Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Sơn hướng trên la bàn thường ứng dụng ở bốn vùng nào? –

Sơn hướng trên la bàn thường được ứng dụng ở bốn vùng sau: Gia trạch, giường, bàn làm việc và bếp. Ngoài việc tìm ra toạ hướng của gia trạch để phán đoán đây có phải là căn nhà có phong thủy tốt hay không thì vị trí giường ngủ (tức là hướng đầu của b

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sơn hướng trên la bàn thường được ứng dụng ở bốn vùng sau: Gia trạch, giường, bàn làm việc và bếp.

2013813165649387

Ngoài việc tìm ra toạ hướng của gia trạch để phán đoán đây có phải là căn nhà có phong thủy tốt hay không thì vị trí giường ngủ (tức là hướng đầu của bạn khi nằm ngủ) cũng trực tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Bởi vì một phần ba thời gian của con người trong một ngày là để ngủ. Vị trí bàn làm việc cũng vô cùng quan trọng, vì đó là nguồn gốc thu nhập tài phú. Vị trí của bếp trong nhà bếp cũng quan trọng. Vì bếp đại diện cho người nữ chủ nhân, vị trí này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và địa vị của nữ chủ nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sơn hướng trên la bàn thường ứng dụng ở bốn vùng nào? –

Ăn uống có lợi cho sức khỏe –

Cây cối là một phương thức tuyệt vời mang lại năng lượng khỏe mạnh và sinh lực cho phòng bếp. Bậu cửa sổ có nhiều ánh nắng - đặc biệt là cửa sổ gần chậu rửa - là nơi lý tưởng để đặt một day chậu cây họ thào. Nếu phòng bếp không có đủ chỗ hoặc ánh sán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cây cối là một phương thức tuyệt vời mang lại năng lượng khỏe mạnh và sinh lực cho phòng bếp. Bậu cửa sổ có nhiều ánh nắng – đặc biệt là cửa sổ gần chậu rửa – là nơi lý tưởng để đặt một day chậu cây họ thào. Nếu phòng bếp không có đủ chỗ hoặc ánh sáng tự nhiên cho cây, hãy đặt các đồ vật giúp mang lại năng lượng đó ở mức tượng trưng, ví dụ:

1356014155-thuc-pham1

– Giấy dán tường, rèm cừa số, khăn lau bát hay găng tay có họa tiết về cây cối, rau quả.

– Tác phẩm nghệ thuật miêu tả thực vật hoặc trái cây

– Gạch gốm hoặc giá đỡ có họa tiết cây leo hay họa tiết hoa.

– Nam châm tủ lạnh có hình giống rau quả.

– Cây giả đặt bên cạnh chậu rửa hay trên tủ lạnh.

Khi từ cừa hàng về nhà và cất đồ vừa mua, hãy nghĩ đến sức khỏe và sinh lực mà những thức ăn này mang lại cho bạn và gia đình. Khi chuẩn bị bữa ăn, hãy dành một chút thời gian tập trung suy nghĩ về việc bạn thật may mắn có được món ăn này. Hãy hình dung phòng bếp luôn chất đầy quà tặng của thiên nhiên và thầm nói “Cảm ơn Người” vì món ăn giúp bạn và gia đình tồn tại. Giây phút nhận thức và biết ơn này sẽ giúp giữ khí của phòng bếp sung mãn.

Một cách dễ dàng để cải thiện khí của phòng bếp là đảm bảo rằng dụng cụ nấu ăn và bầy thức ăn phải hấp dẫn khiến mọi người thỏa mãn. Nếu nấu ăn bằng những chiếc nồi bạn không thích, ăn thức ăn đựng trong đĩa bạn không thích, hay dùng khăn giấy thay vì khăn ăn được cất tận trong phòng chứa đồ, mỗi việc có vẻ như không quan trọng này lại làm bạn giảm khá năng thườởng thức và thu lợi ích từ bữa ăn.

Hãy vứt bỏ những thứ bạn không bao giờ dùng đến, sừ dụng những thứ bạn thích và chất đầy phòng bếp những đồ trang trí yêu thích. Đây là phong thủy trong hành động, một cách tuyệt vời để biến đổi năng lượng của phòng bếp sao cho bạn có thể tiếp nhận sự hỗ trợ và thoải mái mà “trái tim của ngôi nhà” mang lại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ăn uống có lợi cho sức khỏe –

Trong lòng bàn tay có ngôi sao –

Thông thường, ngôi sao xuất hiện trên bàn tay sẽ cho thấy thành công và vận may xảy đến ở lĩnh vực tương ứng. Nếu xuất hiện ở cuối đường chỉ tay nào đó, dấu hiệu này cho thấy danh vọng, sự nổi tiếng và những thành tựu lớn lao. Ngôi sao cũng có thể ch
Trong lòng bàn tay có ngôi sao –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trong lòng bàn tay có ngôi sao –

Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 1)

Điểm vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn từ ngày 6 tháng 1 đến 21 tháng 1. Hãy theo dõi để biết mình gặp may rủi, hay dở thế nào trong thời gian này.
Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điểm vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn từ ngày 6 tháng 1 đến 21 tháng 1. Hãy theo dõi để biết mình gặp may rủi, hay dở thế nào trong khoảng thời gian này nhé.


Du bao van trinh cua 12 chom sao trong tiet Tieu Han phan 1 hinh anh 2
 

Bạch Dương

  Đây là thời kì cực kì bận rộn của Bạch Dương, không nên xem thường. Cấp trên phân công nhiều trách nhiệm và theo dõi biểu hiện của bạn, nếu làm việc đối phó sẽ ghi dấu ấn không tốt. Vấn đề tài chính gặp rắc rối, có cãi cọ, cần viện đến sự trợ giúp của bên thứ ba.   Vì quá bận nên Bạch Dương không có tâm tư dành cho chuyện tình cảm, đặc biệt là Bạch Dương nữ. Nếu đã có người yêu thì thời gian gọi điện, nói chuyện giảm sút nên tình cảm nhạt phai. Bạch Dương nam có nhân duyên chủ động tìm đến, tiếc là bạn không nắm được cơ hội.

Kim Ngưu

  Trong khi người khác bận tối mắt tối mũi thì Kim Ngưu lại nhàn nhã hơn vì cấp trên khoan dung, thả lỏng. Nếu thực sự không có tâm tư làm việc, hãy xin nghỉ phép về nhà nghỉ ngơi hoặc đi du lịch thư giãn.    Tâm thái ung dung rất tốt cho việc xúc tiến tình cảm. Cùng người đó đi du lịch sẽ giúp cả hai thấu hiểu và có thêm nhiều kỉ niệm ngọt ngào. Nếu yêu xa, hãy nhớ duy trì liên lạc thường xuyên, luôn tạo không khí vui vẻ để không thấy nặng nề.  

Song Tử

 

Vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn báo hiệu gia đình sẽ là quan tâm hàng đầu của Song Tử, Cần lưu ý tới sức khỏe của người lớn. Ngoài ra, gia đình bạn có điềm di chuyển chỗ ở, khá vất vả. Tài vận tốt, bỏ công không lo mất, sẽ đạt được nguyện vọng.   Song Tử có đôi có cặp dạo gần đây không hòa hợp với đối phương, cần quan tâm ân cần nhiều hơn. Người độc thân được người nhà sắp xếp, giới thiệu nhưng chưa gặp đối tượng ưng ý.
Du bao van trinh cua 12 chom sao trong tiet Tieu Han phan 1 hinh anh 2
 

Cự Giải

  Trong tiết Tiểu Hàn, Cự Giải cần chú ý chuyện tình cảm, hai bên dễ nảy sinh xung đột, tâm tình nặng nề, thiếu kiên nhẫn. Thêm những lời gièm pha, bàn tán bên ngoài càng khiến Cự Giải khó chịu, buồn phiền. Đây là áp lực lớn nhất dịp cuối năm mà bạn phải đối diện.   Song, Cự Giải vẫn có những cơ hội để cải thiện tình hình, tạo chỗ đứng vững chắc cho chính mình. Quan trọng nhất là phải tìm được đồng minh vững chắc, không nên đơn thương độc mã chiến đấu.  

Sư Tử

  Sư Tử bị áp lực công việc áp bức đến mức không thở nổi nhưng ngược lại đó cũng là động lực lớn để bạn tăng tốc cuối năm. Tài chính từ giữa tháng 1 sẽ có cải thiện tích cực nên không cần lo lắng. Chú ý sức khỏe, nhất là dạ dày và eo.   Sư Tử đang yêu hãy dịu dàng hơn với người thương, chia sẻ áp lực với người đó và tìm sự an ủi. Người vẫn độc thân thì tìm nguồn vui nơi bạn bè, tụ tập hàn huyên và giải tỏa bớt bộn bề cuộc sống.  

Xử Nữ

  Mặc dù còn chưa tới kì nghỉ lễ nhưng tâm tư của Xử Nữ đã không còn ở nơi làm việc nữa rồi. Hầu hết thời gian Xử Nữ dành cho vui chơi, du lịch, nghỉ ngơi. Cả năm cố gắng rồi, giờ là lúc ngồi thu thành quả thôi.   Tình cảm của Xử Nữ phát triển nhanh, thân mật và mang tới cảm giác thỏa mãn. Với người độc thân thì tinh thần cũng không phiền chán, ngược lại tự mình sắp xếp cuộc sống rất tốt, sôi động và hấp dẫn, thật dễ chịu
Thực phẩm dưỡng sinh cho 12 cung hoàng đạo trong tiết Tiểu Hàn Giới thiệu tiết Tiểu Hàn và cách dưỡng sinh đúng chuẩn
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dự báo vận trình của 12 chòm sao trong tiết Tiểu Hàn (phần 1)

Chỉ tay của bạn có phải là chỉ tay của người làm lãnh đạo ?

Khả năng lãnh đạo của con người là do trời sinh. Nếu thông qua việc xem bói chỉ tay, biết được bản thân mình có khả năng làm lãnh đạo, sau đó chịu khó rèn luyện tu dưỡng bản thân thỉ tương lai nhất định sẽ có cơ hội thể hiện năng lực. Hãy cùng xemboituong chiêm nghiệm …
Chỉ tay của bạn có phải là chỉ tay của người làm lãnh đạo ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

Khả năng lãnh đạo của con người là do trời sinh. Nếu thông qua việc xem bói chỉ tay, biết được bản thân mình có khả năng làm lãnh đạo, sau đó chịu khó rèn luyện tu dưỡng bản thân thỉ tương lai nhất định sẽ có cơ hội thể hiện năng lực. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu và chiêm nghiệm …

tuong-tay-lam-lanh-dao
Ngón tay cái to và thô

Trong thuật xem bói chỉ tay nói rằn những người có ngón tay cái to và thô là những người có ý chí kiên định, chưa đạt được mục đích thì quyết không buông tay. Tính tình cứng rắn, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm, thích hợp làm lãnh đạo.

Ngón tay trỏ dài và thẳng

Sách xưa chép rằng người có ngón tay trỏ dài và thẳnglà người  ghét, bị người khác ra lệnh, là người cứng rắn, tự tôn, mạnh mẽ, hy vọng nắm được quyền lãnh đạo trong tay.

Hai tay cứng rắn, nhiêu đường chỉ tay nhưng không loạn

Người có xương tay to, cứng rắn thì có tính nhẫn nại lớn, luôn luôn phấn ăấu hết sức, nỗ lực hết sức. Người có nhiều đường chỉ tay mặc dù có chút vấn đề thần kinh, nhưng nếu những đường chỉ tay này lại không phân loạn thì đây là người có khả năng giải quyết vấn đề rất tốt. Đặc biệt là đường Vận mệnh hoặc đường Công danh có nhiều đường chỉ cắt dọc từ trên xuống, báo hiệu là người tinh lực dồi dào, vận thế mạnh mẽ, thích hợp làm lãnh đạo.

Đường Tình cảm kéo dàí đến gò Mộc tỉnh

Ý thức cái tôi rất mạnh mẽ, luôn hy vọng nắm bắt được tất cả, có thể khống chế tình cảm rất tốt, do vậy người này rất thích hợp làm lãnh đạo.

Nguồn: xemboituong.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chỉ tay của bạn có phải là chỉ tay của người làm lãnh đạo ?

Sự tích Vu Lan báo hiếu vào ngày Rằm tháng 7

Sự tích Vu Lan báo hiếu của nhà Phật bắt đầu từ lòng hiếu thảo của ông Mục Kiền Liên. Một người hiếu đạo, trăm người học theo, thành một ngày lễ đầy nhân văn.
Sự tích Vu Lan báo hiếu vào ngày Rằm tháng 7

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sự tích Vu Lan báo hiếu của nhà Phật bắt đầu từ câu chuyện về lòng hiếu thảo của ông Mục Kiền Liên. Một người hiếu đạo, trăm người học theo, thành ra một ngày lễ mang đầy tinh thần nhân văn và tôn vinh vẻ đẹp đạo đức.


Su tich Vu Lan bao hieu vao ngay Ram thang 7 hinh anh 2
 
Rằm tháng 7 âm lịch thường được nhiều người nhắc tới với lễ cúng cô hồn, tháng quỷ lễ, tháng của những vong linh vất vưởng tìm về nơi trần thế. Nhưng cũng trong tháng 7 mưa ngâu, Phật giáo hướng tới ngày lễ Vu Lan – lễ của đạo hiếu.
 
Sự tích Vu Lan báo hiếu được ghi chép lại trong kinh sách nhà Phật, liên quan tới đệ tử Phật học Mục Kiền Liên. Ông là một người có kiến thức Phật học uyên thâm, được liệt vào hàng đệ tử đệ nhất của Phật. Trong những năm tháng tu tập, dồn hết tâm sức cho việc chuyên tu Phật giáo, Mục Kiền Liên không nghĩ tới việc gì khác.
 
Đến khi tu thành chính quả, được chứng A La Hán, ông nhớ tới mẹ già nơi quê nhà, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống trần gian và thấy mẹ mình đã khuất núi, nhưng không được siêu thoát mà bị đầy xuống ngục A Tì thành quỷ đói (ngạ quỷ).
 
Trông bóng hình mẹ đói khát, tiều tụy, phải chịu khổ sở, đọa đầy, Mục Kiền Liên bèn dùng phép thần đưa cơm dâng nước tới cho mẹ. Nhưng ngạ quỷ là kiếp bị đày, cơm nước dâng lên chưa qua miệng đều hóa thành lửa nóng, càng thêm đau đớn. 
 
Sự tích Vu Lan báo hiếu kể lại, vì thương mẹ, Mục Kiền Liên đành quay về cầu xin Đức Phật chỉ cách cho mẹ siêu thoát. Phật chỉ ra, lúc còn sống, mẹ của Mục Kiền Liên đã gây nhiều nghiệp ác nên giờ gặp quả báo, phải chịu kiếp ngạ quỷ. Mình Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ thì chưa đủ, cần phải có uy đức của chúng tăng muôn phương hợp lại mới cứu rỗi được.
 
Để giải thoát cho mẹ, Mục Kiền Liên đã đi khắp nơi mời chư tăng có phép thần thông về cầu nguyện công đức. Rằm tháng 7 lập đàn cầu khấn, nguyện vọng giải thoát vong linh, cùng nhau thành tâm cầu khấn, hóa độ. Nhờ vậy mà mẹ Mục Kiền Liên mới thoát khỏi kiếp ngạ quỷ.

Su tich Vu Lan bao hieu vao ngay Ram thang 7 hinh anh 2
 
Từ đó, nhà Phật lấy Rằm tháng 7 âm lịch là lễ Vu Lan báo hiếu, tưởng nhớ công đức của cha mẹ, nguyện lòng thành cầu nguyện cho cha mẹ bớt gánh nghiệp ác, tăng thêm nghiệp lành. Sau này, Hòa thượng Thích Nhất Hạnh đã khởi xướng lễ “bông hồng cài áo” trong ngày Vu Lan. Những ai còn mẹ xin cài bông hồng đỏ và hoa hồng trắng dành cho những người đã không còn mẹ trên đời. Lễ này được lan truyền rộng rãi và trở thành truyền thống tốt đẹp, mang tính nhân văn cao cả.
 
Sự tích Vu Lan báo hiếu xuất phát từ Phật giáo nhưng ngày nay, cả người theo Phật lẫn người không theo Phật đều hướng đến bởi ý nghĩa và giá trị mà nó mang lại. Chữ hiếu ở đời, chữ đạo ở người, mỗi năm một lần, cũng nhau nhắc nhở.
 
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

Lễ Vu Lan: Con cái báo hiếu cha mẹ thế nào cho đúng? Vu Lan báo hiếu, ngẫm về đạo làm con Chớ nhầm lẫn giữa lễ Vu Lan và lễ cúng Cô hồn
Thái Vân
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích Vu Lan báo hiếu vào ngày Rằm tháng 7

Doanh nghiệp tuổi Ngọ

Công ty Xerox thành lập năm 1906 (Bính Ngọ), là công ty sản xuất thiết bị sao chụp lớn nhất thế giới. Năm 1991, doanh thu của công ty này đạt 17 tỷ 923 triệu
Doanh nghiệp tuổi Ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Công ty Xerox thành lập năm 1906 (Bính Ngọ), là công ty sản xuất thiết bị sao chụp lớn nhất thế giới. Năm 1991, doanh thu của công ty này đạt 17 tỷ 923 triệu USD, lợi nhuận thu về 605 triệu USD. Năm 2004, doanh thu của Xerox đạt 15 tỷ 722 triệu USD, lãi ròng đạt 859 triệu USD.


Sản phẩm của Xerox

 

Exxon - công ty dầu mỏ Mỹ thành lập năm 1882 (Nhâm Ngọ) cũng là công ty có tầm cỡ hàng đầu thế giới. Trong kinh doanh, Exxon luôn ở thế phát triển mạnh. Năm 2004, doanh thu của Exxon đạt 298 tỷ 35 triệu USD, lợi nhuận thu về là 25 tỷ 330 triệu USD.

Matsushita Electric Works Ltd thành lập năm 1918 (Mậu Ngọ) là công ty lớn nhất trong lĩnh vực thiết bị điện tử ở Nhật Bản. Năm 1991, doanh thu của công ty này đạt con số khổng lồ là 47 tỷ 781 triệu USD, lãi ròng thu được 1 tỷ 875 triệu USD. Năm 2004, doanh thu của công ty này đạt 12 tỷ 964 triệu USD, lãi ròng thu được 302 triệu USD.

Theo Việt Báo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Doanh nghiệp tuổi Ngọ

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Sao Thai Phụ ở Mệnh là người có danh chức, học hành tốt, có sự đỗ đạt cao, thăng tiến về công danh, có bằng cấp, huy chương, bằng khen.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Ý nghĩa sao Thai Phụ

Hành: Kim

Loại: Quý Tinh

Đặc Tính: Bằng sắc, ấn tín, quý hiển

Tên gọi tắt thường gặp: Thai

Là một phụ Tinh. Thuộc sao bộ đôi Thai Phụ và Phong Cáo. Gọi tắt là bộ Thai Cáo.

 

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Mệnh:

Thai Phụ ở Mệnh là người có danh chức, học hành tốt, có sự đỗ đạt cao, thăng tiến về công danh, có bằng cấp, huy chương, bằng khen.

Lợi ích cho việc thi cử, cầu danh vì sao này chủ về bằng sắc, huy chương, công danh.

 

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Quan Lộc:

Phong Cáo, Thai Phụ đi chung mới đủ mạnh, và nhất định là đi cùng với cát tinh càng khác.

Phong Cáo, Thai Phụ, Xương Khúc, Khoa Quyền hay.

Phong Cáo, Thai Phụ, Âm Dương sáng sủa hoặc.

Phong Cáo Thai Phụ, Tướng Ấn: Rất quí hiển, được trọng dụng, có huy chương, tưởng lục.

Ý Nghĩa Thai Phụ Ở Cung Điền Trạch:

Phong Cáo, Ấn, Thai Phụ: Được ban cấp điền sản ăn lộc, hay khẩn hoang.

Thai Phụ Khi Vào Các Hạn:

Cũng có nghĩa như đắc tài, đắc danh, được tiếng khen, có huy chương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Thai Phụ

Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

Bạn biết gì về người sinh năm 1972? Sinh năm 1972 mệnh gì, vận mệnh cuộc đời ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sâu hơn nhé.
Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn biết gì về người sinh năm 1972? Sinh năm 1972 mệnh gì, vận mệnh cuộc đời ra sao? Hãy cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sâu hơn nhé.   Người tuổi Tý vốn được biết đến nhiều bởi sự lanh lợi hoạt bát, nhanh nhẹn giỏi giang. Vậy người sinh năm 1972 tức năm Nhâm Tý có tính cách, vận mệnh ra sao, bạn đã biết hay chưa? Cùng Lịch ngày tốt tìm hiểu sinh năm 1972 mệnh gì, có vận thế sự nghiệp, tài lộc như thế nào nhé.  

Sinh năm 1972 mệnh gì?

  Người sinh năm 1972, năm Nhâm Tý tuổi Tý, mệnh nạp âm là Tang Đồ Mộc.


sinh nam 1972 menh gi
 
  Người này có tài kinh doanh buôn bán, thích những thứ đẹp đẽ hoa lệ, song rất hay thay đổi, không kiên định. Tiền vận phải vất vả bon chen song khó giành được thành công, đặc biệt gặp nhiều thất bại nặng nề trong lĩnh vực đầu tư, thậm chí có thể lâm vào cảnh tán gia bại sản. Tới trung vận, thái độ sống dần chững chạc hơn, tích cực làm việc, lại được quý nhân giúp đỡ nên có cơ hội phát triển sự nghiệp, phát huy tài năng kinh doanh, nhanh chóng thành công, làm nên cơ nghiệp.   Người sinh năm 1972 mệnh Mộc là người ham học hỏi, có tinh thần độc lập, cũng rất thân thiện và bác ái. Họ trung thực, là người đáng tin cậy, trong công việc có nhiều ý tưởng, có tầm nhìn xa, đầu óc tư duy nhanh nhạy, giỏi quan sát và có tinh thần cải cách, thay đổi.  

Vận trình sự nghiệp của người sinh năm 1972

  Đây là người rất linh hoạt, có khả năng tùy cơ ứng biến nên có thể khắc phục nhiều khó khăn, trở ngại, dù có gặp nguy hiểm cũng không hề e sợ mà quyết tâm đến cùng, không bỏ cuộc. Họ bình tĩnh và tỉnh táo, có trực giác nhạy bén, có tầm nhìn xa cũng như sự tinh tế, mẫn cảm trong chuyện làm ăn. Khó khăn chỉ khiến cho tài năng của bạn càng thêm xuất chúng.

su nghiep nguoi sinh nam 1972
 
  Họ có trí nhớ rất tốt, thích tìm tòi học hỏi, khả năng phản biện cao. Trong công việc, họ là những con người hừng hực nhuệ khí, không ngừng tiến bộ mỗi ngày. Song họ lại khá ôm đồm, tham vọng làm được nhiều thứ nên khiến cho sức tập trung bị phân tán, phần nào ảnh hưởng đến công việc. Nên tập trung làm tốt từng việc ở từng thời điểm thì khả năng thành công sẽ cao hơn.   Tuy nhiên, có một điểm nổi bật ở người sinh năm Nhâm Tý, đó là sự cẩn trọng. Dù làm bất cứ chuyện gì họ cũng luôn xem xét kĩ càng, tính sẵn mọi khả năng có thể xảy ra cũng như tìm ngay đường lui cho mình từ lúc mọi chuyện còn chưa bắt đầu. Điều này có những khi rất tốt, giúp họ tránh khỏi những thất bại hay nguy hiểm cận kề, nhưng đôi khi nó lại là viên đá cản đường, khiến họ e sợ tương lai và không dám tiến bước.   Họ là mẫu người giỏi lên kế hoạch, thích hợp với những công việc đòi hỏi tính tỉ mỉ và cần tích lũy kinh nghiệm, ngoài việc kinh doanh thì họ có thể theo đuổi những nghề như kiến trúc sư, bác sĩ, biên kịch, nhà văn, nhà thơ, nhà thiết kế, nhiếp ảnh gia…

Mời bạn đọc thêm: Tuổi Tý nên kết hợp làm ăn với tuổi nào?
 

Tài vận của người sinh năm 1972

  Sinh năm 1972 mệnh gì? Người sinh năm Nhâm Tý 1972 mệnh Mộc có ý chí quyết tâm vô cùng to lớn, chỉ cần họ định sẵn một con số về tiền bạc để phấn đấu thì chắc chắn dù phải làm thế nào họ cũng sẽ cố gắng đến cùng, không bao giờ bỏ cuộc.

Có thể bạn quan tâm: Bài trí phong thủy văn phòng cho người tuổi Tý dễ phát tài.

tai van nguoi sinh nam 1972
 
  Nhìn chung thì đây là người cực kì chăm chỉ cần cù, nhờ thế mà cả đời họ hiếm khi phải chịu những nỗi phiền muộn lo lắng về tiền bạc. Tuy nhiên có một điểm này trở thành điểm yếu chí mạng của người sinh năm 1972, đó chính là sự mềm yếu. Tuy bình thường họ có thể quản lý tiền bạc rất cẩn thận nhưng vì dễ tin người, hay mủi lòng nên họ dễ bị người khác lừa gạt.    Họ không phải là người có khái niệm đúng đắn về tiền bạc, không có khả năng đầu tư sinh lời. Thời trẻ họ tiêu pha khá lãng phí, chỉ tới khi kết hôn lập gia đình thì mới dần nhận ra tầm quan trọng của tiền bạc.    Hy Vũ

Sinh năm Nhâm Tý, Giáp Tý, Bính Tý, Mậu Tý, Canh Tý thì mệnh gì? Xem hướng nhà theo tuổi: Người tuổi Tý nên và không nên làm nhà hướng nào? Xem bói tình duyên 12 con giáp: Tuổi Tý, tuổi Sửu

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh năm 1972 mệnh gì, cuộc đời như thế nào

14 ý tưởng với màu tím cho bàn tiệc

Thông thường, màu cam và xanh lá thường được sử dụng khi trang trí nhà trong ngày lễ Tạ ơn. Để thay đổi thói quen, hãy lựa chọn màu tím Hoàng gia cho bàn tiệc thêm lịch lãm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tím cũng là màu thịnh hành của mùa Thu/Đông 2013, là màu mang lại cảm giác trù phú và mê đắm.

Kết hợp hai màu tím & đỏ.
 

Đồ dùng phong cách và đơn giản.
 

Màu tím mang lại sự tinh tế cho bàn ăn.
 

Phong cách tương phản với sắc tím.
 

Khăn ăn gấp khéo tạo sự thanh lịch.
 

Lọ hoa màu tím là điểm nhấn cho bàn tiệc.
 

 Bàn tiệc đơn giản với đồ sứ trắng và khăn ăn tím.
 

Bàn ăn hiện đại với giấy dán tường màu tím.
 

Kết hợp màu xanh lá tự nhiên với màu tím.
 

Sắc tím trang nhã tô điểm cho bàn tiệc.
 

Khăn trải bàn kẻ sọc cho bàn tiệc thời trang.
 

Màu tím kết hợp với da cam nóng bỏng.
 

Bàn ăn ngoài trời mộc mạc với khăn tím.
 

Nến tím khiến bàn ăn thêm ấm áp.


Vòng hoa tím tô điểm cho không gian lãng mạn.

NT (Dịch)

_
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 14 ý tưởng với màu tím cho bàn tiệc

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Cách thiết kế phòng khách hợp phong thủy nhất –

Phong thủy phòng khách hài hòa sẽ đem lại nhiều may mắn cho các thành viên trong gia đình. Dưới đây chúng tôi tư vấn một số cách bài trí giúp phòng khách của bạn vừa đẹp vừa hợp phong thủy. 1. Vị trí Phòng khách nên được đặt ở nơi có ít nhất hai bức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy phòng khách hài hòa sẽ đem lại nhiều may mắn cho các thành viên trong gia đình. Dưới đây chúng tôi tư vấn một số cách bài trí giúp phòng khách của bạn vừa đẹp vừa hợp phong thủy.

thiet-ke-phong-khach

1. Vị trí

Phòng khách nên được đặt ở nơi có ít nhất hai bức tường bao quanh, tránh sử dụng căn phòng nằm sâu trong nhà. Một phòng khách hợp phong thủy sẽ giúp nguồn năng lượng sống, năng lượng tài năng đi vào nhà mà không bị ngăn trở hoặc dần tiêu tan vì phải đi qua các phòng khác trước khi đến nơi. Vị trí này còn đảm bảo các nguồn năng lượng trên luôn được tươi mới, mạnh mẽ, giúp cho phòng khách tràn đầy sinh khí.

2. Diện tích và nội thất

Trước khi xây nhà hoặc mua nhà mới, gia chủ nên chú ý đến diện tích của phòng khách. Một căn phòng rộng rãi, thoáng mát phù hợp làm nơi tụ họp cho gia đình và khách mời. Khi đó, các nguồn năng lượng bổ trợ sẽ có cơ hội đi vào phòng và lan tỏa ra không gian xung quanh.

Hãy bày trí đồ đạc tránh bị rối mắt, không kê quá nhiều đồ làm không gian căn phòng bị chật chội. Tránh kê đồ đạc vướng lối đi khiến nguồn năng lượng tốt bị trì trệ. Nên đặt bộ bàn ghế tựa lưng vào tường, không nên đặt ở giữa phòng để tránh những cảm giác thiếu an toàn ở khoảng trống sau lưng. Ngoài ra, bạn có thể lắp đặt một quả cầu pha lê trên trần nhà phòng khách để vô hiệu hóa những năng lượng tiêu cực.

Bạn nên chọn màu sắc đồ đạc trang nhã, hài hòa với sơn tường và thảm. Có thể đặt những bình hoa tươi hay phấn thơm để căn phòng thêm tươi sắc và thơm mát. Riêng với đồ điện tử như tivi, máy tính (chứa năng lượng dương tốt) thì hãy đặt chúng ở vị trí bạn muốn bổ trợ, như hướng bắc (hỗ trợ sự nghiệp), hướng nam (công danh và sự công nhận).

3. Bày trí nội thất theo la bàn phong thủy

Với hướng bắc (đại diện cho năng lượng thủy), gia chủ có thể treo tranh thác nước, suối nguồn hoặc hình ảnh con thuyền hướng về phía người xem. Bạn có thể đặt một bình thủy sinh hoặc chậu cá cảnh bên trong nuôi 8 chú cá vàng và một cá đen, đặt một hòn non bộ nhỏ có dòng nước chảy về hướng căn phòng. Sử dụng sắc lam và đen chủ đạo trong đồ đạc tại hướng này cũng là lựa chọn phù hợp.

Đối với hướng nam (năng lượng hỏa), bạn nên đặt những cây nến lớn, đẹp mắt; sử dụng đồ đạc bằng gỗ và có màu sắc như đỏ, hồng, da cảm và lục. Với hướng đông và đông nam (năng lượng mộc, thổ), gia chủ nên treo những bức tranh có khung gỗ, kê giá sách bằng gỗ, sử dụng màu lục và nâu là chính.

Ở hướng tây và tây bắc (năng lượng kim), gia chủ nên sử dụng tất cả đồ đạc bằng kim loại như khung tranh, đế nến và sử dụng các màu sắc chủ đạo như màu đồng, lam, vàng, xám. Đối với hướng đông bắc và tây nam (năng lượng thổ), gia chủ nên đặt những loại đá quý, khoáng sản, đồ gốm sứ hoặc thủy tinh, pha lê và sử dụng các tông màu như màu đất sét, nâu vàng, đỏ.

4. Sử dụng các biểu tượng bổ trợ sự thịnh vượng

Để gia tăng thịnh vượng, giàu có cho gia đình, trên bàn khách, gia chủ có thể đặt những vật như tiền xu mạ vàng hay thỏi vàng, đặt tượng Phật ở nơi trang trọng, tránh đặt dưới sàn nhà hoặc bên trái phòng. Ở phía đông của phòng nên đặt đồng xu cùng một dải ruy băng màu đỏ hoặc bức tượng một con rùa đầu rồng ngậm tiền xu, hướng nhìn vào phòng ở phía đông nam.

Ngoài ra, có thể treo bức tranh hình con rồng ở phía đông hay đặt một tượng voi cũng sẽ mang đến may mắn và tài lộc cho gia đình. Ở hai bên cửa ra vào phòng khách, hãy đặt hai bức tượng khuyển canh giữ nhà.

5. Thiết kế ánh sáng phù hợp

Hệ thống đèn điện, ánh sáng tự nhiên và cách sử dụng ánh sáng đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn năng lượng tốt cho phòng khách. Gia chủ nên bố trí phong phú các nguồn sáng như đèn bàn, đèn trần, đèn ốp tường và cửa sổ hợp lý để hứng ánh sáng và không khí tự nhiên. Cần lưu ý, tránh thiết kế hai hay nhiều cửa sổ trong phòng khách cùng một lúc để các nguồn năng lượng không bị tiêu hao hoặc gây nên tình trạng quá nhiều nguồn năng lượng ồ ạt, xung khắc nhau.

Nguyên tắc phòng khách hợp phong thủy quan trọng là hướng, cách bày trí đồ nội thất hợp lý và trên hết là tạo tâm lý thoải mái cho đại gia đình. Chỉ như vậy, không gian trong phòng khách mới thực sự là nơi gặp gỡ vui vẻ và đầy ắp tiếng cười của gia đình, bạn bè và người thân.ột vị trí rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự giàu có cũng như hạnh phúc của gia đình.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách thiết kế phòng khách hợp phong thủy nhất –

Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin

Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin. Hãy tin tưởng mọi người, tin tưởng vào chính bản thân mình. Có niềm tin,mọi khó khăn đều không gây trở ngại cho bạn
Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin. Hãy tin tưởng mọi người, tin tưởng vào chính bản thân mình. Một khi bạn có niềm tin thì bất cứ khó khăn gì cũng có thể vượt qua. Sau đây là những danh ngôn hay nhất về lòng tin, niềm tin của con người.

Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin

Lạc quan là niềm tin dẫn tới thành tựu. Bạn chẳng thể làm được điều gì mà thiếu đi hy vọng và sự tự tin.
Optimism is the faith that leads to achievement. Nothing can be done without hope and confidence.
Helen Keller

——–

Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn. Đừng đánh mất niềm tin.
Sometimes life is going to hit you in the head with a brick. Don’t lose faith.
Steve Jobs

———

Chúng ta bảo tình yêu là sự sống; nhưng tình yêu không có hy vọng và niềm tin là cái chết đau đớn.
Love, we say, is life; but love without hope and faith is agonizing death.
Elbert Hubbard

———-

Tất cả chúng ta đều có cuộc đời riêng để theo đuổi, giấc mơ riêng để dệt nên, và tất cả chúng ta đều có sức mạnh để biến mơ ước trở thành hiện thực, miễn là chúng ta giữ vững niềm tin.
We all have our own life to pursue, our own kind of dream to be weaving, and we all have the power to make wishes come true, as long as we keep believing.
Louisa May Alcott

Vượt lên phía trước là một công việc đòi hỏi lòng tin tưởng khát khao vào bản thân. Đó là vì sao vài người với tài năng tầm thường nhưng có chí tiến thủ lớn lao lại đi xa hơn nhiều những người với tài năng vượt trội hơn hẳn.
Getting ahead in a difficult profession requires avid faith in yourself. That is why some people with mediocre talent, but with great inner drive, go so much further than people with vastly superior talent.
Sophia Loren

Bạn không thể kết nối các điểm trong đời bạn khi nhìn về phía trước; bạn chỉ có thể kết nối chúng khi nhìn lại phía sau. Vì vậy bạn phải tin tưởng rằng các điểm đó rồi sẽ kết nối trong tương lai. Bạn phải tin vào cái gì đó – lòng can đảm, vận mệnh, cuộc đời, nghiệp chướng, bất cứ điều gì. Cách tiếp cận này chưa bao giờ khiến tôi thất vọng, nó đã tạo nên tất cả sự khác biệt trong cuộc đời tôi.
You can’t connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something — your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life.
Steve Jobs

Lạc quan là hạt giống gieo trồng trên mảnh đất của niềm tin; bi quan là hạt giống cất giữ dưới căn hầm ngờ vực.
Optimism is a seed sown in the soil of faith; pessimism is a seed hoarded in the vault of doubt.
William Arthur Ward

Hãy tin rằng đời đáng sống, và niềm tin của bạn sẽ giúp thiết lập sự thực đó.
Believe that life is worth living and your belief will help create the fact.
William James

Để làm được những điều lớn lao, chúng ta không những phải hành động mà còn phải mơ mộng, không những phải lên kế hoạch mà còn phải có niềm tin.
To accomplish great things, we must not only act, but also dream; not only plan, but also believe.
Anatole France

Để làm được những điều to tát, đầu tiên bạn phải tin vào nó.
To achieve great things you have first to believe it.
Arsene Wenger

Thế giới tưởng chừng như thật điên rồ mà chúng ta đang chứng kiến là kết quả của một hệ niềm tin không hoạt động. Để nhìn thế giới khác đi, chúng ta phải sẵn lòng thay đổi hệ niềm tin của mình, để quá khứ trôi qua, mở rộng nhận thức về hiện tại và làm tan chảy nỗi sợ hãi trong tâm tưởng.
The world we see that seems so insane is the result of a belief system that is not working. To perceive the world differently, we must be willing to change our belief system, let the past slip away, expand our sense of now, and dissolve the fear in our minds.
William James

Niềm tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin tưởng.
A faith is a necessity to a man. Woe to him who believes in nothing.
Victor Hugo

Niềm tin là sức mạnh có thể khiến thế giới tan vỡ xuất hiện trong ánh sáng.
Faith is the strength by which a shattered world shall emerge into the light.
Helen Keller

Tôi tin vào mọi thứ cho tới khi nó bị bác bỏ. Vì vậy tôi tin vào tiên, thần thoại, rồng. Tất cả đều tồn tại, thậm chí dù nó chỉ ở trong tâm trí bạn. Ai dám nói rằng giấc mơ và ác mộng không thực như điều ở đây lúc này?
I believe in everything until it’s disproved. So I believe in fairies, the myths, dragons. It all exists, even if it’s in your mind. Who’s to say that dreams and nightmares aren’t as real as the here and now?
John Lennon

Hãy sống theo niềm tin cùa mình, và bạn có thể xoay chuyển cả thế giới.
Live your beliefs and you can turn the world around.
Henry David Thoreau

Niềm tin… phải được gia cố bằng lý lẽ… khi niềm tin mù, nó sẽ chết đi.
Faith… must be enforced by reason… when faith becomes blind it dies.
Mahatma Gandhi

Luôn luôn, ở bất cứ đâu, và đối với bất cứ ai, thật sai lầm khi tin vào bất cứ thứ gì khi không đủ bằng chứng.
It is wrong always, everywhere, and for everyone, to believe anything upon insufficient evidence.
William James

Tin tưởng là biết ngoài kia là đại dương bởi mình nhìn thấy suối.
Faith is knowing there is an ocean because you have seen a brook.
William Arthur Ward

Hãy theo đuổi con đường mà bạn có thể đi với tình yêu và lòng tôn kính, dù nó có hẹp và quanh co đến mức nào.
Pursue some path, however narrow and crooked, in which you can walk with love and reverence.
Henry David Thoreau

Xã hội tồn tại nhờ niềm tin, và phát triển nhờ khoa học.
Society lives by faith, and develops by science.
Henri Frederic Amiel

Hạt giống niềm tin nhỏ bé nhất cũng tốt hơn nhiều trái hạnh phúc to lớn nhất.
The smallest seed of faith is better than the largest fruit of happiness.
Henry David Thoreau

Người có lòng tin thì mạnh mẽ; người lắm nghi ngờ thì yếu ớt. Niềm tin mãnh liệt vượt lên trên những hành động to tát.
He who believes is strong; he who doubts is weak. Strong convictions precede great actions.
Louisa May Alcott

Một lượng nhỏ những tinh thần quyết tâm được nung nấu bởi niềm tin son sắt vào sứ mệnh của mình có thể làm thay đổi dòng lịch sử.
A small body of determined spirits fired by an unquenchable faith in their mission can alter the course of history.
Mahatma Gandhi

Ai cũng phải tự mình làm lấy hai điều; niềm tin của chính mình và cái chết của chính mình.
Every man must do two things alone; he must do his own believing and his own dying.
Martin Luther

Đôi khi bạn phải tin vào niềm tin của người khác cho tới khi tìm được niềm tin của riêng mình.
Sometimes you’ve got to believe in someone else’s belief in you until your belief kicks in.
Les Brown

Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức.
Man must cease attributing his problems to his environment, and learn again to exercise his will – his personal responsibility in the realm of faith and morals.
Albert Schweitzer

Đừng đặt tất cả niềm tin vào một ai đó. Hãy giữ lại một chút cho riêng mình. Để ngay cả khi mất niềm tin vào người mình yêu thương nhất, ta vẫn còn bản thân mình để tin.
Đoạn Đường Ký Ức – Gỗ & Born

Người ta sống nhờ tin vào điều gì đó: không phải nhờ bàn luận và tranh cãi về quá nhiều thứ.
A man lives by believing something: not by debating and arguing about many things.
Thomas Carlyle

Cuồng tín là sự bồi thường quá đà cho ngờ vực.
Fanaticism is overcompensation for doubt.
Robertson Davies

Niềm tin thấy đóa hoa yêu kiều trong một cái nụ, khu vườn xinh đẹp trong một hạt giống, và cây sồi lớn trong một quả sồi.
Faith sees a beautiful blossom in a bulb, a lovely garden in a seed, and a giant oak in an acorn.
William Arthur Ward

Ai không sống theo đức tin của mình cũng sẽ không tin tưởng.
He does not believe who does not live according to his belief.
Thomas Fuller

Niềm tin sẽ chiến thắng nỗi sợ hãi, thất bại không có nghĩa là thua cuộc, và thời gian sẽ chữa lành mọi nỗi đau.
Khuyết danh

Sự trung thành với chính mình cần thiết cho hạnh phúc của mỗi người. Thiếu trung thành không nằm ở việc tin hay không tin mà nằm ở việc tự cho là mình tin điều mình không tin..
It is necessary to the happiness of man that he be mentally faithful to himself. Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.
Thomas Paine

Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa.
Khuyết danh

Nếu không có niềm tin thì sẽ không bao giờ là mãi mãi.
Và nếu không có lòng chân thành thì mọi thứ cũng bằng không.
Khuyết danh

Niềm tin tạo ra hiện thực.
Belief creates the actual fact.
William James

Niềm tin của bạn cho biết bạn là ai.
You are what you are by what you believe.
Oprah Winfrey

Đây là nơi bạn sẽ thắng cuộc chiến – trong tâm hồn của chính mình.
This is where you will win the battle – in the playhouse of your mind.
Maxwell Maltz

Con người được tạo nên bởi niềm tin của bản thân. Anh tin mình như thế nào, anh như thế đó.
Man is made by his belief. As he believes, so he is.
Johann Wolfgang von Goethe

Khi người ta trẻ, người ta còn dư dả những niềm tin trong lành nhất để trao đi và nhận lại yêu thương.
Ngày trôi về phía cũ. – Anh Khang

Điều ta có thể hay không thể thực hiện, điều ta coi là khả thi hay bất khả thi, hiếm khi là biểu hiện của khả năng thực sự ta có. Đúng hơn, nó là biểu hiện của niềm tin của ta về con người bản thân ta.
What we can or cannot do, what we consider possible or impossible, is rarely a function of our true capability. It is more likely a function of our beliefs about who we are.
Tony Robbins

Tôi muốn khóc nhưng nỗi buồn thật ngu xuẩn. Tôi muốn tin nhưng niềm tin là nghĩa địa.
I wish to weep but sorrow is stupid. I wish to believe but belief is a graveyard.
Charles Bukowski

Niềm tin có quyền năng sáng tạo và quyền năng hủy diệt. Con người có khả năng kỳ diệu để nắm lấy bất kỳ trải nghiệm nào trong đời và tạo ra một ý nghĩa hoặc phá bỏ quyền năng của mình hoặc có thể cứu mạng mình theo nghĩa đen.
Beliefs have the power to create and the power to destroy. Human beings have the awesome ability to take any experience of their lives and create a meaning that disempowers them or one that can literally save their lives.
Tony Robbins

Một người có niềm tin bằng chín mươi chín người chỉ có hứng thú.
One person with a belief is equal to a force of ninety-nine who have only interests.
Peter Marshall

Không phải các sự kiện trong đời định hình ta, mà chính là niềm tin của ta về ý nghĩa của những sự kiện đó.
It’s not the events of our lives that shape us, but our beliefs as to what those events mean.
Tony Robbins

Nếu bạn tin mình đúng, hoặc bạn tin mình sai, thì bạn đều đúng đấy. Bất cứ khi nào bạn chắc chắn về điều gì, bạn sẽ ủng hộ điều đó.
If you believe you are right, or you believe you are wrong, you’re right. Whenever you are certain about it, you will support it. Remember that.
Tony Robbins

Con người hầu như luôn luôn tìm đến niềm tin của mình không phải trên cơ sở của minh chứng mà trên cơ sở của điều họ cảm thấy thu hút.
People almost invariably arrive at their beliefs not on the basis of proof but on the basis of what they find attractive.
Blaise Pascal

Lý do chim có thể bay và ta thì không chỉ đơn giản là chúng có niềm tin tuyệt đối, vì có niềm tin nghĩa là có cánh.
The reason birds can fly and we can’t is simply that they have perfect faith, for to have faith is to have wings.
James M. Barrie

Điều bạn tin tưởng mạnh mẽ trở thành hiện thực của bạn.
Whatever you believe with feeling becomes your reality.
Brian Tracy

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu danh ngôn ý nghĩa về lòng tin

Lịch sử chọn ngày giờ

Nước ta ở cạnh Trung Quốc, lại trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc. Trung Quốc là một trong những trung tâm văn hoá cổ đại của thế giới, cố nhiên thuuật chiêm tinh Trung Quốc qua các triều đại phong kiến lần lượt lan truyền sang ta và các nước phương Đông nói chung.
Lịch sử chọn ngày giờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một câu hỏi được đặt ra: Vậy trước thời bắc thuộc, dân tộc ta có thuật chọn ngày, chọn giờ chưa ?

      “...Nhân dân Việt Thường đã biết xét nghiệm sự vật theo hiện tượng thiên nhiên mà làm lịch để áp dụng vào nông nghiệp khá sớm. Sách thông chí của Trịnh Tiều TQ chép rằng: Đời Đào Đường (Nghiêu) năm 2253 trước công nguyên, phương Nam có họ Việt Thường cử sứ bộ, qua hai lần phiên dịch sang chầu, dâng con rùa thần có lẽ sống một nghìn năm, mình dài hơn ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu, ghi việc khi trời đất mở mang. Vua Nghiêu sao chép lấy, gọi là “Quy lịch” (tức lịch rùa). Vậy đây chưa rõ khoa văn đẩu 9 chữ hình con nòng nọc trên lưng con rùa là văn sẵn trên mai nó, mà các nhà làm lịch nước Việt- thường nghiên cứu theo sự tiến triển của nó hàng nghìn năm để rút ra quy luật về sự tuần hoàn của thời tiết, hay đó là một thứ ký hiệu ta gọi là chữ Khoa- đẩu mà các nhà làm lịch nước ta vạch lên mai rùa.

       Dù sao “Quy lịch” lúc đó là phát hiện riêng của các nhà thiên văn nước Việt Thường. Các nhà thiên văn Trung Quốc cũng làm ra lịch của họ nhưng người Việt thường không theo lịch của Trung Quốc. Mãi đến đời nhà Hán, dưới triệu Văn Vương (con trai của Trọng Thuỷ, cháu của Triệu Đà), người nước ta vẫn dùng lịch truyền thống của mình. Khi làm lịch, tổ tiên ta đã biết dựa vào những mốc tiêu chuẩn của thời gian theo chu kỳ của mặt trời, mặt trăng. Tín hiệu còn thể hiện qua hoa văn trống đồng Ngọc Lũ. Thí dụ: Trung Tâm mặt trống là hình ảnh mặt trời, vòng trong là hạ chí, vòng giữa là vòng xuân phân, thu phân vòng ngoài là Đông chí...”.

(Trích “Vài nét về Văn hóa thời Hùng Vương” trong bài của GS. Bùi Văn Nguyên đăng trong tạp chí Văn học số ra tháng 9,10/1973)

      Như vậy từ lich sử xa xưa, ta đã có lịch và qua đó suy luận ra ta cũng đã có thuật chọn ngày. Kể cả khi tiếp thu thuật chiêm tinh trung quốc, ta cũng không tiếp thu toàn bộ, nhất là trong dân gian các tục kiêng cữ có nhiều chỗ khác nhau.

      Ở nước ta hồi đầu thế kỷ 20, nhất là trong phong trào “Duy Tân”, nhiều nhà tri thức tân tiến đã lên tiếng công kích các thói hư tật xấu, đã loại bỏ được nhiều hủ tục lỗi thời, trong đó tục chọn ngày cũng đã giảm nhẹ và có phần cải tiến, không nhất mọi việc đều chọn ngày, chọn hướng như thời xưa.

Sau cách mạng tháng 8-1945, tiếp đến 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Hiệp kỷ lịch ban hành dưới triều nguyễn mất dần, số người biết chữ Hán thưa thớt dần, trước cao trào diệt thù cứu nước, chẳng mấy ai quan tâm đến việc chọn ngày, chọn giờ: nhận lệnh thì chiến đấu, công tác; ban ngày máy bay địch bắn phá thì hoạt động ban đêm, nhà dột thì lợp lại trai gái yêu nhau, hai gia đình bằng lòng, thấy ngày nào thuận tiện, thì hẹn nhau cưới ngày ấy, cưới hỏi muốn đông người dự thì chọn ngày chủ nhật, muốn biết ngày nắng, ngày mưa thì nghe dự báo thời tiết, chết thì chôn không để quá 24 giờ. Mọi việc như xuất hành, tu tạo, hôn nhân, tang tế kể gì ngày giờ Hoàng đạo, Hắc đạo, trùng phục, Trùng tang, trực khai, trực bế. vả lại trong không khí mọi người bận rộn vật lộn với cuốc sống hàng ngày, tranh chấp giữa cái sống, cái chết, cái đói, cái no, không còn điều kiện để chọn ngày tốt, tránh giờ xấu, nghỉ phép được ít ngày, cố lo xong công việc để kịp trả phép, thôi thì “vô sư, ô sách, quỷ thần bất trách”.

Tuy rằng không mở sách, không mời thầy, nhưng tục chọn ngày chọn giờ vẫn âm ỉ lan truyền trong dân gian. Mặc dầu quần chúng nhân dân mấy ai biết: ngày nào là ngày “Thiên ân”, ngày nào là ngày “sát chủ”, nhưng những câu nói cửa miệng vẫn có thế dùng làm cơ sở lý luận chọn ngày chọn giờ. Thí dụ: Tâm lý chung thích chọn ngày chẵn, tránh ngày lẻ, tránh tam nương, nguyệt kỵ, tránh ngày sóc (mồng 1), ngày nguyệt tận (cuối tháng)...

  • Mồng năm, mười bốn, hai ba

         Đi chơi còn nhỡ nữa là đi buôn

  • Một, ba, sáu, tám tuổi Kim lâu

         Cưới vợ làm nhà chẳng được đâu (lấy tuổi mụ của người chủ sự, trừ bội số của số 9, số dư cuối cùng là 1, 3,6 ,8 tức là tuổi Kim lâu)

  • Dù ai buôn bán trăm nghề

         Gặp ngày con nước cũng về tay không.

  • Làm ruộng tháng năm, trông trưng rằm tháng 8.
  • Cưới vợ xem tuổi đàn bà_

         Làm nhà xem tuổi đàn ông.

  • Kính thưa hai họ, hôm nay ngày lành tháng tốt (!)

         Mừng cho hai cháu đẹp duyên...

  • Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba...
  • Ngày đoan dương (5 tháng 5) được nhân dân ta xem như ngày đẹp nhất cả năm, vì thế có tục giết sâu bọ (người lớn thì uống rượu nếp, đeo chỉ ngũ sắc, xâu tai cho con gái đến tuổi dậy thì, tục hái thuốc vào giờ ngọ: 12:00 loài cỏ quanh vườn gọi là bách dược để chữa các bệnh trong năm,
  • Mồng 8 tháng 4 (tức ngày Phật đản cũ) là ngày cá chép vượt suối Vũ môn hoá rồng, lên đường đi học, đi thi vào ngày đó dễ đỗ đạt.
  • Những ngày đầu năm, đầu tháng (tức ngày sóc) phải kiêng cự nhiều điều, tránh tranh chấp cãi cọ, tránh va chạm đổ vỡ, tránh xuất tiền, xuất kho, sợ dông cho cả năm.
  • Ổ gà mới nở, muốn gà con dễ nuôi, phải chọn giờ con nước: khi nào nước thuỷ triều bắt đầu xuống, mới hạ ổ gà xuống.

      Trên đây toàn là những câu truyền miệng trong dân gian nhưng khá phổ biến.

Sau khi hoà bình lập lại nhất là trong những năm gần đây, tập quán chọn ngày, chọn giờ lại rộ lên. Ngoài những tư liệu thời xưa còn rải rác lưu truyền ở các địa phương, còn nhiều sách vở từ Thái Lan, từ Đài Loan, Hồng Kông và các nước Đông Nam á khác tràn vào. thầy cũ cộng thêm thầy mới, tự nhiên hình thành tầng lớp thuật sĩ chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp đủ các dạng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch sử chọn ngày giờ

Vật phẩm phong thủy cho hôn nhân hạnh phúc –

Từ góc độ phong thủy, một số vật trang trí trong nhà cũng có thể mang đến sự hòa thuận, yên ấm cho đời sống vợ chồng. Theo quan niệm của phong thủy, ở hướng Bắc bạn có thể đặt bể cá nuôi 6 con cá vàng để tăng thêm tình cảm và sự yêu thương của vợ chồ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ góc độ phong thủy, một số vật trang trí trong nhà cũng có thể mang đến sự hòa thuận, yên ấm cho đời sống vợ chồng.

Theo quan niệm của phong thủy, ở hướng Bắc bạn có thể đặt bể cá nuôi 6 con cá vàng để tăng thêm tình cảm và sự yêu thương của vợ chồng.

be-ca-vang

Nếu tình cảm giữa hai người hay khúc mắc, bất hòa có thể bài trí tượng gỗ hay gốm sứ hình “Hòa hợp nhị tiên” cũng có tác dụng rất tốt.

Trong phòng ngủ, cũng không nhất thiết bài trí vật ở hướng Bắc mà các hướng khác cũng hỗ trợ đắc lực trong việc thúc đẩy hạnh phúc hôn nhân. Dựa vào tuổi của người chồng để tìm được hướng tốt cho tình cảm vợ chồng. Và tùy thuộc vào hướng tốt, hướng đào hoa để đặt những vật phẩm phù hợp.

– Đối với người cầm tinh là hổ, ngựa, chó, hướng đào hoa là hướng chính Đông.
– Đối với người cầm tinh là khỉ, chuột, rồng, hướng đào hoa là hướng chính Tây.
– Đối với người cầm tinh là lợn, mèo, dê, hướng đào hoa là chính Bắc.
– Đối với người cầm tinh là rắn, gà, trâu là hướng chính Nam.

Nếu treo chuông gió đầu giường bên phía ngưòi chồng thường nằm sẽ giúp người chồng yêu thương vợ nhiều hơn. Tương tự, nếu treo một dây ớt đỏ phía đầu giường người vợ hay nằm cũng có tác dụng tăng thêm lòng yêu thương của vợ đối với chồng.

Ngoài những vật phẩm tương đối dễ tìm đã kể trên thì miếng ngọc bội long phượng cũng là loại vật phẩm tượng trưng cho hạnh phúc.

Theo văn hóa phưong Đông, ngọc bội long phượng thường được tặng cho những đôi vợ chồng mới cưới hay món quà kỷ niệm ngày cưới với mong ước hạnh phúc bền lâu. Theo phong thủy, miếng ngọc long phượng nên treo ở đầu giường hai vợ chồng, bởi tương truyền thì chỗ nào có rồng thì chỗ đó có phượng, cho nên người yêu thương nhau sẽ luôn bên nhau, giống như long phượng.

Ngoài ra bạn có thể treo tranh hoa mẫu đơn.

hoa-mau-don

Hoa mẫu đơn được tôn vinh nhiều nhất trong thời nhà Đường, nhất là vào những năm của vua Đường Minh Hoàng trị vì. Có 2 câu thơ của nhà thơ Lý Chanh thời ấy nói về hoa mẫu đơn như sau:

Thiên hương tại nhiễm y
Quốc sắc triều cam rượu
(Hương trời nhuộm lên áo,
Quốc sắc như say rượu).

Cho nên hoa mẫu đơn còn được gọi là Quốc sắc Thiên Hương chi hoa. Còn nhà thơ Âu Dương Tu thì ca ngợi hoa mẫu đơn là “Thiên hạ chân hoa độc mẫu đơn” (trong thế gian chân chính xứng mang tên hoa chỉ có mẫu đơn). Chính vì 2 nhà thơ lớn này ca ngọi mà hoa mẫu đơn được xem như là biểu tượng của phú quý, cao sang. Khi trưng hoa mẫu đơn trong bình đẹp, là ta đã có một biểu tượng “Phú Quý Bình An” trong phong thủy.

Mặt khác, vẻ đẹp đầy đặn của Dương Quý Phi (Dương Ngọc Hoàn, một trong Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung Quốc) được Đường Minh Hoàng say đắm đến mất cả ngôi vua, nên hoa mẫu đơn còn là biểu tượng dùng để kích hoạt trong tình duyên. Nhưng khi 2 vợ chồng trẻ trưng trong phòng thì giúp tình cảm vợ chồng thêm nồng thắm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cho hôn nhân hạnh phúc –

Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì ?

"Ruộng hương hoả " là ruộng dành riêng giao cho tộc trưởng lo việc phụng thờ hương khói cho cha ông, tổ tiên. Ruộng hương hoả lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ruộng hương hoả không được chia, không được bán. Luật phong kiến cấm bán ruộng hương hoả. Chừng nào cánh cửa trưởng không còn người nối dõi tông đường hoặc đi biệt xứ xa quê, họ khuyết tộc trưởng thì người con trưởng hoặc đích tôn thừa trọng của cánh hai lên thay, tiếp tục hưởng ruộng hương hoả và lo việc giỗ tết hương khói. Chừng nào toàn bộ con cháu trong họ đều phiêu cư bạt quán (con gái không được tính đến) thì người cuối cùng đang hưởng hương hoả nếu có khó khăn đặc biệt làm đơn xin bán, lý trưởng nào làm sai luật lệ trên sẽ bị quan xử phạt, nếu trong họ có người thưa kiện.

Vì có ruộng hương hỏa nên việc tế tự được duy trì bền vững, dù họ lớn hay bé, thành đạt hay bình thường, dù tộc trưởng giàu hay nghèo, sang hay hèn, già hay trẻ  (có khi mới chỉ là đứa bé con năm bảy tuổi, việc tế tự vấn uy nghi đông đủ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì ?

Giữ gìn giới hạnh

Là Phật tử, chúng ta phải giữ gìn năm giới hạnh để làm của cải và để cải thiện đời sống của mình giản dị và trong sạch hơn, để tâm hồn ta sẽ được an lạc hơn
Giữ gìn giới hạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một thời, đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tịnh xá Kỳ Hoàn, thuyết pháp cho chư Thiên nghe. Lúc bấy giờ, ở nước La Duyệt Kỳ có hai vị tân Tỳ kheo muốn yết kiến đức Phật.

Giữa hai nước ấy có một khoảng đồng rộng, không có người ở, lại gặp thời hạn nên suối hồ đều khô cạn. Hai người đi ngang qua bị khát nước, chỉ gặp được vũng nước nhỏ song thấy toàn loài trùng, không thể uống được. Hai người mới bàn nhau: “Chúng ta từ xa lại cốt trông mong chiêm ngưỡng đức Phật, không ngờ ngày nay bị chết khát giữa đường”. Một người nói: “Thôi, ta hãy tạm uống cho khỏi chết, có vậy mới gặp được Phật. Vả lại, ta uống cũng không ai biết cả”. Người kia đáp: “Giới luật Phật chế cấm không được uống nước có trùng, chính là lấy nhân từ làm gốc. ”.

Người đầu tiên theo ý riêng mình uống nước cho hết khát và đi đến chỗ Phật ở. Người thứ hai không chịu uống nên phải chết vì khát nhưng lại được sinh vào cõi trời Đao Lợi. Nhờ suy nghĩ nên tự biết ở kiếp trước giữ giới không phạm nên được sinh Thiên, thật là do lòng tin mạnh nên phước báu chẳng xa vậy. Nghĩ đoạn, bèn đem hương hoa đến lễ Phật và đứng hầu một bên. Còn người uống nước phải cực khổ trải qua nhiều ngày mới đến chỗ Phật ở. Thấy đấng chí tôn oai nghiêm, người kia liền cúi đầu đảnh lễ khóc lóc bạch rằng: “Con còn có người bạn cũng muốn đến yết kiến Phật, chẳng may giữa đường bị mệnh chung, dám mong đức Thế Tôn biết cho”.

Đức Phật trả lời: “Ta đã rõ rồi”, bèn lấy tay chỉ vị tiên nhân đứng kế bên mà nói: “Tiên nhân này chính là bạn của ngươi đó, người này vì giữ trọn giới luật nên được sinh lên cõi trời và được gặp ta trước ngươi”.

Bấy giờ, Thế Tôn chỉ vào người kia và bảo: “Ngươi tuy thấy ta mà không giữ giới luật của ta, thời tuy ngươi thấy ta mà ta không thấy ngươi. Người kia tuy cách xa ta ngàn dặm nhưng vẫn giữ được giới luật, thời người ấy đứng trước mặt ta” .

Lời bàn:

Trong kinh Di Giáo, đức Phật đã từng khẳng định: “Giới hạnh là bậc Đạo sư của các thầy, nếu Ta có ở đời, cũng không khác gì giới vậy”.

Vai trò của giới luật trong đạo Phật rất quan trọng và là nền tảng của các pháp lành, nên người Phật tử cần phải hiểu rõ tầm quan trọng này để khỏi phải sai phạm. Giới có ý nghĩa như sau: Giới (Sila) “phòng phi chỉ ác”, nghĩa là đề phòng đều trái quấy, dừng chỉ mọi điều ác, làm mọi điều thiện. Giới là do đức Phật chế ra, Ngài căn cứ vào hoàn cảnh thực tiễn của xã hội và bổn phận của con người mà quy định giới luật. Do đó, giới luật có tính chất nhân bản tiêu biểu cho nền đạo lý toàn diện và giúp cho con người hành trì tiến nhanh trên con đường giải thoát.

Vì tính chất quan trọng và lợi ích thiết thực rộng lớn của giới nên lúc còn tại thế, đức Phật mỗi khi nghe vị đệ tử nào sống sai tinh thần giới luật, Ngài thường hay cho gọi đến để tìm hiểu, rồi giải thích và trách phạt một cách nghiêm khắc.

Ngoài ra, giới luật của Phật giáo còn là nền tảng của một thế giới hòa hợp mà trong đó, con người thật sự sống như một con người, không phải loài cầm thú. Giữ gìn giới luật còn là trọng điểm trong sự tu hành của chúng ta. Người Phật tử chỉ cần giữ năm giới hạnh:

  1. không sát sinh
  2. không trộm cắp
  3. không tà dâm
  4. không nói dối
  5. không dùng chất kích thích làm mất chánh niệm.

Cho nên, là người Phật tử, chúng ta phải giữ gìn năm giới hạnh trên để làm của cải và để cải thiện đời sống của mình giản dị và trong sạch hơn, để rồi từ đó, tâm hồn ta sẽ được tịnh hóa trở nên hiền hòa, trong sáng và an lạc hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giữ gìn giới hạnh

Xem bói tình yêu qua ngày sinh của bạn

Bạn thích chủ động đi tìm tình yêu của mình chứ không thích ngồi đó chờ tình yêu đến. Chẳng may cho ai cứ lao vào bạn thì chỉ có vô ích mà thôi
Xem bói tình yêu qua ngày sinh của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngày sinh có những bí mật vô cùng đặc biệt mà bạn chưa khám phá hết. Trong tử vi phương đông, để lập 1 lá số tử vi phân tích cuộc đời của bạn qua 12 cung cũng dựa trên ngày tháng năm sinh âm lịch và giờ sinh. Đối với tử vi phương tây cũng tương tự như thế. Bài viết dưới đây chỉ là một mô tả ngắn dựa trên ngày sinh để nói về đường tình duyên của bạn. Nên sử dụng ngày sinh dương lịch trước khi xem. Nếu thấy đúng thì like Fanpage của ## nhé

1. Những người sinh ngày 1, 10, 19 và 28

Bạn là con người yêu thích sự lãng mạn, từng bị trúng tiếng sét ái tình và bạn tin vào tiếng sét đó. Tuy nhiên, tính cách cả thèm chóng chán của bạn cũng khiến người ta buồn đấy nhé, hôm nay thấy rung động bởi ánh mắt này, nhưng ngày mai bạn lại bị nụ cười khác hút hồn. Ánh mắt ngày hôm qua làm bạn rung động thì hôm nay lại khiến bạn trống rỗng. Bạn thẳng thắn trong tình yêu nên lúc nào yêu ra yêu và ghét cũng rất rõ ràng đó.

Yêu thật sự: 2 người

Trái tim tan vỡ: 2 lần

2. Những người sinh ngày 2, 11, 20 và 29

Bạn thích chủ động đi tìm tình yêu của mình chứ không thích ngồi đó chờ tình yêu đến. Chẳng may cho ai cứ lao vào bạn thì chỉ có vô ích mà thôi. Bạn thường nhắm đối tượng từ xa mới quyết định có nên “bắn tên” hay không. Để được một ai đó thực sự rung rinh mình thì bạn sẽ phải mất nhiều công sức cưa cẩm, gây thương nhớ cho họ đấy.

Yêu thật sự: 3 người

Trái tim tan vỡ: 4 lần

3. Những người sinh ngày 3, 12, 21 và 30

Bạn chắc chắn và tự tin trong việc chọn nửa kia cho mình trong tình yêu. Bạn bè bạn không bao giờ hiểu bạn bằng người ấy.

Thậm chí sự lựa chọn của bạn là vô điều kiện. Bạn luôn âm thầm ở bên và theo dõi người mình yêu, ở sau họ khiến bạn thấy hạnh phúc.

Yêu thật sự: 3 người

Trái tim tan vỡ: 5 lần

Xem bói tình yêu của bạn qua ngày sinh

Xem bói tình yêu của bạn qua ngày sinh

4. Những người sinh ngày 4, 13, 22 và 31

Với bạn tình yêu là một phạm trù luôn phải nghiêm túc. Bạn ghét những cuộc tình qua đường, không chung thủy và hoa lá cành. Tuy nhiên, bạn có thể hợp với nhiều tuýp người. Bạn tìm thấy những ưu điểm ở hầu hết mọi người. Tình yêu hay mang lại cho bạn những bất ngờ mà bạn không biết trước được nó sẽ xuất hiện khi nào và ở đâu. Tình yêu của bạn cũng khá là bí ẩn.

Yêu thật sự: 2 người

Trái tim tan vỡ: 2 lần

5. Những người sinh ngày 5, 14 và 23

Mọi người nói bạn không có đam mê, thật là một sai lầm. Thực tế, bạn rất sâu sắc và đa cảm. Cũng vì thế mà bạn có thể yêu chết mê chết mệt người ta ngay sau vài buổi hò hẹn. Tinh yêu của bạn đầy hứng khởi chứ không hề nhạt nhòa nhé.

Yêu thật sự: 5 người

Trái tim tan vỡ: 5 lần

6. Những người sinh ngày 6, 15 và 24

Với bạn, yêu là một hệ quả tất yếu của tình bạn. Trong tình yêu bạn rất trung thành, chín chắn và chân thật đối với nửa kia. Bạn không phải là kẻ lừa dối cũng không phải tán tỉnh cho vui. Bạn thường giữ được tình bạn tốt đẹp với người cũ, đồng thời sẵn sàng nhen nhóm lại ngọn lửa tình yêu trong tương lai.

Yêu thật sự: 4 người

Trái tim tan vỡ: 5 lần

7. Những người sinh ngày sinh: 8, 17 và 26

Bạn thích cảm giác đang yêu, thích đến nỗi ban không muốn để mình ở trong tình trạng single chút nào. Nói cách khác là bạn sợ nhất sự cô đơn. Thật không may, tình yêu không dễ dàng chiều theo ý muốn bạn được. Có những người được bạn coi là tình yêu thì lại đang lừa dối và lợi dụng bạn, đem lại đau khổ cho bạn mà thôi. Hãy chờ tình yêu thực sự bạn nhé, đó sẽ là lúc bạn hạnh phúc và thấy ngọt ngào nhất.

Tình yêu thực sự: 2 người

Trái tim tan vỡ: 3 lần

8. Những người sinh ngày 9, 18 và 27

Với bạn, yêu là thứ tình cảm vương vấn day dứt mãi, dù đã chia tay nhau khá lâu rồi. Nói cách khác là bạn thích sống với quá khứ hơn hiện tại. Thực tế, mối tình đầu luôn để lại cảm xúc thiêng liêng và mãnh liệt trong bạn. Bạn thường không dứt khoát trong tình cảm. Bạn thường bị động trong chuyện tình cảm của mình. Nhất là khi kết thúc cuộc tình, người bị chia tay luôn là bạn. Hãy cố gắng mạnh mẽ và có những quyết định đúng đắn trong tình yêu bạn nhé.

Tình yêu thật sự: 5 người

Trái tim tan vỡ: 4 lần

9. Những người sinh ngày 7, 16 và 25

Bình tĩnh và tự chủ, bạn tìm cách bày tỏ tình yêu bằng lời nóim, hành động. Có những khi người ấy của bạn còn phải đọc ra hành động để biết tình cảm của bạn. Bạn có tài ghìm cương người ta mà không bị phát hiện ra đấy.

Tình yêu thực sự: 1 người

Trái tim tan vỡ: 2 lần


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tình yêu qua ngày sinh của bạn

Quẻ Quan Âm: Đường Tăng Đắc Đạo

Quẻ Quan Âm thứ 62 Đường Tăng đắc đạo là quẻ trung bình, đây là tượng được thần Phật ngầm che chở, trải qua thử thách, nhẫn nại mới có kết quả tốt đẹp
Quẻ Quan Âm: Đường Tăng Đắc Đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 62 được xây dựng trên điển cố: Đường Tăng Đắc Đạo – hay Đường Tăng đi lấy kinh thành đạo.

Đây là quẻ trung bình thuộc cung Dần. Phải trải quan muôn trùng khó khăn thử thách mới có được thành công viên mãn. Nếu giữ nguyên hiện thời cũng được tốt đẹp, nếu có sự thay đổi cũng không có gì là hiểm nguy. Đây là tượng thần Phật ngầm che chở, phải biết nhẫn nại và phấn đấu mới có kết quả tốt đẹp.

Thử quái thần Phật ám hộ chi tượng. Phàm sự nhẫn nại đại cát dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Đường Tăng đắc đạo

Bốn thầy trò Đường Tăng đi đến đất Phật ở phương Tây, vùng đất này quả nhiên là khác thường, các loài hoa cỏ đều lạ lùng tươi đẹp, mà ở đây người người đều tu hành, nhà nhà đều hướng thiện, khắp nơi đều có người tụng kinh. Vài ngày sau, bốn thầy trò đến một ngôi lầu cao, vốn là nơi tu đạo của Ngọc Chân Quan Kim Đĩnh Đại Tiên ở chân núi Linh Sơn. Đêm đó, bốn người tắm gội thay áo, đi nghỉ sớm, để đợi ngày mai lên núi Linh Sơn lễ Phật.

Ngày hôm sau, hai người từ chỗ Kim Đĩnh Đại Tiên xuất phát, mới đi được năm sáu dặm, liền nhìn thấy dòng sông sóng lớn cuồn cuộn chặn đường, hai bên bờ sông không thấy có con thuyền nào, cũng không thấy có người lái thuyền, chỉ có một cây cầu độc mộc. Đường Tăng vừa đứng lên cây cầu độc mộc, hai chân đã run lên, không dám di chuyển về phía trước.

Trong khi bốn người đang không biết làm thế nào, bỗng từ phía hạ lưu có một người chèo thuyền đi lên, cất tiếng gọi lớn: “Lên đò! Lên đò!” Đường Tăng rất vui mừng, vội vàng gọi ba đồ đệ chuẩn bị lên thuyền. Đến khi con thuyền cập bờ, họ mới phát hiện ra đó là con thuyền không đáy. Tôn Ngộ Không tinh mắt, biết được đó là Tiếp Dẫn Phật (tức là Nam Mô Bảo Tràng Quang Vương Phật) đã đến, nhưng không nói ra.

Đường Tăng thấy vậy, sợ hãi hỏi: “Con thuyền này của ông là thuyền hỏng không có đáy, làm sao đưa người qua sông được?” Tiếp Dẫn Phật nói: “Chiếc thuyền của ta là chiếc thuyền nổi tiếng từ thuở khai thiên lập địa, được ta chèo lái đến nay vẫn không có biến đổi gì. Gặp bao sóng gió vẫn được yên ổn, từ vô thủy vô chung vẫn được vui vẻ thanh bình. Loại trừ vật dục giữ cho tâm thanh khiết để có thể quy về nhất thể, muôn kiếp có thể vận hành một cách an nhiên tự tại. Con thuyền không đáy khó mà vượt biển, nhưng từ xưa đến nay vẫn luôn cứu độ chúng sinh!”

Đường Tăng vẫn nửa tin nửa ngờ, Tôn Ngộ Không liền nắm cánh tay Đường Tăng, đẩy xuống thuyền, Đường Tăng liền ngã xuống nước, người chèo thuyền đỡ Đường Tăng đứng dậy. Sau đó Sa Tăng, Trư Bát Giới, Bạch Long Mã và Tôn Ngộ Không cũng đều lên thuyền, tất cả đều đứng trên mạn thuyền. Chỉ thấy người chèo thuyền nhẹ nhàng chèo chống, đi sang bờ bên kia. Bỗng có một thi thể từ dưới sông nổi lên, Đường Tăng kinh hãi, mặt biến sắc. Ngộ Không nhìn thấy vội cười nói: “Sư phụ đừng sợ, đó chính là sư phụ đấy!” Bát Giới, Sa Tăng cũng vui mừng nói: “Là sư phụ đấy, là sư phu đấy!” Người chèo thuyền cũng nói: “Đó chính là ngài, xin chúc mừng, chúc mừng!”

Phút chốc thuyền đã qua bến Lăng Vân Tiên. Đường Tăng xoay người, nhảy lên, nhẹ nhàng đặt chân lên bờ. Nhìn lại, chiếc thuyền không đáy và người chèo thuyền không biết đã đi hướng nào. Ngộ Không lúc này mới nói rằng đó là Tiếp Dẫn Phật. Lúc này Đường Tăng mới biết mình cùng các đồ đệ đã được Phật gia trì, không còn là người phàm trần nữa.

Mấy thầy trò đi lên núi Linh Sơn, thi lễ với các vị Ưu bà tắc, Ưu bà di, Tỳ khưu tăng, Tỳ khưu ni. Mấy thầy trò đến ngoài cửa chùa Lôi Âm. Các thần trong Tứ Đại Kim Cương bẩm báo với Phật tổ, Phật tổ bèn cho gọi thầy trò Đường Tăng vào. Đến đây, Đường Tăng, Ngộ Không, Ngộ Năng, Ngộ Tĩnh và Bạch Long Mã đều đã tu thành chính quả, được thành Phật.

Tây du ký là bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân lần đầu vào năm 1986. Lục Tiểu Linh Đồng với vai diễn Tôn Ngộ Không đã trở thành hình tượng tiêu biểu diễn tả đầy đủ và xác thực nhân vật Tôn Ngộ Không mà chưa có một diễn viên nào đạt được.

Năm 1998 – 1999 nhà sản xuất đã làm tiếp 16 tập mà phần đầu chưa kể hết với những cải tiến về kỹ thuật điện ảnh rất tốt nhưng không mất đi lối diễn xuất chân thực của bốn thầy trò Đường Tăng trong phần đầu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Đường Tăng Đắc Đạo

Em chồng làm bùa ngải ám chị dâu đến chết

Một buổi sáng thức giấc, tôi thấy quanh phòng mình có rắc rất nhiều tạp chất vô cùng lạ, rải quanh chân tường và được đánh đống cân đối hai bên cửa ra vào.
Em chồng làm bùa ngải ám chị dâu đến chết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì sinh ra và lớn lên tại một thị trấn nhỏ miền núi nên tôi nhanh chóng nhận ra đó là một loại bùa chú của người dân tộc, dùng để làm phép, úm cho người đàn bà trong nhà chết bệnh. Tôi giật mình nghĩ lại, có khi bùa chú đã linh ứng vì gần đây tôi ngày càng gầy yếu, suy nhược cơ thể và lại vừa phải trải qua cuộc phẫu thuật để cắt bỏ khối u.

Thủ phạm duy nhất mà tôi nghĩ tới là cô em chồng ở tầng dưới vì trong căn nhà 4 tầng mà bố mẹ chồng tôi cho mượn thì chỉ có vợ chồng tôi và vợ chồng cô em sống cùng. Tôi đã đem chuyện này để nói với chồng và chúng tôi quyết định sẽ gặp bố mẹ chồng để ông bà đứng ra phân giải cho tôi. Song ông bà đã bênh vực con gái, cho rằng tôi khéo dựng chuyện, rằng bùa chú là sản phẩm của mê tín dị đoan, không có tác dụng gì. Suốt thời gian qua tôi luôn sống trong cảm giác hoang mang và lo sợ.

Em chồng làm bùa ngải hãm hại chị dâu đến chết

Tôi giật mình nghĩ lại, có khi bùa chú đã linh ứng vì gần đây tôi ngày càng gầy yếu, suy nhược cơ thể… (Ảnh minh họa: Internet)

Tôi đã gọi riêng cô em để nói chuyện, phân tích phải trái việc làm của cô ấy. Tôi nói để cô ấy hiểu rằng nếu tôi chết đi thì người đầu tiên chịu khổ là hai đứa cháu của cô rồi tiếp đến là anh trai cô. Chẳng những không chịu nghe mà cô ấy còn rủa tôi “biến khỏi cái nhà này càng sớm càng tốt”. Tôi chợt nổi da gà vì nghĩ đến người chị dâu lớn trong nhà đã mất trước khi tôi về làm dâu, để lại đứa con trai nhỏ tội nghiệp. Nghe nói chị ấy mất do tai nạn, có khi nào…??? Tôi không dám nghĩ tiếp nhưng từ đó mâu thuẫn giữa chị em tôi chẳng những không được gỡ bỏ mà còn đẩy lên cao hơn. Tôi thấy rất nản!

Từ ngày tôi bước chân về nhà chồng làm dâu đến nay, chưa bao giờ cô em chồng coi tôi là chị dâu. Vì tôi ít tuổi hơn em chồng nên cô ấy cũng không gọi tôi là chị, bình thường thì gọi tên nhưng lúc tức thì mày tao chí tớ. Cô ấy luôn coi tôi là một kẻ hám tiền, muốn trụ lại thủ đô nên mới tiếp cận anh trai mình. Trong con mắt của cô em người Hà Nội ấy thì tôi là một con bé đồng rừng ngốc nghếch, quê mùa.

Chúng tôi ngoài việc ở cùng một nhà thì phải làm việc cùng một nơi. Đó là một gian hàng ngoài chợ, được bố mẹ chồng tôi chia đôi không gian cho vợ chồng tôi và cô em. Mặt hàng của chúng tôi bổ trợ cho nhau nhưng cô ấy thì không có thái độ tích cực, ngược lại vô cùng ghê gớm và luôn tìm cách để mọi người trong gia đình chồng nghĩ xấu về tôi.

Có lần, trong lúc chờ tôi lấy thêm phụ kiện khách hàng của tôi đã vô tình lấy dây buộc hàng của bên cô ấy. Vậy là cô ấy quát mắng cả chủ và khách làm tôi muối mặt vô cùng. Sau đó, tôi cũng đã góp ý với cô rằng nếu chẳng may khách hàng có lấy nhầm thì tôi sẽ trả lại, đừng làm thế mất mối làm ăn. Cô ấy không nghe mà còn lên giọng rằng tôi là kẻ chuyên gian lận, làm lợi cho bản thân, là kẻ hám tiền… Những lúc như thế tôi không muốn cãi vã vì xung quanh còn rất nhiều bạn hàng và khách khứa, tuy nhiên cô ấy lấy đó là điểm yếu của tôi và luôn gây sự ầm ĩ mỗi khi có cơ hội.

Khi tôi sinh đứa con đầu lòng cũng là lúc cô ấy mang thai tháng cuối. Mẹ đẻ tôi bất ngờ mất trước khi tôi sinh con 10 ngày. Bất chấp sự can ngăn của chồng và cả gia đình bên ngoại, tôi vẫn vượt hàng trăm cây số đường gập ghềnh về quê chịu tang mẹ. Khi sinh con tâm trạng tôi rất tệ. Phần vì đau xót, phần vì hẫng hụt. Tôi vốn yên tâm sẽ có mẹ chăm khi sinh con đầu, nay phải đối mặt với việc nuôi con nhỏ, chưa có kinh nghiệm nên vất vả và áp lực vô cùng, tôi rất hay tủi thân và mệt mỏi vì ngoài chồng không ai hỗ trợ gì tôi cả. Thế nhưng cứ mỗi lần mẹ chồng tôi qua thăm cháu là cô ấy nhõng nhẽo thèm ăn cái nọ cái kia để bà đứng lên đi mua giúp.

[chị dâu, em chồng, nhà chồng, yểm bùa, bùa chú, ganh ghét, đố kỵ]

Cô ấy luôn ganh ghét và ghen tỵ với tôi trong cuộc sống. (Ảnh minh họa: Internet)

Đồ ăn, đồ dùng mà cô ấy yêu cầu mẹ mua luôn phải là những thứ đắt đỏ, có thương hiệu còn tôi thì phải luôn chi tiêu dè sẻn bởi công việc làm ăn của tôi còn mới mẻ, chưa ổn định. Khi thấy tôi mua sắm, cô ấy thường có thái độ coi thường và dè bỉu vì toàn thứ “nhà quê”. Điều quan trọng nhất là những khoản tiền dành cho mua sắm của cô ấy đều được mẹ chồng tôi chu cấp, bà thương con gái hơn tất thảy những đứa con khác trong gia đình.

Cô ấy luôn ganh ghét và ghen tỵ với tôi trong cuộc sống. Hễ nghe ai đó khen tôi làm tóc đẹp, nhìn “tây” hơn hẳn hay khen tôi 2 con mà dáng vẫn chuẩn… là cô ấy nổi cơn điên. Sau đó lại tìm cách “dìm hàng” tôi cho bõ tức. Học hết cấp 3 xong, cô ấy không thi đỗ đại học nên quyết định ở nhà kinh doanh. Khi biết tôi đã học xong trung cấp cô ấy cũng ghen tức, vậy là bằng mọi cách cô ấy thi cho được vào hệ tại chức một trường đại học và thuê người tới lớp.

Để giữ dáng, cô ấy đã nuôi 2 đứa con hoàn toàn bằng sữa bột mà không cho các con bú một lần nào. Cô ấy lấy đó là chuẩn vì nuôi con khoa học giống Tây chứ không giống “đồ nhà quê” như tôi. Điều đó cũng chẳng làm tôi bị ảnh hưởng gì nhưng tôi luôn thấy cuộc sống ngột ngạt bởi lúc nào cũng bị săm soi, bị chơi xấu, bị dè bỉu…

Bố mẹ chồng tôi đều cưng chiều cô ấy từ nhỏ nên ông bà cho đó là chuyện bình thường và yêu cầu tôi phải chấp nhận vì lấy chồng phải theo nhà chồng, không thể sống theo phong tục lạc hậu “ở rừng” của tôi. Mọi chuyện tôi có thể bỏ qua nhưng việc cô ấy làm bùa chú để tôi sống trong bệnh tật đến chết thì tôi không thể chịu nổi. Cho dù không muốn tin việc làm bùa chú của cô ấy đã linh nghiệm thì tôi cũng vô cùng hoang mang, lo lắng.

Điều kiện kinh tế của chúng tôi chưa thể trang trải nổi cho việc thuê nhà trọ nên phương án đi thuê nhà ở riêng là không thể. Thế nhưng cứ sống cùng, làm cùng thế này tôi luôn trong tâm trạng ức chế, phiền muộn. Ảnh hưởng rất nhiều tới hạnh phúc của vợ chồng tôi và hai cậu con trai đã tới tuổi đến trường. Chồng tôi cũng bất lực trước cô em quái chiêu của mình và nhiều lúc anh em họ còn cãi cọ trước mặt con trẻ. Tôi biết phải làm gì bây giờ?

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Em chồng làm bùa ngải ám chị dâu đến chết

9 mẹo phong thủy học tập giỏi giang, cha mẹ đừng bỏ lỡ

Trong phong thủy học tập, góc học tập là một trong những không gian cần được quan tâm hàng đầu bởi nó có thể ảnh hưởng trực tiếp tới chuyện học hành.
9 mẹo phong thủy học tập giỏi giang, cha mẹ đừng bỏ lỡ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy, góc học tập là một trong những không gian cần được quan tâm hàng đầu bởi nó có thể ảnh hưởng trực tiếp tới chuyện học hành, thành tích thi cử và tương lai con trẻ.
Áp dụng những mẹo phong thủy dưới đây cũng là cách để các bậc cha mẹ giúp con cái học hành giỏi giang, thi cử đỗ đạt.
 


9 meo phong thuy hoc tap gioi giang, cha me dung bo lo hinh anh 2
 
 


1. Thêm yếu tố Kim vào khu vực học tập

  Đặc trưng của hành Kim là mang lại lối tư duy đúng đắn, sáng sủa và khả năng tập trung cao độ, học hành hiệu quả. Vì thế, hãy bổ sung thêm các vật phẩm như tác phẩm điêu khắc bằng kim loại, bàn học bằng kim loại, một chiếc đồng hồ hoặc một chiếc bút lông… vào góc học tập của trẻ. Bạn đã biết Ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là gì?   Bạn cũng có thể treo một chiếc chuông gió bằng kim loại phía trên bàn học. Vật phẩm phong thủy này có tác dụng xua đẩy năng lượng xấu, mang lại sự tốt đẹp, hạn chế sự mất tập trung và sao nhãng trong học hành.   Bên cạnh đó, treo hình ảnh của những cố vấn hoặc những nhà tư tưởng vĩ đại với phần khung tranh bằng kim loại trong góc học tập cũng thúc đẩy khả năng khơi nguồn cảm hứng, thành tích học tập của trẻ sẽ dần được nâng cao.  

2.  Sử dụng màu xám, trắng làm chủ đạo khi trang trí góc học tập

  Trong phong thủy học tập, trang trí góc học tập với màu xám, ghi hoặc trắng làm chủ đạo sẽ giúp trẻ dễ dàng tập trung tinh thần và suy nghĩ lạc quan hơn. Đây cũng chính là màu sắc biểu trưng cho hành Kim.     Ngoài ra, bạn có thể dùng màu tím để trang trí, vì màu tím là biểu tượng cho sự khôn ngoan.   Các màu sắc khác như màu hồng, xanh lá cây… là những màu sắc tươi sáng nhưng được coi là quá phân tâm nên sẽ không phù hợp để trang trí góc học tập cho trẻ. Nếu có, chỉ nên sử dụng ở những chi tiết nhỏ.

9 meo phong thuy hoc tap gioi giang, cha me dung bo lo hinh anh 2
 
 

3. Góc học tập nên đặt ở hướng Tây Bắc

 

Bố trí phòng học, góc học tập ở hướng Tây Bắc hoặc Tây có tác dụng kích thích tinh thần học hỏi và nghiên cứu ở trẻ.  

4. Sử dụng đá phong thủy hematite

 
9 meo phong thuy hoc tap gioi giang, cha me dung bo lo hinh anh 2
 
Trong phong thủy, đá hematite mang trên mình vẻ dũng mãnh, quyền uy. Được ưa chuộng từ thời Trung cổ như một phương thuốc chữa các bệnh về máu, đồng thời dùng để chế tác đồ trang sức, đá hematite ngày nay cũng là một loại đá phong thủy nổi bật nhờ nguồn năng lượng tích tụ được sau khi nằm giữa thiên nhiên hàng chục đến hàng trăm năm.   Đá hematite có thể thu hút những nguồn năng lượng tích cực, nếu đặt nó trong phòng học, trẻ dễ dàng tập trung chú ý, bỏ ngoài tai những tạp vật bên ngoài, học hành đạt hiệu quả cao.   Đá thường có màu đen, xám, đỏ hoặc đỏ nâu, trong đó phổ biến nhất ở Việt Nam là vòng đá hematite màu đen xám.  

5. Chiếu sáng tốt là điều cần thiết để học tập

  Theo phong thủy học tập, góc học tập phải luôn có ánh sáng tốt, vì nó loại bỏ nguồn năng lượng xấu trong phòng. Nguồn sáng tốt nhất là từ tự nhiên, nếu không có, hãy điều chỉnh ánh sáng đèn sao cho phù hợp.   Hãy đảm bảo rằng ánh sáng nhẹ nhàng, tránh ánh sáng huỳnh quang và lập lòe gây khó chịu cho mắt, dẫn tới cận thị, ảnh hưởng đến việc học tập lâu dài.  

6. Bố trí góc học tập gọn  gàng, ngăn nắp

  Để tập trung vào việc học tập, bạn cần loại bỏ tất cả những giấy tờ không cần thiết và phiền nhiễu.   Bước vào phòng học có cách bài trí khoa học, gọn gàng sẽ giúp cho con người luôn thư thái, đầu óc minh mẫn, hạn chế được sự nóng giận, bức bối.    Không nên để phòng trong tình trạng bừa bộn sẽ khiến việc học tập, làm việc không đạt được hiểu quả như mong muốn.

9 meo phong thuy hoc tap gioi giang, cha me dung bo lo hinh anh 2
 
 

7. Không đặt giá sách nhô ra trên bàn học

  Nếu treo một kệ sách trực tiếp phía trên bàn học của bạn, nó sẽ mang lại nguồn năng lượng rất xấu. Bởi kiểu giá sách này tượng trưng cho gánh nặng treo trên đầu bạn. Nó có thể khiến bạn nhức đầu và mất tập trung ngay cả khi bạn đang cố gắng học tập.   Vì vậy hãy bày sách và kệ sách một cách khoa học để kích thích tinh thần học hỏi.   

8. Đồ nội thất dài và thấp sẽ mang đến hiệu quả tốt nhất

  Khi phải ngồi một chỗ trong một thời gian dài để học tập, bạn nên chú ý đến môi trường xung quanh và chọn đồ đạc có kích cỡ phù hợp với vóc dáng của bạn để nâng cao hiệu quả, đồng thời tránh các bệnh về cột sống có thể ảnh hưởng đến sức khỏe.   Ghế nên đặt vừa với bàn, có tựa để tạo sự vững chãi, chắc chắn và chỗ ngồi nên có chiều cao thích ứng để viết.   Đồ đạc trong khu vực học tập nên là những đồ thấp, vuông vì nó sẽ tạo không gian thoáng đãng, giúp bạn thoải mái, ổn định tinh thần để học tập.  

9. Tối đa hoá không gian học tập

  Việc bố trí đồ đạc, nhất là vị trí đặt bàn học trong góc học tập là chìa khóa để thu hút năng lượng tích cực.    Vì thế, khi chọn vị trí đặt bàn học, không nên để hướng bàn học đối diện với cửa ra vào, điều đó khiến người ngồi học dễ mất tập trung, tư tưởng bị phân tán, học hành sút kém, lưu ý những vị trí tránh kê bàn học cho trẻ.   Thủy Nguyễn   Xác định phương vị Văn Xương tinh theo năm sinh
– Văn Xương là cát tinh, chủ về đầu óc linh hoạt, tư duy sáng tạo, học hành thi cử đỗ đạt, công việc sự nghiệp thăng tiến. Xác định đúng vị

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 9 mẹo phong thủy học tập giỏi giang, cha mẹ đừng bỏ lỡ

Tình duyên của người tuổi Thân nhóm máu AB

Bản thân những người này có sức hấp dẫn lớn nên họ thu hút được sự chú ý của nhiều người khác giới. Cùng các tố chất thông minh, nhanh trí và rất nhiều
Tình duyên của người tuổi Thân nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bản thân những người này có sức hấp dẫn lớn nên họ thu hút được sự chú ý của nhiều người khác giới. Cùng các tố chất thông minh, nhanh trí và rất nhiều "nghệ thuật" trong tình yêu nên họ sẽ dễ dàng làm đối phương phải xiêu lòng.

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Đôi khi vì vậy mà họ nảy sinh tâm lý "xem tình yêu như một trò chơi".

Người tuổi Thân thuộc nhóm máu AB cũng khá đa tình. Mặc dù đã có người yêu song nhiều khi tim họ vẫn "loạn nhịp" trước một đối tượng quen biết, gặp gỡ. Họ có thể chuyển đổi mục tiêu tấn công ngay lập tức.

Dù đã có gia đình nhưng nữ giới tuổi này vẫn thích tự do và tham gia vào các hoạt động ngoài xã hội. Vì vậy, họ nên chọn bạn đời là những người đàn ông có tinh thần trách nhiệm, biết chăm lo gia đình, yêu vợ, thương con. Nam giới nên chọn những người phụ nữ hiền lành và biết thông cảm với chồng. Có vậy thì cuộc sống hai người mới thực sự dễ chịu và hạnh phúc lâu dài.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Thân nhóm máu AB

Xem tướng miệng –

Miệng là cánh cửa của ngôn ngữ, là công cụ để ăn uống, là then chốt của vạn vật tạo hóa và cũng là cửa sổ của trái tim. Thưởng phạt là do miệng nói ra, đúng sai cũng lại là ở miệng. Chính trực đôn hậu, không nói năng bừa bãi gọi là khẩu đức. Kẻ lắm l
Xem tướng miệng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

òi, đặt điều phỉ báng người khác gọi là khẩu tặc.

images707323_khuonmieng1

Tướng miệng vuông vắn, to rộng, có góc cạnh, báo hiệu là người trường thọ mà cao quý. Hình dáng miệng giông như chiếc cung là tướng cách của người phú quý. Miệng rộng, dày, báo hiệu là người giàu có, phúc đức. Miệng thẳng mà không lệch, dày mà không mỏng là tướng của người không sợ thiếu thốn về mặt cơm áo gạo tiền. Miệng vuông hình chữ “tứ”, báo hiệu là người giàu có.

Tướng miệng nhọn lại cong, lệch lại mỏng là tướng của kẻ hàn tiện. Miệng không nói mà tự mở, lại có hình dáng giông như miệng con ngựa là dấu hiệu của người nghèo khổ đói khát.Miệng nhọn như miệng chuột là tướng hay đố kỵ, gièm pha, phi báng người khác. Miệng chúm lại giông như tư thế đang thổi lửa là tướng của kẻ cô độc. Miệng giông như miệng chó thường là mệnh bần cùng, hạ tiện. Miệng có nếp nhăn dọc thì có số ăn không được no.

Sắc môi tím đen là người khốn khổ, vất vả. Môi trên to, báo hiệu là người hay nói xấu người khác. Môi dưới dài là tướng cách của người tiêu tài tốn của.

Răng lộ ra ngoài là tướng của người không có trí tuệ, đoản thọ. Trên miệng có nốt ruồi đen, báo hiệu là người giàu có, cuộc sống đề huề. Môi có màu đỏ nhạt là tướng người không sợ thiếu ăn. Miệng nhọn giống chiếc móc câu, báo hiệu là người bần cùng. Miệng to có thê nhét vừa nắm tay là tướng cách của người làm quan tướng. Miệng mềm mại, đầy đặn là người giàu tài lộc.

Môi là thành quách của miệng, lưỡi là lưỡi dao của miệng.Thành quách phải dày, dao phải sắc, dày tức là không có vết lõm, sắc tức là không dễ cùn, đây chính là tướng quý của môi và lưỡi. Lưỡi phải đỏ mà không được xuất hiện màu den, đỏ nhạt mà không được trắng. Lưỡi đỏ tươi như màu máu thì có số làm quan, được hưởng lộc. Lưỡi dài chấm tới mũi là tướng của bậc công hầu. Trên lưỡi có đường vân dài, cũng là báo hiệu của người được phong công hầu. Trên lưỡi có nhiều đường vân là tướng của người giàu có. Lưỡi lớn miệng nhỏ là người có số bần hàn lại đoản mệnh.

Lưỡi nhỏ mà ngắn là kẻ bần hàn lại hạ tiện. Lưỡi có sắc tía, xám đen người có số bần hàn, hay gặp chuyện nguy nan. Lưỡi thè ra giống lưỡi rắn là tướng của kẻ độc ác, đoản thọ. Thế của lưỡi phải sâu dài, hình dáng phải vuông thẳng, sắc phải đỏ, phát âm phải vang dội, khẩu đức phải đoan chính, môi phải tròn và dày mới là tướng miệng đẹp.

Trong sách xem bói Linh đài bí quyết có viết: Miệng là cánh cửa của cơ thể con người, trên thông với Nhân trung, dưới là huyệt Thừa tương, hai bên trái phải là 2 bộ vị Tỉnh táo và Tế trù. Miệng trong Ngũ nhạc gọi là Hằng sơn, trong ngũ phương gọi là phương Bắc, trong ngũ tạng thì ứng với tim, thông suốt Thủy Hỏa, còn được gọi là cửa xuất nạp, lại là nơi cư trú của sao Thủy, là cơ quan nhận thức ăn nuôi dưỡng toàn bộ cơ thể. là cơ quan nói chuyện giao tiếp và cũng là mâu chô”t của chuyện thị phi. Biển lớn nhận nước đố ra từ trăm ngàn con sông khác nhau, còn miệng thì ăn hàng trăm loại thực phẩm đế nuôi dưỡng cơ thể con người.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng miệng –

8 mẹo nhỏ xua vận xui, mang may mắn

Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta có câu: 'Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi' .

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vỡ gương hay có một con mèo đen chạy vào nhà? Hay dạo gần đây bạn liên tiếp gặp những điềm xui xẻo trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như sự nghiệp xuống dốc, sức khỏe yếu kém, chuyện tình yêu không như ý? Dưới đây là một số mẹo mà ông cha hay áp dụng để xua đuổi những nguồn năng lượng tiêu cực cứ lởn vởn xung quanh.

1. Dùng muối

Dân gian Việt Nam có câu: 'Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi'. Theo quan niệm của người xưa, muối mặn có thể xua đuổi tà ma, đem lại nhiều may mắn trong gia đình. Bên cạnh đó, tục mua muối còn cầu mong sự đậm đà, hòa thuận trong tình cảm gia đình, sự mặn mà trong các quan hệ làm ăn... như vị đậm đà của muối. Người Việt thường hay rắc muối biển ở từng phòng và trước cửa nhà để xua tà khí, đón vận may.

Không chỉ riêng ở nước ta mà nhiều nền văn hóa trên thế giới đều coi muối là điềm lành. Để thoát khỏi những vận xui, bạn có thể cầm một nắm muối và ném qua vai trái của mình. Nhớ là vai trái vì ném qua vai phải còn mang lại gấp đôi xui xẻo. Ngoài ra, bạn có thể thanh lọc cơ thể bằng cách tắm nước muối. Đơn giản chỉ cần thêm hai muỗng canh muối vào nước tắm ấm. Chưa biết rằng có hiệu nghiệm thật không nhưng ít nhất da dẻ của bạn sẽ sạch sẽ mà nhờ đó tinh thần sảng khoái hơn.

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 1

2. Hóa giải gương vỡ

Từ xa xưa, vỡ gương được coi là rất 'độc'. Khi vô tình làm vỡ gương, bạn không nên vứt các mảnh gương vỡ vào thùng rác. Sau khi thu dọn kĩ càng để tránh những mảnh vỡ gây bị thương cho người trong gia đình, bạn nên bọc tất cả vào một chiếc túi rồi đem đi chôn hoặc vứt xuống sông. 

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 2

3. Thắp hương

Đốt hương trầm là một cách hiệu quả để gia tăng may mắn và hóa giải năng lượng tiêu cực. Khi tinh thần đang tồi tệ, bạn có thể chọn đốt hương có mùi cay nồng như gỗ đàn hương hoặc hoa nhài. Và khi thắp hương cho Thần Phật, gia tiên,...bạn nên thắp số lẻ chứ không phải là số chẵn. 

Nếu bạn đang gặp xui trong cuộc sống cá nhân, đốt hương tại nhà. Còn nếu bạn đang gặp vấn đề về công việc, hãy thắp hương trong văn phòng của bạn.

4. Mang bùa hộ mệnh

Bùa hộ mệnh là một cách tuyệt vời để mang may mắn cho bạn. Đó có thể là một chiếc dây chuyền, vòng đeo tay,...bất li thân của bạn. Một số những bảo bối phong thủy phổ biến nhất gồm:

- Chìa khóa: Một chùm dây đeo chìa khóa đã được sử dụng để mang lại may mắn từ thời xưa. Đeo chùm ba chìa khóa sẽ giúp bạn mở cánh cửa của giàu có, sức khỏe và tình yêu.

- Cỏ ba lá: Vì hiếm hoi giữa một rừng cỏ ba lá nên nếu như ai tìm được cho mình một cành cỏ bốn lá sẽ cực kì may mắn. Mỗi lá trên cành được coi là đại diện cho một khía cạnh trong cuộc sống: tiền bạc, danh vọng, tình yêu và sức khỏe.

5. Sử dụng đá phong thủy

Những loại đá khác nhau gắn liền với một truyền thuyết khác nhau và mang lại những điều tuyệt vời cũng chẳng hề giống nhau. Bài trí đá phong thủy tại phòng làm việc, nhà ở hay luôn mang theo bên người đều giúp bạn chống đỡ lại các nguồn năng lượng xấu.

Thạch anh phấn hồng sẽ gia tăng năng lượng tích cực để đẩy lùi tà khí. Đá xà cừ sẽ bảo vệ bạn khỏi những linh hồn bơ vơ - những người luôn cố gắng hút năng lượng và cảm xúc tích cực của bạn.  Thạch anh tím lại bảo vệ bạn khỏi những nguy hiểm khi đi du lịch. Một số loại đá phong thủy khác cũng có những tác dụng xua đuổi tà khí, mang vận may như: ruby, thạch anh, đá sapphire màu xanh, đá peridot xanh lục, đá thủy tinh núi lửa, đá trầm tích silic, đá mặt trăng, mã não đen, ngọc lục bảo,....

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 3

6. Làm việc thiện

Một trong những cách tốt nhất để thay đổi vận may của mình là làm việc thiện. Khi bạn 'cho đi' thì sẽ có một ngày bạn 'nhận lại'. Đây là một cách để trả cho bất kỳ những điều xấu mà bạn đã làm trong kiếp này hoặc trước đó. Nâng cao nghiệp của bạn bằng cách làm từ thiện, giúp đỡ người già vô gia cư hoặc trẻ em mồ côi.

Điều quan trọng là bạn làm những việc thiện với ước muốn chân thành mong giúp đỡ người khác từ tận trong tim. Nếu bạn chỉ thực hiện những việc tốt để mong may mắn trong cuộc sống của riêng mình thì cuối cùng sẽ chẳng đạt được điều gì hết.

Tham gia vào các hoạt động từ thiện cũng sẽ giúp bạn nhận ra nhiều điều. Một lúc nào đó, bạn sẽ nhận ra mình được sinh ra lành lặn với những điều kiện hiện tại đã hơn rất nhiều so với bao mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ là những con người đang ngày đêm chống chọi với bệnh tật hiểm nghèo, những em bé sinh ra đã mồ côi cha mẹ, những người già neo đơn lúc tuổi xế chiều,...

7. Thanh lọc các luân xa với hoa tươi

Trong một số nền văn hóa châu Á, 7 luân xa xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người.

Hoa tươi có thể được sử dụng để làm sạch bảy luân xa của bạn - loại bỏ năng lượng tiêu cực và mời tài vận mới. Bạn sẽ cần ít nhất bảy loại hoa khác nhau với càng nhiều màu sắc khác nhau càng tốt (trừ màu trắng). Ngắt bỏ hết hân cây và lá và chỉ cần để lại hoa. Cho hoa vào trong chậu nước ấm và dùng làm nước tắm. 

 8 meo nho xua van xui, mang may man - 4

Nước thơm sẽ tiếp thêm luồng sinh khí mới cho tinh thần của bạn. Sau khi tắm xong, cẩn thận thu thập tất cả những bông hoa, đặt chúng trong một túi giấy và vứt bỏ. Hãy tưởng tượng những điều không may của bạn đang bị 'vứt' đi cùng với những bông hoa.

8. Dọn nhà

Sống trong một căn nhà bừa bộn có thể chặn năng lượng tích cực chảy vào và tạo ra những cảm xúc tiêu cực và kém may mắn. Hành động đơn giản này có thể mang đến cho bạn nguồn năng lượng mới và trao quyền cho bạn để thay đổi vận may của mình.

- Vứt bỏ tất cả những món đồ cũ không còn sử dụng.

- Quét sạch mạng nhện và bụi bẩn trong nhà.

- Hãy thử sắp xếp lại đồ nội thất của bạn để cải thiện dòng chảy của năng lượng. Sơn lại tường nhà để mang luồng gió mới cho không gian và cuộc sống của bạn.

- Khi dọn nhà có thể bật chút nhạc và mở cửa sổ để nắng và gió ùa vào. Điều này sẽ khuyến khích năng lượng tích cực để chảy vào không gian sống mới của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 mẹo nhỏ xua vận xui, mang may mắn

Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Lông mày chổi sể là đầu mày thon gọn nhưng đuôi mày tõe ra như chiếc chổi quét nhà, các sợi lông mọc thưa dần. Đàn ông có tướng mày này thường nóng tính, dễ
Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

giận nhưng cũng dễ nguôi…

  Trong Nhân diện học, lông mày đại diện cho tình cảm và tính cách của con người, qua đó phản ánh phần nào về tâm tư tình cảm cũng như sự thành bại trong hôn nhân và sự nghiệp. Đặc điểm dễ nhận biết của tướng lông mày chổi sể là đầu mày thon gọn nhưng đuôi mày tõe ra như chiếc chổi quét nhà, các sợi lông mọc thưa dần.    Đàn ông lông mày chổi sể thường có một số đặc điểm nổi bật về tính cách, sự nghiệp và tình duyên như sau.

Dan ong long may choi se la nguoi the nao hinh anh
Ảnh minh họa
  Về tính cách: Đa phần đàn ông có tướng mày này thì tính tình nóng nảy, dễ nổi giận vô cớ và khó kiểm soát được cảm xúc của bản thân. Tuy nhiên, sau khi hết cơn thịnh nộ, người này lại tỏ vẻ ăn lăn hối hận, tự trách mình đã quá thô bạo.    Về sự nghiệp: Đàn ông có lông mày chổi sể thường gặp trục trặc trong công việc nên khó thành đạt, dễ bị tổn hao tiền của, không tụ tài lộc, đặc biệt đến năm 33 hoặc 34 tuổi sẽ trắng tay vì tiêu xài hoang phí, không biết tích lũy lâu dài.   Tài vận của người này không tốt, luôn trong tình trạng thiếu thốn tiền bạc, càng về già cuộc sống càng nghèo khổ và không được nương tựa vào người thân.   Về tình duyên: Người đàn ông có tướng lông mày chổi sể rất dễ rung động trước tình yêu nhưng cũng dễ dàng từ bỏ giữa chừng vì thiếu kiên nhẫn. Họ dễ yêu, dám yêu nhưng không dám bảo vệ tình yêu một cách quyết liệt.   Trong gia đình, người này chỉ đóng vai trò thứ yếu, mọi hoạt động về tài chính hay đối nội đối ngoại đều nhờ vào sự khéo léo của người vợ. Do đó, nếu lấy được vợ tốt, biết vun vén cho gia đình thì người này cũng có cuộc sống yên bình, ngược lại sẽ gặp bất hạnh trong hôn nhân và cuộc sống vô cùng nghèo khó.   Tuy nhiên, nếu người này biết tiết chế bản thân, thay đổi tính cách nóng vội và hấp tấp thì cuộc đời cũng trôi qua bình yên, không quá nhiều sóng gió, cơ cực.   An Khánh (Theo DYXZ)    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông lông mày chổi sể là người thế nào

Khám phá ngũ hành nổi bật của đời bạn

Khám phá ngũ hành quan trọng trong đời bạn, là bài viết tổng hợp phương pháp giúp bạn đọc nhận biết những ngũ hành chính đã quyết định những hoạt động, thói quen, tính cách của bạn. Tất cả chúng ta đều sở hữu một số yếu tố ngũ hành Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ, trong 5 ngũ hành, nhưng thường chỉ có một hoặc hai nguyên tố là nổi bật trong tính cách của chúng ta, và ta có thể nhìn thấy chúng trên khuôn mặt hoặc thể hiện qua phong cách, nhà cửa, sinh hoạt vận động. Khám phá để thấy được Bạn là ai? Thiên hướng của bạn là gì?
Khám phá ngũ hành nổi bật của đời bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngũ hành Kim:

  • Năng lượng: hướng nội, thu nhỏ, cứng nhắc, buổi tối, cuối thu, tuổi già 
  • Đặc điểm: nhạy cảm, mẫn cảm, lý tưởng hóa vấn đề, nhìn xa trông rộng, hay lo âu, hay chỉ trích, bủn xỉn, cứng nhắc, khao khát sống chân thật, cầu toàn, kiêu ngạo, tự mãn, lạnh lùng, hách dịch, phong cách quý tộc, tốt bụng, có sức hút, sống không thực tế, quá đa cảm, có ý thức về bản thân, thiếu thốn tình cảm, đau buồn, chịu đựng 
  • Các nét chính: mũi, gò má, nước da tái, nốt ruồi 
  • Cơ quan nội tạng: phổi, ruột già 
  • Cơ quan cảm giác: mũi 
Một trong những nét nhân dạng chính dưới đây, bạn có thể thấy yếu tố Kim đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn:
  1. Mũi to
  2. Vùng má gần mắt nhô cao 
  3. Vùng má gần miệng hõm vào hoặc có nếp nhăn 
  4. Các nét cách xa nhau 
  5. Xương mảnh, cổ tay và mắt cá nhỏ 
  6. Phong cách quý phái, lịch sự 
  7. Quá trình chuyển hóa các chất trong cơ thể diễn ra quá nhanh, thường có vóc dáng mảnh mai 
  8. Có nước da tái – một đặc điểm được thừa hưởng từ chủng tộc. 
Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cho thấy yếu tố Kim có vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn: 
  • Phong cách trang phục: Bạn sẽ rất thích những họa tiết đơn giản và mang tính cổ điển, những kiểu dáng trang nhã và các chất liệu mềm mại. Bạn không thích những trang phục thô, nhiều chi tiết rườm rà và quá rộng, đặc biệt rất khó chịu những miếng nhãn gây ngứa hoặc mẫu polyester (cộm lên) phía sau cổ. Màu sắc bạn chọn là những màu dịu, màu đơn có ánh kim, rất thích trang sức. 
  • Nhà cửa và môi trường sống: Sự giản dị và rộng rãi sẽ là lựa chọn thông dụng, màu sắc trung hòa tông nhạt hoặc cách trang trí dùng màu đơn. Không gian đóng kín làm bạn sợ hãi, bạn thích những căn phòng rộng để cảm thấy mình có thể hít thở sâu, và phóng tầm mắt ra xa, những ô cửa sổ thật to làm bạn yêu thích vì cho phép bạn mở rộng tầm nhìn. 
  • Vận động: Bạn yêu thích bất kỳ môn thể thao nào khuyến khích việc hô hấp nhịp nhàng như đi bộ, chạy, aerobics, yoga, bơi lội. Bạn không hứng thú các hoạt động có tính đua trang hay thô bạo hay các môn thể thao đồng đội.
2. Ngũ hành Thủy:
  • Năng lượng: tối, bồng bềnh, tĩnh lặng, ban đêm, mùa đông, cái chết, tiền sinh sản 
  • Đặc điểm: khôn ngoan, dũng cảm, hay lo sợ, ngoan cường, kiên quyết, ngoan cố, độc lập, mạnh mẽ, u sầu, bướng bỉnh, bí ẩn, suy tư, mơ mộng, có khiếu nghệ thuật, kín đáo, chuyên tâm, dễ xúc động, không chính thống, thông thái, có trực giác, xử lý vấn đề chậm, khao khát tự do 
  • Các nét chính: hai tai, đường viền tóc, phần trên cùng của trán, vùng dưới mắt, nhân trung, cằm 
  • Cơ quan nội tạng: thận, bàng quang 
  • Cơ quan cảm giác: tai 
Một trong những nét nhân dạng chính dưới đây, bạn có thể thấy yếu tố Thủy đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn:
  1. Trán dô, cao hoặc rộng 
  2. Có quầng thâm rõ rệt ở trên và/hoặc bên dưới mắt; đôi mắt trông bí ẩn, mơ màng. 
  3. Nhân trung rõ nét 
  4. Cằm khỏe, nổi bật 
  5. Tai và/hoặc dái tai lớn 
  6. Hông lớn và/hoặc khuôn mặt và cơ thể hơi đầy đặn hay mềm mại, không có nét góc cạnh 
  7. Xương to, chắc (cổ tay và mắt cá chân cứng chắc), răng khỏe 
  8. Tóc rậm hoặc láng bóng và dợn sóng 
  9. Nước da ngâm đen 
Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cho thấy yếu tố Thủy có vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn
  • Phong cách trang phục: gợi cảm, buông rủ, diện bộ trang phục thật đẹp. Tóc để dài và rủ xuống hoặc tạo dợn sóng cho mái tóc dày và bóng của mình
  • Nhà cửa và môi trường sống: thích nơi sông nước, thích sống gần hồ, sông hoặc biển hơn, lý tưởng hơn nếu bạn có thể ngắm chúng trực tiếp từ nhà mình. Bạn thích những căn nhà ít tường ngăn (không gian mở) hơn những căn phòng nhỏ ấm cúng, bạn thích sở hữu các tranh ảnh dòng nước hoặc các tranh trừu tượng với những đường nét uyển chuyển. Trong nhà, phòng ngủ và phòng vệ sinh, những góc tối là những nơi chốn ưa thích của bạn.
  • Vận động: Những hoạt động mang tính uyển chuyển, chậm rãi, nhẹ nhàng, không liên quan đến căng thẳng, gò ép là hoạt động yêu thích, chẳng hạn: tập yoga, thái cực quyền, khiêu vũ, đi tản bộ hoặc thích dắt chó ra ngoài dạo trên những con đường ngoằn ngoèo. 
3. Ngũ hành Mộc:
  • Năng lượng: di chuyển hướng lên, lực đẩy, tích cực, buổi sáng, mùa xuân, thời thơ ấu 
  • Đặc điểm: lạc quan, nhiệt tình, chủ động, nhân đạo, tự tin, hay tức giận, bực dọc, thiên về tình cảm, phản ứng tức thời, thẳng thắn, mẫn cảm, thực tế, có khả năng lập luận đúng đan71, ngăn nắp, quyết đoán, có óc xét đoán, tò mò, ham học hỏi, có tính đua tranh, gây áp lực lên người khác, có định hướng, nổi loạn, có kỷ luật 
  • Các nét chính: xương chân mày, lông mày, thái dương, hàm 
  • Cơ quan nội tạng: gan, túi mật 
  • Cơ quan cảm giác: mắt 
Một trong những nét nhân dạng chính dưới đây, bạn có thể thấy yếu tố Mộc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn:
  1. Lông mày mọc rậm và rõ nét 
  2. Xương chân mày nhô ra 
  3. Thái dương lõm vào 
  4. Hàm nổi bật hoặc có đường nét rõ ràng 
  5. Tạng người cao và gầy – hoặc thấp và chắc nịch 
  6. Nước da nâu hơi tái 
Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cho thấy yếu tố Mộc có vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn: 
  • Phong cách trang phục: Chủ trương trang phục thoải mái khi di chuyển, trang phục thể thao, chất liệu may bằng vải jean, kaki, không hạn chế cử động và không chọn nơ bướm, đăng-ten hay những chi tiết có diềm xếp nếp. Kiểu tóc cho cả nam lẫn nữ cực kỳ dễ chăm sóc mà ít cầu kỳ. 
  • Nhà cửa và môi trường sống: nhà cửa có phong cách mộc mạc, trồng cây, đồ nội thất gỗ với những tủ sách gỗ cao và thẳng đứng, sách sắp xếp ngăn nắp, theo một cách logic. Tranh ảnh trừu tượng không hợp với bạn, mà tranh ảnh thiên nhiên là ưu tiên. 
  • Vận động: Hoạt động ưu thích chạy bộ, đạp xe tập luyện trong khoảng thời gian dài, các môn thể thao đồng đội có tính đua tranh.
4. Ngũ hành Hỏa:
  • Năng lượng: đỉnh điểm, di chuyển hướng lên và hướng ra ngoài, hoạt động ở cường độ cao nhất, buổi trưa, mùa hè, thời kỳ sung sức nhất. 
  • Đặc điểm: cởi mở, vui vẻ, sôi nổi, nồng nhiệt, khao khát có những mối quan hệ thân mật, thích sự thay đổi, tự cho mình là trung tâm, hay thay đổi, lăng nhăng, dễ xúc động, biểu lộ tình cảm bằng hành động, quá hiếu động, mất tập trung, hay lo lắng hoặc dễ rơi vào trạng thái hoảng sợ, chỉ có thể tập trung trong thời gian ngắn, hài hước, vui tính, biểu lộ tình cảm quá mức, có khả năng truyền cảm, biết cảm thông. 
  • Các nét chính: mắt, tóc hung hoặc xoăn, điểm đầu nút của các nét 
  • Cơ quan nội tạng: tim, ruột non 
  • Cơ quan cảm giác: lưỡi 
Một trong những nét nhân dạng chính dưới đây, bạn có thể thấy yếu tố Hỏa đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn:
  1. Mắt long lanh, trong mắt có “lửa” 
  2. Tóc hung và/hoặc xoăn, kiểu tóc kỳ dị hoặc “lởm chởm”. hói ở đỉnh đầu 
  3. Hay cười 
  4. Di chuyển nhanh, nói nhanh 
  5. Eo thon thả 
  6. Nước da đỏ hồng, có tàn nhang 
  7. Có lún đồng tiền 
  8. Khóe miệng, chóp mũi, khóe mắt, phần đỉnh của lỗ tai và/hoặc hàng lông mày có đặc điểm là nhọn 
Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cho thấy yếu tố Hỏa có vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn: 
  • Phong cách trang phục: Bạn là người có hứng thú với vấn đề trang phục, thích sự kết hợp nhiều thứ trong trang phục (vừa kỳ quái, vừa ấn tượng, ngộ nghĩnh, xinh xắn…), giày cao gót, mũi nhọn, trang phục gợi cảm, màu sắc sặc sỡ hoặc có in hình động vật. 
  • Nhà cửa và môi trường sống: bạn thích lối kiến trúc và trang hoàng lạ thường, ngộ nghĩnh hoặc gây ấn tượng mạnh, kiểu dáng mới mẻ, vui mắt. Tranh ảnh kỳ dị hoặc trừu tượng, cùng những màu sắc sáng chói. 
  • Vận động: Ít chịu làm tập trung một việc, việc này chưa xong, lại nhảy qua việc khác. Không thích các hoạt động có sự lặp đi lặp lại hoặc mất nhiều thời gian. Các vận động nhanh, thay đổi liên tục, hoạt động với nhạc, đặc biệt rất thích khiêu vũ, để tán tỉnh bạn nhảy! 
5. Ngũ hành Thổ:
  • Năng lượng: di chuyển hướng xuống, ổn định, buổi chiều, cuối hạ/đầu thu, tuổi trung niên 
  • Đặc điểm: rộng lượng, chu đáo, hay giúp đỡ người khác, ứng xử khéo, biết cảm thông, hay lo nghĩ, thiếu quyết đoán, kiên nhẫn, thân thiện, biết quan tâm đến người khác, khoan dung, thức thời, chậm chạp, thiếu tự tin, hay than thân trách phận, bảo bọc người khác quá mức, can thiệp quá sâu vào cuộc sống của người khác, biết kích lệ và giúp đỡ người khác, tốt bụng, khiêm tốn, hay dựa dẫm, xem trọng gia đình và bạn bè. 
  • Các nét chính: miệng, má, sống mũi, vùng phía trên môi trên, mí mắt trên 
  • Cơ quan nội tạng: dạ dày, tì (lá lách), tuyến tụy 
  • Cơ quan cảm giác: miệng 
Một trong những nét nhân dạng chính dưới đây, bạn có thể thấy yếu tố Thổ đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn: 
  1. Khuôn mặt tròn 
  2. Cơ thể tròn trịa, đặc điểm là vùng bụng 
  3. Miệng rộng so với các nét còn lại trên mặt 
  4. Môi đầy đặn 
  5. Má bầu bĩnh và/hoặc đầy đặn 
  6. Ngực lớn (ở phụ nữ), cơ bắp to (ở nam giới) 
  7. Bắp chân to 
  8. Có nước da vàng 
Những sinh hoạt trong đời sống thường nhật, cho thấy yếu tố Thổ có vai trò quan trọng trong cuộc đời bạn: 
  • Phong cách trang phục: Thoải mái là yêu cầu hàng đầu, do đó bạn sẽ luôn chọn trang phục thoải mái thay vì trang phục kiểu cách, quần áo rộng rãi, tránh các trang phục bó chặt thắt lưng. Màu sắc bạn chọn là những tông màu ấm áp. Có lẽ bạn sẽ thích những đôi giày đế bằng với mũi tròn hơn và tránh mang giày gót nhọn bằng mọi giá. 
  • Nhà cửa và môi trường sống: Bạn thích tư thế ngồi nhiều hơn, ngồi rất lâu, vì thế, bạn thích chiếc ghế sofa to hoặc một chiếc đi-văng, còn đồ đạc được sắp xếp sao cho vừa tầm tay để lấy tiện lợi. Bạn thấy thoải mái với những căn phòng nhỏ, ấm cúng, trang trí đơn sơ mộc mạc, trưng bày các vật phẩm lưu niệm, những bức ảnh gia đình, tự làm các đồ vật thủ công, thích không khí gia đình hơn. 
  • Vận động: bạn thích tham gia những hoạt động cộng đồng, những môn thể thao tạo quan hệ, đồng đội. Luôn thích thú tập luyện khi có bạn bè cùng tham gia.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá ngũ hành nổi bật của đời bạn

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất. Mỗi con người chúng ta không thể thiếu vắng tình yêu, tình bạn, tình yêu thương
Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất. Trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta không thể thiếu vắng tình yêu, tình bạn, tình yêu thương lẫn nhau. Trong đó phạm trù của tình yêu thương lẫn nhau rất rộng gồm tình yêu thương đối với ông bà cha mẹ, tình yêu thương anh em trong gia đình.

Và xemboituong.com xin gửi tới các bạn những câu nói hay về tình anh em hay và tình cảm nhất, cho chúng ta tham khảo cũng như là một món quà tinh thần gửi tới những người anh em tốt của mình nhé

Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất

Anh em nào phải người xa

Cùng chung bác mẹ một nhà cùng thân

Yêu nhau như thể tay chân

Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.

——–

Anh em trên kính dưới nhường

Là nhà có phúc mọi đường yên vui.

Anh em bất nghĩa chi khoèo

Anh dữ như mèo tôi lại như trâu.

Anh em bốn bể là nhà

Người dưng khác họ vẫn là anh em.

Anh em chín họ mười đời

Hai đằng cùng có, chẳng rời nhau ra.

Ai về đợi với em cùng

Thân em nay bắc mai đông một mình

Chi bằng ruộng tốt rừng xanh

Vui cha, vui mẹ, vui anh em nhà!

Ai ơi giữ chí cho bền

Dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai

Xin đừng làm, nói đơn sai

Tin mình đừng sợ những lời dèm pha

Anh em một họ một nhà

Thương nhau chân thật đường xa cũng gần.

Anh em hiền thậm là hiền

Bởi một đồng tiền mà đấm đá nhau.

Anh em hiếu thảo thuận hiền

Chớ vị đồng tiền mà mất lòng nhau.

Khi nghèo thì chẳng ai nhìn

Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

Anh em ăn ở thuận hoà

Chớ điều chếch lệch người ta chê cười.

Thói thường gần mực thì đen

Anh em bạn hữu phải nên chọn người

Những người lêu lổng chơi bời

Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.

Làm người phải biết cương thường

Xem trong ngũ đẳng quân vương đứng đầu

Thờ cha kính mẹ trước sau

Anh em hòa thuận mới hầu làm nên

Vợ chồng đạo nghĩa cho bền

Bạn bè chung thủy, dưới trên đàng hoàng.

Anh em chồng vợ sum vầy

Vui này đã bỏ những ngày chia ly

Anh em cốt nhục đồng bào

Kẻ sau người trước phải hầu cho vui

Lọ là ăn thịt ăn xôi

Quý hồ ở nết tới lui bằng lòng.

Anh em cốt nhục đồng bào

Vợ chồng cũng nghĩa lẽ nào chẳng thương.

Anh em hiền thật là hiền

Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.

Anh em một khí huyết dây

Cũng như người có chân tay khác gì

Ai ơi lấy đấy mà suy

Có câu đường lệ trong thi để truyền.

Có tình thì đãi người dưng

Anh em bất nghĩa thì đừng anh em.

Anh em như chân như tay

Vợ chồng như áo, cởi ngay tức thì.

Anh em như chân với tay

Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

Anh em như thể chân tay

Cùng cha cùng mẹ hăng say việc nhà.

Chẳng thi, chẳng đỗ, chẳng sao

Anh em không được người nào bỏ nhau

Phải đòi cho được thày Cầu.

Phải đào hết đất nhà giàu đổ đi.

Trên đây là sự tổng hợp những câu nói hay về tình anh em cho bạn tham khảo và suy ngẫm, và để bày tỏ tình cảm cũng như tình yêu thương của bạn đối với người thân của mình bạn có thể tham khảo những câu nói hay về gia đình cảm động nhất nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp những câu nói về tình anh em hay và tình cảm nhất
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd