Hãy cùng đọc bài viết sau để xem tướng cười có ý nghĩa gì nhé! Tướng cười của bạn nói lên điều gì? Cười “ha ha” một cách tẻ nhạt Bạn l
Xem tướng cười để biết tham vọng của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng cười để biết tham vọng của bạn –
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd