Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Giấc mơ về biển cả

Không gian thoáng đãng vô bờ, trời cao rộng, nước trong xanh, ánh nắng chan hòa và những con sóng dập dìu của biển cả một ngày nào đó xuất hiện trong giấc mơ
Giấc mơ về biển cả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

của bạn. Mơ thấy biển là điềm lành, cho thấy bạn là người tâm tình rộng mở, tính cách thông thoáng, sở hữu cái rộng lớn và khí khái của biển cả.

Biển là hình ảnh tượng trưng cho tin vui, những điều tốt đẹp sắp đến với bạn. Nếu bạn đang theo đuổi một dự án, một công trình nghiên cứu hay chỉ là những mong ước đời thường nào đó thì có lẽ mục tiêu đó sắp thành hiện thực.    Nếu nam giới ngủ mơ thấy biển thì những tin tức làm phấn chấn lòng người đang chờ đợi bạn. Còn nếu nữ giới mơ thấy biển, gia cảnh sẽ ngày càng sung túc, cuộc sống sẽ thuận buồm xuôi gió. 
 
  Thông thường, khi mơ thấy đại dương bao la, là điềm báo sự nghiệp của bạn sẽ không ngừng phát triển và gặt hái được nhiều thành công vang dội. Tuy nhiên, trọng trách trên đôi vai bạn sẽ ngày càng lớn, bạn cần phải bình tĩnh và sáng suốt để điều hành sự nghiệp của mình.
Giac mo ve bien ca hinh anh
Ảnh minh họa
  Trong mơ bạn thấy mặt biển lặng sóng và yên bình, điềm báo vạn sự như ý sẽ đến với bạn. Đồng thời nó còn cho thấy tâm trạng đang rất ổn định của bạn, không có sự lo âu hay buồn phiền, bạn đang rất hài lòng với cuộc sống hiện tại của mình.   Nếu mơ thấy nước biển trong xanh, không chút vẩn đục, điều này dự báo tương lai tươi sáng đang chờ đợi bạn phía trước. Bạn sẽ vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục tiêu đã đề ra.   Trong giấc mơ của bạn xuất hiện sóng biển. Nếu con sóng này trùng điệp nhấp nhô, bạn cần đề phòng chuyện bất trắc xảy ra.   Nếu sóng biển dữ dội, từng đợt cuộn trào thành những con sóng khổng lồ, cho thấy bạn đang vô cùng bất mãn với cuộc sống thực tại.   Nếu mơ thấy thủy triều dâng cao hoặc gió to dữ dội, có nghĩa bạn đang gặp phải muôn vàn khó khăn, trở ngại và tỷ lệ giành chiến thẳng là rất thấp. Tốt nhất bạn nên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng đối diện với thử thách và đón nhận thất bại. Coi đó như bài học kinh nghiệm làm nền tảng vững chắc cho những kế hoạch tiếp theo.   Mơ thấy thủy triều dâng cao mạnh mẽ nhưng bạn lại không cảm thấy ớn lạnh hay sợ hãi. Điều đó cho thấy bạn đang bận ngập đầu trong bài vở hoặc công việc của mình. Bạn cần dành nhiều thời gian hơn để chăm chút cho bản thân mình, có như vậy tinh thần bạn mới thoải mái và ổn định.   Nếu mơ thấy tàu thuyền đang lưu thông trên biển, báo hiệu mọi điều không may mắn sẽ biến mất, trả lại cho bạn cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc.   Mơ thấy bản thân đang bơi trên bãi biển nào đó, điềm báo về sự thành công sẽ đến với bạn. Điều này cho thấy năng lực của bạn đã đạt đến mức đỉnh điểm, không lâu nữa bạn sẽ trở thành nhân vật có tầm ảnh hưởng rất lớn.   Nếu thấy bản thân đang đi dạo trên bãi biển, chân đã chạm vào nước biển. Điều này dự báo sự biến đổi lớn về mặt tình cảm của bạn. Có khả năng bạn sẽ gặp tình yêu sét đánh.   Nếu thấy sóng biển xô vào chân mình, báo hiệu bạn sẽ bắt đầu một mối tình đầy lãng mạn và có thể dẫn tới hôn nhân hạnh phúc.

Giấc mơ sẽ không trở thành hiện thực nhưng nếu bạn sở hữu nhiều hoài bão ước mơ muốn vươn ra biển lớn, nhất định bạn sẽ gặt hái được nhiều thành công trên đường đời. Hãy là một người dũng cảm, biết đối diện với những khó khăn và vượt qua những cơn bão tố của cuộc đời, làm mọi việc vun đắp cho ước mơ và hoài bão. Hãy lớn lên với tính cách của biển, có thể giận dữ, có thể phẳng lặng... nhưng hãy là một người có lòng bao dung, vị tha như biển cả. 

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ về biển cả

Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Người tuổi Dậu năm 2017 phạm Thái Tuế, là năm có nhiều hung hiểm và tai ương. Tuổi Dậu thờ Phật nào phù hợp nhất, có thể mang tới bình yên và may mắn cho bản
Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

mệnh?
Năm 2017 Đinh Dậu là năm bản mệnh của người tuổi Dậu, ngoài các biện pháp phong thủy chiêu tài hóa sát, giảm tai ương khác, kiến nghị bản mệnh nên thỉnh bản mệnh Phật về đeo. Bản mệnh Phật không những có thể hóa giải Thái Tuế mà còn hóa giải nhiều loại tai sát, dùng trong năm nay và nhiều năm kế tiếp đều tốt.
  Tuổi Dậu thờ Phật nào? Có những điểm gì cần chú ý khi người tuổi Dậu thỉnh bản mệnh Phật về đeo?  

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Dậu


ban menh phat tuoi dau
 
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Dậu là Bất Động Minh Vương Bồ Tát.  Người tuổi này có năng lực lãnh đạo, sức hấp dẫn cá nhân mạnh mẽ, thường được trọng vọng trong tập thể. Ý nghĩ tốt cần có hành động thiết thực nếu không sẽ không thể cải thiện được tình hình.    Thủ hộ thần của người tuổi Dậu có hình tượng đặc trưng lý tính, đeo bên mình giúp phụ trợ, thúc đẩy năng lực hành động và tính quyết đoán, sớm hoàn thành đại nghiệp, khắc phục tính cách do dự, loại bỏ mọi chướng ngại vật trong cuộc sống.   Người tuổi Dậu sinh năm:1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005 đều có thể đeo bản mệnh Phật Bất Động Minh Vương. Năm 2017 năm bản mệnh nếu đeo Phật bên người không chỉ giảm bớt lo lắng về Thái Tuế mà còn tạo được đột phá trong sự nghiệp.
Xem thêm bài viết Những lưu ý cần biết khi đeo bản mệnh Phật Bất Động Bồ Tát
 

2. Tác dụng của bản mệnh Phật trong năm 2017

  Vị Phật nào độ mệnh cho tuổi Dậu? Bất Động Minh Vương Bồ Tát che chở, phù hộ, gia trì cho con giáp này tai qua nạn khỏi, điển hình là trong năm 2017 nhiều điềm hung họa.   Năm nay sự nghiệp của tuổi Dậu do ảnh hưởng của Thái Tuế nên tính tình nôn nóng, tâm tình bất ổn thậm chí không muốn trao đổi giao tiếp nên dễ đắc tội với người khác, công việc bị ảnh hưởng không ít.   Vận trình tình cảm không khả quan, tuy rằng đào hoa vượng nhưng chung quy lại đều là công dã trang, có bắt đầu nhưng chẳng có kết quả đáng kể. Người đã kết hôn thì gia đình viên mãn, vợ chồng quan hệ hòa hợp, ổn định hơn so với những người độc thân.   Theo tử vi năm 2017 của tuổi Dậu, về phương diện sức khỏe do tự hình nên phải chú ý bảo dưỡng, ăn ít cay, ăn nhiều hoa quả, tập thói quen ăn những món thanh đạm, tốt cho thân thể.    Tài vận thường thường, giữa năm cũng có tiền tài tuy không giàu to nhưng cơ bản đủ làm thỏa mãn nguyện vọng của người tuổi Dậu.  

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật


ban menh phat tuoi dau 2
 
Người tuổi Dậu đeo bản mệnh Phật Bất Động Minh Vương sẽ giúp điều hòa tinh thần, trải qua năm bản mệnh một cách thoải mái, êm đẹp hơn. Khi thỉnh bản mệnh Phật cần thành tâm, không nhất thiết phải tính toán quá nhiều. Nếu cho rằng đeo bản mệnh Phật không thể đeo thâm các đồ vật phong thủy khác là sai lầm, không hề có kiêng kị gì cả.   Khi thỉnh bản mệnh Phật về nên khai quang để phát huy linh lực trừ tà tiêu tai. Đây là linh vật, không thể đeo tùy tiện, kì thực đây cũng là một phương pháp tu hành nên hãy đeo chu đáo, thận trọng và nhất tâm hướng Phật. Quan trọng nhất là chăm chỉ làm việc thiện, không có ý niệm xấu xa, người đeo Phật mà tâm không đoan chính thì không có tác dụng gì cả.   Không nên để người khác chạm vào bản mệnh Phật. Trong quá trình sử dụng cần giữ gìn sạch sẽ, lau chùi bằng nước sạch, bảo vệ để không bị nứt vỡ hay tổn thương. Bản mệnh Phật càng sử dụng lâu càng ứng nghiệm, không phải đồ càng mới càng tốt, không quan trọng là càng to càng quý.    Bản mệnh Phật nên chọn loại thiết kế tinh xảo, làm bằng các loại đá phong thủy như ngọc, hắc diệu thạch, thủy tinh, mã não,…. để tăng thêm cát tường vượng vận. Xem thêm bài viết Đeo ngọc phong thủy không chỉ để ngắm mà còn chiêu nạp phúc khí   Mỗi người sinh ra đều có một vị Phật độ mệnh, biết được tuổi Dậu thờ Phật nào thì có thể tên tâm thỉnh bản mệnh Phật về để đeo, che chở cho mình tai qua nạn khỏi, không lo sợ Thái Tuế, không ngại ngần hung hiểm.
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tuất Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Tý Thỉnh bản mệnh Phật, đeo phúc bên người
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dậu thờ Phật nào?

Top con giáp luôn xem bản thân mình là nhất –

Vị trí đầu bảng thuộc về tuổi Tý, tiếp theo là tuổi Dần, Thìn, Tỵ và Hợi. Quán quân: Tuổi Tý Người tuổi Tý giỏi xã giao nhưng lại khá ích kỷ, luôn coi bản thân mình là nhất, mọi người hoặc những thứ khác chỉ là điều thứ yếu. Hơn thế, người tuổi này r

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vị trí đầu bảng thuộc về tuổi Tý, tiếp theo là tuổi Dần, Thìn, Tỵ và Hợi.

Quán quân: Tuổi Tý

Người tuổi Tý giỏi xã giao nhưng lại khá ích kỷ, luôn coi bản thân mình là nhất, mọi người hoặc những thứ khác chỉ là điều thứ yếu.

tuoi-ty-6087-1400021785

Hơn thế, người tuổi này rất giỏi “diễn xuất”, trước mặt mọi người ra vẻ là anh hùng hiệp nghĩa, nếu không động chạm đến lợi ích cá nhân thì sẵn sàng giúp đỡ người khác. Để biết được con người thật của tuổi Tý, chỉ có căn cứ vào những thời khắc thực sự quan trọng, bản tính của họ sẽ lộ rõ như ban ngày mà thôi.

Á quân: Tuổi Dần

Người tuổi Dần thường cho rằng sinh mạng bản thân mới là điều đáng quý nhất, vì thế yêu bản thân mình là điều tất nhiên, không có gì phải che giấu. Vậy nên, họ hiếm khi biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ mà chỉ quan tâm đến cảm xúc của mình thế nào mà thôi.

tuoi-dan-6294-1400021786

Nói như vậy không có nghĩa là người tuổi Dần không biết yêu hay quý trọng người khác. Họ sẽ dành tình cảm chân thành của mình cho người mình yêu, chỉ có điều, tình cảm ấy cũng chỉ đứng sau tình yêu bản thân của họ.

No3: Tuổi Thìn

Vốn tính kiêu ngạo, luôn nghĩ rằng bản thân mình là độc nhất vô nhị trên cõi đời này, nên việc yêu bản thân mình đối với người tuổi Thìn là điều tất nhiên.

tuoi-thin-8665-1400021786

Ngoài ra, người tuổi này có bộ não thông minh, con mắt tinh tường và khả năng xử lý tình huống nhạy bén. Họ thường coi đó là điểm đáng tự hào và kiêu ngạo trước mặt mọi người.

No4: Tuổi Tỵ

Trong 12 con giáp, người tuổi Tỵ thường mang lại cảm giác bí ẩn, khó tính và khó gần cho mọi người. Họ rất chăm chút cho bản thân, sống có phần hơi ích kỷ và có thể lợi dụng người khác để đạt được mục tiêu của mình miễn sao không làm tổn hại đến lợi ích của họ.

tuoi-ti-7656-1400021786

Người tuổi Tỵ thích cảm giác độc quyền sở hữu thứ gì đó, không muốn phải “đụng hàng” với bất kỳ ai. Họ thường đưa ra lý do để giải thích cho việc chỉ yêu bản thân mình, đó là phải biết yêu chính mình thì mới có tư cách để yêu người khác.

No5: Tuổi Hợi

Người tuổi Hợi tính tình điềm tĩnh, hài hòa, thích làm việc nhẹ nhàng vì khá lười nhác. Với họ, việc ăn uống, ngủ nghỉ là vấn đề quan tâm hàng đầu, vì có như vậy mới đảm bảo sức khỏe và quý trọng bản thân cũng như cuộc sống của chính mình.

47b3d92b-e639-4cea-b4eb-0265ae-6775-1598-1400021786

Ấn tượng để lại trong mắt mọi người là tuổi Hợi theo chủ nghĩa vật chất, chứ thế giới nội tâm và tinh thần khá nông cạn, không nhạy bén hay sâu sắc. Vậy nên, khi nghe thấy lời nói xấu hoặc chê bai, họ vẫn có thể mỉm cười, lạc quan nghĩ rằng mọi chuyện rồi sẽ qua hết.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top con giáp luôn xem bản thân mình là nhất –

Tính cách người mệnh Hỏa: Sáng tạo và kiêu ngạo

Nhắc tới mệnh Hỏa chúng ta liên tưởng ngay tới hình ảnh ngọn lửa ấm áp và nồng cháy nhưng có lúc có thể thiêu rụi mọi thứ và tính cách người mệnh Hỏa cũng như
Tính cách người mệnh Hỏa: Sáng tạo và kiêu ngạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

vậy.   Theo thuyết ngũ hành, mỗi người thuộc một cung mệnh khác nhau sẽ có tính cách khác nhau và có nét đặc trưng riêng về vẻ ngoài, tính cách, cuộc sống hôn nhân theo từng mệnh. Dưới đây là bài viết liên quan đến tính cách người mệnh Hỏa.
 

Vẻ ngoài


Theo nhân tướng học, với những người nhiều năng lượng Hỏa còn năng lượng Thủy suy yếu thì cơ thể họ thường nóng, vẻ ngoài cao, dáng gầy. Nếu người mệnh Hỏa mập mạp là do những người này có nhiều năng lượng Thủy, giúp cơ thể cân bằng hơn.
  Da những người có nhiều năng lượng Hỏa thường khô, thiên về sắc xanh, dễ nổi mẩn đỏ, làn da không sáng bóng. Đối với những người này, có dùng thuốc Tây y hay Đông y cũng khó có thể chữa trị vì đó là do cơ địa khác biệt của họ. Tuy nhiên, với người nhiều năng lượng Thủy thì sắc mặt sẽ hồng hào và làn da cũng sẽ mịn màng hơn. 
Với những đặc điểm trên, những người mệnh Hỏa thường gầy yếu nhưng rắn chắc, khỏe mạnh, dai sức. 
 
Tinh cach nguoi menh Hoa Sang tao va kieu ngao hinh anh
 

Tính cách người mệnh Hỏa
 

Hình ảnh lửa của người mệnh Hỏa khiến chúng ta liên tưởng tới mặt trời rực rỡ chiếu những ánh nắng chan hòa sưởi ấm xuống nhân gian. Vì thế người mệnh Hỏa có tính cách cởi mở, hướng ngoại, tích cực, hào hứng, nhiệt tình, hành động dứt khoát, nhanh nhẹn, nhiệt huyết.
 
Người mệnh Hỏa dũng cảm, luôn sẵn lòng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm, tự tin, chủ động, tham vọng, thẳng thắn, nhiệt tình, mạnh mẽ, tràn đầy năng lượng, dũng cảm, suy nghĩ nhanh, sáng tạo, có khả năng lãnh đạo.
 
Họ theo đuổi mục tiêu với ý chí mạnh mẽ, kiên cường nhưng một khi thay đổi họ sẽ bất chấp nỗi sợ hãi, họ luôn tràn đầy năng lượng. Điểm bất lợi của những người này là thiếu kiên nhẫn, cả thèm chóng chán, khoa trương, tham hư vinh, kiêu ngạo và hiếu chiến. 
 
 
Tinh cach nguoi menh Hoa Sang tao va kieu ngao hinh anh 2
 

Sự nghiệp
 

Người mệnh Hỏa suy nghĩ nhanh như chớp, có tố chất để làm những công việc sáng tạo, và có thể trở thành nhà hùng biện đầy nhiệt huyết. 
 
Với tính cách người mệnh Hỏa, họ thường có phong cách quản lý cứng nhắc, hay mơ mộng, thiếu thận trọng, nói chuyện và hành động dễ gây tổn thương người khác, nhưng người mệnh Hỏa rất giỏi và không ngại những vấn đề khó khăn, tuy nhiên trong công việc họ dễ gây căng thẳng với đồng nghiệp.
 
Họ hợp với công việc kinh doanh vì sự thông minh, nhanh trí của mình. Ngoài ra sự sáng tạo và kiên định của họ cũng hợp cho việc nghiên cứu công nghệ. Người có nhiều năng lượng Hỏa thường cao gầy nên khá hợp với nghề người mẫu.
 
Người mệnh Hỏa có thể lựa chọn nghề nghiệp hợp với hành Hỏa (tương hợp) và theo ngũ hành họ cũng hợp nghề hành Mộc (tương sinh). Trong đó hành Hỏa hợp với các nghề như thợ ảnh, nấu ăn, hóa trang, diễn viên, luyện kim, điện quang, hàn xì, văn phòng phẩm hoặc kinh doanh những những mặt hàng liên quan đến các nghề trên.     
Người mệnh Hỏa thường phát triển sự nghiệp mạnh mẽ nhưng do quá tham vọng, kiêu ngạo nên dễ bị thất bại do bất cẩn. Tuy nhiên với bản tính kiên cường, họ không chấp nhận thực tế nên tiếp tục phạm sai lầm, có thể bị thiệt hại lớn hơn. Để hạn chế những điều trên, người mệnh Hỏa có thể tìm cách thu hút vận may bằng phong thủy để giảm bớt những rủi ro có thể xảy ra.
 
 
Tinh cach nguoi menh Hoa Sang tao va kieu ngao hinh anh 3
 

Hôn nhân gia đình


Phụ nữ mệnh Hỏa giỏi giang nhưng thiếu sự nữ tính, tuy vẻ ngoài thu hút nhưng bên trong không an yên vì không cam lòng ở nhà để làm vợ, làm mẹ. Hơn nữa họ thường "át vía" trước những người đàn ông yếu thế. 

Phụ nữ mệnh Hỏa có thể làm mẹ, làm vợ tốt khi đóng vị trí trụ cột ở trong nhà, nếu không cuộc sống sẽ không mấy suôn sẻ. Gia đình của họ sẽ hòa thuận khi chồng chăm lo việc nhà, vợ chăm lo việc bên ngoài. Trước đây điều này không được khuyến khích nhưng ngày nay, đó là chuyện diễn ra bình thường trong các gia đình hiện đại.
 
Đàn ông mệnh Hỏa bề ngoài mạnh mẽ nhưng bên trong có chút yếu mềm. Nếu đàn ông thành công rực rỡ, gia đình sẽ vui vẻ hạnh phúc. Nhưng những người đàn ông như vậy thường thiếu kiên nhẫn, tương đối đơn giản.

Trong tình yêu, người phụ nữ của họ phải là người nhẫn nhịn nhưng thực tế tận sâu trong họ là con người lãng mạn và yêu thương gia đình. Hôn nhân vẫn là niềm đam mê bất tận của họ, nhưng vì quá kén chọn, hay so đo nên thường không cảm thấy hài lòng với đối tượng đang tìm hiểu hoặc thậm chí đã là vợ của mình.


Phụ nữ hay đàn ông mệnh Hỏa hợp với người có mệnh tương sinh cho họ như mệnh Thổ. Với người cùng mệnh Hỏa có thể là bạn bè chứ nếu chung sống dễ gây bất hòa, mâu thuẫn. Tuy nhiên, nếu hai bên chịu nhún nhường thì cuộc sống sẽ đầy đam mê.
 

Bệnh thường gặp
 

Người mệnh Hỏa có dương khí cao và bệnh từ đây mà sinh ra. Người mệnh Hỏa thường mắc bệnh liên quan đế tim, vì thế phải để ý tới sự nóng giận ở trong tâm trí mình. Chỉ cần kiểm soát sự nóng giận thì bệnh mới nhanh tan. Vì thế, hãy học cách của Khổng Tử, Lão Tử, hoặc học thiền… để tĩnh tâm nếu không, khí huyết tiêu tan ảnh hưởng tới sức khỏe, thể lực.
 
Tính cách người mệnh Hỏa hay nóng giận nên họ có nguy cơ đột tử cao hơn so với những người mệnh khác. 

Người mệnh Hỏa thường mắc bệnh do thiếu hụt về thể chất,  thiếu năng lượng âm như lúc còn nhỏ cơ thể yếu, khi mang thai dễ sinh non, hoặc dễ bị rối loạn ăn uống... 
 
Khi còn trẻ, họ thích ăn thịt nướng hoặc đồ chiên, hay hút thuốc lá và nghiện rượu vì thường bị căng thẳng khi đối mặt với những vấn đề trong cuộc sống. 
HaTra

Cây hợp mệnh Hỏa giúp gia chủ giàu có, thịnh vượng Phong thủy cho người mệnh Hỏa: Bài trí phòng ngủ đón tài lộc Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính cách người mệnh Hỏa: Sáng tạo và kiêu ngạo

Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu ?

Trong chế độ phong kiến cũ, hôn nhân cưỡng ép, thường là cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy. Thực ra, trong nhiều gia đình, người cha quyết định mọi việc, người mẹ chỉ biết tuân theo. Vì thế đã xảy ra một số trường hợp oái oăm: Ngày con gái vu quy đáng lẽ là ngày vui nhất trong đời nhưng người thì khóc lóc buồn tủi vì bị ép buộc, người thì lo sợ cảnh làm dâu, làm vợ, từ tấm bé chưa rời mẹ, nay tự nhiên mẹ con xa nhau; mẹ thương con còn thơ dại, cũng mủi lòng sụt sùi khóc. Thế là, trong khi hai họ đang vui mừng yến ẩm ở nhà ngoài thì hai mẹ con lủi thủi, cắp nón ra về.
Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tan tiệc, nhà trai chẳng tìm thấy cô dâu đâu nữa. Qua một vài đám đại loại như vậy người ta rút kinh nghiệm không nên để mẹ cô dâu đi đưa dâu, dần dần bắt chước nhau, trở thành tục lệ.Một vài địa phương, cả bố cô dâu cũng không đi đưa dâu với lý do con mình đã gả bán cho người. Tuy rằng trong văn sách có ghi "Giá thú bất luận tài" nghĩa là không bàn đến tiền tài trong việc cưới hỏi, nhưng không hiểu vì sao trong ngôn ngữ Việt Nam lại kết hợp "Gả bán" liền nhau.

Thời nay hôn nhân tự do, trai gái tìm hiểu, yêu nhau kết hôn trên cơ sở tình yêu đôi lứa, cha mẹ chỉ tham gia góp ý, hướng dẫn, vậy thì cha mẹ có nên đến dự lễ vui của hai con không? Đã có nhiều đám cưới ngày nay bỏ tục kiêng này. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu ?

Ánh sáng văn phòng có ý nghĩa gì trong phong thủy?

Việc điều tiết ánh sáng hợp phong thuỷ trong văn phòng sẽ tạo được niềm hứng thú trong công việc, là một trong những giải pháp phong thủy để đẩy nhanh sự thành công trong đường công danh sự nghiệp của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc điều tiết ánh sáng hợp phong thuỷ trong văn phòng là điều hết sức lưu ý đối với người quản lý văn phòng. Nếu biết cách bố trí, thiết kế nội thất văn phòng với ánh sáng hợp lý, bạn sẽ tạo được niềm hứng thú trong công việc của mình và nhân viên trong công ty  hơn.

Một trong những giải pháp tối ưu mà nhà quản lý nên vận dụng đó là tận dụng tối đa nguồn ánh sáng tự nhiên, bằng cách trổ cửa sổ, cửa chính ở vị trí hợp lý để ánh sáng được phân bổ đều khắp văn phòng.

Tận dụng ánh sáng tự nhiên cho văn phòng

Tận dụng ánh sáng tự nhiên cho văn phòng


Tuy nhiên, giải pháp này cũng có hạn chế là ánh sáng từ tự nhiên phải tuân theo quy luật tự nhiên: là sáng vào ban ngày, tối vào ban đêm. Do đó, để ánh sáng văn phòng luôn được điều tiết thì bạn nên kết hợp hài hòa giữa hai nguồn sáng tự nhiên và nhân tạo.

Hiện nay, hầu hết văn phòng đều thiết kế cửa kính để đảm báo yếu tố thẩm mỹ, vì thế có thể dùng rèm cửa để hạn chế ánh nắng gay gắt của mặt trời vào buổi trưa. Ngoài ra, cần bố trí thêm nguồn sáng từ đèn trần, ánh sáng nhẹ dịu lan tỏa từ bóng đèn trần sẽ giúp nhân viên giảm bớt cảm giác chói mắt khi làm việc.

Bố trí ánh sáng phòng họp, phòng hội nghị

Bố trí ánh sáng phòng họp, phòng hội nghị


Khi lắp đặt hệ thống chiếu sáng để điều tiết nguồn sáng trong văn phòng, nên căn cứ chức năng của từng phòng mà bố trí sao cho hợp lý. Ví dụ trong phòng hội nghị ánh sáng nên được bố trí tập trung vào bàn hội nghị nhằm tạo cảm giác tập trung trong cuộc họp.Nên sử dụng các thiết bị đèn Led bố trí đầy đủ khắp phòng và nên bố trí thêm một số đèn follow hoặc đèn chiếu sáng trên trần nhà để chiếu sáng cho người thuyết trình thêm nổi bật và mọi người sẽ tập trung sự chú ý hơn.Việc bố trí thêm một số đèn Led nhỏ trên khu vực màn hình chiếu sẽ giúp cho khu vực màn hình chiếu có ánh sáng nhẹ giúp dễ dàng nhìn thấy màn hình để mọi người theo dõi cuộc họp dễ dàng hơn.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ánh sáng văn phòng có ý nghĩa gì trong phong thủy?

Phong thủy đặt bể cá trong nhà –

Tất cả các loại bể cả khung đặt ở phía sau ghế salon: Từ góc độ phong thủy mà xem xét, nêu căn nhà có Thủy chảy phía sau làm sơn là không phù hợp với quy luật. Bởi lẽ, tính của Thủy không ổn định, nếu có Thủy ở phía sau thì không thể mưu cầu ổn định

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả các loại bể cả khung đặt ở phía sau ghế salon: Từ góc độ phong thủy mà xem xét, nêu căn nhà có Thủy chảy phía sau làm sơn là không phù hợp với quy luật. Bởi lẽ, tính của Thủy không ổn định, nếu có Thủy ở phía sau thì không thể mưu cầu ổn định cho gia đình. Cũng như vậy, nếu bày bể cá phía sau ghế ngồi thì những người trong nhà bình thường ngồi trên ghế đó luôn cảm thấy bất an, ngoài ra nó còn gây mất ổn định cho vận thế ngôi nhà. Mà nếu như đặt bể cá bên cạnh ghế salon thì lại không có trở ngại gì đối với phong thủy gia trạch,

2120175985_e731bfa272

Bể cá không đuợc đặt đối lập với bếp nấu: Bể cá có nước, mà bếp nấu lại thuộc Hỏa, bởi vì “thủy” và “hỏa” là tương khắc. Chính vì vậy bể cá trong phòng khách nếu đặt hình thành một đường thẳng với bếp nấu thì đã phạm vào điều cấm kỵ của thủy hỏa tương khắc. Bể cá và bếp nấu đối lập nhau thì sẽ có tổn hại đến sức khỏe của mọi người trong nhà; nguyên nhân là sự tương khắc của thủy hỏa, thủy có thể khắc hỏa, tổn hại hơn cả là bếp nấu thuộc hỏa mà mọi người trong gia đình đều ăn uống thông qua bếp nấu, cũng sẽ vì thế mà chịu liên đới.

Bể cá không nên đặt dưới thần tài: Giống như có câu ngạn ngữ là “‘tài quy tài vị”, cho nên những loại thần tài như tam tinh Phúc lộc Thọ nên đặt ở vị trí đương vương, như vậy mới có thể ra hoa kết quả. Nếu đặt thần tài trên bể cá thì thật là sai lầm lớn. Bởi vì bể cá vốn nên đặt ở vị trí hung của cản nhà, nếu đặt thần tài ở gần bể cá, như vậy tức là đã mâu thuẫn với nguyên tắc “tài quy tài vị”, hơn nữa đặt thần tài ở trên bể cá là phạm vào điều cấm kỵ “chính thần hạ thủy” trong phong thủy học, điều này sẽ phá vỡ vận tài.

Số lượng cá nuôi cũng cần phải phối hợp với ngũ hành của chủ hộ: Số lượng cá trong bể phù hợp với đạo phong thủy, chủ yếu nên căn cứ vào ngũ hành tính mệnh của gia chủ mà định ra.

Số lượng cá được tính theo “hà đồ lạc thủy” cũng đã nói rằng: “Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi: địa nhị sinh hoả, thiên thất thành chi; thiên tam sinh mộc, địa bát thành chi; địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi: thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi”. Căn cứ vào điều trên mà định, chỉ cần tìm ra được ngũ hành tính mệnh của chủ nhà, là có thể kiểm tra xem nên nuôi bao nhiêu con cá là phù hợp.

Sự phối hợp màu sắc cần phải có những nghiên cứu, hơn nữa cũng có liên quan đến chức năng sinh lý của cơ thể con người mới có thể sử dụng những loại màu sắc đó bố trí xung quanh ta, nếu không thì lại càng tăng thêm phiền phức, lãng phí tiền bạc dẫn đến tiền mất tật mang.

Trong nhà có nhiều màu đỏ, người  trung Quốc luôn cho rằng màu đỏ là màu cát tường. Nhưng ở Hàn Quốc thì lại lấy vải màu đỏ đẻ tượng trưng cho màu của những gia đình có tang.

Trong nhà dùng nhiều màu hồng phấn, lại là màu tạo nhiếu hung, màu hồng phấn dễ khiến cho cảm xúc con người bị Nếu màu đỏ quýt mà dùng nhiều, tuy thể hiện được sinh khí dồi dào, có cảm giác ấm áp, nhưng nếu quá nhiều màu này, cũng sẽ khiến cho lòng người dễ sinh ra cảm giác phiền muộn

Nếu trong nhà màu vàng nhiều, tình cảm phiền muộn, bồn chồn bất an, có những cam giác kinh hãi, buồn phiền mà không thể nói ra được. Chính vì vậy khiến não bộ đầy những tầng ảo giác, những người bị bệnh thần kinh lại càng phải tránh với những màu săc này.

Màu sắc trong nhà tốt nhất là dùng màu trắng sữa, màu ngà, màu trắng. Ba loại màu này rất thích hợp với thần kinh thị giác của con người, bời vì ánh mặt trời thuộc loạt màu trắng, đại diện cho ánh sáng, trái tim của con người. Con mắt cũng phải cần đến ánh sáng điều hoà, hơn nữa trong gia đình các tổng màu trắng để phôi hợp với các đồ dùng trong gia đình, tông màu trắng cũng đại diện cho sự hy vọng.

Những mẫu của gỗ nguyên sơ là màu sắc tốt nhất. Màu sắc nguyên bản của gỗ khiến người ta gần gũi và tự nhiên, đặc biệt là trong thư phòng, cố gắng dùng những màu sắc của gỗ là tốt nhất. Tóm lại, các loại màu sắc đều không nên quá nhiều, lấy sự phù hợp và với lý làm nguyên tắc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy đặt bể cá trong nhà –

Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính

Đọc bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính, bạn đọc trẻ tuổi thời nay sẽ có một số thắc mắc:
Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phan Kế Bính là một nhà trí thức tiến bộ (1875-1921) học vấn uyên thâm, đỗ cử nhân Hán học (1906). Lại am tường văn minh Đông Tây, đã có nhiều cống hiến trong công cuộc khảo cứu văn học và lịch sử. Ông khuyên ta không nên mê tín quá vào việc xem ngày kén giờ, nhưng tại sao không bài bác thẳng thừng mà còn hướng dẫn người đọc: cưới xin, làm nhà, khai trương, xuất hành, an táng nên tìm ngày gì, kị ngày gì và bày cách chọn giờ hoàng đạo.

Trong bài có nói đến nhiều cát tinh (sao tốt), hung tinh (sao xấu), các ngày trực tốt trực xấu. Vậy sao không hướng dẫn cụ thể nên những người đọc muốn kén ngày, giờ vẫn phải đi tìm thầy, nhiều khi vừa tốn kém lại vừa bị lừa bị bịp.

Theo thiển ý chúng tôi: Ông không đi sâu giải thích từng cát tinh hung tinh vì trong thời kỳ đầu thế kỷ đã có bản niên giám ban hành nhiều năm và nhiều người biết tiếng Hán xenm được.

Nhằm giải đáp những thắc mắc trên và giúp bạn trẻ thời nay hiểu thêm về một số vấn đề mà học giả Phan Kế Bính đã đề cập tới, trong phần chú giải dưới đây, chúng tôi dựa theo những tư liệu bằng tiếng Hán đã được lưu truyền như "Vạn niên lịch", "Ngọc hạp kỷ yếu", "Chư gia tuyển trạch nhật", "Đổng công trạch nhật","Vạn bảo toàn thư" đối chiếu với lịch thế kỷ XX của nha khí tượng và một số bài viết của các nhà khoa học để làm nhiệm vụ biên khảo, dẫn giải tiếp bài viết của Phan Kế Bính.

Thực ra muốn trả lời cho thật đầy đủ và cụ thể phải đi sâu vào chiêm tinh học cổ đại mà cuốn sách này chưa thể đáp ứng.

Có những cách tính ngày tốt xấu cơ bản như sau:

Tính theo tháng âm lịch và ngày can chi:

- Các sao tốt: Thiên đức, nguyệt đức (lục hợp), thiên giải, thiên hỷ, thiên quý (yếu yên),tam hợp (ngũ phú). Theo quan niệm xưa, những ngày có các sao này chiếu thì làm việc gì cũng tốt.

Ngoài ra còn có các sao: Sinh khí (thuận việc làm nhà, sửa nhà, động thổ), thiên thành (cưới gả giao dịch tốt), thiên quan (xuất hành giao dịch tốt), lộc mã (xuất hành di chuyển tốt), phúc sinh (được phúc tốt), giải thần (giải trừ các sao xấu), thiên ân (được hưởng phúc ân, làm nhà, khai trương)...

Theo thứ tự lần lượt từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, mười một, chạp thì các sao tốt sẽ chiếu vào các ngày như sau:

Thiên đức: Tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, hợi, sửu, mão. (1)
Nguyệt đức: Hợi, tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tị, thìn, mão, dần, sửu, tý.
Thiên giải: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Thiên hỷ: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Thiên quí: Dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, ngọ, tý, mùi, sửu.
Tam hợp: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Sinh khí: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi.
Thiên thành: Mùi, dậu, hợi, sửu, mão, tị, mùi, dậu, mùi, sửu, mão, tị.
Thiên quan: Tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân.
Lộc mã: Ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất, tý, dần, thìn.
Phúc sinh: Dậu, mão, tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, nùi, dần, thân.
Giải thần: Thân, thân, tuất, tuất, tý, tý, dần, dần, thìn, thìn, ngọ, ngọ.
Thiên ân: Tuất, sửu, dần, tị, dậu, mão, tý, ngọ, thân, thìn, thân, mùi.
--------------------------------------------
Có nghĩa là: Sao thiên đức chiếu vào những ngày tị của tháng giêng, ngày mùi của tháng hai, ngày dậu của tháng ba... Các sao khác cũng xem như vậy.

Các sao xấu: (mỗi tháng tính theo ngày âm có ba ngày nguyệt kỵ là mồng 5, 14, 23 và 6 ngày tam nương là ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27).

Các sao xấu khác tính theo tháng âm lịch và ngày can chi như: Thiên cương, thụ tử, đại hao, tử khí, quan phù (xấu trong mọi việc lớn), tiểu hao (kỵ xuất nhập, tiền tài), sát chủ, thiên hoạ, địa hoả, hoả tai, nguyệt phá (kiêng làm nhà), băng tiêu ngoạ giải (kiêng làm nhà và mọi việc lớn), thổ cấm (kiêng động thổ), vãng vong (kiêng xuất hành giá thú), cô thần, quả tú (kiêng giá thú), trùng tang trùng phục (kỵ hôn nhân, mai táng, cải táng).

Theo thứ tự từ tháng giêng, hai, ba, tư, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười, một, chạp thì các sao xấu chiếu như sau:

Thiên cương: Tị, tý, mùi, dần, dậu, thìn, hợi, ngọ, sửu, thân, mão, tuất.
Thụ tử: Tuất, thìn, hợi, tị, tý, ngọ, sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu.
Đại hao, tử khí, quan phù: Ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị.
Tiểu hao: Tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn.
Sát chủ: Tý, tị, mùi, mão,thân, tuất, sửu, hợi, ngọ, dậu, dần, thìn.
Thiên hoả: Tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu, tý, mão, ngọ, dậu.
Địa hoả: Tuất, dậu, thân, mùi, ngọ, tỵ, thìn, mão, dần, sửu, tý, hợi.
Hoả tai: Sửu, mùi, dần, thân, mão, dậu, thìn, tuất, tị, hợi, tý, ngọ.
Nguyệt phá: Thân, tuất, tuất, hợi, sửu, sửu, dần, thìn, thìn, tị, mùi, mùi.
Băng tiêu ngoạ giải: Tị, tý, sửu, thân, mão, tuất, hợi, ngọ, mùi, dần, dậu, thìn.
Thổ cấm: Hợi, hợi, hợi, dần, dần, dần, tị, tị, tị, thân, thân, thân.
Thổ kỵ, vãng vong: Dần, tị, thân, hợi, mão, ngọ, dậu, tý, thìn, mùi, tuất, sửu.
Cô thần: Tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu.
Quả tú: Thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, tý, sửu, dần, mão.
Trùng tang: Giáp, ất, mậu, bính, đinh, kỷ, canh, tân, kỷ, nhân, quý, mậu.
Trùng phục: Canh, tân, kỷ, nhâm, quí, mậu, giáp, ất, kỷ, bính, đinh, mậu.

Mỗi năm có 13 ngày dương công (xấu).

Tính theo ngày tiết: 4 ngày ly và 4 ngày tuyệt (xấu)

Mỗi năm có 4 ngày tứ ly (trước tiết xuân phân, thu phân, đông chí, hạ chí một ngày), 4 ngày tứ tuyệt (trước tiết lập xuân, lập hạ, lập thu, lập đông một ngày).

Tính theo ngày trực:

- Trong 12 ngày trực có 6 ngày tốt (trực kiến (1), trực mãn (3), trực bình (4), trực định (5), trực thành (9), trực khai (11), 3 ngày thường (trực chấp (6), trực trừ (2), trực thu (10), 3 ngày xấu (trực phá (7), trực nguy (8), trực bế (12).

Tính theo nhị thập bát tú:

- Trong 28 ngày có 14 ngày tốt, 14 ngày xấu nhưng nhị thập bát tú tương ứng với ngày tuần lễ. Nói chung ngày thứ tư, thứ năm hàng tuần thường là ngày tốt.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính

Truy tìm lí do khiến bạn nghèo kiết xác

Một vài thói quen tuy đơn giản nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ hao hụt tiền bạc khiến bạn sống mãi kiếp nghèo kiết xác.
Truy tìm lí do khiến bạn nghèo kiết xác

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một vài thói quen tuy đơn giản nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ hao hụt tiền bạc khiến bạn sống mãi kiếp nghèo kiết xác.


► Mời các bạn: Xem tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh chuẩn xác

Ngoài việc đặt mục tiêu phấn đấu, không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức cũng như kinh nghiệm bản thân, các yếu tố phong thủy cũng là một trong những điều bạn nên lưu ý nếu muốn tiền bạc không “đội nón ra đi” một cách vô ích. Nếu mắc phải một số thói quen xấu dưới đây, bạn nên thay đổi ngay từ hôm nay để tiền bạc luôn nằm gọn trong túi mình.
1. Lối đi chính lộn xộn, dơ bẩn

Truy tim li do khien ban ngheo kiet xac hinh anh
Ảnh minh họa
Trong phong thủy nhà ở, những lối đi chính trong ngôi nhà bao gồm cửa chính và cửa phòng ngủ. Cửa chính của ngôi nhà là nơi thu hút năng lượng khí từ bên ngoài vào nhiều nhất, nó trực tiếp ảnh hưởng đến tài lộc và vận khí của mọi thành viên trong gia đình. Vì vậy, nếu cửa ra vào mà lộn xộn, bừa bãi và bẩn thỉu, ắt sẽ khiến cho tài vận của bản thân sa sút, đi xuống. Theo đó tiền của sẽ “không cánh mà bay”.

2. Lơ là việc chăm sóc cây cảnh trong nhà


Nhiều người thích trồng các loại cây cảnh mang ý nghĩa vượng tài vượng lộc. Nếu chỉ mang về nhà bỏ đó, không chăm sóc chu đáo, tạo điều kiện để chúng phát triển thuận lợi thì đồng nghĩa với việc tài lộc khó vào nhà một cách suôn sẻ.

Ngoài ra, khi chăm sóc cây cảnh trong nhà đồng nghĩa với việc bản thân có trách nhiệm với tài vận của chính mình. Vì người có trách nhiệm với tài chính của chính mình chắc chắn sẽ không để bị thâm hụt ngân sách, sẽ không tiêu sài phung phí mà ngược lại luôn biết cách quản lí chi tiêu của bản thân.

Hơn thế, những loại cây cảnh này còn mang ý nghĩa phát tài, có tác dụng tăng vận khí cho ngôi nhà và làm tăng đường tài lộc, phú quý cho gia chủ. Do đó, dù bạn bận rộn đến đâu cũng đừng quên chăm sóc chúng cẩn thận, tạo điều kiện để tài lộc thịnh vượng, tiền bạc dồi dào, trong túi lúc nào cũng rủng rỉnh tiền tiêu.

Truy tim li do khien ban ngheo kiet xac hinh anh 2
Ảnh minh họa

3. Sử dụng đèn có ánh sáng mờ ảo


Ánh sáng được coi là nguồn năng lượng tích cực, mang tới điều may mắn, xua đi sát khí và âm khí. Việc sử dụng ánh đèn để thắp sáng không gian, làm bừng lên dương khí sẽ mang lại nhiều lợi ích bất ngờ về tài lộc. Trường hợp sử dụng ánh đèn trong phòng mờ ảo cũng có thể ảnh hưởng đến vận thế của bạn.

Theo quan điểm phong thủy, trong mỗi ngôi nhà, mọi thành viên trong gia đình đều có tài vị riêng, vị trí này phụ thuộc vào mệnh của người đó theo ngũ hành. Nếu vị trí phát tài đó ở những nơi không được chiếu sáng, hay được chiếu sáng nhưng mờ ảo thì rất có thể tài vận của người này cũng luôn trong trạng thái tối tăm mờ mịt.

Vì vậy, mỗi người hãy tận dụng ánh đèn sáng trắng để soi sáng tài vị của bản thân trong ngôi nhà. Như vậy đường tài vận của chúng ta mới luôn sáng sủa và thịnh vượng.

4. Mặc quần áo quá nhiều túi

Truy tim li do khien ban ngheo kiet xac hinh anh 3
 
Trong phong thủy, túi áo, túi quần tượng trưng cho tài vận, nếu túi áo, túi quần quá nhiều thì đồng nghĩa với việc tiền tài của bạn sẽ rải rác khắp nơi, bị phân tán mọi chỗ, khó có thể gom tụ được.

Tình trạng này kéo dài và liên tục sẽ khiến tài vận của bạn sẽ gặp nhiều trắc trở, khó mà thuận lợi đi lên. Tóm lại khi chọn mua trang phục bạn nên mua những bộ đồ có ít túi một chút để tài lộc luôn ào ạt dồn về cùng một hướng, mạnh mẽ lên cao.

Theo Khám phá

 

 

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Truy tìm lí do khiến bạn nghèo kiết xác

Quan Thế Âm Bồ Tát

Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Tử Long Cứu A Đẩu là quẻ thẻ Trung Bình trong quẻ quan âm
Quan Thế Âm Bồ Tát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Hai chín trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Tử Long Cứu A Đẩu (còn gọi là Triệu Vân Cứu A Đẩu). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Tử Long Cứu A Đẩu có bắt nguồn như sau:

Tử Long tức là Triệu Vân, một danh tướng thời Tam Quốc, là một trong Ngũ hố thượng tướng của nhà Thục Hán. Triệu Vân thân cao tám thước, tướng mạo đường đường, thời trẻ làm sai nha ở quận. Năm Sơ Bình thứ 2 (tức năm 191), Viên Thiệu xưng là quan Mục ở Ký Châu, tranh chấp với Công Tôn Tán. người ở quận Thường Son cùng suy tôn Triệu Vân là Đầu mục, chỉ huy mọi người đến đầu quân cho Công Tôn Tán. Cũng trong năm này, Lưu Bị cũng đến dựa vào Công Tôn Tán. Lưu Bị rất thân thiết với Triệu Vân, thường giúp đỡ Triệu Vân. Triệu Vân cũng coi Lưu Bị là người bề trên, là tri kỷ, tình cảm rất gắn bó. Qua vài năm bôn ba và quan sát, Triệu Vân cảm thấy không hài lòng với Công Tôn Tán, cho rằng Công Tôn Tán không có chí lớn, không hiếu được đại thế, chỉ chú ý đến bản thân, không phải là vị chủ nhân có thể nương tựa được, liền tìm cơ hội để bỏ đi. Không lâu sau, Triệu Vân xin về nhà vì lý do anh trai mất. Lưu Bị biết Triệu Vân sẽ không quay lại nữa, nên quyến luyến không rời. Lúc từ biệt, Triệu Vân nói rằng: “Tiểu đệ sẽ không bao giờ phản bội lại ân đức mà anh đã dành cho tôi”.

Mùa xuân năm Kiến An thứ 5 (tức năm 200), sau khi Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, bèn đến nương nhờ Viên Thiệu. Lúc này, Lưu Bị một mình trốn thoát, tình hình rất thê thảm. Trên đường, lại gặp Triệu Vân ở Nghiệp Thành, nằm ngủ cùng giường với Triệu Vân, lại ngầm sai Triệu Vân ra ngoài chiêu mộ hàng trăm người, từ đó, Triệu Vân đi theo Lưu Bị, nam chinh bắc chiến, suốt đời không thoái chí.

Năm Kiến An thứ 13, Tào Tháo đưa quân xuống Giang Nam, quân của Lưu Bị thất bại, chạy về phía nam đến Giang Lăng. Tào Tháo sai thuộc hạ truy đuối, cuối cùng đã đuổi kịp Lưu Bị ở gần dốc Trường Bản của Đương Dương. Lúc này tình thế rất nguy cấp, Lưu Bị bèn bỏ lại vợ con, chỉ mang theo mấy chục kỵ binh cùng Trương Phi, Gia Cát Lượng và Triệu Vân chạy về phía nam. Nhưng Triệu Vân lại quay trở về hướng bắc, vào trong quân của Tào Tháo. Có người thấy Triệu Vân đi về phía bắc, bèn nói với Lưu Bị rằng, Triệu Vân chắc chắn đã đi đầu hàng Tào Tháo ròi. Lưu Bị nghe thế, liền cầm cây kích ném thẳng vào kẻ tố cáo mà nói: “Tử Long không baọ giờ bỏ ta mà đi!”

Triệu Vân quên cả thân mình, chạy qua chạy lại tìm kiếm trong hàng trăm hàng vạn quân lính. Đang lúc đó, Triệu Vân nghe thấy có tiếng người gọi, quay đâu lại nhìn, thì thấy phu nhân của Lưu Bị là Mi thị, đang bế A Đẩu, Triệu Vân vội vàng xuống ngựa, chạy đến trước bức tường đất. Mi phu nhân vốn cho rằng tính mệnh mình khó giữ, nhìn thấy Triệu Vân, thì vui mừng khôn xiết, vội giao A Đẩu cho Triệu Vân. Triệu Vân gọi con ngựa đến, xin phu nhân cưỡi ngựa chạy đi. Phu nhân thấy quân địch trùng trùng, nhất định không chịu lên ngựa, nhân lúc Triệu Vân không chú ý, liền nhảy xuống giếng tự sát. Triệu Vân chỉ còn cách bế A Đẩu, nhảy lên lưng ngựa, một mình cưỡi ngựa múa thương, gặp tướng giết tướng đế thoát ra, giết một mạch hơn năm mươi danh tướng của quân Tào. Quân sĩ của Tào không thể ngăn cản được, Tào Tháo đứng từ xa quan sát, thấy vậy bèn hỏi họ tên. Triệu Vân hô lớn: “Ta là Triệu Tử Long ở Thường Sơn đây!” Tào Tháo kinh sợ mà nói: “Triệu Tử Long là mãnh tướng, mọi người đừng ngăn cản nữa, hãy để cho hắn đi!” Triệu Vân vì thế mà thoát được.

Triệu Vân cứu được A Đẩu, đến được trước mặt Lưu Bị thì đã sức tàn lực kiệt, bèn thuật lại rằng phu nhân không chịu lên ngựa, đã nhảy xuống giếng mà chết, ròi trao A Đẩu cho Lưu Bị. Lưu Bị vô cùng cảm kích.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quan Thế Âm Bồ Tát

Muốn "giải thoát" khỏi nghèo khổ, hãy nhớ lời Phật dạy dưới đây

Đây là bốn nguyên tắc Phật dạy để "thoát nghèo" mà chúng sinh cần ghi nhớ và học hỏi, chia sẻ khó khăn với người khác là phước đức lớn để cuộc sống tốt hơn
Muốn "giải thoát" khỏi nghèo khổ, hãy nhớ lời Phật dạy dưới đây

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

4 nguyên tắc Phật dạy này có thể giúp chúng sinh thoát khỏi sự nghèo túng và quẫn bách.

Ở đời ai cũng muốn mình giàu có, không ai muốn rơi vào cảnh nghèo túng, khó khăn về vật chất. Nhưng không phải muốn là được bởi sự giàu nghèo đều có nguyên nhân của nó cả. Nhiều người thắc mắc vì sao vẫn làm lụng vất vả mà cũng nghèo hoài. Trong khi những người không làm nhiều lại có của để xài? Và làm sao để thoát nghèo, cải thiện cuộc sống?

Dưới đây là 4 nguyên tắc Phật dạy để “giải thoát” khỏi sự nghèo khổ mọi người nên biết.

Nguyên tắc 1: Không bao giờ mong giàu

Thường con người ai cũng khát khảo được giàu có, nên khi chưa đạt được họ sẽ dằn vặt, đau khổ. Nhiều người cứ nghĩ rằng giàu có mới có khả năng làm phước, nhưng không phải vậy. Chúng ta phải làm phước, phải có phước thì mới có tiền.

Phước ở đây chính là những việc làm lợi ích chúng ta giúp người, giúp đời. Còn suốt ngày chỉ ngồi nghĩ về tiền thì tiền càng không đến, càng mong muốn nhiều tiền thì tiền càng không có.

Nguyên tắc 2: Nghèo là do mình đã phạm sai lầm gì đó trong quá khứ, nên phải sám hối

Quá khứ có những sai lầm nên cần phải sám hối. Sám hối ở đây là phải có thái độ đúng, phải biết chắc chắn mình đã phạm sai lầm gì đó trong quá khứ mà bây giờ không tự nhìn ra được. Chính cái biết này là sự sám hối âm thầm giúp ta nhanh chóng thoát khỏi nghiệp cũ.

Nguyên tắc 3: Nhờ nghèo khổ mà yêu thương được mọi cảnh khổ trên đời

Hãy vui mừng vì nhờ nghèo mà mình thương yêu được rất nhiều người bị những người khác bỏ quên. Thương yêu được mọi người là chất liệu, nền tảng của những việc thiện lành, những việc tạo ra phước đức giúp chúng ta vượt lên.

Vì những người sinh ra trong cảnh giàu có thường không thể thấu hiểu và cảm thông được nỗi khổ của người nghèo vì họ chưa từng trải qua.

Nguyên tắc 4: Dù nghèo vẫn cố gắng chia sẻ, giúp đỡ những người xung quanh

Thời xưa đã có người từng hỏi Phật: “Con nghèo quá, không có gì để bố thí cả”. Phật trả lời: “Không ai nghèo đến mức không có một hạt cơm để bố thí cho con kiến”.

Người giàu làm phước rất dễ dàng. Họ có thể bỏ ra cả triệu đồng để bố thí nhưng vẫn không thể quý bằng người nghèo giúp được một người qua cơn đói với bữa cơm đạm bạc.

Sự cố gắng chia sẻ thiếu thốn với người khó khăn hơn mình là phước đức rất lớn, là quà tặng của đất trời ban tặng cho người nghèo. Nhờ vậy mà cuộc sống sẽ được tốt dần lên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muốn "giải thoát" khỏi nghèo khổ, hãy nhớ lời Phật dạy dưới đây

Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật

Cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát được xưng tụng là tứ đại Bồ Tát.
Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát được xưng tụng là tứ đại Bồ Tát, dùng pháp lực và lòng từ bi của mình chuyên cứu độ những người sa vào địa ngục.

 

Mục Lục

  1. Danh xưng Địa Tạng Vương Bồ Tát
  2. Sức mạnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát
  3. Hình tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát
  4. Ngày vía Địa Tạng Vương Bồ Tát
  5. Đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát
  6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

1. Danh xưng Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Dia Tang Vuong Bo Tat - Dia nguc chua trong the khong thanh Phat hinh anh 2
 

Địa Tạng Vương Bồ Tát hay Địa Tạng Bồ Tát là tên được phiên âm từ tiếng Phạn, danh xưng toát lên lòng từ bi và nguyện lực vững vàng của Ngài trên con đường tu tập Phật pháp và độ hóa chúng sinh. Theo lời giải thích trích trong Địa Tạng kinh, Địa là dày chắc, Tạng là chứa đủ. Địa Tạng là sâu dày, đủ chứa muôn vàn khổ đau của sinh linh.

 

Địa Tạng thập luận kinh cũng bàn về danh xưng của Ngài như sau: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Địa Tạng là kho báu ẩn giấu trong lòng đất, đất sâu dày như chân tâm kiên cố là chỗ dựa và nơi sinh trưởng vạn pháp, tạng là hầm chứa vô biên không có giới hạn để pháp ấy nảy nở sinh sôi, tới được với tất thảy mọi người.

 

Địa Tạng Bồ Tát là vị mang trong mình chân tâm vô lượng giống như kho báu vô biên về Phật pháp, sẵn sàng trải rộng khắp chúng sinh đều được hưởng công đức tràn đầy. Ngài chính là đất đai rộng lớn, sâu xa, mọi giới mọi loại đều hưởng, không phân biệt, không có định mức.

 

Trong Mật giáo, Bồ Tát Địa Tạng còn có mật hiệu là Bi Nguyện Kim Cương hoặc Dữ Nguyện Kim Cương.

 

2. Sức mạnh của Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Đối với Phật giáo, Địa Tạng Bồ Tát là một trong những vị có vị trí vô cùng quan trọng, được tôn xưng là Tứ đại Bồ Tát với pháp lực vô biên, từ bi vô hạn. Sự tích nổi bật nhất về Ngài là lời nguyện cứu độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kì sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn và trước khi Di Lặc Bồ Tát hạ sinh.

 

Ngài có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh, gánh trọng trách giáo chủ toàn cõi trong một thời gian, chứng tỏ được sức mạnh và đức độ của Ngài. Sức mạnh ở đây không chỉ là pháp lực, từ bi mà còn là lòng cảm hóa và phẩm chất đạo hạnh tu hành. Chỉ vị Bồ Tát có đầy đủ những yếu tố này mới có thể đứng ra thuyết giảng Phật pháp, dẫn dắt chúng sinh tới cõi Phật.

 

Xuất phát từ lời nguyện chưa thành Phật khi địa ngục chưa hết chúng sinh nên Địa Tạng được xem là vị Bồ Tát của chúng sinh dưới địa ngục hay giáo chủ cõi U Minh. Dùng tấm lòng và trí huệ của mình cảm hóa chúng sinh hướng tới sự an nhiên bất động như đại địa, tĩnh lặng và sâu kín như tàng chứa bí mật, đúng với tinh thần của danh xưng Địa Tạng.

 

Tâm nguyện duy nhất là cao nhất của Địa Tạng Bồ Tát là cứu vớt tất cả chúng sinh đang chìm đắm trong u mê tăm tối, lầm lối lạc đường được tới cõi Niết Bàn. Với tinh thần và sức mạnh vô biên, không quản ngại khó ngăn trở lực, không chuyển tâm đổi ý, không xa rời hạnh nguyện ban đầu.

 

Giống như hai câu kệ trong bài tán Phật viết: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”. Tâm nguyện độ sinh của Địa Tạng Vương Bồ Tát vững chắc và sâu dày, rộng rãi như đất lớn, từ bi mà mạnh mẽ.

 

Ngoài ra, Địa Tạng Bồ Tát còn là vị chuyên độ cứu sinh linh và che chở cho trẻ nhỏ, cứu giúp người lữ hành phương xa. Ngài hiện thân bảo vệ trẻ em bị ngược đãi bạo hành trong cuộc sống, an ủi che chở những linh hồn trẻ thơ bất hạnh yểu mạng.

 

Truyền thuyết kể rằng, người chết trước khi đi vào điện Diêm La nghe Diêm Vương phán xét những tội hình khi còn sống sẽ phải đi qua dòng sông Nại Hà. Vì thương cha nhớ mẹ mà những linh hồn trẻ nhỏ yểu mạng thường tới bờ Nại Hà nhặt đá xây lâu đài thành quách, coi như một hành động lưu luyến người thân. Thương các em đau khổ, Địa Tạng Bồ Tát thường tới nơi đây để an ủi vỗ về, cùng nhặt đá xây thành, giúp tích công đức và đưa các em qua sông Nại Hà.

 

Người đi xa, gặp khổ nạn cũng kêu cầu Địa Tạng Bồ Tát hiện thân cứu trợ, dùng sức mạnh của mình để vượt qua hiểm cảnh, sóng gió, thoát khỏi tối tăm xấu xa thác loạn mà tìm thấy con đường sáng suốt.

 

Xem thêm bài viết Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?

 

Địa Tạng Vương Bồ Tát có pháp lực bao trùm tam giới, theo kinh Địa Tạng Bản Nguyện nếu chí tâm quy y, cúng dường và chiêm ngưỡng, đảnh lễ Bồ Tát thì sẽ hưởng rất nhiều lợi ích, cả khi còn sống lẫn khi đã về với cát bụi.

 

Lợi ích trong cuộc sống hiện tại: nguyện lớn thành hiện thực đạt thành tựu, được trí huệ lớn, tiêu trừ tai nạn, thoát khỏi hiểm nguy, tiêu trừ tội chướng bệnh tật, được quỷ thần hộ vệ.

 

Lợi ích của kiếp sau: thoát khỏi thân nữ, được thân xinh đẹp, thoát kiếp nô lệ.

 

Lợi ích lúc lâm chung: khi người thân sắp mất nên niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát, tụng Địa Tạng kinh để tích việc thiện cho người đó; trong 49 ngày nên tụng Địa Tạng kinh cho vong linh sớm siêu thoát.

 

Lợi ích với người quá vãng: siêu độ vong linh, khi gặp ma quỷ, quái ác ngoài đời hay trong mơ đều nên chí tâm tụng kinh Địa Tạng; siêu độ và gặp lại người thân đã qua đời.

 

Xem thêm bài viết Cung dưỡng Địa Tạng Bồ Tát, mời phúc đức đến cửa

 

Riêng với Phật giáo Việt Nam, Địa Tạng Bồ Tát được thờ trong chính điện của các chùa cùng với Phật Thích Ca Mâu Ni – tượng trưng cho Trí, Quán Thế Âm Bồ Tát – tượng trưng cho Bi và Địa Tạng Vương Bồ Tát – tượng trưng cho Dũng.

 

3. Hình tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Dia Tang Vuong Bo Tat - Dia nguc chua trong the khong thanh Phat hinh anh 2
 

Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ Tát duy nhất được mô tả có nhúm lông màu trắng nằm giữa hai mắt, là một trong 32 tướng tốt của một vị Phật. Hình tượng phổ biến nhất là vị Tỳ Kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng có 6 vòng, biểu hiện của sự cứu độ chúng sinh trong lục đạo, tay trái cầm hạt minh châu như ý, đầu dội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc cưỡi trên lưng con Đế Thính.

 

Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện thân là Tỳ Kheo – một vị xuất gia giải thoát bởi Ngài nguyện cứu độ chúng sinh khỏi cảnh giới sinh tử. Tay phải cầm tích trượng có 6 vòng đại diện cho lục đạo hoặc 12 vòng đại diện cho thập nhị nhân duyên mà ngài dùng pháp để giáo hóa chúng sinh.

 

Viên ngọc minh châu như ý ở tay trái tượng trưng cho trí tuệ sáng rõ, rộng lớn soi tỏa khắp tất cả những chốn u tối để chúng sinh còn đang bị giam cầm trong địa ngục cũng có thể thấy đường thoát khỏi ngục hình

 

Con Đế Thính mà Ngài cưỡi là linh thú, chỉ cần mọp xuống đất giây lát cũng thấu tỏ mọi lẽ ở đời, biểu thị cho sự thấu đạt của Bồ tát, tâm là thanh tịnh, đạt tới cảnh giới cao nhất của thiền định thì mọi lẽ trời đất đều có thể nắm được.

 

Ngoài ra, vì là vị Bồ Tát bảo hộ cho trẻ em nên rất nhiều tượng và tranh Địa Tạng Bồ Tát khắc họa Ngài và trẻ nhỏ. Ví dụ như có hình tượng khuôn mặt Ngài hồn nhiên ngây thơ như trẻ nhỏ, có hình tượng trên tay Ngài bế một đứa trẻ, xung quanh là nhiều em khác.

 

Một điểm nữa ở các hình tượng Địa Tạng khiến Ngài nổi bật trong các vị Bồ Tát là do có nhiều phép biến hóa nên có 6 danh hiệu, gọi là Lục Địa Tạng, mỗi danh hiệu lại có hình tượng tương ứng.

 

Đầu Đà Địa Tạng là hóa thân ở địa nguc, tay cầm tích trượng hình đầu người. Bảo Châu Địa Tạng, hóa thân ở giới ngạ quỷ, tay cầm ngọc châu. Bảo Ấn Địa Tạng là hóa thân ở đạo súc sinh, tay cầm bảo ấn như ý. Trì Địa Tạng là hóa thân ở giới Atula, hai tay nâng quả địa cầu, biểu hiện sự ủng hộ cho giới này. Trừ Chướng Địa Tạng là hóa thân trong nhân loại, mang theo 8 món đồ che lấp nỗi khổ nhân gian. Nhật Quang Địa Tạng là hóa thân ở cõi Trời, ánh sáng soi tỏ 5 suy nghĩ của người và trời, diệt trừ mọi khổ não.

 

4. Ngày vía Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

30/7 âm lịch hàng năm là ngày Vía Đức Bổn Tôn Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phật tử và chúng sinh hướng Phật thể hiện lòng kính ngưỡng bằng các hoạt động cúng dường, tụng kinh Địa Tạng, khấn niệm Địa Tạng Vương và tổ chức các buổi lễ thuyết giảng Phật pháp, làm việc thiện như phóng sinh, ăn chay, bố thí,…

 

Xem thêm bài viết Ngày 30 tháng 7 Địa Tạng Vương bồ tát đại khai nhãn giới

 

5. Đại nguyện của Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Dia Tang Vuong Bo Tat - Dia nguc chua trong the khong thanh Phat hinh anh 2
 

Bồ Tát với trí tuệ rộng lớn và lòng tư bi bao la luôn thấy chúng sinh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong tương lai nên nguyện khi nào độ hết nỗi khổ của chúng sinh, không một ai còn đau khổ, khó khăn, đều đạt thành Phật đạo thì Ngài mới yên tâm đạt tới cảnh giới Niết Bàn.

 

Địa Tạng Bồ Tát khi tu hành theo đạo Bồ Tát đã phát tâm lời thề nguyện vĩ đại với ý nghĩa cao nhất là “Địa ngục chưa trống thề không thành Phật, chúng sinh độ hết mới chứng Bồ Đề”. Nội dung này được thể hiện qua bốn lần phát nguyện cũng là bốn sự việc cụ thể, điển tích còn lưu truyền trong kinh sách nhà Phật cho tới ngày hôm nay.

 

Lần phát nguyện thứ nhất: trong vô lượng kiếp về trước Địa Tạng là một vị trưởng giả được nhận sự chỉ dạy của Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Phước duyên đưa đẩy, đảnh lễ thành tâm, vị trưởng giả đã phát đại nguyện sẽ độ tận chúng sinh để chứng bồ đề, vì chúng sinh trong 6 cõi mà giảng bày nhiều phương tiện để chúng sinh đều được giải thoát hết rồi mới tự thân mình chứng thành Phật quả.

 

Lần phát nguyện thứ hai: vào thời quá khứ vô số kiếp trước, tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát là Mục Kiền Liên – vị nữ tử dòng dõi Bà la môn có nhiều phúc đức. Nhưng mẹ của Mục Kiền Liên thì lại gây ra rất nhiều ác nghiệp, đặc biệt là nghiệp sát sinh nên sau khi qua đời bị đầy xuống địa ngục, làm ngạ quỷ đói khát.

 

Mục Kiền Liên là người con có hiếu, thấy mẹ mình khổ sở đọa đầy như vậy rất đau lòng liền xin Đức Phật chỉ hướng. Đức Phật khuyên nên làm vô lượng điều lành để hồi hướng công đức cho mẹ, đồng thời lập lễ cơm canh hoa quả để cung dưỡng thập phương tứ tự tăng chúng, hóa giải tai ách, giúp mẫu thân vượt qua nghiệp chướng khổ đau, được hưởng phúc lành.

 

Sau nhiều nỗ lực, mẹ của Mục Kiền Liên được hóa độ,giải thoát, vãng sinh về cõi trời, hoan hỉ trước tin này, Ngài đã phát nguyện: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”

 

Ngày mà Mục Kiền Liên làm lễ cúng thập phương là 15/7 âm lịch, từ đó về sau thành lễ Vu Lan báo hiếu của Phật giáo, tưởng nhớ tới công đức sinh thành dưỡng dục trời biển của cha mẹ. 

 

Lần phát nguyện thứ ba: trong hằng hà sa số kiếp về trước, Địa Tạng là một vị vua từ bi, thương yêu dân chúng nhưng chúng sinh lại tạo rất nhiều ác nghiệp. Chứng kiến cảnh đó, vị vua hiền đức đã phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật.”

 

Lần phát nguyện thứ tư, vô lượng kiếp về trước, Địa Tạng là một thiếu nữ tên Quang Mục có nhiều phúc đức nhưng mẹ nàng lại tạo nhiều ác nghiệp nên bị đày vào địa ngục. Quang Mục tạo nhiều công đức hồi hướng cho mẹ, và nhờ phước duyên cúng dường một vị A-la-hán.

 

Vị này cho biết mẹ cô đã thoát cảnh địa ngục nhưng có vãng sinh cũng chịu quả báo, muôn lần khổ đau. Thương mẹ và thương chúng sinh, Quang Mục đã phát nguyện: “Từ ngày nay trở về sau đến trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sinh bị tội khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng sinh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ,... Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc Chánh giác.”

 

6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát

 

Địa Tạng Bồ Tát hay bất kì vị Bồ Tát nào đều phát tâm và hướng thiện, vì thế, “Phật tại tâm”, tất cả những con đường đến với Phật đều chỉ qua một chữ: tâm. Tâm an lòng thanh, dưỡng thân dưỡng tâm, hành thiện tích đức thì mọi việc đều thông thuận, đều được chứng quả.

 

Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị có trí tuệ tỏa rộng sâu dày, chuyên cứu vớt u mê, bất cứ trường hợp nào tăm tối, khổ đau đều có thể kêu cầu người, tụng kinh Địa Tạng để giảm bớt thống khổ. Nhưng quan trọng nhất là tâm phải thiện, tu tập bản thân theo chí hướng Phật pháp để mỗi ngày một hoàn thiện, mỗi ngày một giác ngộ, thanh tỉnh hơn.

 

Xem thêm bài viết Bài khấn Địa Tạng Vương Bồ Tát cầu công danh sự nghiệp

 

Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Địa Tạng Vương Bồ Tát - Địa ngục chưa trống thề không thành Phật

Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán

Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán, các bạn cùng tìm hiểu để biết được phong tục truyền thống mang đậm màu sắc văn hóa của người Á Đông nói chúng và người Việt Nam nói riêng. Tết đến Xuân về không chỉ là niềm khao khát của biết bao đứa trẻ để được xúng xính quần áo mới, được ăn bánh mứt và nhất là được nhận lì xì. Mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng sâu sắc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Đó là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới, giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Bên cạnh đó là khao khát sự trường tồn cuộc sống, sự hài hòa Thiên – Địa – Nhân, sự gắn kết trong cộng đồng, gia tộc và gia đình. Tết Nguyên đán còn là dịp để hướng về cội nguồn. Đó là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm sâu sắc của người Việt, trở thành truyền thống tốt đẹp.

Tết Nguyên Đán - hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết. “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên Đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên Đán”. Tết Nguyên Đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”, là để phân biệt với “Tết Tây” (Tết Dương lịch).

Tết Nguyên Đán được tính từ ngày nào?

Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên Đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.

Vì Âm lịch là lịch theo chu kỳ vận hành của mặt trăng nên Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch. Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của Âm lịch nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên Đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch. Toàn bộ dịp Tết Nguyên Đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng).

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Nguồn gốc của Tết Nguyên Đán

Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hoa Trung Quốc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, Tết Nguyên Đán cũng là một trong những nét văn hóa được du nhập trong thời điểm đó. Theo lịch sử Trung Quốc, nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Đời Tam Vương, nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Nhà Thương thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Nhà Chu ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ “tạo thiên lập địa” như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày Tết khác nhau.

Đến thời Đông Chu, Khổng Tử đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời nhà Tần (thế kỷ 3 TCN), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua tháng Hợi, tức tháng mười. Đến thời nhà Hán, Hán Vũ Đế (140 TCN) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức tháng giêng. Từ đó về sau, không còn triều đại nào thay đổi về tháng Tết nữa.

Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ ba có thêm lợn, ngày thứ tư sinh dê, ngày thứ năm sinh trâu, ngày thứ sáu sinh ngựa, ngày thứ bảy sinh loài người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày Mồng một cho đến hết ngày mồng Bảy.

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Ý nghĩa của Tết Nguyên Đán

Tết Nguyên Đán không chỉ thể hiện sự giao giao cảm giữa trời đất và con người với thần linh trong quan niệm của người phương Đông. Mà thiêng liêng hơn cả đó chính là ngày đoàn viên của mọi gia đình. Mỗi khi Tết đến, dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu đều mong được trở về sum họp dưới mái ấm gia đình trong 3 ngày Tết, được khấn vái trước bàn thờ tổ tiên, thăm lại ngôi nhà thờ, ngôi mộ, giếng nước, mảnh sân nhà,… được sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thương của tuổi thơ yêu dấu. “Về quê ăn Tết”, đó không phải là một khái niệm thông thường đi hay về, mà là một cuộc hành hương về với cội nguồn, nơi chôn rau cắt rốn.

nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của tết nguyên đán

Tết Nguyên đán với ý nghĩa sâu xa và mang tính thiêng, trang trọng là tiễn đưa năm cũ, chào đón, chúc tụng năm mới sức khỏe con người tốt hơn, sinh kế khá hơn, hạnh phúc cá nhân – gia đình bền vững hơn và khởi đầu từ ý thức hệ nông nghiệp, sau dần tỏa rộng trong đời sống con người toàn xã hội, song vẫn mang ý nghĩa nhân văn tốt đẹp.

Người Việt cho rằng, Tết Nguyên đán là cơ hội để thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” một cách sâu sắc, cụ thể nhất. Giá trị hướng về cội nguồn là giá trị tâm linh, cũng là giá trị tình cảm của người Việt với Tết Nguyên đán. Giá trị này đã trở thành nếp sống truyền thống tốt đẹp, bền vững.

Người ta tin rằng, vào dịp Tết Nguyên đán, tổ tiên cũng sẽ hiện diện trên bàn thờ gia tiên, ở nhà thờ họ để chứng kiến lòng thành của con cháu, và từ đó sẽ phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh, làm ăn ổn định và sống hạnh phúc trong tình yêu thương giữa ông bà, cha mẹ, con cháu, vợ chồng. Đó là ý nghĩa tâm linh của Tết Nguyên đán.

Khi thắp nén hương, bày mâm cỗ cúng dâng tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán, người Việt mới thấy thỏa mãn và yên lòng trong cuộc sống tiếp theo khi bước vào năm mới.

Tết đến, người Việt chuẩn bị mọi điều kiện sống đầy đủ, có đạo đức, có truyền thống tốt. Chẳng hạn: ăn phải ngon, bổ dưỡng, khác hẳn ngày thường. Mặc phải đẹp, bất kể lứa tuổi nào, bất cứ giới nào: nam hay nữ, nông dân, thợ, kẻ sĩ hay chức sắc, lão bà hay lão ông.

Ai cũng thấy như phải gần gũi nhau hơn, nói những điều hay với ngôn ngữ chọn lọc. Chẳng hạn, Tết là phải chúc mừng nhau: sức khỏe, tuổi tác (trường thọ), chúc “làm ăn bằng năm, bằng mười năm ngoái”… Có phần ngoa ngôn, song vẫn êm tai và thực lòng. Cho nên, Tết đến, người ta vui vẻ, dịu hiền, là cơ hội để hòa giải những bất đồng, “giận đến chết đến Tết cũng thôi”.

Đó là giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ mà người Việt muốn đạt tới và thường đạt tới. Cho nên, những ngày trong dịp Tết Nguyên đán thực sự là những ngày vui vẻ, hạnh phúc cho tất cả mọi người.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguồn gốc và ý nghĩa nhân văn của Tết Nguyên Đán

Xác định đất có long mạch theo thấu địa long

Lai long là hướng long mạch đến. Muốn xác định được long mạch để chọn đất tốt, phải xác định được lai long chính xác. Dưới đây là 60 thấu địa long dùng xem lai
Xác định đất có long mạch theo thấu địa long

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

long nhập mạch. 


► Tham khảo thêm: Xem tuổi làm nhà hợp phong thủy và mệnh gia chủ

Xac dinh dat co long mach theo thau dia long hinh anh
 
24 sơn chia làm 12 phân vị, cứ hai cung liền nhau làm một phân vị, bắt đầu từ Nhâm, mỗi phân vị 30 độ chia ra 5 phần, mỗi phần 6 độ, như vậy mỗi phân vị 2 cung quản 5 long, 12 phân vị quản 60 long mạch
 
5 long tại phân vị Nhâm Tý: Giáp Tý, Bính tý, Mậu Tý, Canh Tý, Nhâm Tý.
 
5 long tại phân vị Quý Sửu: Ất Sửu, Đinh Sửu, Kỷ Sửu, Tân Sửu, Quý Sửu.
 
5 long tại phân vị Cấn Dần: Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, Nhâm Dần, Giáp Dần.
 
5 long tại phân vị Giáp Mão: Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão, Ất Mão.
 
Các phân vị còn lại của long mạch cũng bố trí như trên theo quy luật: số can sẽ thuận theo thứ tự Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý, hết một vòng lại quay lại. Chi thì theo chi tại cung vị đó. Như vậy Giáp Tý khởi đầu ở Nhâm Tý, đến Ất Sửu khởi đầu ở Quý Sửu, đến Bính Dần khởi đầu ở Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Ất Hợi. Đây là vòng Giáp Tý.
 
Đến Bính Tý khởi vòng 2 Nhâm Tý, đến Đinh Sửu khởi vòng 2 Quý Sửu, đến Mậu Dần khởi vòng 2 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Đinh Hợi. Đây là vòng Bính Tý.
 
Đến Mậu Tý khởi vòng 3 Nhâm Tý, đến Kỷ Sửu khởi vòng 3 Quý Sửu, đến Canh Dần khởi vòng 3 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Kỷ Hợi.Đây là vòng Mậu Tý. 
 
Đến Canh Tý khởi vòng 4 Nhâm Tý, đến Tân Sửu khởi vòng 4 Quý Sửu, đến Nhâm Dần khởi vòng 4 Cấn Dần,… đến Càn Hợi là Tân Hợi. Đây là vòng Canh Tý.
 
Đến Nhâm Tý khởi vòng cuối Nhâm Tý, đến Quý Sửu khởi vòng cuối Quý Sửu, đến Giáp Dần khởi vòng cuối Cấn Dần… đến Càn Hợi là Quý Hợi. Đây là vòng Nhâm Tý.
 
Vòng Giáp Tý là Cô bại khí
 
Vòng Nhâm Tý là Hư bại khí
 
Vòng Mậu Tý là Sát diệu Không vong tuyệt khí
 
Vòng Bính Tý là Vượng khí
 
Vòng Canh Tý là Tướng khí
 
Phân kim chỉ nên chọn Vượng và Tướng. Tránh Cô và Hư vì dù là huyệt tốt lâu ngày sẽ tuyệt tự. Tránh Sát diệu Không vong vì sát khí mạnh. 
 
Như vậy, cũng như 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa thực chất chỉ có 24 long của vòng Bính Tý và Canh Tý là tốt mà thôi, 36 long còn lại là bại tuyệt cả.
 
Dựa vào lai long như trên có thể chọn cuộc đất tốt, phát long mạch thì vượng khí ngôi nhà hoặc huyệt mộ sẽ phát. Lai long khó xem như long mạch, nên tốt nhất là dựa vào các kiến thức cơ bản trên, rồi mời thầy đến xem cho chuẩn xác.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xác định đất có long mạch theo thấu địa long

Nhà chung cư phạm sát khí 'thanh đao trời giáng'

Khoảng hẹp giữa hai tòa chung cư sẽ có các luồng gió hỗn loạn tạo thành sát khí.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có rất nhiều nguồn năng lượng tiêu cực đang được tạo ra bởi môi trường xung quanh. Trong xã hội hiện đại, khi các tòa chung cư ngày càng mọc lên như nấm thì rất dễ phạm phải 'Thiên trảm sát', có nghĩa là 'Thanh đao trời giáng'.

 nha chung cu pham sat khi 'thanh dao troi giang' - 1

Những ảnh hưởng của 'Thiên trảm sát' là gì?

Nhà bị “Thiên trảm sát” sẽ khiến cho dòng dương khí bay đến ngôi nhà nhiều hơn. Tại khe hở của hai tòa nhà sự lưu thông của không khí rất mạnh, tạo ra nhiều dòng sát khí và dương khí bay đến ngôi nhà. Điều này sẽ gây ra tác động tiêu cực lớn cho bất kỳ doanh nghiệp hoặc cư dân quanh tòa nhà. Người sống trong ngôi nhà mà bị “Thiên trảm sát” sẽ hay nóng tính, hay căng thẳng, hay bị bệnh huyết quang, suy nhược tinh thần, lâu sẽ bị bệnh, thương tật. Trong công việc hay làm ăn thường làm đến nơi lại bị hỏng, làm được bao nhiêu thì tiền tài lại đi hết bấy nhiều. 

Trường hợp thực tế của 'Thiên trảm sát'

Ai cũng biết sự kiện ngày 11/9 của Mỹ khi hai tòa tháp đôi đã bị khủng bố đánh bom sập trong một khoảng khác. Một số chuyên gia kết luận hai tòa nhà không chỉ sập do chấn động mà còn vì lượng xăng cháy quá lớn gây ra nhiệt độ cao khiến vật liệu thép của tòa nhà dễ dàng tan chảy. 

 nha chung cu pham sat khi 'thanh dao troi giang' - 2

Theo quan điểm của các nhà phong thủy, công trình đã phạm phải 'Thiên trảm sát' và cấu trúc này biểu trưng của sự nguy hiểm. Nó vi phạm sự cân bằng và hài hòa âm dương. Nếu một cấu trúc có quá nhiều nguồn năng lượng xấu xung quanh, nó sẽ bị hủy diệt hàng loạt.

Làm thế nào để hóa giải?

Nếu căn hộ của gia đình nằm ở một trong hai tòa nhà hoặc đối diện với khe hẹp giữa hai tòa nhà, hoặc nằm trong khe hẹp, bạn có thể đặt một tấm gương bát quái ở trước cửa ra vào. Bạn cũng có thể đặt một con ngựa bằng đồng, hoặc đồng tiền xu cổ ở vị trí cửa vào nhằm ngăn chặn các luồng gió hỗn loạn tạo ra sát khí.

 nha chung cu pham sat khi 'thanh dao troi giang' - 3
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà chung cư phạm sát khí 'thanh đao trời giáng'

8 lưu ý 'tuyệt đối không' với cửa chính

Không để cửa chính bị vỡ/nứt, không treo gương đối diện với cửa chính... là những lưu ý phải nhớ khi phong thủy cửa chính.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa chính (hay cửa ra vào) của ngôi nhà có phong thủy tốt hoặc xấu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vận may, tài lộc và mối quan hệ của cả gia đình. Vì thế, bạn phải tập trung nâng cao phong thủy cửa chính.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 1

Nhà đẹp xin chỉ ra một số nguyên tắc phong thủy cửa chính bạn cần phải ghi nhớ như sau:

1. Cửa chính không được nằm xiên/nghiêng

Theo phong thủy, cửa chính không nằm thẳng mà mở theo hướng xiên hoặc nghiêng đồng nghĩa với những điều xui xẻ, đại diện cho cái ác. Do đó, tuyệt đối không thiết kế cửa chính theo chiều xiên/nghiêng dù có bất kỳ lý do nào.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 2

2. Tránh sự lộn xộn xung quanh cửa chính

Không lưu trữ hoặc chồng chất chổi quét nhà, cây lau nhà hoặc những đồ vật không mong muốn khác xung quanh cửa chính. Chúng sẽ ngăn chặn và xua đổi vận may và nguồn tài lộc tốt đẹp đi vào ngôi nhà.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 3

3. Cửa chính phải luôn có tình trạng tốt nhất

Tránh để cửa chính bị bẩn, bị phá vỡ hoặc bị nứt. Bởi vì, tất cả những điều này tượng trưng cho sự nghèo nàn, thiếu thốn và bần cùng. Ngoài ra, nó cũng cho thấy chủ nhân ngôi nhà là người lười biếng, không thích chủ động. Chắc chắn Thần Tài sẽ không bao giờ gõ cửa ngôi nhà của bạn nếu không khắc phục tình trạng này ngay lập tức.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 4

4. Tránh treo gương soi đối diện cửa chính

Nếu bạn treo gương soi ở vị trí đối diện với cửa chính, tất cả ánh sáng sẽ bị phản chiếu. Năng lượng tiêu cực có thể bị dội lại và không ngoại trừ khả năng chính năng lượng tiêu cực cũng sẽ bị đẩy ra khỏi nhà. Nếu cửa chính của bạn không thể tích lũy "khí", bạn sẽ không thể có được sự giàu có cũng như những mối quan hệ tốt đẹp.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 5

5. Tránh bố trí cửa chính đối diện cửa toilet

Thử tưởng tượng rằng bạn là Thần Tài, nếu thứ đầu tiên bạn nhìn thấy là toilet, liệu bạn có muốn ở lại hoặc thậm chí là bước vào nhà hay không? Dĩ nhiên là không, bạn chắc hẳn sẽ quay lưng và rời đi. Đối với trường hợp này, nó sẽ gây ra sự mất mát của cải hoặc bạn không thể tích lũy được tài sản.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 6

6. Tránh đặt bếp nấu đối diện cửa chính

Bếp nấu nên được đặt ở vị trí thoáng mát, tránh xa cửa chính vì đây là nơi để chuẩn bị thức ăn và cung cấp chất dinh dưỡng cho những bữa ăn hàng ngày của gia đình. Nếu đặt bếp nấu đối diện cửa chính, nó có xu hướng khiến bạn và người thân cảm thấy áp lực, căng thẳng vì phải nấu nướng, làm việc nhà.

Thêm vào đó, bếp nấu còn mang ý nghĩa "bát cơm" của chủ nhà. Nếu để tình trạng này tiếp diễn, nó tượng trưng rằng bạn phải vật lộn kiếm sống vất vả mà không thể tích lũy tiền bạc, của cải dù chỉ là chút ít.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 7

7. Tránh bố trí tủ lạnh đối diện cửa chính hoặc cửa sau

Trong bối cảnh hiện đại, tủ lạnh giống như "kho lương thực" ở thời cổ đại. Thực phẩm luôn luôn đại diện cho sự giàu có, vì vậy, tủ lạnh chính là nơi lưu trữ của cải của gia chủ.

Khi tủ lạnh nằm ở vị trí có thể được nhìn thấy rõ ràng từ cửa chính, nó là dấu hiệu cảnh báo rằng của cải của bạn đang bị lộ ra và có thể dẫn tới tình trạng vay mượn tiền từ bạn bè, người thân, người quen...

Nếu tủ lạnh đối diện với cửa sau, nó gây ra tình trạng trộm cắp, nợ nần không trả được và cuối cùng là... tay trắng!

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 8

8. Giữ nội - ngoại thất của cửa chính gọn gàng, sạch sẽ

Thần Tài thích ghé thăm và ở lại ngôi nhà sạch sẽ, tươi sáng và thơm mát. Vì thế, duy trì sự tổ chức, vệ sinh cho cửa chính là cách tuyệt vời để "mời gọi" Thần Tài.

 8 luu y 'tuyet doi khong' voi cua chinh - 9


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 lưu ý 'tuyệt đối không' với cửa chính

Chỉ mặt 3 chòm sao nam vô tình, tình cũ chưa tan tình mới đã đến

3 chòm sao nam vô tình dưới đây chưa dứt tình cũ đã vương tình mới, thay người yêu như thay áo, khiến người khác phản cảm. Nên tránh xa những chòm sao này.
Chỉ mặt 3 chòm sao nam vô tình, tình cũ chưa tan tình mới đã đến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chuyện tình cảm đến rồi đi, hợp rồi tan là điều không ai có thể nói trước được. Chia tay rồi, một khoảng thời gian sau mới có thể nguôi ngoai, khép lại quá khứ. Nhưng 3 chòm sao nam vô tình dưới đây thì lại khác, chưa dứt tình cũ đã vương tình mới, thay người yêu như thay áo, khiến người khác phản cảm.


► Cùng bói tình yêu theo cung hoàng đạo để biết hai bạn có hợp nhau không

Chi mat 3 chom sao nam vo tinh, tinh cu chua tan tinh moi da den hinh anh 2
 

Nhân Mã

  Chòm sao nam đào hoa nhất nhì vòng tròn hoàng đạo này có thái độ tùy ý với ái tình. Họ cảm thấy bắt đầu một đoạn tình cảm đều là người tình ta nguyện, cả hai cùng trưởng thành rồi nên không ai cần chịu trách nhiệm với ai cả. Chuyện tình cảm với Nhân Mã nam tựa như một trò chơi, màn này kết thúc thì tiếp màn khác, kiên trì theo nguyên tắc “ai đến cũng không cự tuyệt, người đi thì không đuổi theo”. Tự do tự tại, thích gì làm nấy, không biết chòm sao nam vô tình này đã làm tổn thương bao nhiêu người.  

Xử Nữ

  Đa sầu đa cảm, Xử Nữ nam ở thời điểm chia tay ly biệt sẽ rất thương tâm, rất đau khổ. Nhưng với con người ưa thích sự hoàn hảo, Xử Nữkhông cho phép bản thân mê muội quá lâu, họ tự nhắc nhở chính mình phải tỉnh lại, dù có thất tình cũng không đến nỗi cả thế giới sụp đổ. Chính vì vậy mà chỉ sau một thời gian ngắn, chàng trai Xử Nữ sẽ dùng tư tưởng khích lệ nhất, lạc quan nhất để động viên mình, vì quên chuyện cũ mà ngay lập tức tìm tình mới lấp đầy khoảng trống. Thế nên nhiều người cho rằng, Xử Nữ là chòm sao nam vô tình, người cũ chưa nguôi người mới đã tới.
Chi mat 3 chom sao nam vo tinh, tinh cu chua tan tinh moi da den hinh anh 2
 

Ma Kết

  Chòm sao nam vô tình quả xứng với Ma Kết vì họ quá lý trí, quá kiên định, quá lạnh lùng, quá thực tế. Khi chuyện tình cảm phát sinh vấn đề, Ma Kết lập tức đã có tính toán cho bản thân, cố ý kéo dài, dùng dằng một thời gian để trong lòng âm thầm chuẩn bị tinh thần chia tay thật tốt. Đến khi thực sự đường ai nấy đi thì Ma Kết đã chữa lành tổn thương, không còn cảm giác lưu luyến gì nữa rồi. Thậm chí, có thể trong lúc quên đi người cũ họ đã có mục tiêu mới nên vừa chính thức chia tay mối tình trước là có thể hoan hỉ tiến vào mối tình sau ngay lập tức.   3 cao thủ sát gái của vòng tròn hoàng đạo 4 chàng trai hoàng đạo dễ lòi đuôi ngoại tình 4 chòm sao nam yêu thì ngoan như cún, giận thì dữ như hổ Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ mặt 3 chòm sao nam vô tình, tình cũ chưa tan tình mới đã đến

Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

Báo chí là phương tiện truyền tải tin tức, tin tức đăng tải luôn có nội dung thu hút người đọc, nếu mơ thấy tờ báo thì đó là hình ảnh tượng trưng cho sự đánh giá của mọi người về bạn. Mơ thấy đang xem báo, nghĩa là bạn thường xuyên quan tâm đến những
Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy báo chí: Tượng trưng sự bình phẩm của mọi người về mình –

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Thân

ử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Thân thấy thích hợp làm trong ngành dịch vụ, đòi hỏi di chuyển nhiều. Đường tình duyên của mủ chủ thuận lợi, gặp nhiều may
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Thân thấy thích hợp làm trong ngành dịch vụ, đòi hỏi di chuyển nhiều. Đường tình duyên của mệnh chủ thuận lợi, gặp nhiều may mắn.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Than hinh anh
 
Ngày Nhâm Thân có Canh Kim tại bản khí, chịu ảnh hưởng của Kiêu Ấn. Đường đời mệnh chủ tất gặp Mùi Thổ, nên kết hợp với Đinh Tỵ.
  Người sinh ngày Nhâm Thân thật thà, nghiêm túc và khá thận trọng, vậy nên khi gặp nhiều việc khó khăn họ sẽ tìm ý kiến của người khác trước. Thông thường họ không hay thể hiện tình cảm của bản thân, không giỏi biếu đạt, hay bao dung cho người khác, không nóng không vội.
Tiết Lập Hạ là gì?
Lập Hạ là một trong 24 tiết khí, là thời điểm đánh dấu sự chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ. Theo tín ngưỡng dân gian, rất nhiều các vấn đề liên quan đến

Trụ ngày Nhâm Thân có khả năng phán đoán, giỏi giang trong công việc. Họ có khả năng phát triển mạnh mẽ trong các công việc liên quan đến ngành dịch vụ phải di chuyển nhiều như du lịch, nếu công việc cố định khó thành công.
  Xem tử vi trọn đời người sinh ngày Nhâm Thân thấy đường tình duyên thuận lợi. Nam mệnh nhận được nhiều sự trợ giúp của vợ, nữ mệnh chắc chắn nhận được hạnh phúc cát tường, lấy được chồng chăm chỉ cần cù.
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Nham Than hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Nhâm Thân thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất, Ất Sửu, Ất Mão, Ất Tỵ, Ất Mùi, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất, Đinh Sửu, Đinh Tỵ, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Mậu Thân, Mậu Thìn, Mậu Tuất, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi, Canh Tý, Canh Dần, Canh Thân, Tân Hợi, Tân Dậu, Tân Mão, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Tý, Quý Mão, Quý Hợi
► Tra cứu tử vi năm 2016 của bạn theo Lịch vạn sự

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Nhâm Thân

Vợ chồng khắc tuổi nhau

Tìm hiểu về lá số tử vi có các sao xung khắc tuổi của 2 vợ chồng. Những bộ sao gây xung khắc tuổi của các cặp vợ chồng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vợ chồng khắc tuổi nhau

Vợ chồng khắc tuổi nhau

Sự khắc hợp giữa trai gái tính theo can:

a. Năm trường hợp tốt:

- Giáp hợp Kỷ - Đinh hợp Nhâm

- ất hợp Canh - Mậu hợp Quý

- Bính hợp Tân

b. Mười trường hợp xấu:

- Giáp phá Mậu - Kỷ phá Quý

- ất phá Kỷ - Canh phá Giáp

- Bính phá Canh - Tân phá ất

- Đinh phá Tân - Nhâm phá Bính

- Mậu phá Nhâm - Quý phá Đinh

2. Sự khắc hợp giữa trai gái tính theo chi:

a. Vấn đề hợp:

Tam hợp gồm:

- Dần, Ngọ, Tuất

- Thân, Tý, Thìn

- Tỵ, Dậu, Sửu

- Hợi, Mão, Mùi

Nhị hợp gồm:

- Tý hợp Sửu - Thìn hợp Dậu

- Dần hợp Hợi - Tỵ hợp Thân

- Mão hợp Tuất - Ngọ hợp Mùi

b. Vấn đề khắc:

- Tý khắc Ngọ - Tỵ khắc Hợi

- Mão khắc Dậu - Thìn khắc Tuất

- Dần khắc Thân - Sửu khắc Mùi

3. Việc lập gia đìnhqua các sao:

a. Những sao hỷ tín:

Thông thường, các sao hay bộ sao may mắn nói chung đều có nghĩa hỷ tín khi đi chung với sao tình duyên hay sao cưới hỏi, bao gồm: Thiên Hỷ-Hỷ Thần; Thanh Long-Lưu Hà; Thanh Long-Hóa Kỵ; Thiên Mã-Tràng Sinh; Thiên Mã-Điếu Khách-Thiên Khốc; Ân Quang-Thiên Quý; Thiên Quan-Thiên Phúc; Tả Phù-Hữu Bật; Tứ Đức nhất là Nguyệt Đức và Thiên Đức.

b. Những sao tình duyên:

Hầu hết bao gồm các sao tình dục nếu kết hợp với sao hỷ tín thì dễ quyết đoán có hôn nhân, đặc biệt nhất là những sao dưới đây: Đào Hoa-Hồng Loan; Thiên Riêu-Thai; Mộc Dục-Hoa Cái; Liêm Trinh-Tham Lang.

c. Những sao cưới hỏi: bao gồm: Long Trì-Phượng Các, Thanh Long

d. Những sao hao tài: Đại Hao, Tiểu Hao

e. Những sao làm cho nhanh hay chậm: thông thường là các sao hành Hỏa và Bắc Đẩu là hai loại sao hối thúc, khiến hôn nhân sớm thành. Còn Nam Đẩu vì ăn về sao cho nên có ý nghĩa chậm hơn. Đặc biệt là những sao Phi Liêm, Hỏa Tinh, Linh tinh có tác dụng hối thúc. Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Không chỉ sự bất thần, đột ngột. Thiên Khôi, Thiên Việt chỉ sự vừa ý. Các Nam Đẩu vì hiệu lực về sau cho nên báo hiệu hôn nhân vào nửa năm sau.

4. Những sao bất lợicho hôn nhân:

Cô Thần, Quả Tú hay Đẩu Quân: chỉ sự lẻ loi, xế bóng, cô đơn, kén chọn, có tác dụng ngăn trở việc lập gia đình. Càng hội tụ nhiều, sự ngăn trở càng mạnh, trừ phi gặp nhiều sao tình duyên bù chế.

Thái Tuế, Quan Phù, Quan Phủ: Thái Tuế đối nghĩa với Đào, Hồng vì vậy làm cản trở sự kết duyên. Quan Phù và Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự phụ rẫy trong tình yêu.

Phục Binh: chỉ sự cản trở, thường là bắt nguồn từ cha mẹ mỗi bên không tán thành duyên số cho đôi trẻ. Mặt khác, sao này còn chỉ sự phá hoại, rình rập, bắt ghen, bêu xấu.

Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: chỉ sự xui xẻo về mọi phương diện. Không Kiếp hãm làm cho việc cưới hỏi bất thành, trai gái phải đau khổ vì mối tình bất toại, đôi khi đưa đến hậu quả tai hại cho tính mạng.

Phá Quân hãm địa: không bao giờ có lợi cho hôn nhân và cho hạnh phúc lứa đôi. Hạn rơi vào, việc lập gia đình sẽ bị tan vỡ.

Tuần, Triệt: phá vỡ, làm chậm trễ, làm khó khăn cho hôn nhân. Nếu cả hai đồng cung ở hạn đó thì sự bế tắc quan trọng. Trong trường hợp đơn thủ mà gặp sao xấu tại cung hạn, sự khó khăn, trắc trở xảy ra trong buổi đầu: hôn nhân sẽ đến chậm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vợ chồng khắc tuổi nhau

Xem ngay tuổi gà hợp với tuổi gì để chọn bạn đời

Năm 2017 là năm Đinh Dậu, chính mệnh Thái Tuế. Nhân dịp này Lịch Ngày Tốt có bài viết trả lời câu hỏi tuổi gà hợp với tuổi gì để bạn đọc tham khảo.
Xem ngay tuổi gà hợp với tuổi gì để chọn bạn đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm 2017 là năm Đinh Dậu, chính mệnh Thái Tuế. Nhân dịp này Lịch Ngày Tốt có bài viết trả lời câu hỏi tuổi gà hợp với tuổi gì để bạn đọc tham khảo, chọn được bạn đời, bạn bè và cộng sự phù hợp với bản mệnh của mình.


Xem ngay tuoi ga hop voi tuoi gi de chon ban doi, doi tac lam an hinh anh
 
Tuổi Dậu là con giáp thứ 10 trong số 12 con giáp, có tính cách kiêu hãnh và chính trực. Người này thông minh, nhanh nhẹn, tình cảm phong phú lại có duyên với tiền bạc nên lúc nào cũng phong lưu, thoải mái, tạo cảm giác rất khoáng đạt, vui vẻ.   Tuổi gà hợp với tuổi gì? Theo tam hợp, tuổi Dậu hợp với tuổi Tị và tuổi Sửu. Người tuổi Dậu nên kết hôn với hai tuổi này, được coi là hợp về chi năm, vợ chồng thuận hòa, làm ăn tốt và có hậu về đường con cái. Tuổi Dậu đặc biệt hợp với tuổi Sửu cả về ngũ hành vì Sửu Thổ tương sinh Dậu Kim, tốt càng thêm tốt.   Nếu chọn bạn chơi cùng, cộng sự, đối tác, khách hàng cũng nên ưu tiên hai tuổi này. Làm việc cùng nhau không chỉ hợp ý mà còn sinh tài sinh lộc, dễ dàng thuận lợi hơn so với các tuổi khác.   Hai con giáp Tị và Sửu có thể giúp tuổi Dậu phát huy ưu điểm là tài quan sát sắc bén, lĩnh hội nhanh, biết chớp thời cơ. Đồng thời người tuổi Tị và tuổi Sửu khắc chế được tính mơ mộng hão huyền, làm việc không đến nơi đến chốn của tuổi con gà.
Xem ngay tuoi ga hop voi tuoi gi de chon ban doi, doi tac lam an hinh anh
 
Tuổi gà hợp với tuổi gì thì là tuổi Tị và tuổi Sửu còn ngược lại, Dậu khắc Tý, Ngọ, Mão, không nên kết hôn, làm ăn và kết bạn với những người có cầm tinh này. Mặc dù còn phải dựa vào nhiều yếu tố khác như ngũ hành, ngày tháng sinh mới xác định được mức độ khắc chế nhưng nhìn chung, có thể hạn chế thì nên tránh.   Những cầm tinh này thường khắc khẩu và khắc tài với tuổi Dậu, làm việc chung thì bất đồng quan điểm, thường xuyên vô cớ cãi cọ, không thu được tiền tài. Kết hôn cùng sẽ tạo nên sóng gió gia đình, ít khi cùng chung sống tới cuối đời. Làm bạn bè không thật lòng, ít nhiều liên lụy tới bản mệnh, vì họ mà tuổi Dậu phải gánh tiếng xấu.

Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Dậu Tử vi sức khỏe năm 2017 của người tuổi Dậu 12 con giáp kết hôn tuổi nào để trọn đời hạnh phúc?
 
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngay tuổi gà hợp với tuổi gì để chọn bạn đời

Đảnh lễ chúng Tăng

Kính lễ Pháp là những lời dạy vàng ngọc của Phật. Nhưng đảnh lễ Tăng một cách như nhiên thì không phải ai cũng làm được bởi nhiều lẽ khác nhau.
Đảnh lễ chúng Tăng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo.

Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật. Kính lễ Phật là đương nhiên vì Ngài là bậc Giác ngộ, phước trí vẹn toàn. Kính lễ Pháp là tất nhiên vì đó là những lời dạy vàng ngọc của Phật. Nhưng kính lễ Tăng một cách như nhiên thì không phải ai cũng làm được bởi nhiều lẽ khác nhau.

Vấn đề ở chỗ cần phân biệt giữa Tăng (Sangha, Tăng-già) và cá nhân một vị Tỳ-kheo. Tăng hay chúng Tăng là một đoàn thể gồm ít nhất bốn vị Tỳ-kheo trở lên, sống chung hòa hợp và thanh tịnh. Một hay hai hoặc ba vị Tỳ-kheo dù giới đức, phạm hạnh đến mấy thì không phải chúng Tăng. Đông nhiều các vị Tỳ-kheo mà không hòa hợp và thanh tịnh thì cũng không phải là chúng Tăng. Cho nên, chúng Tăng thì luôn luôn thanh tịnh, tốt đẹp nhưng vị Tỳ-kheo thì có thể thế này hay thế khác. Do vậy, khi đảnh lễ chúng ta luôn quán niệm là lễ lạy chúng Tăng, mà chúng Tăng thì luôn thanh tịnh trang nghiêm nên thành tựu vô lượng phước đức. Đức Thế Tôn đã dạy, “nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng” như sau:

“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn tu hành lễ chúng Tăng, nên suy nghĩ mười một pháp, sau mới lễ chúng Tăng. Thế nào là mười một? Chúng của Như Lai thành tựu Chánh pháp;

Thánh chúng của Như Lai trên dưới hòa hợp; Thánh chúng của Như Lai thành tựu các pháp;

  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu giới;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu chánh định;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu trí tuệ;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu tuệ giải thoát;
  • Thánh chúng của Như Lai thành tựu giải thoát tri kiến;
  • Thánh chúng của Như Lai hay hộ trì Tam bảo;
  • Thánh chúng của Như Lai hay hàng phục ngoại đạo dị học;
  • Thánh chúng của Như Lai là bạn tốt, ruộng phước cho tất cả chúng sanh.

– Thiện nam tử, thiện nữ nhơn muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này, được phước lâu dài vô lượng. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấy giờ các hàng Tỳ-kheo, Trời, Rồng, Quỷ thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Trời Ma-hưu-lặc và Người nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập III, phẩm Lễ Tam bảo, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.478)

Một người Phật tử bình thường, có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, Phật dạy “muốn lễ chúng Tăng, nên tư duy về mười một pháp này”. Trong trường hợp một số ít Phật tử, chưa có hoặc không có cảm tình tốt đẹp với các vị Tỳ-kheo, thiết nghĩ “nên tư duy về mười một pháp này” sâu sắc và bền bỉ hơn. Phật cũng không “bênh” các đệ tử xuất gia và cũng không “ép” các đệ tử tại gia của Ngài trong việc kính lễ này. Các pháp vốn như vậy! Chúng Tăng thì hòa hợp và thanh tịnh nên kính lễ Tăng-già thì phước đức vô lượng.

Thế nên, luôn tư duy và nuôi dưỡng ý niệm kính lễ Tăng bảo chứ không hẳn là lạy lục cá nhân một vị Tỳ-kheo. Nhờ quán niệm như vậy nên mình luôn kính lễ chúng Tăng một cách nhiệt thành mà lòng không một mảy may phân biệt, xét đoán. Và cho dù, trên con đường học đạo, chúng ta có nghe hoặc từng gặp một vài vị Tỳ-kheo chưa xứng danh, mình vẫn vẹn nguyên lòng tin tưởng và kính trọng với Tăng bảo.

Nhờ “tư duy về mười một pháp này” mà hàng Phật tử, cũng như Tăng Ni luôn tin tưởng vào chúng Tăng, một lòng hướng về Tăng-già để trọn đời quy mạng. Nhờ đó, công đức và phước báo của mình ngày một đong đầy. Đó là chánh tư duy.

Dẫu cho có những vị Tỳ-kheo danh chưa xứng với thực, dẫu cho có những người giả làm Tỳ-kheo để trà trộn vào Tăng đoàn với ý đồ riêng thì niềm tin thanh tịnh của chúng ta vào Tăng-già vẫn bất hoại, kiên cố như kim cương, không bao giờ thay đổi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đảnh lễ chúng Tăng

Tướng phụ nữ quý phái |

Người phụ nữ có tướng quý phái thường có 1 số nét đặc trưng sau đây: - Mục quang (ánh mắt) sáng sủa, có cái nhìn mạnh mẽ khiến người đối diện phải kính nể. - Vành tai đầy đặn và có màu hơi hồng, mặt trái của tai trắng hơn da mặt. - Mũi thẳng và phối
Tướng phụ nữ quý phái |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ quý phái |

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

SAO THIÊN TRÙ TRONG TỬ VI

thiên trù (Thổ) *** 1. Ý nghĩa tính tình: Thiên Trù chủ sự ăn uống, lộc ăn, khiếu ẩm thực: - thí...
SAO THIÊN TRÙ TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thiên trù (Thổ) 



***
1. Ý nghĩa tính tình: Thiên Trù chủ sự ăn uống, lộc ăn, khiếu ẩm thực:             - thích ăn nhậu, ham ăn             - ăn nhậu rất khỏe. Nếu đi với Lực Sĩ thì sức ăn càng khủng khiếp             - hảo ăn, thường cùng bạn bè đối ẩm             - thích ăn món ngon vật lạ, có gu về ăn nhậu sành điệu. Nếu đi với Hóa Lộc thì rất sành về ăn và nhậu. Được thêm Lực Sĩ thì là người vừa ăn khỏe, vừa tham ăn, vừa sành ăn, người sống để ăn. Đây có thể là những đầu bếp giỏi hay đầu bếp tài tử, tự mình làm lấy thức ăn cho vừa ý. Từ đó, có tính khó ăn, kén ăn. Đi với Văn Xương hay Hóa Khoa thì là tác giả các sách gia chánh dạy cách nấu ăn, chế rượu kiêm nhiệm kẻ sành ăn, háo ăn và ăn nhiều.

2. Ý nghĩa tài lộc: Tượng trưng cho lộc ăn, Thiên Trù có nghĩa gia tăng tài lộc nhưng nếu đi với Song Hao thì vì ăn mà hết tiền.

3. Ý nghĩa bệnh lý: Thật ra, Thiên Trù không có nghĩa bệnh lý, trái lại còn có nghĩa là có sức khỏe. Tuy nhiên, đi với một số sao khác, ý nghĩa bệnh lý rất dễ có, dù ở Mệnh hay ở Tật: Thiên Trù, Nhị Hao: bệnh về bộ máy tiêu hóa (đau gan, đau bao tử, trúng thực, thổ tả ...) do bội thực, bội ẩm mà ra. Thiên Trù, Không, Kiếp: bệnh nặng về bội thực, bội ẩm, có thể đi đến mổ xẻ, sưng gan, lở bao tử ...

4. Ý nghĩa của thiên trù và một số sao khác: Thiên Trù, Hóa Lộc hay Tấu Thư: người có vị giác, khứu giác rất linh mẫn, tinh vi
Thiên Trù, Hồng Loan: đầu bếp nổi tiếng nhờ tài nấu nướng hay người bào chế rượu ngon.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO THIÊN TRÙ TRONG TỬ VI

Nhìn tướng mặt để biết người yêu tương lai đến từ phương nào

Ai sở hữu tướng mặt mà có sống mũi cao và thẳng tắp thường gặp được nửa kia của mình ở hướng Nam. Còn nếu tướng mũi thấp, người yêu tương lai đến từ phương
Nhìn tướng mặt để biết người yêu tương lai đến từ phương nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Quan sát những nét tướng cách trên chính khuôn mặt mình, bạn cũng có thể đoán biết được người yêu tương lai sẽ đến từ phương nào.
 

 
Tướng mặt của những kiểu sếp “khó chiều” Tướng mặt đàn ông hết mực cưng chiều vợ sau hôn nhân Chỉ ra tướng mặt người nghèo khó và cách thoát nghèo

1. Tướng mũi

 

Đa phần những ai sở hữu tướng mặt mà có sống mũi cao và thẳng tắp thường gặp được người yêu tương lai của mình ở hướng Nam. Còn nếu tướng mũi thấp, người yêu tương lai đến từ phương Bắc.    Nếu có đầu mũi hơi vẹo sang phải, có thể gặp đối tượng ưng ý ở hướng Đông, nếu đầu mũi có phần nghiêng về bên trái, nhiều khả năng người yêu của bạn đến từ phương Tây.   
Nhin tuong mat de biet nguoi yeu tuong lai den tu phuong nao hinh anh 2
 

2. Tướng mắt

 

Người có tướng mắt to, tròn, dễ gặp được “chân mệnh thiên tử” ở hướng Nam. Còn những ai mắt nhỏ, có thể gặp được người yêu tương lai ưng ý ở hướng Bắc.   Nếu mắt bên phải to hơn mắt bên trái một chút, nhiều khả năng sẽ gặp được nửa kia ở phương Đông. Ngược lại, nếu kích cỡ mắt bên trái “nhỉnh” hơn bên phải một chút, người yêu của bạn có thể đến từ phương Tây. 

Tướng mặt quý cô vừa giàu có lại lấy được chồng tốt 3 giây để nhận ra tướng mặt người được phúc đức bao bọc suốt đời Muốn biết vận đào hoa vượng hay không hãy nhìn tướng mặt
 
Nhin tuong mat de biet nguoi yeu tuong lai den tu phuong nao hinh anh 2
 

3. Nhìn tướng mặt đoán biết tuổi kết hôn

  - Người trán cao, mũi thẳng thường kết hôn ở độ tuổi từ 30 đến 35. Khi ấy, người đã đã có sự nghiệp vững vàng trong tay, tình yêu bền vững nên hôn nhân khá viên mãn, hạnh phúc.   - Nhìn thấy phần Ấn Đường (nằm ở vị trí giữa hai đầu lông mày) bị khuyết hãm, nhiều sẹo, lông mọc chồng chéo, chủ nhân kết hôn khá muộn, có lẽ phải sau tuổi 40 thì hôn nhân với viên mãn.    - Những ai miệng rộng, xương gò má cao chỉ có thể ổn định gia thất khi đã bước sang tuổi 35. Trước đó, họ cũng trải qua không ít mối tình, nhưng đều không đi tới hôn nhân.   - Nếu đường Pháp lệnh trên khuôn mặt xuất hiện sớm, không phụ thuộc vào tuổi tác, chứng tỏ chủ nhân cũng kết hôn khá muộn, khoảng ngoài 30. Tuy nhiên, đây là thời điểm người này chín chắn cả về nhận thức và tình cảm, nên hôn nhân thuận lợi, đôi bên hòa hợp về cả tính cách cũng như tâm hồn và đường con cái.  
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Hoàng Lam   Tướng mặt những quý cô có thể “tùy biến” số phận của chính mình
– Sở hữu những nét tướng mặt dưới đây, quý cô luôn biết cách làm chủ số phận và có thể thay đổi nó theo ý muốn tùy thích của chính mình.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng mặt để biết người yêu tương lai đến từ phương nào

Viết cho con nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc

Mẹ thường ôm con và thủ thỉ rằng, mẹ lúc nào cũng vui lắm vì có con trên đời. Con thỏ thẻ: "Là do con được sinh đúng vào hôm nay, ngày Quốc tế Hạnh phúc hả mẹ?". Mẹ chỉ mỉm cười....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cái ngày con sinh ra, thế giới còn chưa công nhận đó là ngày Quốc tế Hạnh phúc đâu. Chỉ là, mẹ đặt tên con giống như ngày này, bởi mẹ đã ngập tràn hân hoan khi được đón tia nắng nhỏ của mẹ. Và cũng bởi vì, mẹ mong những niềm vui, những ngọt ngào sẽ vây lấy để vơi đi hết những thiệt thòi của con...

Mẹ nhớ, có lần một người bạn của mẹ đã khóc nấc và nói rằng, giống như có một con quỷ xấu xí và độc ác đã bám víu vào con - một nàng tiên xinh đẹp vậy. Đó là lý do vì sao trên làn da trắng mịn như sứ của con lại xuất hiện những vết bớt đen xấu xí, là đôi tay con co rúm khiến cử động rất khó khăn, là đôi chân bước đi một bước cũng thấy mệt nhọc, và cơ thể vô cùng yếu ớt. Dù khuôn mặt con thực sự xinh đẹp, nhưng vẫn chẳng ai muốn (dám) lại gần, còn lũ trẻ luôn gọi con là "quỷ nhỏ".

Mẹ cũng đã từng khóc, từng đau đến thắt tim vì thương con. Mẹ từng trở nên cộc cằn, đáng sợ với bọn trẻ để xua chúng tránh khỏi con càng xa càng tốt. Mẹ gồng mình để bảo vệ con khỏi bị tổn thương bởi con mắt người đời, và đôi khi, mẹ sợ hãi đến kiệt sức khi có ai đến gần con. Mẹ rất sợ họ sẽ làm con buồn, con khóc; mẹ chỉ muốn chúng ta có thể đi đến một nơi thật xa, nơi không có ai hết và sống thật vui vẻ bên nhau. Thế rồi...

Con càng lớn lên, mẹ dần nhận ra nỗi lo của mẹ hóa ra là... thừa! Những sợ hãi, thấp thỏm trong mẹ trước giờ chỉ khiến bản thân mẹ thấy mệt chứ chẳng có ý nghĩa gì với con hết. Thì, mẹ nhận ra rằng, thực sự mẹ đã sai rồi, chính những suy nghĩ trong mẹ mới "tật nguyền", chính mẹ cứ áp đặt một suy nghĩ độc ác rằng "con không bình thường như người khác" rồi cứ đi hờn trách người ta đã xa lánh, đã đối xử không công bằng với con. Trong khi, con của mẹ thực sự là cô bé hoàn hảo nhất.

Con lúc nào cũng hồn nhiên như một cái cây, dù có chỗ xù xì, có nơi xanh mướt nhưng luôn biết đung đưa trước gió và khiến cuộc đời mát lành. Mẹ nhận ra rằng cuộc sống đã chẳng bất công với con, vì đã trả lại cho con nụ cười, ánh mắt của thiên thần, và những gì thánh thiện nhất. Con chưa từng biết hờn giận, trách cứ ai. Ngày còn bé, con cứ ăn ngoan ngủ ngon, chẳng mấy khi khóc nhè. Lớn lên, con cười nhiều hơn, vui nhiều hơn, con dành cả nụ cười thân thiện cho bọn trẻ thường hay trêu chọc mình. Để dần dần, mọi người dành tình cảm cho con nhiều hơn, từ người lớn đến tụi trẻ nhỏ, ai cũng yêu mến và muốn ở cạnh con, nghe con nói thỏ thẻ và cười rạng rỡ. Và mẹ, mỗi khi thấy mệt mỏi, chỉ cần nhìn vào khuôn mặt ấy là mọi lo âu tan biến hết.

Phải rồi con nhỉ, mỗi chúng ta đều sinh ra với một hình hài, một tâm hồn khác nhau. Có người xinh đẹp, có người xấu xí, có người vui vẻ, kẻ cộc cằn,... Đó là cuộc sống nên chẳng có gì đáng phàn nàn hết. Miễn sao ta cứ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt vui tươi, luôn nở nụ cười với tất cả mọi người, chỉ cần thế thôi là đời đã đẹp hơn biết mấy. Và con, dù thế nào vẫn là một cô bé đáng yêu nhất, chỉ những kẻ khó ưa, luôn hằn học, chê bai, cáu bẳn và xấu tính, mới là những kẻ đáng ghét phải không con?

Thu Trang
(Theo Congluan.vn)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Viết cho con nhân ngày Quốc tế Hạnh phúc
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd