Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Bóc trần sự thật về hiện tượng ma ám

Ma ám là một hiện tượng tâm linh gây nhiều tranh cãi nhất trên thế giới. Nhưng các nhà khoa học tin rằng đó chỉ là biểu hiện của chứng đa nhân cách.
Bóc trần sự thật về hiện tượng ma ám

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ma ám là một hiện tượng tâm linh gây nhiều tranh cãi nhất trên thế giới. Có nhiều người tin rằng, thực sự có hồn ma tồn tại và người yếu bóng vía sẽ bị ma ám, trở thành con người khác. Một số khác tin đó chỉ là chứng đa nhân cách mà thôi.

Boc tran su that ve hien tuong ma am hinh anh
 
Trên thế giới ghi nhận nhiều trường hợp một người bỗng dưng biến thành người khác, có tính cách, thói quen và nhận thức hoàn toàn khác chỉ sau một đêm ngắn ngủi.
  Một ngày, Kate – cô gái da trắng – mắng chửi thậm tệ những ai coi cô là phụ nữ. Kate khẳng định cô là một chàng trai da đen và công khai đeo đuổi một cô gái cùng làm.
 
Hay M. John - chuyên gia trong ngành ngân hàng tại Washington DC bỗng thành thạo công việc của một người quản lý quỹ thực thụ và gây náo loạn chỗ làm việc.
 
Nhiều người cho rằng, các trường hợp trên bị ma ám, nhập hồn. Hồn ma của một người khác đã nhập vào thân xác những người này nên họ trở thành con người như linh hồn đó lúc còn sống.
 
Các nhà khoa học kịch liệt phản đối ý kiến trên và cho rằng cho rằng những người như John và Kate không hề bị ma ám như dân gian gán cho mà thực chất họ bị chứng rối loạn đa nhân cách (Multi Personality Disorder – MPD). Biểu hiện của chứng bệnh này là: 
 
– Có 2 hoặc nhiều hơn trạng thái của các nhân cách thay nhau chi phối con người.
 
– Các nhân cách phải hoàn toàn riêng biệt, tương đối ổn định về nhận thức, quan hệ gia đình, xã hội, khả năng miêu tả thế giới xung quanh.
 
– Khi bị một nhân cách này chi phối, người bệnh có khả năng quên các thông tin quan trọng liên quan đến các nhân cách tiềm ẩn khác, đến mức không thể xem đó là chứng quên thông thường.
 
– Các rối loạn đó không phải do ảnh hưởng của thuốc hay hóa chất.
 
Theo các nhà y khoa, bệnh nhân MPD phải chịu những diễn biến tâm lý hết sức phức tạp. Họ bị hai hay nhiều nhân cách thay nhau kiểm soát và chi phối, thậm chí có người có cùng lúc tới 37 nhân cách khác nhau. Cá biệt có những người bị giằng xé cùng một lúc bởi hai nhân cách hoàn toàn trái ngược. 
 
Các nhà khoa học cho rằng, con người ngay từ khi sinh ra đã mang trong mình nhiều “mầm nhân cách” khác nhau, giống như mang nhiều hạt giống. Hạt giống nào phù hợp với cơ thể, điều kiện sống và giáo dục thì sẽ phát triển trở thành nhân cách của con người. Khi ấy, họ “bỏ quên” các nhân cách khác kém hoặc không phát triển.
 
Tuy có quá trình “chọn lọc tự nhiên” như vậy nhưng những mầm nhân cách kia không bị mất đi hoàn toàn mà nấp ở đâu đó trong tiềm thức. Dưới một tác nhân nào đó, các nhân cách còn lại kia trỗi dậy, kiểm soát và đưa người ta vào chứng MPD.

ST
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bóc trần sự thật về hiện tượng ma ám

Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp

Đặt hướng cửa chính lệch với nguồn năng lượng của gia chủ có thể đem đến họa khôn lường.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa là một trong ba vật quan trọng nhất của một ngôi nhà. Cửa của ngôi nhà cũng giống như miệng của một người vậy, miệng dùng để hít thở, còn cửa dùng để lưu thông không khí trong nhà. Trong phong thủy về nhà ở, hướng cửa chính vô cùng quan trọng - nó ảnh hưởng trực tiếp tới lành dữ, họa phúc, phú quý, bần hàn của cả gia đình. Vậy nên, xét từ góc độ phong thủy, cửa phải đặt hướng nào mới là cửa may mắn, cửa phú quý? Chuyên gia phong thủy dựa vào các lí luận về phong thủy, đã tổng kết ra năm loại cửa phú quý.

Tiêu chuẩn cơ bản khi chọn cửa phú quý

Nói một cách đơn giản, tiêu chuẩn cơ bản của cửa phú quý chỉ gồm 4 chữ “âm dương cân bằng”. Vậy thì, làm sao để âm dương cân bằng? Mọi người đều biết, cửa dùng để lưu thông không khí, do đó có thể thấy, thuộc tính của cửa là âm. Do vậy, cửa phòng nên đặt ở vị trí có thuộc tính dương mới có thể phù hợp với luật cân bằng âm dương.

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 1

Chỉ cần chúng ta xác định phương hướng nào thuộc dương để lắp cửa chính, thì đó chính là hướng cửa chính phú quý. 

Xác định hướng cửa phú quý

Nguyên tắc xác định hướng cửa phú quý dựa vào Tiên thiên bát quái đồ. Bởi vì phương hướng mà Tiên thiên bát quái thể hiện là phương hướng căn nguyên, cố hữu.

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 2

Do vậy, xét về nguyên tắc, cửa chính của nhà nên đặt ở vị trí Càn (chính Nam), Chấn (Đông Bắc), Khảm (chính Tây), Cấn (Tây Bắc). Cụ thể có thể phân làm năm loại cửa phú quý như sau:

1. Cửa chính nam

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 3

Cửa chính nam có lợi cho cha mẹ, trưởng bối và gia chủ.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề quân nhân, hành chính, lãnh đạo, giáo dục sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến kim loại, cơ khí, vàng bạc đá quý, chăn nuôi, các ngành nghề truyền thống và nghề nông dễ phát tài.

Chuyên gia phong thủy cũng nhắc nhở mọi người: vị trí cửa chính thông thường không được đặt ở đường trung tuyến của kinh tuyến, bởi vì đây là đường cực quý. Trước đây chỉ có hoàng thất mới có thể dùng đường này. Nếu như năng lượng của nhà và chủ nhà không đủ mà dùng đường này, e là sẽ phản tác dụng.

2. Cửa hướng đông bắc

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 4

Cửa hướng đông bắc có lợi cho con trai và con gái trưởng.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề trợ lý, thợ thủ công, giám đốc, người tu hành, tuần tra, thuế vụ, văn phòng, tài chính sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến thủ công, nghề mộc, giấy, làm vườn, hoa quả và tre trúc dễ phát tài.

3. Cửa chính Tây

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 5

Cửa này có lợi cho con trai và con gái giữa.

Về sự nghiệp: Những người làm nghề bác sĩ, luật sư, giáo viên, tác giả, văn nhân, nghệ sĩ, nghiên cứu sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến hàng hải, thủy lợi, thủy sản, nghề muối, vận tải, điện tử, dầu mỏ dễ phát tài.

4. Cửa hướng tây bắc

 Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp - 6

Loại cửa này có lợi cho con trai và con gái út

Về sự nghiệp: Những người làm nghề học sinh, cảnh vệ, tín đồ, coi ngục, học giả, dịch giả, phê bình sẽ thuận lợi và dễ thăng tiến trong công việc.

Về tài vận: Những người theo nghề liên quan đến rừng núi, danh lam thắng cảnh, bất động sản, đồ trang sức, chế tác ngọc và châu báu sẽ dễ phát tài

5. Cửa kết hợp giữa chính Tây và Tây Bắc.

Hướng cửa chính loại này kết hợp giữa ưu điểm của cửa chính tây và cửa hướng tây bắc, chỉ có điều mức phú quý có phần không được cao như 2 loại cửa trên. Cửa hướng này có lợi cho gia chủ.

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý, ngoài cửa đặt ở vị trí kết hợp Khảm (chính Tây) và Cấn (Tây Bắc) mang thuộc tính dương giống nhau ra, các loại cửa kết hợp khác đều không tốt cho tài vận và phú quý của gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn hướng cửa chính Phú Quý cho nghề nghiệp

Mệnh cách bất lợi nhất cho tiền tài của bạn

Trong Tử vi đẩu số 3 mệnh cách là bất lợi nhất đối với tiền tài, mệnh cách của bạn có bị vướng vào những mệnh cách này?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong các mệnh cách của Tử vi đẩu số thì các mệnh cách: Mệnh lý phùng không (Không Kiếp giáp mệnh, Không Kiếp giáp kỵ), Dương đà giáp kỵ, Mã lạc không vong là bất lợi nhất đối với tiền tài.

menh-ly-phung-khong

1. Mệnh cách Mệnh lý phùng không: cả đời bần hàn

Sao Địa không, Địa kiếp tọa mệnh, là mệnh cách Mệnh lý phùng không.

Mệnh tọa cung Nhật, Hợi, 2 sát tinh Không, Kiếp giáp mệnh là mệnh cách Không Kiếp giáp mệnh, nếu lại gặp sao Hóa kỵ tọa mệnh thì gọi là mệnh cách Không Kiếp giáp kỵ.

Sao Địa không tọa mệnh cũng giống như “gãy cánh giữa chừng”, thường gặp phải sự đả kích mang tính đột ngột, rơi vào tay trắng.

Sao Địa kiếp tọa mệnh cũng giống như “chèo thuyền trên sóng”, thường gặp phải những con sóng bất định, nếu cung Mệnh không có cát tinh thì cầu danh cầu lợi đều không đạt, cần phải tín ngưỡng tôn giáo đồng thời thường rời xa nhà, thanh nhàn thì mới có thể kéo dài tuổi thọ.

Không kiếp giáp mệnh thì thường phát sinh đứt gánh giữa chừng và chèo thuyền trên sóng, mệnh cách Không Kiếp giáp kỵ thì càng không cát lợi.

2. Mệnh cách Dương Đà giáp kỵ: Khốn đốn trắc trở

Sao Lộc tồn, Hóa kỵ cùng tọa mệnh, hai sát tinh Kình dương, Đà la giáp cung Mệnh là mệnh cách Dương Đà giáp kỵ.

Sao Kình dương chủ hình thương, thường có danh thương phá hoại, hoặc thương tích ngoài dự liệu.

Sao Đà la chủ thị phi, thường bị đâm lén sau lưng, hoặc bệnh tật bên mình, 2 sát tinh lại giáp sao Hóa kỵ của cung Mệnh, chủ cả đời nhiều khốn khó trắc trở, bất cứ việc gì đều khó được như ý, cô bần hình khắc, trăm sự không cát lợi.

3. Mệnh cách Mã lạc không vong: vất vả nhưng không được gì

Sao Thiên mã tọa mệnh, Tài bạch, Thiên di, cung Điền trạch, gặp sao Không vong như Địa không, Tiệt không, Tuần không là mệnh cách Mã lạc không vong. Sao Thiên mã chủ tài lộc, di chuyển, nhanh trí cần mẫn, có lực hành động, xuất ngoại thì phát đạt.

Sao Thiên mã nếu rơi vào Không vong (tử tuyệt) địa, tai bệnh liên miên, cả đời bôn tẩu, làm việc mà không được thành tựu. Nếu sao Thiên mã, Lộc tồn cùng tọa cung Mệnh, Tài bạch, Thiên di, Điền trạch, mặt khác lại rơi vào Không vong thì càng không cát lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mệnh cách bất lợi nhất cho tiền tài của bạn

Chọn ngày cho người tuổi Mùi

Tuổi Tân Mùi (1931, 1991): Ngày, giờ nên tránh: Tân Mùi, Tân Sửu, Đinh Mùi. Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Sửu.
Chọn ngày cho người tuổi Mùi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chon ngay cho nguoi tuoi Mui hinh anh
Tuổi Mùi

Tuổi Tân Mùi (1931, 1991)

- Ngày, giờ nên tránh: Tân Mùi, Tân Sửu, Đinh Mùi

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Đinh Sửu

Tuổi Quý Mùi (1943, 2003)

- Ngày, giờ nên tránh: Quý Mùi, Quý Sửu, Kỷ Mùi

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Kỷ Sửu

Tuổi Ất Mùi (1955)

- Ngày, giờ nên tránh: Ất Mùi, Ất Sửu, Tân Mùi

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Tân Sửu

Tuổi Đinh Mùi (1967)

- Ngày, giờ nên tránh: Đinh Mùi, Đinh Sửu, Quý Mùi

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Quý Sửu

Tuổi Kỷ Mùi (1979)

- Ngày, giờ nên tránh: Kỷ Mùi, Kỷ Sửu, Ất Mùi

- Ngày, giờ đặc biệt cần tránh: Ất Sửu.

Theo Đời người qua 12 con giáp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn ngày cho người tuổi Mùi

Vì sao xinh đẹp, giỏi giang lại có nguy cơ thành gái ế chồng?

Có những cô gái bản thân duyên dáng, giỏi giang nhưng lại trở thành gái ế chồng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Gia đình không êm ấm

Nghe bà hàng xóm đùa rằng "nhà có cô gái ế, sao chẳng gả chồng đi để mà có cháu bế bồng" - thì bà Chước bỗng giật mình: Con gái bà đã hơn 30 tuổi, đẹp gái, giỏi làm kinh tế... nhưng tới giờ vẫn chưa lấy được chồng.

Từ khi sinh con tới giờ bà luôn hết lòng tận tụy cho tổ ấm. Người mẹ nào cũng vất vả khi con ở tuổi bú mớm, bỉm sữa, nên cả thời tuổi trẻ bà vừa đi làm, vừa bận mọn con cái.

Suốt ngày bà bận rộn, lo toan để chồng an tâm chu toàn việc nước và kiếm tiền nuôi gia đình. Mỗi tháng chồng đưa gọn gàng khoản lương, rồi vắng nhà tối ngày. Bỏ mặc toàn bộ việc nhà cho vợ. Đứa con thứ nhất, rồi đứa con thứ hai ra đời. Thời con tuổi sài đẹn, tháng nào cũng ốm, cũng ho, cũng phải ra vào viện suốt.

Khi con còn nhỏ, mỗi khi ốm đau sài đẹn chỉ có mình mẹ chăm. Ảnh minh họa.

Bà cứ tưởng chồng bận rộn lo vun vén cho gia đình, nên không chăm lo cho mẹ con bà được đầy đủ, cũng không quan tâm chia sẻ được nhiều việc nhà, việc nuôi dạy con với bà, nên càng cố gồng mình đầu tắt mặt tối chăm lo hai con chu toàn.

Nhưng rồi bà phát hiện ông ngày càng đi biền biệt, về nhà sặc hơi men, khiến bà chăm lo cái tổ ấm một mình nhiều khi quá mệt mỏi. Bà đã trách móc, giận hờn, cãi vã và cả mâu thuẫn mong ông đỡ đần việc nhà. Nhưng mỗi lần cãi vã chồng bà càng tệ hơn, về muộn không thèm báo cơm, nếu có nhà thì gác chân lên bàn xem tivi, không bao giờ có ý thức giúp đỡ vợ dạy con, hay làm việc nhà.

Đỉnh điểm là khi con gái học thi lên cấp 3, rồi thi đại học, chồng dứt khoát không chi tiền cho con vào lò luyện thi, trong khi con hổng kiến thức, học trên lớp mà kêu chẳng hiểu gì. Bà nghĩ, không cho con đi luyện thi thì chỉ có trượt đại học. Thế là bà lo nguyên phần lương chồng đưa để cho con luyện thi 2 năm trời, còn ăn uống, mua sắm thì… thắt chặt chi tiêu.

Rồi bà đón tin vui con gái đỗ vào trường đại học tốp đầu, nhưng đổi lại vợ chồng đã ly thân, không thèm trò chuyện với bà ở nhà vì "tội" không nghe lời chồng.

Lo cho con lớn xong, bà tiếp tục lo toan cho con trai nhỏ. “Đầu xuôi đuôi lọt”, ơn trời phật, hai con bà đều học hành giỏi giang khiến bà nở mày nở mặt với mọi người.

ảnh minh họa

Chăm cây không được hái quả

Những tưởng chăm cây sẽ tới ngày hái quả, nghĩa là bà nuôi dạy con khi con lớn bà sẽ an nhàn, thanh thản với con yêu. Nào ngờ sau khi con gái đỗ đại học, thì người chồng vô trách nhiệm với gia đình bỗng… sợ mất con, trở về cưng chiều con cái như công chúa, hoàng tử. Con đòi gì, muốn gì cũng đáp ứng.

Qua con bà mới biết từ lâu chồng đã có tài sản, nhà đất riêng. Rồi sổ hộ khẩu, giấy khai sinh bản chính của các con bà cất trong bao hồ sơ, nhưng cứ biến mất khi con cần. Mới đây con cần gấp giấy khai sinh thì bản chính mất, bản sao sai giới tính… chồng bà mới vội đưa cho con một bản sao khai sinh có từ năm con bà mới sinh ra – bản khai sinh ấy do ông ngoại nó khai, bà cất giữ lâu nay nhưng giờ trong tay chồng. Con gái ngỡ bố nó giữ gìn giấy tờ cho nó, có biết đâu bao năm nay bà cất giữ, ba nó chỉ “lấy” trong túi hồ sơ gia đình ra cất đi vài năm nay.

Lòng người khó lường. Khi con qua thời sài đẹn, bỉm sữa ông dùng tiền bạc, tính toán để chuộc lại tình cảm cha con, đoạt mất “tài sản quý giá của bà”. Từ ngày chồng quan tâm con cái, những đứa con yêu bà dày công rèn giũa công dung ngôn hạnh từ tấm bé dần thay đổi hoàn toàn theo ý cha, dốc lòng lo toan cho bố với suy nghĩ “đàn ông lo việc lớn, lười lo cho bản thân, nên con gái cần chăm sóc”.

Còn bà, hai lần sốt cao 40 độ tự vò võ gọi xe ôm một mình vào viện. Bác sĩ cấp cứu ngạc nhiên hỏi: “Chồng bà đâu, con bà đâu”? Bà ứa nước mắt “Tôi có một mình, bác sĩ cứ cứu tôi đi”.

Mẹ già chẳng được nghỉ ngơi vì lo con trở thành gái ế.

Vì sao con gái hay lặp lại cuộc đời của mẹ?

Con gái còn bảo sẽ tìm người đàn ông lớn tuổi, và giỏi giang, tình cảm như bố, có cơ đồ sáng sủa để lấy làm chồng. Không như mẹ, chỉ biết ru rú trong nhà, không có công danh sự nghiệp gì cả.

Bà chết lặng với ý nghĩ của con, muốn gào lên: “Con ơi, tấm chồng bỏ mặc vợ con để vui thú, nhậu nhẹt thỏa mãn đam mê riêng mình như cha thì cuộc đời con sẽ lặp lại khốn khổ như cuộc đời mẹ”. Nhiều lần bà ngửa mặt kêu trời hỏi vì sao mình hết lòng chu toàn cho chồng, con, cho gia đình mà vẫn khổ vì chồng?

Tới khi gặp bà Minh Tú (giảng viên về khoa học thiền định – PSSA Việt Nam), câu hỏi của bà mới được giải đáp. Theo đó, khi cha mẹ bất hòa sẽ mất đi sự kết nối, giữa họ tạo ra “lỗ hổng” để con cái xen vào. Họ vẫn ở với nhau vì những đứa con. Nhưng một trong những đứa con sẽ bị hút vào “lỗ hổng” đó.

Bà Minh Tú chia sẻ, theo tự nhiên, con gái được bố thương nhiều hơn. Còn theo quy luật năng lượng thì con gái bị thu hút về với cha. Ở khoảng trống đó, người chồng không đầy đủ năng lượng nên sẽ đối xử với con gái như cô công chúa bé bỏng.

Newton Kondaveti - bác sĩ y khoa nổi tiếng của Ấn Độ đã giải thích rằng, khi người bố không quan tâm tới mẹ nữa, thì con gái trở thành mối quan tâm hàng đầu với bố. Người cha sẽ khiến con gái yêu bố mình vô cùng.

Hậu quả sẽ là: Khi con gái trưởng thành, về năng lượng nó vô cùng trung thành với bố, nên rất khó có những mối quan hệ thành công với những người đàn ông khác. Cô ấy có thể xinh đẹp, giỏi giang, có thể hấp dẫn rất nhiều đàn ông, nhưng vẫn có thể ế chồng. Đó là vì trong vô thức cô ấy đã có ý nghĩ, nếu có quan hệ tốt với đàn ông là sẽ phản bội bố mình.

Nếu lấy được chồng, chưa chắc cô ấy đã có hạnh phúc, bởi trong tiềm thức cô ấy đi... tìm bố, chứ không phải tìm chồng. Đặc biệt chẳng may người bố chết sớm, thì từ trong vô thức cô ấy luôn khao khát tìm bố trong những người đàn ông, và cô ấy chỉ thích những người đàn ông cư xử với mình như với con gái.

 Theo Giadinh.net.vn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao xinh đẹp, giỏi giang lại có nguy cơ thành gái ế chồng?

Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Phong thủy tốt sẽ đem đến cho con người nhiều may mắn, nắm được những quy luật phong thủy tốt, bạn sẽ có phương pháp để tránh đi đại nạn.
Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy tốt sẽ đem đến cho con người nhiều may mắn, phong thủy không tốt thì đem lại vận khí bất lợi. Hiện nay có nhiều người đã và đang quan tâm tới các vấn đề phong thủy bên cạnh mình là tốt hay xấu. Và nắm được những quy luật nhất định, bạn sẽ có phương pháp để tránh đi đại nạn.


► Mời các bạn xem Lịch nghỉ Tết 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com

Bat mi bi quyet phong thuy tot da that truyen ngan nam hinh anh 2
Ảnh minh họa

Trong vườn nhà nên tràn ngập ánh mặt trời, tránh để cây to tán rộng bao phủ hết không gian. Bước vào cửa nhà thì nên có Mộc trong Mộc, nếu không mẹ con dễ bất hòa.
 
Vườn nhà có khe lớn thì sẽ tổn thương đường con cái. Phía sau gia trạch có rãnh lớn thì chủ hung vận, trạch vận khó phát. Đây cũng là bí quyết phong thủy tốt nên áp dụng.
 
Nơi ở cần tránh khuyết góc, nếu hướng Tây Nam bị khuyết thì tổn hại tới mẹ, Tây Bắc bị khuyết thì tổn hại tới cha, Đông Bắc bị khuyết thì ổn hại tới con. Hai bên cổng nhà cần tránh trồng cây to, đặc biệt các loại cây có tính trường thọ. Cạnh cửa nhà mà có hai cây lớn thì nhất định có họa người thứ 3. 
 
Dưới cửa sổ phòng lớn cần tránh xây nhà nhỏ cạnh nhà chính, dễ tổn thương nhân khẩu. Nhiều gia đình có thói quen xây nhà bé cạnh nhà chính, xây nhà bên trái thì 3 tháng sau tất gặp họa. 
 
Trong khuôn viên không thể không có nhà, nếu không gia tài không tụ, vợ con khó quản. Nếu tường nhà phía Tây cao, phía Đông thấp, thì hung tinh Bạch Hổ hoành hành, tai nạn liên miên. 
 
Trong khuôn viên nhà không được xây trụ gỗ, nếu không dễ xích mích hàng xóm bốn bề.

Bat mi bi quyet phong thuy tot da that truyen ngan nam hinh anh 2
 
Trong khuôn viên nhà tránh xây đầm cá nếu không trong một năm nhà sẽ tổn tài, 3-5 năm thì gia chủ bị bệnh phổi, ung thư đường ăn uống. Hiện tượng phong thủy này gọi là “Thủy phá thiên tâm”.
 
Muốn phong thủy tốt, ngoài khuôn viên nhà thì không được đào đầm hình vuông, nếu không cả nhà dính dáng tới chuyện tang tóc. 
 
Góc Tây Nam ngoài nhà không được xây nhà cao hơn, nếu không sẽ gặp Bạch Hổ Hàm Tiếu Sát “ăn” cả gia đình. 
 
Hai bên hông phải trái của căn nhà kỵ nhất có nhà cao(trong phạm vi 10m). E là căn nhà sẽ bị âm khí bao chùm, con cái tổn thất. 
 
Tường bao quanh nhà tránh quá cao,  nếu không gia chủ dễ phạm họa lao tù hay nghèo khổ. Quan vận bất thông, công danh không thể tề tựu.
An Hà

Phương hướng đại cát đại lợi trong tháng 10/2016 Giải sát cho nhà phạm lỗi hộ hình phong thủy cực nặng Hóa giải sát khí trong phong thủy nhà ở bằng sơn hải trấn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí bí quyết phong thủy tốt đã thất truyền ngàn năm

Bố cục phòng dành cho người già theo phong thuy (p2)

Bố cục phòng dành cho người già theo phong thuy (p2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vật trang trí đem đến sức khỏe và phúc khí theo phong thuy

Như trên đã trình bày, khi bô" trí phòng cho người già nên đặt tiêu chí đơn giản, trang nhã lên hàng đầu. Ngoài những dụng cụ, vật phẩm cần thiết thì nên tránh đặt quá nhiều đồ vật ở trong phòng. Nhưng để tạo ra bầu không khí ấm áp hài hòa thì trong phòng cũng có thể đặt một scí vật trang trí thích hợp. Ví dụ như, có thể treo một bức tranh về sông núi, cây cỏ hoa lá có hàm ý về sức khỏe trường thọ trên tường của căn phòng. Hơn nữa, thời gian rảnh rỗi của người già tương đối nhiều, họ thường thích ở trong phòng đọc sách, chiêm nghiệm cho nên đặt những đồ dùng có tính hoài cổ như tranh thư pháp ở trong phòng cũng rất phù hợp.

Xuất phát từ góc độ sức khỏe của người già thì trong phòng họ không thích hợp đặt vật trang trí có khí âm tương đốì nặng như bế cá. Ngoài ra, những đồ vật thiếu sự trang nhã cũng không thể đặt ờ trong phòng.

Nhiều ánh sáng mặt trời mang lại sức khỏe theo phong thuy

Ánh sáng của thiên nhiên rất quan trọng đốì với sức khỏe  người già. Ngoài việc phải đặt căn phòng của người già ở nơi nhận được đầy đủ ánh sáng mặt trời thì việc thiết kế cửa sổ ở trong phòng cũng rất quan trọng.Trong phòng nên thường xuyên mở cửa sổ, đặc biệt là khi mặt trời lên. Sau khi không khí ẩm ướt ở trong phòng bị tiêu tán, lúc í này mở cửa sổ có thể thúc đẩy việc trao đôi, lưu thông không khí trong và ngoài căn phòng. Khỉ mà không khí ấm áp, trong lành bên ị ngoài vào phòng, con người tự nhiên sẽ cảm thấy tâm hồn thư thái, nội tâm an định. Nếu như trong phòng đặt một chiếc ghê mây ở chỗ có ánh sáng mặt trời mạnh nhất thì người già có thể ngồi ở đây sưởi nắng, hoặc nói chuyện, hoặc ngồi thiền, như vậy họ có thể cảm nhận sự vui vẻ thoải mái và hưởng thụ cuộc sống mạnh khỏe. Điều này rất có lợi đôĩ vối sức khỏe và hạnh phúc của người già.

Ánh sáng đèn phải ấm áp ,nhu hòa

Phòng người già cần phải yên tĩnh, không khí ấm áp, cho nên yêu cầu phòng của họ phải chọn dùng đèn chùm màu trắng làm nguồn sáng chủ thể. Ngoài ra, tốt nhất ở tủ đầu giường cũng nên đặt một chiếc đèn phụ để giúp chiếu sáng. Khi chọn mua dụng cụ đèn, cần chú ý độ sáng của đèn cần vừa phải. Có như thế mối có thể tạo ra một bầu không khí hài hòa ấm áp, phù hợp với nhu cầu sinh hoạt của người già.

Ngoài ra, bạn cũng nên lưu ý rằng, để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người già tốt nhất thiết bị chiếu sáng ở trong phòng nên có chức năng điều chỉnh độ mạnh, yếu. Hơn nữa còn phải chú ý, người già thường có thói quen dậy đêm, đa phần lại có thị lực kém. Vì vậy, tốt nhất cửa của nhà vệ sinh cũng đặt một chiếc đèn để người già tiện đi lại.

Đặt hoa cỏ trong phòng người già theo phong thuy

Phần lớn người già đều có rất nhiều thời gian rảnh rỗi, thêm nữa họ vốn thích trồng hoa cỏ. Cho nên đặt một chậu hoa ỏ trong phòng người già cũng là một lựa chọn không tồi.

Nhìn từ góc độ phong thủy, thực vật là vật phẩm rất quan trọng trong việc cải vận và vượng vận. Đặt thực vật I trong phòng có thể thúc đẩy sinh khí lưu động trong phòng để hình thành khí trường tốt. Hơn nữa, màu xanh lục là màu của sinh mệnh, thực vật màu xanh lục chính là tượng trưng cho sinh mệnh. Vì vậy, trong phòng có thực vật màu xanh lục tức là có sinh khí. Cho nên việc B đặt thực vật ơ trong phòng người già là một việc có ý nghĩa rất lớn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bố cục phòng dành cho người già theo phong thuy (p2)

Lễ Đức Thánh Hiền

Lễ Đức Thánh Hiền. Đức Thánh Hiền là một trong các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam. Tham khảo bài viết văn khấn lễ Đức Thánh Hiền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ý nghĩa:

Theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.

Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

2. Sắm lễ:

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

- Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

- Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

- Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

- Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

- Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

- Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

3. Hạ lễ

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

4. Văn khấn:

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Con cúi lạy Đức Thánh Hiền, Đại Thánh Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả.

Hôm nay là ngày ..... tháng ..... năm .....

Tín chủ con là ...................

Ngụ tại ...............................


Chúng con thành tâm tiến dâng lễ bạc, oản quả, hương hoa. Cầu mong Tam Bảo chứng minh, Đức Thánh Hiền chứng giám, rủ lòng thương xót phù hộ cho con được mọi sự tốt lành, hạnh phúc an lạc ............ (tài lộc, cửa nhà)

Cúi mong Ngài soi xét tâm thành, phù hộ cho gia đình chúng con được sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.

Dãi tấm lòng thành, cúi xin bái thỉnh.

Cẩn nguyện


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Đức Thánh Hiền

Tướng phụ nữ đa tình |

Cách nhận biết đàn bà, phụ nữ dâm qua cách nhìn tướng của họ: - Da mặt trắng có lấm tấm tàn nhan, lông mày nhỏ hẹp nhưng kéo dài về phía đuôi mắt. - Mắt lớn và sáng, phía dưới mắt (lệ đường) có nhiều nếp nhăn xếp lên nhau hoặc nốt ruồi đen nổi rõ, có
Tướng phụ nữ đa tình |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ đa tình |

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn. Tình bạn chính là liều thuốc giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống. Hãy tham khảo bài viết sau nhé!
Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn. Tình bạn chính là liều thuốc giúp chúng ta sống tốt hơn trong cuộc sống.

Hãy cùng xemboituong.com lắng nghe những câu nói truyền cảm hứng về tình bạn từ những người phụ nữ quyền lực và nổi tiếng trên thế giới.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Marilyn Monroe – Nữ diễn viên huyền thoại của Hollywood, biểu tượng nhan sắc của thế kỷ 20: “Hãy nhớ rằng, vài người đến, vài người đi. Nhưng những người mà họ ở lại cùng bạn vượt qua tất cả, họ chính là bạn bè tốt thật sự. Đừng buông họ. Chị em gái chúng ta là những người bạn tốt nhất thế giới, hơn cả những người tình. Vì đối với người tình, họ không chỉ đến rồi đi, mà hầu hết rất nhiều trong số họ sẽ làm tan vỡ trái tim chúng ta”.

——–

J.K Rowling – Nữ tác giả với chuỗi tác phẩm ăn khách nhất lịch sử văn chương thế giới Harry Potter: “Phải lấy hết dũng khí để đối đầu với kẻ thù và cũng cần nhiều như thế để đứng bên bạn bè của chúng ta”.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Se Hinton – Nữ văn sĩ nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết dành cho giới trẻ: “Sẽ rất may mắn nếu bạn có được đến hai người bạn xuất hiện trong cuộc đời mình. Nếu chỉ có một người bạn tốt, bạn cũng đã may mắn”.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Elizabeth Barret Browning – Một trong nữ thi nhân nổi danh nhất thời đại Victoria: “Không ai là không có bạn bè và họ luôn có Chúa Trời cùng sự đồng hành của những cuốn sách”.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Oprah Winfrey – Nữ hoàng truyền hình Mỹ: “Mọi người đều muốn đi chơi với bạn trong chiếc limo, nhưng những gì bạn muốn là một ai đó sẽ cùng đi xe buýt với bạn khi chiếc limo kia bị hỏng”.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Taylor Swift – Nữ ca sĩ pop country nắm giữ nhiều kỷ lục về doanh thu và giải thưởng trong sự nghiệp: “Thật dễ dàng để bị hút về phía những con người nói cho bạn biết chính xác những gì bạn muốn nghe. Nếu một trong số họ có dũng khí để cho bạn biết: ‘”Không, tôi không nghĩ bạn đã làm điều đúng”, nó có thể tốt cho chúng ta hơn. Tôi không bị nhiễm thói cố gắng trở nên tuyệt vời. Người thú vị nhất tôi biết sẽ không quan tâm đến chuyện trở nên nổi tiếng hay hợp thời… Selena và tôi giống như chị em. Chúng tôi kể cho nhau nghe về mọi thứ và cười đùa thoải mái hàng giờ vì những điều ngớ ngẩn bên trong câu chuyện mà chúng tôi trải qua trong nhiều năm. Cô ấy biết những điều thoái thác của tôi và tôi cũng vậy, thật tuyệt khi có một người bạn tường tận cốt truyện của bạn”.

Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những người phụ nữ quyền lực nói về tình bạn

Phong thủy ghế ngồi làm việc –

Ghế ngồi làm việc tốt có thể điều chỉnh hợp với cơ thể và bàn làm việc chắc chắn, có tựa lưng và cánh tay. Nó tượng trưng cho điểm nương tựa và nền móng của bạn, vì thế, hãy đảm bảo là ghế có hình dáng phù hợp với công việc. Nếu mua chiếc ghế mới, hã

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ghế ngồi làm việc tốt có thể điều chỉnh hợp với cơ thể và bàn làm việc chắc chắn, có tựa lưng và cánh tay. Nó tượng trưng cho điểm nương tựa và nền móng của bạn, vì thế, hãy đảm bảo là ghế có hình dáng phù hợp với công việc.

kmmot

Nếu mua chiếc ghế mới, hãy lựa chọn màu phù hợp với vị trí phòng làm việc và loại hình công việc (dựa vào ngũ hành và bát quái). Ví dụ, công việc giao tiếp gần với hành thủy và cùng Sự nghiệp, vì thế, một chiếc ghế màu xanh lá cây sẫm hoặc màu đen là lựa chọn thích hợp cho nhà văn, người làm xuất bản hay công việc liên quan đến giao tiếp. Vì kim sinh thủy, nên màu xám cũng là lựa chọn có tác dụng hỗ trự. Tuy nhiên, màu nâu hay màu đỏ tía không thích hợp cho nhà văn, bởi vì thổ và hỏa làm suy yếu thủy.

Nếu ghế ngồi làm việc không có màu hỗ trợ cho nghề nghiệp của bạn, một giải pháp rất dễ là phủ lên ghế một mảnh vải có màu thích hợp hơn.

Nên nhớ rằng công việc là một hình thức tự thể hiện bản thân. Mặc dù đồ đạc trong phòng làm việc phải phù hợp với tính chất công việc; nhưng không có nghĩa là chỉ cần tạo không gian có dáng vẻ “văn phòng”, trừ phi điều đó giúp bạn tập trung vào công việc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy ghế ngồi làm việc –

Khám phá tượng nữ thần tự do ở Mỹ

Từ năm 1886, tượng nữ thần tự do đã được xem là biểu tượng của nước Mỹ. Nhiều người khi di cư đến Mỹ đều xem đây là biểu tượng cửa sự tự do và giàu có.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tượng nữ thần tự do và những sự thật thú vị có thể bạn chưa biết

1. Tên đầy đủ của tượng Nữ thần tự do là Tự do soi sáng thế giới (Liberty Enlightening the World).

2. Trước khi sự kiện 11/9/2001 xảy ra, tượng nữ thần tự do được mở cửa để du khách tham quan có thể leo lên cao tới tận vương miện của bức tượng này và ngắm quang cảnh của bến cảng New York. Sau sự kiện kinh hoàng 11/9, năm 2004, các nhà chức trách đã cho phép mở cửa lại bức tượng. Tuy nhiên, đến tận năm 2009, khu vực vương miện của nữ thần mới được mở trở lại.

Khám phá tượng nữ thần tự do ở Mỹ

3. Ngọn đuốc trên tay phải của nữ thần là tượng trưng cho ánh sáng dẫn đường tới sự tự do, bình đẳng, bác ái. Ngọn lửa trên ngọn đuốc được mạ vàng 24k vào năm 1986. Đây chính là ngọn lửa mà Promete đã mang đến cho con người. Đây cũng là biểu tượng cho nền độc lập Hoa Kỳ.

4. Vào những năm 1980, tượng nữ thần tự do đã được tu sửa với chi phí lên tới hàng triệu đô la Mỹ. Cũng chính trong thời gian này, ngọn đuốc cũ trên tay phải nữ thần đã được thay bằng một ngọn đuốc mới. Có sự thay đổi này là do ngọn đuốc cũ đã bị ăn mòn tới mức không thể tu bổ lại được. Còn tay trái của nữ thần vẫn giữ tấm bảng (nhiều nguồn tin lại cho rằng đây là quyển sách) có khắc dòng ngày 4 tháng 7 năm 1776 bằng số La Mã (VII IV MDCCLXXVI). Đây chính là ngày mà nước Mỹ dành được độc lập.

5. Cầu thang trong tượng nữ thần gồm 192 bậc, còn muốn từ bậc cầu thang cao nhất lên tới vương miện của nữ thần thì du khách cần đi tiếp 354 bậc vòng xoáy trôn ốc nữa.

6. Đôi dép mà nữ thần đi dài tới 7,5m, nói cách khác đôi xăng đan của nữ thần có size là 879. Điều này cũng khá phù hợp với trọng lượng cơ thể 225 tấn của nữ thần. Hàng năm có hơn bốn triệu khách du lịch tới thăm tượng nữ thần tự do.

Khám phá tượng nữ thần tự do ở Mỹ

7. Vương miện của nữ thần có 25 cửa sổ và 7 mũi nhọn tượng trưng cho tia nắng mặt trời. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, 7 mũi nhọn này tượng trưng cho 7 đại dương.

8. Những người Mỹ cũng đã làm một bản sao tượng nữ thần tự do tặng cho người Pháp. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1889, bức tượng bản sao này đã chính thức được giới thiệu tới công chúng và nhân dân Pháp bên bờ sông Seine - Paris.

9. Khi được dựng lên vào năm 1886, tượng nữ thần tự do khi đó là bức tượng cao nhất thế giới. Đến năm 1984, bức tượng chính thức được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

10. Màu xanh của tượng nữ thần tự do là do phản ứng hóa học giữa lớp đồng mỏng bao phủ bức tượng với các yếu tố bên ngoài. Ban đầu, bức tượng có màu nâu đỏ.

Khám phá tượng nữ thần tự do ở Mỹ
Màu sắc của bức tượng thay đổi theo thời gian

11. Tượng nữ thần tự do còn trờ thành biểu tượng của dân nhập cư trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 do bức tượng là thứ đầu tiên những người nhập cư nhìn thấy trước khi cập bến. Trong suốt những năm từ 1886 cho đến 1902, bức tượng còn được sử dụng như là một ngọn hải đăng chỉ đường cho người đi biển.

12. Hình ảnh của Nữ thần tự do còn được in trên tờ 10 USD.

13. Và không chỉ có một bản sao của tượng nữ thần tự do, trên thế giới có rất nhiều tượng nữ thần tự do như ở Na Uy, Nhật Bản, Đài Loan, Anh, Philippin. Đến cả Việt Nam, cũng có một bản sao của tượng nữ thần tự do. Ở Cửa Nam, Hà Nội, bức tượng Bà đầm xòe cũng được xem là một bản sao của tượng nữ thần tự do.

Trên đây là một vài thông tin về bức tượng nữ thần tự do ở Mỹ. Chúc bạn đọc sẽ có cơ hội tới thăm bức tượng nổi tiếng này và lên được vị trí cao nhất trên bức tượng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khám phá tượng nữ thần tự do ở Mỹ

Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Ai cũng muốn đường tình yêu của mình thuận buồm xuôi gió, nhưng 3 chòm sao lận đận tình duyên dưới đây lúc nào cũng gặp phải những trở ngại không đáng có.
Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ai cũng muốn đường tình yêu của mình thuận buồm xuôi gió, hanh thông thuận lợi nhưng mỗi người một cuộc đời riêng, 3 chòm sao lận đận tình duyên dưới đây lúc nào cũng gặp phải những trở ngại không đáng có trên con đường tìm kiếm hạnh phúc.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Chom sao lan dan tinh duyen, kho tim thay hanh phuc dich thuc hinh anh
 

Song Ngư

  Là chòm sao yêu đương thắm thiết nhưng cũng là chòm sao lận đận tình duyên, Song Ngư đơn thuần nhưng đa tình, đối với chuyện tình cảm lúc nào cũng cẩn thận chờ mong. Song Ngư hi vọng có tình yêu bước ra từ cổ tích, như ảo mộng xinh đẹp, dễ đắm chìm trong tình yêu mà quên hết thảy mọi điều xung quanh.    Vì quá mức cảm tính, quá mức màu hồng, quá mức lãng mạn tạo ra những suy nghĩ không thiết thực, không cần quan tâm xem đôi bên có phù hợp hay không, các điều kiện có đầy đủ hay không, chỉ lao đầu vào yêu. Đến lúc vỡ mộng thì lại nhanh chóng thoát ra. Vòng tròn lặp lại, thiếu chín chắn, thiếu thực tế mà cứ hết yêu lại chia tay.  

Bảo Bình

  Chòm sao lận đạn tình duyên Bảo Bình đối với tình ái không chấp nhận thỏa hiệp, đưa ra rất nhiều yêu cầu với đối phương. Nếu không đáp ứng hết thì dù tốt đến mấy Bảo Bình cũng sẽ từ chối. Bình thường nói chuyện rõ ràng, mạch lạc là thế nhưng đối diện với người mình yêu sẽ trở nên hết sức vụng về, chất phác, ngây ngô.   Kết hợp hai yếu tố này, một mặt Bảo Bình từ chối người ta vì yêu cầu cao, mặt khác Bảo Bình bị từ chối vì ăn nói không khéo léo, dễ nảy sinh hiểu lầm. Vì thế, đường tình duyên của chòm sao này cứ mờ mờ mịt mịt, lúc tưởng thành rồi lại thất bại.
Chom sao lan dan tinh duyen, kho tim thay hanh phuc dich thuc hinh anh
 

Xử Nữ

  Tính cách của Xử Nữ khiến cho họ trở thành chòm sao lận đận tình duyên. Gặp người đủ điều kiện Xử Nữ sẽ nhanh chóng đồng ý lời yêu nhưng tính ưa hoàn mĩ, tỉ mỉ, xoi mói của họ sẽ giết chết mối tình này bằng những yêu cầu thái quá, khắt khe. Không chỉ nhắc nhở, càu nhàu mà Xử Nử còn giáo dục và ép buộc đối phương thay đổi toàn diện.   Bị o ép đến ngạt thở, chắc chắn là không ai chịu được. Chủ nghĩa hoàn hảo, không cho phép trong mắt có một hạt bụi nên Xử Nữ gặp ai cũng chê, cứ ở bên lâu ngày là chắc chắn sinh chuyện, không thể yên bình được.
Chòm sao nào khó buông bỏ quá khứ nhất? Tự do tự tại, 3 chòm sao độc lập yêu thích cuộc sống một mình Những thói quen xấu khiến 12 sao nữ ế dài dài
Trình Trình
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao lận đận tình duyên, khó tìm thấy hạnh phúc đích thực

Ông Bà Tổ Tiên

Giá trị văn hóa, phong tục tập quán của người Việt liên hệ với việc truyền giáo Lm Vũ Kim Chính, SJ Giáo sư Ðại Học Công Giáo Phụ Nhân, Ðài Loan
Ông Bà Tổ Tiên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ðề cập tới văn hóa, phong tục của một dân tộc là một đề tài hết sức phức tạp, vì mỗi dân tộc không ít thì nhiều là một đơn vị đặc thù, dầu vậy tính cách đặc thù văn hóa này không khải là cô lập, nhưng là kết tinh vừa tế nhị vừa phức tạp qua sự giao tiếp với các dân tộc khác, với những nền văn minh khác. Văn hóa, phong tục tập quán của nfười Việt cũng thế, là những tinh hoa đã được gạn lọc, biến hóa qua cuộc sống dân tộc của biết bao nhiêu thời đại, qua việc tiếp xúc với nền văn minh, những nguồn tư tưởng sâu rộng nhất, mạnh mẽ nhất của nhân loại như Hoa-Ấn, Hy-La. Ở đây khi chọn đề tài "Ông bà tổ tiên" liên hệ với việc truyền giáo, chúng ta đã thu hẹp phạm vi không thảo luận những liên hệ Lão giáo và Phật giáo, nhưng chỉ chú tâm vào Nho giáo và Kitô giáo có liên quan tới vấn đề "lễ nghi" đối với ông bà tổ tiên. Trước tiên chúng ta truy xét lý do tại sao người Việt thành kính ông bà tổ tiên, thứ tới thảo luận lý do người Việt Công giáo trong quá trình lịch sử gặp phải những khó khăn khi bầy tỏ lòng thành kính này theo như phong tục tập quán của mình. Cuối cùng chúng ta tự hỏi có thể học được gì trong kinh nghiệm lịch sử này để hy vọng có thể suy tư về một thần học bản vị hóa việc thành kính ông bà tổ tiên?

1. Nguồn Gốc Tôn Kính Ông Bà Tổ Tiên

Tuy ai cũng biết mỗi người, mỗi gia đình đều có ông bà tổ tiên riêng, nhưng nói tới việc tôn kính ông bà tổ tiên cách chung là chấp nhận những điểm tương đồng của những nền văn hóa Viễn Ðông trong lịch sử ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của Nho học, như Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam. Nên ở dây khi bàn về nguồn gốc tôn kính ông bà tổ tiên hay ở phần sau thảo luận những tranh chấp về "lễ nghi" thì những tài liệu của các quốc gia trên đều có thể dùng để bổ túc cho nhau để hiểu rõ vấn đề.

Việt ngữ dùng danh từ "tôn giáo" để chỉ chung các tín ngưỡng. Chữ "tôn" cũng còn một âm nữa là "Tông" nguyên ủy chỉ ông "thứ tổ" (ông tổ thứ hai), rồi dùng rộng hơn nữa để chỉ nơi thờ kính tổ tông, cũng như chỉ các giáo phái, học phái. Như vậy, "tôn giáo" theo ngữ văn là thực hiện lòng hiếu kính đối với tổ tông, tổ tiên. Lòng hiếu kính này được biểu tỏ nôm na theo lối bình dân như:

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây,
uống nước nhớ tới nguồn"
, hoặc:

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn đạo hiếu mới là đạo con"
.

Hay Nguyễn Du viết trong truyện Kiều:

"Tâm thành đã thấu đến trời,
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân"
.

hay ở đoạn khác:

"Lấy tình thâm, trả tình thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời"
.

Như vậy căn nguyên tôn kính ông bà tổ tiên ở đâu? Phải chăng là một sự tôn kính "Thần Thánh" theo phẩm trật? Như sách Lễ Ký, thiên Khúc-lễ-hạ đã chép: "Thiên tử tế thiên địa, tế tứ phương, tế sơn xuyên, tế ngữ tự, chư hầu phương tự, tế ngũ tự (tức là tế Thần cửa, ngõ, giếng, bếp và giữa nhà), chư hầu tế phương mình ở, tế ngũ tự, quan đại phu tế ngũ tự, kẻ sĩ tế tổ tiên). Thực ra đây là những phương châm cho những nền văn hóa chịu ảnh hưởng Khổng học, nên dù ở Thiên An Môn bên Trung Hoa hay ở Ðàn Nam Giao tại Huế, việc tế trời chỉ có nhà vua mới có quyền đứng chủ tế. Trong lễ tế Nam Giao, trên Viên-Ðàn ở giữa là bàn Thời Trời Ðất, hai bên có hai hàng hương án song hành thờ các Tiên Ðế. Xem như thế, thừ Vua quan tới thứ dân, tế tự là việc rất quan trọng, lễ nghi được minh định có trật tự, chung qui vào hai nguyên ủy là Trời và Tổ, vì "vạn vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ" (Lễ ký) (dịch: muôn vật gốc ở Trời, người gốc ở Tổ). Nhưng thực ra hai nguyên ủy này chỉ bắt nguồn bởi một mà thôi, vì các Tổ Tiên tuy sinh ra người, nhưng tất cả đều do Trời sinh dưỡng, như Kinh Thi chép: "Thiên sinh chưng dân, hữu vật hữu tắc dân chi bỉnh di, hiếu thị ý đức" (Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, mới có đức tốt).

"Ông Trời" là nguyên ủy của muôn loài, nên tế Trời là quan trọng nhất, do đó không phải ai cũng được phép mà chỉ có Thiên Tử, dân chi phụ mẫu, mới được trực tiếp hành lễ mà thôi. Ông Trời tuy rất gần kề đại chúng trong cuộc sống, khi vui khi buồn đều có thể gọi "Trời ơi" được, nhưng họ không được phép trực tiếp cúng tế, nên thường kêu cầu tới Tổ Tiên hay cúng tế các thiểu thần. Chính vì thế mà Trần Trọng Kim đã viết: "Việc thờ Trời, thờ quỉ thần và tổ tiên, tuy là phân biệt, nhưng kỳ thực cũng là theo một lý cả, và chính là cái tôn giáo đặc biệt của những dân tộc theo văn minh Tầu ở Á đông". Dù được trực tiếp tế tự "Trời" hay chỉ gián tiếp qua Thần Thánh, tổ tiên, người Việt đều tin tưởng vào sự liên đới "Thiên nhân tương dữ". Theo đó con người được phú cho nhân tính để nhận ra thiên lý, để mô phạm Thiên tính, để trong cuộc sống họ thực thi nhân đạo hợp với Thiên đạo. Nói cách khác: "Trời đối với quần chúng như một nguyên ủy tiền định con người, nhưng vượt trên con người, định đoạt sinh tử, phúc họa, giầu nghèo. Họ kêu Trời vì Trời không xa ta. Trời thấu suốt tất cả, cả những tâm tư thầm kín. Họ kêu Trời vì Trời toàn năng, không mù quáng trong việc xét xử. Trời công minh vì thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ".

Nho gia thừa hưởng tư tưởng Khổng tử tin Trời là chủ tể vũ trụ, điều hòa mọi biến hóa bởi vậy tri Thiên mệnh là nguồn gốc và lý tưởng của tu tâm và dưỡng tính của bậc quân tử". "Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử dã" (Luận Ngữ; Nghiêu viết, XX) (dịch: không biết mệnh Trời thì không lấy gì làm quân tử). Khi bậc quân tử quyết tâm học biết và tuân theo mệnh Trời tức là sống trong tâm tình Kính và Thành. Mặc dù khi họ cúng tế thì biểu tỏ lòng chân thành: "tế thần như thần tại" (Luận Ngữ: Bát dật, III) (dịch: tế thần như có thần ở đó); nhưng đồng thời "kính quỉ thần nhi viễn chi" (Luận Ngữ: Ung giả, VI) (dịch: quỉ thần thì kính mà xa ra), vì theo Khổng tử con người làm sao biết được thế giới quỉ thần cao xa, u ẩn, nếu có tưởng tượng ra không khỏi bầy ra những điều huyền hoặc, dẫn đường cho mê tín. Như vậy, Khổng tử tuy rất trọng lễ, coi nghi thức là bày tỏ lòng Thành Kính, nhưng đồng thời cũng coi thực hành đạo Nhân là sống Thành Kính hợp với Thiên mệnh là rất quan trọng. "Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ sự" (Kinh Dịch:Văn Ngôn truyện) (dịch: quân tử lấy cái nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh-chính mà cố giữ là đủ lam gốc cho mọi sự). Vậy đạo Nhân là gì? "là Cung, khoan, tín, mẫn, huệ". Khổng tử giải thích thêm: "Cung thì không khinh nhờn, khoan thì được lòng người, tín thì người ta tin cậy được, mẫn thì có công, huệ thì đủ khiến được người" (Luận Ngữ: Dương Hóa, XVII). truy ngồn năm cái kết quả diễn đạt đạo Nhân này, chúng ta sẽ tìm ra cái Nhân Tâm Thành Kính. Tam đạo là quan trọng như thế, nên sau này, mặc dù Mạnh tử và Tuân tử mỗi người phát huy Khổng học theo đường hướng riêng, một người coi trọng "Nhân" là bảo tồn tính bản thiện của con người, một người trọng "Lễ" để chế ngự tính bản ác của người, nhưng tất cả hai đều công nhận sự trọng yếu của tâm đạo: bảo tồn lương tâm (Mạnh Tử), tu dưỡng tâm tri (Tuân tử). Ði xa hơn nữa, Mặc tử phê bình chỉ trích Nho đạo cũng vì trong thực tế tâm đạo đã bị nghi lễ tha hóa làm mất tính cách phổ biến của tâm đạo vậy.

Ðạo hiếu là một đặc tính của đạo tâm, làm cho con người tỏ lòng Thành Kính đối với cha mẹ, tiền nhân, nên chỉ nuôi dưỡng cha mẹ mà không có lòng hiếu thảo thì làm sao gọi là hiếu được! Lòng hiếu thảo này phụng sự cha mẹ lúc các ngài còn sống, tang lễ nếu các ngài quá cố: "sống thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế" (Luận Ngữ: Vi chính II). Hiếu đễ đối với cha mẹ tức là kính những người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ đã yêu mến, lễ tế những bậc cha mẹ đã lễ tế. Ðó là nguồn gốc của tôn kính tổ tiên vậy. Bởi đó Tăng tử nói: "Thận chung, truy viễn, đức qui hậu hĩ" (Luận Ngữ: Học Nhi, I) (dịch: cẩn thận lúc cha mẹ chết, nhớ đến tổ tiên xa, thì cái đức của dân trở nên hậu).

Tư tưởng đạo hiếu đã thấm nhuần vào lòng người Việt trở thành một phần quan trọng của Việt tính. Kính bái tổ tiên là chân nhận giới vô hình và hữu hình luôn luôn có sự liên lạc mật thiết với nhau. Ðó là cách diễn tả sự hiệp thông giữa ông bà cha mẹ và con cháu, giữa người sống và cả chết, là dịp đoàn tụ của đại gia đình. Quan niệm vong hồn gia tiên luôn gần gũi với con cháu được diễn tả bằng nhiều cách khác nhau. Ðại đa số quần chúng Việt Nam được coi là theo "đạo Ông Bà" thường có phong tục làm lễ cáo gia tiên, trong mọi tuần tiết, hoặc ngày kị giỗ, hoặc khi có việc hiếu hỉ, tang chay. Toan Ánh diễn giải thêm: Những biến cố quan trọng trong gia đình, lẽ tất nhiên gia trưởng đều có lễ cáo gia tiên, như: sinh con cái, con cái đầu cữ, đầy tháng, đầy năm, con cái bắt đầu đi học, sửa soạn đi thi, thi đỗ, dựng vợ gả chồng cho con... hay nhiều khi chỉ sửa sang lại nhà cửa, nhất là những di sản của tiền nhân để lại. Vui đã thế, buồn cũng khấn trình tổ tiên để các ngài biết và phù hộ, như việc làm ăn thua lỗ, có người đi xa, có người mệnh một... Ngoài những biến cố trong gia đình ra, gia trưởng cũng kính cáo những việc quan trọng khác xẩy ra trong làng nước, như làng có cướp tới, đất nước sinh loạn lạc hay những tin vui trong thôn xã,... Tất cả những kính cáo, trình khấn trên mục đích để tổ tiên hiệp thông hay phù trợ trong những khi vui cũng như lúc buồn. Tùy từng trường hợp, tùy từng gia cảnh mà sửa soạn lễ. Nhiều khi gia chủ chỉ cần sửa soạn cái lễ nhỏ, như chén trà, đĩa xôi, nải chuối. Cũng có khi lễ lạc linh đình. Toan Ánh kết luận: "Con cháu nhớ đến tổ tiên thì cúng, năng cúng bái càng tỏ rõ lòng hiếu thảo của mình đối với các cụ. Sống khôn chết thiêng, các cụ thấy con cháu hiếu kính, ất vong hồn cũng vui mừng".

Nói tới cúng vái tổ tiên tức là phải nói tới bàn thờ gia tiên. Bàn thờ này mặc dù trang trí có khác nhau, nhưng đại để đều có bài vị, bình hương, nến sáp... Nếu là bàn thờ họ thường đặt trong miếu đường, chính giữa có bàn thờ riêng thờ ông "Thủy Tổ" của dòng họ. Còn các bàn thờ biệt tông, biệt phái khác trong mỗi ngày giỗ kỵ của tông, phái mình mới được bày ra. Trên bàn thờ Thủy Tổ luôn có cuốn gia phả ghi rõ danh tánh các chi nhánh dòng họ. Nhiều khi gia phả này được ghi khắc trên tường sau bàn thờ Thủy Tổ.

Quần chúng tuy một đàng muốn bày tỏ lòng hiếu kính mình đối với tổ tiên, nhưng họ không thể phân biệt rõ ràng như những nho sĩ "vụ dân chi nghĩa, kính quỉ thần nhi viễn chi", nên thực hành đạo hiếu và thờ quỉ thần đã trở thành lẫn lộn. Vì muốn bảo vệ phần mộ ông cha, nên nhớ tới Thần Thổ Công, Thần Hà Bá. Ngoài ra còn có những thần tại gia khác như: Thần Tài, Thần Tiên Sư (hay Thánh Sư, Nghệ Sư, tức là ông tổ mỗi nghề), Ðức Quan Thánh... để bảo vệ che chở mình hay giúp phát tài,... Chính vì thế mà khi các nhà truyền giáo Tây Phương tới Việt Nam hay Trung Hoa gặp phải những khó khăn làm sao thấu hiểu tinh thần, nhất là về tinh thần "lễ nghi" tôn kính ông bà tổ tiên.

2. Tôn Kính Tổ Tiên Liên Hệ Tới Việc Truyền Giáo:

Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam cũng như ở Trung Hoa bắt đầu bằng những bước dò dẫm, va chạm những khó khăn về phiên dịch, vì hai loại ngôn ngữ biểu tả hai văn hóa quá khác nhau, nên không biết phải làm sao mới có thể đạt tới việc "bản vị hóa" chân chính được. Thoạt đầu những nhà truyền giáo tiên khởi dùng ngôn ngữ địa phương để phiên âm những từ căn bản của Kitô giáo, như thánh Phanxicô Xavier đã Nhật âm hóa tiếng Latinh: Deus Pater, Deus Filius, Deus Spiritus Sanctus là: Deusu Patere, Deusu Hiiruo va Deusu Spiritusu Santa (có khoảng 50 ngữ vựng căn bản như thế). Nhưng cách phiên âm này đã gặp những khó khăn lớn, vì hoặc là âm đó có một nghĩa khác trong ngôn ngữ là "Deusu" làm trò cười cho nhiều Phật đồ Nhật, vì họ liên tưởng tới một âm tương tự là "daiuso", có nghĩa là "Nói dối đại tài". Thấy cách phiên âm này không ổn, nên các nhà truyền giáo kế vị các bậc tiên khởi này như A. Valignano, M. Ricci, A. Schall, A. de Rhodes v.v... đã học hỏi ngôn ngữ và tư tưởng địa phương để Kitô giáo được thích ứng với môi trường mới. Trong lúc phiên dịch và thích ứng này đã xảy ra cuộc tranh chấp về "lễ nghi". Cuộc tranh chấp này mặc dù đầu tiên là bàn về hai phương pháp truyền giáo được hai phe (một bên là dòng Tên, một bên là dòng Ðaminh, dòng Phanxicô và hội Thừa Sai Balê) chủ trương, nhưng dần dần đã vượt qua phạm vi thuần túy truyền giáo và tôn giáo trở thành một tranh chấp bị những ảnh hưởng chính trị, quyền bính chi phối, nên đã trở thành một tấm bi kịch của lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông. Ở đây chúng ta chỉ có thể chú tâm tới những dự kiện chính yếu mà thôi.

Trước tiên chúng ta bàn về vấn đề phiên dịch. Sau khi thảo luận những khả thể dịch chữ, "Deus", các nhà truyền giáo đã đồng ý dùng chữ "Thiên Chúa". Nhưng dùng cách thế nào để giải thích chữ "Thiên Chúa" thì hai phe có những lập trường khác nhau. Một bên cho rằng dùng chữ "Thiên Chúa" để chỉ Deus thì phải hiểu hoàn toàn khác, hoàn toàn độc lập, không thể dùng một từ ngữ nào như "Thiên", "Thượng Ðế" để diễn giải được, vì "Thiên" theo ý họ "chỉ có nghĩa là bầu trời" (ciel materiel et visible), còn quan niệm "Thượng Ðế" là quan niệm dân ngoại thường dùng, nếu ta dùng sẽ rơi vào giới "vô thần" như dân ngoại. Một bên khác cho rằng chữ "Thiên Chúa" mặc dù là chữ ghép mới để chỉ Deus, nhưng có thể dùng những quan niệm sẵn có trong kinh điển Trung Hoa xưa như "Thiên", "Thượng Ðế" để người Trung Hoa có một mấu cứ để thăng hóa, nhờ đó mới dễ dàng hiểu rõ nghĩa thực sự của "Thiên Chúa" được. Thực ra, hai bên dùng hai phương pháp thần học cổ điển vẫn dùng là: phương pháp "phủ nhận" (via negotiva) và phương pháp "sánh loại" (via analogia). Ðứng trên phương pháp học không có chi đáng bàn cãi, nhưng động lực nao khiến họ chọn hai phương pháp này để nói lên thái độ của họ đối với nền văn hóa địa phương. Ðó mới là điều quan trọng. Dù sao đi nữa, sự kiện xẩy ra trong lịch sử là: Giám Mục Charles Maigrot, đặc sứ tông tòa ở Phúc Kiến đã nhân danh Thánh Bộ truyền giáo tuyên bố: từ ngữ "Thiên Chúa" phải được dùng để chỉ chữ "Deus" còn những tiếng khác như "Thiên" và "Thượng Ðế" thì không được dùng.

Ðối với người Công Giáo Việt Nam hiện nay, ta dùng chữ "Thiên Chúa" trong văn chương, nhưng cũna dùng chữ "Ðức Chúa Trời" theo nghĩa bình dân để chữ "Deus". Trong khi đó những người không Công Giáo thường dùng "Ông Trời" (Trung Hoa dùng chữ Lão Thiên) để chỉ Ðấng Tối Cao. Thực ra, quan niệm "Trời" không phải chỉ là "bầu trời", nhưng cũng là "Hóa Công", đấng sinh thành vũ trụ, vì vậy tại sao chúng ta không thể dùng những quan niệm đã có sẵn trong kinh điển Trung Hoa, đã được nhiều người biết tới để giải thích một quan niệm chí ư "trừu tượng", đối với họ hoàn toàn mới lạ như Deus. Phải chăng phản đối dùng những quan niệm như "Thượng Thiên", "Hiển Thiên", "Hoàng Thiên", "Thượng Ðế" để giải thích chữ "Thiên Chúa", vì các nhà truyền giáo sợ người Trung Hoa, Việt Nam không hiểu xác thực được nghĩa Deus của Kitô giáo, hay là các nhà truyền giáo đó đã không hiểu rõ được những quan niệm trên trong tư tưởng Trung Hoa? Trần Văn Hiến Minh còn đi xa hơn nữa, khi ông quả quyết: "Quan niệm một Tiên Chúa có ngôi vị, Thượng Ðế là một trực giác đầu tiên của người Trung Hoa từ xa xôi bao ngàn năm trước. Tất cả cuộc sống Trung Hoa cổ kính đều qui hướng vào đó". Ðề mục họ Trần nêu ra có thể là một đề tài thảo luận hào hứng, nhưng vượt qua phạm vi của bài nói chuyện này. Dù "Thượng Ðế" theo người Trung Hoa hiểu có "ngôi vị" hay không, cũng không thể là lý do chính đáng không dùng những quan niệm đó để "giải thích" tiếng "Thiên Chúa" được.

Như vậy ta thấy được tranh luận về mấy danh từ trên không phải chỉ là một cuộc thảo luận lý thuyết thần học hay ngôn ngữ, văn chương, nhưng là tỏ rõ đường hướng của hai phe đối với vấn đề truyền giáo: giáo hội có thể dùng di sản văn hóa của địa phương để diễn đạt giáo lý, nghi lễ của mình hay không? Mà được phép dùng tới mức nào? Tại sao có thể dùng hay bị cấm dùng như vậy?

Bây giờ chúng ta trực tiếp đề cập tới cuộc tranh luận "lễ nghi". Vấn đề chính của cuộc tranh chấp này là câu hỏi: lễ nghi đối với tổ tiên là "tôn thờ" tổ tiên vì nghi thức này có tính cách tôn giáo. Tôn thờ tổ tiên là những người theo "đạo Ông Bà". Nói cách khác, nghi lễ tôn thờ này được cử hành trong những nơi nhất định (chủ đường hay tông đường hoặc tại gia, trước bàn thờ tổ), có những qui định riêng (thành văn hoặc bất thành văn) và đối tượng của đạo này là "tôn thờ Bài Vị" của những người quá cố, Bài Vị này là chỗ của các Hồn người quá cố "cư ngụ". Khi hành lễ gia trưởng chắp vái hay quì lạy, dâng hương, báo cáo, cầu xin trước bàn thờ vong linh có đốt nến và bày những lễ cúng như hoa quả, bánh rượu... lễ nghi này cũng giống như lễ nghi trước phần mộ khi mai táng hay trong các dịp kỵ lễ. Sau khi đã mô tả những chi tiết trên, cộng thêm sự ghi chú những tính cách tôn giáo của đạo ông bà, các vị thừa sai này đã đặt những câu hỏi xin thánh bộ giải quyết, như: xin hỏi người Kitô hữu có được phép cử hành những nghi lễ và dâng cúng trước bài vị theo như tập tục ở chủ đường hoặc nơi phần mộ hay trước linh cửu? Và nếu họ được phép làm như vậy thì họ có thể tham dự với dân ngoại hay hành lễ một mình? Hay câu hỏi: Người Kitô hữu có được dựng bài vị tổ tiên ở trong nhà mình với chữ khắc "Thần Chủ" không? Dĩ nhiên những câu hỏi này đã được sửa soạn bằng những "mô tả" hàm xúc một câu trả lời phủ nhận. Có người còn đi xa hơn nữa, coi việc "Tôn thờ tổ tiên" ở Trung Hoa giống hệt như việc thờ phượng các thầ Manes xưa ở Hy lạp hay La Mã: "Theo lịch xưa của người La Mã khi thời thờ ẩu thần còn hiển trị, có nhắc tới một dịp lễ gọi là "Feralia", bắt đầu từ 20 tháng 2 kéo dài tới cuối tháng 2. Lễ này là dịp tôn thờ các Thần Manes. Dân ngoại đem thịt đặt trên mộ các người quá cố để họ hưởng, như tiến sĩ Varron đã giải thích. Ðó cũng là những việc mà những người Trung Hoa hành lễ ở các chùa chiền, trên phần mộ hay trong tư thất trước bài vị tổ tiên". Sự so sánh này đặt người hữu trách trước một sự lựa chọn không thể chối được: Nếu xưa giáo hội đã hủy bỏ phong tục thờ tà thần Manes, tại sao ngày nay lại có thể cho phép làm như thế ở trung Hoa. Lý chứng này càng ảnh hưởng tới người hữu trách khi người đó không hiểu thấu hiện trạng phức tạp ở miên Viễn Ðông.

Trong khi đó, phe khác coi nghi lễ đối với ông bà tổ tiên là sự "tôn kính" bày tỏ lòng hiếu đễ của con cái đối với bậc tiền nhân, dù khi còn sống hay đã quá cố. Trước tiên họ nhận định những nghi lễ trong các chùa chiền hay trước những thần tượng bày rải rắc khắp nơi là có tính cách tôn giáo và nhuốm nhiều màu sắc mê tín, dị đoan. Họ cũng công nhận thái độ mê tín này có thể ảnh hưởng tới việc tôn kính tổ tiên, nếu không được giải thích minh bạch giữa nơi tôn thờ và tôn kính: Ngược với "chùa miếu" là nơi tôn thờ các thần thánh, "đường" nơi có tính cách "trung tính" (có thể dùng liên quan tới tôn giáo hay không). Do đó, "chủ đường" hay "tông đường" (hay nói nôm na là "chỗ dành cho tổ tiên") là "nơi" kính nhớ ông bà tổ tiên để tỏ lòng biết ơn với những người quá cố, cũng như phong tục tập quán địa phương có những "nơi" riêng trọng kính các vị tiền bối lúc sinh thời. Còn Bài Vị thực ra không phải là "bàn thờ" thực, nhưng thường là một thanh gỗ được sửa soạn tươm tất ở trên đó có ghi danh tánh ông bà tổ tiên được bày trên án hương. Tuy Bài Vị "là biểu tượng" cho vong linh người quá cố, nhưng không phải là chỗ "cư ngụ" của hồn linh đó. Các vị này giải thích: trong quá khứ người Trung Hoa có thói quen tìm một người "thay thế" cho một người thân quá cố. Phong tục này được chuyển hóa bằng việc dùng bài vị như là biểu tượng của người quá cố ở giữa con cái. "Bài vị được dựng nên không phải để đánh dấu sự hiện hữu của một linh hồn mà người ta tin rằng linh hồn đó cư ngụ ở bài vị, nhưng đúng hơn là để thức tỉnh một thái độ luân lý và sự biểu tượng này có thể coi như sự hiện diện của một thân xác". Trong khi đó, việc "hóa" vàng giấy, đốt những đồ vật làm bằng giấy cho tổ tiên dùng là những điều mê tín, dị đoan cần cấm bỏ. Ngược lại, những cử chỉ bái lạy hay quỳ gối là những cung cách người Trung Hoa thường dùng để tỏ lòng tôn kính đối với bậc trên, dù những người này còn sống hay đã qua đời. Ðiều đáng chú ý là, chính vua Khang Hy ngày 30.11.1700 đã tự tay chứng thực bản văn do các cha dòng tên thảo nói những lễ nghi tôn kính Khổng Tử, tổ tiên là những hình thức bày tỏ lòng thành kính mà thôi: "Nói là Khổng Tử được thờ phượng để xin sự khôn ngoan hay để xin được thăng chức hay thêm bổng lộc là không đúng... Dựng bài vị tiền nhân quá cố không có nghĩa là linh hồn tổ tiên được nghĩ là thực sự ngự trị trong miếng gỗ này... Mục đích thực sự của nghi lễ tôn kính tổ tiên là con cháu trong một dòng tộc không được phép quên, nhưng luôn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên cho đến muôn đời". Nhưng lời chứng thực của vị hoàng đế trung Hoa, người có thẩm quyền nói lên ý nghĩa thực sự của phong tục tập quán, đã không được tòa thánh thời đó lưu ý tới.

Trên đây là lược thuật tổng quát lập trường của hai phe phái về vấn đề đối với tổ tiên có liên hệ đến việc truyền giáo. Cuộc tranh chấp "lễ nghi" này đã tạm thời kết thúc khi Ðức Giáo Hoàng Clement XI ngày 20.11.1704 đã quyết định:

- Cấm dùng chữ "Thiên" hay "Thượng Ðế" để giải nghĩa "Thiên Chúa". Theo đó không được dùng "mensa seu altare" (bàn thờ) để "kính Thiên" trong nhà thờ.

- Người Kitô hữu không được phép tổ chức hay tham gia những lễ nghi theo như phong tục đối với Khổng Tử hay những người quá cố. Do đó cũng không được phép lập "chủ đường", miếu đường", cũng không được phép dâng lễ vật trong miếu đường hay gia thất vì những nghi thức này liên hệ tới mê tín ("tamquam superstitione inseparabilia"). Tông huấn (Ex illa die) đã được quyết định, đã được đặc sứ tòa thánh, Hồng Y De Tournon mang sang Trung Hoa để ban hành. Sau ba lần De Tournon hội kiến với Hoàng Ðế Khang Hy, Tông huấn đã không được chính thức ban hành cho tới ngày 19.3.1715 mới được Giám Mục đầu tiên của địa phận Bắc Kinh Charles Castorano ban hành. (Trong khi đó De Tournon đã mất ngày 8.6.1710 ở Macao). Tông huấn "Ex illa die" được chính thức ban hành gây ra nhiêu phản ứng khác nhau, nhưng khi phải quyết định phát thệ "chống lễ nghi" theo chỉ thị của tòa thánh, các nhà truyền giáo đã anh dũng bỏ lập trường riêng để chấp nhận tông huấn "Ex illa die". Về phần Khang Hy, ông thấy Công Giáo chống đối lễ nghi và tập tục Trung Hoa đối với Khổng Tử và tổ tiên, đã đổi thái độ từ thân thiện sang nghịch thù. Nhưng cuộc tranh chấp chưa kết thúc, vì chính Ðức Clement XI lại sai một đặc sứ khác là Charles Ambrose Mezzabarba, tân giáo phụ của Alexandria tới Bắc Kinh ngày 26.12.1720. Sau khi đã hội kiến, lắng nghe các nhà truyền giáo báo cáo và đã được tiếp kiến Hoàng Ðế, C. A. Mezzabarba đã trở về Maccao và thảo một bức thư mục vụ ca ngợi tinh thần phục tùng và thống nhất của các nhà truyền giáo, đồng thời đã liệt kê "Tám điều được phép" để dễ dàng thực hành mục vụ. "8 điều được phép này" đã được ban hành ngày 4.11.1721, nới rộng những điều cấm ngặt của tông huấn "Ex illa die". Tỉ dụ: được lập "bài vị" trên đó chỉ được phép ghi tên người quá cố. Tất cả các lễ nghi trung Hoa đối với tổ tiên nếu không pha trộn mê tín mà chỉ có tính cách "dân sự" (Civil) thì đều được phép tổ chức hay tham dự. Hay là: được phép dùng nến, hương, hoa quả, để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đối với người quá cố... "8 điều được phép này" đã làm sống lại cuộc tranh chấp "lễ nghi" một lần nữa, nhất là sau khi đặc sứ C.A. Mezzabarba đã trở về Âu Châu. Một đàng khác, Dũng Thành kế vị Khang Hy được một năm thì ra chỉ thị trục xuất những nhà truyền giáo trừ những người được mời ở lại. Tình trạng hỗn độn này cuối cùng đã được chấm dứt với Tông huấn "Ex Quo Singulari" do Ðức Benedictus XIV ban hành ngày 11.1.1742. Tông huấn này là tông huấn cuối cùng cấm ngặt "lễ nghi" đối với tổ tiên và rút lại tất cả những điều cho phép trước kia. Ðức Benedictus XIV đã minh định: "không phải xấu vì bị cấm, nhưng bị cấm vì xấu".

3. Bàn Về Việc Tranh Chấp "Lễ Nghi"

Trong quá trình tranh chấp như chúng ta thấy ở trên khó mà phân định được "bị cấm vì xấu" hay "xâu vì bị cấm". Ngay cả khi đã bị cấm nhưng trên thực tế chỉ là tránh né vấn đề hơn là giải quyết vấn đề. Bằng chứng là sau gần 200 năm bị cấm ngặt, ngày 8.12.1939 thánh bộ truyền giáo đã hủy bỏ việc bắt các nhà truyền giáo phải tuyên thệ chối bỏ "lễ nghi" mà tông huấn năm 1742 đã đòi buộc và đồng thời tuyên bố các Kitô hữu và các nhà truyền giáo ở trung Hoa, Việt Nam... đối với việc tôn kính Khổng Tử và tổ tiên cần có một cái nhìn "mới". Cái nhìn mới này sau công đồng Vaticanô II đã trở thành một khía cạnh quan trọng để thành lập một nền thần học bản vị hóa. Như vậy Bản vị hóa không những chỉ được phép mà phải được khuyến khích. Ðứng trên một thái độ mới này nhìn lại lịch sử tranh chấp chúng ta dễ có cái nhìn khách quan hơn.

Trước tiên chúng ta nhận định "mạch sống" của hai phe. Một bên đứng trên quan điểm của người trí thức, của tân nho gia đời Minh, để tìm hiểu ý nghĩa của các nghi lễ. Nếu lễ nghi đối với hổng Tử, tổ tiên thuộc về tôn kính hơn là tôn thờ thì hiển nhiên thuộc về phạm vi luân lý hơn là tôn giáo. Quả thực các nhà trí thức Trung Hoa đã hiểu như thế, vì vậy lập trường của các nhà truyền giáo này đã được Hoàng Ðế Khang Hy chứng thực. Chúng ta thấy hiện nay những "lễ nghi" tưởng niệm Khổng Tử hay các vị tiên đế đã mang một ý nghĩa hoàn toàn "dân sự". Các nhà trí thức Việt Nam như Trần Văn Chương, Hồ Ðắc Diễm, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim v.v... cũng cho những nghi lễ tôn kính ông bà là bày tỏ lòng con cái hiếu thảo đối với tổ tiên, là hành động muốn luôn tưởng nhớ tới tổ tiên mà thôi. Vì thế cúng bái ông bà tổ tiên theo như tập tục không phải là hành động của "niềm tin", nghĩa là qua đó cắt nghĩa một sự mầu nhiệm liên quan tới sự sống và sự chết, cũng không phải là hành động "phi lý" nhưng là những củ chỉ "tự nhiên" (theo phong tục tập quán của một nền văn hóa) do tấm lòng hiếu thảo thôi thúc. Cũng vì thế những việc dâng hương cúng quả, tiến rượu bày cỗ trước Bài vị không mang một ý nghĩa phụng dưỡng vật chất nào cả. Quan trọng nhất là vì nhớ tới ông bà tổ tiên nên con cái cháu chắt thấy họ có bổn phận phải sống như một người tốt, một tôi trung, một đệ tử thành tín, một người chồng gương mẫu, một người vợ hiền, một người con thảo... để khỏi làm nhơ danh tiền nhân. Ðây là quan niệm tôn kính tổ tiên trong mạch suấng của trueỳn thống nho học đặt nặng trên bổn phận luân lý.

Trong khi đó các nhà truyền giáo khác đứng trên phương diện của giới bình dân coi việc tôn kính ông bà tổ tiên là một lễ nghi tôn giáo, vì vậy họ nghĩ rằng cho phép cử hành những nghi thức này tức là hỗn hợp các tôn giáo, làm tha hóa, làm tha hóa Kitô giáo và làm hoang mang lòng các tín hữu. Do đó, họ xin tòa thánh qui định rõ ràng để dễ thực hành mục vụ. Ở đây ngôn ngữ là vấn đề then chốt. Nhưng để giải quyết nạn ngôn ngữ thiếu minh bạch mà cấm dùng ngôn ngữ đó thì không phải là giải pháp thỏa đáng, vì nếu không dùng chữ "Thiên" để giải thích "Thiên Chúa" thì khi dùng chữ "Thiên Chúa" người địa phương cũng không thể hiểu khác hơn mạch sống văn hóa của họ được. Cũng vậy, gọi Khổng Tử là "Thần nhân" thì ý nghĩa của chữ "Thần" này không thể hiểu theo một mạch văn hóa khác được (tỉ dụ như thánh nhân theo nghĩa hẹp của Giáo Hội Công Giáo). Cũng thế, những hạn ngữ như "Altare", "Sacrificium", genuflectio, templum... là những từ ngữ tùy theo nền văn hóa Âu Châu hay Trung Hoa, Việt Nam mà mang một ý nghĩa khác nhau. Nếu dùng cái nhìn của nền văn hóa Âu châu phán đoán những hiện trạng của nền văn hóa Á Châu tức là đã tách những dự kiện, hình ảnh tượng trưng ra khỏi mạch sống văn hóa. Nếu hai nền văn hóa đó quá khác nhau và chưa hiểu nhau được, thì làm sao tránh khỏi được những ngộ nhận. Nếu quyền phán quyết dành cho một phía khi chưa thấu triệt vấn đề thì phán đoán đó làm sao tránh khỏi những thiên kiến?

Tóm lại, cuộc tranh chấp "lễ nghi" nói lên những khó khăn mà một thần học bản vị hóa trong một môi trường cụ thể đã gặp phải và dần dần vượt qua. Cuộc tranh chấp trên không những chỉ bộc lộ hai phe đứng trên hai phạm vi khác nhau để nhìn một vấn đề mà cũng đứng trong những giai đoạn tiến tới thần học bản vị hóa khác nhau, nên gặp nhau trong đối thoại. Sự tranh chấp lễ nghi trở thành một thảm kịch trong lịch sử truyền giáo ở Viễn Ðông, vì giải quyết sự tranh chấp đã không nằm trong mạch sống đó, nhưng ở ngoài và ở trên mạch sống văn hóa, nên không thấu đáo được những nhu cầu sống của giáo hội địa phương.

Như vậy, đề cập tới vấn đề "Ông Bà Tổ Tiên" có liên quan tới việc truyền giáo tức là phản tỉnh một nền thần học bản vị hóa. Bản vị hóa không có nghĩa là chỉ hội nhập và chấp nhận những gì có sẵn trong nền văn hóa đó, nhưng đồng thời cũng thăng hóa những giá trị đó. Vậy theo đó ý nghĩa của lễ nghi đối với ông bà tổ tiên là gì? Nếu chỉ coi lễ nghi đối với tổ tiên là cách bày tỏ lòng hiếu đễ, tức là thực thi một bổn phận luân lý, thì chưa chứng minh lý do tại sao con người đòi buộc phải thực hành luân lý như vậy. Nếu ta coi sự đòi buộc đó là một sự tự minh (self-evident) thì hoặc là rơi vào chủ nghĩa độc đoán (dogmatism) hoặc chủ trương thuyết "vô tri thức" (agnosticsm) như khuynh hướng của một số nhà nho tân thời ở Ðài Loan hiện nay. Cả hai khả thể trên chỉ là né tránh vấn đề mà không giúp chúng ta hiểu tại sao con người phải thi hành bổn phận luân lý với tổ tiên. THực ra khi những nhà truyền giáo dòng Tên chủ trương coi lễ nghi tôn kính ông bà thuộc phạm vi luân lý, họ tin rằng một khi đã tìm ra ý nghĩa nguyên ủy và chính yếu của lễ nghi này, họ có thể giáo dục quần chúng gọi bỏ những mê tín mọc rườm rà bên ngoài và cuối cùng có thể biến hóa những bổn phận luân lý đó cho họp với niềm tin Kitô giáo. Như vậy, mặc dù học nhấn mạnh "lễ nghi" này thuộc phạm vi luân lý, nhưng ngầm xác định cn bản của luân lý không thể tách rời khỏi niềm tin tôn giáo được. Mối liên hệ giữa luân lý và tôn giáo này có thể dùng tư tưởng sẵn có trong kinh điển Trung Hoa như niềm tin "Thiên nhân tương dữ" và "vạn vật bản hồ thiên, nhân bản hồ tổ" để giải thích. Theo đó tôn kính ông bà không thể độc lập với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc Kính Thiên, nhưng cũng không thể đặt ngang hàng với việc kính Thiên được, vì con người cũng là thành phần của vạn vật mà nguyên ủy của vạn vật là Thiên. Hiểu như thế, việc tôn kính ông bà tổ tiên không những không phản với đạo Công Giáo mà còn bộc lộ được tính cách đặc biệt đông phương, đạo hiếu của người Việt, đồng thời qua việc đưa hành động tôn kính này hòa hợp với tinh thần Kitô giáo, chúng ta vừa thăng hóa vừa qui tụ những giá trị luân lý và những hình thức bày tỏ trên về cội gốc của muôn loài: chúng ta hiếu thảo cha mẹ vì Chúa là Cha chúng ta đã dậy như thế. Nói cách khác, một khi việc tôn thờ "Trời". "Thượng Ðế"... những danh từ chỉ Thiên Chúa ẩn hình (Deus absconditus) được niềm tin do Ðức Kitô mặc khải soi chiếu, canh cãi và hoàn hảo hóa, thì những hành động có tính cách nhân bản của một nền văn hóa cũng được xác định và thăng hóa theo đúng mức nahn bản của nó.

4. Kết luận

Thảo luận việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ tới việc truyền giáo là dịp may hiếm có để chúng ta suy tư về một khía cạnh của nền thần học bản vị hóa Việt Nam. Trong bài học lịch sử trên chúng ta nhận ra hậu quả của một cuộc tranh chấp lễ nghi mà đã bị tách rời khỏi mạch sống văn hóa và bị phán quyết do những người chưa thấu đáo ý nghĩa của nó. Tấm bi kịch này là một điển hình của bước khó khăn trong cuộc gặp gỡ của hai nền văn hóa cổ truyền, mạnh mẽ nhưng khác nhau, khi hai nền văn hóa đó thiếu uyển chuyển nên ngăn cản việc thăng hóa tới một hợp đề bao gồm một nền nhân bản phong phú hơn. Sau công đồng Vaticanô II việc tích cực tìm hiểu nền văn hóa địa phương, xác định những giá trị nhân bản chân chính của những tôn giáo khác, những luồng tư tưởng khác trở thành một nhu cầu thường nhật của mỗi giáo hội địa phương. Chúng ta nghiên cứu việc tôn kính ông bà tổ tiên liên hệ với việc truyền giáo ở Việt Nam, ở Trung Hoa, không phải để nuối tiếc một dịp may đã qua, nhưng quan trọng hơn là tìm thấy những ý nghĩa có liên quan tới cuộc sống đạo hiện tại của chúng ta. Nói cách khác sau khi đã nhận định lòng hiếu thảo là một giá trị nhân bản căn bản của nền văn hóa ảnh hưởng nho học, và ý thức được những lễ nghi tôn kính khác với những mê tín dị đoan, chúng ta tự hỏi, chúng ta có thể thực hiện những hình thức, "lễ nghi" nào để biểu tỏ lòng thành kính, hiếu đễ của chúng ta? Nhưng để những nghi thức đó không rơi vào trạng thái "vụ hình thức" "cố chấp" chiếu lệ. điều quan trọng nhất là tấm lòng người Việt thành kính mà chúng ta có thể gọi là "Tâm Việt". Tâm Việt đối với ông bà tổ tiên là một khía cạnh biểu lộ của Tâm Việt. Khía cạnh này không thể tách rời khỏi lòng thành đối với Thượng Ðế được, nếu không Tâm Việt này sẽ thiếu nguồn sống và trở thành độc đoán. Bởi đó Tâm Việt là nguồn sống của "Việt tính". Dĩ nhiên Tâm Việt này còn có thể biểu lộ theo những cách thế khác tùy theo ta nhìn từ Phật Giáo hay Lão Giáo mà trong bài này chúng ta không có dịp để bàn tới. Có Tâm Việt như vậy chúng ta mới có thể bước thêm một bước nữa là đi tìm một hợp đề của Tâm Việt trong môi trường cụ thể mà chúng ta đang sống ở hải ngoại này. Hợp đề này là một mức độ nhân bản cao hơn vì nó được cải hóa và bổ túc do hai nền văn hóa khác nhau. Tiên chuẩn canh cải và hoàn thiện này không gì khác hơn là một nhân bản thuần túy: Hiện Thân của một mẫu mực Thiên Nhân tương dữ, Thiên Nhân hợp nhất, Thiên Chúa Nhập Thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ông Bà Tổ Tiên

Coi nốt ruồi - Nốt ruồi nào cho biết bị mất người yêu thương ?

Trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều đôi yêu nhau lâu dài và sắp bước đến hôn nhân thì bỗng nhiên cuộc tình tan vỡ vì sự xuất hiện của người thứ 3.
Coi nốt ruồi - Nốt ruồi nào cho biết bị mất người yêu thương ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới góc độ nhân diện học, rất có thể chủ nhân có nốt ruồi ở má với tên gọi "hoành đao đoạt ái", tựa như nhát đao cắt đứt ái tình, khiến mối lương duyên tan vỡ. 

Vị trí của nốt ruồi này nằm ngay giữa má, thẳng phía dưới mắt, có thể ở má bên trái hoặc bên phải.

Nốt ruồi này biểu hiện cho người bạn trai (bạn gái) hoặc vị hôn phu (hôn thê) bị người thứ 3 đoạt lấy ngay dưới mắt mình. Trong trường hợp có mối tình tay 3, thì người có nốt ruồi này sẽ chịu thiệt thòi.

Má tượng trưng cho quyền lực. Nốt ruồi nằm ngay trên má biểu hiện quyền lực và sức mạnh bị suy giảm và hủy hoại trong một mối quan hệ nào đó. Theo đó, cũng mất đi sự tôn trọng và quan tâm của đối phương.

Nốt ruồi dạng này càng đặc biệt hơn khi đi kèm với một đường chỉ ngang mỏng xuyên qua cung phu thê, vốn biểu hiện cho việc ngoại tình. Nếu nam giới có thêm lông mày rậm rất có khả năng một người bạn thân sẽ trở thành kẻ thứ 3 phá vỡ và chia rẽ mối quan hệ tình cảm của họ với bạn gái. 

Ngoài ra, chủ nhân của nốt ruồi này có khả năng bị mất quyền kiểm soát hoặc mất uy tín và sự tín nhiệm của người khác.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Coi nốt ruồi - Nốt ruồi nào cho biết bị mất người yêu thương ?

Phải ghi nhớ "Luôn lấy chữ Hiếu làm đầu"

công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao, vằng vặc như sông dài, rực rỡ như mặt trời, tỏ rõ như ánh trăng rằm, phải ghi nhớ "Luôn lấy chữ Hiếu làm đầu"

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi năm cứ gần đến trăng tròn tháng 7 âm lịch và cũng là cuối mùa hạ, bắt đầu sang thu lá vàng rụng xuống, lá xanh trồi lên, bông hoa lá bắt đầu chớm nở, sau một mùa oi bức, nóng nực của cái nóng mùa hè. Đó cũng là mùa chúng ta chuẩn bị tổ chức đại lễ Vu Lan, mùa "Báo ân cha Mẹ". Lễ Vu-Lan đã để lại từ ngàn xưa mà Đức Mục-Kiền-Liên là tiêu biểu, gương mầu, suốt cả nghìn đời mà Đức Phật đã để lại, cho hàng Phật tử để lấy đó làm gương noi theo.

vu-lan-bao-hieu-2

Danh từ Vu Lan là phiên âm từ chữ Phạn Ullambana, người Trung Hoa dịch là Giải Đảo Huyền, có nghĩa là giải cứu tội khổ bị treo ngược. Người Trung Hoa còn gọi lễ này là VU LAN BỒN, chữ Bồn nghĩa là chậu đựng thức ăn dâng cúng. Còn gọi là Ô-lam-ba-noa. Dịch là đảo huyền, chỉ nỗi đău khổ cùng cực. Kinh Vu Lan Bồn do ngài Trúc Pháp (Dharmaraksa) dịch từ chữ Phạn ra chữ hán vào thế kỷ thứ ba. Vậy lễ Vu Lan hay Vu Lan Bồn có nghĩa là lễ dâng cúng thức ăn lên Tam Bảo để xin chú nguyện cho ông bà, cha mẹ những người quá cố trong bẩy đời gọi là cửu huyền thất tổ, nếu ai đã làm những điều tội lỗi ở trần gian, khi ngủ dấc ngàn thu thì bị đầy vào ngã quỉ, sẽ nhờ ân đức Tam Bảo được thoát khỏi cảnh địa ngục, được sanh về các cõi an lành khác.

Trong dân gian dựa vào đó, nên có một niềm tin vào các vong hồn bị đầy đọa vào cảnh ngục tù ở dưới âm phủ đã được cứu thoát ra khỏi địa ngục, nên các vong hồn này đang đói ăn, khát uống, bởi vậy người trên trần gian có bổn phận mua sám các lễ vật, thức ăn, cúng các vong linh đang bơ vơ đói khát. Nhưng đây chỉ là một ý nghĩa còn ý nghĩa quan trọng hơn hết đó là lòng hiếu thảo của những người con đối với các bậc sinh thành.

Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con chắu của các thế hệ sau này phải lấy chữ "HIẾU" làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao, vằng vặc như sông dài, rực tỡ như mặt trời, tỏ rõ như ánh trăng ràm. Lúc thiều thời tôi đã được học thuộc lòng các câu ca dao, truyền bá trong dân gian như sau :

"Ơn cha cao như núi thái sơn

Đức mẹ hiền sâu rộng biển khơi

Dù cho dâng cả một đời

Cũng không trả được ơn trời sinh ra."

Hay là : Công cha như núi thái sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đức Phật đã dậy cho ta ràng : "Tâm hiếu tức là tâm Phật . Hiếu Đạo vô phi Phật Đạo". Tâm hiếu là tâm Phật, đạo hiếu là đạo Phật." vì vậy mà đạo Phật xác định : Cùng cực điều thiện không có gì hơn hiếu, cùng cực điều ác không có gì hơn bất hiếu. Đã là con người, từ đấng thánh hiền đến người thường dân ai ai cũng phải có một cha, một mẹ sinh ra, chính cha, mẹ đã san sẻ một phần mắu, thịt để tạo nên hình hài của mỗi người con. ï Công ơn sinh thành và dưỡng dục của Mẹ, Cha không bút nào tả xiết.

Tám Pháp, Đức Phật đã nói. Trong con người ta có 12 bệnh, bệnh căn sâu nặng không được thấy Phật.

A Nan hỏi Phật : Đó là bệnh gì ? Đức Phật trả lời :

"Không kính cha mẹ, đó là một bệnh;

Ngu si tạo ác, đó là hai bệnh;

Gian xảo điêu ngoa; đó là ba bệnh.

Lời nói hại người, đó là bốn bệnh.

Hay tìm lỗi người; đó là bệnh thứ năm.

Giết hại chúng sinh; đó là căn bệnh thứ sắu.

Không biết hổ thẹn: đó là bệnh thứ bẩy.

Ham mê sắc dục; đó là bệnh thứ tám.

Kiêu ngạo khinh người; đó là chín bệnh.

Phạm tội không hối; là bệnh thứ mười.

Khen mình chê người; là bệnh thứ mười một.

Không biết lợi hại; là bệnh thứ mười hai."

Trong kinh Thi Phụ cũng có một đoạn như sau : Phụ hề sinh ngã, Mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sinh ngã cù lao, dục báo thiên ân, hiệu thiên võng cực (Cha sinh ra ta, Mẹ bồng bế ta, thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc, muốn báo ân sâu, khác nào như trời cao, khôn cùng) như một lời tuyên ngôn về Hiếu Đạo. Còn khi đề cập đến công ơn từ mẫu thì đã có công thức chín chữ Cù lao : "Sinh, Cúc, Phủ, Súc, Trưởng, Dục, Cố, Phục, Phúc". Sinh (đẻ ra), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (nuôi cho bú mớm), trưởng (nuôi cho khôn lớn), dục (dạy dỗ), cố (trông nom), phục (là xem tính tình mà chỉ bảo), phúc (là bảo vệ).

Ở Trung Hoa cũng đã có quyển sách "Thập nhị tứ hiếu" (24 tấm gương hiếu thảo).

Ở Việt Nam ta cũng còn có những câu ru con của các bà mẹ xưa kia như :

"Ru hời, ru hỡ, ru hơi

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Làm con trước phải đền công sinh thành."

"Đố ai đếm được lá rừng

Đố ai đếm được mấy tầng trời cao

Đố ai đếm được những vì sao

Đố ai đếm được công lao mẹ hiền"

Lễ Vu Lan nay không còn là một đặc thù riêng của người Phật Tử mà là một nghĩa vụ thiêng liếng nhất của mọi người con hiếu hạnh, (không phân biệt tôn giáo, sác tộc) đối với các bậc sinh thành. Từ các bậc Thánh Hiền đến người thường dân đã là con người ai cũng có cha, mẹ sinh ra. Người Mỹ họ có ngày Father's day và ngày Mother'day, nhưng Việt Nam ta có cả một mùa Vu Lan để các con, chắu có dịp báo hiếu. Trong các hàng đệ tử của Đức Phật có Ngài Mục Kiền-Liên tiêu biểu cho sự hiếu thảo vô biên, nên còn được tôn xưng là "Đại Hiếu Mục Kiền Liên", ngài có thần thông cao nhất trong số 10 đại đệ tử đầu tiên của Đức Phật.. Ngài đã chứng đươc sắu phép thần thông :

1)-Thấy mọi vật trong vũ tru. (thiên nhãn thông).

2)-Nghe được mọi thứ tiếng ở kháp nơi, (thiên nhĩ thông).

3)-Biết chuyện đời trước, hiện tại và său này của mình cũng như của mọi người, (túc mạng thông)-

4)-Biết trong lòng người khác đang nghĩ gì, (tha tâm thông).

5)-Biết đi đến khắp nơi, biến hóa nhanh như chớp mắt, (thần túc thông).

6)-Trong sạch hoàn toàn, dứt bỏ hết các trìu mến, không còn chấp ngã. (lậu tận thông).

Một hôm Ngài nhớ đến mẹ, ngài dùng thiên nhãn thông tìm thấy mẹ sanh vào ngã quỉ, không được ăn uống, ngài đem cơm vượt qua chín tầng địa ngục để dâng cho mẹ, bà Thanh Đề lòng vẫn còn bủn xỉn, lấy tay trái che miệng bát cơm, tay phải bôc cơm ăn, nhưng cơm chưa đưa tới miệng thì cơm hóa thành lửa, ăn không được. Ngài Mục Kiền Liên trở về Bạch với Phật. Đức Phật dậy rằng, tội của bà Thanh Đề quá nặng. Mục Kiền Liên "tự lực" không thể cứu được, muốn cứu mẹ, con phải nhờ đến " tha lực" của mười phương chư tăng mới giải thoát được, muốn được vậy phải làm như sau :

Đến ngày rằm tháng bẩy là ngày mãn hạn tự tứ của chư tăng, hãy vì ông bà, cha mẹ bẩy đời nhiều kiếp hay các bậc sinh thành hiện tiền, sám sửa trai soạn, hương hoa và thức ăn tịnh soạn để vào trong BỒN, dâng cúng cho các chư tăng, và lập đại giới đàn để các chư Tăng nhất tâm đảnh lễ cùng hiệp lực cầu nguyện chư Phật mười phương, thì mới giải thoát được cho mẹ.

Đức Mục Kiền Liên vâng lời Đức Phật dậy về làm y như thế , Bà Thanh Đề liền được thoát khỏi kiếp ngã quỉ, được sanh lên cõi trời. Do đó, Đại lễ Vu Lan xuất phát từ thời gian đó cho đến ngày nay hàng năm cứ đến ngày rằm tháng bẩy là mọi người dân Việt, nếu những ai hiểu và sống trong một gia đình có truyền thống dân tộc thì đều tham gia tổ chức lễ Vu Lan để có dịp báo ân sinh thành, cha mẹ hiện tiền, cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà đã quá vãng được siêu sanh cực lạc quốc và xoá tội vong nhân.

Theo truyền thống của Phật Giáo hàng năm quí chư Tăng, Ni nhập hạ trong thời gian ba tháng kể từ ngày Đản Sanh của Đức Phật cho đến ngày rằm tháng bẩy âm lịch với mục đích vân tập về một nơi để tu tập đó là mùa kiết hạ, trong dịp ba tháng kiết hạ có dịp ôn tập lại các giới luật, tu tập đạo hạnh và tu học kiến thức phật pháp. ngày hạ nạp (mãn hạ) gọi là ngày Tự Tứ có nghĩa là Pravaranà (thuật ngữ) tiếng Phạn là Bát-thích-bà cách dịch cũ là Tự tứ, cách dịch mới là Tuỳ ý. Nghi thức vào ngày cuối cùng của thời kỳ an cư kiết hạ, ngày đó mọi người đều tự nêu ra các tội lỗi mà mình đã mác phải (tự kiểm) trước các tỳ kheo khác và tự xám hối nên gọi là Tự Tứ.

Trên đây là ý nghĩa của mùa Vu-Lan, một ngày lễ quan trọng của dân tộc Việt Nam và nhất là những người phật tử cần phải thể hiện ra chữ "HIẾU" trong dịp đại lễ Vu Lan hàng năm để đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ hiện tiền và cửu huyền thất tổ nhiều đời nhiều kiếp của mỗi người con hiếu hạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phải ghi nhớ "Luôn lấy chữ Hiếu làm đầu"

Xem bát tự luận lục thân

Trong đoán mệnh, thầy đoán mệnh ngoài việc xem cho bản thân người ấy ra, thường còn phải can cứ bát tự của người ấy, để đoán mệnh cho lục thân của họ.
Xem bát tự luận lục thân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Về biện pháp xem bát tự luận lục thân, trong sách đoán mệnh có cách riêng của nó, theo lệ thường, cách xem là:

Ông tổ: xem ông tổ ở vị trí cung (trụ) năm, thường lấy thiên ấn là tổ phụ, thương quan là tổ mẫu

Bố mẹ:xem bố mẹ ở vị trí cung tháng, thông thường lấy thiên tài là bố, chính ấn là mẹ cả, thiên ấn là mẹ thứ. Nhưng cũng có người không phân chính, thiên.

Anh em:vị trí của anh em phụ vào cung tháng, lấy tỷ kiên là anh em. Còn về chị em, có sách không đề cập đến, có sách cho rằng xem như anh em.

Thê thiếp: xem vợ con ở vị trí chi ngày, sách nói lấy chính, thiên tài làm vợ.

Con cái:xem con cái ở vị trí cung giờ, lại lấy thiên quan (thất sát) là nam, chính quan là nữ.

Tại sao lại lấy thiên tài và Ấn là bố mẹ, tỷ kiên và kiếp tài là anh em, chính tài thiên tài là thê thiếp, thiên quan chính quan là con cái?

Ở đây bắt đầu từ vợ chồng, ví như nói đông phương Giáp Ất Mộc, giả thiết Giáp là dương Mộc, là anh, Ất là âm Mộc là em gái, bây giò Giáp Mộc đem Ất Mộc phối với Canh Kim là vợ, vĩ rằng người xưa cho rằng đàn bà cần phải nhu thuận mà nghe lời chồng, sống theo chồng, cho nên Canh Kim khắc Ất Mộc thì tự nhiên thành chồng của đàn bà. Cũng lý lẽ như vậy, Canh là dương Kim là khắc, Tân là âm Kim là em, Canh đem em Tân Kim phối với Bính Hoả khắc em làm vợ, Bính là dương Hoả là anh, Đinh là âm Hoả là em, Bính đem em Đinh Hoả gả cho Nhâm Thuỷ khắc với em làm vợ, Nhâm là dương thuỷ là anh Quý là âm thuỷ là em. Nhâm đem em Quý thuỷ gả cho Mậu Thổ khắc em làm vợ, Mậu là dương Thổ là anh, Kỷ là âm Thổ là em, Mậu đem em Kỷ Thổ gả cho Giáp Mộc khắc em làm vợ. Như vậy một dương can lấy một âm can bị khắc là vợ. Trong thuật ngữ mệnh lý học, bị khắc gọi là chính tài và thiên tài, cho nên chính tài, thiên tài trong bát tự trở thành một nhân tố quan trọng để thầy đoán mệnh xem về vợ. Nhưng dương can lấy âm can làm vợ trên thực tế không tuyệt đối như vậy, nếu như thiên can trụ ngày trong bát tự của một người lại hợp với âm can, thế thì đương nhiên người ấy có thể lấy dương can hoặc âm can làm vợ như Ất Mộc lấy Mậu, Kỷ Thổ làm thê thiếp là phải.

Lại nói tại sao lấy thiên tài và Ấn làm bố mẹ? Ở trường hợp thông thường, Canh Kim là do Kỷ Thổ sinh ra, trong đó Kỷ Thổ thuộc âm tính, cho nên là mẹ, sách đoán mệnh lấy sinh ra ta là chính ấn, thiên ấn, cho nên ấn trở thành mẹ. Ở đây, Kỷ Thổ sinh Canh Kim trong thiên can hợp với Giáp, vấn đề này đã đề cập ở chương trước rồi. Dương Mộc Giáp khắc âm Thổ Kỷ, tự nhiên Giáp sẽ thành chồng của Kỷ, nhưng với Canh mà nói, kẽ khắc ta là chính tài, thiên tài, bây giò Canh Kim khắc Giáp Mộc, dương với dương cực khắc, há chẳng phải là thiên tài sao? ở trên chúng tôi đã nói, chính tài, thiên tài ta khắc đều là thê thiếp, bây giờ bỗng nhiên lại đem thiên tài gọi là bố, chẳng phải hoang đường sao? Vì vậy, trong sách đoán mệnh lại có cách nói kết hợp cung năm để xem bố mẹ là để giải thoát trường hợp rắc rối này.

Thế thì thiên quan khắc ta là con trai, chính quan là con gái là theo căn cứ nào? Vốn là sau khi Ất Canh kết làm vợ chồng, Ất Mộc sinh ra Hoả Bính, Đinh, Bính Hoả khắc Canh Kim, dương khắc dương, cho nên Bính Hoả trở thành con trai của Canh Kim, Đinh Hoả khắc Canh Kim, âm khắc dương, cho nên Đinh Hoả trở thành con gái của Canh Kim

Lại nói về anh em, vì anh em là đồng loại, cho nên tỷ kiên Canh Kim của Canh Kim sẽ trở thành anh em, lý do dùng tên thuật ngữ những dụng thần nói trên để xem lục thân, ở Tư Bình trân xuyến đã khái quát như sau:

Chính ấn là mẹ, thân ra từ đấy, lấy cái sinh ta vậy, nếu thiên tài bị ta khắc chế, sao lại là bố? Thiên tài là chồng của mẹ, chính ấn là mẹ thì thiên tài là bố.

Chính tài là vợ, bị ta khắc chế, theo lẽ cương thường, vợ phải theo chồng, nêu quan sát thì khắc chế ta, sao lại là con cái? Quan sát do tài sinh ra, tài là thê thiếp thì quan sát là con cái vậy. Còn như tỷ kiên là anh em lý đương nhiên là vậy.

Cách xem lục thân nói ở trên không được Nhậm Thiết Tiều đời Thanh hoàn toàn tán đồng, lý do ông nêu lên là: Phép xem của Tử Bình lấy tài làm vợ. Tài là ta khắc người ta lấy tài để đối đãi ta, lý này không thuộc chính luận, lại lấy tài làm bố, đó là sự dối trá của người đời sau, nếu coi đây là lập luận đúng thì ông với vợ đồng tông, há không mất luân thường đạo lý sao? Tuy nói phận thiên, chính vẫn là miễn cưỡng, thiên, chính của tài, chẳng qua là phân biệt âm dương mà không thay đổi khí của nó, không phạm thượng, cần phân biệt mà tránh, nếu tài là bố, quan là con thì nhân luân bị diệt, không đặc biệt coi ông và vợ đồng tông thì hiển nhiên tổ đi sinh cháu, còn đạo lý nào nữa.

Cách xem lục thân nên định là: kẻ sinh ta là bố mẹ, là thiên, phản ấn thụ vậy, kẻ ta sinh là con, là thực thần, thiên quan vậy; kẻ ta khắc là thê thiếp, là thiên, chính tài vậy, kẻ khắc ta là quan quỹ là ông vậy, cùng với ta là anh em, là tỷ kiên kiếp tài vậy. Lẽ này danh chính ngôn thuận, là phép không thay đổi.

Bây giờ kết hợp với sách cổ tạo mệnh, phân tích như sau:

1. Ví dụ xuất thân từ quan gia

Năm Quan Quý Mão

Tháng Ấn Ất Sửu thương tài

Ngày Bính Tý quan quan

Giờ Thương Kỷ Sửu

Trụ ngày Bính Tý, năm tháng quan ấn thấu xuất mà đắc lộc, tài tinh tàng mà yên khố, cho nên xuất thân quan gia. Do thương quan không đủ, quan tinh thoái khí, nhật chủ suy nhược, toàn dựa vào Ất Mộc ấn thụ sinh Hoả vệ quan. Kết hợp hành vận, hơi vận ấn tuy phùng sinh, con người trôi nổi, Mậu thuỷ không thông căn, phá hoa khác thường, Dậu vận tài tinh hoại ấn, chịu phép mà chết.

2. Ví dụ về mẹ theo bố yểu

Năm Đinh Dậu thiên tài

Tháng Nhâm Tý

Ngày Đinh Mão

Giờ Ân thụ Giáp Thìn

Trụ ngày của mệnh: Đinh Mão sinh vào tháng đông, can tháng Nhâm Thuỷ là chính quan, chi tháng Quý Thuỷ là thất sát, quan sát khí vượng, bản thân suy nhược, cho nên lấy ấn thụ sinh ta Giáp Mộc là dụng thần. Bây giờ địa chi Mão đông phương hội Mộc, ấn vượng hữu khí, mà Tân Kim trong thiên tài Dậu ta khắc lại có một đôi, không gốc để leo, chính ấn là mẹ, thiên tài là bố cho nên mẹ trường thọ mà bố chết sớm.

3. Ví dụ lấy vợ hiền thục

Năm Thương, Quý Mão, Tài, Ấn

Tháng Tài, Ất Sửu Ấn, Kiếp, Thương

Ngày Canh Thân Ân, Kiếp, Thương

Giờ Quan, Đinh Sửu

Mệnh này hàn Kim toạ lộc, ấn thụ đương quyền đủ dùng Hoả chống hàn, kỵ can căn năm Quý Thuỷ khắc Đinh gây bệnh, toàn dựa vào can tháng Ất Mộc thông căn, tiết thuỷ sinh Hoả. Do hỉ thần là tài tinh, càng thích phùng hợp tài tinh, gọi là “tài đến cho ta”, cho nên vợ siêng năng mà tài can, sinh được 3 con, đều là người học khá.

4. Ví dụ lấy vợ đắc tài

Năm lang tỷ Đinh Mùi lang tỷ thực

Tháng lang Ất Tỵ kiếp thương thương

Ngày Đinh Dậu tài

Giờ sát Quý Mão lang

Đinh Hoả sinh vào đầu mùa hạ, trong tứ trụ lang sát đương quyền, nhất điểm Quý Thuỷ, chế túc vô lực, hay ở toạ Dậu Kim, xung Mão Mộc mà sinh Quý sát, cho nên tuy xuất thân bần hàn, nhưng nhất giao phát vận, thời đến vận chuyển, nhập học lại được vợ tài. Sau đó nhâm vận đăng khoa, năm Tân Sửu được bổ chức tri huyện, làm quan đến chức thái thú. Vì vậy, ngày sau không còn Dậu Kim xung Mão sinh Quý, không những vợ không còn tài mà danh cũng chẳng thành.

5. Ví dụ lấy vợghen tuông dữ tợn

Năm Ấn Ẩt Hợi Sát Ấn

Tháng Tài Canh Thìn Quan Ấn Thực

Ngày Bính Thân Thực Tài Sát

Giò sát Nhâm Thìn

Bính Hoả sinh vào cuối xuân, ấn thụ thông căn sinh vượng can giờ lại thấu Nhâm Thuỷ, cho nên lấy ấn thụ Ất Mộc làm dụng thần, nhưng xấu ở Canh tài hợp Ất hoá Kim, sinh sát phá ấn nên bói thấy vợ người ấy ghen tuông dữ tợn không hiền, không con mà tuyệt. Tất cả những điều ấy đều do tài tình hoại ấn mà gây nên nguy hại.

6. Ví dụ vợ gặp hình khắc

Năm thiên ấn, Quý Mão Ất Mộc tỷ kiên

Tháng tỷ kiên Ất Mão Ất Mộc tỷ kiên

Ngày Ất Mùi Đinh Hoả thực thần Ất Mộc tỷ kiên Kỷ Thổ thiên tài

Giờ Ấn thụ Nhâm Ngọ Đinh Hoả thực thần Kỷ Thổ thiên tài

Mệnh này, nhật chủ Ất Mộc, sinh vào tháng xuân, đắc lệnh thân vượng. Chi ngày thuỷ và chi giờ Ngọ hoà nhau, trong đó Kỷ Thổ là vợ là tài. Đáng tiếc trong tứ chi Ất Mộc trùng điệp, tỷ kiên thái quá, cho nên không cần vận hành tỷ kiếp, vợ cũng gặp khắc.

7. Ví dụ thực thương là con

Năm Ấn Đinh Dậu thương

Tháng Ấn Đinh Mùi quan kiếp Ân

Ngày Mậu Tuất Ân tỷ thương

Giờ Ấn Đinh Tỵ Ấn tỷ thực

Nhật nguyên Mậu Thổ, sinh vào cuối mùa hạ, tứ trụ ấn thụ trùng điệp, thuỷ khí không có, táo Thổ không thể tiết Hoả sinh Kim, lại lấy vận hội với chi giò chi năm Tỵ Dậu thành thực, thương Kim cục, nên được một con mà nuôi dưỡng nên người.

8. Ví dụ chuyển vận được con

Năm Tân Mão

Tháng Tân Mão

Ngày Giáp Thìn

Giờ Đinh Mão

Mệnh này, xuân Mộc hùng tráng, hỷ ở can giờ Đinh Hoả thấu lộ, thường vào can năm can tháng vô căn Tân Kim, nhưng đương vận hành Kỷ Sửu, thành ở tài, vì rằng Đinh Hoả tiết khí chức năng đắc dụng, cho nên không những không nuôi được con mà tài sản còn hao tổn. Sau đó một khi vận nhập Đinh Hợi, Bính thành, do nó thành mà đẩy Mộc thấu Hoả hoặc do Hoả thông căn mà phát huy, được liền 5 con, gia nghiệp đổi mới. Vì vậy, Nhậm Thiết Tiều tổng kết: phàm dụng thần của bát tự tức là tử tinh nếu dụng thần là Hoả, thì con hẳn ở vận Mộc Hoả mà có, hoặc Mộc Hoả đắc lưu niên mà có, nếu không phải Mộc Hoả ở niên vận mà có, hẳn con được mở ra, trong mệnh đa Mộc Hoả hoặc Mộc Hoả ở nhật chủ thì không đến hoặc không tiêu, thử nhiều lần đều nghiệm, Nhưng trong mệnh dụng thần không phải là thê tài tử lộc mà cùng thông thọ yểu, đều do một chữ dụng thần quyết định

9. Ví dụ về anh yêu em kính

Năm Đinh Hợi

Tháng Nhâm Dần

Ngày Bính Tý

Giờ Đinh Dậu

Bính Hoả sinh vào đầu màu xuân, gọi là “tướng Hoả có ngọn”, không coi là vượng. Lại xem tứ trụ ngũ hành, tuy nói can tháng Nhâm Thuỷ thông căn, Hợi Tý sát vượng không chế được nhưng tốt ở can chi năm tháng Đinh, Nhâm, Hợi, Dần đều có thể hợp mà hoá ấn, nếu nói chi giờ Dậu Kim tài tinh hoại ấn nhưng lại có can giờ trợ ích chế phục. Do Đinh kiếp là thần được hỷ được dụng trong cục, cho nên 7 người đồng bào, anh yêu em kính và đều là những nhà trí thức.

10. Ví dụ về anh em liên luỵ

Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ

Ngày Bính Dần Giờ Canh Dần

Mệnh này không chỉ dương nhậm đương quyền, lại gặp sinh vượng và can năm can tháng, Mậu Quý hợp mà hoá Hoả, tài trong Canh Kim của trụ, kiếp đoạt mất hết, cho nên anh em 6 người, đều không thành người lao đao vất vả. Đối chiếu với mệnh này, Nhậm Thiết Tiều đã nói một cách cảm khái, ngày, năm, tháng của mệnh này đều náo động, đổi một giờ Nhâm Thìn, nhược sát không thể chế lẫn nhau, có 6 em, có người chết sớm, người khác không làm nên, đến nỗi lận đận phá gia”. Tiếp theo, ông tổng kết “Tóm lại, kiếp nhậm quá vượng, tài cung nguyên khí ngược lại ít với anh em, có mà như là không. Nhưng quan sát quá vượng cũng bị thương tổn. Phải làm cho thân tài cùng vượng, quan ấn thông căn, mối có tình yêu thương”.

Về xem bát tự luận lục thân, Nhan Chiêu Bác ở Đài Loan trong cuốn Tử Bình bát tự đại đột phá đã có những thành quả nghiên cứu như sau. Ông cho rằng yếu lĩnh xem cho ông tổ là: lấy Can Chi năm đối với Can ngày, nếu Can Chi năm là Hỷ thần của Can ngày thì ta bị nó ám, ngược lại thì không bị ám chịu đựng được. Ởcan là mình ám, ởchi là âm ám. Minh là ám của vật chất, âm là ám của phong thuỷ địa lý, lấy thiên ấn là tổ phụ, nếu thiên ấn là hỷ thần của can ngày thì tổ phụ có cảm tình tốt với ta, ngược lại tình cảm nhạt. Đồng thời nêu lên: lấy can năm đối với hai can khác và tứ chi, tra sức sinh tồn của can năm, nếu sức sinh tồn thấp thì thành tựu của tổ phụ thấp. Lấy chi năm đối với can năm, nếu chi năm là hỷ thần của can năm thì tổ phụ mẫu ân ái nhau.

Yếu lĩnh xem bố mẹ, trong cuốn Tử Bình bát tự đại đột phá cho rằng: lấy can chi tháng đối với can ngày, nếu can chi tháng là hỷ thần của can ngày thì ta bị nó ám; ngược lại không bị ám chịu đựng được. Lấy chính ấn là mẹ, thiên tài là bố, nếu là hỷ thần của can ngày thì tình cảm sâu nặng, ngược lại tình cảm nhạt. Lại xe, sức sinh tồn của chính ấn, thiên tài cao hay thấp. Lấy chi tháng đối với can tháng, nếu chi tháng là hỷ thần của can tháng thì bố mẹ ân ái nhau.

Còn về vợ chồng, sách Tử Bình bát tự đại đột phá phân tích: nói về mệnh của người, không thể tách rời vợ chồng, mà cách xem vợ chồng, sách nói tuy tạp, nhưng không sách nào có thể xa rời tổ tông của nó, liệt kê tứ trụ như sau: đầu tiên xem chi ngày là hỷ hay kỵ, thì vợ chồng giúp nhau nhiều ít đã biết được ba phần, sau đó xem đến tài, quan là thiện hay ác thì biết vợ chồng duyên sâu hay cạn, nếu chi ngày bị hình xung thì biết vợ chồng không ổn định, lại xem kiếp, thương có nặng quá không, có thể đoán lứa đôi có bi hình thương không, mà mệnh người có thương, nguyên, quan thì như ngựa vía sô lồng, có quan không thương, tuy có sắc dục nhưng tự kiềm chế được. Tuế vận dẫn sắc, trong nhà bị sóng gió, nội dung trong đó cần xem kỹ để đoán, nữ mệnh quan sát hôn tạp, hôn nhân dễ có người thứ 3 xen vào.

Còn xem có sinh con không, cách xem của Tử Bình bát tự đại đột phá là: lấy Can Chi giờ đối với Can ngày, nếu Can Chi giờ là Hỷ thần của Can ngày thì ta bị con ám, ngược lại thì không có ám. Lấy thực, thương làm con, nêu can ngày là hỷ thần thì tình cảm sâu nặng, ngược lại thì tình cảm nhạt nhẽo. Lại xem sức sinh tồn của ngày sinh cao thấp lấy can giờ đối với ba can khác, tứ chi, tra sức sinh tồn của can giờ, nếu sức sinh tồn cao thì con cái thành tựu cao, nếu sức sinh tồn thấp thì thành tựu của con cái thấp. Nếu ví dụ sau đây để chứng minh:

11. Xem ông tổ

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Can năm Giáp, chi năm Dần không phải hỷ của ngày sinh Nhâm Thuỷ, minh ám, âm ám đều không có, thiên ấn, Canh Kim là hỷ của can ngày nhưng trong mệnh không thấy, có duyên nhạt với tổ phụ. Can năm Thân Mộc toạ ở Dần lộc, chi Nhâm Thuỷ tăng can thấu tương sinh, Bính Hoả thấu can, tổ phụ thành tựu cao, chi năm là lộc địa của can năm, tổ phụ mẫu ân ái nhau.

12. Xem bố mẹ

Năm Tân Mão Tháng Quý Tỵ

Ngày Ất Sửu Giờ Kỷ Mão

Can ngày Ất Mộc sinh tháng Tỵ, thương quan sinh tài nhược thân, Quý Thuỷ sinh Ất cùng điều hậu, Quý là hỷ thần của Ất, ngược lại Tỵ là kỵ nên có minh ám, không có âm ám. Thiên tài ngọn nhược, tình cảm nhạt với bố, chính ấn là hỷ nhưng trong mệnh khuyết nhược, sơ sơ xa xa. Quý Thuỷ sinh tháng Tỵ, dư khí ở Sửu, lại phùng Tân Kim Đinh sinh, duy chỉ Kỷ Thổ khắc chế, Tỵ Hoả bốc cao, sức sinh tồn của Quý Thuỷ không cao nên thành tựu của bố bình thường, chi tháng Tỵ không phải hỷ của Quý, tình cảm của bố không đẹp.

13. Xem bố mẹ

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Can tháng Ất không phải là hỷ thần của can ngày Nhâm không bị nó ám, Hợi là lộc địa của Nhâm, duy Dần Hợi khắc Mộc, lúc đầu bị nó ám, về sau hư không. Chính ấn là hỷ, tàng ở khố, mẹ có tình cảm nhưng người yếu nhiều bệnh. Thiên tài là kỵ, cùng bố sống chung vô duyên. Can tháng Ất Mộc toạ trường sinh chi năm dương nhậm, Nhâm Thuỷ tương sinh, Bính Hoả điều hậu, bố có thành tựu cao, chi tháng Hợi là trường sinh của can tháng Ất, bố mẹ ái ân nhau.

14. Xem nhân duyên

Năm Đinh Mão Tháng Giáp Thìn

Ngày Bính Tuất Giờ Giáp Ngọ

Năm Ất Dậu và trụ ngày Bính Tuất thành một cấp thuận nhau về nhân duyên gọi là một cấp thuận nhau như trụ ngày Bính Tuất, theo thiên can Đinh vì sau Ất là Bính địa chi tương thuận sau Dậu là Tuất, coi là một cấp thuận nhau. Các can chi ngày khác cũng theo thế mà tính.

15. Xem nhân duyên(kết hôn)

Năm Giáp Tý Tháng Quý Dậu

Ngày Canh Tý Giờ Kỷ Mão

Ất Hợi đại vận, Ất Mùi ưu niên cùng chi giờ tam hợp tài địa, nhân duyên.

16. Xem nhân duyên (kết hôn)

Năm Canh Dần Tháng Đinh Hợi

Ngày Bính Tý Giờ Ất Mùi

Nguyên sát tinh của mệnh hợp với Dần, gặp lưu niên của Tỵ, Thân xung khai, nhân duyên tốt.

17. Xem kết hôn chậm

Năm Đinh Sửu Tháng Bính Ngọ

Ngày Tân Tỵ Giờ Nhâm Thìn

Bát tự chỉ có thiên tài tinh nhập khố, nên lấy vợ chậm

18. Xem kết hôn chậm

Năm Kỷ Sửu Tháng Quý Sửu

Ngày Mậu ngọ Giờ Quý Sửu

Tứ trụ không thấy quan sát, nên kết hôn chậm

19. Xem vợ chồng

Năm Ất Mùi Tháng Canh Thìn

Ngày Canh Tý Giờ Giáp Sửu

Chính tài, thiên tài đều lộ, trong hôn nhân dễ có người thứ ba chen vào

20. Xem vợ chồng

Năm Mậu Tuất Tháng Quý Sửu

Ngày Bính Ngọ Giờ Tân Mão

Phu tinh bị hợp, tình chồng không hướng về ta, chi ngày hỷ thần, có thể được chồng ám nhưng không đủ đẹp.

21. Xem vợ chồng

Năm Mậu Tý Tháng Mậu Ngọ

Ngày Nhâm Thân Giờ Nhâm Dần

Tý Ngọ xung, quan tinh bị tổn. Dần băng xung, phu quan xung ly, hôn nhân thất bại. Duy phu cung hỷ thần, có cách nói khác.

22. Xem con cái

Năm Giáp Dần Tháng Ất Hợi

Ngày Nhâm Tuất Giờ Bính Ngọ

Bính ngọ không phải hỷ thần của can ngày Nhâm Thuỷ, khó tiếp nhận tử ám, Thực thương là kỵ, con cái tuy đông, không ai được ưu đãi, tháng Hợi Bính Hoả, lệnh khí là tử, Nhâm Thuỷ tương khắc, Dần Ngọ Tuất tam hợp Hoả cục, ấn thụ tương sinh, Bính Hoả từ nhược chuyển vượng, sức sinh tồn cao thấp theo vận năm mà thay đổi, thành tựu của con cái cao thấp cũng theo đó mà lên xuống.

Về cách xem hoạ phúc cát hung, cùng thông thọ yểu cho lục thân, gần đây Lâm Huệ Tường trong cuối Nghiên cứu và phê phán về đoán mệnh đã khái quát như sau: “Với người thân thuộc, bản thân cường là tốt, gặp khắc họ thì gặp khắc tử, nếu như phùng sinh họ thì có hy vọng. Nếu phùng mà có thể khác được họ, cũng được cứu, người thiên tài vượng, bố trường thọ, người nhiều tỷ kiếp bố chết sớm, người chính ấn hữu lực mẹ thọ, tài nhiều phá ấn tức chủ khắc mẹ.

Ví dụ ngày sinh của bản thân là Giáp Mộc, tài (bố) là Mậu Kỷ, ấn (mẹ) là Nhâm Quý, Mậu Kỷ Thổ khắc Nhâm Quý Thuỷ, Thuỷ (mẹ) bị khắc chết. Người tỷ kiên tài nhiều thì anh em đông. Thấy tỷ kiên kiếp tài, bại tài đều sẽ khắc vợ và bố, nếu bản thân là Giáp Mộc, tỷ kiên, bại tài sẽ là Giáp Ất Mộc, thê thiếp là Chính tài, Thiên tài tức là Mậu Kỷ Thổ. Giáp Ất Mộc có thể khấc Mậu Kỷ Thổ, để thê thiếp bị khắc chết. Bố cũng là Thiên tài, cũng bị khắc. Tọa ở thê cung thì vợ tốt, thê tức là dụng thần nên được vợ hiền, thê tình nhiều chủ khắc thê, thê tinh lưỡng thấu, thiên chính tạp xuất thì có nhiều vợ. Địa chi mà can ngày toạ gặp hình xung sẽ khắc thê. Bản thân cường mà thê nhược, nên lấy người đàn bà có thể bố cứu thế nhược ấy, đó gọi là “lấy ép”. Quan sát nhiều tổn thương anh em chị em, ví dụ Canh Tân Kim của chính quan thiên quan quá nhiều thì tổn thương Giáp Ất Mộc của tỷ kiên, bại tài tức là tổn thương anh em chị em. Thương quan, thực thần nhiều sẽ tổn thương con cái, vì rằng Bính Đinh Hoả khắc Tân Canh Kim, tuyền ấn nhiều khắc tổ phụ mẫu (Nhâm Quý Thuỷ khắc Bính Đinh Hoả).

Phương pháp xem con cái, trước tiên phải tìm sao của con lại đối chiếu với địa chi của giờ, theo sinh vượng tử tuyệt mà đoán, cách đoán theo bài ca dưới đây:

Trường sinh tứ tử trung tuần bán

Mộc dục nhất song bảo cát tường

Quan đái lâm quan tam tử vị

Vượng trung ngủ tử tự thành hàng

Suy trung nhị tử bệnh trung nhất

Tử trung chí đa một Kỷ lang

Trừ phi thủ dưỡng tha nhân tử

Nhập mộ chi thời mệnh yểu vong

Thụ khí vỉ tuyệt nhất có tử

Thai trung đầu sản hữu cô nương

Dưỡng trung tam tử chỉ lưu nhất

Nam nữ cung trung tử tế trường

Ý trong bài ca nói, nếu như bản thân là Giáp, Tý thì sẽ là Canh (Canh là thiên quan của Giáp). Canh nếu gặp chi giờ Tỵ thì ở trạng thái trường sinh, có thể ở tuổi trung niên có 4 con, nếu gặp Ngọ thì ở trạng thái Mộc dục, có thể có 2 con, ở Quan đới, lam quan đều có 3 con, ở đế vượng có 5 con, ở suy có 2 con, ở bệnh có 1 con, ở trạng thái tử không có con, ở trạng thái gặp Mộc con sẽ chết sớm, ở tuyệt có 1 con, ở thai có con gái đầu, ở dưỡng sinh 3 con còn 1.

Tổng quát toàn bài, có thể hiểu như thế này, tức là trong tứ trụ nêu trụ năm là cát tường hoặc dụng thần, chứng tỏ gia cơ tổ tông mệnh chủ tương đối phong lưu; trụ tháng là hỷ thần hoặc dụng thần chứng tỏ mệnh chủ có ám tỷ bô mẹ, anh em hoà thuận, chứng tỏ vợ chồng hợp sức, tình yêu ngọt ngào, chi giờ là hỷ thần hoặc dụng thần chứng tỏ mệnh chủ con cái

làm nên. Ngược lại, nếu trụ năm là kỵ thần, chứng tỏ tổ tông mệnh chủ phá sản suy vi, trụ tháng là kỵ thân, chứng tỏ bố mẹ bị hình thường, anh em bất hoà; chi ngày là kỵ thần, chứng tỏ tình yêu vợ chồng không đẹp. Trụ giờ là kỵ thần, chứng tỏ con cái mệnh chủ khó nuôi hoặc không thành đạt, nhưng nếu kỵ thần ở năm, tháng, ngày, giờ bị khắc chế, lại có thể phùng hung hoá cát.

