Tuổi Tý và tuổi Hợi có hợp nhau không? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế. Sau khi kết nghĩa anh em tại vườn đào, Trương Phi và Quan Vũ đều giết chết vợ của mình rồi bỏ theo Lưu Bị mong dựng nghiệp lớn.
Câu nói nổi tiếng: “Bạn bè như chân tay, vợ con như quần áo” chính là câu nói từ miệng của Lưu Bị mà ra. Có thể nói, trong mắt Lưu Bị, vợ con chẳng qua là một thứ đồ vật tùy lúc có thể mặc vào cởi ra mà thôi… Lưu Bị tự là Huyền Đức, người quận Trác, nay là tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, hậu duệ một nhánh xa của hoàng tộc nhà Đông Hán. Lưu Bị cũng là người sáng lập nên nhà Thục Hán thời Tam Quốc, sử sách thường gọi là Chiêu Liệt Đế.
Từ nhỏ, nhà nghèo, sau khi lớn lên gia nhập quân đội triều đình trấn áp khởi nghĩa Khăn vàng. Sau đó, nhờ sự giúp sức của Gia Cát Lượng, Lưu Bị hợp lực cùng Tôn Quyền đánh bại quân Tào Tháo ở Xích Bích, chiếm được Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung. Năm 221, Bị xưng đế, định đô ở Thành Đô. Một năm sau đó, trong trận chiến Ngô Thục, quân Bị thua trận, không lâu sau đó, Bị chết.
Lưu Bị là người huyện Trác, quận Trác, tự xưng là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con của Hán Cảnh đế. Lưu Bị liên tục nói về mình như vậy, cứ gặp người là nói vậy, sử sách cũng cứ như vậy mà ghi về Bị. Còn về chuyện có thực hay không thì chẳng có ai biết. Những người ưa thích “Tam Quốc diễn nghĩa” đều nghe rất quen câu này của Lưu Bị: “Tại hạ Lưu Bị, hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”. Thực tế, chẳng có ai muốn hỏi Lưu Bị là hậu duệ, con cháu của ai, vì vậy, cách nói đó của Lưu Bị quả thực rất thừa và vô duyên.
Tuy nhiên, đi đâu Lưu Bị cũng chỉ có một cách nói như vậy. Điều này chứng tỏ, xuất thân nghèo khổ đã khiến Lưu Bị phải đau đầu rất nhiều. Lưu Bị từ nhỏ đã mồ côi cha, cùng mẹ đan chiếu bán để sống qua ngày. Bên cạnh căn lều cỏ của mẹ con Lưu Bị ở có một cây dâu, nhìn từ xa trông giống như một chiếc xe có lọng che.
Những người khách đi qua đây nhìn thấy hình dáng của cái cây này đều lấy làm kỳ lạ, nói rằng ở đây hẳn có quý nhân. Khi Lưu Bị chơi với chúng bạn ở dưới gốc cây nói: “Sau này ta sẽ đi một chiếc xe sang trọng như vậy”. Thời bấy giờ, xe có lọng là loại xe dành cho hoàng đế, vì vậy, chú của Lưu Bị là Lưu Tử Kính mới quát Lưu Bị rằng: “Mày ăn nói lung tung như vậy định hại chết cả gia đình chúng ta hay sao?”. Từ nhỏ, Lưu Bị đã không thích đọc sách, học hành cả ngày chỉ thích chơi với chó, ngựa, đàn hát và mặc quần áo đẹp.
Lưu Bị cao 7 thước 5 tấc (hơn 2 mét), tay dài quá đầu gối, ngoảnh đầu lại có thể nhìn thấy tai của mình, không thích nói, vui buồn không ai hay. Lưu Bị là người thích kết giao với những kẻ hào hiệp. Vì vậy, Trương Thế Bình, Tô Song Kha, các thương nhân nổi tiếng ở Trung Sơn đều bị kẻ “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương” cuốn hút, cho rằng ông ta là kẻ không hề tầm thường nên đã cung cấp Lưu Bị không ít tiền bạc.
Với số tiền của được cung cấp, Lưu Bị đã mua một đôi binh mã bắt đầu thực hiện kế hoạch tranh đoạt thiên hạ của mình. Thời đại Tam Quốc là thời đại của những kẻ gian hùng. Tuy nhiên, khác với Tào Tháo và Tôn Quyền có sẵn một cơ sở vững chắc do thế hệ trước để lại, Lưu Bị dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng. Tất cả gia sản của Lưu Bị chỉ là cái danh “hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng”.
Lưu Bị không phải là một kẻ háo sắc đến cuồng loạn, do vậy trong sử sách rất ít nói đến chuyện tình ái của ông ta. Tuy nhiên, Mạnh Tử có nói: “Thực, sắc, tính dã”, nghĩa là chuyện ham muốn ăn uống và tình dục là bản năng của con người. Lưu Bị cũng không phải ngoại lệ và chỉ ở phương diện sắc và tình, người ta mới thấy một con người hoàn toàn khác với sử sách lẫn tiểu thuyết của Lưu Bị.
Những người thích Tam Quốc hẳn ai cũng nhận thấy rằng, Lưu Bị có một đặc điểm rất xấu đó là đánh được thì đánh, không đánh được ắt chạy thoát thân thục mạng, tính mệnh của vợ, của con đều quên sạch. Riêng nói về trình độ chạy trốn, tần suất và cả sự nhếch nhác thì ngay đến cả tổ tiên của Lưu Bị là Hán Cao Tổ Lưu Bang có sống dậy cũng phải chấp nhận là “hậu sinh khả úy”.
Trong cả sử sách lẫn “Tam Quốc diễn nghĩa” có thể thống kê được ít nhất 4 lần Lưu Bị có hành động không được xứng tầm với một đại anh hùng, vứt bỏ vợ con, chạy lấy thân mình. Lần thứ nhất là vào năm Kiến An thứ nhất, khi đó Lưu Bị vừa tiếp nhận ấn soái Từ Châu. “Viên Thuật tới tấn công tiên chủ, tiên chủ chống lại ở Hu Di, Hoài Âm,…” Lưu Bị đành để Trương Phi ở lại phòng thủ Hạ Phì còn bản thân mình thì đem quân chống lại Viên Thuật. Kết quả Tào Tháo cấu kết với Lã Bố tấn công Hạ Phì, “Bố bắt vợ con tiên chủ làm tù binh”.
Lưu Bị không còn cách nào, chỉ còn cách đồng ý giảng hòa cùng Lã Bố, “Bố mới thả vợ con (Lưu Bị) về”. Tới năm Kiến An thứ ba, do cuộc tấn công của Lã Bố ở Từ Châu, Lưu Bị chỉ còn biết đóng quân ở đất Tiểu Bái. Trong thời gian này Lưu Bị những muốn tập hợp lực lượng tìm Lã Bố trả thù. Không ngờ rằng lần tái chiến này lại tiếp tục gặp phải thất bại đành chạy đến chỗ Tào Tháo. Tào Tháo đối đãi ông ta cũng chẳng bạc, phong ông ta làm Dự Châu mục.
Nhưng Lưu Bị không cam tâm, chuẩn bị tới huyện Bái để thu thập tàn quân, những mong rửa mối nhục cũ. Tào Tháo cũng ủng hộ, cấp cho Lưu Bị quân lương, phái quân đội theo ông ta tìm Lã Bố phục thù. Kết quả là Lưu Hoàng thúc không chịu thua kém ai lại bị bại dưới tay bộ tướng của Lã Bố là Cao Thuận. Cao Thuận “lại bắt được vợ con tiên chủ đưa về cho Lã Bố”.
Cuối cùng chính Tào Tháo phải thân chinh đánh Lã Bố. Sách “Tam Quốc chí” chép: “Tào công tự mình thân chinh, giúp tiên chủ vây Lã Bố ở Hạ Phì, bắt sống được Bố”. Chỉ tới lúc này, Lưu Bị mới có thể đem vợ con về. Đó là lần thứ hai. Sau đó hai năm, đến năm Kiến An thứ 5, Lưu Bị không cam tâm dưới trướng Tào Tháo, mượn cớ Viên Thuật mâu thuẫn với Tào Tháo mà đánh chiếm Hạ Phì vốn đã thuộc về Tào Tháo.
Tào Tháo không thể tha thứ bèn đem quân đánh Bị. Hoàng thúc lần này lại thêm một lần mất mặt. Chưa giao chiến, chỉ mới thấy cờ quân Tào đã hoảng sợ không còn con đường lựa chọn nào khác “bỏ dân mà chạy”. Kết quả là Tào Tháo lại “bắt được thê tử của tiên chủ, đồng thời bắt sống cả Quan Vũ”.
Chúng ta biết đều biết “ba điều kiện” của Quan Vũ với Tào Tháo rồi “qua 5 cửa chém 6 tướng” chỉ là sự hư cấu của nhà tiểu thuyết. Trong sử sách khi nói về việc Quan Vũ bỏ Tào Tháo đi tìm Lưu Bị không hề nói rõ là có mang theo hai vị phu nhân hay không.
Lưu Bị khi ở Kinh Châu là ở cùng gia đình, còn sinh ra A Đẩu. Cứ xem thái độ đối đãi của Tào Tháo với Lưu Bị và Quan Vũ thì đủ rõ, Tào Tháo đã cùng thả Quan Vũ và “vợ con tiên chủ”. Lần cuối cùng là vào năm Kiến An thứ 13, trong chiến dịch Trường Bản, Lưu Bị “bỏ vợ con, cùng Gia Cát Lượng, Trương Phi, Triệu Vân,… khoảng hơn mười người ngựa bỏ chạy”. Cam phu nhân và A Đẩu may mắn được Triệu Vân bảo vệ mới thoát khỏi kiếp nạn. Trong các sử liệu không thấy nhắc đến Mi phu nhân, rất có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch này. Như vậy, Lưu Bị bốn lần li tán cùng gia đình, trong đó, Lã Bố bắt hai lần, Tào Tháo bắt hai lần.
Truy nguyên nguồn gốc của sự tình dường như đều liên quan đến Tào Tháo. Điều đáng nói là, mọi người thường ca ngợi Lưu Bị trăm lần thất bại cũng không khuất phục, chính bản thân Lưu Bị cũng xác nhận như vậy. Nhưng cách mà Lưu Bị đối xử với vợ con như vậy hoàn toàn không thể lấy lý do “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” để biện minh được. Bởi lẽ, nếu không giữ được cái nhỏ thì chắc gì cái lớn đã giữ được.
Điều đáng nói là hành động bỏ vợ bỏ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị hoàn toàn trái ngược với hành động hy sinh tính mạng để cứu con của Mi phu nhân, dù đứa con được cứu hoàn toàn không phải là con của bà ta. Thực tế, chuyện này phải bắt đầu từ hồi thứ 25 “Đóng Thổ sơn Quan Công giao ước ba điều Cứu Bạch Mã Tào Tháo giải trùng vây”. Khi đó, Quan Công dẫn binh vào Hạ Phì, thấy nhân dân yên ổn, liền đi vào phủ tìm hai chị, Cam, Mi hai phu nhân khi nghe nói Quan Công tới vội vàng ra nghinh đón. Công ở dưới thềm bái vào nói: “Làm cho hai chị phải thất kinh, thực là tội của mỗ vậy.
Hai phu nhân liền hỏi: “Hoàng thúc nay ở đâu?”. Công đáp: “Hiện không rõ”. Hai phu nhân hỏi tiếp: “Nay nhị thúc định thế nào?” Công đáp: “Quan mỗ ra thành tử chiến bị vây khốn ở Thổ sơn, Trương Liêu khuyên tôi đầu hàng, tôi bèn đặt ra ba điều cùng ước hẹn.
Tào Tháo đã đồng ý, nên lui binh cho tôi vào trong thành. Tôi chưa được biết ý của hai chị thế nào chưa dám tự quyết. Hai phu nhân liền hỏi: “Ba việc thế nào?”. Quan Công đem ba việc ở trên mà nói lại một lần. Cam phu nhân nói: “Đêm qua quân Tào vào thành, ta nghĩ ắt sẽ chết; ai ngờ chúng không hề động tới, một tốt cũng không bước vào cửa. Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng ta? Chỉ sợ sau này Tào Tháo không dung cho thúc thúc đi tìm Hoàng thúc thôi”.
Công đáp: “Hai chị yên tâm, Quan mỗ đã có cách”. Hai phu nhân nói: “Thúc đã có tự quyết, phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi”. Đoạn nói chuyện giữa Cam, Mi phu nhân đối với Quan Công có thể thấy Cam, Mi phu nhân là sản phẩm điển hình của tư tưởng đạo đức luân lý của Nho gia. Qua lời “phàm việc gì không phải hỏi hạng nữ lưu như chúng tôi” và “Nay thúc đã quyết rồi hà tất phải hỏi hai chúng tôi?” có thể thấy hai người là những người nhu mì, nhưng lại hoàn toàn thiếu chủ kiến. Trước tất cả mọi việc, thậm chí ngay cả sự sống chết của bản thân họ đều do người đàn ông nắm giữ. Những hình tượng phụ nữ như thế là một dạng ký hiệu tồn tại trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.
Ý nghĩa mà họ mang theo trong tác phẩm văn học vì thế rất nhỏ bé, rất khó để lại ấn tượng gì trong lòng người đọc. Nhưng những nhân vật này trong chiến dịch Trường Bản lại có một sự cải thiện rất đáng kể. Đặc biệt là hình ảnh cảm động của Mi phu nhân trong hồi thứ 41 của “Tam quốc diễn nghĩa”, Lưu Huyền Đức mang dân qua sông, Triệu Tử Long một ngựa cứu thiếu chủ.
Khi đó, quân Tào trùng trùng vây khốn Lưu Bị, trong thời khắc giữa sự sống và cái chết, Triệu Vân tìm thấy Mi phu nhân bị trọng thương. Đối diện với có hội sống sót duy nhất đó, người phụ nữ này nhất định không chịu lên ngựa mà nói với Triệu Vân một cách đầy nghĩa khí rằng: “Thiếp gặp được tướng quân, A Đẩu có cơ hội sống rồi. Hy vọng tướng quân có thể thương xót phụ thân của A Đẩu nửa đời long đong chỉ có mình nó là cốt nhục. Tướng quân có thể bảo vệ đứa con này, dẫn nó đến gặp phụ thân, thiếp có chết cũng không ân hận”.
Mi phu nhân vì bảo vệ sự sống cho đứa con không phải do mình sinh ra sẵn sàng nhảy xuống giếng mà chết. Một người phụ nữ không mảy may nghĩ đến tính mạng của bản thân để bảo vệ đứa con của người phụ nữ khác, điều này có lẽ chính là nguyên nhân đã khiến Triệu Vân đứng giữa vòng vây của quân Tào nỗ lực không ngừng, cứu được tiểu chủ nhân.
Kết thúc hồi này, La Quán Trung đã đặc biệt ca ngợi Mi phu nhân rằng: “Dùng cái chết để bảo tồn dòng giống họ Lưu, Đấng nam nhi còn thua người phụ nữ trượng phu này”. Sự đáng kính của người con gái anh hùng can đảm vì đại nghĩa, hiền đức mạnh mẽ này khác hẳn với sự nhu nhược yếu đuối của Lưu Bị ở trên. Đọc đến đoạn này, độc giả không khỏi cảm thấy xúc động.
Một người phụ nữ vì đại nghiệp của chồng mà cam tâm tình nguyện hy sinh khiến cho nhiều đấng mày râu không khỏi thẹn thùng. So với hành động của Mi phu nhân, việc bỏ vợ con chạy lấy thân mình của Lưu Bị sao có thể nói là “bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn” được?
Cam phu nhân là một mỹ nữ nổi tiếng thời kỳ Tam Quốc. Sinh ra trong một gia đình nghèo hèn, từ nhỏ Cam thị đã được một người xem tướng nói rằng: “Cô gái này sau này sẽ phú quý vô cùng, được một vị quý nhân nâng đỡ”. Sau khi Lưu Bị khởi binh tại Dự Châu đã nạp Cam thị làm thiếp. Sau đó mấy người vợ cả của Lưu Bị đều qua đời, Cam phu nhân vì thế mà trở thành vợ cả. Sau khi Lưu Bị đến Kinh Châu nhờ cậy Lưu Biểu, sinh hạ được A Đẩu.
Khi đại quân của Tào Tháo truy đuổi quân của Lưu Bị tại Trường Bản Đương Dương, Lưu Bị bèn vứt bỏ vợ lớn lẫn vợ bé. Hoàn toàn dựa vào một tay Triệu Vân bảo vệ, Cam phu nhân mới thoát khỏi kiếp nạn. Nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, sau chiến dịch Xích Bích không lâu, Lưu Bị vừa mới ổn định thì cô “hương tan ngọc nát”, gặp bạo bệnh mất ở tuổi 24.
Cả đời Cam phu nhân theo Lưu Bị chạy đông chạy tây, trôi dạt nghèo khổ tương phản hoàn toàn với dự đoán của người xem tướng thuở nhỏ. Cả đời cô ấy chưa từng được hưởng một chút hạnh phúc nào. Tương truyền dung mạo của Cam phu nhân khi trưởng thành không giống với những phụ nữ bình thường khác. Mười tám tuổi đã trở thành mỹ nữ rất được Lưu Bị mê đắm. Lưu Bị thường để cô cùng ở trong trướng lụa, đứng ở ngoài trời mà nhìn.
Cam thị giống như tuyết trắng ngưng tụ dưới ánh trăng vậy. Ở Hà Nam có người muốn lấy lòng Lưu Bị, dâng tặng một tượng ngọc cao ba thước (khoảng 1m), Lưu Bị đem tượng ngọc này để cạnh Cam phu nhân, thường bắt Cam phu nhân trong đêm phải bỏ hết y phục để so sánh với người ngọc ở bên.
Lưu Bị chơi đùa Cam phu nhân không khác gì pho tượng bằng ngọc, thường nói: “Điều quý của ngọc là ở chỗ nó có thể so với cái đức của người quân tử. Hơn nữa lại có thể đẽo tạc thành nhân hình thì khó mà bỏ đi được”. Sự thanh khiết, nồng ấm của Cam phu nhân và tượng ngọc không có sự phân biệt, mọi người nhìn không biết đâu là người ngọc, đâu là Cam phu nhân. Vì thế Cam phu nhân rất muốn phá hủy tượng ngọc.
Bà từng khuyên Lưu Bị rằng: “Trước đây Tử Hãn không lấy ngọc làm quý, sách Xuân Thu vì thế mà khen ngợi. Hiện tại Ngô và Ngụy đều chưa diệt được, làm sao có thể vui chơi mà quên chí của mình. Phàm là thứ gì sinh ra dâm cảm đều không nên dùng”. Lưu Bị nghe những lời đại nghĩa của Cam phu nhân mới bỏ tượng ngọc. Tổng quan mà xét cuộc đời của Cam, Mi phu nhân và vận mệnh của Mi phu nhân cũng có một chút tựa hồ tốt đẹp: từ thiếp lên địa vị một phu nhân, sau khi chết được Lưu Bị phong làm Hoàng Tư phu nhân.
Đến khi hậu chủ Lưu Thiện tức vị đã phong bà thành Chiêu Liệt hoàng hậu, để bà hợp táng cùng Lưu Bị. Nhưng sự tôn vinh này cũng chỉ là nhờ có Lưu Thiện, con của bà, chẳng qua là “phú quý nhờ con” mà thôi. Đến như Mi phu nhân thì số phận quả thực là bất hạnh. Xét cho cùng thì khi Lưu Bị gặp nạn lấy bà, bà vẫn là chính thất nhưng khi Lưu Bị làm Hoàng đế thì không còn đoái hoài gì đến bà nữa.
Tam Quốc chí của Trần Thọ cũng không lập cho bà một truyện riêng mà chỉ đề cập đến bà trong một câu của Mi Trúc truyện (Trúc dâng em gái của mình làm phu nhân của tiên chủ). Có thể nói rằng, Mi phu nhân lúc còn sống thì gian khổ, gặp hết kiếp nạn này tới kiếp nạn khác khi chết lại im hơi lặng tiếng.
Thật ra điều này cũng không lấy gì làm lạ, ngay trong Tam Quốc diễn nghĩa Lưu Bị đã từng nói rằng: “Anh em như tay chân, vợ con như quần áo vậy thôi” mà y phục thì hoàn toàn có thể tùy tiện vứt bỏ. Bởi vì “quần áo rách, có thể may cái mới, chân tay bị chặt làm sao mà nối được đây?”. Nhiều người cho rằng, câu nói này thể hiện khí phách anh hùng, hoài bão kinh bang tế thế của Lưu Bị. Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng điều này chỉ thể hiện sự coi thường của Lưu Bị đối với vợ con mình.
Với Lưu Bị, vợ con chỉ giống như đồ vật, tùy lúc, tùy nơi có thể thay được. Chính vì thế, trong cuộc đời mình, Lưu Bị rất nhiều lần bỏ vợ con chạy thoát thân và cũng lấy rất nhiều vợ. Trước khi lấy Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị đã trải qua nhiều đời vợ. Tuy nhiên, trong những năm chiến tranh loạn lạc, vợ của Lưu Bị hoặc chết vì bệnh, hoặc chết vì chiến loạn nên dù là vợ thứ nhưng Cam phu nhân được Lưu Bị giao cho nắm quản mọi việc trong gia đình.
Sau này, ngoài Cam, Mi phu nhân, Lưu Bị còn lấy hai người nữa làm vợ. Một người chính là em gái của Tôn Quyền, sử gọi là Tôn phu nhân. Người còn lại chính là người được Lưu Bị phong làm Hoàng hậu, Ngô thị. Hôn sự mang màu sắc chính trị này đã được rất nhiều tài liệu nhắc tới. Tuy nhiên, có lẽ ít người được biết tới câu chuyện lấy góa phụ Ngô thị của Lưu Bị. Ngô Thị từ nhỏ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, trước khi chết, cha của Ngô thị đã gửi gắm cô cho Ích Châu Mục là Lưu Yên. Lưu Yên nghe thầy tướng số nói Ngô thị có quý tướng, sau này ắt hẳn giàu sang, phú quý tột bậc có thể làm tới hoàng hậu, vì vậy muốn cưới Ngô thị làm vợ.
Tuy nhiên, do Lưu Yên và cha Ngô thị là bạn bè lâu năm, nay lại lấy con bạn thì thật không phải, vì thế, Lưu Yên đành cưới Ngô thị cho con trai mình là Lưu Xương. Lưu Xương sau đó chết sớm, Ngô thị trở thành góa phụ. Tới năm 214, Lưu Bị lấy thành Ích Châu, quần thần khuyên Lưu Bị lấy Ngô thị, Lưu Bị nghĩ rằng mình với Lưu Xương là người cùng họ, lấy Ngô thị e không tiện. Tuy nhiên cuối cùng, do quần thần khuyên nhủ, Lưu Bị quyết định nạp Ngô thị làm thiếp.
Vào năm Kiến An thứ 24, sau khi lên ngôi Hán Trung Vương, Lưu Bị lập Ngô thị làm Vương hậu. Tiếp đó tới năm Chương Vũ thứ nhất, Lưu Bị xưng đế, lập Ngô hậu làm Hoàng hậu. Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can.
Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng. Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng sau đó chết tại đây.
Theo Hôn nhân & Pháp luật
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Đặt tên ở nhà cho bé hay ý nghĩa 2018 giúp bạn tìm được một cái tên phù hợp nhất cho con yêu của mình. Hiện nay ngoài tên trên giấy khai sinh thì các ông bố, bà mẹ thường đặt cho con một nickname độc đáo để gọi ở nhà với ý nghĩa gần gũi, yêu thương hoặc theo quan niệm của người xưa là tên xấu để dễ nuôi, không khóc quấy. Những cái tên ở nhà cho bé thường liên quan đến các con vật, đồ ăn, nhân vật hoạt hình,…mà bố mẹ cảm thấy dễ thương. Việc chọn đặt tên cho con gái hay đặt tên cho con trai tại nhà cũng được lựa chọn kỹ, có thể nó gắn liền với kỉ niệm nào đó của bố mẹ, hay mong muốn dành cho con sau này. Dù là nguyên nhân gì thì những cái tên đó vẫn luôn thật dễ thương và đáng yêu.
Nếu bạn đang muốn tìm cho con mình một cái tên ở nhà hay độc đáo thì có thể tham khảo những gợi ý đặt tên ở nhà cho con dưới đây sẽ phần nào giúp bạn tìm được cái tên thích hợp cho con yêu của mình.
Nội dung
Dù là tên ở nhà song nó phản ánh niềm vui, sự hãnh diện của cha mẹ gửi gắm vào con mình. Tuy nhiên, có khá nhiều phụ huynh lại quá coi trọng vấn đề đặt tên ở nhà cho con, trả lời về vấn đề này, có một số chuyên gia tâm lý cho rằng: Tâm lý chung của bậc phụ huynh đó là thông qua cái tên, họ mong muốn con họ gặp được nhiều điều may mắn, mang ý nghĩa tốt đẹp, phản ánh nguyện vọng của mình về con.

Một số chuyên gia cho rằng, cha mẹ cũng không nên quá coi trọng chuyện đặt tên cho con bởi tên gọi không thể quyết định được vận mệnh tương lai hay giúp con trẻ ăn ngoan ngủ kỹ như nhiều chị em chia sẻ.Cùng tham khảo những cái tên ở nhà thật dễ thương cho bé trai nhà mình mẹ nhé:
Tên theo trái cây, củ quả: Cà-ri, Cà-rốt, Bom, Khoai, Khoai Tây, Sắn, Dưa, Đậu, Đen, Mướp, Su Hào, Bầu, Bí, Bắp, Ngô, Tiêu, Bơ, Chuối, Bí Đỏ, Bí Ngô,…
Tên ở nhà theo động vật dễ thương hay năm sinh của bé: Tị, Thìn, Tí, Sửu, Heo, Nhím, Beo, Gấu, Tôm, Tép, Ỉn, Ủn, Cún, Cọp, Sóc, Nghé, Cua, Cò,…
Tên ở nhà theo nhân vật hoạt hình hoặc truyện tranh: Doremon, Nobita, Đê-khi, Chaien, Misa, Superman, Iron Man, Batman, Nemo, Songoku (Goku), Tin Tin, Tom, Jerry,..
Tên theo các loại món ăn, thức uống: Kẹo, Cà Phê, Ken, Tiger, Bột, Mì, Dừa, Bún, Bánh mì, Bơ, Coca,…
Tên theo người nổi tiếng hoặc nhân vật trong phim: Messi, Beckham, Ronaldo, Roberto, Madona, Pele, Tom, Bill, Brad Pitt, Nick, Justin, John, Adam Levin, Edward,…
Tên theo hình dáng, đặc điểm của bé: Híp, Tròn, Mũm Mĩm, Đen, Ròm, Mập, Phệ, Bư, Bi, Tẹt, Sumo, Sún,…
Khi muốn chọn tên hay để đặt ở nhà cho con gái rượu đó là nên chọn những cái tên ngắn gọn, 2 vần, dễ nghe, thân mật và gần gũi.
Dưới đây là những gợi ý tên ở nhà đang được nhiều người lựa chọn để đặt tên cho con gái, cha mẹ có thể tham khảo:
Tên hay ở nhà theo hoa quả: Mít, Ổi, Sơ ri, đào, Nhãn, Mận, Bí, Su hào, Khoai, Na, Bắp cải, Cà chua, Hồng
Tên hay ở nhà theo động vật dễ thương: Thỏ, Nhím, Sóc, Vẹt
Tên hay ở nhà theo tiếng Anh: Bin, Bo, Bond, Tom, Sue, Bee, Shin, Bim, Bon, Ken, Bi, Cindy
Tên hay ở nhà các ông bà xưa thường đặt để dễ nuôi: Mén, Tí, Ty, Bông, Tít, Tót, Cún, Bống, Tủn,
Tên hay ở nhà theo nhân vật truyện tranh: Xuka, Doremon, nobita, tép pi
Tên hay ở nhà theo nhân vật trong phim hoạt hình: Dumbo trong phim Chú voi biết bay “Dumbo”; Doug (chú chó trong phim “Up”); Gấu Pooh; Tod và Copper trong bộ phim “Con cáo và chó săn”; Simba trong phim “Vua sư tử”; Timon và Pumbaa trong phim “Vua sư tử”; Nhóc Maruko trong loạt phim hoạt hình Maruko Chan; Tom và Jerry; Nemo trong phim hoạt hình “Giải cứu Nemo”.
Tên hay ở nhà theo nốt nhạc: Đô, Rê, Mi , Fa, Sol, La, Si
Tên hay ở nhà theo tên con sao Việt: Dollar, Bella, Luna, Anna, Misa, Misu, Cherry, Devon, Suli, Suti, Panda, Cadie Mộc Trà.
Tên hay ở nhà theo nhân vật nổi tiếng: Ben, Brad hoặc Pitt, Jun, Jin, Kun, King, Nick, Victoria, Queen
Tên hay ở nhà theo ngoại hình: Xoăn, Nhí, Chanh, Bự
Ngoài ra có rất nhiều cái tên cho bé ở nhà rất hay và ý nghĩa, đặt được cho cả trai và bé gái mà vẫn thể hiện được sự thông minh xinh xắn, đáng yêu của trẻ.
Cá Heo, Khỉ, Chuột, Sóc (những loài động vật thông minh, nhanh nhẹn)
Chớp (nhanh như chớp)
Chuồn Chuồn (loài côn trùng bay nhanh nhất)
Jerry (chú chuột nhanh nhẹn, thông minh luôn chiến thắng mèo Tom trong bộ phim hoạt hình Tom & Jerrry)
Tintin (chàng thám tử thông minh, hiểu biết sâu rộng, đam mê khám phá trong bộ truyện “Những cuộc phiêu lưu của Tintin”)
Kid (kẻ bí ẩn với tài năng ảo thuật, thoát ẩn thoắt hiện, nhiều khi phải khiến thám tử lừng danh Conan bó tay)
Đêkhi: nhân vật đẹp trai, học giỏi, được nhiều người yêu mến trong truyện Đô-rê-mon
Tấm (truyện cổ tích VN Tấm-Cám).
Xuka (cô bạn xinh xắn, học giỏi, hòa đồng trong truyện Đô-rê-mon)
Dâu Tây, Cherry (những loại quả ngọt ngào, dễ thương)
Kitty (cô mèo Hello Kitty đáng yêu)
Moon, Luna (trong tiếng anh có nghĩa là “mặt trăng” dịu dàng, tỏa sáng)

Ớt
Nhót
Chanh
Quậy
Hạt Tiêu
Ốc Tiêu
Hạt Tiêu
Tí Teo
Tí Ti
Bé Xíu
Híp
Tít
Hớn
Tếu
Bờm
Vẹt
Sáo
Khướu (Khiếu)
Phính
Múp
Mập
Tròn
Béo
Heo
Ỉn
Bông
Bé Bự
Khoai Tây
Bé Ú
Mèo Ú
Đô – rê – mon (hoặc gọi tắt là Mon): Chú mèo máy béo tròn, tốt bụng có chiếc túi thần kì trong truyện tranh Nhật Bản
Po: Chú gấu trúc béo tròn, đáng yêu trong bộ phim Kungfu Panda
Bánh Ú, Bánh Bao, Bánh Rán, Bánh Đúc

Giò
Sữa
Bột
Bông
Mía
Sô cô la
Bánh Mật
Mật Ong
Kẹo Kéo
Caramen
Cà Phê
Ca Cao
Bánh Quy
Ô liu (Olive)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Ngày 8/3, đó là cả một câu chuyện lịch sử dài về cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng và hạnh phúc cho phụ nữ của nhiều nhóm phụ nữ trên toàn thế giới. Chính phụ nữ là những người làm nên ngày 8/3 lịch sử. Để mỗi năm có một ngày tràn ngập hoa thì đã có không ít máu và nước mắt đổ xuống trong quá khứ. Và hiện nay phụ nữ vẫn không ngừng tranh đấu vì quyền bình đẳng với nam giới.
Ngày lịch sử bắt đầu Ngày 8 tháng 3 năm 1857, các công nhân ngành dệt chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại Thành phố New York: 12 giờ làm việc một ngày. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
![]() |
| Những người phụ nữ đứng lên đấu tranh cho mình |
![]() |
| Vào ngày 8/3 còn là dịp kỷ niệm cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng |
Tả Phù, Hữu Bật, Đế Vượng, Tràng Sinh: Có Tả Hữu đi với khoa tinh, sức học sẽ rộng hơn. Sinh và Vượng thì chỉ sự phong phú, tương hợp với học gạo, học ráo riết thật nhiều. Đi với khoa tinh, Sinh Vượng là hệ số làm tăng thêm kiến thức tổng quát. Ví dụ như Khoa-Sinh nghĩa là học rộng, sáng tác nhiều. Khôi-Vượng sẽ đỗ cao, thủ khoa hay được Hội đồng Giám khảo tuyên dương.
b. Những sao thúc đẩy học vấn
Quan Phù, Quan Phủ: chỉ sự cạnh tranh, ganh tị, thi đua, ích kỷ. Về việc học, Phù Phủ chỉ sự cầu tiến, cố gắng thường đưa đến ganh đua, đôi khi có đố kỵ nhỏ nhen, cạnh tranh bất chính. Nếu gặp Hóa Kỵ hay Phục Binh hay các sao chỉ tính tham lam thì sự cạnh tranh dùng đến thủ đoạn không cao thượng.
c. Những sao may mắn cho học vấn:
Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Quan, Thiên Phúc, Tả Phù, Hữu Bật: đều có nghĩa hên may, được giúp đỡ, được phù hộ, ví dụ như thi trúng tủ hoặc được báo mộng bài thi (Quang, Quý) gặp thầy dễ, bài dễ, được khoan hồng (Tả, Hữu, Quan, Phúc). Cả sáu sao này chỉ sự phù trì của linh thiêng hoặc sự trợ giúp của người đời.
- Thanh Long, Hóa Kỵ hay Lưu Hà
- Bạch Hổ, Phi Liêm hay Tấu Thư
- Thiên Mã, Tràng Sinh hay Phi Liêm
- Thiên Hỷ, Hỷ Thần
những bộ này nếu đóng ở Mệnh hay chiếu vào Mệnh thì thường gặp vận hội tốt đẹp. Nếu đóng ở cung hạn thì gặp hên may trong hạn đó. Nếu bộ sao hên rơi đúng vào kỳ thi thì dễ đậu.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
![]() |
Chùa Diệu Viên tọa lạc trên một ngọn đồi, cách thành phố Huế khoảng 5km tại xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đây là ngôi chùa có lịch sử hình thành khá lâu đời và là ngôi chùa sư nữ nổi tiếng vào bậc nhất của đất Thần kinh.
Khi nghe đến những ngôi chùa có tên mang âm đầu là “Diệu” như: Diệu Đức, Diệu Nghiêm, Diệu Viên đây đều là những chùa dành cho các sư nữ. Chùa Diệu Viên là ngôi chùa sư nữ đầu tiên tại Huế.
Lịch Sử: Ban đầu, chùa chỉ là nơi thờ tự của một vị quan lớn triều Vua Tự Đức. Đến cuối đời Vua Khải Định, chùa được chuyển nhượng cho cụ bà Ưng Dinh (Ưng Dinh là tên chồng, do người Huế xưa có phong tục gọi tên người phụ nữ đã có chồng theo tên người chồng), nhũ danh là Hồ Thị Thế Anh trông coi trụ trì và từ đó chùa chỉ nhận các sư nữ. Sau này cụ bà Ưng Dinh, cùng bà Nguyễn Thị Khương và một số phật tử đã mời Sư bà Thích Nữ Hướng Đạo khai sơn năm 1924.
Kiến Trúc: Điều độc đáo khi đến với ngôi chùa này chính là cổng tam quan. Cổng tam quan Thanh Trúc động Quán Thế Âm của chùa Diệu Viên được xây dựng theo lối cổng – động rất đặc trưng. Phía dưới chỉ một vòm cổng dẫn sâu hút vào chùa bằng một lối đi, phía trên là động Quán Âm, chất liệu gạch và vôi vữa nhưng bên ngoài dán đá để tạo ra một loại cổng hình hang động rất ấn tượng. Cổng tam quan này gồm ba tầng tạo hình như một chiếc cổng tạc từ sườn núi, tầng trên là bức tượng Thế Tôn ngồi kiết già nhập định, tầng thứ hai thiết kế bức tượng Bồ Tát Quán Thế Âm rảy nước cành dương với hai câu đối đáp nổi ở hai bên như được khắc vào đá.
Đến thăm chùa đi qua chiếc cổng vòm, như đi vào cung điện vua, trên cổng thờ Đức Quan thế âm Bồ tát để khi đi vào chùa, tất cả các phật tử đều thấy như trên đầu mình có được một vị phật đứng độ trì, giúp tinh thần thoải mái.
Khuôn viên chùa khá rộng có những hàng đá núi viền quanh một cách tự nhiên tăng thêm vẻ cổ kính của ngôi cổ tự. Cuối năm 1926, vua Bảo Đại đã sắc phong chùa là Sắc tứ Diệu Viên Sư nữ Tự. Chùa được trùng tu, mở rộng vào các năm 1929 và 1953 và lần gần đây nhất là lần thứ tư, khánh thành vào ngày 23/3/2001, chùa Diệu Viên đã trở thành ngôi tự viện khang trang, thanh tịnh.
Ngoài những giá trị nghệ thuật rất có ý nghĩa để lại khi du khách bước chân vào chùa, lòng trở nên thư thái, nhẹ nhàng và thanh tịnh. Chùa Diệu Viên còn mở rộng các hoạt động từ thiện xã hội như: chùa có một viện dưỡng lão, một trường mẫu giáo, phòng châm cứu, các lớp học văn hóa, học ngoại ngữ, tin học miễn phí cho học sinh nghèo… đã hoạt động có hiệu quả, đem lại niềm an lạc cho biết nhiều người dân của địa phương và các vùng lân cận.
Vị thần linh chú về hôn sự theo tin tướng của dân ta là ông Tơ hồng cũng còn gọi là Nguyệt lão. Nhiều khi Nguyệt lão bị phụ nữ hóa biến thành bà Nguyệt.
Nguyệt lão được hình dung trong quảng đại quần chúng là một ông già đầu bạc đang se những sợi chỉ tơ màu hồng. Hình dung này do sự tích của Vi Cố đời Đường cấu tạo nên.
Dưới đời nhà Đường có một nho sinh học hành uyên bác tên gọi Vi Cố. Một ngày kia Vi Cố dạo chơi dưới trăng, được gặp một ông già đang giở từng trang một quyển sách, bên cạnh có chiếc đẫy đầy chỉ tơ hồng.
Vi Cố hỏi, ông già đáp quyển sách đó ghi những lứa đôi của mọi cặp trai gái, còn những sợi tơ hồng dùng để buộc những cặp này lại với nhau. Ông già nói thêm: “- Dù cách biệt vì địa vị xã hội, dù gặp bao nhiêu khó khăn, cuối cùng số mệnh vẫn thắng và kẻ nào phải phối ngẫu với kẻ nào vẫn là do duyên số”.
Thấy ông già nói vậy, Vi Cố muốn biết người sau này sẽ sánh duyên với mình là ai. ông già liền chỉ vào một cô bé hai tuổi, con một mụ hành khất trong ngôi chợ gần đó và bảo đó là người vợ tương lai của họ Vi. Thấy vậy Vi Cố tự nhủ:
Có thể như vậy được chăng. Vợ ta, con một mụ ăn mày!
Sau đó Vi Cố thuê người giết chết cô bé. Kẻ hung đồ đã dùng dao đâm vào sọ đứa trẻ, nhưng nhát đâm không trúng mà chi sượt qua lông mày cô bé gây thương tích chỗ ấy. Mười bốn năm sau, Vi Cố thi đỗ, được bổ làm quan và được vị Tiết độ sử gả con gái cho.
Cô dâu có một vết sẹo nhỏ trên lông mày. Vi Cố hỏi vợ, được nàng cho biết khi nàng 2 tuổi bị một kẻ hung đồ đâm hụt. Quan Tiết độ sử có chứng kiến vụ hành hung này, động lòng trắc ẩn, nhận nàng làm dưỡng nữ. Thì ra, lời ông già xe tơ đã ứng nghiệm. Họ Vi kết duyên với con mụ hành khất tại chợ nơi xưa.
Sự tích trên đã gây trong quần chúng sự tin tưởng vào tiền định trong hôn nhân, nghĩa là vợ chồng có duyên số và sợi dây Tơ hồng vô hình đã se kết những cặp vợ chồng với nhau. Và ông già se tơ được gọi là Nguyệt lão, vì Vi Cố đã gặp ông ta ở dưới trăng và ông cũng có tên là Tơ hồng vì ông se những sợi chỉ tơ màu hồng.
Tin tưởng ở ông Tơ hồng, trai gái đến tuổi lành duyên đều cầu khấn ông giúp cho được duyên may phận đẹp. Trong ca dao Việt Nam thường nhắc nhiều tới vị thần linh chủ về hôn sự này:
“Bắc thang lên tới Trăng già,
Chỉ hồng đâu tá, mượn và bốn dây?
Để ta xe kết đấy, đây,
Xe chim loan phượng với cây ngô đồng,
Xe tố nữ với anh hùng
Xe trang thục nữ bạn cùng thi nhân…”
Trai gái cầu khẩn ông Tơ hồng cho được duyên may phận đẹp, nếu tình duyên ngang trái, họ cũng quay trở lại oán than Nguyệt lão!
“Trăng già độc địa làm sao!
Cầm dây chẳng lựa, buộc vào tự nhiên!”
hoặc:
“Ông Tơ sao khéo đa đoan
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên!”
Và cũng đã có những vần ca dao châm biếm về Nguyệt lão: Ông đã vụng xe tạo nên những cặp vợ chồng niên ký chênh lệch:
Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt lão đánh mười cẳng tay.
Đánh thôi lại trói vào đây,
Hỏi ông Nguyệt lão: “Nào dây tơ hồng?”
“Nào dây xe Bắc, xe Đông?”
“Nào dây xe vợ xe chồng người ta?”
“Vụng xe, xe phải vợ già,
“Tôi thì đến cửa đất nhà ông lên!”
Quan sát bàn tay của mình, bạn sẽ thấy giữa lỏng bàn tay lõm xuống, xung quanh thì hơi nhô cao, nếu để bạn tùy ý phát huy sức tưởng tượng, bạn sẽ liên tưởng chúng thành những gò cao thấp trong tự nhiên.
Gò bàn tay, tức là phần cơ thịt nổi lên trên một số bộ phận trên bàn tay. Khi xem lần lượt gò bàn tay chính là bắt đầu từ bình nguyên Hỏa tinh ớ giữa lòng bàn tay, sau đó mới là gò Mộc tinh, gò Thổ tinh, gò Thái dương, gò Thủy tinh, gò Kim tinh, gò Hỏa tinh thứ nhất, gò Hỏa tinh thứ hai, gò Nguyệt và gò Địa, như hình vẽ:

Chín gò bàn tay đại diện cho điều gì?
Trên bàn tay của con người, vị trí thịt nhô lên được gọi là gò bàn tay. Lấy ngón tay và đường chỉ tay làm biên giới, nói chung có thể phân làm 9 gò, hơn nữa mỗi gò đều có một ngụ ý riêng. Thường thì, nếu gò nào có cơ thịt đầy đặn mà lại có tính đàn hồi, diện tích lớn, biểu thị nó đã bao hàm thông tin sâu sắc. Bàn tay lõm giữa, được bao quanh bởi các gò, bên trên được gọi là phương đình, phía dưới gọi là hỏa tinh nguyên.
Gò Mộc tinh
Nằm ở gốc ngón trỏ, đại diện cho khả năng lý trí, khát vọng quyền lực và mong muốn tạo dựng sự nghiệp của con người. Từ gò Mộc tinh có thể thấy trong công việc người này có chí tiến thủ hay không, đồng thời cũng có thể thấy cuối cùng người đó có thể đội trời đạp đất hay không.
Nói cụ thể hơn, nếu gò Mộc tinh nhô lên thích hợp, cho thấy đây là người yêu thiên nhiên, thích được du ngoạn, tính tình lương thiện, thành thực, đáng yêu, cho nên nhân duyên của họ cực tốt, có tác dụng trợ giúp cho sự nghiệp của bản thân. Nếu cơ thịt ở gò Mộc tinh đầy đặn, hơn nữa giữa đỉnh gò lại nhô cao, cho thấy người này có chí tiên thủ, mong muôn tạo dựng sự nghiệp cực mạnh, nhưng nếu bộ phận này nhô quá cao, lệch vế phía lòng bàn tay, cho thấy người này xử lý công việc quá vội vã, không thế sống hòa thuận với những người xung quanh. Ngoài ra, người có gò Mộc tinh lõm xuống thường sẽ có tính ỷ lại, thái độ sống tiêu cực.
Gò Thổ tinh
Nằm ở gốc ngón giữa, đại diện cho khả năng suy nghĩ chủ quan của con người. Căn cứ theo gò Thổ tinh sẽ thấy rõ một người trong trạng thái đột phá có thể điều chỉnh được bản thân mình hay không để giành được địa vị xã hội, vượt lên trên kẻ khác.
Nếu gò này nổi vừa phải biểu thị đây là người yêu thích nghệ thuật, xem trọng tu dưỡng nội tâm, có tầm hiểu biết rộng, còn có tín ngưỡng tôn giáo, có thể tiếp nhận sự vật thần bí. về mặt sự nghiệp, hôn nhân, gia đình họ có khả năng giao tiếp nhất định. Nếu gò Thổ tinh đầy đặn, hơn nữa chính giữa gò còn nhô cao cho thấy người này rất cẩn trọng trong việc đối nhân xử thế, luôn suy nghĩ thấu đáo. Nhưng nếu gò này nổi quá cao cũng sẽ giúp cho âm khí phát triển, dễ đa sầu đa cảm, nảy sinh hành vi kỳ quái. Nếu gò này quá mỏng đây thường là ngưòi không có mục tiêu, sống vất vưởng qua ngày, thiếu lòng tin đối với người xung quanh.
Gò Thái dương
Nằm ở gốc ngón vô danh, đại diện cho tài hoa, nghệ thuật, sức sáng tạo, tính tình, uy tín, danh dự. Từ gò Thái dương có thể phán đoán được người này có thể phát huy được sở trường của. mình hay không, có được mọi người công nhận hay không. Nếu gò nhô thích hợp cho thấy tính cách vui vẻ, lãng mạn, thích thiên nhiên, làm việc quang minh, lỗi lạc, luôn ra tay giúp đỡ kẻ yếu, vì vậy nhân duyên, tài vận đều tốt. Nếu gò Thái dương đầy đặn, đỉnh điểm nằm ở vị trí chính giữa điều này cho thấy đây là người có sức cuôh hút vô cùng, luôn nhận được, sự quan tâm chứ ý của mọi người. Nhưng nếu quá đầy đặn họ cũng có thể là người quá hư vinh, thích hơn người. Nếu gò này lõm quá thấp cho thấy họ dễ bị căng thẳng thần kinh, khó giữ được bình tĩnh, làm việc dễ bị dao động, vì danh dự không màng thủ đoạn. Khi bị rơi vào tình thế bất lợi họ thường rất yếu đuối, muốn trốn chạy.
Gò Thủy tỉnh
Nằm ở gốc ngón út, đại diện cho khả năng giao tiếp, kỹ năng làm việc, kỹ năng diễn thuyết. Từ gò Thủy tinh có thể đoán biết được khả năng ứng xử của một người đối với sự biến đổi của tự nhiên, có thể thấy được khả năng làm việc của người đó có sắc bén hay không. Nếu gò Thủy tinh nổi lên vừa phải, cho thấy khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt, khi làm việc có thể nắm được phần thắng, có khả năng giao tiếp nhất định. Trong lĩnh vực chuyên môn họ có thể tạo dựng được chỗ đứng cho mình, trở thành người có quyền uy, được mọi người kính trọng, có thế tiến xa trên con đường sự nghiệp.
Nếu gò Thủy tinh đầy đặn, đinh điểm ở chính giữa, cho thấy người này có trí óc, có thế lợi dụng tài ngoại giao của mình để giải quyết các vấn đề khó khăn, hoặc có thể thông qua kỹ năng ăn nói và ngôn từ đế thuyết phục người khác. Nhưng nếu gò này quá đầy đặn cho thấy người này mưu mô xảo quyệt, không thiện chí. Ngoài ra, nếu gò Thủy tinh bằng, cho thấy về mặt tài chính người này thiếu khả năng phán đoán, dễ bị động.
Gò Kim tinh
Nằm ở phía dưới ngón cái, hớn nữa phạm vi của nó dường như còn bao trùm cả phần dưới ngón cái, đại diện cho vấn đề tình cảm, khả năng thẩm mỹ, ý chí, thậm chí còn có thế hiển thị thể lực và khả năng sinh dục. Xem ra về mặt tình cảm thì dục vọng thể xác của họ còn cao hơn cả dục vọng tinh thần.
Nếu gò Kim tinh phát triển vừa phải cho thấy tình trạng sức khỏe của người này tốt, lạc quan, tích cực, có sức quyến rũ và cá tính nhất định. Họ giao lưu rộng rãi, đốì với bạn bè rất nghĩa khí, có thể tích lũy được quan hệ tình cảm nhất định. Nhưng nếu bề mặt diện tích của gò Kim tinh bao hàm quá lớn, cơ thịt quá phát triển cho thấy có biểu hiện kích động trong dục tính, sẽ gây hao tổn cho người bạn đời. Ngược lại, nếu gò Kim tinh mỏng thì cho thấy thể lực kém, không thể đáp ứng nhu cầu giói tính của người bạn đời.
Gò Hỏa tỉnh thứ nhất
Nằm ở giữa gò Mộc tinh và gò Kim tinh, đại diện cho khả năng quyết định sách lược và khả năng làm việc. Gò Hỏa tinh thứ nhất cho thấy ý thức cạnh tranh trong các lĩnh vực của người nàv, có thể phản ánh đầy đủ được phản ứng và khả năng ứng phó với khó khăn của họ trong hoàn cảnh nguy hiểm.
Nếu gò Hỏa tinh thứ nhất đầy đặn, tương đối phát triển cho thấy quan niệm tư tưởng của người này vô cùng tích cực, thích đối mặt với chính mình, tiếp xúc với những sự vật mới, do đó họ quả đoán quyết sách và có khả năng lãnh đạo nhất định, thích hợp với những công việc
quản lý. Nhưng nếu gò này quá phát triển cho thấy sự yêu thích cạnh tranh, hiếu thắng, có tham vọng đột phá nhất định, thậm chí người này còn có thể theo khuynh hướng bạo lực. Còn nếu gò này quá mỏng, hoặc trên gò có đường tạp cho thấy người này là người nhút nhát, khí lực không đủ, không thể phát huy được tài năng tiềm ẩn của mình.
Gò Hỏa tỉnh thứ hai
Nằm ở giữa gò Thủy tinh và gò Nguyệt, đại diện cho khả năng chịu đựng, tính kháng cự. Từ gò Hỏa tinh thứ hai có thể thấy người này có khả năng chống trọi với áp lực, nếu không thì cũng là khả năng chống chọi đến cùng với môi trường khắc nghiệt.
Nếu gò Hỏa tinh thứ hai phát triển bình thường cho thấy kiến thức của người này phong phú, học vấn xuất sắc, có khả năng phán đoán tốt, có trình độ đạo đức nhất định, có nguyên tắc và tiêu chuẩn xử lý công việc thống nhất, họ có thể đóng vai trò quan trọng trong xã hội. Nếu gò Hỏa tinh thứ hai phát triển đầy đặn cho thấy người này có nhận thức tốt vể sự nguy hiểm, có thể phòng tránh được nhiều trở ngại và tai nạn, đồng thời có thế khống chế được sự cám dỗ, không bị cuốn theo đó. Nhưng, nếu gò này phát triển mạnh cũng thể thể hiện một mặt kiên cường bất khuất, một mặt thì tự do phóng khoáng. Người có gò Hỏa tinh không phát triển sức đề kháng và ý chí đều bạc nhược.
Gò Nguyệt
Gò Nguyệt đại diện cho phản ứng tình cảm, trạng thái tâm lý, sức tương tượng của con người. Càn cứ vào gò Nguyệt có thế đoán biết được thế giới tình cảm của một người, có thể thấy được người này có khả năng sáng tạo nhất định trong lĩnh vực nghệ thuật hay không, đồng thời cũng có thề phản ánh được họ có thể gặp phải chuyện ngoài ý muốn hoặc gặp khó khăn trên đường du lịch hay không.
Gò Nguyệt nằm ở phía dưới gò Hỏa tình thứ hai, đối xứng với gò Kim tinh, nếu gò này phát triển bình thường cho thấy đây là người có khả năng sáng tạo và khả năng liên tưởng nhất định, thích mưu cầu sự hoàn hảo. Hơn nữa khả năng cảm nhận của họ lại cực mạnh, trong xuất hành có thế linh hoạt không ngừng, rất thích hợp làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật để phát huy sở trường của mình. Nếu gò Nguyệt phát triển đầy đặn cho thấy khả năng sáng tạo của người này tốt, có tố chất nghệ sỹ, có thể đưa ra những ý niệm, kế hoạch tốt, có thể thu được thành tích tốt trong lĩnh vực văn học, hội họa, âm nhạc. Tuy nhiên, nếu gò này phát triển quá mạnh cho thấy người này có thể suốt ngày chìm đắm trong ảo tưởng, thoát ly thực tại, thậm chí vì vậy mà dễ bị mắc bệnh tinh thần. Người có gò Nguyệt không phát triển thường không hiểu biết về nghệ thuật, không biết chủ động đi tìm hương vị cuộc sống.
Gò Địa
Nằm ở phía dưới cùng của tay, đại diện phản ứng bản năng, tinh lực. Từ gò Địa có thể thấy được mong muốn tiềm ẩn trong con người, đồng thời có thế phân tích được nguồn tinh lực và khả năng chịu đựng của người này ra sao. Có nhiều đường tạp trên gò Địa biểu thị khí lực và thể lực của người này rất tốt, họ có vận đào hoa nhất định. Nhưng, nếu đường gò Địa vô cùng phức tạp, cho thấy tinh lực và thể lực của người này đều yếu.
Hỏa tỉnh nguyên và phương đình
Hỏa tinh nguyên và Phương đình là chỉ thung lùng được hình thành bởi chín gò vây quanh, phần này dày mỏng không đều, nếu săn chắc cho thấy tinh lực và thể lực đều rất dồi dào, có thể chiến thắng mọi khó khăn gặp phải trong cuộc đời, trở thành người chiến thắng tuyệt đối. Ngược lại, nếu chỗ này lõm xuống và mỏng mạnh cho thấy khi gặp khó khăn người này sẽ không đủ dũng khí, xử lý công việc cũng bị động, là người thất bại hoàn toàn.
![]() |
| ► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Nếu đã lựa chọn bài trí cách cục trong nhà ở, không thể không có sự thêm bớt gia giảm các thành phần trong nhà, nhưng làm thế nào để không phạm thêm sai lầm và mọi sự đều tốt đẹp. Ðó chính là điều chúng tôi đề cập đến trong “Phong Thủy Nhà Ở 10 Ðại Kỵ Không Thể Không Biết”.
* Ðại Kỵ 1:
Nếu cửa, cửa sổ mở ra ban công hoặc bên ngoài có ánh nắng chiếu vào chính diện với bếp hoặc thẳng ra cửa đi lại chính, có thể dùng rèm cửa che chắn thường xuyên liên tục.
Cửa ra vào chính đối với với chỗ ra ban công sẽ phạm phải cái gọi là “Xuyên Tâm Sát” trong nhà tiền bạc khó mà tích tụ, tất có việc phải phá tài.
Phương pháp hóa giải :
Ðặt một Huyền Quan chắn giữa cửa lớn và cửa thông ra ban công, tại cửa lớn bố trí một bể cá (Hoặc dùng bình phong).
Có thể bố trí cửa ra ban công thành cửa sổ, hoặc tốt hơn là treo rèm, nếu không ở ban công có thể kê đặt các loại cây cảnh để hãm bớt luồng khí xung xạ, hoặc trồng loại cây leo giàn.
* Ðại Kỵ 2:
Ban Công cũng không thể đối diện trực tiếp với phòng bếp, đây cũng có thể coi là một loại Xuyên Tâm, làm cho khả năng đoàn tụ nhất trí trong nhà yếu, con trai dễ “Ăn Phở”, đàn bà thích leo tường mà đi, con cháu không thích về nhà.
Phương pháp hóa giải :
Nên đặt chậu hoa hoặc trồng cây leo ngăn cách cốt sao cho trong ngoài không thông nhau được là ổn.
Nếu là của đi thì dùng rèm che, cũng có thể đặt huyền quan ngăn cách nhưng phải làm sao cho không ảnh hưởng đến sự đi lại, chỉ cần chỗ ban công không thông thẳng với bếp là được.
* Ðại Kỵ 3:
Nếu như trên trần nhà đặt loa phát âm thanh lâu dài, hoặc trên sà nhà hay phát tiếng cót két, có thể coi như một lực lượng xung sát từ trên trần; nếu âm thanh đó ngay trên giường ngủ, thì người nằm dưới giường đó lâu dài sẽ phát sinh bệnh tật.
Phương pháp hóa giải :
Tốt nhất nên đặt giường ngủ cách xa chỗ đó, hoặc giải quyết dứt điểm không cho phát âm thanh là tốt nhất.
* Ðại Kỵ 4:

Nếu trong mệnh kỵ Thủy, trong nhà tất không nên bày bể cá, nếu chỉ biết rằng bày bể cá để tụ tài, mà không biết Hỷ Kỵ của chủ nhà có sự chuyên biệt kỵ húy. Nên nhận biết và tránh đi.
Phương pháp hóa giải :
Nên phân tích tứ trụ của chủ nhà để xem Hỷ Kỵ thế nào, từ đó rút ra các vật phẩm có tính chất kỵ với chủ nhà.
* Ðại Kỵ 5:
Mái che mưa (thường ở sân trước nhà) nên làm thành hình vòng cung, tránh làm thành mũi nhọn; nếu không sẽ làm bất lợi cho chủ nhà, đặc biệt về sức khỏe.
Phương pháp hóa giải :
Không nên dùng mái che mưa, như nhất định phải làm thì nên làm hình vòm, không được làm hình nhọn.
* Ðại Kỵ 6:
Lò bếp không thể đặt đối diện với cửa nhà, cửa ra ban công, cửa phòng bếp, cửa phòng, thường phạm vào sức khỏe không tốt và các việc không may mắn khác.
Phương pháp hóa giải :
Có thể tại cửa bếp dùng rèm hoặc bình phong che đi.
* Ðại Kỵ 7:
Trong nhà không nên tùy ý mà đặt gương kính, dễ tự mình phá vỡ Khí Trường trong nhà.
Có lúc do muốn mở rộng diện tích trong nhà mà đặt kính gương, tuy nhiên nếu là phòng ngủ thì tuyệt đối không được đặt kính, làm cho Khí trường bị phản xạ hỗn loạn.
Phương pháp hóa giải :
Nếu bắt buộc phải đặt gương chỉ nên treo một bên tường, nhất định không nên treo cả hai bên, đặc biệt là đối diện nhau, sẽ tạo thành phản xạ.
Nếu không nên dùng các vật dụng trong nhà đặt gương kính (phía trong tủ, trong phòng tắm, trong phòng thay đồ) dùng xong lại che khuất đi.
* Ðại Kỵ 8:

Trong nhà sử dụng cây cối chậu cảnh nên thận trọng lựa chọn. Không nên chọn lựa loại cây có lá dài nhọn, dễ làm cho chủ nhân dính vào các chuyện cãi cọ tranh chấp.
Các loại cây thuộc họ Quyết và Cát Ðằng là các loại cây không nên chọn, đây là các loại cây âm tính, nếu nó tốt tươi tất trong nhà phạm vào các sự “Bất Can Tịnh ố, Không sạch sẽ”.
Phương pháp hóa giải :
Nên chọn các loại cây có bản lá to rộng, hoặc các loại cây hoa có sức sống khỏe.
* Ðại Kỵ 9:
Nhà Vệ Sinh tuyệt đối không được ở giữa nhà, đây là điều rất quan trọng, bởi vì Trung Cung là Khí tổng quản cả chín cung trong nhà nên nếu để nó ô nhiễm thì tất là tài vận và sức khỏe trong nhà đều không tốt.
Phương pháp hóa giải :
Nếu như kiến trúc đã chọn phạm vào điều này thì tốt nhất nên sửa đổi, còn nếu không thể sửa thì nên dọn sạch sẽ chỗ đó, bồn tắm cũng cần rửa sạch sẽ thường xuyên, khả dĩ tạm được.
* Ðại Kỵ 10:

Ngoài các kiến trúc bên trong thì kiến trúc bên ngoài cũng rất quan yếu. Có người tại mặt ngoài nhà ở bỗng xây, đặt một vật nhô lên như đầu người, đây là điều đại kỵ, nó giống như một cục u máu chắn trước nhà. Ðây là hình tượng bất hảo, rất nên tránh xa điều này.
Phương pháp hóa giải :
Nếu không phải là đặc biệt cần thiết thì không nên tạo dụng các hình tượng như vậy, còn nếu bắt buộc thì nên tham khảo ý kiến các chuyên gia.
(Phong Thủy Tổng Hợp)
- Thủy tinh (Thủy sơn): dáng uốn, núi thấp, đầu hình sin.
- Hỏa tinh (Hỏa sơn): dáng nhọn, núi cao, đầu nhọn.
- Thổ tinh (Thổ sơn): dáng vuông, đầu bằng.
Bốc Tắc Ngụy trong sách “Tuyết Tâm Phú” nói: “Phải xét kỹ ngũ tinh biến hóa”. Sách chú giải thêm rằng: "Ngũ tinh tức Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ vậy. Núi tròn gọi là Kim sơn, núi vuông gọi là Thổ sơn, đầu tròn thân dài gọi là Mộc sơn, nhọn hoắt gọi là Hỏa sơn".
Ngũ hành tương sinh: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
Ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Táng nhờ vào sinh khí nghĩa là sinh khí vượng thì chủ kết huyệt đại phú quý. Trong sách “Địa lý nhân tử nên biết”, chương “Long Pháp” của Từ Thiện Kế nói: “Các thầy địa lý ngũ tinh tụ giảng, giống như ngũ tinh tương tụ trong thiên văn. Nếu long mạch có cách này (loại hình này), đó mới là đất kết huyệt đại quý”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác.
Ngài còn nhấn mạnh: Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành.
Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt.
Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:
– Ngài A Nan bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?
– Đức Phật bảo : Thần chú này có những tên gọi như sau :
Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú:
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa.
Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc.
Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,… là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên.
Thần chú này còn có tên gọi là Diệt Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng Thần chú Đại Bi vì phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm, beo, rắn rết… luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người.
Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.
Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát địa.
Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát, giác ngộ.
Dạo quanh thị trường hoa, cây cảnh những ngày giáp Tết, chúng tôi nhận thấy, năm nay, loại cây đang được dân chơi cây cảnh và hoa Tết chú ý, săn đón tìm hiểu đó là cây ghép ngũ quả hay còn gọi là cây ngũ phúc. Cây ghép ngũ quả gồm có 5 loại quả: Bưởi, cam, quýt, quất và phật thủ. 5 loại quả đó tượng trưng cho “mâm ngũ quả” tròn đầy của người Việt trong ngày Tết Nguyên đán. Và mỗi quả lại tượng trưng cho một ước nguyện, mong muốn khác nhau, như quả phật thủ tượng trưng bàn tay phật nâng niu che chở cho mái ấm gia đình; quả bưởi với gửi gắm mong muốn sự an khang ,thịnh vượng; quả cam, quýt, quất lại tượng trưng cho sự thành đạt, giàu sang, đầy đủ.

Chị Nguyễn Thị Nghĩa, một người dân bán quất và cây ngũ quả ở đường Nha Trang, T.P Thái Nguyên cho biết: Năm nay, nhà tôi buôn cây ngũ quả từ tỉnh Hưng Yên lên bán. Mặc dù giá bán khá cao, từ 2 đến 3 triệu đồng/cây nhưng có rất nhiều khách hàng đến tìm hiểu và đặt mua. Tôi đã bán được hơn chục cây. Còn anh Trần Quốc Hưng, ở phường Trung Thành, T.P Thái Nguyên, khách hàng mua cây ghép ngũ quả thì chia sẻ: Thật khâm phục tài năng của người nông dân đã trồng và ghép thành công 5 loại quả trên cùng một cây. Để có được một tác phẩm như vậy không biết bao nhiêu công sức, trí óc và đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân, bởi mỗi loại quả lại cho những thời gian ra hoa kết trái khác nhau. Mặc dù giá đắt hơn cây quất nhưng tôi vẫn chọn cây ghép ngũ quả bởi sự mới lạ, độc đáo.
Cùng với cây ghép ngũ quả, hoa mai cũng được khá nhiều người lựa chọn để trang trí ngôi nhà trong dịp Tết. Chị Nguyễn Thị Bình, ở xã Yên Lãng, Đại Từ cho biết: Hai vợ chồng tôi đều thích hoa Mai vàng, vì thế năm nào chúng tôi cũng xuống chợ hoa Tết ở T.P Thái Nguyên để chọn. Năm nay, Mai nở sớm nên giá bán cũng đắt hơn năm ngoái. Cùng nhau chọn cây cảnh dịp Tết và dọn dẹp nhà cửa, tôi thấy tình cảm gia đình cũng thêm gắn bó.

Ngoài cây ghép ngũ quả, hoa mai, hoa lan cũng được nhiều khách hàng ưa chuộng. Thời điểm này, tại chợ hoa Tết, đã có đủ các loại lan như: Nghinh xuân, Mokara, Hồ Điệp, Ngọc Điểm, Denro… được bày bán. Qua trò chuyện với những người bán và mua hoa lan, chúng tôi thấy việc chọn hoa còn tùy theo lứa tuổi và quan niệm, sở thích của từng người. Đối với những người am hiểu phong thuỷ, đi chợ hoa Tết không đơn giản là việc đến ngắm cây và chọn.
Chị Ngô Thị Hoàn, ở phường Trung Thành, T.P Thái Nguyên cho biết: Tôi chuộng hoa lan vì hoa nở rất đẹp, lâu phai, màu sắc rực rỡ. Yêu thích hoa lan nhưng tôi thường chọn Địa lan, vì hoa có màu vàng, tượng trưng cho sức sống, cát tường, sự may mắn và tạo cảm giác ấm áp cho ngôi nhà trong những ngày Xuân. Hơn nữa, tôi mệnh kim, trưng hoa màu vàng sẽ tốt cho việc kinh doanh, buôn bán của gia đình. Theo anh Nguyễn Tuấn Anh, người kinh doanh lan ở đường Hùng Vương, T.P Thái Nguyên, năm nay giá các loại hoa lan bán Tết không tăng so với ngày thường, vì thế nhiều người dân đã chuyển từ chơi các loại hoa thông thường sang chơi lan vào dịp Tết này. Trong số các loại hoa lan thì lan Hồ Điệp là loại được ưa chuộng nhất và đang bán rất chạy vì loại hoa này được xem là “chúa của các loại hoa lan”, thời gian hoa tươi lâu và dễ chăm sóc, chỉ cần mỗi tuần phun nước 2 lần vào hoa, 7 ngày tưới nước vào rễ một lần là hoa vẫn cứ tươi và có thể chăm sóc để chơi sau Tết.
Có thể thấy, sự đa dạng, phong phú trong các loại hoa, cây cảnh ngày Tết thể hiện sự năng động, nhạy bén của những người nông dân trong việc sản xuất ra các loại hoa, cây đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Và thú chơi hoa, cây cảnh ngày Tết không chỉ thể hiện sự tinh tế của tâm hồn người Việt mà còn mang ý nghĩa sâu xa: Mùa xuân sẽ mang tài lộc, bình an đến cho con người.
Khánh Thiện
Những chất hữu cơ có tính tỏa mùi được dùng từ VOC để biểu thị, đây là cách viết tắt ba chữ cái đầu của cụm từ Votatile Organic Compounds, nhưng cũng có khi dùng “chất hữu cơ tỏa mùi TVOC” để biểu thị, VOC là chỉ chất hữu cơ có áp suất hơi bão hòa vượt quá 133,32pa dưới nhiệt độ trong phòng, điểm sôi là 500c ~ 2500c. Dưới nhiệt độ bình thường có thể tồn tại trong không khí dưới dạng hơi; độc tính, tính kích thích, tính gây ung thư và mùi vị đặc trưng của chúng sẽ gây ảnh hưởng đến da và niêm mạc, gây nguy hại cấp tính đối với cơ thể người. TVOC có mùi hôi thối, có tính kích thích, hơn nữa có những hợp chất có độc tính gien.

TVOC trong nhà chủ yếu là phát ra từ vật liệu xây dựng, vật liệu hoàn thiện trong nhà và những đồ dùng sinh hoạt và văn phòng. Như tấm nhân tạo, vật liệu cách nhiệt xốp, tấm cao su trong vật liệu xây dựng; sơn, chất keo dính, giấy dán tường, thảm trong vật liệu hoàn thiện nhà; mỹ phẩm, chất tẩy rửa dùng trong sinh hoạt; đồ dùng văn phòng chủ yếu là mực dầu, máy photocopy, máy đánh chữ…; ngoài ra, nhiên liệu dùng trong gia đình, hút thuốc, chất thải ra từ cơ thể người và khí thải công nghiệp, khí thải từ xe ô tô, ô nhiễm quang hóa học cũng là nguyên nhân chủ yếu có chứa chất hữu cơ tỏa mùi (TVOC) gây ảnh hưởng đến không khí trong phòng.
TVOC có thể dẫn đến mất cân bằng mức miễn dịch cơ thể, ảnh hưởng đến chức năng hệ thống thần kinh trung khu, xuất hiện các triệu chứng đau đầu, hoa mắt chóng mặt, thèm ngủ, kiệt sức, tức ngực… Ngoài ra còn ảnh hướng đến hệ thống tiêu hóa, nhu cầu ăn uống giảm, buồn nôn…. khi bị nặng còn làm tổn hại đến gan tạng và hệ thống tạo máu, xuất hiện phản ứng biến thái.
Sao hạn Cửu Diệu :
Ảnh hưởng của Cửu Diệu tinh trong Tu Vi
La Hầu – còn gọi là Khẩu thiệt tinh, là sao xấu ảnh hưởng nặng cho Nam giới và người mạng Kim, phái Nữ thì ảnh hưởng nhẹ. Thường gây ra những trở ngại bất trắc, bệnh tật, khẩu thiệt, thị phi miệng tiếng. Hạn sao này cần phải dè dặt cẩn thận. Ảnh hưỡng vào các tháng giêng và tháng 7.
Thổ Tú – còn gọi là Thổ Đức tinh hay Ách tinh chủ gia đạo bất an buồn phiền, bệnh hoạn hay kéo dài, tiểu nhân phá phách, đi xa bất lợi. Hai tháng 4 và 8 bất lợi.
Thủy Diệu – còn gọi là Thủy Đức tinh là Phúc lộc tinh chủ bình an, giải trừ tai nạn, đi xa có lợi, Phụ nữ bất lợi về đường sông biển. Ảnh hưỡng vào các tháng 4 và tháng 8. Người mạng Kim và Mộc hợp với hạn sao này, riêng người mạng Hỏa thì hơi bị khắc kỵ.
Thái Bạch – còn gọi là Kim Đức tinh, là hung tinh chủ về sự bất toại tâm, xuất nhập phòng tiểu nhân, hao tán tiền bạc, bệnh tật nảy sinh. Phòng tháng 5 xấu, nhất là những người mệnh hỏa, kim và mộc.
Thái Dương – Phúc tinh chủ sự hanh thông, cứu giải nạn tai. Với Nữ giới thì công việc vẫn thành công nhưng rất vất vả. Tốt vào các tháng 6 và 10.
Vân Hán – còn gọi là Hỏa Đức tinh là Tai tinh chủ hao tài, khẩu thiệt và tranh chấp, kiện tụng bất lợi. Đề phòng những rủi ro bất ngờ. Tháng 4 và 8 xấu.
Kế Đô – được ví như bà hoàng hậu khắc khe, là sao xấu ảnh hưởng nặng nơi phái Nữ, riêng những người có thai hay sinh đẻ trong hạn sao này thì ít bị ảnh hưởng. Gặp hạn sao này những mưu sự thường gặp khó khăn, thành ít bại nhiều, phòng thị phi, đau ốm hay tai biến bất ngờ. Sao Kế đô dù ít ảnh hưởng tới Nam giới nhưng ít nhiều cũng có tác dụng không thuận lợi. Phòng tháng 3 và tháng 9
Thái Âm – Phúc tinh chuyên cứu giải bình an, tốt cho Nữ số. Sao Thái Âm nhập hạn là tài tinh đem lại nhiều may mắn về tài lộc nhưng mang tính chất bất thường, thời vận hay thăng trầm.
Mộc Đức – Phúc tinh chủ may mắn, gặp thời vận tốt. Sao Mộc đức cũng là một phúc tinh cứu giải nên trong trường hợp dù gặp khó khăn gì vẫn có quý nhân giúp sức vượt qua. Tháng 10 và 12 tốt, riêng người mạng Kim thì bất lợi đôi chút vì không hợp với hạn sao này.
Năm hạn trong lá số Tử Vi tốt mà gặp Cửu Diệu tinh nhập hạn tốt thì lại càng tốt thêm. Nếu gặp hạn sao xấu mà năm nhập hạn trong lá số tốt thì sao hạn xấu sẽ được giảm bớt. Ngược lại nếu năm hạn trong lá số xấu mà gặp thêm Cửu Diệu tinh nhập hạn xấu thì năm hạn xấu sẽ càng xấu thêm.

Luận về Tuần (hỏa) / Triệt (kim)
Tuần Trung Không Vong là cây cầu nối tiếp giữa hai giai-đoạn, kiềm hãm bớt từ từ lại, là trung gian kiềm chế, không cho quá trớn.
“Tứ chính giao phù kỵ nhất Không chi trực phá”
Triệt Lộ Không Vong là bao vây, ngăn cách từ cái xấu đến cái tốt, đã không cho xâm nhập từ ngoài vào (xấu cũng như tốt) , mà còn phá đổ tất cả những gì trong cung bị nó phong tỏa.
“Tam phương xung sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng”
(Không vong định yếu đắc dụng, nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu, đại hữu kỳ công)
Tuần Triệt chỉ có thể làm giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh hay tiêu-tán bớt sự xấu của Hung-tinh, chứ không thể biến đổi tính cách của sao được, như biến Cát-tinh trở thành Hung-tinh và ngược lại.
Tuần-Triệt có thể làm cho bộ SPT thành hiền dịu lại đôi chút, còn đối với CNĐL thì làm cho bộ này trở nên chậm rãi, phấn-đấu hơi khó-khăn chứ không thể biến đổi từ ôn-hòa trở nên hào hùng và khí-phách như bộ SPT được.
Tuần-Triệt cũng không thể thay-đổi tính-cách của vòng Thái-tueá được, nhưng các sao trong tam-hợp Thái-tuế bị Tuần-Triệt phải tùy thuộc vị-trí mà thay-đổi tư-cách.
Trường-hợp những người chẳng may bị đặt để vào những vị-trí bất mãn (tam-hợp Tuế-phá, Thiếu-dương, Thiếu-âm) dễ tự thiêu thân, làm những việc xấu (nếu gặp SPT và Sát-tinh); được Tuần hay Triệt đóng khiến tự hạn-chế những tham-vọng và hành-động của mình mà thuận theo đường lợi-ích, nâng cao tư-cách không kém gì những người tam-hợp Thái-tuế.
Tuần-Triệt đóng giữa 2 cung trong tu vi, nghĩa là chỉ có liên-quan đến 2 cung đó mà thôi.
Dương-Nam / Âm-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 70% và tại cung Âm 30%
Âm-Nam / Dương-Nữ = ảnh-hưởng Tuần-Triệt tại cung Dương 80% và tại cung Âm 20%
Mệnh bị Tuần hay Triệt thiếu-niên tân-khổ, luôn gặp trở-ngại lúc đầu thực-hiện công-việc.
Mệnh bị cả Tuần lẫn Triệt thì đời bị vùi xuống đất đen, không phải là Tuần-Triệt phá nhau để cho đương-số được thong-thả.
Tuần-Triệt phá nhau dành cho những người thuận lý âm-dương:
Mệnh hay Thân có một Tuần hay Triệt, đến đại-vận từ 30 tuổi trở đi gặp Tuần hay Triệt hay Triệt thì sẽ được tháo-gỡ cho hanh-thông, dầu chỉ là một vài năm (bất chấp đến vòng Thái-tuế).
Trường-hợp người Dương đóng cung Âm (hoặc ngược lại) mà Mệnh-Thân có một Tuần hay Triệt, khi đến đại-vận gặp Tuần hay Triệt thì thời-vận tốt mở làm hai lần chậm chậm ở 2 cung đại-vận có Tuần hay Triệt đóng (mỗi đại-vận là 5 năm).
Mệnh Tuần Thân Triệt (hoặc ngược lại) không còn gì để tháo-gỡ; ngay cả khi đến đại-vận Thái-tuế, ảnh-hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% mà thôi.
Trên đây là kinh nghiệm về hai sao Tuần Triệt của học phái Thiên Lươngtrong việc bình lá số Tử Vi, thật ra vấn đề đặc tính, ngũ hành và tác dụng của Tuần Triệt hiện còn đang là những nghi vấn, đề tài gây ra nhiều tranh luận, tùy theo mỗi người có lối tiếp thu, suy luận và khám phá riêng mà giải đoán.
Luận về Thiên Mã (hỏa)
Thiên Mã trong Tử-vi là một viên ngọc quí, viên ngọc quí này chỉ thấy ở trong hoàn-cảnh trái nghịch mà số đã xếp đặt cho người cung Mệnh hay Thân nằm trong tam-hợp Tuế-phá (bất mãn, đối kháng) của vòng Thái-tuế.
Thiên-mã là nghị-lực và khả-năng để giúp cho những người bất-mãn này đương đầu với những ngang-trái của tâm-thức và cuộc đời mà họ phải chịu. Đây chính là hình bóng một Tống Giang, một Đơn Hùng Tín, anh hùng hào hiệp chỉ phù suy chứ không tơ hào đến người thịnh. Còn tùy theo Thiên-mã có phải là của họ hay không mới là việc thành-bại quyết định.
Thiên Mã chủ tháo vát, tài năng và khéo léo. Ảnh hưởng nhiều đến công danh, sự nghiệp. Ngoài ra Thiên Mã còn chủ về sự di chuyển, thay đổi, đi xa và là phương tiện di chuyển như xe cộ, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị xe cộ hay hư hỏng hoặc tai nạn.
Về cơ thể con người Thiên Mã là tứ chi, nếu gặp Sát tinh tùy theo mức độ nặng nhẹ dễ bị thương tật.
Hành chính của Thiên Mã là hỏa, nhưng vì là dịch mã nên Mã đổi ngũ hành tùy theo phương vị Mã đóng, muốn làm chủ được Mã này thì bản mệnh phải đồng hành với cung Mã đóng thì mới có kết-quả được
Mã ngộ Tuần = Tuần là gạch nối liền giữa hai Giáp bắt cầu cho Mã trở nên đắc dụng. Tuy-nhiên Mã phải chùng lại một bước trước khi nhảy thì mới được thành-công, có nghĩa là vào giai đoạn đầu vẫn gặp những khó khăn, trở ngại nhưng rồi sau sẽ được hanh thông, nếu Thiên Mã hợp Mệnh, còn Mã ngộ Triệt là ngựa què ăn hại.
Người dương-nam – âm-nữ đại vận an theo chiều xuôi :
Mã mộc cung Dần gặp Tuần trở thành Mã hỏa
Mã hỏa cung Tỵ vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi
Mã kim cung Thân gặp Tuần trở thành Mã thủy
Mã thủy cung Hợi vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi
Người âm nam – dương nưõ đại vận an theo chiều ngược :
Mã mộc cung Dần vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi
Mã hỏa cung Tỵ gặp Tuần trở thành Mã mộc
Mã kim cung Thân vì Tuần đứng sau nên không chuyển đổi
Mã thủy cung Hợi gặp Tuần trở thành Mã kim
Thí dụ tuổi Kỷ Tỵ (Mệnh mộc) Mã tại cung Hợi ngộ Tuần đóng hai cung Hợi và Tuất. Nếu là người âm nam đại vận theo chiều nghịch thì Mã thủy sẽ theo cầu Tuần về lại cung Thân trở thành Mã kim khắc lại Mệnh mộc xấu. Còn với người âm nữ đại vận theo chiều thuận Tuần đóng sau lưng không thể bắt cầu cho Mã chạy nên Mã thủy sẽ sinh phò cho Mệnh mộc rất tốt.
Những cách tốt của Thiên Mã trong Tu Vi
Mã đắc Tràng-sinh = là giai-đoạn phát thịnh của tam-hợp Tuế-phá, Mã phải nằm trong tam-hợp Sinh-Vượng-Mộ thì mới được gọi là thanh vân đắc lộ nhưng chỉ hanh-thông trong đại-vận đó mà thôi và còn tùy thuộc vào Hành của Mã phù hay hại Mệnh nữa.
Mã-Khốc-Khách = Mã phải nằm trong tam-hợp Lộc-Tồn dành cho các tuổi Giáp/Thìn-Tý-Thân và Canh/Tuất-Ngọ-Dần. Phần ngoại-lệ này ban phát cho người được nhiều nghị-lực bền bỉ, tùy theo sự sinh-khắc của bản mệnh đối với Mã (xử-dụng và làm lợi).
Những cách xấu của Thiên Mã trong Tu Vi
Mã kỵ gặp Không Kiếp, Kình-Đà, Thiên-hình và Triệt là ngựa què, ngựa chết dễ bị trở ngại hay tai họa.
Mã ngộ Tuyệt = Người mệnh kim-hỏa và thổ / dương nam hay âm nữ, mệnh có Thiên Mã gặp Tuyệt (sao cuối cùng của vòng Tràng Sinh) tại cung Hợi là cách “Mã cùng đồ” ngựa cùng đường, hết lối chạy chỉ sự bế tắc và thất bại.
Luận về bộ sao Tứ Hóa trong Tu Vi
Hóa-khoa (thủy) – văn-tinh chủ về phúc-quý, là Đệ Nhất Giải Thần hoán cải được tư-cách SPLT và ngộ chế được Thiên-không, Lục-sát-tinh.
Hóa-quyền (mộc) – trung-lập chủ về uy-quyền và may-mắn, hay vụng tính sinh kiêu vì tự ái nên gặp Sát-tinh dễ bị kết-quả xấu
Hóa-lộc (mộc/thổ) – tài lộc do công khó làm ra, tăng ảnh-hưởng cho Tài-cát-tinh và tốt cho cung Điền-Tài.
Hóa-kỵ (thủy) – ám tinh hay đố kỵ, là sao Kế-đô của nữ mệnh. Giảm sự tốt đẹp của Cát-tinh, tăng ảnh-hưởng xấu của Sát-tinh.
Tam Hóa được áp đặt vào những chính-diệu theo hàng Can tuổi để đem lại sự hảnh-diện và phú quý cho người được hưởng. Giá-trị thật sự của Tam-hóa chỉ là gấm thêu hoa cho những bộ Chính-tinh dắc cách mà thôi chứ không phải là tư-cách, khả-năng và nghị-lực dùng để nâng cao phẩm-giá thực-sự cho người chính phái.
Nhận xét bảng tóm luận trên, các tuổi Ất-Bính-Kỷ-Nhâm-Quý được những sao đầy-đủ tư-cách hiền-lương nhân-hậu hẳn con thuyền khi ra khơi ít gặp phong ba bão lớn. Còn thuận buồm suôi gió hay không tùy thuộc ở hàng Chi (vòng Thái tuế) và giòng nước theo chiều cuộc diện (vòng Tràng-sinh).
Cách Tam hóa liên châu – ba sao đóng liên tiếp ba cung từ cung Dần đến Mùi / đắc vị nhất tại cung Thìn được dành cho 6 tuổi Ất/Tỵ-Dậu-Sửu (Khoa giáp Quyền-Lộc tại vị-trí Thiếu-âm) và Canh/Thân-Tý-Thìn (Quyền giáp Khoa-Lộc tại vị-trí Thái-tuế), còn các tuổi Ất-Canh khác chỉ là vay mượn mà thôi
Thiên Tài & Thiên Thọ (thổ) trong Tu Vi
Thiên Tài có ý nghĩa là tài năng, đo lường cắt giảm, vì thế nên Tài có đặc tính như Tuần Không là giảm ảnh hưởng xấu của các sao mờ ám và giảm bớt ảnh hưởng tốt của các sao sáng sủa.
Thiên Thọ là Phúc Thọ tinh chủ nhân hậu, từ thiện và gia tăng ảnh hưởng cho các phúc thọ tinh.
Ngoài những tính chất kể trên, Tài Thọ còn tượng trưng cho đạo lý Nhân Quả của đời người. Tài được khởi từ cung Mệnh (định mệnh thừa trừ mà cắt giảm) và Thọ được khởi từ cung an Thân (bản thân tự gây tạo) đến một cung nào đó để mách bảo cho biết là giữa Mệnh Thân và cung mà Tài hay Thọ đến đóng đã có sự hoán cải do luật thừa trừ mình đã gây nên.
Thân (Thiên Thọ / Nhân) = cá nhân tự gây tạo, tùy theo vị trí “Thân” để quyết định hành động theo cung mà Thiên Thọ đóng.
Mệnh (Thiên Tài / Quả) = định mệnh thừa hành mà cắt giảm, chịu ảnh hưởng cân quả do Thọ đã làm ra, tại cung có Thiên Tài đóng.
Nếu như Thân (tam hợp Thái Tuế) có làm ra “Thọ” hay cư xử sao cho “Thọ” được toàn vẹn thì Mệnh mới có đủ “Tài” năng lực hoán cải tạo ra những sự tốt đẹp để đền đáp. Còn như Thân xuất phát chử “Thọ” bị Không-Kiếp hãm thì Mệnh “Tài” kia cũng sẵn sàng đem lại những kết quả là hình thức như tranh vẽ mà thôi.
Người đời nhập thế ở khoảng thời gian nào thì sẽ thấy căn quả của mình phải mang nặng ở ngay phần việc nào như:
Năm Tý (Tài ở Mệnh) căn quả do chính bản thân mình
Năm Sửu (Tài ở Phụ) phải làm sao với Đấng sinh thành
Năm Dần (Tài ở Phúc) căn quả chịu ảnh hưởng nơi dòng họ
Năm Mão (Tài ở Điền) căn quả chịu ảnh hưởng về nhà cửa điền sản
Năm Thìn (Tài ở Quan) căn quả chịu ảnh hưởng với công việc làm
Năm Tỵ (Tài ở Nô) căn quả chịu ảnh hưởng nơi bạn bè, kẻ dưới tay
Năm Ngọ (Tài ở Di) căn quả chịu ảnh hưởng nơi ngoại nhân
Năm Mùi(Tài ở Ách) căn quả chịu ảnh hưởng những hoạn nạn
Năm Thân (Tài ở Tài) căn quả chịu ảnh hưởng do tiền của thâu hoạch
Năm Dậu (Tài ở Tử) căn quả chịu ảnh hưởng nơi con cháu
Năm Tuất (Tài ở Phối) căn quả chịu ảnh hưởng ở vợ chồng
Năm Hợi (Tài ở Bào) căn quả chịu ảnh hưởng nơi anh em
Các cách tốt xấu của Thiên Tài trong Tu vi
Thiên Tài + Nhật hay Nguyệt = Thiên Tài khi đồng cung với Nhật hay Nguyệt hãm sẽ gia tăng sức sáng cho Nhật Nguyệt và sẽ làm giảm sự quang huy của Nhật Nguyệt một khi bộ sao này sáng sủa tốt đẹp. Trường hợp Nhật Nguyệt đồng cung thì Thiên Tài sẽ làm cho Nhật Nguyệt thêm rực rỡ tốt đẹp.
Thiên Tài + Nhật hãm = Người không cẩn trọng lời nói, thiếu lòng tín ngưỡng về thần quyền
Gốc đại hạn
Yếu tố làm cho các tiểu hạn trung nhau thành ra khác biệt nhiều là do gốc đại hạn thay đổi, vì khi đoán tiểu hạn điều tiên quyết là phải xét đến đại hạn lúc đó được coi như là một cung Mệnh thứ hai di động có ảnh hưởng mạnh mẽ và rõ rệt cho tiểu hạn, nhưng ta vẫn không thể quên lãng cung Mệnh khi giải đoán. Để cho được linh động và bớt khô khan tôi tránh việc nêu ra các nguyên tắc và chỉ nêu ra dưới đây nhiều thí dụ điển hình:
-Nếu đại hạn có Liêm Tham hãm địa (tại Tỵ, Hợi) mà tiểu hạn có Địa không, Địa kiếp, Thiên không thì sự nghiệm hoạnh phát, nhất là khi được Địa không, Địa kiếp đắc địa (Dần, Thân, Tỵ, Hợi) chỉ vì Liêm Tham hãm địa rất cần gặp Không (chính trong cuốn Tử vi đẩu số Tân biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng có nêu ra điểm này khi bàn đến bộ Sát Phá Liêm Tham hãm tại cung Quan lộc mà quý bạn vô tình không biết áp dụng cho cả đại tiểu hạn). Cũng trong trường hợp tiểu hạn trên, nếu gặp Đại hạn có Thiên Phủ hoặc Tử vi thì thực đáng buồn chỉ chờ ngày khuynh gia bại sản hoặc mất chức…nhất là khi có thêm Tuần, Triệt án ngữ (là yếu tố làm lợi thêm cho Liêm Tham hãm), vì Tử Phủ sợ nhất gặp Không Vong và Tuần, Triệt. Ngoài ra, ta vẫn phải xét đến Mệnh nữa, vì khi đại tiểu hạn tương hợp với nhau rồi nếu được thêm Mệnh hỗ trợ thêm mới đáng gọi là hanh thông thuận lợi, còn ngược lại vẫn giảm đi nhiều. Tỷ dụ như Mệnh có Vũ Sát tại Mão mà gặp được đại hạn Liêm Tham hãm và tiểu hạn Không Kiếp, Thiên không như trên thì còn gì hay bằng vì tất cả nhóm sao đó tương trợ lẫn nhau chặt chẽ. Còn trường hợp Mệnh có Thiên Phủ (tức là Mệnh ở Dậu) với đại tiểu hạn như trên thì chưa thể hanh thông được hoặc nếu có phát lên mạnh thì đương số cũng đau khổ, bực dọc trong tâm hồn vì nằm trong môi trường trái ngược với tư thế của mình, không khác gì một ông quan tòa mà phải đứng đầu một đảng cướp hoặc một nhóm buôn lậu quốc tế, như thế càng thành công càng thấy lương tâm cắn rứt, mặc dầu bề ngoài thật là thịnh vượng và có uy tín.
Khi Đại hạn có Nhật Nguyệt miếu vượng tại Mão và Hợi mà gặp tiểu hạn có Thiên Không, Thiên Hư và cung nhập hạn lại vô chính diệu thời tiền tài và công danh rất ngon lành, vì Nhật Nguyệt rất ưa cung vô chính diệu để rọi chiếu vào cho sáng sủa nhất là có thêm Thiên Không quét sạch mây mù và có Thiên Hư làm cho bầu trời thăm thẳm thực là đẹp biết bao! Ngay cả khi có Tuần, Triệt án ngữ cũng vẫn hanh thông vì Nhật Nguyệt khi chiếu gián tiếp (tức là ở đại hạn ảnh hưởng cho tiểu hạn) không hề sợ Tuần, Triệt mà có khi còn nhờ hai sao nầy làm tăng sự tốt đẹp cho cung vô chính diệu nhập tiểu hạn nữa. Ngoài ra, dù có thêm Không, Kiếp (bất luận miếu vượng hay hãm) nhập hạn cũng phát đạt như thường vì Không Kiếp không hại gì cho Nhật, Nguyệt. Nhưng với tiểu hạn như trên, nếu đại hạn gặp Thiên Phủ hội Song Lộc thì kết quả ngược hẳn lại, không lụn bại thì cũng không làm sao phát đạt nổi. Gặp trường hợp như thế nhiều người mới học tử vi hẳn phải thắc mắc không hiểu tại sao tiểu hạn trước mình phát mạnh mẽ mà tiểu hạn sau cũng vào cung đó lại xuống đến đất đen, nhất là cứ yên trí đại hạn có Thiên Phủ hội Song Lộc thì tiền để đâu cho hết…Bây giờ ta lại phải xét đến Mệnh xem có gì mâu thuẫn hoặc thuận lợi cho đại tiểu hạn hay không: nếu trường hợp đầu (tức là đại hạn Nhật Nguyệt và tiểu hạn Thiên không, Thiên Hưu và cung nhập hạn vô chính diệu) mà được cung Mệnh cũng vô chính diệu hoặc có Phá quân cư Thân) thì năm đó rất thuận lợi, vì Phá quân rơi vào hạn có những sao trên không có gì trái ngược, cũng ví như một người liều lĩnh, thủ đoạn dữ dằn gặp được môi trường làm ăn bất chính (như buôn lậu) thì dễ thành công rực rỡ. Nếu Mệnh có Cơ, Lương hoặc Tử, Phủ thì tuy hợp với Đại hạn Nhật, Nguyệt nhưng lại kỵ tiểu hạn Không Vong, Không Kiếp, Tuần, Triệt cho nên năm đó cũng khó thành công.
-Nếu đại hạn có Xương, Khúc, Khôi Việt, Quan Phúc, Hóa Khoa, mà tiểu hạn lại gặp Hỏa Linh, Không Kiếp, Tuần, Triệt, Hóa Kỵ, Kình, Đà là ta đã thấy ngay sự mâu thuẫn, trái ngược giữa hai nhóm sao đó vì một bên toàn là sao chủ về văn học, tư cách thông minh, một bên chủ về dữ dằn, phá hoại, ngăn trở, lao động về chân tay, như thế làm sao có thể hanh thông được. Riêng trường hợp này, rất cần phối hợp với Mệnh. Nếu Mệnh có Liêm Tham hãm địa hoặc có Vũ Sát hay Cơ Lương (nhưng 2 cặp sao sau không thuận lợi bằng Liêm Tham vì chúng rất sợ Tuần Triệt) thì năm đó không đáng ngại, cũng ví như người thợ máy tới lúc được bổ túc thêm phần kỹ thuật của mình (tỷ dụ như học thêm một khóa chuyên môn nào đó).
Còn trường hợp Mệnh có Thiên Tướng, Thiên Lương…thì tuy rất hợp với đại hạn đó nhưng tiểu hạn hoàn toàn bất lợi, nếu có đi thi tất rớt, có mưu cầu chức phận gì cũng bị cản trở. Do đó, nếu Mệnh và tiểu hạn tương hợp với nhau rồi phải có Đại hạn làm trung gian kết hợp mới tốt đẹp, cũng ví như người mai mối giữa hai họ nhà trai và nhà gái nếu thân thiết với cả hai bên thì người đó sẽ cố tác thành cho cặp trai gái, còn trường hợp không ưa một bên nào là thế nào cũng gây mâu thuẫn. Xem như vậy quý bạn thấy đoán tiểu hạn quả thực rất uyển chuyển vì phải kết hợp quá nhiều yếu tố.
Qua những thí dụ nêu trên, quý bạn hẳn đã có một khái niệm về sự khác biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau (cùng một cung). Đây mới chỉ căn cứ vào gốc đại hạn chứ chưa xét tới những yếu tố thay đổi khác, mà tôi xin nêu ra dưới đây:
Các sao Lưu niên (hoặc Phi tinh)
Nếu muốn giải đoán tinh vi về tiểu hạn hơn, ta cần căn cứ vào các sao lưu niên mà một số nhà tử vi quen gọi là phi tinh là các sao không thể an sẵn trên lá số nhưng cứ mỗi năm ta cần ghi thêm bằng bút chì trên lá số nếu muốn đoán kỹ lưỡng thêm, để biết những điểm dị biệt giữa các tiểu hạn trùng nhau. Các phi tinh thông thường là Lộc tồn, Kình Đà, Thái tuế, Thiên Mã, Khốc Hư, Tang Hổ, Khôi Việt mà cách an có ghi trong nhiều sách tử vi nên tôi không nêu ra đây nữa. Nhiều nhà tử vi khi an Lưu Thái Tuế hoặc Lưu Lộc Tồn thường an luôn cả các sao khác thuộc chùm đó, nhưng theo tôi nghĩ thì chỉ cần xét đến các phi tinh nêu trên, cũng đủ vì những sao còn lại không giúp được nhiều cho việc giải đoán mà còn có khi làm ta phân vân không biết đi tới kết luận nào. Ngoài ra, trong các phi tinh kể trên, Lưu Thái Tuế cần được chú trong nhiều nhất vì nó luôn luôn tọa thủ tại cung của năm nhập hạn (tức là địa bàn, còn lưu tiểu hạn là thiên bàn).
Tôi lại cũng xin nêu ra nhiều thí dụ điển hình dưới đây chứ không thể nêu ra nguyên tắc giải đoán được:
-Khi đại hạn có Cự môn hãm địa hội Phục binh, Tuế phá, tiểu hạn lại có Cô Quả, Tang Hổ, Kình Đà, Hỏa Linh, Thái tuế mà Lưu Thái tuế lại gặp Thiên Hình, Hóa Kỵ, Kình hoặc Đà lưu niên (nhất là Kình hãm địa) thời ta có thể quyết đoán là đương số bị tù tội hoặc bị đánh đập khá nặng, nếu không cũng phải đau yếu nguy nạn. Nếu lưu Thái tuế không gặp Kình hoặc Đà, tức là Lưu Lộc tồn chạy sang cung khác, thì bao nhiêu sự nguy nan cũng chỉ còn một phút. Do đó quý bạn thấy mỗi 12 năm là Lộc tồn lưu niên lại thay đổi vị trí, kéo theo Kình Đà luôn chứ không thể nào cho rằng địa bàn nhập hạn luôn luôn giống nhau mỗi 12 năm.
-Nếu đại hạn có Hóa Khoa, Quang Quý (Sửu Mùi), tiểu hạn có Xương Khúc, Khôi Việt mà Lưu Thái Tuế lại gặp phi tinh Khôi Việt Hồng Hỉ thì thuận lợi nhất về công danh, đi thi chắc chắn phải đậu, nhất là khi thấy Mệnh có Thiên Lương, Thiên Tướng đắc địa hội Tả Hữu, Quyền Lộc nữa. Nhiều khi tiểu hạn hơi xấu mà Lưu Thái Tuế hội nhiều sao tốt đẹp vẫn được hanh thông, tuy vẫn có trở ngại lúc đầu, tỷ dụ như thi đậu kỳ nhì, hoặc buôn bán thua lỗ đầu năm nhưng giữa năm trở đi lại phát tài.
-Về phương diện Lưu Thiên Mã, nhiều nhà Tử vi cho rằng những người nào Mệnh, hoặc Thiên Di hay “Thân” cư tại Dần Thân Tỵ Hợi hay phải di chuyển, xuất dương, xuất xứ vì Thiên Mã cố định luôn luôn ở 4 cung đó và cả Thiên Mã lưu niên cũng vậy. Còn đối với những người khác, nhất là những người có cách làm việc cố định không bao giờ quý bạn nên đoán là họ sẽ thay đổi công việc mỗi khi gặp Lưu Thiên Mã vì cứ vài năm thế nào chẳng gặp trực tiếp hoặc gián tiếp Lưu Thiên Mã hoặc Thiên Mã cố định. Đối với những người này phải có thật nhiều yếu tố thay đổi mới có thể đoán được, tỷ dụ như đại hạn có Thiên Đồng, Thiên không rồi tiểu hạn có Mã cố định gặp Lưu Thiên Mã, mà lại phải chiếu về cung thuộc về mình, tức là Mệnh, Quan lộc, Tài bạch, Thiên Di, “Thân” chứ nếu chiếu về Phụ Mẫu, Tử tức thì cũng vẫn chưa thể quả quyết được. Ngoài ra, còn cần 2 đại hạn liền nhau thật khác nhau, để cho có sự thay đổi mạnh mẽ mỗi khi chuyển đại hạn.
Sau hết, ngoài các phi tinh kể trên, ta còn cần chú trọng đến Lưu Tuần, Triệt mà ít sách đề cập tới mặc dầu rất quan trọng (Cách an 2 sao lưu động này cũng như cách thông thường, tỷ dụ như năm nay Giáp Dần thì Tuần ở Tý Sửu và Triệt ở Thân Dậu). Thực thế, nhiều khi Lưu Tuần, Triệt còn ảnh hưởng mạnh mẽ hơn Tuần Triệt cố định, nếu luận đoán về tiểu hạn. Tỷ dụ như cung nhập hạn có Tử Phủ cư Thân hội nhiều sao tốt đẹp và hợp với đại hạn cũng như Mệnh nhưng vẫn không thấy hanh thông, đó cũng chỉ vì Lưu Tuần hoặc Lưu Triệt đã án ngữ làm mất gần hết cách tốt đẹp đó đi. Nhưng gặp trường hợp hạn quá xấu nếu may mắn được Lưu Tuần, Triệt án ngữ thời vẫn có thể chắc qua khỏi được. Như vậy quý bạn thấy mỗi tiểu hạn trùng nhau đã có khá nhiều yếu tố khác nhau.
Thời gian
Sau hết, ta cần phải lưu ý đến yếu tố thời gian tuy không có tính cách lý thuyết về tử vi, nhưng nhiều khi ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc giải đoán. Tỷ dụ như:
-Hai sao Tả Hữu thường thường chỉ ứng nghiệm trong thời đương số còn trẻ vì có trẻ mới hăng say hoạt động cho phù hợp với đặc tính của Tả Hữu, chứ khi đã lớn tuổi dù có muốn tích cực chăng nữa Tả Hữu cũng “già nua” rồi khó lòng giúp cho đương số được phong độ như trước. Về sao Đào Hồng cũng tương tự như vậy, nếu nằm trong những đại hạn ta còn thanh niên mới đúng môi trường chứ từ 60 tuổi trở đi 2 sao đó không những không giúp ích gì lại còn làm cho ta yếu đuối thêm và có khi đưa đến tận số. Còn sao Triệt thì từ năm 30 tuổi trở đi cũng bớt hẳn ảnh hưởng đi, nếu cung nhập hạn từ 30 năm trở về trước đang tốt trở thành xấu vì Triệt án ngữ thì từ 30 năm trở về sau phải đoán là tốt nếu gặp sao đó nữa.
-Về các hung tinh (như Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp) nói chung thường hay hoạt động sớm nếu ở Đại hạn thì hay ứng vào mấy năm đầu và ở tiểu hạn ứng vào đầu năm, nhất là khi gặp chính tinh có ảnh hưởng sớm (tức là bắc đẩu tinh). Hoặc có khi trong đại hạn còn trẻ bị hung tinh này quấy phá nhưng đến đại hạn cách đó mấy chục năm sau cũng gặp hung tinh đó sự phá hoại lại quá nhẹ.
Qua các thí dụ trên, quý bạn hẳn nhận thấy việc đặt ra nguyên tắc hoặc hệ thống để giải đoán tiểu hạn rất khó thực hiện vì có quá nhiều yếu tố kết hợp không giống nhau và để kết luận tôi chỉ xin nhắc quý bạn là sự tốt xấu của tiểu hạn không phải hoàn toàn do đặc tính tốt xấu của các sao nhập hạn mà do sự tương hợp giữa tiểu hạn, đại hạn và Mệnh Thân.
1. Nơi phản chiếu các góc đẹp
Nếu góc nhà của bạn có hướng nhìn ra vườn, bầu trời xanh hoặc tủ trang trí đẹp, đó chính là khu vực thích hợp để treo những khung gương lớn. Nhờ vậy, bạn có thể nhân đôi cái đẹp, màu xanh và sự thoáng đãng.
![]() |
| Ảnh minh họa: Mirrorlot. |
2. Trong phòng khách, phòng ăn
Không gian sinh hoạt chung là nơi cần có sự ấm áp, cảm giác sum họp. Bởi vậy, những chiếc gương sẽ khiến nhà trở nên đông vui hơn khi trong phòng có nhiều người tụ tập.
3. Dùng gương để che các góc xấu
Nếu trong nhà có cột to, hay các mảng tường trống, một tấm gương phù hợp sẽ khiến bạn và khách tới nhà quên đi những khu vực xấu xí này.
4. Trong phòng nhỏ, lối đi dài
Với tác dụng nhân đôi không gian, gương sẽ giúp phòng nhỏ rộng rãi hơn với điều kiện, nhà phải gọn gàng. Với các hành lang dài, bạn đặt gương dọc lối đi để tạo điểm dừng, xóa bỏ cảm giác mệt mỏi.
5. Gần cửa ra vào
Để luôn có sự chỉnh tề trước khi ra ngoài đường, bạn nên có một tấm gương gần cửa với khổ lớn đủ soi toàn thân. Bạn lưu ý đặt gương ở bức tường vuông góc với cửa nhưng không trong phạm vi cửa mở và đối diện cửa ra vào.
Lam Huyền (Theo Redlotusletter)
![]() |
Xưa nay nhiều người vẫn lầm tưởng rằng 12 con giáp có xuất xứ từ Trung Hoa. Tuy nhiên, mới đây, trong một công trình nghiên cứu về ngôn ngữ Việt cổ – nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông phát hiện ra nguồn gốc 12 con giáp có xuất xứ từ Việt Nam.

Ngôn ngữ là “lá bùa” tổ tiên để lại.
Theo văn hóa Phương Đông, lịch âm dương được xác lập theo chu kỳ thay đổi đều đặn của Mặt trăng. Do đó 12 con giáp ứng với 12 giờ trong ngày, 12 tháng trong năm, 12 năm trong một giáp – đó là những nền tảng quan trọng để tính lịch và là dấu hiệu để nhận đoán về số mệnh của từng người theo cung Hoàng Đạo.
Trong lịch sử, Việt Nam và Trung Hoa có một thời kỳ giao lưu văn hoá ít nhất 2000 năm. Những đợt giao lưu văn hóa cứ tiếp biến và chồng chất lên nhau khiến cho dấu hiệu nhận biết nét riêng của từng dân tộc rất khó khăn. Thêm vào đó, các tài liệu xưa không còn nhiều, nếu còn cũng chỉ trong kho thư tịch Hán cổ khiến cho việc nghiên cứu hết sức rắc rối và phức tạp. Chính điều này đã đốc thúc nhà nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Cung Thông cố công đi tìm cho bằng được những bí ẩn ngôn ngữ của tổ tiên mà theo ông đó là những “lá bùa” con cháu cần tìm lời giải.
Ông Thông cho biết, ông bắt đầu việc nghiên cứu tiếng Việt của mình vào những năm đầu thập niên 1970 tại nước Australia. Trong một lần nghiên cứu về nguồn gốc 12 con giáp để lần tìm cội nguồn tiếng Việt ông đã phát hiện ra một số từ Việt cổ mà người Việt đã dùng để chỉ về 12 con giáp có nguồn gốc lâu đời trước khi 12 con giáp xuất hiện ở Trung Hoa.
Vào những ngày cuối năm con trâu, tại Viện Việt học ở thành phố Westminster (California, Mỹ) ông đã có một buổi thuyết trình những khám phá thú vị của mình với chủ đề “Vết tích của tiếng Việt cổ trong tiếng Hán”.
“Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con giáp là Tý/Tử, Sửu, Dần, Mão/Mẹo, Thìn/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc vì là những từ Hán Việt, nhưng khi phân tách các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ, tôi đem so sánh trong hệ thống ngôn ngữ vay mượn thì sự thật không phải vậy” – ông Thông nói.
Theo ông Thông thì tên 12 con giáp nếu đọc theo tiếng Bắc Kinh và bằng cách ghi theo phiên âm (pinyin): zi, chou, yín, măo, chén, sì, wè, wèi, shèn, yòu, xù, hài… hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi tên 12 con giáp trong tiếng Trung Quốc hiện nay. Ngay cả khi phục hồi âm Trung Quốc thời Thượng Cổ thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vật thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp ngày nay thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khăng khít với nguồn gốc tên 12 con giáp này.
Từ điều này, khởi đầu cho việc nghiên cứu ông đi tìm nguyên do vì sao trong 12 con giáp của Trung Quốc, con Mèo bị thay bởi Thỏ. “Người Trung Quốc dùng thỏ thay cho mèo (biểu tượng của chi Mão/Mẹo) vì trong văn hóa người Trung Quốc thỏ là một loài vật rất quan trọng và thường được ghi bằng chữ tượng hình là Thố, giọng Bắc Kinh, là từ viết bằng bộ nhân không có từ để chỉ mèo. Hầu như chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão: nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ, xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/báo… Vì thế mà mèo cũng là loài vật hiện diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn” – ông Thông lý giải.
Thời tiền Hán, tiếng Việt không có nhiều thanh điệu như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có gì lạ. Trong khẩu ngữ người Việt có cách dùng “chờ một tý” hay “chờ một chút”, “đưa chút tiền”, “đưa tý tiền”… vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế (ít thanh điệu hơn so với giọng Hà Nội) thì thấy chút hay chụt/chuột chính là các cách đọc của Tý sau này.
Vì sao Việt Nam không giữ được “thương hiệu”?
Thực tế, đã từng có nhiều công trình của nhiều tác giả cố gắng chứng minh văn hóa Trung Quốc có xuất phát từ văn hóa Việt Nam như tác giả Lê Mạnh Mát qua cuốn “Lịch sử âm nhạc Việt Nam – từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Ðế” hay tác giả Nguyễn Thiếu Dũng với cuốn “Nguồn gốc Kinh Dịch”… Hầu hết các cuốn sách này đều cho thấy chiều vay mượn văn hóa là từ phương Nam vào thời thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Ðường lúc văn hoá Trung Quốc cực thịnh. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu trúc của chữ Hán, Hán cổ cùng các biến âm trong cách lý giải.
Trích lược bởi Phong Tục Tập Quán
Khi yêu một ai đó, họ sẽ thể hiện tình yêu của mình một cách công khai. Họ là người khá lãng mạn. Nếu là bạn gái hay vợ của người tuổi Dần, bạn sẽ được trải nghiệm rất nhiều cảm xúc ngọt ngào.
![]() |
| Tình yêu của người tuổi Dần đẹp rực rỡ |
1. Vùng da trán xuất hiện vết thâm xanh hoặc đen
Theo quan điểm dân gian, màu sắc vùng trán là một trong những tiêu chí đánh giá vận thế tốt xấu của một người trong khoảng thời gian gần nhất. Do đó, nếu trán bạn đột nhiên xuất hiện vết thâm xanh, đen hoặc toàn bộ vùng da trán sẫm màu hơn so với các vùng da lân cận, điều đó báo hiệu điều bất lợi sẽ xảy đến với bạn.
Ngoài ra, nếu trán bị thương do ngã hoặc ai đánh vào, cũng dễ gặp xui xẻo. Bạn cần hết sức đề phòng nhé.
2. Mũi và sống mũi xuất hiện mụn đỏ hoặc sẹo
Nếu mụn đỏ hoặc vết sẹo không rõ căn nguyên xuất hiện trên mũi bạn, chứng tỏ tài vận của bạn đang gặp trục trặc. Đồng thời, phương diện tình duyên của bạn cũng không mấy thuận lợi. Bạn sẽ yêu phải người không chung thủy và dễ rơi vào trạng thái buồn chán.
Theo đó, khi thấy những dấu hiệu này, bạn cần chủ động phân biệt rõ mối quan hệ, tránh lấy dây buộc mình nhé.
![]() |
3. Đuôi mắt mọc nốt ruồi
Đuôi mắt còn gọi là cung vợ chồng, biểu thị mối quan hệ về tình cảm. Nếu vị trí này xuất hiện nốt ruồi, đồng nghĩa với những điều thiếu may mắn về tình cảm sẽ tới, bạn cần phải dành nhiều thời gian để “giữ nhiệt” cho tình yêu của mình, tránh xảy ra bất hòa.
4. Tóc mái dài che tầm nhìn của mắt
Chỉ một thời gian không được “tỉa tót”, tóc mái của bạn dài hơn tưởng tượng và che hết tầm nhìn. Điều đó không mang lại may mắn, ngược lại dễ khiến bạn gặp xui xẻo.
5. Lông mũi lộ thiên
Nếu ngày nào đó, lông mũi của bạn không chịu “an phận” trong hốc mũi mà lộ thiên, bạn cũng cần hết sức lưu ý. Điều đó báo hiệu những trắc trở bạn sẽ gặp phải trong chuyện tình cảm.
Ngoài ra, nếu cánh mũi xuất hiện nhiều mụn đen, những người làm kinh doanh cần lưu lý và đề phòng thua lỗ.
Mr.Bull (theo Dyxz)
Họ là người cẩn thận, nghiêm túc trong công việc cũng như trong quan hệ giao tiếp. Thích giúp đỡ mọi người, sống chân thành và nhiệt tình cũng là những ưu điểm của họ.
|
| (Ảnh minh họa) |
Lúc còn nhỏ, cuộc sống của người tuổi Mùi mệnh Kim thường gặp nhiều khó khăn. Khi trưởng thành, lập gia đình, cuộc sống của họ khá an lành, vợ chồng hòa hợp. Nữ giới tuổi Mùi mệnh Kim rất biết chăm lo cho công việc gia đình.
(Theo 12 con giáp về sự nghiệp và cuộc đời)
Kiêng không quét nhà đổ rác trong ngày tết: Theo quan niệm dân gian,trước Tết, nhà nào cũng đã lau dọn cửa nhà sạch sẽ đón Tết. Vì vậy, trong ngày đầu năm, bạn không cần phải quét dọn thêm nữa. Ngoài ra, còn có quan niệm cho rằng, quét dọn nhà cửa trong ngày này là quét hết tài lộc trong năm mới ra khỏi nhà.
Còn theo nhóm tác giả PGS Lê Trung Vũ, Lê Huỳnh Lý, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dương, Lưu Kiếm Thanh, Hồ Tường viết trong cuốn Nghi lễ vòng đời người: "Tục này là do ở trong Sưu thần ký có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo. Thủy thần cho một con hầu tên là Như Nguyệt, đem về nhà vài năm thì giàu to.
Đến sau, một hôm, nhân ngày mùng một Tết, đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà chàng kia lại nghèo đi. Bởi thế ta theo tục Tàu, kiêng không dám hốt rác trong mấy ngày Tết. Tuy nhiên hiện nay người ta chỉ còn kiêng đến hết ngày mùng một thì thôi".
Không để chung đồ ăn mặn và ngọt cùng một ban thờ: Đây là điều rất nhiều gia đình thường hay phạm phải. Theo đó, nhiều gia đình có ban thờ rộng nên thường để mâm ngũ quả sau đó để luôn cả lễ mặn lên ban thờ để thắp hương.
Theo chuyên gia phong thủy Hoàng Anh Hùng (Hà Nội) đây là điều kiêng kị không nên làm. Chuyên gia phong thủy Hùng cho biết, lễ mặn và lễ ngọt nên tách riêng ra hai ban khác nhau, bởi nhiều gia đình thờ phật mà phật thì rất kỵ đồ mặn.
“Mâm cơm cúng và hoa quả thanh tịnh nên để riêng chứ không nên cùng chung trên một ban thờ. Thứ nhất là không ai đưa nước mắm lên ban thờ, hơn nữa nếu nhà nào thờ phật thì càng không được vì phật kỵ đồ mặn. Theo tôi, nên để mâm mặn tách hẳn ra, có thể kê thêm bàn bên dưới sau đó thắp ba nén hương và làm lễ”, chuyên gia phong thủy Hùng cho biết.

Theo chuyên gia phong thủy Hùng, hoa ly là hoa ngoại lai nên không nên dùng để thắp hương.
Không nên thắp hương bằng hoa ly, hoa loa kèn: Điều này nghe có thể rất vô lý, bởi không chỉ riêng ngày Tết mà ngày rằm, mùng một rất nhiều gia đình đều mua cành hoa ly về để thắp hương trên ban thờ.
Theo chuyên gia phong thủy Hoàng Anh Hùng, theo quan niệm thì đã là hoa thơm thì hoa nào cũng dùng thắp hương được, cái quan trọng nhất đó chính là lòng thành kính. Tuy nhiên, theo quan niệm của người phương Đông, đặc biệt là người Việt Nam, hoa ly, hoa loa lèn, hoa lay ơn là loại hoa ngoại lai không phải là hoa truyền thống nên không nên dùng để thắp hương.
Cũng theo ông Hùng, trong ngày Tết thông thường dùng các loại hoa truyền thống như: hồng, cúc, đào tỉa để thắp hương trên ban thờ.
Không mặc áo màu đen, trắng ngày mùng 1: Đây là điều kiêng kỵ mà dường như người Việt ai cũng đã “nằm lòng”. Theo quan niệm của người xưa, màu trắng và đen là màu tang tóc, vì vậy, ngày đầu năm không bao giờ được mặc trang phục quá nhiều sắc trắng hay sắc đen. Ngày Tết, người ta ưa chuộng những màu sắc sặc sỡ, tạo nên sự phấn khởi, vui vẻ, đặc biệt được ưa chuộng là hai sắc đỏ, vàng.
Kiêng chúc Tết người đang nằm ngủ: Ngày xưa đất tuy rộng nhưng không phải gia đình nào cũng có nhà to để phân ra thành phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách. Vì thế không hiếm trường hợp, khách đến nhà chúc Tết vào sáng mùng một, thấy vẫn có người nằm ngủ do phải thức khuya vào tối giao thừa.
Đã đến nhà người ta thì phải xởi lởi mà chúc Tết, thế nhưng họ không chúc người đang nằm ngủ đó. Nếu không, lời chúc tốt đẹp lại bị xem như lời trù ẻo, muốn cho người ta phải nằm li bì trên giường bệnh. Vì thế, nếu có lòng, khách phải đợi đến khi người đó ngủ dậy mới nói ra lời chúc với họ.
Ngoài ra, trong ngày đầu năm nhiều người còn kiêng không cho lửa, cho nước, kiêng không đi chúc Tết ngày mùng một, kiêng không để mất hòa khí ngày mùng 1…