Nếu như từ dụng thần kết hợp với 12 cung để xem trong bát tự nếu lấy ấn thụ làm hỷ thần của bản thân, hoặc ấn thụ gặp đất của trường sinh chứng tỏ chủ nhân có phúc ấm rất dày và cả hai bố mẹ đều trường thọ, ấn thụ của chi tháng gặp đất tử tuyệt, hoặc ấn thụ lấy làm dụng thần bị phá, chứng tỏ bố mẹ không toàn hoặc khó được hưởng phúc ấm của bố mẹ; trong bát tự nếu tỷ kiên, kiếp tài là hỷ thần, dụng thần của bản thân, hoặc tỷ kiên toạ ở lộc địa, chứng tỏ anh em nên người, ngược lại, nếu tỷ kiên là kỵ thần, chứng tỏ anh em không phải không hoà mục thì cũng là tan tác. Trong bát tự nếu lấy tài là hỷ thần , dụng thần thì có sức sinh hoá, chứng tỏ vợ hiền mà giỏi giang, ngược lại nếu tài là kỵ thần hoặc xung hợp tranh phân, chứng tỏ vợ không phục tòng chồng, tình cảm vợ chồng không tốt, nữ mệnh lấy quan, sát là chồng, trong bát tự nếu quan tinh đắc dụng, chồng cao sang mà bản thân cũng cao sang, lấy thực, thương là con cái, trong bát tự nếu thực, thương là hỷ thần, dụng thần, chứng tỏ con cái hiều hiếu, có khả năng giữ phúc cho con, nếu thực, thương phung xung hoặc toạ ở cô thần quả tú, chứng tỏ con cái hiếm hoi, hoặc là trong mệnh khắc con.

Ngoài ra, khi xem bát tự luận lục thân, còn có thể kết hợp hành vận để xem. Trong đó bố mẹ kết hợp ấu vận, vợ chồng anh em kết hợp trung vận, con cái kết hợp hậu vận. Ví dụ trong mệnh lúc trẻ nhỏ có hồng vận, chứng tỏ cổ phúc ấm của bố mẹ; trung niên gặp hồng vận, chứng tỏ vợ chồng hiệp lực đồng tâm hoặc là anh em tài giỏi, cuối đời gặp hồng vận, chứng tỏ con cái nên người.

Cuối cùng xin nói mấy câu, đó là vấn đề lục thân tương khắc, nói về lục thân tương khắc, ở đây chúng ta phải làm rõ, nếu không sa vào mê tín sẽ gây nên vợ chồng, cha con, anh em bất hoà, có lúc còn gây nên hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ chị Tường Lâm trong chuyện của Lỗ Tấn, do chồng chị chết, con chết mà người ta đều nói chị mệnh cứng, khắc chồng khắc con, kết quả là do sức ép của dư luận xã hội và thói quen lâu đời mà chị Tường Lâm lúc ấy đang tràn đầy sức sống bị xã hội phong kiến ruồng bỏ, nghĩ đến đây chúng ta cảm thấy bất bình và phẫn nộ cho chị Tường Lâm. Thực ra người xưa nói là tương khắc, không có nghĩa là đem khắc an đến chết vì vậy Trần Tố Am đời Thanh đã nói rất đúng, ông nói: “thế tục tương truyền, mệnh bố hung thì có thể khắc con, mệnh con hung thì có thể khắc bố, mệnh chồng hung thì có thể khắc vợ, mệnh vợ hung thì có thể khắc chồng, dẫn đến người thân oán ghét nhau, lập luận này vô cùng sai lầm, nếu trong mệnh bố, sao con phá hoại, có thể đoán con không giỏi giang, không phải vì mệnh bố mà khắc con vậy. Trong mệnh chồng có sao của vợ phá hoại, có thể đoán là vợ không giỏi giang, không phải mệnh chồng mà khắc vợ vậy, trong mệnh vợ sao của chồng tử tuyệt, có thể đoán chồng không có lộc, không phải vì mệnh vợ mà khắc chồng vậy.

Đương nhiên, dụng tâm của Trần Tố Am tuy tốt, nhưng chỗ đứng của lập luận vẫn dựa vào thiên mệnh. Dù thế nào đi nữa, chúng ta không nên đứng trên lập trường ngày nay mà đòi hỏi người xưa.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bát tự luận lục thân

Xem sao tốt xấu

Sao Nguyệt Kiến chuyển sát: kỵ động thổ. Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch): tháng 1, 2, 3: ngày Mão.
Xem sao tốt xấu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Sao Nguyệt Kiến chuyển sát: kỵ động thổ

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Mão; tháng 4, 5, 6: ngày Ngọ; tháng 7, 8, 9: ngày Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Tý.

2. Sao Thiên Địa Chính Chuyển: kỵ động thổ

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Quý Mão, Tân Mão; tháng 4, 5, 6: ngày Bính Ngọ, Mậu Ngọ; tháng 7, 8, 9: ngày Đinh Dậu, Tân Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Canh Tý, Nhâm Tý.

Xem sao tot xau hinh anh
Tranh cát tường

3. Sao Lỗ Ban Sát: kỵ khởi tạo

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Tý; tháng 4, 5, 6: ngày Mão; tháng 7, 8, 9: ngày Ngọ; tháng 10, 11, 12: ngày Dậu.

4. Sao Phủ Đầu Sát:  kỵ khởi tạo

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1, 2, 3: ngày Thìn; tháng 4, 5, 6: ngày Mùi; tháng 7, 8, 9: ngày Dậu; tháng 10, 11, 12: ngày Tý.

Theo Bàn về lịch vạn niên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem sao tốt xấu

Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Khi chúng ta mang hình dáng con người đến thế gian này, từ cuộc sống chúng ta sẽ có những bài học nhất định về luân hồi và kiếp trước, kiếp sau
Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Có lẽ kiếp trước chính là nền tảng để lý giải kiếp này rõ hơn!

Rằng tại sao có người sinh ra đã bị mù, bị giết chết trong chiến tranh? Tại sao có người sống trong cảnh nghèo đói bần cùng trong khi có người lại sống yên bình, hạnh phúc và thu nhập ổn định? Cũng như vậy, tại sao có người liên tục gặp phải những chuyện xui xẻo không may mà họ dường như không cách nào thay đổi được?

Một cách nhìn nhận vấn đề, khi chúng ta mang hình dáng con người đến thế gian này, từ cuộc sống chúng ta sẽ có những bài học nhất định. Thậm chí tới cuối đời gặp thất bại con người mới nhận ra bài học chân thực để làm người, thật quá muộn!

Và thượng đế cho họ một cơ hội khác để “sống tốt hơn” ở một kiếp sống khác – với một bộ dạng và hoàn cảnh khác hoặc có thể giống y đúc với kiếp trước đó. Nhưng những gì xảy ra trong đời của họ là không báo trước. Do đó mâu thuẫn và những khổ nạn bắt đầu phát triển. Đằng sau những thành công, con người để lại cho mình những kinh nghiệm sống cố hữu và theo thời gian trở nên thâm căn cố đế, và thật khó để đột phá.

Thế nên từ quan điểm cuộc sống hiện đại con người không cách nào lý giải được những rủi ro bất hạnh và không cách nào giải thoát tự thân. Thực ra, nó chỉ là một bài học cụ thể được lặp lại để con người hoàn trả món nợ từ kiếp trước.

Liệu họ có nhận ra? May mắn thay có một hình thức khiến con người có thể kết nối với quá khứ gọi là thôi miên. Mỗi việc tốt, xấu, ân oán từ các kiếp sống đều được lưu giữ lại trong bộ nhớ tiềm thức, và trong trạng thái vô thức con người có thể tiến nhập và biết được các mối quan hệ nhân duyên lâu đời của nó.

Sau khi biết được các mối quan hệ nhân duyên từ tiền kiếp, con người hiểu biết và học cách tha thứ để nó không bao giờ trở lại trong kiếp sống này cũng như các kiếp sống tiếp theo nữa.

Hầu như bất kỳ vấn đề nào chưa được giải quyết từ các kiếp đều có liên quan đến sức khỏe, các mối quan hệ, sự nghiệp, tài chính, nỗi sợ hãi, ám ảnh và nghiện ngập trong kiếp này.

Vì vậy cứ để nỗi sợ hãi ám ảnh trong tiềm thức có thể khiến bạn phải chịu một số phận tương tự trong kiếp này. Vì mọi ân oán đều được xóa hoàn toàn bởi sự tha thứ cho thủ phạm và sự hồi tưởng ký ức thông qua người thôi miên hoặc người có năng lực hòa giải.

Dưới đây là những nỗi sợ hãi khác nhau và những trường hợp có thể đã từng phát sinh từ kiếp trước:

  • Sợ phải lãnh đạo – Điều này được gây ra bởi lạm dụng quyền lực trong một cuộc sống quá khứ. Có thể vì điều đó họ đã từng gây ra tội lỗi sai lầm chỉ vì một quyết định mà dẫn đến hậu quả nghiêm trọng nào đó.
  • Sợ thân mật – Nhiều người gặp phải vấn đề này đã vi phạm hoặc bị lạm dụng trong đời trước, nên kiếp này họ thiếu tin tưởng và nang theo một nỗi sợ hãi khi tiếp cận với người khác.
    Không thể buông bỏ một mối quan hệ- Những người này có thể cần phải giải quyết nợ nần tiền kiếp trước khi chấm dứt mối quan hệ đó. Thông thường, họ không dễ không nhận ra cho tới khi nghiệp đã hoàn thành và đó là thời gian để nó di chuyển.
  • Vấn đề tiền bạc- Đây có thể là một sự tham lam đến mức làm tổn hại tới sức khỏe và kế sinh nhai của người khác trong một kiếp sống. Khiến kiếp sống này có tình trạng khan hiếm tiền tiền bạc, mất mát, thiệt hại tài chính hay những thất bại liên tiếp khiến họ không kiếm được tiền.
  • Tăng cân/vấn đề mất mát – Nhưng đôi khi đây cũng là kết quả của quá khứ thiếu thốn thực phẩm, chết đói. Nên trong kiếp này người ta ăn quá nhiều vì nỗi ám ảnh sợ hãi thiếu ăn trong tiềm thức.
  • Bệnh tật – một số bệnh, đặc biệt là những căn bệnh y học không lời giải, có thể liên quan trực tiếp đến quan hệ nhân quả từ tiền kiếp. Đối với những bệnh tật khác, kiếp trước có thể là một trong những yếu tố góp phần gây ra.

Nhiều người cảm thấy triệu chứng vật lý trong quá trình thôi miên, chẳng hạn như đau đầu hoặc tức ngực, run rẩy cơ thể, khó thở và khóc. Các triệu chứng này biến mất khi gần kết thúc quá trình. Nếu thủ phạm/nạn nhân được cho biết đích danh trong đời này của họ thì cần một cuộc đối thoại để bài trừ những hiểu lầm hiện tại dựa vào quá khứ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiếp trước có ảnh hưởng kiếp này hay không?

Kiêng kỵ vào cửa thấy cầu thang –

Hiện tượng: Vào cửa ngay tức thì nhìn thấy cầu thang, khí dương trạch lọt thẳng ra ngoài, dễ làm cho khí trường trong phòng không ổn định, có ảnh hưởng bất lợi đối với học hành và công việc của người trong nhà. Phương pháp hóa giải: Có thể đặt một tấ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Vào cửa ngay tức thì nhìn thấy cầu thang, khí dương trạch lọt thẳng ra ngoài, dễ làm cho khí trường trong phòng không ổn định, có ảnh hưởng bất lợi đối với học hành và công việc của người trong nhà.

634283798084687500

Phương pháp hóa giải: Có thể đặt một tấm đệm ngay chân cầu thang, phía dưới tấm đệm đặt một chuỗi đồng tiền Ngũ Đế để cản trở khí lọt ra ngoài. Đương nhiên nếu có thể đặt một bức bình phong khòng trong suốt ngán giữa cửa và cầu thang thi càng tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ vào cửa thấy cầu thang –

Hãi hùng về công dụng bùa ngải của người Mnông

Cho tới nay không chỉ những tục lệ mà cả những câu chuyện về bùa ngải của người Mnông vẫn là bí ẩn với những nhà nghiên cứu văn hóa tâm linh.
Hãi hùng về công dụng bùa ngải của người Mnông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cho tới nay không chỉ những tục lệ mà cả những câu chuyện về bùa ngải của người Mnông vẫn là bí ẩn với những nhà nghiên cứu văn hóa tâm linh.

 

Hàng trăm năm qua, câu chuyện bùa ngải của đồng bào dân tộc trên Tây Nguyên, đặc biệt là bùa ngải của người Mnông ở Đắk Lắk luôn là điều bí ẩn lôi cuốn sự hiếu kì cũng như nỗi khiếp sợ của không ít người miền xuôi.   Có những lời đồn rằng người đàn ông nào bị cô gái miền sơn cước đem lòng yêu thương sẽ bị thư ếm quên hết chuyện phố thị và người thân, từ đây sẽ cam tâm tình nguyện sống cùng sơn nữ đến suốt đời suốt kiếp. Lại cũng có lời đồn nếu kẻ nào dại dột làm phật lòng người vùng cao sẽ bị trù ếm đau bệnh triền miên không thầy thuốc nào chữa được và sau cùng thì… chết đau chết đớn! Đâu là sự thật của chuyện bùa ngải, thư ếm này?  
Hai hung ve cong dung bua ngai cua nguoi Mnong hinh anh 2
Ảnh minh họa
 

Cơn ác mộng giữa rừng già

  Năm nay ngoài 60 tuổi, ông Lê Hoàng Bá ở phường Tân Hưng, quận 7, TP.HCM  có rất nhiều câu chuyện liên quan đến bùa ngải của tộc người vùng cao. Ông Bá kể thời trai trẻ ông là dân “làm rừng”, địa bàn hoạt động của ông thời bấy giờ tại khu vực hồ Lắk (nay thuộc huyện Lắk, Đắk Lắk ), nơi có rất đông người M’nông sinh sống. Ông Bá kể: “Hồi đó tôi nghe rất nhiều điều bí hiểm về chuyện bùa ngải của tộc người M’nông. Dân làm rừng đi trước căn dặn lớp người đến sau rằng trong quá trình sinh sống, làm việc với người dân bản xứ hãy sống thật lòng, đừng gian dối làm họ giận hay phiền lòng. Bởi người M’nông khi đã quý một ai đó rồi thì sống hết mình nhưng lúc tức giận họ sẽ trị thẳng tay kẻ tà gian bằng những cách thư ếm cho đến chết. Bản thân tôi từng chứng kiến anh bạn tên Hoàng vì lừa tình con gái một ông thầy cúng ở làng, để rồi đang khỏe như bò mộng anh này bỗng đổ bệnh, bụng phình to và chết thảm dù đã đi khắp nới để chữa trị”…   Rộng hơn 500ha, hồ Lắk là hồ tự nhiên lớn nhất Tây Nguyên, cách thành phố Buôn Ma Thuột gần 60 km. Nơi này vào thập niên 50 từng là địa điểm thường xuyên lui tới săn bắn của vua Bảo Đại, ông vua cuối cùng của triều nhà Nguyễn. Quanh hồ có buôn Jun và buôn M’liêng (thị trấn Lạc Thiện, huyện Lắk) là hai buôn cổ của tộc người M’nông. Khi đến hồ nước khổng lồ nằm trên núi cao này, tại buôn Jun, chúng tôi tìm hỏi những người làng về chuyện ếm ngải, trong khi các chàng trai cô gái bản xứ tỏ ra lạ lẫm thì những cụ già lại rất rành rẽ.   Một cụ bà tên H’Rung, gương mặt có ngàn nếp nhăn dè dặt nói: Một người “có ngải ma” có thể làm cho người mà anh ta bực tức, hận ghét đang khỏe mạnh đau bệnh không rõ lý do với bụng sưng to, đầu đau nhức, ăn không được, ngủ không được… Cũng theo cụ H’Rung, có người bị ếm ngải sợ ánh sáng, lúc nào cũng thấy lạnh, cũng thấy ma quỷ quanh mình và sau một thời gian dài bị hành xác chẳng ai chữa trị được, người bị thư ếm sẽ chết trong đau đớn! Vì tin chuyện thư ếm bùa ngải mà khi đau ốm, người bệnh hay thân nhân chỉ biết cậy nhờ thầy cúng ở làng làm lễ trục xuất bệnh tật ra khỏi cơ thể bằng phép thuật. Thường thì thầy cúng sẽ kết thúc buổi chữa bệnh bằng cách kê miệng vào những chỗ đau cắn hút chất độc ra ngoài. Cụ H’Rung kể ngày trước từng thấy thầy cúng hút từ bụng người chị gái đã khuất của mình là H’Sek nào là xương cá, hòn đá, nhúm lông, chùm tóc rối…

 

Hình phạt tàn khốc

   
Hai hung ve cong dung bua ngai cua nguoi Mnong hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Luật tục M’nông quy định, kẻ sử dụng bùa ngải thư ếm hại người, làm ly gián vợ chồng, khiến anh em bất hòa… mắc tội nặng không kém gì tội ma lai (còn gọi ó ma lai, theo quan niệm của đồng bào Tây Nguyên thì đây là thứ ma quỷ chuyên gây hại cho con người bằng việc bắt linh hồn người ta hay ăn ruột gan của họ, khiến họ mất dần sự sống và sau cùng chết trong cảnh tàn tạ, toàn thân chỉ còn da bọc xương – PV). Hình phạt dành cho hai loại “tội” sử dụng bùa ngải của người Mnông này rất nghiêm khắc, có khi phải “mạng đền mạng”. Trong luật tục M’nông, đoạn trị tội thư ếm bằng bùa ngải, nói rõ điều này: “Nuôi ngải giống như ma lai/ Nó nuôi ngải để giết buôn làng/ Bị ngải tro bếp người ta đau bụng/ Bị ngải nhọ bị u bị nhọt/ Bị ngải đang chết ngay tại chỗ/ Người nuôi ma ngải chính là ma lai/ Dân làng bị chết đổ thừa cho nó/ Bắt vợ con nó đền mạng người”.   Từ đoạn luật tục này, mới thấy góc nhìn của người M’nông ngày trước quá đỗi hà khắc, nặng nề về thứ được gọi là… bùa ngải. Theo đó, bùa ngải được phân thành nhiều loại, có loại chỉ gây đau bụng, có loại gây u nhọt và có loại gây chết người… Nhưng đã là bùa ngải thì loại gì hay sử dụng vào mục đích nào đi nữa kẻ nuôi ma ngải nếu bị phát hiện sẽ bị kết tội không khác gì ma lai. Lúc này, cái giá mà người nuôi ngải phải trả rất khủng khiếp, không chỉ với bản thân người đó mà còn với cả những người thân thích. Câu nói: “Bắt vợ con nó đền mạng người” là minh chứng cho điều đó! Với những kẻ dùng bùa ngải gây bệnh rồi lại dùng ngải để chữa bệnh, luật tục M’nông cũng chỉ rõ tội danh ấy và hình thức xử phạt: “Nuôi ngải chữa bệnh cũng có tội/ Chính nó làm, lại bảo nó chữa/ Phải phạt nặng bằng ché, bằng trâu/ Buôn làng bị chết nó phải chịu tội/ Chết một người đền một voi”.   Xử một người dùng bùa ngải thư yếm người khác là việc hệ trọng gắn liền với sự sống của một người, có khi nhiều người nên để tránh việc ai đó bị kết tội oan, luật tục M’nông chỉ dẫn cách “thử ma”, “thử ngải” để kẻ bị kết tội tâm phục khẩu phục. Việc xác định một người có bùa ngải tương tự cách thức thử một người có ma lai. Đó là thử bằng cách đổ chì. Già Y Gong, ở buôn M’liêng cho biết việc đổ chì này chỉ được áp dụng khi không tìm được chứng cứ để buộc tội. Để tiến hành việc đổ chì, trước tiên chủ làng sẽ nấu chảy chì rồi đổ vào một thanh tre được chẻ đôi có khoét các mắt tre và để nghiêng góc 45 độ trước cửa nhà người bị tình nghi có ngải ma. Nếu chì chảy tuột một mạch thì người đó vô can, bằng không chì đang chảy bỗng “dậm chân tại chỗ” hay đông lại tạo thành các gai nhọn thì anh ta sẽ bị kết tội.    
Hai hung ve cong dung bua ngai cua nguoi Mnong hinh anh 2
Ảnh minh họa
 

Vén màn bí mật

  Trong quá trình ghi nhận thực hư chuyện bùa ngải M’nông, những gì chúng tôi đã góp nhặt được là không ít chuyện rợn người về cơn ác mộng trấn yểm, trù ếm của những người miền xuôi giống như ông Bá khi họ đến làm việc, sinh sống tại vùng cao. Có người kể từng chứng kiến người quen, người thân bỗng dưng bị những chứng bệnh chữa hoài không hết, mà diễn biến bệnh tật mỗi ngày một nặng nề, cơ thể sưng phù, người lở loét, bụng phình to, mắt vàng…  Tuy nhiên theo tiết lộ của ông Bá, những trường hợp đó, người bệnh và người làng cho rằng bị bỏ bùa ngải nhưng sau này ông mới biết người ta bị như thế có thể là do trúng độc. Bên cạnh đó, cuộc sống nơi rừng sâu nước độc lại thiếu kiến thức gìn giữ vệ sinh cơ thể và môi trường sống đã khiến người M’nông ngày trước mắc nhiều bệnh tật, thông thường là các bệnh sốt rét, kiết lị, tiêu chảy, ghẻ lở, bệnh hủi (phong cùi), đậu mùa, trái rạ… Khi mắc phải những chứng bệnh này, người ta sợ lắm, cứ nghĩ mình bị ai đó thư ếm bỏ bùa ngải chứ không biết được rằng những chứng bệnh ấy do ăn uống, sinh hoạt mất vệ sinh và do vius mang mầm bệnh xâm nhập.   Theo ông Bá, giống như các tộc người vùng cao khác, các vị thầy cúng, thầy phù thủy trong cộng đồng người M’nông nắm nhiều công thức “tạo chất độc” mà khi bực tức hay muốn hãm hại ai đó họ chỉ cần sử dụng chất độc này. Hẳn nhiên kẻ bị “thuốc” ấy sẽ rơi vào bi kịch bị bệnh tật hành hạ và vô phương cứu chữa. Ông Bá lý giải: “Chất độc được lấy từ mủ một số loại cây rừng và mủ trên da đầu con cóc, hoặc rắn độc, nấm độc… sau khi được hòa lẫn vào với nhau, thứ độc này có màu đen như hắc ín (dầu hắc). Chỉ cần ai đó ăn uống có dính độc xem như xong đời vì chẳng ai biết cách hóa giải độc tố ngoài người đã tạo ra nó”.   Còn với những người dân tộc M’nông như anh Y Đel, 32 tuổi, ngụ buôn M’liêng cũng đã có những suy nghĩ khác. Anh kể, khi nghe những người già kể chuyện thư ếm bằng bùa ngải, anh bán tín bán nghi và dốc hết sức tìm hiểu. Hiểu rồi anh mới phát hiện đó là màn gian xảo của những thầy cúng, thầy bùa. Để rồi khi con bệnh nhờ cứu chữa, “ông thầy” này còn bày vẽ chuyện cúng ma cúng thần, diễn những chiêu bùa phép ma mị như hút lấy chất này chất kia ra khỏi cơ thể người bệnh bằng tiểu xảo… ngậm từ nước. Kết thúc màn chữa trị, “thầy” cho người bệnh uống nước phép được hòa thuốc giải độc. Đang đau đớn, nay hết bệnh “nhờ” thầy, người bệnh và dân làng tin ông ta tài giỏi chứ nào biết đó chỉ là… màn diễn!   Bao mùa lá rụng đi qua, bao đời người ngủ yên giữa núi rừng ngút ngàn, theo thời gian những luồng sáng văn hóa đã dần phủ sóng các buôn làng M’nông. Giờ đây chuyện thư ếm, bùa ngải chỉ còn tồn tại lại trong ký ức của những người già và một bộ phận người đồng bằng thiếu hiểu biết, thích tin chuyện quỷ ma, bùa chú mà thôi.  
► ## gửi đến bạn đọc công cụ lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác

ST.
Hóa giải dính bùa ngải theo quan điểm của nhà Phật Rùng mình chứng kiến sự phát triển của Kuman Thong ở Thái Lan Bí ẩn rợn người: Minh Thuận về báo mộng mình bị chơi bùa ngải  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hãi hùng về công dụng bùa ngải của người Mnông

Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Bạn tìm mãi vẫn chưa thấy ý trung nhân? Bạn ăn diện mà chưa có đối tượng nào để ý? Ấy là vì bạn chưa biết các mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa đấy thôi.
Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tiet lo 3 dieu giup thoat e ngay lap tuc hinh anh
 
Có người tuy không thật xinh đẹp nhưng đào hoa rất vượng, người theo đuổi nườm nượp; lại cũng có người, ngoại hình bắt mắt mà vẫn đi về lẻ bóng. Ấy là vì nhân duyên mỗi người một khác. Muốn cải thiện điều này không khó, áp dụng ngay 3 mẹo phong thủy thúc đẩy đào hoa.
 
1. Dùng hoa tươi thúc giục đào hoa 
 
Hoa tươi có tác dụng cải biến vận số, mang tới đào hoa. Bày hoa trong nhà không chỉ có tác dụng kích thích tình duyên mà còn giúp tình cảm phong phú, con người cởi mở, tốt cho xã giao.
 
Người nam bày hoa ở phòng khách, đặt ở phía bên phải (lấy vị trí thường ngồi trong nhà làm chuẩn); người nữ bày trong phòng ngủ, phía bên trái theo hướng nằm. 
 
Tốt nhất là chọn các loài hoa có kích thước lớn, bày trong bình sứ, bình gốm. Điểm cần nhấn mạnh, là phải bày hoa tươi (hoa giả không có tác dụng) và không được để hoa héo úa, kẻo tình chưa thấy đâu đã rước ốm đau, bệnh tật vào nhà.
 
2. Tô điểm nhà bằng những đồ vượng đào hoa
 
Trong nhà, những đồ như mành, rèm cửa, khăn trải bàn, đệm hãy thay đổi thường xuyên để tăng sức mạnh đào hoa, không cho năng lượng tình yêu tản mát, tăng sức sống tình cảm cho chủ nhân, tạo cảm giác mới mẻ. 
 
Đặc biệt là bức mành, không nên xem nhẹ, tốt nhất là thay đổi theo mùa, mang hương vị cuộc sống vào ngôi nhà của người độc thân. Mỗi lần thay đổi là mỗi lần căn nhà như mang diện mạo mới, tâm tình sẽ biến hóa theo, tình cảm cũng theo đó mà thăng hoa. Chọn ra màu hợp với mình hoặc sử dụng màu hồng phấn làm chủ điểm cho ngôi nhà.
 
3. Tận dụng bản mệnh đào hoa vị để vượng đào hoa

Đào hoa vị là vị trí đào hoa ứng với từng bản mệnh, suốt đời không thay đổi. Chiêu đào hoa tại đào hoa vị sẽ giúp cô nam quả nữ sớm tìm được mối lương duyên, giải quyết vấn đề hôn nhân.
 
Người tuổi Hợi, Mão, Mùi: vị trí đào hoa ở hướng Tý (Bắc).
 
Người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: vị trí đào hoa ở hướng Ngọ (Nam).
 
Người tuổi Dần, Ngọ, Tuất: vị trí đào hoa ở hướng Mão (Đông).
 
Người tuổi Thân, Tý, Thìn: vị trí đào hoa ở hướng Dậu (Tây).
 
Tại vị trí đào hoa hãy đặt vật phẩm làm từ thủy tinh màu hồng, có tác dụng tăng cường đào hoa khí, thúc đẩy đào hoa vận, nhất định mang tới những cuộc gặp gỡ tốt lành cho chủ nhân.
 
Tình yêu là do duyên số, hôn nhân là nhờ ý trời, nhưng bản thân cũng phải chủ động, tích cực tìm kiếm mới mong gặp được người chung sống suốt đời. Áp dụng những mẹo phong thủy thúc đẩy tình duyên và cởi mở hơn nữa, may mắn sẽ mỉm cười với bạn.
Xem bói tình yêu để biết nhân duyên của hai người

Trần Hồng 

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết lộ 3 điều giúp thoát ế ngay lập tức

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, tu vi Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay

Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay? Tình yêu của bạn giống như tượng đài khó đổ trước gió. Đó có phải sự thật không nhỉ? Hãy chọn một lá bài dưới đây.

Quy tắc bói bài:

 

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân: “Tình yêu của mình có dễ lung lay?”.

3. Chọn một lá bài theo trực giác và xem đáp án.

Lựa chọn 1: The Fool

the-fool.jpg

Lựa chọn 2: The Emperor

 
the-emperor.jpg

Lựa chọn 3: Two of Cups

two-of-cups_1440469560.jpg

Xem kết quả:

Lựa chọn 1: The Fool – Như ngọn đèn trước gió

Chắc chắn mối quan hệ này không bền vững vì những sự cố lớn trong thời gian gần đây đã đẩy lên đỉnh điểm. Bạn và người ấy xung khắc chỉ vì những chuyện nhỏ nhặt, ví như chọn địa điểm đi ăn, đi chơi xa với ai đó… Tuy nhiên, vì ai cũng đặt nặng cái tôi cá nhân, nên khoảng cách ngày càng xa dần, dẫn đến rạn nứt.

Đã không ít lần tình yêu của hai bạn được đưa ra phán xét là sẽ đi đến hồi kết. Sau cùng cả hai vẫn quyết định duy trì mối quan hệ ở mức độ hời hợt và không thể khẳng định sẽ kéo dài bao lâu. Chỉ cần vài yếu tố tác động nhỏ, bạn và “gấu” sẵn sàng từ bỏ tình yêu. Điều cần làm là hãy xác định lại tình cảm của bạn một cách chín chắn.

Lựa chọn 2: The Emperor – Không gì có thể xoay chuyển

Bốc được lá bài này cho thấy bạn rất kỹ tính, kiên định và sống trọng tình cảm. Tất cả những yếu tố này hòa hợp giúp bạn tinh tường trong tình yêu, từ việc lựa chọn “gấu”, vun đắp cho mối quan hệ và xác định rõ ràng tương lai của hai người. Mặt khác, người ấy luôn thể hiện thái độ nghiêm túc, chín chắn và hết lòng với bạn. Bạn càng quý trọng mối tình của mình hơn.

Mặt khác, thời gian mới yêu, mối quan hệ của bạn được thử thách rất nhiều. Thậm chí, sóng giớ lớn ập đến nhưng hai bạn vẫn vượt qua nên tình yêu càng bền chặt. Theo từng ngày, sự quan tâm lẫn nhau như chất keo dính giúp tình không bị dao động trước bất kỳ khó khăn nào.

Lựa chọn 3: Two of Cups – Tình yêu hờ hững, nhưng khó rời

Khó định nghĩa mối quan hệ giữa hai bạn ở thời điểm hiện tại. Đó không hẳn là tình yêu sâu sắc, nhưng hơn tình bạn thân thiết. Nói cách khác, bạn và người ấy dễ xao động, tuy nhiên khó để dứt khoát hoàn toàn. Vậy nên bạn thường suy nghĩ khổ tâm về người ấy, thấy mình bị tổn thương và vẫn loay hoay tìm lối thoát.

Khi gần dứt khoát, quyết tâm chia tay, nửa kia lại muốn níu kéo. Người dễ mềm lòng như bạn không thể từ chối và sẽ quay đầu lại. Ngọn lửa ấy chẳng duy trì được lâu, nhanh chóng nguội lạnh và cả hai lại rơi vào trạng thái yêu hờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói bài tarot xem tình yêu của bạn có dễ lung lay - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Top 5 con giáp dễ giàu có nhất - Tử vi - Xem Tử Vi

Top 5 con giáp dễ giàu có nhất, Tử vi, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 5 con giáp dễ giàu có nhất, tu vi Top 5 con giáp dễ giàu có nhất, tu vi Tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 5 con giáp dễ giàu có nhất

Dưới đây là top 5 những người dễ giàu trong 12 con giáp, bằng sự nỗ lực của bản thân cùng sự may mắn của số phận, những con giáp này đã tạ dựng cho mình một gia tài đáng mơ ước.

Hãy cùng khám phá xem họ là những ai nhé!

1. Tuổi Hợi

Những người tuổi Hợi là những người giàu sang phú quý, hơn ai hết họ biết nắm bắt số phận của mình trong tay. Một điều đáng ngạc nhiêu là 80% sự giàu có của người tuổi Hợi không phải do số phận mà do những lỗ lực của họ đạt được.

Những người tuổi Hợi sinh ra là để chinh phục thử thách và họ bị cuốn hút bởi những khát vọng lớn mà họ đặt ra.

Đối với họ, giàu có chỉ là vấn đề thời gian.

2. Tuổi Thân

Tuổi Thân thường chỉ những người vất vả, nhưng ít người biết những người tuổi Thân là những người có sự nhạy bén về vấn đề tài chính. Họ chủ động trong những cơ hội để đạt được địa vị trong xã hội.

Dù theo số mệnh thì đây là con giáp không có số mệnh giàu sang nhưng bù lại, họ biết tiết kiệm, chăm chỉ và biết nắm bắt cơ hội một cách khỏe léo. Chính vì thể họ luôn gặt hái được những thành công hơn cả mong đợi.

3. Tuổi Thìn

Trong mắt mọi người, dường như người tuổi Thìn gặt hái được thành công một cách quá dễ dàng, bởi họ không giỏi trong việc quản lý tài chính, cũng không quá nỗ lực để thực hiện một điều gì đó. Điều này cũng không có gì sai, bởi số mệnh giàu sang của con giáp này có tới 8 phần. Khi sinh ra họ đã có số mệnh may mắn như vậy rồi, nên sự cố tu vi gắng của họ chỉ cần bằng hoặc chưa bằng người khác thì cũng đã chạm tới thành công.

4. Tuổi Mùi

Người tuổi Mùi rất biết cách kiếm tiền. Trong lĩnh vực tài chính, họ có năng lực đặc biệt, vô cùng nhạy bén, thông minh. Họ có thể tìm thấy cơ hội tốt lành cho mình ngay cả trong tình huống cấp bách, đầy khó khăn. Người khác có thể không nhìn thấy cơ hội ngàn vàng đó, nhưng với người tuổi Mùi thì không gì không thể.

Số mệnh giàu sang của người tuổi Mùi có tới 6 phần. Tuy nhiên, không vì thế mà họ dễ dàng kiếm được món tiền khổng lồ đâu nhé. Bởi phần lớn số tiền họ kiếm được đều dựa trên khả năng thực có của mình. Họ cũng phải trải qua bao gian nan, vất vả mới có được thành công đỉnh cao đó.

5. Tuổi Dần

Con giáp này luôn ôm giữ mộng tưởng về một thời đại hoàng kim với sự giàu có bậc nhất bản thân. Cộng thêm số vận phú quý chỉ có 3 phần, nên người tuổi Dần thường khá chật vật trên con đường chinh phục sự giàu sang thời trẻ. Theo Ione, họ có thể trở thành tỷ phú nhưng chỉ khi đã ở độ tuổi trung niên.

Bởi thế nên người tuổi này thường có tâm lý than thân trách phận, trách ông trời không công bằng vì bắt họ phải mất quá nhiều thời gian trong cuộc đời mới có được cuộc sống giàu sang mà họ khát khao bấy lâu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 con giáp dễ giàu có nhất - Tử vi - Xem Tử Vi

Đặt tên cho con: Vô tình hay kỳ vọng –

Khi chuyên gia về ngôn ngữ, các “thầy” chuyên về kinh sách, cung, mệnh... vào cuộc thì người ta sẵn sàng bỏ tiền để tìm đến những phương pháp đặt tên “khoa học” để đặt tên cho con. Trước đây, ở Việt Nam, đời sống khó khăn, dân trí còn hạn chế, các cụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi chuyên gia về ngôn ngữ, các “thầy” chuyên về kinh sách, cung, mệnh… vào cuộc thì người ta sẵn sàng bỏ tiền để tìm đến những phương pháp đặt tên “khoa học” để đặt tên cho con.

Trước đây, ở Việt Nam, đời sống khó khăn, dân trí còn hạn chế, các cụ thường có cách đặt tên con rất đơn giản như tên đệm thì nam “Văn”, nữ “Thị” hoặc gọi con bằng những cái tên rất chân chất, xấu xí như Tí, Dậu, Hĩm, Út, Cu… Người xưa cho rằng làm như thế thì ma quỷ cũng thấy xấu mà để cho đứa trẻ được yên, vì vậy bố mẹ sẽ nuôi con một cách dễ dàng hơn.

dat-ten-cho-con-2014

Hiện nay quan niệm đó đã thay đổi rất nhiều. Việc đặt tên đứa con mới ra đời giờ là chuyện trọng đại của cả gia đình. Trọng trách thường được giao cho người lớn tuổi, có uy thế, “nhiều chữ” nhất trong dòng họ. Mọi người thích chọn những cái tên Hán tự “rất kêu”, nhiều ý nghĩa như Hùng, Dũng, Đức, Khuê, Dung, Phương, Hương, Huyền…

Để cái tên thêm hay, những chữ đệm trước tên cũng được chú trọng, thậm chí có những người có tới 2, 3 chữ đệm cho thẩm mỹ, sang trọng. Những cái tên có cả họ cha lẫn họ mẹ cũng đã được xếp cạnh nhau (dù nghe rất trúc trắc, trục trặc) để tôn trọng hai bên nội ngoại.
Ngoài ra, xu hướng đặt tên theo kiểu phi giới tính, kiểu “chữ cái đầu” còn được coi là “mốt” với những đứa trẻ thuộc thế hệ từ 8x, 9x vì cha mẹ mong muốn tên chúng luôn đứng ở “đầu sổ” trong tất cả các danh sách ở trường học hay “trường đời”…

Gần đây hơn, trong xã hội có “bước ngoặt” mới trong cách đặt tên con. Khi chuyên gia về ngôn ngữ, các “thầy” chuyên về kinh sách, cung, mệnh… vào cuộc thì người ta sẵn sàng bỏ tiền để tìm đến những phương pháp đặt tên “khoa học” để đặt tên cho con.

Không biết họ tin vào “cái tên nhàn hạ, sung sướng, may mắn” này đến đâu nhưng rõ ràng đó là những ước mong, kỳ vọng đầu tiên đặt lên vai đứa trẻ. Người ta cũng dần bỏ qua những gì thuộc về “ý nghĩa” của cái tên mà thay thế vào đó là theo sở thích hoặc những khác biệt…

Đã không hiếm những đứa trẻ “thuần Việt” nhưng lại mang những cái tên rất lạ với người Việt như Tú Lynh, Hồng Kông, Bê La… Không chỉ ở Việt Nam, tại Mỹ, những chuyển biến về xu hướng đặt tên cho con theo cách đặc trưng, khác biệt như thế này cũng rất rõ nét.

Theo các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học bang Georgia (Mỹ), những năm 1950, tại đây trung bình một lớp học sẽ có ít nhất 1 bé trai tên là James (tên phổ biến nhất trong giai đoạn này). Còn ước tính đến năm 2013, trong 6 lớp học mới tìm được 1 học sinh tên Jacob, cho dù đây là một trong những tên phổ biến nhất trong năm 2007 ở Mỹ dành cho con trai.

Về hiện tượng trên, nhà nghiên cứu Jean Twenge của trường Đại học San Diego (Mỹ) chia sẻ trên trang tin Live Science rằng: Lời giải thích hợp lý nhất cho hiện tượng phổ biến này là sự thay đổi suy nghĩ, sự kỳ vọng của các bậc cha mẹ trẻ về vai trò của con cái ngày càng nhiều hơn. Giờ đây, nhiều người muốn con mình phải thật đặc biệt, phải duy nhất và khác hẳn với bạn bè cùng trang lứa. Tuy nhiên, không ít người cũng tỏ ra quan ngại rằng những kỳ vọng trong cách đặt tên này có thể là bước khởi đầu, là gánh nặng của chủ nghĩa cá nhân thời hiện đại mà các bậc cha mẹ trẻ đã vô tình đặt lên cuộc đời con trẻ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho con: Vô tình hay kỳ vọng –

Hiện tại bạn mong muốn có cuộc sống như thế nào

Điều bạn mong muốn hơn cả tại thời điểm này là tiền đầy túi, tình đầy tim... hay như thế nào vậy?
Hiện tại bạn mong muốn có cuộc sống như thế nào

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quy tắc bói bài: 

1. Nhắm mắt, giữ trạng thái tĩnh trong 30 giây.

2. Tự hỏi thầm bản thân "Hiện tại mình mong muốn có một cuộc sống như thế nào".

3. Chọn một lá bài theo trực giác và click vào hình xem đáp án.

hien-tai-ban-mong-muon-co-cuoc-song-nhu-the-nao hien-tai-ban-mong-muon-co-cuoc-song-nhu-the-nao-1 hien-tai-ban-mong-muon-co-cuoc-song-nhu-the-nao-2 hien-tai-ban-mong-muon-co-cuoc-song-nhu-the-nao-3

Maruko (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiện tại bạn mong muốn có cuộc sống như thế nào

Xem bói, tướng tay của người có quý nhân phù trợ

Quý nhân phù trợ là người luôn hỗ trợ mình trong cuộc sống, lòng bàn tay như thế nào sẽ có quý nhân phù trợ, các đặc điểm về đường vận mệnh và đường trí tuế sẽ nói rõ
Xem bói, tướng tay của người có quý nhân phù trợ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người có quý nhân phù trợ thì tướng tay sẽ thể hiện như thế nào. Nếu như trong cuộc sống hiện thực ngày nay nếu bạn có quý nhân giúp đỡ thi nhất  định bạn phải cố gắng nắm giữ lấy cơ hội đó. Tạm thời chưa có quý nhân phù trợ thì cũng không nên nóng vội, xem bói chỉ tay bạn sẽ biết các đường chỉ tay đã ghi lại một cách chi tiết lúc nào bạn và quý nhân sẽ tương ngộ.

tuong-tay-quy-nhan-phu-tro

- Đường Vận mệnh xuất phát từ phía trong đường Sinh mệnh và kéo dài lẽn phía trên:

Xem chỉ tay mà bàn tay có Đường Vận mệnh xuất phát từ phía trong đường Sinh mệnh và kéo dài lẽn phía trên thì Đường Vận mệnh này ngoài báo hiệu hạn sẽ nhận được sự phù trợ giúp đỡ của cha mẹ và người thân ra, còn báo hiệu bạn sẽ được sự giúp đỡ lớn mạnh từ người đi trước hoặc cấp trên.

- Đường Vận mệnh có đường phụ trợ:

Xem chỉ tay mà đường vận mệnh có đường phụ trợ, điều này cho thấy được sự giúp đỡ của mọi người trong nhà, vợ (chồng) hoặc đồng nghiệp.

- Trên đường Trí tuệ có ký hiệu hình cá:

Đường Trí tuệ có ký hiệu hình cá , mặc dù là đường chỉ mảnh tương đối nhiều, nhưng có một đoạn trông giống như hình đuôi cá. Điều đó báo hiệu đây là người có tài hoa, được mọi người công nhận, là người nỗ lực và đạt được thành quả. Ngoài ra, nếu như gặp được quý nhân, năng lực của họ còn có thể nhận được những đánh giá khá cao.

- Có vòng la môn:

Nếu lòng bàn tay mà có vòng la môn, kiểu người này còn có khả năng hóa nguy thành an, đối với những người xấu họ cũng có thể giao lưu chân thành và giúp đỡ nhiệt tinh. Họ có thể nắm được cơ hội, nắm giữ tài vận tốt, lúc khó khăn tất có quý nhân phù trợ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói, tướng tay của người có quý nhân phù trợ
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd