Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Tết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng giống như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc.
Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.

Chơi bài chòi ngày Tết

Cái tên “chòi” xuất phát từ hình thức chơi: Những người chơi bài ngồi trong 8 hay 10 cái chòi chia thành hai hàng đối nhau, ở một đầu và giữa hai hàng chòi là chòi hiệu. Trước mỗi chòi có treo mõ, một chiếc mành trúc và một đôi câu đối. Người ở chòi hiệu rút các quân bài ở ống bài ra, cứ mỗi quân bài lại hát một câu “thai” để mọi người ở các chòi đoán xem đó là con bài gì, cũng có khi người hiệu giảng luôn kiểu như rao bài ở tổ tôm điếm. Dưới đây là một số câu “thai”:

                        Một hai họ nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
                                                            (Con bài Tứ cẳng)

                        Ta bưng một đĩa mắm lầm
                        Vừa đi vừa hát té ầm xuống sông.
                                                            (Con bài Ông ầm)

                        Ngồi kề vực thẳm anh câu
                        Xẩy chân tụt xuống vực sâu cái ầm.
                                                            (Con bài Ông ầm)

                        Lòng thương chị bán thịt heo
                        Hai vai gánh nặng còn đèo móc câu.
                                                            (Con Móc câu)

                        Đi đâu ôm cháp đi hoài
                        Cử nhân không thấy tú tài cũng không.
                                                            (Con Học trò)
                        Tay bưng đĩa muối bát rau
                        Anh chấm em chấm cho mau kẻo hết dần.
                                                            (Con Nhà nghèo)
                        Ai đi ngoài ngõ ào ào
                        Nghe như ông tượng đạp vào, ông vô.
                                                            (Con Tứ tượng)
Câu hô bài có tiếng đệm và lời giải như:

                        Hượi mà hưới hượi
                        Một hai bận nói rằng không
                        Dấu chân ai đứng bờ sông hai người?
                        Hai người thì có bốn chân
                        Đó là tứ cẳng bớ nàng, bớ anh!

Sau khi người hiệu có con bài hò thơ như vậy, chòi nào có con bài ứng vào với câu hò sẽ gõ 3 tiếng mõ và được trao 1 lá cờ nhỏ, khi trúng 3 lần câu hò ở chòi hiệu sẽ được trao lá cờ lớn hơn. Có khi người chòi nào đó hò câu thai và người chòi nào ứng được thì gõ mõ và đưa bài ra. Khi hò câu thai có đàn phách hòa theo.

Người thắng bài gọi là “ù” hay “tới”, mỗi ván bài có người tới là trống kẻng khua vang rồi đốt pháo thổi kèn, người hiệu mang khay phần thưởng đến chòi người tới và cắm 1 lá cờ đuôi nheo bằng giấy hồng trước chòi.

Bài chòi có 36 con bài gọi là bài trường vẽ theo lối tượng hình như con Tứ cẳng vẽ bốn chân, Tứ móc vẽ 4 móc, Tứ tượng vẽ 4 voi...

Hát bài chòi xưa thường tổ chức vào đình đám hội làng và dịp Tết. Bài chòi về sau không bó hẹp trong địa phương, những người hát bài chòi đi đến các nơi đông người như phố phường, chợ, bến xe... đến các hội làng, khao vọng. Người hát có thể hát các câu lẻ gọi là “bài chòi rời” hoặc hát các tích như Lục Vân Tiên, Thoại Khanh - Châu Tuấn, gọi là “bài chòi pho” hay “bài chòi vở”.
                       

Theo Tapchisonghuong


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chơi bài chòi ở miền Trung vào dịp Tết

Cây khô gần nhà dẫn đến lụi bại –

Theo phong thủy, những loại cây khô héo, rụng dễ mang lại cảm giác về sự kết thúc, âm thịnh dương suy, thiếu sức sống, ảnh hưởng xấu tới tinh thần, nhất là người cao tuổi trong nhà. Phong thủy có nhiều cấm kỵ với cảnh quan bên ngoài, cây xanh trước c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, những loại cây khô héo, rụng dễ mang lại cảm giác về sự kết thúc, âm thịnh dương suy, thiếu sức sống, ảnh hưởng xấu tới tinh thần, nhất là người cao tuổi trong nhà.

Phong thủy có nhiều cấm kỵ với cảnh quan bên ngoài, cây xanh trước cửa nhà đã là một trong những cảnh quan xấu. Hai bên nhà có cây, nếu là loại cây dễ rụng lá và cây nhiều cành khô thì càng không nên.

Sự khô héo, chết chóc của cây cối… tạo nên trường khí xấu. Loại cây có lá dễ rụng cho chúng ta cảm giác về sự yếu đuối, không bền lâu. Cành khô tạo liên tưởng đến sự kết thúc sự sống của sinh mệnh. Màu vàng của lá tuy đem lại cho con người cảm giác về sự huy hoàng nhưng mặt khác nó lại đánh dấu sự kết thúc sinh mệnh, dương khí suy.

cay-kho

Cây lớn và khô héo không tốt cho trường khí xung quanh nhà. Điều này đặc biệt xấu nếu cây đó lại ở ngay trước cửa nhà bạn. Ngay cả hình ảnh bụi cây khô nhỏ cũng cần được loại trừ.

Cây cổ thụ với các cành khô ở giữa không gian hoang vu, u ám khiến cho bầu không khí thêm lạnh lẽo, tiêu điều. Trường khí của nó cũng là trường khí xấu.

Ngày này, có rất nhiều người sử dụng những tượng điêu khắc trên gốc cây để bày trong nhà, nhìn từ góc độ trường khí, do là cây khô nên nó có hàm ý chết chóc. Đặc biệt, với chủ nhân đã cao tuổi thì điều đó càng không mang ý nghĩa tốt lành.

Ngoài ra cây khô cũng gây ra sự cô độc, buồn khổ, khiến người trong nhà lận đận tình duyên, làm ăn cũng không tốt.

Bạn nên loại trừ những cảnh tượng có tính kết thúc, liên quan đến sự suy bại để tránh bầu không khí trầm uất, thiếu sự sống ảnh hưởng xấu đến trạng thái tinh thần của con người, nhất là đối với người già.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cây khô gần nhà dẫn đến lụi bại –

CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Phong thủy cùng vì một mục đích, đó là thực tiễn quá trình thiết kế, xây dựng, bày trí không gian kiến trúc, nhà cửa. Thế nhưng trong quá trình phát triển, mỗi một nhà phong thủy nghiên cứu ở một bình diện, khía cạnh khác nhau, cho nên bộ môn này đa dạng về các học thuyết và trường phái. Sau khi nghiên cứu, người ta tổng hợp thống kê lại, gồm có các học thuyết lớn sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Trong quá trình hình thành và phát triển, phong thủy phân hóa thành nhiều học thuyết, nhiều trường phái khác nhau. Tất cả các phái đều có những tinh hoa và hạn chế riêng. Với phạm vi một bài viết, tôi không có tham vọng đi sâu về nội dung các thuyết, chỉ có thể giới thiệu sơ lược về các trường phái phong thủy hiện hành mà thôi.

Các học thuyết phong thủy

    Phong thủy Bát trạch Phái này được Phong thủy sư Thái Kim Oanh, xâu chuỗi, hệ thống hóa, khái quái hóa trong tác phẩm “Bát trạch minh cảnh”.  Phái này có nguồn gốc từ thuyết âm dương ngũ hành, từ Thái cực phân chia thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái. Dựa vào năm sinh của gia chủ, xác định phân chia mệnh chủ thành  Đông tứ ( Khảm – Bắc, Ly – Nam, Chấn – Đông, Tốn -  Đông Nam), Tây tứ ( Đoài – Tây, Khôn – Tây Nam, Càn – Tây Bắc, Cấn – Đông Bắc). Từ mệnh cung xét các quan hệ với các phương vị khác tạo ra bốn hướng tốt Sinh khí, Thiên y, Phục vị, Phúc đức. Và lâm phải bốn hướng xấu Tuyệt mệnh, Họa hại, Ngũ quỷ, Lục sát.

    Phái này có một hạn chế là không tính đến sự hài hòa của môi trường xung quanh. Không xét đến vận khí của thiên thời biến đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn…

    Dương trạch tam yếu: Tương truyền phái này do Triệu Cửu Phong đời Tống sáng lập. Phái này xét ba bình diện cơ bản của nhà ở. Bao gồm : Môn (là hướng của chính, cổng chính khi vào nhà), Táo (là nhà bếp), Chủ (là phòng ở của chủ gia đình)

 Phân ra Tịnh trạch, Động trạch, Hóa trạch, Biến trạch

 Nhưng khi vận dụng vào thực tiễn, có những căn nhà thiết kế chuẩn mực ba yếu tố trọng yếu kia, nhưng vẫn không gặp may mắn như mong đợi.

   Phái cảm xạ: Được khởi xướng bởi các nhà ngoại cảm, thông linh. Những người lựa chọn đất làm nhà, táng mộ theo thuyết này đều là các nhà ngoại cảm, theo Mật tông, khoa học nhân điện. Mục đích chính là tìm ra các vùng có tầm số năng lượng cao thấp mạnh yếu, để an định cửa nhà hoặc táng mộ. Dụng cụ họ sử dụng thường là đũa từ, con lắc, quả cầu năng lượng, hoặc dùng chính huyệt luân xa của mình để cảm nhận.

Phái này ít người học tập và tu luyện thành công

   Phái Huyền không: Dựa vào Tam nguyên, cửu vận, lập ra hệ thống tinh bàn. Để dự đoán cát hung, suy vượng của căn nhà theo từng thời kỳ, từng giai đoạn.

Nội dung phương pháp của trường phái này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho căn hộ. Qua phần sơ lược về các trường phái nêu trên thì chúng ta đều nhận thấy: Đối tượng để nghiên cứu của các trường phái đều giống nhau (tức là con người với môi trường, điều kiện và hoàn cảnh sống của họ); nhưng lại được xem xét dưới các góc độ khác nhau mà chưa bao quát toàn bộ vấn đề cần nghiên cứu. Khái niệm thời gian và không gian và đối tượng nghiên cứu được mỗi trường phái xem xét và nâng tầm quan trọng dưới nhiều tiêu chí khác nhau.

    Phái Loan đầu: Do Dương Tùng Quân sáng lập. Phái này căn cứ xem xét ảnh hưởng của môi trường xung quanh, bao gồm, đặc điểm địa hình, sông ngòi, núi non, đường sá, và các công trình khác đối với nhà ở.

Nhà ở khi thiết kế xây dựng phải hài hòa với môi trường tự nhiên, để tránh thiên tai, địch họa, đảm bảo an toàn về sức khỏe, và gặp nhiều may mắn thuận lợi trong làm ăn.

Nhà ở phải tọa sơn, hướng thủy. Nhất vị, nhì hướng. Tức là dựa lưng vào chỗ cao, có thế tọa vững chắc, hướng nhìn rộng rãi, thoáng đãng, phong tầm mắt ra vô tận, thì mới đón được cát khí, vượng khí, tiền đồ mới rộng mở.

    Phái Tứ trụ : Phái này dựa vào năm yếu tố của cá nhân gồm có giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh và giới tính lập nên lá số Tứ trụ. Phân tích lá số tứ trụ sẽ thấy rõ được các yếu tố sinh vượng, mạnh yếu, khiếm khuyết về ngũ hành của mệnh cục. Biết được điều này sẽ chọ được dụng thần, bổ khuyết, điều hòa làm cân bằng hệ thống ngũ hành trong mệnh. Khi đạt tới sự cân bằng,(không bất cập, hoặc thái quá, không quá vượng, quá suy) thì cuộc sống con người sẽ đầy đủ, ấm no, về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.

Môn dự đoán này do Trần Đoàn tiên sinh đời Tống sáng lập, Trần Đoàn truyền lại cho học trò là Thiệu Khang Tiết.  Nhà thơ Tản Đà nước ta cũng rất tinh thông môn dự đoán này. Gần đầy, Thiệu Vĩ Hoa (cháu của Thiệu Khang Tiết), Lý Cư Minh, nghiên cứu kỹ lưỡng môn dự đoán này, áp dụng cải vận thành công cho nhiều người. Hai nhà đẩu số này có biên soạn nhiều tài liệu để lại.

Áp dụng vào cuộc sống cá nhân, khi nắm được dụng thần, con người ta có thể đi về phương hướng có lợi, lựa chọn ngành nghề phù hợp, chọn tên, đặt bút danh, biệt hiệu, dùng trang phục, vật phẩm phong thủy là dụng thần của mình. Đối với phong thủy, việc lựa chọn hướng nhà theo hướng dụng thần, trồng thêm cây cối và tăng thêm đồ gỗ đối với người dụng thần là Mộc, đặt bể phong thủy, làm bể bơi, hồ bán nguyệt đối với người dụng thần là Thủy…

    Học thuật mênh mông vô bờ bến, những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ nhoi, giữa đại dương mênh mông. Nhưng khi chúng ta quyết tâm. Không gì là không thể. Việc lựa chọn đất, thiết kế, xây dựng phải được tính toán một cách chi tiết, tỷ mỷ, vận dụng nhuần nhuyễn, các nguyên tắc cơ bản của phong thủy. Tục ngữ có câu “An cư, lạc nghiệp”. Có được căn nhà hợp phong thủy, vận mệnh của bạn sẽ không ngừng hanh thông, thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Sắp xếp đại vận chia ra làm năm dương, năm âm : - Người năm dương là : Giáp, bính, mậu, canh, nhâm. - Người năm âm là : ất, đinh, kỉ, tân, quý. Nam sinh năm dương, nữ sinh năm âm là hành vận thuận. Nam sinh năm âm, nữ sinh năm dương là hành vận nghịch. Cách sắp xếp cụ thể về vận trình lấy can chi tháng sinh là chuẩn gốc để sắp thuận hay sắp ngược.
Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1-      CÁCH SẮP XẾP CỦA NAM SINH NĂM DƯƠNG

Bước thứ nhất. Đầu tiên lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ .

Ví dụ .

Nam sinh

                        Tháng 4                       Ngày 16                      Giờ thìn

Năm 1990

Quan               Sát                               Nhật nguyên               Quan  

Canh ngọ         Tân tị                           Ất hợi                          Canh thìn

Đinh kỉ            Bính mậu canh            Nhâm giáp                   Ất mậu quý

Thực tài           Thương tài quan          An kiếp                       Tỉ tài kiêu

Bước thứ hai. Tính số đại vận.

Căn cứ nguyên tắc nam sinh năm dương lấy chiều thuận tức tính từ ngày sinh đến tiết lệnh sau đó xem có tất cả bao nhiêu ngày, rồi chia cho 3, số kết quả là số của đại vận .

Trong ví dụ trên đếm từ ngày 16 tháng 4 đến giờ thìn ngày 13 tháng 5 có tất cả 27 ngày. Lấy 27 chia 3 được 9 tức người con trai đó 9 tuổi lấy đại vận .

Bước thứ ba.  Sắp xếp vận trình cho cả cuộc đời.

Căn cứ nguyên tắc con trai sinh năm dương lấy chiều thuận tức bắt đầu xếp từ can chi của tháng sau, xếp theo chiều thuận, nói chung xếp theo vận 8 bước. Tháng sinh là tân tị, can chi sau tân tị là nhâm ngọ nên 9 tuổi lấy vận là nhâm ngọ.

An           Kiêu            Kiếp             Tỉ       Thương           Thực         Tài           Tài

Nhâm     Quý             Giáp             Ất         Bính             Đinh        Mậu         Kỉ

Ngọ         mùi                thân              dậu       tuất              hợi           tí             sửu

   9              19               29                 39           49                 59            69           79


Đinh, kỷ

At, kỉ,

Đinh

Mậu,canh

Nhâm

Tân

Mậu,tân

Đinh

Nhâm giáp

Quý

Quý, tân

Kỉ

Thực, tài

Tỉ, tài,

An

Tài, quan,

ấn

Sát

Tài, sát,

Thực

An, kiếp

Kiêu

Kiêu,sát,

tài


Bước thứ tư. Phối với lục thân.

Sau khi xếp xong đại vận , căn cứ lục thân của Tứ trụ , lấy can làm chuẩn, ghi ra lục thân của can từng 10 năm vận và lục thân của thiên can  ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân của thiên can ẩn trong địa chi. Lục thân của nó vẫn giống như lục thân trong Tứ trụ  tức ngày can âm gặp vận can dương là chính ( tức là ngay ) ngày can âm gặp vận can âm là thiên ( tức là lệch ). Sau đó có thể căn cứ tổ hợp sắp xếp trong Tứ trụ và kết hợp với thiên can địa chi của từng đại vận mà dự đoán cát hung.

 1.      CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM DƯƠNG

 Bước thứ nhất.  Lập giờ sinh và sắp xếp Tứ trụ . Ví dụ :

Nữ sinh

Năm 1990

Quan




Tháng 4

Sát



Ngày 16

Nhật nguyên


Giờ thìn

Quan


 Canh ngọ

Đinh kỉ

Thực tài

Tân tị

Bính mậu canh

Thương tài quan

At hợi

Nhâm giáp

An kiếp

Canh thìn

At mậu quý

Tỉ tài kiêu

 Bước thứ hai.  Tính số đại vận .

            Căn cứ nguyên tắc năm dương sinh nữ tính chiều ngược , tức bắt đầu tính từ ngày sinh đếm ngược đến tiết lệnh phía trước, xem tất cả bao nhiêu ngày, sau đó chia cho 3, kết quả phép chia là số của đại vận 

            Ở ví dụ trên từ ngày 16 tháng 4 đếm ngược đến 12 tháng 4 ( giờ sửu lập hạ ), tất cả có 4 ngày, chia 3 được 1, thừa 1 ngày bỏ qua không tính. Người con gái này một tuổi đã lập vận.

Bước thứ ba.  Sắp xếp vận trình cả cuộc đời.

Năm dương sinh nữ thì xếp ngược, tức là bắt đầu xếp từ can chi củ tháng trước tháng sinh, cứ thế đi ngược mà xếp. Em gái đó tháng sinh là tân tị, can chi phía trên tân tị là canh thìn, nên một tuổi vận là canh thìn.


Quan

Tài

Tài

Thực

Thương

Tỉ

Kiếp

Kiêu


Canh

thìn


Kỉ

mão


Mậu

dần


Đinh

sửu


Bính


At 

hợi


Giáp

tuất


Quý

Dậu

1

11

21

31

41

51

61

71


At mậu quý ất

Tỉ tài kiêu tỉ


Giáp bính mậu

Kiếp thương tài


Quý tân kỉ quý

Kiêu sát tài kiêu


Nhâm giáp

An kiếp


Tân đinh mậu tân

Thực tài sát sát


Bước thứ tư.  Phối hợp với lục thân.

Xếp xong đại vận, căn cứ lục thân trong Tứ trụ ghi ra lục thân trong vận và lục thân của thiên can ẩn trong địa chi, sau đó căn cứ tổ hợp sắp xếp của Tứ trụ kết hợp với can chi của từng đại vận để đoán cát hung.

2.      CÁCH SẮP XẾP CỦA NỮ SINH NĂM ÂM

 Nữ sinh năm âm thì theo ngày sinh đếm xuống đến tiết lệnh dưới, xem có tất cả bao nhiêu ngày, chia cho 3, được số của đại vận . Ví dụ.

Nữ sinh năm 1991, tháng 12, ngày 2, giờ thìn, Giờ tị ngày 2 tháng tháng 12 năm 1991 là tiết lệnh tiểu hàn, chỉ cách một giờ. Theo cách tính cổ, một giờ này vẫn quy đổi thành một ngày, rồi thêm vào hai ngày để chia cho 3 được đại vận từ 1 tuổi. Tăng lên thành ba ngày để tính một tuổi như thế tức là đã kém mất 35 giờ, như thế lấy số của đại vận sai số lớn quá. Thực tế thì nên lấy 1 giờ tính thành 10 ngày tức cô gái này sau khi sinh được 10 ngày đã lấy đại vận, tức tính đại vận một tuổi từ giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 1991, đến giờ tị ngày 12 tháng 12 năm 2001 bắt đầu hành vận 11 tuổi.

Trên đây là cách lấy đại vận của nam sinh năm dương, nữ sinh năm dương, nữ sinh năm âm. Cách lấy đại vận của nam sinh năm âm giống như cách lấy cho nữ sinh năm dương nên không giải thích nữa.

Trong tính toán dùng số ngày chia cho 3, nếu thừa 1 ngày thì bỏ đi, thiếu 1 ngày thì thêm vào cho chẵn. Ví dụ 23 ngày chia  3, thiếu 1 ngày đầy 8 lần nên thêm một ngày cho đủ 24 ngày, chia được 8, tức 8 tuổi bắt đầu tính đại vận .

Lại ví dụ nếu giờ sinh vào trước hay sau giao tiết lệnh mấy giờ, nếu người tính thuận thì không đủ một ngày hoặc chỉ có một ngày, trong trường hợp đặc biệt đó có thể thêm vào hai ngày cộng thành 3 ngày, sau đó chia 3 được 1, tức 1 tuổi bắt đầu tính đại vận. Đối với các trường hợp khác không được thêm vào hai ngày.

Số ngày chia cho 3 tức là cứ 3 ngày được tính thành 1 tuổi. Số ngày tính đại vận nói chung là tính số ngày trọn đủ giờ. Ở ví dụ 1 trên đây chính là lấy số ngày đủ giờ để tính.

Trong ví dụ 1 là 9 tuổi bắt đầu tính vận tức từ giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 1999 bắt đầu vận 9 tuổi, đến giờ thìn ngày 16 tháng 4 năm 2009 chuyển sang vận 19 tuổi.

Tính đại vận cũng lấy tròn tuổi làm chuẩn. Ngoài ra còn có cách tính chính xác hơn. Như ví dụ 2 từ giờ sinh là thìn đến giao tiết lệnh thực tế là 4 ngày ba giờ, nhưng tính theo 3 ngày là 1 ngày, như vậy 3 giờ là 30 ngày vừa đúng 1 tháng. nên ví dụ 2 chính xác hơn là 1 tuổi 5 tháng bắt đầu đại vận, tức bắt đầu từ giờ thìn ngày 16 tháng 9 năm 1991 bắt đầu tính vận quan.

Còn có cách tính vận lấy ba ngày quy đổi thành 1 tuổi, 5 ngày là 1 tuổi thừa 2 ngày tức 1 tuổi 8 tháng thì bắt đầu đại vận. Như nữ sinh giờ tị ngày 27 tháng 11 năm 1991 thuận đếm đến tiết tiểu hàn tức giờ tị ngày 2 tháng 12, cộng đủ 5 ngày, chia cho 3 còn thừa 2 ngày, hai ngày quy đổi thành 8 tháng tức 1 tuổi 8 tháng bắt đầu đại vận , đó là ngày 2 tháng 8 năm 1992 vậy.

Lược trích "Dự đoán theo Tứ Trụ" của Thiệu Vĩ Hoa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lấy Đại vận trong Tứ Trụ

Cách hóa giải cho nhà tắm lầm hướng xấu

Việc bài trí phong thủy nhà tắm rất quan trọng vì nó có liên quan mật thiết đến sức khỏe của những người sống trong nhà. Dưới đây là những kiểu bài trí nhà tắm theo phong thủy nên tránh và cách hóa giải.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nếu đặt nhà tắm tại phía Bắc trong nhà, hoặc phía Đông Bắc được gọi là Hậu quỷ môn thì có thể mang lại hậu quả xấu. Nếu gặp kiểu phong thuỷ nhà ở này thì gia chủ có thể mắc bệnh xơ vữa động mạch, xơ gan, sỏi mật, tiêu chảy, loét dạ dày, táo bón, ngộ độc thực phẩm, khí huyết không dồi dào,... đặc biệt có ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ của người già.


Trong phong thuỷ nhà ở, để nhà tắm không mang lại tướng hung, tốt nhất hãy đặt nó ở phía Tây Bắc, Đông Nam hoặc phía Đông (nhìn từ trung tâm của ngôi nhà). Đồng thời, phải tránh đặt tại phương vị tương xung với năm sinh của gia chủ (ví dụ như người sinh năm Mão, phải tránh đặt ở phía Đông). Có thể thấy, việc thiết kế vị trí nhà tắm quả thực không phải là chuyện đơn giản.


2. Nhà ở hiện nay thường thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc phía Đông Bắc là những nơi mà ánh mặt trời không thể chiếu vào. Hay nói một cách khác, phòng bếp, phòng khách đặt ở phía Đông Nam hoặc Tây Nam, còn nhà tắm đặt ở phía Bắc. Những người hay than phiền rằng sức khoẻ không tốt phải chăng có liên quan đến phong thuỷ nhà ở không tốt, qua điều tra được biết khoảng tới một nửa trong số họ là do thiết kế nhà tắm ở phía Bắc hoặc Đông Bắc.


Nếu nhà tắm đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì phải chuyển ngay sang vị trí khác. Khi nói đến việc cải tạo hoặc di chuyển vị trí nhà tắm thì rất nhiều người đều nói rằng "không có không gian nên rất khó làm được". Sự thực thì không gian của nhà tắm là rất nhỏ, chỉ cần thực lòng muốn cải tạo hoặc di chuyển vị trí thì chắc là không gặp nhiều khó khăn, khi làm bạn sẽ cảm thấy đơn giản hơn nhiều so với những gì đã tưởng tượng. 


Chỉ cần tránh khỏi vị trí trung tâm 15 độ ở phía Bắc (phạm vi của Tý). Về phía Đông Bắc thì chỉ cần tránh 10 độ phía Đông Bắc (phạm vi của Sửu) và 10 độ trung tâm phía Đông Bắc (phạm vi của Cấn) là được. Nếu như nhà vệ sinh đặt ở phía Bắc hoặc Đông Bắc thì chỉ cần vị trí của bệt xí lệch đi do với các phương vị 15 độ này là được. Nếu bệt xí đặt trong phạm vi này thì chỉ cần di chuyển bệt xí chứ không cần cải tạo lại cả nhà tắm.


Nếu bức tường cạnh nhà tắm là tường của phòng bếp hoặc nhà kho thì tương đối ổn. Khi cải tạo thì chỉ cần hoán đổi vị trí là được.
Chỉ cần cơ thể khoẻ mạnh thì có thể yên tâm làm việc, chẳng mấy chốc sẽ ăn nên làm gia, đương nhiên có thể thiết kế cho mình một ngôi nhà có phong thuỷ rất tốt. Do đó, để luôn khoẻ mạnh thì cải tạo vẫn là điều kiện tiên quyết. Như vậy sẽ tốt hơn cho bệnh tình của gia chủ hoặc người già.



Do cách thiết kế của mỗi kiểu kiến trúc nhà ở đều khác nhau, có khi ngôi nhà rất đơn giản nhưng cơ bản lại không thể di chuyển nhà tắm. Lúc này hãy làm theo cách trên, đó là thay đổi vị trí của bệt xí.


Nếu di chuyển bệt xí thì nên mở cửa sổ trong nhà tắm, hàng ngày để một đĩa muối ăn ở đó rồi đặt một chậu cây nhỏ, thông qua năng lượng xanh của cây cảnh và muối ăn để hóa giải tướng hung của nhà tắm.


3. Ngoài phía Bắc và Đông Bắc thì nhà tắm ở phía Tây Nam cũng thuộc tướng hung. Nếu muốn di chuyển thì chỉ có thể từ phía tây di chuyển sang phía Tây Bắc.


Nhà tắm ở phía Tây cũng không tốt, tuy nhiên chỉ cần không có ai sinh năm Dậu, hoặc con gái đang trong thời gian chuẩn bị làm lễ cưới thì không cần phải lo lắng. Để yên tâm bạn có thể di chuyển bệt xí sang phía Tây Bắc, tức là phạm vi của Nhâm hoặc Quý.

Sưu tầm/Xzone/Tri thức thời đại


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải cho nhà tắm lầm hướng xấu

Chọn lựa thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? –

Mấy năm gần đây, mọi người tự chủ sáng nghiệp ngày càng nhiều, loại hình và địa điểm của thương phố ngày càng đa dạng hoá. Như vậy, người đầu tư phải lựa chọn thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? Thương phố siêu thị Siêu thị mô hình lớn
Chọn lựa thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mấy năm gần đây, mọi người tự chủ sáng nghiệp ngày càng nhiều, loại hình và địa điểm của thương phố ngày càng đa dạng hoá. Như vậy, người đầu tư phải lựa chọn thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân?

cong-vien-ha-noi-12

Thương phố siêu thị

Siêu thị mô hình lớn thường xây dựng bên khu dân sinh, nó có ưu thế tích tụ nhân khí. Các thương phô siêu thị mô hình lớn đa số là chia cát tách rời, các thương phố khá độc lập, kinh doanh linh hoạt, do đó nguy hiểm cũng khá thấp.

Chú ý: Các thương phố siêu thị dựa vào siêu thị mà sinh ra, cho nên sự kinh doanh tốt hay xấu của siêu thị trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình thắng lợi của thương phố siêu thị. Do vậy, lựa chọn các thương nhân kinh doanh siêu thị có thực lực hoặc siêu thị đã xây dựng được thương hiệu thì sẽ đạt được một nửa của sự thành công.

Thương phố xã khu

Thương phố xã khu là một trong loại hình thương phố có tiềm lực rất lớn. Thông thường, một xã khu mới chỉ cần định vị chuẩn xác, môi trường phát triển tốt, tùy theo sự thành thục của xã khu mà mang đến những giá trị thương phố cao.

Chú ý: Mở rộng kinh doanh thông qua việc tuyên truyền bao bì hạng mục, từ đó xúc tiến thành một thương phố xã khu giá cả tiêu thụ tốt, như vậy thương phố mới từng được giá trị không gian.

Thương phố phố thương nghiệp

“Kinh điển vượng phố” của phố thương nghiệp, không khí thương nghiệp ưu việt, lưu lượng khách hàng ổn định quyết định đến khả năng thu được lợi nhuận khá cao của loại hình thương phố này.Nhưng tiền thuê hoặc giá cả đơn vị diện tích cũng sẽ cao, trong các thành phố thương nghiệp khá phát đạt thậm chí xuất hiện cục diện nghìn vàng cũng không có được.

Chú ý: Chuyên gia đầu tư thương phố cho rằng: Vị trí, khoáng dđất loại này tốt được gọi là “Kinh điển vượng phố”, giá cả của những khu vực này cũng khá cao. Nêu như nhà đầu tư không để ý thì sẽ dễ gặp nguy hiểm lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn lựa thương phố như thế nào để thích hợp với bản thân? –

Arnold Schwarzenegger

Tử Vi: yếu tố Phúc Đức giúp Arnold thắng cử. Bói Dịch - Đại Thắng 7-10 của Arnold Schwarzenegger
Arnold Schwarzenegger

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

TỬ VI - BÓI DỊCH Arnold Schwarzenegger
(bài viết của Đằng Sơn)

Họ tên: Arnold Schwarzenegger
Ngày sinh: 07/30/1947 (Jul 30, 1947)
Giờ sinh: 04:10 (04:10 AM) MEDT(-1:00)
Nơi sinh: Graz, Austria

TỬ VI: YẾU TỐ PHÚC ĐỨC GIÚP
ARNOLD THẮNG CỬ THỐNG ĐỐC


      Tân thống đốc California: Arnold Schwarzenegger!
      Trong bài trước "người của thời điểm Arnold Schwarzenegger" đọan cuối nguyên văn như sau:

      "Ông Arnold hiện ở trong đại hạn 52-61, vào cung Sửu ở vị Tang Môn xung Thái Tuế là bất lợi, chính tinh thủ đại hạn là Thiên Tướng yếu đuối may được phù tá hết sức mạnh mẽ nhờ tam hợp với cả hai cặp tả Hữu Xương Khúc. Cung Mùi đại diện đối thủ của ông thì hung hãn lắm vì có Tử Phá Long Phượng Hổ Cái Kình Hổ; nhưng Tử Vi thiếu Tả Hữu; Phá Quân cũng chẳng được Không Kiếp tiếp sức; nên rất có thể chỉ là một lọai cọp giấy mà thôi.

      "Xét tiểu hạn của ông Arnold ta thấy Thiên Phủ gặp Đại Tiểu Hao; lẽ thường xấu lắm; nhưng Đại Tiểu Hao này đắc địa, ông Arnold lại tự bỏ 12 triệu Mỹ Kim tiền túi ra tranh cử là đã ứng rồi; nhờ đó hai cặp Tả Hữu Xương Khúc có cơ hội phát huy tốt đẹp.

      Tóm lại, đây chỉ là cảnh tốt xấu lẫn lộn, sai một ly đi một dặm, khiến phúc đức trở thành yếu tố quyết định. Mệnh Arnold có Không Kiếp hội họp, nô bộc lại có Thiên Phúc đóng nên ông phải làm nhiều việc thiện mới đúng số trời..."

      Nay bầu cử đã xong, không còn sợ lộ thiên cơ nữa, chúng ta có thể bình thản nhìn lại xem chiến thắng vĩ đại của tân thống đốc California Arnold trong kỳ bầu cử đặc biệt ngày 7 tháng 10 vừa qua xem có dính líu gì đến số mệnh, đặc biệt là cung nô bộc của ông hay không.

Binh Hình Tướng Ấn tham vọng cao vời.

      Trước hết, có vài điểm mà người viết không dám đề ra trong số trước vì sợ phạm tội "lộ thiên cơ" là cung phúc đức (cũng là cung thân) của ông Arnold vô chính diệu có Hỏa Tinh độc thủ, hợp có hai Kỵ (hóa Kỵ của Cự Môn và tự Kỵ của Thái Dương), thêm Hóa Quyền xung chiếu nên hiển nhiên là người có tham vọng lớn. Thêm phúc (tức cung thân) và tài đều có Binh Hình Tứơng Ấn, rất hợp cho việc nắm quyền hành chánh.
      Quan lộc ở Tuất thì có Thái Âm miếu thủ, xung chiếu là Thái dương miếu chính là cảnh Nhật Nguyệt tịnh minh; lại hội đủ tứ hóa (Lộc và tự Khoa ở quan, Quyền ở tài, tự Quyền và Khoa ở mệnh, tự Kỵ ở thê). Đó là chưa kể cách Song Lộc (hóa Lộc ở quan, Lộc Tồn ở mệnh), hợp với Hình Tướng Ấn Hồng Hỉ, thật là tốt không thể nói.
Đặc biệt cung thê có Thái Dương tự Kỵ thay vì xấu lại là yếu tố cứu giải bất ngờ vì có Thanh Long cùng cung và Lưu Hà chiếu qua thành cách Thanh Long Lưu Hà Hóa Kỵ; ví như con rồng vẫy vùng ở sông lớn, có sá gì vài trở ngại nhỏ nhoi. Thảo nào khi lời buộc tội ông Arnold sách nhiễu phái nữ vừa lộ ra, bà Maria Shriver tức thì lên tiếng cứu giải cho chồng. Người ta bảo bà là "vũ khí bí mật" trong cuộc chạy đua đến dinh thống đốc của ông Arnold. Không có gì đáng ngạc nhiên là ông Arnold cám ơn vợ mình đầu tiên trong bài diễn văn chiến thắng đêm 7 tháng 10 vừa qua.
      Vẫn còn câu hỏi là có đến 10 ngàn người trên thế giới cùng lá số với ông Arnold, tại sao đời của riêng ông lại may mắn ngọai hạn thế?

Thiên Phúc cư nô, thiện tâm hữu phúc!

      Thứ năm ngày 2 tháng 10, chỉ vài ngày trước cuộc bầu cử đặc biệt, trong khi thanh thế của Arnold Schwarzenegger đang lên, bất ngờ báo Los Angeles Times tung ra tin là ông đã sách nhiễu 6 phụ nữ, kể cả sách nhiễu tình dục. Vài ngày sau danh sách này tăng lên thành 15 phụ nữ. Lại có tin là ông Arnold từng coi Hitler là thần tượng. Với người khác, những lời đồn này có thể là ngọn lửa hung tàn, đốt rụi mọi hi vọng thắng cử. Thứ hai ngày 6 tháng 10, nhiều cơ quan truyền thông tin rằng những lời đồn này giúp thống đốc Gray Davis có cơ hội sống còn (không bị cử tri truất phế), và nếu ông Arnold có thắng đi nữa thì tỉ lệ cũng sẽ rất nhỏ.

       Nhưng như kết quả ngày 7 tháng 10 vừa qua cho thấy, ông Arnold không những thắng, mà còn thắng với tỷ lệ áp đảo là 49% (so với người về nhì là phó thống đốc Cruz Bustamante 32%), và tổng số 3.74 triệu phiếu mà cử tri bầu cho ông vượt xa số phiếu đương kim thống đốc Gray Davis nhận được trong kỳ bầu cử năm 2002. Lạ lùng hơn nữa, ông được 43% cử tri phái nữ tín nhiệm; chứng tỏ là các bài báo buộc tội ông sách nhiễu phụ nữ chẳng những không hiệu quả, mà hình như còn tạo áp phê ngược.
      Đành rằng bà Maria Shriver có tài miệng lưỡi, giỏi biện hộ cho chồng, nhưng bấy nhiêu chưa đủ giải thích cái chiến thắng hết sức huy hòang của ông Arnold. Muốn tìm nguyên nhân xa hơn ta lại phải trở về lá số tử vi của ông. Bị tố cáo sách nhiễu tình dục tức là bị họa dính đến cung nô bộc, ứng với việc cung này có sao Thiên Phúc trấn giữ. Thiên Phúc ở đâu, phương đó có thử thách và phải hi sinh chịu thiệt thì cái tốt đẹp của lá số mới thể hiện ra được.

      Thật khó ngờ là một đại tài tử của các phim hung bạo như Arnold Schwarzenegger lại đã liên tục đóng góp rất nhiều cho xã hội trong các công tác từ thiện. Một thí dụ gần đây: Ông là người phát khởi và vận động đề nghị số 49 (proposition 49) đã được cử tri ở Cali thông qua trong kỳ bầu cử năm 2002. Đề nghị này tạo ngân quỹ tiểu bang cho các trường trung học đệ nhất cấp (middle school) để các học sinh có những sinh họat lành mạnh ý nghĩa sau giờ tan học thay vì kết bè tụ đảng.
       Một thành tích đáng kể khác của ông là chương trình khuyến khích học hỏi và thể thao nhắm vào các học sinh nghèo trong các khu lao động của các thành phố. Chương trình này cung cấp phương tiện học hỏi và các chương trình thể thao để các em tranh đua trong bầu không khí hợp tác và cảm thông, giảm thiểu xác xuất đi lầm vào con đường tội lỗi. Arnold tham gia từ năm 1991 với vai trò một ủy viên trung ương rồi đóng vai lãnh đạo vài năm sau đó. Dưới sự điều động của ông, chương trình này đã thóat khỏi phạm vi một thành phố và trải rộng khắp tòan quốc, hiện phục vụ khỏang 250 ngàn học sinh nghèo.

      Nhưng có lẽ cách hay nhất để ước lượng tầm đóng góp của Arnold Schwarzenegger vào các công tác từ thiện là liệt kê ra vài phần thưởng mà ông đã nhận được từ các tổ chức:
      - Năm 1991 và 1997 ông được trung tâm Do Thái Simon Wiesenthal tặng giải "Lãnh đạo tòan quốc" (National Leadership Award) cho các đóng góp của ông vào việc nghiên cứu các cuộc tàn sát người Do Thái dưới thời Đức Quốc Xã.
      - Năm 1997 ông nhận được giải "Người thiện nguyện của năm 19997" (Humanitarian of the Year) do ShoWest cấp.
      - Năm 2000 ông được giải "phục vụ tuổi trẻ của Cha Flanagan" (Father Flanagan Service to Youth Award) do hội Boys and Girls Town cấp, ghi nhận những đóng góp của ông trong các chương trình thể thao đặc biệt cho các trẻ em giới lao động.
      - Năm 2002 ông được giải "thiện nguyện Muhammad Ali" (Muhammad Ali Humanitarian Award).

      Ngòai ra ông được cấp ba bằng tiến sĩ danh dự, trong đó hai bằng có tên là "Humane Letters" ghi nhận những đóng góp từ thiện của ông, do trường đại học Wisconsin và đại học Chapman (California) cấp.

      Danh sách công dức của ông Arnold còn dài dằng dặc, nhưng bấy nhiêu đủ cho ta thấy rõ rằng ông đã sống rất đúng với đòi hỏi của sao Thiên Phúc ở nô bộc. Có thể ông đã sách nhiễu phụ nữ (vì đây cũng ứng với thử thách của sao Thiên Phúc ở nô), nhưng điểm quan trọng là vì "nhân vô thập tòan", tất cả mọi bài tóan của tử vi đều phải được giải bằng cách cân lường cái tốt và cái xấu. Hẳn nhiên cái tốt của ông Arnold đã trội vượt cái xấu (nếu có), nên có thể hiểu tại sao ông chiến thắng vẻ vang trong cảnh tranh tối tranh sáng của đại hạn 1997-2006 và tiểu hạn năm Quý Mùi rất yếu đuối này.

San Joe 10 tháng 10, 2003
Đằng Sơn

BÓI DỊCH: ĐẠI THẮNG 7-10 CỦA
ARNOLD SCHWARZENEGGER


      Bói dịch là một thể hiện của cái lý "cùng tắc biến" của dịch lý. Nhiều độc giả sẽ cho rằng bói dịch là nhảm nhí không đáng tin. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của người viết, khi gặp chuyện quan trọng mà chúng ta rất quan tâm, lại không thể dùng suy luận để đóan trước kết quả, thì nếu thành tâm gieo quẻ sẽ thấy hết sức ứng nghiệm. Người viết khám phá ra những điều sau đây về bói dịch, xin chia sẻ với quý độc giả:

      - Bói dịch chỉ linh nghiệm khi người gieo quẻ hết sức quan tâm đến việc muốn xem (bói chơi cho vui thường không linh nghiệm).
      - Muốn tăng phần linh nghiệm người gieo quẻ phải không tiết lộ những kết quả có thể ảnh hưởng đến người khác (thiên cơ bất khả lậu), và không gieo quẻ để trục lợi cho mình (tham lam bất ứng).
      - Khi bói dịch cho một cuộc tranh cử, người gieo quẻ phải biết là mình muốn đại diện người nào. Quẻ sẽ ứng với hòan cảnh của người đó.

Diễn trình các quẻ của tân thống đốc Arnold Schwarzenegger:
      Bây giờ cuộc bầu cử đặc biệt ngày 7 tháng 10 của tiểu bang California đã là quá khứ, đương kim thống đốc Davis bay chức, Schwarzenegger thắng to và sẽ là thống đốc mới của California; người viết không còn sợ "lộ thiên cơ" nữa nên xin trình bày một số quẻ đã gieo trong những ngày cuối cùng nóng bỏng của cuộc tranh cử không tiền khóang hậu này.
      Đêm chủ nhật 5 tháng 10 tình hình hết sức gay cấn. Nhiều cơ quan truyền thông cho rằng vì bị tố cáo sách nhiễu tình dục (Los Angeles Times, ngày 2 tháng 10), Arnold Schwarzenegger đã tuột dốc thảm hại trên bậc thang tín nhiệm của cử tri. Lúc 8:10 giờ tối, người viết gieo một quẻ dịch cho Arnold bằng phương pháp ba đồng tiền, kết quả là quẻ Thiên Trạch Lý (10 trong danh sách các quẻ), động hai hào 1 và 6 thành quẻ Trạch Thủy Khổn (47).
      Quẻ Thiên Trạch Lý ý nghĩa là "Giẫm nhầm đuôi cọp. Cọp không cắn người. Hanh thông " nên có thể đóan là ông Arnold trong hòan cảnh nguy hiểm, nhưng sẽ thóat nạn. Tuy nhiên, vì quẻ biến Trạch Thủy Khổn (47) là cảnh hết sức xấu xa cho kẻ tầm thường và là cơ hội cho kẻ phi thường; xem lại hai hào biến là 1 và 6 của quẻ Lý thì thấy 1 không xấu, 6 tốt; phải tạm đóan là tình hình chưa mấy rõ rệt.

      Sáng ngày thứ hai 6 tháng 10 tình hình càng nóng bỏng. Vài cơ quan truyền thông đặt câu hỏi trên mạng lưới "Arnold đang trượt té?". Người viết thắc mắc "Phải chăng ông Arnold quả thật đang tuột dốc thảm hại trên bậc thang tín nhiệm của cử tri?". Lúc 11 giờ gieo ra quẻ Lôi Địa Dự (16), không có hào nào biến.

      Ý nghĩa nguyên thủy của quẻ Dự là "lợi kiên hầu, hành quân". Đây là cảnh vui mừng, mặc dù ngắn hạn; và rất phù hợp cho chuyện tranh đấu, nên phải đóan là tình hình đã biến chuyển thuận lợi cho ông Arnold. Có lẽ đa số cử tri không mấy tin vào những lời tố cáo là ông đã sách nhiễu phụ nữ và khâm phục Hitler.

      Lúc 7 giờ đêm, sau khi nghe vài cơ sở truyền thông khăng khăng là vì xì căng đan của ông Arnold mà ông Gray Davis có cơ hội sống còn, người viết gieo một quẻ nữa cho ông Arnold, lại thấy là Thiên Trạch Lý, nhưng lần này không biến. Theo quẻ bèn đóan là ông Arnold vẫn trong hòan cảnh nguy hiểm, nhưng rồi sẽ được hanh thông (tức là ông Gray Davis khó sống còn).

      Lúc 10 giờ sáng ngày thứ ba 7 tháng 10, tức ngày bầu cử; người viết gieo được quẻ Lôi Hỏa Phong (55) động hào 1 và 5, thành quẻ Trạch Sơn Hàm (31). Quẻ Phong ví như cảnh huy hòang của mặt trời giữa trưa hết sức tốt đẹp, hào 1 động có nghĩa "không lầm lỗi", hào 5 động thì tốt lắm, ứng với danh dự. Quẻ biến là Hàm (rung động theo hòan cảnh) cũng tốt quá, vì chứng tỏ là ông Arnold đã tình cờ hoặc cố ý cùng tần số với cử tri. Vì đây là ngày bầu cử, phải đóan là ông Arnold sẽ thắng vẻ vang.

      Lúc 8:05 giờ đêm, ngay sau khi cuộc đầu phiếu chấm dứt, mở internet thấy CNN đã đóan ông Arnold đã thắng cử, người viết gieo một quẻ cuối, được quẻ Đại Thiên Thái (11), động hai hào 5 và 6 thành Phong Thiên Tiểu Súc (9).
      Quẻ Thái thì là hết sức tốt đẹp nên phải đóan là ông Arnold đã thắng to. Quả nhiên đúng!
      Quẻ Thái biến hào 5 thì tốt, nhưng hào 6 lại rất xấu; quẻ biến là Tiểu Súc có nghĩa thành quả khiêm nhượng; nên phải đóan là tối thiểu trong thời gian ngắn hạn, ông Arnold sẽ không làm được chuyện gì đáng kể. Nhưng sự thực đã ứng với diễn biến này rồi, vì ông Gray Davis hiện vẫn nắm quyền; phải cả tháng nữa mới tới phiên ông Arnold.

      Những quẻ dịch này chính xác đến độ khiến người viết phải giật mình. Chỉ tiếc là không thể tiết lộ trước được. Nay xin ghi lại để giới nghiên cứu có thêm tài liệu tham khảo.

San Jose 10 tháng 10, 2003
Đằng Sơn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Arnold Schwarzenegger

Đặt tủ giày nhầm chỗ 'đánh rơi' tài lộc

Phong thủy tủ đựng giày ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn và sức khỏe của chính căn nhà và gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày là một trong những đồ nội thất thiết yếu, chúng ta thường nhìn thấy khi đến chơi bất kỳ ngôi nhà nào. Nó có thể được đặt bên ngoài/bên trong nhà gần với cửa ra vào, hoặc giày dép được xếp thẳng hàng gần lối vào.

Giày dép là phụ kiện không thể thiếu của mỗi người, vì thế, bạn phải dành sự quan tâm đặc biệt đến những vấn đề phong thủy nên và không nên khi lưu trữ giày dép cũng như cách bố trí tủ đựng giày.

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 1

Phong thủy tủ đựng giày có liên quan chặt chẽ tới phong thủy cửa ra vào, ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn của chính căn nhà và gia chủ. Cùng Nhà đẹp tìm hiểu kỹ lưỡng một số quy tắc chung liên quan đến phong thủy tủ đựng giày như sau:

1. Chiều cao lý tưởng

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 2

Dựa theo học thuyết phong thủy cổ đại, chiều cao của ngôi nhà được chia thành 3 phần bằng nhau. Phần đầu là Trời, phần giữa là Con người và phần cuối là Đất. Giày dép luôn bị bám nhiều đất cát, bụi bẩn. Tủ đựng giày lại chứa những đôi giày cũ kỹ, bẩn thỉu nên nó thuộc về phần Đất.

Chiều cao lý tưởng của tủ đựng giày không được vượt quá 1/3 chiều cao của ngôi nhà. Các bậc thầy phong thủy truyền thống tin tưởng rằng, tủ giày cao đến phần giữa ngôi nhà - phần thuộc về Con người, sức khỏe của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng.

Nếu tủ giày hiện tại của bạn rơi vào trường hợp này, biện pháp khắc phục nhanh nhất là xếp giày dép mới ở các tầng trên cùng, đẩy những đôi đã cũ và đang đi dở xuống bên dưới.

2. Mẫu mã và số lượng tầng

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 3

So với kiểu dáng mở, tủ đựng giày khép kín, có cánh cửa được khuyến khích chọn mua nhiều hơn cả. Bởi vì, nó giữ giày dép khuất khỏi tầm nhìn và giữ cả các loại mùi hôi phát ra từ chúng. Khi đóng cửa lại, chiếc tủ sẽ "khóa chặt" toàn bộ năng lượng xấu và tạp khí. Nhưng cần lưu ý chọn loại tủ có lỗ thoát khí để đảm bảo không khí vẫn được lưu thông thay vì ứ đọng một chỗ.

Về số lượng tầng, 5 là con số lý tưởng nhất, đại diện cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) theo phong thủy. Số lượng tầng của tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày có thể làm ít hơn hoặc bằng 5 chứ không nên nhiều hơn. Đây cũng là một chỉ dẫn tốt giúp xác định chiều cao thích hợp cho tủ giày.

3. Không đặt linh vật phong thủy trên nóc tủ đựng giày

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 4

Nếu bạn đã rước bất kỳ linh vật phong thủy nào về nhà, ví dụ như Tỳ Hưu... luôn luôn ghi nhớ rằng không được bày chúng trên nóc tủ đựng giày để tiết kiệm không gian. Vì điều này sẽ gây ra tác động tiêu cực đến phong thủy của ngôi nhà.

4. Không đặt tủ giày trong phòng ngủ

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 5

Vì lý do tiện lợi, phụ nữ thích bố trí tủ đựng giày ngay trong phòng ngủ. Lúc này, năng lượng tiêu cực của giày dép đã đi tác động đáng kể tới phong thủy phòng ngủ và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng hôn nhân. Vì thế, hãy loại bỏ tủ giày ra khỏi phòng ngủ ngay lập tức.

5. Vị trí của giày dép

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 6

Giày dép lấm bẩn, có mùi hôi phải đặt xuống dưới cùng của tủ. Mũi giày nên quay vào trong để tránh hướng tạp khí trực tiếp vào người bạn mỗi khi đóng mở tủ. Điều này đặc biệt đúng với những mẫu giày mũi nhọn, đại diện cho yếu tố Hỏa. Để những đôi giày kiểu này chĩa vào người, lâu dần sẽ gây ra bệnh tật.

Đối với các tầng/giá/kệ thiết kế theo đường chéo, luôn đặt mũi giày hướng lên trên. Vì, mũi giày hướng xuống dưới thể hiện sự suy giảm về may mắn của chủ nhân.

6. Giữ gìn vệ sinh, ngăn nắp

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 7

Bạn nên giữ tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày sạch sẽ và ngăn nắp. Vệ sinh tủ định kỳ để loại bỏ bụi bẩn, mùi hôi và phân loại những đôi giày cũ lâu không dùng đến.

Dù cho bạn vận dụng bao nhiêu biện pháp phong thủy tốt đẹp cho ngôi nhà, cho cửa ra vào với mong muốn thu hút may mắn và tài lộc, đừng quên chú ý đến tủ đựng giày dép. Tủ đựng giày thuận phong thủy chắc chắn mang đến những kết quả tuyệt vời về sức khỏe, may mắn và giàu có cho bạn và các thành viên trong gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tủ giày nhầm chỗ 'đánh rơi' tài lộc

Xem tướng người có nốt ruồi trong lông mày

Theo nghiên cứu của Nhân tướng học nốt ruồi, nốt ruồi ở lông mày đa phần đều là tốt đẹp, đặc biệt là đối với phụ nữ. Tuy nhiên, để biết chính xác Nốt ruồi trong lông mày hay nốt ruồi ở đuôi lông mày có ý nghĩa gì thì bạn nên tham khảo trong bài viết dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo nghiên cứu của Nhân tướng học nốt ruồi, nốt ruồi ở lông mày đa phần đều là tốt đẹp, đặc biệt là đối với phụ nữ. Tuy nhiên, để biết chính xác Nốt ruồi trong lông mày hay nốt ruồi ở đuôi lông mày có ý nghĩa gì thì bạn nên tham khảo trong bài viết dưới đây của thư viện Xem bói.

Xem tướng Nốt ruồi trong lông mày

1. Nốt ruồi trong lông mày có ý nghĩa gì?

Nốt ruồi trong lông mày nghĩa là nốt ruồi mọc bên trong da lông mày, bị lông mày mọc lên và che khuất. Nếu không để ý hay kích thước không lớn thì ít người nhìn thấy rõ nốt ruồi ở vị trí này. Tuy vậy, phải nói rằng đây là vị trí nốt ruồi tốt hàng đầu, đặc biệt là đối với phụ nữ. Người phụ nữ có Nốt ruồi trong lông mày là người gặp được nhiều may mắn, giàu sang phú quý, vượng phu ích tử.

Còn đối với nam giới, có Nốt ruồi trong lông mày thể hiện bạn là người có tiềm năng, có tố chất lãnh đạo, nắm quyền hành và cuộc sống cũng có nhiều thuận lợi, giàu sang, vinh hoa. Nếu đàn ông lấy được vợ có nốt ruồi ẩn trong lông mày thì cũng rất tốt, vượng phu, ích tử, sự nghiệp thăng tiến tốt đẹp.

Người có Nốt ruồi trong lông mày còn cho thấy họ có thể sẽ là quý nhân phù trợ của người khác, vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.

Điểm trừ của người có Nốt ruồi trong lông mày là họ có tính khí thất thường, nắng mưa dễ thay đổi, rất dễ nóng giận vô cớ. Nếu là người làm bạn với những người này thì nên hiểu cảm xúc, tính tình của họ, đồng thời tránh có những cử chỉ, hành động hay lời nói làm họ trở nên nóng tính, khó chịu. Nếu có thể làm được điều ấy thì tình bạn, tình yêu sẽ kéo mãi lâu dài.

2. Nốt ruồi ở đuôi lông mày có ý nghĩa gì?

Với những người có nốt ruồi ở đuôi lông mày cũng hãy yên tâm vì đây cũng là một nốt ruồi khá may mắn. Và phụ nữ cũng sẽ may mắn hơn đàn ông khi có nốt ruồi ở đây. Người có nốt ruồi ở đây thường có cuộc sống vui vẻ, sung sướng. Tuy nhiên, nếu lệch hơn một chút phần đuôi thì sẽ có vấn đề về tình cảm, có thể là thói trăng hoa kể cả nam hoặc nữ.

Nếu phụ nữ có nốt ruồi ở đuôi lông mày, đặc biệt là bên đuôi lông mày trái thì có tướng vượng phu ích tử. Nếu đàn ông lấy được vợ có nốt ruồi ở đuôi lông mày bên trái thì sẽ có số thăng quan tiến chức, danh vọng tiền tài và đủ đầy con cái.

3. Một số ý nghĩa nốt ruồi ở lông mày khác:

Ngoài nốt ruồi ở đuôi lông mày và nốt ruồi trong lông mày thì nốt ruồi có thể mọc ở các vị trí khác gần lông mày với các ý nghĩa khác nhau như:

Nốt ruồi phía trên lông mày: báo hiệu cho thấy chủ nhân của nó có thể sẽ gặp khó khăn về tinh tế trong một thời gian ngắn hoặc sẽ có sự việc không ngờ xảy ra.

Nốt ruồi ở phía dưới lông mày: nếu là phụ nữ thì là người đảm đang, quán xuyến công việc giỏi, đối ngoại tốt, chồng con được nhờ.

Nốt ruồi giữa ấn đường và lông mày: đây lại là nốt ruồi dữ. Báo hiệu chủ nhân của nó sẽ vướng phải vòng lao lý, dễ kiện tụng, tranh chấp.
Bạn có nốt ruồi ở đuôi lông mày hay nốt ruồi trong lông mày hay vị trí khác? Cùng kiểm tra và đối chứng với ý nghĩa như đã cung cấp ở trên nhé!

Xem thêm những bài viết hữu ích khác:

Nốt ruồi trên cánh tay phải đàn ông liệu có giàu sang?

Nốt ruồi ở nhân trung có ý nghĩa gì?

Nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời nghĩa là gì?

20 vị trí nốt ruồi may mắn của phụ nữ

+ Xem bói nốt ruồi đoán tương lai, vận mệnh

Tìm kiếm liên quannốt ruồi trong lông mày, nốt ruồi trên lông mày, nốt ruồi ở lông mày bên phải, nốt ruồi ở lông mày, nốt ruồi ở đuôi lông mày, nốt ruồi trên lông mày phải, nốt ruồi ở đuôi lông mày phải, nốt ruồi ở đuôi lông mày trái


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng người có nốt ruồi trong lông mày

Tình duyên tuổi Giáp Tý - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Tình duyên tuổi Giáp Tý, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tình duyên tuổi Giáp Tý, tu vi Tình duyên tuổi Giáp Tý, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình duyên tuổi Giáp Tý

Căn duyên tiền định của mỗi tuổi trong 12 Con Giáp sẽ có những vận mệnh(định mệnh) riêng NHƯNG trong con đường định mệnh đó, liệu lựa chọn một nửa của bạn có đúng có hợp với tuổi của mình? Hãy cùng ## xem tình duyên tuổi Giáp Tý.

Tuổi Giáp Tý đại kỵ kết hôn:
Trai tuổi Giáp Tý đại kỵ cưới gái những tuổi kể dưới đây. 

 
  • Chồng tuổi Giáp Tý hơn vợ tuổi Đinh Mẹo 3 tuổI, ở đời với nhau phạm(Biệt Ly và Tuyệt Mạng) 
  • Chồng tuổi Giáp Tý hơn vợ tuổi Quí Dậu 9 tuổi,  ở đời với nhau phạm(Biệt Ly)
  • Chồng tuổi Giáp Tý hơn vợ tuổi Kỷ Mẹo 15 tuổi, ở đời với nhau phạm(Biệt Ly và Tuyệt Mạng)
  • Chồng tuổi Giáp Tý ít tuổi hơn vợ tuổi Tân Dậu 3 tuổi, ở đời với nhau phạm(Biệt Ly)

Trai tuổi này kỵ cưới vợ năm 15, 19, 21, 27, 31, 33, 39 tuổi. 
Gái tuổi này kỵ có chồng năm 16, 17, 22, 23, 28, 29, 34 tuổi. 
Những năm tuổi trên đây kỵ hiệp hôn, luận việc hôn nhân không thành, còn có đôi bạn rồi mà gặp  những năm nói  trên  thì hay  sanh  việc buồn  và  xung  khắc hoặc  chịu cảnh xa vắng. 
Tuổi này trai hay gái sanh nhằm tháng 1 tháng 7 trong đời sanh hay  xảy việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày hót khó nên đôi. 
TuổI  này  trai  hay  gái  khi  có  đôi bạn số  định gặp ngườI bạn ở hứơng Mẹo mới nhằm căn duyên. 

XIN LƯU Ý 
Trai tuổi Giáp Tý sanh tháng 1, 12, 5, 9, 11, 6 và tháng 10, như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ. 
Gái tuổi Giáp Tý sanh tháng 1, 10, 2 và tháng 11, như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng. 
Còn sanh nhằm tháng 3 và tháng 12 số khắc con, khó sanh và khó nuôi. 

 

TuổI: GIÁP TÝ 
(Hiệp Hôn Tốt và Ở Đặng) 

  • Chồng tuổI GIÁP TÝ vợ tuổI GIÁP TÝ(Chồng vợ đồng một tuổI). LờI giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ  chồng  đặng có danh giá và quyền tước, nhiều người hay  thương mến, hào tài ấm no, hào con, rất ít hoặc không con, vật dụng trong nhà sắp đặt có thứ tự. Tính người vợ  tánh sánh  lanh lẹ, hay giao  thiệp hay  lo  tính, ăn nói việc chi cũng dễ, tánh tình chồng vợ cũng đặng hòa hạp, sống chung với nhau làm ăn tốt. 
    ==>Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào con thiểu phước. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi ẤT SỬU(Chồng lớn hơn vợ 1 tuổi). Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt. Phải chịu cảnh thiếu nghèo một  thời gian. Qua hạn mới đậu  tài, hào  tài no đủ, hào con rất  ít, vật dụng  trong nhà thường dùng. Tính người vợ hay rầy nói, bổn thân hay có bệnh nhỏ, có số tạo giữ tiền tài, tánh tình vợ chồng  ít đặng hòa hạp, ở với nhau nên nhẫn nại và cần năng ngày hậu cũng ấm no. 
    ==> Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên nhẫn chung lo 
    với nhau. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi BÍNH DẦN(Chồng lớn hơn vợ 2 tuổi). Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Nhứt Phú Quý vợ  chồng  như  có  phước  thì hưởng giàu. Còn  thiếu  phướng  thì  đặng khá. Nhưng phảI chịu cảnh thành  bại nhiều phen rồi sau mới tốt, hào tài đủ dùng, hào con không có, có số nuôi con nuôi, vật dụng trong nhà thường dùng. Tính người vợ chơn hay đi, hay  giao thiệp, tánh cộc, tay làm có tài cũng hay  hao phá  tài,  tánh  tình vợ chồng không đặng hòa hạp cho lắm, ở với nhau kiên cố sẽ đặng lập nên. 
    ==> Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, nên chung lo cần  ăng, về hào con thiếu phước. 
  •  Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi M ẬU THÌN(Chồng lớn hơn vợ 4 tuổi). Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ  chồng  việc  làm ăn đặng dễ dàng, cầu  lo  việc chi cũng  có người quý nhân giúp đỡ, hào tài đủ no, hào con trung bình, vật dụng trong nhà khiếm dụng. 
    Tính người vợ đảm đang, tánh cộc, chân hay đi nhiều, tay làm có tài mà cũng hay hao phá t ài, tánh tình vợ chồng cũng có phần hòa hạp, chung sống với nhau nên cần năng cũng đặng ấm no. 
    ==> Kết  luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng  trung bình, về hào  tài hay 
    luân chuyển. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi KỶ TỴ(Chồng lớn hơn vợ 5 tuổi). Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam  Vinh  Hiển, vợ  chồng  đặng  có  danh  giá  và  có  chức  phận,  người  đời  hay mến thương, hào tài tương vượng, hào con rất ít, v ật dụng trong nhà sắp đặt vẻ vang.
    Tính người vợ hiền,  thông minh  có kỹ lưỡng, bản  thân  có  tiểu tật,  tánh  tình vợ chồng hòa hạp, ở với nhau làm ăn s ẽ lập nên sự nghiệp. 
    ==> Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào con thiểu phước. 
  • Chồng tuổI GIÁP TÝ vợ tuổi CANH NGỌ (Chồng lớn hơn vợ 6 tuổi).Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển, vợ chồng đặng có danh giá, ra đường ăn nói việc chi cũng dễ, hào tài bình thường, hào con rất ít, sanh con đầu là gái hạp, vật dụng trong nhà thường dùng. Tính người vợ  bôn ba, tánh cộc, chân hay đi, hay giao thiệp, hay lo tính, tánh tình vợ  chồng  hay tương  xung, về lời  tiếng  không  đặng  hòa hạp,  chung  ở  nên cẩn nại thương lẫn với nhau làm ăn mới đặng. 
    ==> Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về tánh ý nên kiên nhẫn. 
  • Chồng tuổI GIÁP TÝ vợ tuổI T ÂN M ÙI 
    (Chồng lớn hơn vợ 7 tuổI) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số 
    Nhì Bần Tiện vợ chồng  làm ăn không đặng phát đạt. Phải chịu cảnh  thiếu nghèo một 
    thời gian, qua hạn mới phát đạt, hào tài đủ no, hào con thiểu  ố, vật dụng trong nhà đủ 
    dùng. 
    Tánh người vợ hay rầu lo và hay hờn mát, có số tạo giữ tiền tài ngày lớn tuổi, tánh 
    ý vợ  chồng  không  đặng  hòa hạp  cho lắm,  nên  hòa  thuận  chung  lo với  nhau  làm  ăn 
    ngày hậu cũng đặng ấm no. 
    Kết  luận: Cảnh vợ  chồng  này  ở với  nhau  không  đặng tốt,  nên bền  chí  và cần 
    năng. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi NHÂM THÂN 
    (Chồng lớn hơn vợ 8 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số 
    Nhứt Phú Quý vợ  chồng  như  có  phước hưởng  giàu,  còn  thiểu  phước  thì  đặng  khá, 
    nhưng phảI chịu cảnh thành bại nhiều phen rồi mới tốt,   hào  tài ấm no, hào con  trung 
    bình, vật dụng trong nhà thường dùng. 
    Tánh người vợ lời  tiếng nóng nảy, chân hay đi, hay giao  thiệp,  tánh lạt  lòng,  tay 
    làm có tài cũng hay hao phá tài, tành tình vợ chồng cũng có phần hòa hạp. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài nên luân chuyển. 

ĐOÁN PHỤ THÊM 

  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi GIÁP TUẤT(Chồng lớn hơn vợ 10 tuổI) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài trung bình, hào con rất ít. 
    Tánh người vợ có duyên vui vẻ, hay giao thiệp tình bạn, lòng hay lo tính, trong mình có bệnh nhỏ, tánh tình vợ chồng hào hạp, ở với nhau làm ăn đặng hưởng ấm no. 
  • (Chồng lớn hơn vợ 12 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no, hào con đông đủ. 
    Tánh người vợ chân hay đi, tay làm có tài cũng hay hao phá tài, lạt lòng, bản thân tiểu tật, lời nói hay thắc mắc, ý tánh tình vợ chồng hòa hạp, ở với nhau kiên cố làm ăn tốt
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi ĐINH SỬU 
    (Chồng lớn hơn vợ 13 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ dùng, hào con trung bình. 
    Tánh người vợ có duyên, vui vẻ, lanh lẹ, hay giao thiệp, có số tạo giữ tiền tài ngày lớn tuổi, ý tình vợ chồng hòa hạp, việc làm  ăn ngày hậu nên nhà. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi M ẬU DẦN 
    (Chồng lớn hơn vợ 14 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài  ấm no, hào con ít. 
    Tánh người vợ tánh sáng và kỹ lưỡng, ăn nói đời lanh lẹ, bản thân hay có tiểu bệnh, tánh tình vợ chồng hòa thuận, chung sống làm ăn đặng cảnh ấm no. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi CANH THÌN 
    (Chồng lớn hơn vợ 16 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài đủ dùng, hào con trung bình. 
    Tánh người vợ hay lo tính, khó tính, có duyên, vui vẻ, bản thân hay có bệnh nhỏ, ở với nhau vợ chồng hòa hạp, nên chung lo làm ăn đặng. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi TÂN TỴ 
    (Chồng lớn hơn vợ 17 tuổI) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài tương vượng, hào con rất ít, hoặc nuôi con nuôi. 
    Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, có số tạo giữ tiền tài ngày lớn tuổi, lời nói ngay thật, ý tính vợ chồng cũng có phần hòa hạp, chung ở với nhau lập nên nhà. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi NHÂM NGỌ 
    (Chồng lớn hơn vợ 18 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài đủ dùng, hào con thiểu phước. 
    Tánh người vợ rộng  rãi, ưa  trồng tỉa, bản  thân có  tiểu tật, số khó giữ  tiền bạc, ở với nhau vợ chồng hay xung khắc, khá nhẫn nại làm ăn mới đặng. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi QUÍ HỢI 
    (Vợ lớn hơn chồng 1 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp số Tam Vinh Hiển vợ chồng đặng có danh giá hoặc có chức phận  thêm tốt,  trong ngòai sắp đặt đều thuận ý, hào tài ấm no, hào con trung bình, vật dụng trong nhà đủ dùng. 
    Tánh người vợ hiền, thông minh, lời nói hay hòa thuận với đời, tay làm có tài trong hay hao phá tài, tánh tình vợ chồng hòa thuận, ở với nhau làm ăn tốt. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, không chi đáng kỵ. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi NHÂM TUẤT 
    (Vợ lớn hơn chồng 2 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng  trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng lo tính việc làm ăn đều thông suốt, cầu lo việc chi cũng có quí nhân giúp đỡ, hào tài đủ no, hào con trung bình, vật dụng trong nhà thường dùng. 
    Tánh người vợ thông minh, lanh lẹ, hay giao thiệp, lời nói ít thua ai, tay làm có tài cũng  hay  hao  phá  tài,  tánh  tình vợ  chồng  có  phần  hòa hạp, ở  đời với  nhau  kiên cố 
    chung lo  cũng đặng ấm no. 
    Kết  luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng  trung bình, về hào  tài hay 
    luân chuyển. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi CANH THÂN 
    (Vợ lớn hơn chồng 4 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no hào con rất ít. 
    Tánh  người vợ  hay rầu  lo,  ít  đặng  vui vẻ, bản  thân  có  tiểu tật bệnh,  ý tình vợ chồng đặng hòa hạp, ở với nhau làm ăn cũng đặng nên. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi KỶ MÙI 
    (Vợ lớn hơn chồng 5 tuổi) 
    Hai  tuổi này ở với nhau  làm  ăn không  đặng tốt, hào  tài  đủ dùng, hào  con  trung 
    bình. 
    Tánh người vợ thông minh, hay lo tính, có duyên vui vẻ, ăn nói viêc chi cũng dễ, ở với nhau vợ chồng ít hòa hạp, khá thương lẫn nhau và cần năng làm ăn đặng. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi MẬU NGỌ 
    (Vợ lớn hơn chồng 6 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, tốt về danh giá, hào tài bình thường, hào con đa số. 
    Tánh người vợ  lanh lẹ,  vui vẻ,  có duyên,  có số tạo giữ  tiền  tài, lời nói hay  thắc mắc, ý  tính vợ chồng xung khắc, nên nhẫn nại việc làm ăn mới tốt. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi ĐINH TỴ 
    (Vợ lớn hơn chồng 7 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài tương vượng, hào con rất ít. 
    Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, lòng hay lo tính có số tạo tiền tài ngày lớn tuổi tánh tình vợ chồng hòa thuận, chung ở với nhau làm ăn nên nhà. 
  • Chồng tuổi GIÁP TÝ vợ tuổi BÍNH THÌN 
    (Vợ lớn hơn chồng 8 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng trung bình, hào tài đủ dùng, hào con rất ít. 
    Tánh người vợ chân hay đi nhiều,  tánh sáng, hay bôn ba  lo  tính,  trong mình có tiểu tật ở với nhau vợ hồng hòa hạp, việc làm ăn đồng lo đặng ấm no. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên tuổi Giáp Tý - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Sao Bác Sĩ là cát tinh, có nghĩa là thông minh, hay suy xét kín đáo, chủ sự thông đạt thâm thúy, ngôn ngữ hoạt bát, khoan hòa, nhân hậu...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

Hành: Thủy

Loại: Cát Tinh

Đặc Tính: Văn chương, học hành, thi cử

Ý Nghĩa Của Sao Bác Sĩ:

Sao Bác Sĩ là cát tinh, có nghĩa là thông minh, hay suy xét kín đáo, chủ sự thông đạt thâm thúy, ngôn ngữ hoạt bát, khoan hòa, nhân hậu, lợi ích cho việc thi cử học hành, giải trừ bệnh tật.

Về các điểm này, Bác Sĩ có đặc tính tương tự như Hóa Khoa, chủ về học và hạnh đồng thời cứu giải bệnh tật. Nhưng Bác Sĩ không mạnh bằng vào Hóa Khoa.

Ý Nghĩa sao Bác Sĩ Và Các Sao Khác:

Bác Sĩ gặp Hóa Khoa: Có học, có hạnh.

Bác Sĩ gặp Âm Dương, Xương Khúc: Có khoa danh làm nên.

Luận thêm về sao Bác Sĩ:

Vì cách an Sao có sự trùng hợp trong Tử Vi cho nên có nhửng sao luôn luôn đi kèm nhau như hình với bóng .Chẳng hạn như cung có Phượng Các thì tất nhiên phài có Giải Thần hoặc ngược lại .Có Quan Phù là phải có Long Trì hoặc có Long Trì thì phải có Quan Phù ,có Hư tất có Phá hoặc có Phá tât có Hư . 

Lộc Tồn với Bác Sĩ cũng nằm trong định luật ấy .Có sao bác Sĩ tất có Lộc Tồn hoặc có Lộc Tồn tất có Bác Sĩ . 

Trong chúng ta,ai cũng đều biết là vòng Bác Sĩ (hoặc Lộc Tồn )được an theo Thiên Can của năm sinh,nối đuôi là 11 sao theo thứ tự :..Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư ............ 

Có 2 giả thuyết để chúng ta chấp nhận: 

-Giả thuyết thứ nhất, nếu sao Bác Sĩ được chính danh đứng đầu trong vòng sao của mình thì đương nhiên phải chấp nhận Lộc Tồn là 1 sao đơn được an theo hàng Can của năm sinh như các sao Khôi, Việt, Lưu Hà, Thiên Trù, Lưu Niên Văn Tinh ......Một khi đã là sao đơn thì không có chuyện khởi thuận hoặc khởi nghịch của Lộc Tồn .Vô hình chung,ta khẳng định rằng Kình Dương luôn luôn an trước Lộc Tồn 1 cung và Đà La luôn luôn an sau Lộc Tồn 1 cung với câu thiệu:"Lộc tiền nhất vị thị Kình Dương" . 

-Giả thuyết thứ 2, Nếu Lộc Tồn được chính danh đứng đầu trong vòng sao của mình thì chúng ta phải chấp nhận sự khởi thuận và khởi nghịch của Lộc Tồn và cũng phải chấp nhận là Kình Dương luôn luôn đi kèm Lực Sĩ, vì có khởi thuận hoặc khởi nghịc đi chăng nữa thì Lực sĩ cũng luôn luôn đi trước Lộc Tồn . 

Sao Lộc Tồn được chính danh hay Bác Sĩ được chính danh cũng tùy theo kiến thức, nhận xét của chúng ta .Mong rằng mọi người hãy cùng nhau góp sức để làm sáng tỏ vấn đềvà cũng là để thống nhất cách an Kình Đà


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Bác Sĩ - Là một cát tinh

KIÊNG KỴ TRONG MA CHAY

Phong tục tập quán trong việc tang hiếu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

KIÊNG KỴ TRONG MA CHAY

                                     

Trong việc tang lễ ma chay, tín ngưỡng dân gian người Việt yêu cầu phải tuân thủ theo một số điều kiêng kị để bảo đảm những điều không may sẽ không tiếp diễn.

  • Kiêng kỵ đối với người chết vì nạn sông nước: Vỡi những người bị tai nạn sông nước, khi đang được cứu chữa, người ta kiêng không cho cha mẹ hay con cái của nạn nhân vào vì cho rằng nếu lúc đó có mặt người thân, chắc chắn nạn nhân không thể cứu được.
  • Kiêng kỵ đối với người chết ngoài đường, ngoài chợ: Với những người chết ở ngoài đường, người ta tối kỵ đưa xác chết về nhà, vì việc làm đó sẽ mang theo âm khí, không lợi cho việc làm ăn, sinh sống của những người trong nhà.

Trường hợp này, thân nhân phải tổ chức tang lễ tại nơi có người chết hoặc phải dựng lán ngoài đồng để thực hiện tang lễ. Người chết đột tử ngoài đường do tai nạn tàu xe, sông nước…cũng được coi là xấu số và người nhà phải cúng lễ ở nơi người đó thiệt mạng.

  • Kiêng kỵ với người treo cổ tự vẫn: Trường hợp người bị chết do thắt cổ (tự vẫn hay do người khác cưỡng sát), nếu phát hiện ra người đó chưa chết hẳn, người ta sẽ dùng dao chém đứt sợi dây khi người đó còn treo lơ lửng chứ không cởi tháo sợi dây ra, bởi theo tín ngưỡng dân gian, chỉ bằng cách chém đứt sợi dây, mối oan nghiệt mới dứt và gia đình đó mới tránh được họa chết vì thắt cổ theo đuổi.
  • Kiêng kỵ đối với trường hợp con chết trước cha mẹ: Trường hợp con chết trước cha mẹ, ở một số địa phương miền Bắc thường không để cha mẹ đưa tang con vì người ta cho rằng, chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, gây cho cha mẹ nhiều mối đau thương. Vì thế, trên đường đi đưa tang có thể khiến cha mẹ đau buồn quá mà ngất đi, ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng. Tục kiêng kỵ này nhằm làm vơi nỗi đau buồn và tránh nạn trùng tang
  • Kiêng kỵ nhập quan vào ngày xâu, giờ xấu: Khi có người chết, trước hết người ta phải chọn giờ, chọn ngày tốt an táng, tránh tuổi, kiêng tuổi khi làm lễ nhập quan. Sau đó, chọn ngày lành tháng tốt để an táng người quá cố. Tuyệt đối kiêng kỵ nhập quan vào giờ xấu, ngày xấu để tránh những chuyện chẳng lành.
  • Kiêng để chó, mèo nhảy qua xác người chết: Khi thi hài chưa được nhập vào quan tài, con cháu và người thân của người quá cố phải cử nhau ngày đêm canh giữ và không được để chó, mèo nhảy qua xác chết nhằm tránh hiện tượng quỷ nhập tràng (người chết bật dậy, rồi sau đó đuổi theo để bắt người).
  • Kiêng dùng vật dụng của người sống cho người đã chết: Khi chon cất, người ta kiêng dùng quần áo, đồ dùng của người đang sống cho người đã chết vì họ cho rằng những đồ vật đó đã mang hơi của người sống. Nếu để người chết mang đi, tức là đã chôn một phần của người sống, có thể khiến cuộc sống của người đó không được trọn vẹn như bị  ngớ ngẩn, đần độn, hay quên, lú lẫn…
  • Kiêng mặc áo, nằm giường của người đã chết: Không chỉ kiêng mặc áo, sử dụng đồ của người sống cho người chết mà tín ngưỡng dân gian còn kiêng việc người sống mặc quần áo thừa hay nằm giường cũ của người chết để lại.
  • Kiêng trả lời khi chưa nhận rõ tiếng người gọi: Ở những gia đình có người già mất, người nhà đã phải đóng cửa, kiêng lên tiếng trả lời khi chưa nhận ra tiếng của người gọi ngoài cổng. Sở dĩ, có việc này vì do tín ngưỡng dân gian, người già mới mất còn nhớ con cháu, tối đến về nhà gọi, nếu ai thưa sẽ bắt đi theo.
  • Kiêng để nước mắt nhỏ vào thi hài người chết: Trong quá trình khâm liệm, phải kiêng để nước mắt của con cháu nhỏ vào thi hài của người chết vì sợ sau này con cháu sẽ làm ăn khó khắn, và cũng tránh hiện tượng “quỷ nhập tràng”. Vì thế, người trực tiếp khâm liệm (thường là người nhà) không được khóc khi đang tiến hành các thao tác khâm liệm. Những người khác dù có thương xót người quá cố đến đâu thì khi khóc cũng phải đứng cách xa một quãng để tránh nước mắt nhỏ vào.
  • Kiêng động cuốc, thuổng vào mộ trong vòng cư tang: Sau khi người chết mới được chôn cất ba ngày, người ta sẽ đắp mộ kỹ lưỡng trong khi làm lễ mở cửa mả. Từ đấy trở đi kiêng không đắp mộ trong vòng tang. Tục này là để tránh mồ mả bị sập, bị động trong thời kỳ áo quan và thi hài đang tan rữa. Con cháu khi đến thắp hương chỉ được lấy đất đắp vào những chỗ sụt lở, kiêng trèo lên mộ hay động cuốc, động thuổng vào mộ
  • Kiêng ăn mặc lố lăng, cười đùa khi dự tang lễ: Khi dự đám tang, người ta kiêng ăn mặc lố lăng, hở hang, lòe loẹt, kiêng cười to, nói to, nô đùa ầm ĩ…Bên cạnh đó, khi đi ngoài đường gặp đám tang, người ta cũng kiêng bấm còi ô tô, xe máy, để tỏ lòng thành kính, tiếc thương người quá cố.
  • Kiêng bật loa, hò hét giải trí khí gặp tang lễ: Trong buổi tang lễ, người ta thường kiêng bật ti vi, loa đài ầm ĩ, ồn ào. Trong trường hợp cạnh một đám tang là một đám cưới cũng phải vặn nhỏ loa đài, không biểu lộ sự hân hoan, thái quá với việc hỷ nhà mình mà nên tổ chức đơn giản, gọn nhẹ so với dự định ban đầu.
  • Người cao tuổi, phụ nữ có thai, người bị chó dại căn kiêng dự tang lễ: Người mới mất luôn lạnh hơn so với  nhiệt độ bình thường của môi trường xung quanh. Vì vậy người ta kiêng không cho các bậc cao lão, phụ nữ có thai và trẻ nhỏ đến dự lễ khâm liệm, an táng và cải táng vì sợ nhiễm phải hơi lạnh mà ốm.

Nếu có cụ già, trẻ nhỏ hay phụ nữ mang thai ở gần gia đình có tang, người ta đặt ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ kết để trừ uế khí. Những người bị chó dại cắn cũng phải tuyệt đối cách ly đám tang vì khi nhiễm phải hơi lạnh sẽ lên cơn dại mà chết.

  • Kiêng đi nhanh khi khiêng linh cữu: Dân gian có tục giữ cho thi hài người chết được nằm yên, cho nên khi khiêng linh cữu cần nhẹ nhàng, thậm chí còn phải cố tình khiêng chậm để thể hiện sự lưu luyến với người đã khuất.
  • Kiêng hạ huyệt khi chưa làm lễ cúng Thổ thần: Trước khi hạ huyệt, người ta làm lễ cúng Thổ thần để xin phép được an táng người chết ở đây. Lễ cúng Thổ thần gồm có trầu, rượu, vàng hương, đĩa xôi, thủ lợn, hay giò, gà…Tất cả được bày theo một án đặt chiều hướng thuận lợi.

Cúng Thổ thần xong, đợi giờ Hoàng đạo thì linh cữu mới được hạ huyệt. Để thêm phần trọng thể, nghiêm trang người đại diện tang lễ còn làm lễ và đọc văn tế

  • Kiêng đến những nơi hội hè, lễ tết khi nhà có tang: Người ta thường kiêng đến những nơi hội hè, lễ tết, đám cưới…khi nhà có tang, vì họ cho rằng trong gia đình có người chết thì cả nhà đều nhuốm màu lạnh lẽo. Người ta không thể mang cái lạnh lẽo đó đến những nơi vui mừng như đám cưới, đám hội hay vào nhà người khác trong dịp đầu năm mới. Nếu ai đó không giữ được những điều kiêng kỵ trên sẽ bị coi là đem điều xúi quấy đến cho người khác. Hơn nữa, khi đang chịu tang ông, bà, cha, mẹ… mà đến những nơi vui vẻ như vậy là tỏ sự bất kinh, bất hiếu đối với cha, mẹ, ông, bà…và bị mọi người cười chê.
  • Kiêng lấy vợ, lấy chồng khi đang để tang cha mẹ: Thời xưa, khi cha mẹ mất, con cái thường phải để tang ba năm. Trong thời gian đó, người ta kiêng không lấy chồng, lấy vợ, nếu không sẽ bị làng xã khinh rẻ vì tội bất hiếu với cha mẹ, tổ tiên.

Ngày nay, việc kiêng cữ không còn được kỹ lưỡng như trước nữa nhưng nhiều gia đình vẫn thường kiêng xem ngày kết hôn hay cưới vợ, gả chồng cho con khi chưa qua giỗ đầu của người quá cố.

  • Liêng để ánh sáng mặt trời chiếu soi trực tiếp khi cải táng: Việc cải táng (bốc mộ) luôn được thực hiện về đêm để tránh ánh sáng mặt trời vì nhiều trường hợp thi thể nhiều năm vẫn còn nguyên vện, nếu để ánh năng mặt trời chiếu vào, thi thể sẽ rữa ngay, hoặc teo lại. Nếu gặp trường hợp như vậy phải lấp đất lại ngay, vài năm sau mới được cải táng.

Trích Phong tục dân gian – Lý Kiến Thành


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: KIÊNG KỴ TRONG MA CHAY

Lưu ý phong thủy giường ngủ –

Chỗ kê giường lý tưởng chính là vị tí chỉ huy trong phòng ngủ, với khoảng trống hai bên giường đều nhau, có bức tường vững chắc phía sau đầu giường và không có các nguồn sát khí bên cạnh hay phía trên. Tâm nhìn từ giường ra cửa tốt tạo cảm giác an to

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

àn và khă năng kểm soát – điều này giúp bạn ngủ ngon hơn.

MG045

Có thể bạn cho rằng kê giường ngang cửa ra vào tạo tầm nhìn bao quát nhất, nhưng vị trí này được gọi là “vị trí áo quan” và nên tránh.

Điều quan trọng là phải kê giường ngủ sao cho cạnh giường không bị khí cửa ra vào vì điều này có thể gây  ra các vấn đề về sức khỏe ờ những phần cơ thể bị tác động. Trên giường ngủ chung, người nằm ở phía gần cửa ra vào sẽ bị ảnh hưởng mạnh hơn.

Bức tường vững chắc phía sau đầu giường giúp bảo vệ và chống đỡ. Nếu không thể tránh kê giường ngủ phía dưới cứa sổ, hãy đảm bảo là ván đầu giường chắc chấn, an toàn, treo đồ pha lê có cạnh ở cửa sổ hay để một tượng thần hộ mệnh trong phòng nhầm bảo vệ bạn khi ngủ.

Những người đang có mối quan hệ lãng mạn, hay đang mong thu hút mối quan hệ lãng mạn, không nên kê giường ở vị trí mà một bên giường gần tường hơn nhiều so với bên kia . Trong quan hệ vợ chồng, người ngủ ở phía thoáng rộng sẽ có quyền kiểm soát và tự do hơn, thậm chí có thể rời bỏ mối quan hệ này. Đối với người độc thân, vị trí này ngăn cản cơ hội có bạn đời. Nếu kích thước hay bố cục của giường ngủ không cho phép có được khoảng không hai bên giường đều nhau, hãy cố gắng để khoảng cách giũa giường và tường bên ít nhất là khoảng 45 cm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý phong thủy giường ngủ –

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ (P2)

Người tuổi Tỵ sinh ngày 23 đều thông minh, giỏi giang, học hành chăm chỉ, dũng cảm hơn người, cuộc sống thuận buồm xuôi gió, gia đình và sự nghiệp đều tốt đẹp.
Xem ngày sinh đại cát cho  người tuổi Tỵ (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ (P1)
Người tuổi Tỵ sinh ngày 12 âm lịch thích hợp đi xa để phát triển sự nghiệp, số mệnh vất vả, tay trắng lập nghiệp nhưng cũng đạt được thành quả nhất định trong
Người tuổi Tỵ sinh ngày 16   Không gặp nhiều may mắn, cuộc sống thăng trầm, vất vả, không được nương tựa vào gia đình, người thân, suốt đời sống cô độc.
Người tuổi Tỵ sinh ngày 17   Người tuổi Tỵ sinh ngày 17 âm lịch có số mệnh làm quan, công danh sự nghiệp sáng lạng, làm rạng danh gia đình, dòng họ.
Người tuổi Tỵ sinh ngày 18   Gia đình hạnh phúc, con cháu hiếu thuận, công danh sự nghiệp thành đạt, tài lợi song toàn.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 19   Dù số mệnh vất vả, bôn ba khắp nơi cầu tài, nhưng cũng đạt được thành quả nhất định, cuộc sống vật chất đầy đủ, không phải lo cơm áo gạo tiền, ngoài ra được nhiều người coi trọng.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 20   Gia đình và sự nghiệp đều hưng vượng, danh lợi song hành, nổi danh thiên hạ.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 21   Tiền vận không tốt, trung vận khởi sắc, số mệnh khá may mắn, có thể phát tài khi vào trung vận.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 22   Số phải sống xa quê hương để cầu danh lợi, chỗ ở không cố định, tứ hải là nhà. Tuy nhiên, sự nghiệp thành đạt, nhiều khả năng làm quan to, trung vận tiền tài dồi dào, cuộc sống dư giả, hạnh phúc.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 23   Người tuổi Tỵ sinh ngày 23 đều thông minh, giỏi giang, học hành chăm chỉ, dũng cảm hơn người, cuộc sống thuận buồm xuôi gió, gia đình và sự nghiệp đều tốt đẹp.
Người tuổi Tỵ sinh ngày 24   Vượng vận đào hoa, đời sống tình cảm phong phú, gặp nhiều chuyện vui vẻ nhưng tiền tài khó tụ, đời sống vật chất trung bình.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 25   Thông minh, nhạy bén, tài năng xuất chúng, số mệnh được hưởng vinh hoa phú quý. 
Người tuổi Tỵ sinh ngày 26   Tiền vận vất vả, trung vận chuyển biến tốt, gia đình hòa thuận, đông con nhiều cháu. 
Người tuổi Tỵ sinh ngày 27   Trải qua nhiều sóng gió, nguy hiểm trong cuộc đời, không được gia đình, bạn bè hậu thuẫn. Nếu nam giới không lấy được vợ hiền thì cuộc đời cơ cực, phải hứng chịu nhiều biến cố lớn. Ngày sinh này hợp với nữ giới hơn.
Người tuổi Tỵ sinh ngày 28   Tính tình cương trực, thẳng thắn nên dễ bị vướng vào họa khẩu thiệt thị phi. Tuy nhiên, cuộc sống khá yên ổn, con cháu đầy nhà.
Người tuổi Tỵ sinh ngày 29   Mệnh có số đào hoa, phong lưu đa tình, tiền tài khó tụ. Nữ mệnh hợp hơn nam mệnh, cuộc sống gia đình yên ổn và hạnh phúc hơn.   Người tuổi Tỵ sinh ngày 30   Sự nghiệp thành đạt, tài lộc hưng vượng, hưởng cuộc sống giàu sang, phú quý.   Kết luận: Ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ là ngày mùng 1, mùng 10, 17, 18, 20, 23, 25 và 30.

► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

An Khánh (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tỵ (P2)

Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

Mơ thấy quả cau, bản thân sẽ không ngừng hoàn thiện, giúp mình ngày càng vững mạnh hơn. Mơ thấy mình nhặt quả cau, dự báo sự nghiệp thành công. Mơ thấy ăn quả cau, với hàm ý trong sự nghiệp bản thân không hề dựa dẫm bạn bè. Mơ thấy hình ảnh quả cau t
Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quả cau: Sẽ giải tỏa khó khăn, có được thành công –

7 mẹo tâm linh tránh ma khi phải qua đêm ở nơi lạ

Ai trong chúng ta cũng từng phải qua đêm tại nhà nghỉ, khách sạn. Hãy cẩn thận bởi đây có thể là nơi trú ngụ của hồn ma. Những mẹo tâm linh tránh ma sẽ giúp
7 mẹo tâm linh tránh ma khi phải qua đêm ở nơi lạ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng từng phải ngủ qua đêm tại nhà nghỉ, khách sạn. Hãy cẩn thận bởi nơi đây có thể là nơi trú ngụ của hồn ma. Những mẹo tâm linh tránh ma sau đây sẽ giúp bạn.


► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?

1. Cách tránh ma hiệu quả là trước khi vào phòng, hãy bấm chuông và gõ lên cửa, đồng thời nói thầm “xin lỗi, xin phép vào” hoặc “xin lỗi đã làm phiền” như lời báo trước nếu có hồn ma nào đó.

7 meo tam linh tranh ma khi phai qua dem o noi la hinh anh
 
2. Sau khi xin phép, hãy thận trọng tiến vào, tránh cửa chính vì đó là lối vong ra. Đi men theo mép phòng, khi thấy phòng bắt đầu có hơi ấm thì đóng cửa lại.
 
3. Theo tâm linh, khi đi ngủ nên đặt dép một chiếc úp một chiếc ngửa, với hàm ý “xin đừng làm phiền” thì vong sẽ tự động rời phòng.
 
4. Để một chút muối sống, một cốc nước lạnh cạnh giường để xua đuổi vong nếu trong phòng có. Muối có tác dụng đuổi tà rất mạnh.

7 meo tam linh tranh ma khi phai qua dem o noi la hinh anh
 
5. Tránh mặc áo đỏ, đen khi đi ngủ; nên mặc áo vàng vì màu vàng giúp xua đuổi tà ma.
 
6. Nếu giường trong phòng đối diện gương, cửa kính thì nên xoay lại sao cho tránh đi hoặc dùng vải, chăn che gương lại vì ma thường xuất hiện trong những nơi phản chiếu như vậy.
 
7. Không nên để phòng ngủ quá ngăn nắp, bừa bộn một chút thì tốt hơn. Nếu đi 1 người mà có 2 giường thì nên để đồ lên giường còn lại phòng trường hợp có vong muốn ngủ trên giường đó. Nếu trong phòng có ghế, thì nên để đồ lên ghế, phòng trường hợp có ai đó muốn “nhìn” bạn ngủ.
 
Tất nhiên, nhiều người không tin vào chuyện ma quỷ hoặc cho rằng mình vía “cứng” nên không chú trọng lắm các mẹo tâm linh đuổi ma trên. Vì đó là những điều được lưu truyền trong dân gian, chưa có khoa học nào kiểm chứng về tính đúng đắn của nó. Các bạn chỉ nên dùng để tham khảo. Tuy nhiên, người nữ, yếu bóng vía hoặc đang ốm bệnh thì có thể chú ý một chút, có thờ có thiêng, không có gì là thừa. 
Theo Xuân giao
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 7 mẹo tâm linh tránh ma khi phải qua đêm ở nơi lạ

12 Con Giáp - Bảng xếp hạng 3 con giáp hay thất hứa nhất

Top 3 con giáp thất hứa nhiều nhất. Có lẽ với 3 con giáp này, lời hứa được buông ra quá nhiều, nhiều đến nỗi mà chính họ cũng không nhớ để thực hiện cho hết...
12 Con Giáp - Bảng xếp hạng 3 con giáp hay thất hứa nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hạng 1: Con giáp Tị

Người thuộc con giáp Tị thường hay thất hứa với người khác nhất trong 12 con giáp. Ý chí không kiên định và thiếu sự nhất quán, nên người tuổi Tị thay đổi suy nghĩ và quyết định như thay áo. Có thể vừa lúc nãy thôi họ còn hứa là giúp đỡ bạn làm việc gì đó, nhưng giờ họ lại đổi ý vì cho rằng mình quá bận hoặc không có tâm trạng để giúp đỡ nữa. Rồi họ quên mất lời hứa lúc nào không hay.

Ngoài ra, con giáp Tị khá toan tính đến lợi ích cá nhân. Nếu giúp ai đó việc gì không có lợi cho mình hoặc động chạm đến lợi ích riêng tư, thà rằng họ không nhận lời giúp đỡ còn hơn. Bên ngoài họ tỏ vẻ nhiệt tình và sẵn sàng hứa hẹn, nhưng bên trong lại tính toán thiệt hơn mọi khía cạnh của vấn đề rồi mới đưa ra quyết định giúp đỡ như thế nào. Bởi vậy, số lần hứa và thất hứa “hờ” của con giáp Tị cũng nhiều vô đối.

Hạng 2: Con giáp Thìn

Người thuộc con giáp Thìn xem tử vi thường có ý thức tự lập rất cao, tính tình vui vẻ và có sức thu hút lớn đối với người khác giới. Vậy nên, rất nhiều bạn bè muốn kết thân với người tuổi Thìn với mong muốn họ sẽ giúp đỡ xử lý những vấn đề phức tạp một cách nhanh chóng, đặc biệt là về phương diện học hành, công việc. Điều này đã tạo sức ép về tâm lý cho con giáp này. Họ cho rằng một khi bản thân được kỳ vọng quá nhiều, nếu từ chối thẳng thắn hoặc không giúp đỡ mọi người thì sẽ khiến họ thất vọng và không còn tín nhiệm mình nữa.

Vậy nên, con giáp Thìn sẵn sàng hứa hẹn rất nhiều, trước là để người cần sự trợ giúp được yên tâm, sau là để chính họ nỗ lực hơn nữa tìm phương án giải quyết. Tuy nhiên, vì áp lực quá lớn, cộng với sự nhiệt tình không cao, nên số lần thất hứa của người tuổi Thìn cũng không hề ít.

Hạng 3: Con giáp Tý

Con giáp Tý thích được kết giao bạn bè rộng rãi và có nhiều mối quan hệ tình yêu cũng như công việc rất phức tạp. Với những việc có thể giúp đỡ người khác, họ thường không bao giờ từ chối dù chưa biết việc đó có nằm trong tầm kiểm soát của mình hay không.

Bản tính vốn nhút nhát nên người thuộc con giáp Tý rất sợ phải gánh vác trách nhiệm quan trọng mà lại có nhiều rủi ro nên thường tự tạo áp lực cho mình. Vì sợ bị thất bại, sợ phải làm người khác thất vọng và sợ bị mọi người đánh giá thấp năng lực của mình nên con giáp này thường hứa rất nhiều, hễ ai muốn giúp là họ có thể hứa ngay lập tức bất chấp kết quả có ra sao. Vậy nên, số lần thất hứa vì chuyện không thành của họ không thể đếm trên đầu ngón tay. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 Con Giáp - Bảng xếp hạng 3 con giáp hay thất hứa nhất

Lý do 12 chòm sao FA và mẫu “nửa kia” lý tưởng

Các sao thường băn khoăn không hiểu vì sao mình
Lý do 12 chòm sao FA và mẫu “nửa kia” lý tưởng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"tốt" như này, tài năng như này, đẹp trai xinh gái như này mà mãi vẫn không thoát khỏi kiếp FA. Sự việc nào cũng có nguyên nhân của nó nha các bạn, không phải cái gì cũng tự nhiên đâu.
 

Bạch Dương

- Lý do FA: chưa bộc lộ được nhiều năng lực của bản thân, bạn cần thể hiện nhiều hơn để người khác có cơ hội cảm nhận trái tim. - Bạn thích người có sức lôi cuốn, mang tới cho bạn sự hiếu kỳ muốn khám phá bí ẩn của người đó.
 
Kim Ngưu

- Lý do FA: quá rụt rè. Kim Ngưu cần tự tin hơn nữa nhé.  - Kim Ngưu sẽ có những ấn tượng tốt đẹp với ai đó trông có vẻ hiền lành một chút. Họ có thể ăn nói nhẹ nhàng và luôn thể hiện bản thân khá chín chắn nữa.
 
Song Tử

- Lý do FA: Vui đùa quá trớn khiến cho người ta cảm thấy như đang bị bạn đùa giỡn. Tốt nhất là nghiêm túc và chín chắn hơn một chút nhé. - Bạn thích những người có khả năng lắng nghe bạn, là bờ vai cho bạn dựa vào, ngòai ra phải tinh tế và tôn trọng bạn nữa.
 
Cự Giải

- Lý do FA: Quá bị động. Bạn cần chủ động và nhiệt tình hơn nữa nhé. - Cự Giải bị say nắng bởi ai có thể mang lại cảm giác vô tư, khoáng đạt nhưng phải hơi trầm lắng một chút, kiểu như là họ khiến bạn có cảm giác bạn là cả thế giới của họ. 

Ly do 12 chom sao FA va mau nua kia ly tuong hinh anh
Ảnh minh họa
Sư Tử

- Lý do FA: ai cũng biết Sư Tử có nhiều tài năng rồi nên không cần khoe khoang quá đà đâu Sư Tử nhé. - Có ai đó rất nhiệt tình với bạn, khi nói chuyện làm cho bạn cảm thấy thoải mái thì đấy chính là dạng người mà bạn sẽ cảm ngay lập tức. Hơn nữa, người đó cũng phải có bản lĩnh một chút, có vẻ tự tin về bản thân để Sư Tử còn “chiến đấu” và “chinh phục” họ nữa.
 
Xử Nữ
 
- Lý do FA: Quá cầu toàn, để ý tới những chi tiết nhỏ nhặt nhất khiến cho người ta có cảm giác bị quản lý và soi mói.  - Vì tính tình như trên nên Xử Nữ cũng yêu cầu khá cao về nửa kia. Người ấy phải kỹ tính, phải cẩn thận, ngoài ra phải có ngoại hình đẹp đẽ và vẻ bề ngoài tử tế.    Thiên Bình

- Lý do FA: Thiên Bình thường không chắc chắn về tình cảm của mình, điều này khiến cho nửa kia cảm thấy bạn không thật lòng với họ.  - Khi gặp ai đó có phong cách tự tin, ngoại hình sáng sủa là bạn đã để ý ngay tới họ rồi. 
 
Bọ Cạp

- Lý do FA: Quá thẳng thắn, yêu ghét rõ ràng. Trong tình yêu thì không nên như vậy đâu nha Bọ Cạp.  - Bọ Cạp mê mẩn những người tính khí ôn hòa, dáng vẻ chững chạc, bạn sẽ để ý ngay người đó sau lần nói chuyện đầu tiên.
 
Nhân Mã
 
- Lý do FA: Đôi khi Nhân Mã khá trẻ con vì một số hành động khác biệt. Muốn có được một nửa tình yêu kia, Nhân Mã sẽ phải nghiêm túc trong tình yêu, chững chạc trong phong cách và ăn nói chín chắn hơn mới được. - Bạn yêu mê đắm người khác giới có tư duy khôn khéo. Họ không cần phải quá thông minh hay lanh lợi. Họ chỉ cần chút tế nhị, chút hiểu biết và một chút đồng cảm là đã chinh phục ngay Nhân Mã rồi. 

Ly do 12 chom sao FA va mau nua kia ly tuong hinh anh 2
Ảnh minh họa
Ma Kết

- Lý do FA: Quá cứng nhắc. Hãy mềm mỏng và khôn khéo, biết cương biết nhu đúng cách với người yêu mới giúp cho Ma Kết thoát được nỗi cô đơn trống trải. - Ma Kết kết những người khéo léo, nhiều tài lẻ. Họ thường vui tính và rất dễ hòa đồng. Bạn sẽ đánh giá cao con người ấy nếu họ chứng tỏ bản lĩnh, sự thông minh và khá hiểu biết.
 
Bảo Bình

- Lý do FA: Dễ bị lung lay, lập trường không vững vàng.  - Bạn sẽ “đổ cái rầm” ngay khi gặp ai đó có khiếu hài hước. Bạn cảm nắng những người có tính tình vui vẻ, thoải mái. Tạo cho bạn cảm giác tự do, bay nhảy và làm những điều mình thích.
 
Song Ngư

- Lý do FA: Dù là nam hay nữ, Song Ngư cũng hơi khá mè nheo. Bạn tạo cho người yêu cái cảm giác bị quấy rầy và cứ phải ra quyết định giúp bạn. - Bạn sẽ bị mũi tên tình yêu đâm trúng ngay khi bạn gặp một người phóng khoáng, vui tươi, tự tin và có khả năng làm cho bạn cười thật nhiều.

► Cùng bói cung hoàng đạo để tìm những điều thú vị về bạn

Theo Xemboituong
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý do 12 chòm sao FA và mẫu “nửa kia” lý tưởng

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1965 ẤT tỵ –

Hướng kê giường Tuổi Ất Tỵ 1965 Nam - Năm sinh dương lịch: 1965 - Năm sinh âm lịch: Ất Tỵ - Quẻ mệnh: Cấn Thổ - Ngũ hành: Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường Tuổi Ất Tỵ 1965 Nam

– Năm sinh dương lịch: 1965

– Năm sinh âm lịch: Ất Tỵ

– Quẻ mệnh: Cấn Thổ

– Ngũ hành: Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);

– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);

thiet-ke-phong-ngu-cho-be

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1965 ẤT tỵ –

Tấm lòng thầy cô và những câu chuyện cảm động.

Ngoài việc dạy dỗ kiến thức, các thầy cô còn dạy chúng ta bài học làm người với tất cả tâm huyết, tấm lòng cũng như tình yêu con người và trách nhiệm lớn lao đối với lớp trẻ, với xã hội.
Tấm lòng thầy cô và những câu chuyện cảm động.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xưa, nghề giáo luôn được coi là một trong những nghề cao quý nhất. Có biết bao câu ca dao, tục ngữ thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo:

Nhất tự vi sư, bán tự vi sư

Không thầy đố mày làm nên

Muốn sang thì bắc cầu kiều,

Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy

Theo quan niệm của Nho giáo thì vị trí người thầy được đề cao chỉ sau vua và trên cả cha mẹ (quân, SƯ; phụ).

Từ xưa, nghề giáo đã được coi là một trong những nghề cao quý nhất

Tuy nhiên không phải tự nhiên mà vị trí, hình ảnh người thầy được đề cao, quý trọng như vậy. Bởi vì, ngoài việc dạy dỗ kiến thức, các thầy cô còn dạy chúng ta bài học làm người với tất cả tâm huyết, tấm lòng cũng như tình yêu con người và trách nhiệm lớn lao đối với lớp trẻ, với xã hội.

Có rất nhiều câu chuyện cảm động về những người thầy, người cô – những người làm công việc cao quý này. Nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20-11-2015 sắp tới, chúng ta cùng tri ân tấm lòng cao cả của thầy cô nhé!

>> Xem LỊCH VẠN NIÊN mới nhất 2016!

>> Xem NGÀY TỐT XẤU mới nhất 2016!

1./ Tấm lòng người thầy và những tờ tiền cũ

Cuối cùng nó cũng đậu đại học. Người đầu tiên nó muốn thông báo tin quan trọng ấy không phải là ba hay mẹ nó mà là người thầy kính yêu của nó…

Nhà nó nghèo, lại đông anh em, quê nó cũng nghèo nên từ lâu chẳng có mấy ai dám nghĩ đến chuyện cho con vào đại học. Ba mẹ nó cũng vậy, phần vì quá nghèo, phần là vì nghĩ đến điều kiện của con mình “làm sao mà chọi với người ta”!… Thầy là người duy nhất ủng hộ nó, cho nó niềm tin rằng “mình có thể”.

Ân cần dạy dỗ. Thầy không chỉ dạy kiến thức mà cả bài học làm người

(Hình minh họa)

Vui mừng chẳng được bao lâu, bao nhiêu lo lắng tràn về vây lấy nó… Năm năm trời, hàng trăm thứ tiền như bầy ong vo ve trong đầu nó.

Rồi thầy đến mang cho nó một lô sách, vở mà nó đoán là những bài học “nhân-lễ-nghĩa” của thầy, dúi vào tay nó một gói nhỏ mà thầy bảo là “bí kíp” rồi dặn chỉ lúc nào khó khăn nhất mới được mở ra. Nó đã không “cảnh giác” thừa. Gói “bí kíp” mà lúc nhận từ tay thầy nó đã ngờ ngợ là một xấp những tờ tiền 10.000đ bọc trong hai lớp nilon cũ kỹ, những tờ tiền được vuốt phẳng phiu phần nhiều đã nhàu nát mà nó tin rằng thầy đã để dành từ lâu lắm! 900.000đồng, nó cứ mân mê những đồng 10.000 đã cũ mà thèm một góc không có ai để khóc.

Dù còn vất vả, khó khăn thầy vẫn luôn dành hết tấm lòng cho học sinh

(Hình minh họa)

Đã hai năm kể từ cái ngày thầy lặn lội lên Sài Gòn thăm nó, dúi vào tay nó những đồng 10.000 nhọc nhằn rồi lại vội vã trở về. Sau đó thầy chuyển công tác. Hai năm, thỉnh thoảng nó vẫn nhận được những đồng 10.000 của thầy (lạ thay, lại vào những lúc tưởng chừng như nó bế tắc nhất!)… Hai năm, nó vẫn chưa một lần về thăm thầy.

Trưa, mới đi học về, mẹ điện lên báo: “Thầy H. mất rồi!”. Nó chỉ lắp bắp hỏi được ba chữ: “Sao thầy mất?”, rồi sụp xuống khi mẹ cũng nghèn nghẹn ở đầu dây bên kia: “Thầy bệnh lâu rồi mà không ai biết. Ngày đưa thầy vào viện, bác sĩ chụp hình mới biết thầy đã hư hết lục phủ ngũ tạng rồi, chưa ai kịp đi thăm thì thầy đã…”.

Hình ảnh người thầy hiền hậu luôn hiện lên trong suy nghĩ của mỗi học sinh

(Hình minh họa)

Nó bỏ hết mọi sự leo lên xe đò. Trong cái nóng ban trưa hầm hập với cơn say xe mệt mỏi, nó thấy thầy hiền hậu đến bên nó, dúi vào đôi tay nóng hổi của nó những tờ 10.000 đồng lấp lánh… Đến bây giờ nó mới để ý thấy thầy đã xanh xao lắm, bàn tay tài hoa khéo léo ngày xưa đã gân guốc lên nhiều lắm… Nó chợt tỉnh, nước mắt lại lăn dài trên má, trái tim nó gào lên nức nở: “Thầy ơi… sao không đợi con về…!?”.

Vì nó cứ đinh ninh: nếu đổi những đồng 10.000 kia thành thuốc, thầy sẽ sống cho đến khi nó kịp trở về

>> Đã có TỬ VI 2016 mới nhất. 

>> Xem TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất.

2./ Cô giáo - Người mẹ thứ hai của tôi.

Tuổi thơ của tôi không được đủ đầy như bao đứa trẻ khác. Vừa sinh ra đã không được thấy mặt ông bà nội, ngoại. Lên sáu tuổi, mẹ tôi qua đời vì bạo bệnh. Nhà đông anh em, cha lại phải đi làm xa, năm anh chị em sống bao bọc lấy nhau, cùng bảo ban nhau trong cuộc sống. Khó khăn, thiếu thốn là vậy nhưng chị em tôi luôn là tấm gương điển hình dẫn đầu trong lớp và trong trường về thành tích học tập. Đó là nhờ công dạy bảo của cha, nhưng cũng là nhờ các thầy, cô giáo luôn tận tâm chỉ bảo. Với tôi, suốt cuộc đời này, dẫu có đi đâu về đâu, tôi cũng không bao giờ quên được cô Lịch – cô giáo chủ nhiệm lớp 3 của tôi hồi ấy – người mẹ hiền thứ hai đã chắp cánh ước mơ cho tôi ngay từ những ngày thơ ấu.

Từ quê nghèo chuyển lên thị trấn sinh sống, lại mồ côi mẹ, tôi thuộc vào hàng học sinh nghèo nhất lớp. Trong khi các bạn trong lớp quần nọ áo kia, cặp sách, giày dép đủ các loại đắt tiền thì tôi quanh năm chỉ có mỗi bộ đồng phục quần xanh áo trắng và thêm chiếc áo ấm đã cũ màu vào mùa đông. Nhưng bù lại, tôi là học sinh dẫn đầu trong lớp về tất cả các môn học. Vốn dạn dĩ, tôi không tự kiêu vì thành tích học tập của mình, nhưng luôn thấy mặc cảm và tự ti về hoàn cảnh gia đình. Tôi không chơi thân với ai, chỉ sống khép mình ở cuối góc lớp.

Cô là giáo viên chủ nhiệm mới của lớp tôi, thay cho cô chủ nhiệm cũ vừa chuyển trường. Cô có gương mặt thật hiền, dáng người thon thả và giọng nói miền Bắc dễ thương đến lạ.

- Chào các em, cô tên Lịch, là chủ nhiệm mới của các em từ bây giờ. Cô sẽ rất vui nếu các em xem cô là bạn, chia sẻ với cô mọi khó khăn trong học tập cũng như cuộc sống.

Rồi cô đi từng bàn, hỏi thăm từng học sinh một. Tôi dõi mắt theo cô từ lúc cô mới bước vào lớp, bỗng thấy hồi hộp khi cô bước lại gần và hỏi thăm về gia đình tôi. Tôi trả lời cô, giọng lí nhí trong cổ họng với mặc cảm phận nghèo. Bỗng nhiên, cô xoa đầu tôi, mỉm cười:

- Cô có xem qua học bạ của em. Em giỏi lắm, cố gắng phát huy nữa nhé. Có gì khó khăn cứ bảo với cô, đừng ngại.

Cô nói và nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười. Nụ cười toát lên nét nhân hậu, thân thương và gần gũi. Ngay từ lúc đó, tôi thấy mình sẽ gắn bó với cô.

Từ lúc cô Lịch về chủ nhiệm, lớp tôi “thay da đổi thịt” hẳn lên. Từ một lớp học lực chỉ đạt loại trung bình khá, dần vươn lên đứng đầu trong bảng xếp loại của trường. Những giờ học của cô khiến cả lớp cảm thấy rất hứng thú, chỉ mong thời gian trôi chậm lại. Cô không dạy cứng nhắc theo giáo trình, không phụ thuộc vào sách giáo khoa, vậy mà sự linh hoạt trong cách truyền đạt của cô khiến cả lớp háo hức như nuốt lấy từng lời giảng.

Cô biết tường tận hoàn cảnh gia đình của từng đứa trong lớp. Đứa nào học kém, cô chủ động ghép nhóm học kèm để các bạn học khá kèm cặp cho các bạn học yếu… Phong trào học tập trong lớp sôi động hẳn lên. Ngay cả những học sinh cá biệt trong lớp cũng trở nên yêu thích và chăm chỉ học tập. Chỉ cần một hôm vắng bóng cô, chúng đã nhao nhao lên hỏi thăm và thế nào cuối giờ học cũng dẫn đầu các bạn trong lớp đến nhà thăm cô giáo ốm. Lớp tôi đã trở thành một tập thể rất đoàn kết và cô Lịch chính là “cô tiên” làm nên điều kỳ diệu đó.

 Kỳ thi vở sạch chữ đẹp của huyện năm đó, cô chọn tôi làm đại diện cho lớp và cũng là cho khối lớp 3 tham dự cuộc thi. Vốn không có tiền mua những cuốn vở đẹp nhưng nhờ chữ đẹp và trình bày sạch sẽ nên vở viết của tôi nhìn rất đẹp mắt. Chỉ có điều, tôi hơi ái ngại vì giấy báo bọc vở thì đã cũ, nên nhìn bên ngoài những cuốn vở có vẻ xấu xí. Cuối giờ học, cô gặp riêng tôi, nhỏ nhẹ bảo: “Chiều Hằng mang vở đến nhà cô nhé. Hai cô trò mình sẽ cùng “tu bổ” lại nó một tý”.

Tới nhà cô, tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy nhà cô ở cũng giản dị và chẳng lớn hơn nhà tôi là mấy. Chỉ khác là… nhà cô rất ít người. Hoá ra, vợ chồng cô không có con. “Cô chú hiếm muộn đường con cái nên quyết định sẽ ở vậy với nhau suốt đời” – cô cười buồn, nói như đọc được suy nghĩ của tôi.

Cô ân cần bọc lại sách vở, thay nhãn vở mới cho tôi, chỉ cho tôi các trường hợp ra đề mà ban giám khảo có thể đề cập tới. Cô khuyên tôi nên nỗ lực học tập để sau này thi vào đại học. Cô bảo đó là con đường duy nhất sẽ giúp tôi thoát khỏi phận nghèo. Rồi cô hỏi tôi về hoàn cảnh gia đình… Biết tôi mồ côi mẹ từ bé, cô ngồi lặng đi một lúc, rồi… bất ngờ cô ôm tôi vào lòng: “Hãy xem cô như người mẹ của em, nếu em muốn”. Trong vòng tay của cô, tôi thấy mình trở nên bé bỏng, cảm giác gần gũi, thân thiết như chính mẹ ruột của mình. Có cái gì đó trỗi dậy trong lòng tôi… như tình mẫu tử thiêng liêng mà bấy lâu tôi thiếu vắng…

Kỳ thi ấy, tôi không giành giải nhất. Cầm bằng khen giải nhì trên tay, tự dưng tôi ứa nước mắt. Tôi đã không làm tròn lời hứa với lòng mình, mang giải nhất về tặng cô… Suốt cả buổi học, tôi cúi gằm mặt… không dám ngước lên nhìn cô. Bỗng giật mình khi một bàn tay đặt nhẹ lên vai và giọng cô nhỏ nhẹ: “Thôi nào cô bé. Cô biết em đã cố gắng hết sức rồi mà.”. Tôi ngẩng đầu nhìn cô, mắt nhòe lệ nhưng chan chứa yêu thương…

Cô Lịch chủ nhiện lớp tôi cho tới lúc bọn tôi thi hết cấp. Năm đó, lớp tôi là lớp duy nhất có học sinh thi vượt cấp đạt 100%. Buổi liên hoan chia tay thấm đẫm nước mắt. Cô và trò ôm nhau cùng khóc. Đứa nào cũng ước giá như thời gian dừng lại… lưu luyến, bịn rịn không muốn rời xa.

Bây giờ, tôi đã lớn khôn, đã ra trường và có công việc ổn định nơi thành phố. Mỗi năm về quê ăn tết, tôi lại ghé vào thăm cô, mua tặng cô loài hoa hồng tiểu muội mà cô rất yêu thích. Cô giờ đã có tuổi, mái tóc đã “pha sương”, trên mặt đã điểm một vài nếp nhăn. Vợ chồng cô vẫn sống giản dị trong ngôi nhà nhỏ xinh thuở nào. Mười bốn năm đã trôi qua, vậy mà cô tôi vẫn giống như ngày xưa, dịu dàng và nhân hậu với đôi mắt rạng ngời… Dẫu đi hết cuộc đời này, tôi cũng không thể nào quên được đôi mắt ấy…./


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tấm lòng thầy cô và những câu chuyện cảm động.

Xem tuổi mệnh gì –

Tra cứu Mệnh và Cung từ 1924 đến 2043. Qua bảng tra cứu bạn có thể biết Năm 2013 mệnh gì cung gì. Bạn vào bảng, nhìn vào hàng năm: 2013, nếu là nữ thì Cung Khảm thuộc Thủy, nam thì cung Khôn thuộc Thổ. Còn mệnh chung là mệnh Thủy. NĂM TUỔI CUNG HÀNH

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tra cứu Mệnh và Cung từ 1924 đến 2043.

Qua bảng tra cứu bạn có thể biết Năm 2013 mệnh gì cung gì. Bạn vào bảng, nhìn vào hàng năm: 2013, nếu là nữ thì Cung Khảm thuộc Thủy, nam thì cung Khôn thuộc Thổ. Còn mệnh chung là mệnh Thủy.

28_55

NĂM TUỔI CUNG HÀNH
NAM NỮ
1924 Giáp Tý Tốn: Mộc Khôn: Thổ Kim +
1925 Ất Sửu Chấn: Mộc Chấn: Mộc Kim –
1926 Bính Dần Khôn: Thổ Tốn: Mộc Hỏa +
1927 Đinh Mão Khảm: Thủy Cấn: Thổ Hỏa –
1928 Mậu Thìn Ly: Hỏa Càn: Kim Mộc +
1929 Kỷ Tỵ Cấn: Thổ Đoài: Kim Mộc –
1930 Canh Ngọ Đoài: Kim Cấn: Thổ Thổ +
1931 Tân Mùi Càn: Kim Ly: Hỏa Thổ –
1932 NhâmThân Khôn: Thổ Khảm: Thủy Kim +
1933 Quý Dậu Tốn: Mộc Khôn: Thổ Kim –
1934 GiápTuất Chấn: Mộc Chấn: Mộc Hỏa +
1935 Ất Hợi Khôn: Thổ Tốn: Mộc Hỏa –
1936 Bính Tý Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thủy +
1937 Đinh Sửu Ly: Hỏa Càn: Kim Thủy –
1938 Mậu Dần Cấn: Thổ Đoài: Kim Thổ +
1939 Kỷ Mão Đoài: Kim Cấn: Thổ Thổ –
1940 Canhthìn Càn: Kim Ly: Hỏa Kim +
1941 Tân Tỵ Khôn: Thổ Khảm: Thủy Kim –
1942 Nhâm Ngọ Tốn: Mộc Khôn: Thổ Mộc +
1943 Qúy Mùi Chấn: Mộc Chấn: Mộc Mộc –
1944 GiápThân Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thủy +
1945 Ất Dậu Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thủy –
1946 BínhTuất Ly: Hỏa Càn: Kim Thổ +
1947 Đinh hợi Cấn: Thổ Đoài: Kim Thổ –
1948 Mậu Tý Đoài: Kim Cấn: Thổ Hỏa +
1949 Kỷ Sửu Càn: Kim Ly: Hỏa Hỏa –
1950 Canh Dần Khôn: Thổ Khảm: Thủy Mộc +
1951 Tân Mão Tốn: Mộc Khôn: Thổ Mộc –
1952 NhâmThìn Chấn: Mộc Chấn: Mộc Thủy +
1953 Quý Tỵ Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thủy –
1954 Giáp Ngọ Khảm: Thủy Cấn: Thổ Kim +
1955 Ất Mùi Ly: Hỏa Càn: Kim Kim –
1956 Bính thân Cấn: Thổ Đoài: Kim Hỏa +
1957 Đinh Dậu Đoài: Kim Cấn: Thổ Hỏa –
1958 Mậu Tuất Càn: Kim Ly: Hỏa Mộc +
1959 Kỷ Hợi Khôn: Thổ Khảm: Thủy Mộc –
1960 Canh Tý Tốn: Mộc Khôn: Thổ Thổ +
1961 Tân Sửu Chấn: Mộc Chấn: Mộc Thổ –
1962 Nhâm Dần Khôn: Thổ Tốn: Mộc Kim +
1963 Quý Mão Khảm: Thủy Cấn: Thổ Kim –
1964 GiápThìn Ly: Hỏa Càn: Kim Hỏa +
1965 Ất Tỵ Cấn: Thổ Đoài: Kim Hỏa –
1966 Bính Ngọ Đoài: Kim Cấn: Thổ Thủy +
1967 Đinh Mùi Càn: Kim Ly: Hỏa Thủy –
1968 Mậu Thân Khôn: Thổ Khảm: Thủy Thổ +
1969 Kỷ Dậu Tốn: Mộc Khôn: Thổ Thổ –
1970 CanhTuất Chấn: Mộc Chấn: Mộc Kim +
1971 Tân Hợi Khôn: Thổ Tốn: Mộc Kim –
1972 Nhâm Tý Khảm: Thủy Cấn: Thổ Mộc +
1973 Quý Sửu Ly: Hỏa Càn: Kim Mộc –
1974 Giáp Dần Cấn: Thổ Đoài: Kim Thủy +
1975 Ất Mão Đoài: Kim Cấn: Thổ Thủy –
1976 BínhThìn Càn: Kim Ly: Hỏa Thổ +
1977 Đinh Tỵ Khôn: Thổ Khảm: Thủy Thổ –
1978 Mậu Ngọ Tốn: Mộc Khôn: Thổ Hỏa +
1979 Kỷ Mùi Chấn: Mộc Chấn: Mộc Hỏa –
1980 CanhThân Khôn: Thổ Tốn: Mộc Mộc +
1981 Tân Dậu Khảm: Thủy Cấn: Thổ Mộc –
1982 NhâmTuất Ly: Hỏa Càn: Kim Thủy +
1983 Quý Hợi Cấn: Thổ Đoài: Kim Thủy –
1984 Giáp tý Đoài: Kim Cấn: Thổ Kim +
1985 Ất Sửu Càn: Kim Ly: Hỏa Kim –
1986 Bính Dần Khôn: Thổ Khảm: Thủy Hỏa +
1987 Đinh Mão Tốn: Mộc Khôn: Thổ Hỏa –
1988 Mậu Thìn Chấn: Mộc Chấn: Mộc Mộc +
1989 Kỷ Tỵ Khôn: Thổ Tốn: Mộc Mộc –
1990 Canh Ngọ Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thổ +
1991 Tân Mùi Ly: Hỏa Càn: Kim Thổ –
1992 NhâmThân Cấn: Thổ Đoài: Kim Kim +
1993 Quý Dậu Đoài: Kim Cấn: Thổ Kim –
1994 GiápTuất Càn: Kim Ly: Hỏa Hỏa +
1995 Ất Hợi Khôn: Thổ Khảm: Thủy Hỏa –
1996 Bính Tý Tốn: Mộc Khôn: Thổ Thủy +
1997 Đinh Sửu Chấn: Mộc Chấn: Mộc Thủy –
1998 Mậu Dần Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thổ +
1999 Kỷ Mão Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thổ –
2000 Canhthìn Ly: Hỏa Càn: Kim Kim +
2001 Tân Tỵ Cấn: Thổ Đoài: Kim Kim –
2002 Nhâm Ngọ Đoài: Kim Cấn: Thổ Mộc +
2003 Qúy Mùi Càn: Kim Ly: Hỏa Mộc –
2004 GiápThân Khôn: Thổ Khảm: Thủy Thủy +
2005 Ất Dậu Tốn: Mộc Khôn: Thổ Thủy –
2006 BínhTuất Chấn: Mộc Chấn: Mộc Thổ +
2007 Đinh hợi Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thổ –
2008 Mậu Tý Khảm: Thủy Cấn: Thổ Hỏa +
2009 Kỷ Sửu Ly: Hỏa Càn: Kim Hỏa –
2010 Canh Dần Cấn: Thổ Đoài: Kim Mộc +
2011 Tân Mão Đoài: Kim Cấn: Thổ Mộc –
2012 NhâmThìn Càn: Kim Ly: Hỏa Thủy +
2013 Quý Tỵ Khôn: Thổ Khảm: Thủy Thủy –
2014 Giáp Ngọ Tốn: Mộc Khôn: Thổ Kim +
2015 Ất Mùi Chấn: Mộc Chấn: Mộc Kim –
2016 Bínhthân Khôn: Thổ Tốn: Mộc Hỏa +
2017 Đinh Dậu Khảm: Thủy Cấn: Thổ Hỏa –
2018 Mậu Tuất Ly: Hỏa Càn: Kim Mộc +
2019 Kỷ Hợi Cấn: Thổ Đoài: Kim Mộc –
2020 Canh Tý Đoài: Kim Cấn: Thổ Thổ +
2021 Tân Sửu Càn: Kim Ly: Hỏa Thổ –
2022 Nhâm Dần Khôn: Thổ Khảm: Thủy Kim +
2023 Quý Mão Tốn: Mộc Khôn: Thổ Kim –
2024 GiápThìn Chấn: Mộc Chấn: Mộc Hỏa +
2025 Ất Tỵ Khôn: Thổ Tốn: Mộc Hỏa –
2026 Bính Ngọ Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thủy +
2027 Đinh Mùi Ly: Hỏa Càn: Kim Thủy –
2028 Mậu Thân Cấn: Thổ Đoài: Kim Thổ +
2029 Kỷ Dậu Đoài: Kim Cấn: Thổ Thổ –
2030 CanhTuất Càn: Kim Ly: Hỏa Kim +
2031 Tân Hợi Khôn: Thổ Khảm: Thủy Kim –
2032 Nhâm Tý Tốn: Mộc Khôn: Thổ Mộc +
2033 Quý Sửu Chấn: Mộc Chấn: Mộc Mộc –
2034 Giáp Dần Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thủy +
2035 Ất Mão Khảm: Thủy Cấn: Thổ Thủy –
2036 BínhThìn Ly: Hỏa Càn: Kim Thổ +
2037 Đinh Tỵ Cấn: Thổ Đoài: Kim Thổ –
2038 Mậu Ngọ Đoài: Kim Cấn: Thổ Hỏa +
2039 Kỷ Mùi Càn: Kim Ly: Hỏa Hỏa –
2040 CanhThân Khôn: Thổ Khảm: Thủy Mộc +
2041 Tân Dậu Tốn: Mộc Khôn: Thổ Mộc –
2042 NhâmTuất Chấn: Mộc Chấn: Mộc Thủy +
2043 Quý Hợi Khôn: Thổ Tốn: Mộc Thủy –


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi mệnh gì –

Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Quẻ Quan Âm thứ 77 Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu đoán rằng nếu muốn có kết quả tốt, cầh phải nhờ quý nhân chỉ bảo và giúp đỡ.
Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 77 được xây dựng trên điển cố: Phụng bích quy Triệu hay đưa ngọc bích về Triệu.

Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Hiện giờ chẳng khác gì nói mơ trong mộng, đừng nên chờ đợi hư ảo. Nếu muốn kết quả tốt đẹp, cần phải nhờ quý nhân chỉ bảo và tương trợ.

Thử quái mộng trung đắc bảo chi tượng. Phàm sự hư đa thiểu thực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu có được một viên ngọc bích, gọi là Hòa thị bích. Vua nước Tần biết được, cậy nước mình có thế lực lớn mạnh, liền viết một bức thư, sai người gửi cho vua Triệu, nói rằng vua Tần muốn dùng mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viên ngọc Hòa thị bích.

Vua Triệu đọc thư xong, liền cùng các đại thần bàn bạc. Các đại thần cũng không nghĩ ra biện pháp gì hay. Đang trong lúc khẩn trương, bỗng một người tiến lên nói rằng, có người giỏi mưu tính tên là Lạn Tương Như (329 tr. CN – 259 tr. CN), rất thông minh dũng cảm. Vua Triệu sai người truyền gọi Lạn Tương Như vào gặp, hỏi anh ta nên xử lý sự việc này như thế nào. Lạn Tương Như nói: “Thưa đại vương, xin hãy cho tôi mang viên ngọc Hòa thị bích đi gặp vua Tần. Đến đó tôi sẽ tùy cơ hành sự, nếu như không chắc chắn vua Tần sẽ dùng mười lăm tòa thành trì để hoán đổi, tôi nhất định sẽ mang viên ngọc Hòa thị bích trở về một cách vẹn toàn”. Vua Triệu thấy Lạn Tương Như là người dũng cảm lại thông minh, liền đồng ý.

Lạn Tương Như đến nước Tần, vua Tần tiếp đón Tương Như ờ trong cung. Lạn Tương Như hai tay nâng viên ngọc Hòa thị bích dâng lên vua Tần. Vua Tần xem đi xem lại, vô cùng thích thú. Vua Tần xem xong, lại truyền cho các đại thần từng người một xem, sau đó lại truyền cho các phi tần ở hậu cung xem.

Lạn Tương Như đứng ở bên cạnh chờ đợi rất lâu, cũng không thấy vua Tần đề cập đến chuyện cắt mười lăm tòa thành trì để trao đối, biết rằng vua Tần vốn không có thành ý dùng thành trì để đổi lấy viên ngọc quý. Nhưng ngọc quý đã vào tay vua Tần rồi, làm thế nào để lấy lại được đây? Tương Như tiến lên, nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này thoạt nhìn tuy rất đẹp, nhưng vẫn có một khiếm khuyết nhỏ, xin để tôi chỉ cho đại vương xem!” Vua Tần vừa nghe thấy có khiếm khuyết, vội sai người đem viên ngọc từ hậu cung đến giao cho Lạn Tương Như.

Lạn Tương Như cầm viên ngọc Hòa thị bích, lùi lại mấy bước, tựa người vào cây cột, giận dữ nói với vua Tần rằng: “Khi trước đại vương sai người gửi thư cho vua Triệu, nói rằng sẽ đem mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viêh ngọc Hòa thị bích. Các đại thần nước Triệu đều nói rằng, không nên tin lời dối trá của người nước Tần. Tôi đã phản bác rằng, đến thường dân còn coi trọng tín nghĩa, huống chi lại là đại vương của nước Tần! Vua Triệu nghe lời của tôi, mới sai tôi đem viên ngọc Hòa thị bích đến đây. Thế mà đại vương nhận lấy ngọc quý, tùy tiện giao cho kẻ dưới xem, lại không hề đề cập đến chuyện trao đổi mười lăm tòa thành trì. Có thể thấy rằng đại vương quả không có thực tâm muốn dùng thành trì để đối lấy ngọc quý. Nay ngọc đã ở trong tay tôi, nếu như đại vương nhất định muốn ép buộc, tôi sẽ đập viên ngọc lên cây cột này cho vỡ tan!” Nói xong, Lạn Tương Như nâng cao viên ngọc Hòa thị bích, ra vẻ như định đập vào cây cột.

Vua Tần thấy vậy, vội nói: “Đại phu chớ có nóng vội, lời ta đã nói sao có thế không giữ được!” Nói rồi sai người mang bức địa đò đến, giả bộ chỉ vào bức địa đò nói: “Từ đây đến đây, tống cộng mười lăm tòa thành, đều cắt cho nước Triệu!” Lạn Tương Như nghĩ thầm: “Vua Tần thường hay giở trò lừa bịp, chớ có mắc lừa ông ta lần nữa!” Bèn nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này là vật báu nổi tiếng trong thiên hạ, khi tôi mang nó đến nước Tần, vua Triệu đã phải trai giới năm ngày, lại tổ chức nghi thức tiễn đưa báu vật rất long trọng ờ triều đình. Nay đại vương muốn nhận viên ngọc quý này, cũng nên trai giới năm ngày, và tổ chức nghi thức nhận báu vật ở triều đình, tôi mới có thể dâng ngọc quý lên được! “Vua Tần nói: “Được! Ta sẽ làm theo như vậy!”

Lạn Tương Như mang viên ngọc đó đến công quán, cho một thuộc hạ cải trang thành người buôn bán, giấu viên ngọc ở trong người, lặng lẽ theo con đường nhỏ trở về nước Triệu. Cuối cùng ngọc bích đã trở về nước Triệu, vua Tần đành phải thả Lạn Tương Như về.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Các tháng nên, không nên khởi công xây dựng công trình –

Tháng khởi công xây dựng các công trình xét theo hành Mệnh - tuổi của chủ công trình. 1. Mệnh Kim Các tháng nên khởi công: - Khởi công tháng Tư sẽ phát giàu sang. - Khởi công tháng Sáu sẽ rất tốt mọi mặt. - Khởi công tháng Chín sẽ tốt chung. Các thán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng khởi công xây dựng các công trình xét theo hành Mệnh – tuổi của chủ công trình.

21122011p6171535359

1. Mệnh Kim

Các tháng nên khởi công:

– Khởi công tháng Tư sẽ phát giàu sang.
– Khởi công tháng Sáu sẽ rất tốt mọi mặt.
– Khởi công tháng Chín sẽ tốt chung.

Các tháng không nên khởi công

Tháng Giêng, Hai, Ba, Năm, Mười, Mười một và Mười hai sẽ không tốt. Mệnh Kim nếu khởi công vào các tháng âm lịch vừa nêu sẽ gặp tai họa, ốm đau hoặc có người chết.

2. Mệnh Mộc

Các tháng nên khởi công:

– Khởi công tháng Hai sẽ giàu sang.
– Khởi công tháng Ba sẽ quý.
– Khởi công tháng Năm sẽ giàu.
– Khởi công tháng Chín sẽ phát huy tài năng.
– Khởi công tháng Mười hai con cháu phát đạt.

Các tháng không nên khởi công:

– Nếu khởi công vào tháng Giêng: hung sát.
– Nếu khởi công vào tháng Tư: bệnh tật.
– Nếu khởi công vào tháng Sáu: hung sát.
– Nếu khởi công vào tháng Bảy: nghèo.
– Nếu khởi công vào tháng Tám: tán tài.
– Nếu khởi công vào tháng Mười: hung sát.
– Nếu khởi công vào tháng Mười một: hao tài.

3. Mệnh Thủy

Các tháng nên khởi công:

– Khởi công tháng Hai, tháng Sáu, tháng Chín, tháng Mười sẽ phát giàu sang.

Các tháng không nên khởi công:

– Tháng Giêng: hại người, hại của.
– Tháng Ba: hung hại.
– Tháng Tư: ốm đau.
– Tháng Năm: suy kém dần.
– Tháng Bảy: vong hại.
– Tháng Tám: ốm đau.
– Tháng Mười một: hại người, hại của.
– Tháng Mười hai: tài sản sa sút.

4. Mệnh Hỏa

Các tháng nên khởi công:

– Khởi công tháng Hai, tháng Tư, tháng Sáu sẽ phát giàu có.
– Khởi công tháng Tám sẽ được phong bổ chức tước.
– Khởi công tháng Mười sẽ phát con cháu.
– Khởi công tháng Mười hai sẽ rất giàu có.

Các tháng không nên khởi công:

– Tháng Giêng: không may.
– Tháng Ba: có thể có người chết.
– Tháng Năm: mất mát tài sản lớn.
– Tháng Bảy, tháng Chín: nguy hại người, của.
– Vào tháng Mười một: không may.

5. Mệnh Thổ

Các tháng nên khởi công:

– Khởi công tháng Tư sẽ phát giàu có, phú quý.
– Khởi công tháng Sáu sẽ may mắn mọi điều.
– Khởi công tháng Chín sẽ phát giàu có.

Các tháng không nên khởi công:

– Tháng Giêng: có hại.
– Tháng Hai: sẽ nghèo dần.
– Tháng Ba: hao tổn, mất của.
– Tháng Năm: nguy hại người, của.
– Tháng Bảy: không may.
– Tháng Tám: ngày càng kém mọi mặt.
– Tháng Mười: hay ốm đau.
– Tháng Mười một: bất hòa trong gia đình.
– Tháng Mười hai: hay ốm đau.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các tháng nên, không nên khởi công xây dựng công trình –

Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Một bài dịch hay của anh Quách Ngọc Bội. Mời các bạn cùng tham khảo.
Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chương 1: Đại cương về Thiên Văn, Lịch Pháp

Soạn giả (khuyết danh) chú: Chương này giới thiệu về kiến thức thiên văn lịch pháp, là cơ sở của nguyên lý tượng học trong Tử Vi.

Hiện tượng ánh sáng đẹp đẽ của bảy tinh diệu ở bầu trời, là Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh vậy. Nhật là chủ của Dương tinh, Nguyệt là chủ của Âm tinh, Ngũ Tinh là các sao của ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).

Chúng tinh phân bố mà bày ra, còn Thể (QNB chú: bản thân ta, ám chỉ trái đất của ta) thì Sinh ở mặt đất, trong khi các Tinh thì Thành ở trên bầu trời. Chỗ ở của từng chòm dịch chuyển đều có sở thuộc của nó cả, như ở tại thiên nhiên thì lấy vật làm tượng, tại triều đình thì lấy quan làm tượng, tại con người thì lấy sự việc làm tượng. Cái đó là dùng thần mà gán vào năm loại vậy, chính là có 35 cái tên, Một cư ở trung ương gọi là Bắc đẩu, bốn phương sắp xếp mỗi nơi có bảy chòm là thành ra có 28 xá, Nhật Nguyệt vận hành, trải qua biểu thị cát hung vậy.

Đoạn thoại của đích thân Trương Hành thời Đông Hán, có thể coi là tổng cương của Thiên Văn học cổ đại Trung Quốc.

Tiết thứ nhất: Xem bầu trời (thiên quan)

1.1 Ba thuyết thiên tượng học cổ đại.

Cổ thiên tượng học gồm có ba thuyết là Tuyên Dạ thuyết, Cái Thiên thuyết và Hồn Thiên thuyết.

1.1.1 Thuyết Tuyên Dạ

Thuyết Tuyên Dạ này do Hi Minh người Hán ghi theo thuyết của người xưa trong truyện về Tổ ở Tuyên Thành, dùng phương pháp quan trắc thiên văn chuyên vào ban đêm đứng tại mặt đất mà quan trắc Nhật Nguyệt với Ngũ tinh hoạt động. Thuyết Tuyên Dạ này cho rằng, bầu trời không có hình dạng nhất định, cũng chẳng phải do vật chất cấu thành, cao vời vợi mà chẳng có chỗ tận cùng, Nhật Nguyệt tinh thần đều trôi nổi lơ lửng trong không trung, động với tĩnh đều nương nhờ vào Khí.

Loại quan điểm này thể hiện sự mộc mạc và sắc thái của chủ nghĩa hư vô.

(QNB chú: nội dung của thuyết nằm ở quan điểm hư vô, hư không mà cho rằng: bầu trời trống rỗng vô tận, Nhật Nguyệt và các sao chỉ lá Khí tích lại và chúng trôi lơ lửng trong không trung).

1.1.2 Thuyết Hồn Thiên

Thuyết Hồn Thiên có nguồn gốc từ triều Hán, thời kỳ Vũ Đế, do Trương Hành chế ra Hồn Thiên Nghi. Hồn Thiên phái này xem các thiên thể trên trời là một tổng thể, còn đất như cái nhân mà nằm ở giữa, có các cực Bắc Nam, đề xuất quan điểm "Thiên bao ư ngoại, địa cư kỳ trung" (trời bao bọc ở bên ngoài, đất nằm ở bên trong).

Loại phương pháp xem này gần với cách xem của khoa học thiên văn hiện đại.

(QNB chú: Ngày nay thường diễn nghĩa thuyết Hồn Thiên bằng hình tượng: Bầu trời (Thiên cầu) tựa như là quả trứng còn trái đất là lòng đỏ nằm ở giữa. Vòm trời có khí ở bên trong, phía dưới chân trời là nước, trái đất nổi ở trên nước. Trên vòm trời có ba Thần là Nhật, Nguyệt và Tinh. Dưới đất có ba Hình là Thủy, Thổ và Khí. Thần và Hình thì đều có thể trong thấy được. Mặt Trời như nằm trên cái vòng xoay mà chạy mãi không ngừng. Ngoài vòm trời thì không gian vô tận gọi là Vũ Trụ).

Hồn Thiên phái cho rằng, Thiên Cầu có Bắc thì cao mà Nam thì thấp, xoay tròn xung quanh thông qua trục của Thiên Cực mà vận hành. Từ Thiên trục của Thiên Cầu, lấy vuông góc ra mà được vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích đạo, phân chia Thiên Cầu thành hai nửa Nam Bắc đều nhau, Xích đạo với Hoàng đạo nghiêng 1 góc khoảng 24 độ, Thái Dương ở trên đường Hoàng đạo mà vận hành. Thiên Cầu xoay quanh trục Nam Bắc cực mỗi vòng tương ứng với một ngày.

Vào ngày Hạ Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Bắc của hoàng đạo, chu nhật (chu trình trong một ngày) của Thái Dương có đến quá nửa là ở trên mặt đất (QNB chú: ý muốn nói mặt trời lên đến điểm cao nhất trên thiên cầu, nên gióng sang Thiên trục Bắc Nam thì được điểm Bắc cao nhất, và ngày thì dài nhất trong năm nên thời gian mặt trời chiếu trên mặt đất là có tới hơn một nửa so với tổng thời gian mà nó đi hết một vòng quay), còn nửa ít ỏi kia là nó nằm phía dưới của mặt đất (ý nói mặt trời lặn và thời gian của đêm rất ngắn), biểu hiện là Thái Dương ở trên mặt đất với thời gian lâu hơn, còn ở dưới mặt đất thì với thời gian ít hơn.

Vào ngày Đông Chí, Thái Dương ở tại điểm tối Nam của hoàng đạo, chu nhật của nó có tới quá nửa là ở dưới đất, còn nửa ít ỏi kia là ở trên mặt đất, Thái Dương ở trên mặt đất với quá ít thời gian còn ở dưới mặt đất thì quá nhiều (ý nói ngày ngắn mà đêm dài), mặt trời mọc ở phương Đông Nam và lặn ở phương Tây Nam.

Tại đài thiên văn Tử Kim Sơn ở Nam Kinh cho tới nay vẫn có Hồn Thiên Nghi, thông qua so sánh với các quan sát bằng kính viễn vọng thiên văn hiện đại mà đối chiếu, thì có thể thấy nguyên lý cấu tạo với phương pháp quan trắc thì về cơ bản là không sai. Phép quan trắc của Hồn Thiên phái sau này hậu nhân phát triển thành một môn khoa học độc lập dùng cùng với phương quan trắc thiên văn nguyên thủy, theo đó mà có một số phát hiện phản ánh quy luật tự nhiên dễ là không có liên quan gì cả.

1.1.3 Thuyết Cái Thiên

Thuyết Cái Thiên còn được gọi là thuyết Chu Bễ, chính là phép xem thiên văn tối cổ. Từ thời Hán Tấn về sau đã tiêu vong, những chuyên luận còn lưu tồn ở hậu thế đều không hoàn chỉnh, chỉ thấy các phần rời rạc tản mát.

Quan điểm của Cái Thiên phái, chính là người đứng ở trên mặt đất bằng mà quan sát thiên tượng, đúng là phương pháp quan sát của việc lấy tĩnh mà quan trắc động, cho nên chỉ có thể trông thấy một nửa từ mặt đất phẳng trở lên mà thôi, còn nửa dưới mặt đất thì chỉ có thể đứng mà đợi cho đến khi nó chuyển tới thì tái quan sát. Cho nên phương pháp này chính là "diện Nam" (quay mặt về Nam mà ở ban ngày xem Nhật ảnh (bóng mặt trời), "diện Bắc" mà ở đêm khảo sát cực tinh. Phương pháp của phép xem Nhật ảnh chủ yếu trông vào trắc ảnh của Thổ Khuê và trắc ảnh của Tiêu Can (các dụng cụ đo bóng nắng bằng thước ngọc và bằng cọc, cây nêu) cùng với toán pháp về Khắc Lậu (phép tính theo dụng cụ do thời gian bằng cái chậu có đục lỗ ở dưới đáy); còn ban đêm khảo cực tinh thì chủ yếu dựa vào quan sát các tình huống mà bắc đẩu quay xung quanh sao Bắc cực.

(QNB chú: Ngày nay người ta thường tóm tắt thuyết Cái Thiên với hình dung vòm trời như cái lồng bàn ( hoặc nắp vung bán cầu) úp xuống, bao trùm lấy mặt đất, và mặt đất ở dưới chân thì vuông bốn góc như bàn cờ. Mưa ở trên trời rớt xuống thành 4 bể. Vòm trời cũng xoay và Nhật Nguyệt cũng chuyển động nhưng ngược chiều với vòm trời).

Phái Cái Thiên cho rằng, chu nhật của Thái Dương ở tại cái nắp vung vận động trong mỗi một năm có 7 đạo lộ thứ tự, gọi là "Thất Hành". Đạo lộ thứ nhất ở trong cùng gọi là "Nội Hành", vào ngày Hạ Chí thì Thái Dương đến gần với Nội Hành mà đi một vòng; còn cái vòng Đạo lộ ở ngoài cùng gọi là "Ngoại Hành", vào ngày Đông Chí thì đó chính là con đường đi của Thái Dương; vào các Tiết Khí khác thì Thái Dương vận hành trên 5 đạo lộ còn lại ở bên trong. Đây chính là "Thất Hành Lục Gian" của các chuyên gia Cái Thiên phái.

Phái Cái Thiên thông quan việc "ngẩng đầu lên xem, cúi đầu xuống xét" (ngưỡng quan phủ sát) mà đề xuất ra học thuyết "Trời tròn đất vuông" (thiên viên địa phương).

Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên nói rằng, Trời tựa như là một cái bát lớn úp xuống trùm lên đất có hình như cái bàn cờ, cái thuyết này rất nhiều người hiểu sai, ngỡ rằng Trời là tròn đấy, Đất là vuông đấy, "Lễ Ký: Đại đới lễ" thì nghi vấn: Nếu như quả thực là như vậy, đem Trời tròn úp lên Đất vuông thì 4 gốc của Đất nó lại chẳng lòi ra ngoài mất hay sao?

Rốt cuộc kỳ thực là cái hướng trong phương pháp của việc quan trắc thiên tượng mà thôi, ngẩng lên mà trông trong đêm để khảo sát cực tinh, cúi xuống lúc ban ngày mà tham khảo bóng ảnh, chứ không phải nói về cái hình hài của Thiên Địa là vuông tròn.

Về giai đoạn sau này, các chuyên gia phái Cái Thiên chủ trương rằng, thiên tượng hình tròn giống như cái đấu úp, địa tượng như cái mâm đậy vào (Sách "Chu Bễ toán kinh": Thiên tượng như cái lồng bàn, địa tượng như cái mâm úp), cả hai đều có hình vòm chính giữa thì cao mà chu vi bốn bề lại thấp, cách kiến giải kiểu này dễ làm cho người ta thông tỏ.

(QNB chú: Thời kỳ đầu của thuyết Cái Thiên chính là thời Xuân Thu, còn giai đoạn phát triển sau này là thuộc về thời Chiến Quốc).

Phái Cái Thiên đứng ở trên bình địa mà quan trắc thiên tượng, chỉ có thể khán từng nửa từng nửa mà thôi, vào ban ngày thì đứng quay về Nam (diện Nam) mà quan sát Thái Dương đông thăng tây lạc (mọc ở Đông mà lặn đằng Tây) lấy Nhật ở giữa trời mà Ngọ; vào ban đêm thì đứng quay mặt về Bắc (diện Bắc) mà theo (độ sáng của) tinh tú đo lường mờ-vừa-tỏ rồi lấy nửa đêm làm Tý. Thông qua những cái ngẳng xem cúi xét như thế này mà ghi chép lại các dấu hiệu, phát hiện là chúng đều có quy luật mà biến hóa đấy nhé. Như vậy, một thiên thể ở trong khi chịu tác động từ quy luật của thiên tượng cũng ảnh hưởng đến sực vật mà nó sở hữu, phải chăng là cũng do sự tương thông vốn có về mối liên hệ theo quy luật của chúng?

Bước triển khai kế tiếp, đem vận dụng những quy luật này vào thực tế, chứng thực từ cái lớn như Trời Đất, cái nhỏ như cỏ cây, mà chẳng kể xa gần, sự không kể to nhỏ, đều không thể vượt khỏi những quy luật tự nhiên như thế. Bởi vì vậy, sau đó liền sản sinh ra Dịch học với Bát quái, Hà đồ, Lạc thư, cùng một loạt các hệ thống đồ tượng ký hiệu tương ứng.

Sở dĩ, Cái Thiên được nói là khởi thủy của Dịch học Trung Quốc, cũng như các đồ tượng Bát quái, Hà đồ, Lạc Thư, đều là do thông qua sự quan sát Thiên Văn mà ghi chép lại, nó phù hợp với từng bước phát triển của Thiên Văn, nó phản ánh những thực thể được quan trắc thiên văn từ phái Cái Thiên.

Hai bức cổ đồ mà phối với Nhị thập bát tú, Bát quái, Bắc đẩu thất tinh, Địa lý, Can Chi, (ở bên trên), đã cho thấy các chuyên gia phái Cái Thiên đã thông qua việc "ngưỡng quan phủ sát" mà quan sát được một loạt các ký hiệu của Dịch học, tuy rằng hậu nhân có không vừa ý, nhưng đại để nó vẫn cứ phản ánh rõ các yếu chỉ của phép quan sát theo Cái Thiên.

1.2 Vận dụng thuyết Cái Thiên Hồn Thiên với Can Chi

Cái Thiên phái với Hồn Thiên phái vốn có rất nhiều điểm không tương đồng, nhưng điểm chủ yếu nhất vẫn cứ phù hợp với sự vận dụng trên Can Chi.

Cái Thiên phái chỉ căn cứ vào việc xem bán diện cho nên tách biệt việc sử dụng Can Chi, vả lại 10 Thiên Can cùng với 12 Địa Chi chỉ dụng Ngũ Lục mà coi như cơ số, như "Nội Kinh" thì đem Thiên Can phân ra thành Ngũ vận và đem Địa Chi phân ra thành Tam dương Tam âm của Lục nguyên, chính là phương pháp biểu diễn nửa vòng chu thiên vậy.

Hồn Thiên phái lại dụng sự kết hợp của Can Chi, biểu diễn 60 hoa giáp, gọi là Hồn Thiên giáp tý, như phương pháp Nạp Âm, nhấn mạnh toàn thể việc phối hợp sử dụng Can Chi.

Cái Thiên, Hồn Thiên, xưa nay phân biệt rõ ràng, thực khó mà sử dụng đồng thời. Thí dụ như trong Bát Tự học vốn có Nạp Âm, sau này bị đào thải, mà chuyên lấy Can Chi Ngũ Hành sinh khắc chế hóa làm phương pháp luận. Lại như Lục Hào chiêm bốc, nguyên cũng có Nạp Âm, nhưng sau này cũng biến thành dụng đơn mà lấy Địa Chi sinh khắc hình hại để luận cát hung. Duy chỉ có Tử Vi Đẩu Số là ngoại lệ, cho thấy nó có quy luật đặc biệt.

1.3 Tử Vi tượng học đích thực là phép xem Cái Thiên

Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi. Rốt cuộc thì kỳ thực Tử Vi tượng học chính là phép xem Cái Thiên, lất Đất làm bản Thể (hệ tham chiếu) mà xem xét tượng của sao Trời. Đất là tĩnh vì thế mà lấy Thổ của Thái Ất làm tôn, Tử Phủ đều dẫn đôi hệ tinh diệu xoay quanh, chia chu thiên ra hai nửa, xem một nửa mà thấy toàn bộ, đó chính là lý do biến hóa của "Thất chính", "Nhị thập bát tú" mà thành ra 14 tinh đẩu, và biến hóa của triền xá 12 cung lấy một nửa thành 6 đạo Cái Thiên.

Dần-Thân, Mão-Dậu, Thìn-Tuất, Tị-Hợi, Tý-Ngọ, Sửu-Mùi, chính là 6 đạo lộ của Cái Thiên, theo thứ tự khoảng cách, được Âm Dương mà Cục mang đến số 6, chúng giao hợp Số cũng do bởi từ 1 đến 6.

Dần cung là điểm nguyên thủy khởi Mệnh bàn của môn Đẩu Số, giống như gốc tọa độ của một hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần, tức là khởi điểm các cục từ Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần (QNB chú: chính là nói đến “Kê Mã Trư Long Ngưu Hổ” trong cách an sao Tử Vi) đến Dần là Một.

Tổng quát mà nói, sao nào đó đến Dần cung hay đến Thân cung cũng là có cùng chung một cách cục, bởi vì Dần Thân là cùng nằm trên 1 tuyến, chính là đạo lộ thứ nhất của Cái Thiên, gọi là "Dịch Mã tuyến", cũng là Động thái tuyến, hay còn gọi là Giao hội tuyến. Sáu "nhu tinh" là Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng, Cự, Nhật ở tại đây đều giao hội chứ chẳng độc tọa (tại Tý Ngọ, Sửu Mùi, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi thì còn có độc tọa), chỉ có các "cương tinh" như Sát Phá Tham thì ngoại lệ (tức là có độc tọa đơn tinh trên trục Dần Thân). Cái lý tương tự, bất kể đơn tinh hay song tinh lạc nhập Mão hay Dậu, Thìn hay Tuất, Tị hay Hợi, Tý hay Ngọ, Sửu hay Mùi, cũng đúng như vậy.

Cho dù cung nào đó vô tinh, cũng phải "tá nhập" (mượn nhập) tinh ở đối cung mà nghiên cứu, có thể nói "Tam hợp bất như đối chiếu" (tam hợp chiếu không bằng đối chiếu), đây chẳng phải là là một biểu hiện khác của phép luận theo Cái Thiên đó ru?

"Nội kinh" cũng là phép luận Cái Thiên, bởi vì chỉ xem bán diện, cho nên mới đem 12 Địa Chi mà phân ra làm Tý Ngọ, Sửu Mùi, Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, 6 nhóm bao gồm có âm dương, mỗi nhóm tương hỗ về mâu thuẫn, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Thiếu Dương, Dương Minh cùng Thái Dương; lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Quyết Âm, Thiếu Âm cùng Thái Âm, vị chi là "Tam âm Tam dương", hợp xưng là "lục nguyên". Bởi vậy có thể thấy được "Nội kinh" có tồn tại 6 đạo của Cái Thiên.

Tiết thứ hai: Nhật Nguyệt

Nhật Nguyệt tức Thái Dương với Nguyệt Lượng (hình cầu), Thái Dương gọi tắt là "Nhật" còn Nguyệt Lượng gọi tắt là "Nguyệt", tên cổ gọi là Thái Âm. Chúng là những thiên thể có quan hệ với Địa Cầu đúng thực là cực kỳ mật thiết. Loài người hiện nay đã biết Lịch Pháp với cặp tinh thể này có mối quan hệ trực tiếp. Ở trong môn Tử Vi Đẩu Số thì có Thái Dương tinh với Thái Âm tinh là cặp sao đối ứng. Vả lại áp dụng với Thái Dương cùng Nguyệt Lượng cũng tương quan về Âm Dương đắp đổi.

2.1 Mối quan hệ của Địa Cầu với Thái Dương theo đúng tri thức khoa học thiên văn

Ngày nay Thiên Văn học hiện đại chính là quan sát theo Hồn Thiên, trước hết lý giải quan sát hệ tham chiếu của vũ trụ chính là Địa Cầu.

Địa Cầu là một hành tinh thành viên của hệ mặt Trời. Địa cầu cùng lúc vừa quay quanh Thái Dương nhưng nó cũng vừa tự xoay quanh Địa trục của mình.

Địa Cầu xoay quanh Địa trục gọi là tự quay, giả sử chúng ta ở tại xích đạo thì phía tay trái đích thị là hướng Đông, phía tay phải đích thị là Tây (QNB chú: họ mặc định hiểu là mặt luôn hướng về Nam), phép tự quay của Địa Cầu là từ Tây sang Đông. Một vòng tự xoay của Địa cầu ước chừng khoảng 24 giờ nhỏ (tiểu thì), trên thực tế thì chính xác là 23 giờ 56 phút 46 giây), thời gian này là 1 ngày đêm.

Địa cầu từ Tây đi vòng quanh, hướng về phía Đông mà xoay quanh Thái Dương gọi là chu trình quay, và chu trình quay này là một vòng tròn khép kín có hình elip. Quỹ đạo mà Địa cầu xoay quanh Thái Dương có độ dài khoảng chừng chín trăm ba mươi triệu km. Bởi vì quỹ đạo này có hình elip cho nên Địa Cầu có lúc thì gần với Thái Dương, có lúc lại xa so với Thái Dương. Trái đất đi trên quỹ đạo quanh mặt trời với vận tốc 29.8 km/s, và trải qua 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây là đi được 1 vòng xung quanh mặt trời. Người ta lấy thời gian này mà quy định là 1 năm.

Trái đất xoay quanh mặt trời với một đặc điểm quan trọng, chính là trục tự xoay của nó xiên nghiêng đối với mặt phẳng của quỹ đạo quanh mặt trời, hình thành 1 góc là 66 độ 30 phút. Hơn nữa, trong quá trình xoay quanh mặt trời thì trục của trái đất luôn luôn chỉ về hướng sao Bắc Cực.

Thái Dương là trung tâm của Thái Dương hệ, và nó cách trái đất một cự ly trung bình khoảng 1 trăm năm mươi triệu km, khối lượng trung bình gấp 333 ngàn lần khối lượng trái đất. Mặt Trời mà ta nhìn thấy trên không trung đó chính là sự biểu kiến.

QNB chú: lược bỏ một đoạn khá dài về các thông số của Mặt Trời theo thiên văn học hiện đại như, nhiệt độ, thành phần hóa học của vật chất trên Mặt trời, điểm đen,…

2.2 Nguyên nhân hình thành Ngày, Đêm và Bốn mùa

Địa Cầu tự xoay từ Tây sang Đông, hướng một mặt về phía Thái Dương mà nhận ánh dương quang chiếu tới, đó là Ban Ngày. Còn nửa lưng kia của địa cầu là Đêm tối. Bởi vì địa cầu luôn luôn tự xoay quanh trục của mình, cho nên các địa phương ở trên địa cầu đều có hiện tượng thay đổi từ ngày qua đêm. Và các địa phương phía Đông sẽ thấy Mặt trời sớm hơn các địa phương ở phía Tây.

Vì trục Trái Đất luôn nghiêng một góc 23.5 độ trong khi xoay quanh Mặt Trời, nên lượng ánh sáng và đồng thời là lượng nhiệt mà các phần bề mặt của trái đất nhận được từ sự chiếu xạ của Mặt Trời là không đều nhau. Có nơi nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt lượng hơn, ngày cũng dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Hè. Đến khi chính nơi ấy nhận được ít ánh sáng và lượng nhiệt, đêm lại dài hơn thì gọi thời gian đó là mùa Đông. Có 2 khoảng thời gian mà 2 nửa bán cầu nhận được lượng nhiệt tương đối đều nhau, ngày và đêm có thời gian tương đương nhau, đó là vào 2 mùa Xuân và Thu.

2.3 Mặt Trăng theo tri thức khoa học thiên văn

Nguyệt cầu là thiên thể ở gần với Địa cầu nhất, khoảng cách trung bình là 384400 km, với hình dạng là một khối cầu tròn vành vạnh. Đường kính trung bình khoảng 3476 km, diện tích là 38 triệu km vuông, khối lượng vào khoảng 1/80 khối lượng của trái đất. Trên bề mặt của Mặt Trăng hầu như không có khí quyển và hơi nước.

Mặt Trăng quay quanh Trái Đất với hướng từ Tây qua Đông, theo quỹ đạo hình elip, nên mới có điểm Cận và điểm Viễn theo cự ly khoảng cách từ nó tới Trái Đất. Mỗi ngày, vào cùng một giờ so với ngày hôm qua, ta thấy Mặt Trăng mọc đến đúng địa điểm mà nó đã ở đó về phía Tây là chậm đi 50 phút. Trung bình cứ 27.3 ngày thì đi hết một vòng quỹ đạo quanh Trái Đất. Nhưng trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang quay quanh Mặt Trời, do đó khoảng thời gian giữa 2 lần Trăng tròn (ngày Rằm) là ước chừng 29.53 ngày.

Mặt Trăng không phát ra ánh sáng, mà cũng như Trái Đất, nó chỉ phản chiếu ánh sáng của Mặt Trời mà thôi. Từ lúc bắt đầu "Trăng non" (Sóc), thì các trình tự của Nguyệt Tướng là Sóc, Thượng Huyền, Vọng, Hạ Huyền. Thời gian từ ngày Sóc (mồng 1) tới Thượng Huyền là 7 ngày, rồi 7 ngày tiếp theo là sẽ đến Vọng (rằm). Khi ở các thời điểm Thượng Huyền và Hạ Huyền thì Mặt Trăng có hình bán nguyệt, nhưng ở Thượng Huyền thì nửa sáng nằm ở phía Tây còn vào Hạ Huyền thì nửa sáng ở phía Đông.

Vì Mặt Trăng xoay quanh Trái Đất, trong khi Trái Đất lại xoay quay Mặt Trời, cho nên có lúc Mặt Trăng sẽ nằm ở vị trí giữa của khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời, do đó nó không phản chiếu chút ánh sáng nào từ Mặt Trời xuống Trái Đất được. Thời gian lúc đó được gọi là không trăng hoặc là Trăng Non. Và bắt đầu đánh dấu ngày Sóc, ngày mồng Một - thời điểm khởi đầu của một tháng Sóc Vọng âm lịch.

2.4 Sơ lược về Nhật Thực và Nguyệt Thực

Để xảy ra Nhật Thực thì phải thỏa mãn 2 điều kiện, đó là:

- Phải nhất định là vào ngày Sóc.

- Mặt Trăng phải đi sát đến điểm giao của 2 đường Hoàng Đạo với Bạch Đạo.

Hoàng Đạo là đường đi của Trái Đất quanh Mặt Trời và Bạch Đạo là đường đi của Mặt Trăng quanh Trái Đất. Các đường đi được chiếu lên trên Thiên cầu. Hai mặt phẳng của 2 quỹ đạo này lệch nhau một góc 5 độ 9 phút, cho nên không phải ngày Sóc nào cũng xuất hiện Nhật thực.

Nhật Thực có thể phân làm 3 loại là: Nhật Thực toàn phần, Nhật Thực từng phần và Nhật Thực vành khăn.

Nguyên lý xảy ra Nguyệt thực so với Nhật Thực thì còn đơn giản hơn nhiều, đó là do khi Trái Đất nằm ở giữa khoảng cách từ Mặt Trăng tới Mặt Trời, khiến choTrái Đất sẽ che khuất ánh sáng chiếu từ Mặt Trời đến Mặt Trăng, cũng đồng nghĩa là bóng của Trái Đất lúc đó đang bao trùm lên bề mặt của mặt Trăng nên Mặt Trăng không thể phản chiếu ánh sáng Mặt Trời về phía Trái Đất được nữa.

Nguyệt Thực chỉ có 2 loại là Nguyệt Thực toàn phần và Nguyệt Thực từng phần.

2.5 Hoàng Đạo

Tử Vi tượng học với Hoàng Đạo thì không có liên quan trực tiếp, nhưng mà Hoàng Đạo lại là một nội dung rất quan trọng của Lịch pháp.

Do Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nên từ mặt đất mà quan sát thì Hoàng Đạo là đường quỹ đạo của Thái Dương trên Thiên Cầu. Hoàng đạo lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, kinh độ của nó gọi là Hoàng Kinh, vĩ độ của nó gọi là Hoàng Vĩ. Trong đó, 4 điểm hoàng kinh 0 độ, 90 độ, 180 độ, 270 độ được gọi là điểm Xuân Phân, điểm Hạ Chí, điểm Thu Phân và điểm Đông Chí. Người xưa quen gọi là "Nhị Phân nhị Chí".

Trên mặt phẳng kéo dài vô hạn của xích đạo địa cầu, nó sẽ cắt Thiên Cầu tạo thành một vòng tròn lớn gọi là Thiên Xích Đạo. Thiên xích đạo này giao với Hoàng đạo ở 2 điểm là Xuân phân và Thu phân, góc giao của chúng được gọi là góc giao hoàng xích (ước chừng 24 độ), đây là thuyết hoàng đạo vơi xích đạo của phép xem Hồn Thiên.

Trên Thiên Cầu mà lấy hoàng đạo làm khu vực hình vành khuyên trung tâm, gọi là vành đai Hoàng đạo, với bề rộng khoảng 16 độ, mỗi phía Nam Bắc đều 8 độ, thì ngoại trừ Diêm Vương tinh, thì Nhật Nguyệt và các hành tinh trong Thái Dương hệ đều di chuyển trong vành đai Hoàng Đạo.

Theo biểu hiện của Thái Dương ở trên các vị trí của Hoàng đạo mà người xưa đem phân chia vành đai Hoàng đạo thành 12 đoạn, gọi là Hoàng đạo thập nhị cung, lấy đích danh của chòm sao ở đó mà đặt tên. Lấy điểm Xuân Phân làm điểm khởi đầu, theo thứ tự của Bạch Dương, Kim Ngưu, Song Tử, Cự Giải, Sư Tử, Thất Nữ, Thiên Xứng, Thiên Hạt, Nhân Mã, Ma Yết, Bảo Bình, Song Ngư.

Người Trung Quốc xưa đã căn cứ vào vị trí của Thái Dương ở trên Hoàng Đạo mà phát minh ra một phương pháp phân chia Hoàng Đạo thành 24 Tiết Khí. Đó là 24 đoạn mà mỗi đoạn bình quân khoảng 15 ngày, cùng với Hoàng đạo thập nhị cung có sự đối ứng chuẩn xác.

Tên gọi của 24 Tiết Khí đối ứng với hàm nghĩa của mối quan hệ giữa sinh vật với khí hậu như sau:

Lập Xuân: thì Lập có ý nghĩa khởi đầu, Xuân là sự rục rịch, biểu thị rằng vạn vặt bắt đầu có sinh khí, vào ngày này thời kỳ của mùa Xuân bắt đầu.

Vũ Thủy: giáng Vũ khai Thủy (bắt đầu mưa xuống).

Kinh Chập: Vang động tiếng Sấm mùa Xuân, kinh động đến những sinh vật có giấc ngủ đông trong lòng đất, bắt đầu chui lên khỏi mặt đất để hoạt động.

Xuân Phân: đây chính là điểm trung tâm của 90 ngày mùa Xuân, ngày và đêm có thời gian tương đồng. Người xưa còn gọi Xuân Phân với Thu Phân là "Trú Dạ phân", tức "phần Ngày Đêm".

Thanh Minh: Trời trong trẻo sáng sủa thuần khiết, khí hậu ấm cúng, bắt đầu chồi lộc nảy nở sum xuê.

Cốc Vũ: Mưa xuống sinh cho ý nguyện của các loại cây lương thực, biểu thị rằng nước mưa bắt đầu tăng nhiều.

Lập Hạ: Ngày Hè bắt đầu, vạn vật dần dần nương theo khí hậu ấm áp để mà sinh trưởng.

Tiểu Mãn: Mãn ở đây là để ám chỉ hạt giống sung mãn, lúa và các loại cây mùa hè lúc này bắt đầu kết trái cũng như là trổ đòng đòng, sắp sung mãn, mẩy hạt.

Mang Chủng: bắt đầu có sự chín chắn ở các cây trồng, lúc này cũng là lúc mà mùa vụ bận rộn nhất của việc thu hoạch các cây trồng từ mùa xuân.

Hạ Chí: Ban ngày rất dài, ban đêm rất ngắn, vào ngày này thì Thái Dương ở vị trí tối cao trên vòm trời, và bóng nắng ngắn nhất, cổ đại còn gọi ngày này là "Nhật Bắc chí" hoặc là "Trường Nhật chí".

Tiểu Thử: với Thử chính là rất nóng nực, lúc này vẫn chưa đạt đến nhiệt độ cao nhất.

Đại Thử: là lúc mà mức độ nóng nực cũng như nhiệt độ là cao nhất.

Lập Thu: ngày Thu bắt đầu, cây cối gần chín chắn.

Xử Thử: với Xử có nghĩa là ngưng lại, biểu thị cái khí nóng nực (Thử) đến lúc chấm dứt.

Bạch Lộ: Thủy khí trên mặt đất ngưng kết lại thành sương, có sắc trắng, khí trời bắt đầu chuyển sang mát mẻ.

Thu Phân: chính là điểm chính giữa của thời gian 90 ngày mùa Thu, ngày này có thời gian của Ngày và Đêm dài như nhau, giống như lúc Xuân Phân, Thái Dương theo Chính Đông mà mọc lên và theo Chính Tây mà lặn xuống.

Hàn Lộ: Sương nước lúc trước thì trắng mà sau thì lạnh, khí hậu đang dần chuyển sang lạnh.

Sương Giáng: Sương lạnh đã đến.

Lập Đông: với Đông có nghĩa là cuối cùng, ý tứ là cây trồng sau khi thu hoạch thì phải cất giữ, bảo tồn. Vào ngày này là bắt đầu mùa Đông đến.

Tiểu Tuyết: bắt đầu có tuyết rơi, nhưng vẫn còn chưa nhiều.

Đại Tuyết: Lương Tuyết xuống đã từ ít mà thành nhiều rồi.

Đông Chí: vào chính Ngọ của ngày này thì Thái Dương ở vị trí thấp nhất trên vòm trời, ban ngày ngắn nhất và ban đêm dài nhất trong năm. Cổ đại còn gọi là "Đoản nhật chí" hoặc là "Nhật Nam Chí".

Tiểu Hàn: Khí lạnh tích lũy lâu ngày mà thành ra giá rét, nhưng lúc này vẫn chưa đến cực điểm.

Đại Hàn: Sự giá rét đã đến cực điểm.

Danh xưng của Tiết Khí phần lớn là mô tả mối quan hệ và phản ứng của vạn vật đối với khí hậu, nói về lúc khởi điểm hay là trung điểm của thời gian mùa vụ, lấy làm phương tiện cho việc canh nông.

Bởi vì trên thực tế Tiết Khí phản ánh sự thay đổi của khí hậu ứng với chỗ vận hành của Thái Dương, cho nên 24 Tiết Khí là sản phẩm tự nhiên của dương lịch, không có liên quan tới âm lịch. Để điều hợp sự khác biệt của năm dương lịch hồi quy với âm lịch tính theo trăng, nông lịch dùng 24 Tiết Khí cứ số chẵn thì gọi là Trung Khí - gọi tắt là Khí, số lẻ thì gọi là Tiết Khí - gọi tắt là Tiết, mà lại còn đem mỗi Trung Khí tiêu chuẩn hóa vào trong các tuần trăng nông lịch, như Vũ Thủy thì định là ở tháng Giêng, Xuân Phân thì định ở tháng Hai, Cốc Vũ định tại tháng Ba,... cứ thế suy ra. Ngoài ra, tên tháng cũng phải hòa hợp đối ứng với Trung Khí.

Trong 24 Tiết Khí lấy Lập Xuân, Xuân Phân, Lập Hạ, Hạ Chí, Lập Thu, Thu Phân, Lập Đông và Đông Chí làm 8 Tiết Khí tối trọng yếu. Mỗi cái ước chừng cách nhau 46 ngày. Mỗi một năm phân làm bốn mùa, lấy "Lập" mà biểu thị Tiết ở sự bắt đầu của mỗi mùa, lấy "Phân" với "Chí" để biểu thị Tiết ở giữa của mùa.

Vì công lịch với Tiết Khí đều y theo năm Mặt Trời quy định, cho nên công lịch với 24 Tiết Khí có sự đối ứng tương đối chuẩn xác, trước sau đều không có sự sai lệch quá 2 ngày. Người ta tổng kết ra ca quyết dưới đây (mỗi chữ là một Tiết Khí):

Tiết khí ca:

Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,

Hạ mãn mang hạ thử tương liên;

Thu thử bạch thu hàn sương giáng,

Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.

Thượng bán niên lục nhật nhập nhất,

Hạ bán niên bát nhật nhập tam;

Mỗi niên nhị nguyệt khai thủy toán,

Tối đa tương soa nhất lưỡng thiên.

(Xin độc giả xem lại bảng chi tiết vầ 24 Tiết Khí bên trên, trong bài này thì khổ thơ sau nói về cách nửa năm đầu thì dùng ngày 6 và ngày 21 để định Tiết Khí, còn nửa năm sau thì dùng ngày 8 và ngày 23. Mỗi năm dùng tháng 2, tức là vào Xuân Phân, lúc mặt trời ở kinh độ 0 để bắt đầu tính, tối đa của sự lệch các Tiết Khí là không được sai quá 2 ngày).

Đó là bởi vì Địa Cầu chuyển động với quỹ đạo hình elip quanh Mặt Trời, cho nên tại nơi gần với điểm cận mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ khá nhanh, còn tại nơi cần với điểm xa mặt trời nhất thì nó di chuyển với tốc độ chậm.

2.6 Bạch Đạo

Bạch Đạo tức là lấy mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng quay quanh Địa Cầu kéo dài vô hạn ra giao với Thiên Cầu thành một vòng tròn lớn. Mặt Trăng vốn quay quanh Địa Cầu một vòng hết 27 ngày 7 giờ 43 phút, nhưng đồng thời Mặt Trăng lại theo Trái Đất mà chuyển động xung quanh Mặt Trời, cho nên một chu kỳ Nguyệt Tướng với tháng Sóc Vọng luôn là 29 ngày 12 giờ 44 phút.

Mối tương quan các loại hình thái ánh trăng thuộc Hối Sóc, Thượng Huyền, Hạ Huyền chính là được hiểu dưới dạng Tướng vị (vị trí của đại lượng có sự biến đổi theo biểu đồ hình sin), xin tham khảo thêm kiến thức về nguyệt cầu ở tiết 1. Cần phải chú ý rằng, mỗi tháng trong nông lịch đều lấy ngày Sóc (tức là ngày mà không thấy ánh trăng) để làm ngày đầu tiên trong tháng.

Bởi vì quỹ đạo của Mặt Trăng là có dạng hình elip, nó vận hành với tốc độ có lúc chậm lúc nhanh, cổ nhân tổng kết là:

Mỗi tháng từ ngày mồng 1 đến ngày mồng 4 thì mặt trăng tiến rất nhanh - mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 14 độ,

từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 8 thì tốc độ tiến mỗi ngày đêm đi khoảng hơn 13 độ,

từ ngày mồng 9 tới ngày 19 tốc độ rất chậm - chỉ khoảng hơn 12 độ một ngày đêm,

từ ngày 20 tới ngày 23 thì mặt trăng lại di chuyển với tốc độ hơn 13 độ một ngày đêm,

từ ngày 24 đến ngày 30 thì mỗi ngày đêm lại di chuyển khoảng hơn 14 độ một ngày đêm.

Do Mặt Trăng có kỳ vận chuyển là hơn 27 ngày, trong khi đó lại có 28 chòm sao, thành ra gần như mỗi một ngày đêm thì Mặt Trăng đi qua 1 chòm sao. Theo đó mà người xưa đã coi Mặt Trăng cùng với Nhị Thập Bát Tú có sự đối ứng qua lại (có sự bất đồng về kiến giải, chưa phân biệt rõ thực hư, cái này là ở trong thuyết của Lục Nhâm):

Chính nguyệt sơ nhất khởi vu Thất;

Nhị nguyệt sơ nhất khởi vu Khuê;

Tam nguyệt sơ nhất khởi vu Vị;

Tứ nguyệt sơ nhất khởi vu Tất;

Ngũ nguyệt sơ nhất khởi vu Sâm;

Lục nguyệt sơ nhất khởi vu Quỷ;

Thất nguyệt sơ nhất khởi vu Trương;

Bát nguyệt sơ nhất khởi vu Giác;

Cửu nguyệt sơ nhất khởi vu Đê;

Thập nguyệt sơ nhất khởi vu Vĩ;

Đông nguyệt sơ nhất khởi vu Đẩu;

Tịch nguyệt sơ nhất khởi vu Hư.

(QNB chú: tức là ứng với mồng Một của Tháng Giêng thì ở sao Thất,... mồng Một tháng Chạp thì ở sao Hư)

Mỗi tháng khởi ở mồng Một,

Mỗi ngày đi được 1 chòm sao

Gặp Khuê, Trương, Tỉnh, Dực, Đê

Thì lưu lại một ngày

Đếm tới ngày âm lịch, tức chỗ của Thái Âm.

Cái này thuộc diện đạo đồ cổ về Nguyệt (bên dưới), dành cho tham khảo nghiên cứu

2.7 Đông Hạ thì tập trung vào Nhật (Đông Hạ trí Nhật), và Xuân Thu thì tập trung vào Nguyệt (Xuân Thu trí Nguyệt)

Lấy 12 Địa Chi, 28 Tú, phối ở đồ hình 12 cung viên, có thể biết chỗ Tị Ngọ Mùi 3 cung là Tung hệ, còn Dần Mão Thìn 3 cung là Hoành hệ, trước thì lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt để tính toán, sau thì dùng lấy Đông Hạ tập trung vào Nhật để tính toán. Cho nên "Nội Kinh" lấy Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi làm Tam Âm, lấy Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất làm Tam Dương.

Lấy Đông Chí làm điểm khởi đầu, tất Thái Dương xuất ở giờ Thìn và nhập ở giờ Thân. Xuân Thu Phân thì tất Thái Dương xuất ở giờ Mão mà nhập ở giờ Dậu. Hạ Chí tất Thái Dương xuất ở Dần mà nhập ở Tuất. Đó được gọi là "Nhật hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nhật), tức là Đông Hạ thì tập trung vào quy luật của Nhật.

Nếu như lấy Xuân Phân làm điểm khởi đầu, thì Thái Âm xuất ở Hợi mà nhập ở Tị. Nhị Chí thì tất Thái Âm xuất ở Tý mà nhập ở Ngọ. Thu Phân thì Thái Âm xuất ở Sửu mà nhập ở Mùi. Được gọi là "Nguyệt hành tam đạo" (3 con đường vận hành của Nguyệt), tức là Xuân Thu thì tập trung vào quy luật của Nguyệt.

Chuyên gia phái Cái Thiên lấy Xuân Thu tập trung vào Nguyệt, đem thời gian Xuân Thu Phân mà có ngày đêm bằng nhau chia đều thành 180 độ, cảm thấy Nhật đi 1 độ, Thái Âm ở trên Nguyệt đạo đi 13 độ lẻ 7/19, được gọi là "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt vận hành với khoảng cách gấp bội phần).

2.8 Tử Vi với Nhật Nguyệt

Sách “Thái Ất Tinh Kinh”, chương Thiên Văn có viết:

Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế. Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch. Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

=

Trời xoay về bên trái (ngược chiều kim đồng hồ), từ Đông sang Tây, vòng Chu Thiên là 12 canh giờ, chính là một ngày, cho nên ban ngày ban đêm thay nhau đắp đổi. Nhật quay về bên phải (thuận chiều kim đồng hồ), từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh thay nhau đổi trao. Nguyệt quay về bên phải, từ Tây sang Đông, vòng Chu Thiên là 27 lẻ 1/3 ngày, Nguyệt chẳng có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật thành tượng, theo đó mà có Sóc Vọng, từ Sóc này đến Sóc kế tiếp là 29 lẻ 1/2 ngày, chính là một tháng, cho nên có tròn có khuyết đan xen.

“Trời xoay về bên trái” (Thiên tả toàn), tức là cái lý của việc Địa Cầu tự xoay ngày nay, nguyên nhân là do phái Cái Thiên lấy Địa làm Bản Thể, mà do Địa Cầu tự xoay cho nên thấy như là bầu Trời xoay về bên trái, bởi vậy phân chia thành 12 giờ, chính là tham số thời gian của Tử Vi. (QNB chú: xin lưu ý rằng đây là nói trong sách Thái Ất Tinh Kinh, người quan sát đứng ở mặt đất, nhìn về phía Bắc = diện Bắc, để quan sát ngôi sao Thái Ất = sao Bắc Cực, cho nên mới thấy bầu trời như đang quay quanh ngôi Thái Ất chí tôn, từ phía Đông ở bên tay phải mà xoay về bên trái là phía Tây).

Cái cụm “Ngày đêm thay nhau đắp đổi” (Trú dạ tương thế) chính là vào lúc 23h:00 của Lịch của phương Tây ngày nay, tức lúc 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm ngày hôm trước (Cái thuyết giờ Tý sớm với giờ Tý muộn là sai lầm không chấp nhận được, khiến cho để lại di hại vô cùng).

Thuật Tử Vi lấy Tháng và Giờ để mà xác định Mệnh cung, nguyên nhân thì cổ thư diễn đạt không thỏa đáng, thành ra các học giả lý giải loằng ngoằng. Nghiên cứu kỹ thì thực ra chính là lấy giờ Tý làm kim la bàn chỉ hướng, lấy thêm bàn pháp để mà quan sát (tham khảo thêm chương 1 nhân đạo mệnh học cương), thì sẽ rõ ràng ngay cái ý của nó.

Cái gọi là "Đông Hạ trí Nhật" nguyên nhân do thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, cho nên lấy Thái Dương xuất Mão nhập Dậu của Xuân Thu nhị Phân mà làm chuẩn, tức là áp dụng việc lấy chi Mão trong 3 "Tung" là giờ Mão để mà làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Cái gọi là "Xuân Thu trí Nguyệt", nguyên nhân là do Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy Thái Âm xuất Tý nhập Ngọ của Đông Hạ nhị Chí mà làm chuẩn, tức là lấy giờ Tý trong 3 "Hoành" để làm kim chỉ nam Lập Mệnh.

Đây chính là nguyên lý Lập Mệnh ở trong các thuật Thất Chính Tứ Dư với Tử Vi Đẩu Số.

(QNB chú: tam Tung với tam Hoành, xem lại ở mục 2.7 thì sẽ rõ).

Lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), thì Nhật Nguyệt có vẻ như là đều theo bầu trời mà quay về bên trái, nhưng Nhật Nguyệt tự riêng nó cũng vận chuyển về phía bên phải, Thái Dương lấy 365.2425 làm một chu kỳ hoàn thành trên vòng Hoàng Đạo, gọi là "Tuế chu" (chu kỳ 1 năm), tức là ngày nay được hiểu rằng Trái Đất quay được 1 vòng trên quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời. Bởi vì Tử Vi Đẩu Số lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một niên chu là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận có 383 hoặc 384 ngày, mà không có liên quan gì đến chu kỳ của Thái Dương trên Hoàng Đạo cả.

Chu kỳ quay quanh Địa Cầu của Nguyệt vốn chỉ là 27.33 ngày, do lấy Địa làm bản thể cho nên không thể xem kỹ, (khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đang đồng thời quay quanh Mặt Trời) duy chỉ có thể quan sát chu kỳ Sóc Vọng của Nguyệt Tướng, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ của nó là 29.53 ngày, đó là nguyên nhân mà Lịch Pháp phân chia tháng đủ thì có 30 ngày, tháng thiếu thì có 29 ngày, bình quân là có 29 lẻ 1/2 ngày.

Tử Vi lấy số ngày của lịch Thái Âm để phối hợp với Nạp Âm cung khí để mà xác định Tử Vi tọa lạc ở cung nào, lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với thuật Thất Chính Tứ Dư lấy Nhật làm chủ, quả thực là "Nguyệt Tướng pháp".

"Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhất chương thập cửu niên, thất nhuận, nhuận hữu thập tam nguyệt.

=

Nhật hành 1 độ, Nguyệt hành 13 độ lẻ 7/19, chu nên cứ một kỳ 19 năm (QNB chú: thuật ngữ Thiên Văn cổ gọi 1 kỳ 19 năm = 1 Chương) lại có 7 năm nhuận, mỗi năm nhuận có 13 tháng.

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" của Thiên Văn học cổ. Tại sao mà mỗi Chương có 7 Nhuận, cùng với "Nguyệt hành bội ly" trùng khớp như thế? Việc này là cái kỳ diệu của Thiên Địa, quả thực không phải là cái mà tâm lực thiển cận của Minh Đăng tôi có thể sáng tỏ được vậy.

Tiết thứ 3: Lịch Pháp

3.1 Thuật sơ lược về Lịch Pháp

Lịch Pháp chính là phương pháp tính toán các đơn vị thời gian Năm Tháng Ngày Giờ, theo một tổ hợp quy tắc nhất định, tạo điều kiện cho loài người có thể tính toán rõ ràng một hệ thống thời gian dài hạn. Từ cổ chí kim, trong và ngoài nước thì có rất nhiều cách làm lịch, nhưng mà xét cho tới cùng thì không nằm ngoài 3 loại là: Thái Dương lịch, Thái Âm lịch, và Âm Dương hợp lịch. Ngoài ra Trung Quốc còn có một bộ lịch pháp ghi chép lại hệ thống Can Chi (Can Chi không phải là lịch pháp, mà nó chỉ là một loại phương pháp ghi chép của thời gian, để rõ hơn thì xem trong cương lĩnh của ngũ hành số học).

Trong ba loại lịch pháp trên, thì Năm với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Dương lịch. Tháng với Ngày căn cứ theo yếu tố của Thiên Tượng gọi là Âm lịch. Năm Tháng Ngày đều căn cứ vào yếu tố Thiên Tượng gọi là Âm Dương hợp lịch.

Thái Dương lịch là hoàn toàn căn cứ vào quy luật Địa Cầu quay quanh Thái Dương mà đặt ra lịch pháp, Dương lịch hiện tại chính là 1 dạng thông dụng (thuộc nhóm Cao Thụy lịch) của Thái Dương lịch, nó hoàn toàn không suy xét đến các tình huống mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất.

Thái Âm lịch là dựa vào quy luật mà Mặt Trăng quay quanh Trái Đất để mà đặt ra lịch pháp. Thời cổ đại, người ta đã tổng hợp quy luật tròn khuyết của Mặt Trăng, lấy cái ngày mà Trăng tròn gọi là ngày Vọng, lấy cái ngày mà hoàn toàn không có Trăng gọi là ngày Sóc, quy định mỗi tháng thì ngày mồng Một là ngày Sóc, mỗi tháng thì ngày 15 hoặc 16 là ngày Vọng. Bởi vì Nguyệt Tướng có chu kỳ là 29.53 ngày, cho nên lại phân chia ra có tháng đủ 30 ngày và có tháng thiếu 29 ngày, cứ lấy ngày đầu tháng nhất định là Sóc, ngày giữa tháng nhất định là vọng, đây chính là Thái Âm lịch thuần túy.

Do quy tắc ấy không quan tâm đến các tình huống của năm hồi quy (tức là năm mặt trời), thời gian một ngày là bao lâu, cho nên sẽ gặp phải tình huống mà mùa hạ xuất hiện ở tháng 11 hay tháng 12, khiến cho có sự bất lợi đối với việc canh nông cũng như các hoạt động xã hội. Chính vì vậy đã tự nhiên đưa đến nhu cầu sinh ra một loại lịch pháp mới, đó là loại hợp lịch để điều hòa giữa Thái Âm lịch với Tiết khí, gọi là Âm Dương hợp lịch.

Âm Dương hợp lịch là loại lịch pháp mà vừa dựa vào sự Tròn hay Khuyết của Mặt Trăng, lại vừa khảo sát trù định tháng Nhuận sao cho cân đối với năm mặt trời. Cho nên trên thực tế nó phải chú ý đồng thời đến cả Hoàng Đạo (Thái Dương chu kỳ) và Bạch Đạo (Thái Âm chu kỳ).

Âm Dương hợp lịch lấy nông lịch làm điển hình, nông lịch ước chừng có tới 1 vạn năm lịch sử, lấy lịch pháp triều Hạ để làm đại biểu, cho nên gọi là "Hạ lịch". Trừ thời Thái Bình Thiên quốc ban hành "Thiên lịch" ra, trước cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc thì lịch pháp đều thuộc về Âm Dương hợp lịch. Ngoài những đặc thù là đã coi trọng Nguyệt Tướng tròn khuyết như thế nào, lại kiêm cả biểu thị Tiết Khí nóng lạnh ra làm sao, độ dài của tháng đều dựa vào thiên tượng. Lịch tháng với lịch năm quả thực là có giá trị quân bình ở tháng Sóc Vọng với năm Mặt Trời, tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày, mỗi tháng lấy Nguyệt Tướng mà khởi điểm, trung bình 1 năm có 12 tháng, có 354 hoặc 355 ngày, cứ 19 năm lại có 7 năm nhuận; năm nhuận có 13 tháng và cả năm có 384 hoặc là 385 ngày.

Từ xưa tới nay, nông lịch đều là lịch pháp có thành văn, lịch sử từ thời khai thủy Chuyên Húc lịch, trước sau đã có cả thảy 94 lần thay đổi lịch, xuất hiện rất nhiều lịch pháp như Chuyên Húc lịch (từ thời tối cổ cho đến thời Hán), Tứ Phân lịch (thời kỳ Chiến Quốc), Thái Sơ lịch (Đông Hán), Tam Thống lịch (Tây Hán), Càn Tượng lịch (Tam quốc - Ngô), Cảnh Sơ lịch (Tam quốc - Ngụy), Nguyên Gia lịch, Đại Minh lịch (Nam triều), Khai Hoàng lịch, Đại Nghiệp lịch (triều đại Tùy), Sùng Nguyên lịch (triều đại Đường), Thống Thiên lịch (Triều đại Tống), Thụ Thời lịch (Triều đại Nguyên),... Nông lịch hiện hành chính là nông lịch tốt nhất được triều Thanh ban hành gọi là Thời Hiến lịch.

3.2 Giới thiệu sơ lược về Công Lịch (dương lịch phương Tây).

Công Lịch còn được gọi là Cách Liệt lịch, là một loại Thái Dương lịch thuần túy, là loại lịch pháp quốc tế thông dụng hiện nay được công nhận có tính chính xác. Từ năm 1911, khi Dân Quốc thành lập trở về sau, Trung Quốc vẫn luôn chọn dùng loại lịch pháp này. Công Lịch đã có đến gần 4000 năm lịch sử, sớm nhất có thể truy nguyên đến Thái Dương lịch của Ai Cập cổ đại, trong lịch sử của nó đã có hơn hai lần cải cách trọng đại.

Người Ai Cập cổ đại căn cứ vào sự ẩn hiện của sao Thiên Lang cùng với quy luật ngập lụt của con sông Ni - La (tức sông Nin, còn gọi là Ni La hà), tính toán ra một năm có 365 ngày, rồi theo đó mà bày ra Thái Dương lịch, về sau dần dần được các dân tộc khác tiếp thu lấy để dùng.

Vào thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vị đại đế độc tài của La Mã là ông Khải Tát (tức Gaius Julius Caesar) đã mời chuyên gia thiên văn học của Ai Cập, lấy lịch pháp Thái Dương của người Ai Cập làm cơ sở, tiến hành lần chỉnh sửa trọng đại thứ nhất, người đời sau gọi là "Khải Tát lịch" (Lịch Julius), điểm thành quả chính yếu trong Khải Tát lịch chính là "Tứ niên nhất nhuận" (4 năm có 1 năm nhuận).

Nguyên nhân của 4 năm có 1 nhuận là, mỗi chu kỳ của năm Mặt Trời là 365 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây, mà trong phép làm lịch chỉ có khả năng sử dụng số ngày là con số nguyên để làm đơn vị. Thông thường thì lấy 365 ngày làm 1 năm Nhật lịch, nhưng như thế thì cứ 4 năm lại sai lệch 23 giờ 15 phút 4 giây, là gần một ngày, cứ 50 năm sau thì lại sai lệch chừng 50 ngày, cứ thế mãi về sau, thì có thể sẽ xảy ra tình huống mà ngày đầu năm Nhật lịch rơi vào mùa hè, trong khi trên thực tế thì ngày đầu năm phải rơi vào mùa đông. Thế nên Khải Tát lịch quy định: năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba mỗi năm đều là 365 ngày, gọi là năm thường (Bình niên), đến năm thứ tư thì cộng thêm 1 ngày là 366 ngày, gọi là năm nhuận (Nhuận niên).

Khải Tát lịch lấy mỗi năm chia thành 12 tháng riêng biệt, trong đó tháng 1, tháng 3, tháng 5, tháng 7, tháng 8, tháng 10, tháng 12 đều là tháng đủ 31 ngày, ngoài ra đều là tháng thiếu, mỗi tháng đều có 30 ngày, riêng tháng 2 là có 28 ngày. Nguyên nhân gây ra cái tình huống này nghe nói là Khải Tát đại đế sinh vào tháng 7, ông ta kế nhiệm Giả Áo Cổ Tư Đô hoàng đế (tức ông Augustus) - người sinh vào tháng 8. Cả hai ông này đều khăng khăng lấy cái tháng sinh của mình phân định là tháng đủ 31 ngày, cho nên cái ông hiệu đính lịch khi ấy chẳng biết làm thế nào đành phải xử lý ở tháng 2 mà trước đó vốn đã được định là 30 ngày, lấy ra 2 ngày để phân vào tháng 7 và tháng 8, làm thỏa mãn yêu cầu của Hoàng Đế, rồi đến năm nhuận mà thêm vào 1 ngày thì sẽ thêm vào ở tháng 2. Theo đó mà mỗi năm thường thì tháng 2 có 28 ngày, còn đến năm nhuận thì tháng 2 có 29 ngày.

Phép xử lý năm nhuận kể trên trong lịch pháp Khải Tát còn chưa đủ độ chính xác, nguyên nhân là nó đem 23 giờ 15 phút 4 giây mà coi như là 1 ngày, thiếu so với thực tế là 44 phút 56 giây. Để giải quyết vấn đề này, năm 1582 thì Giáo Hoàng Cách Liệt Cao Thụy (QNB chú: Gregory XIII đã bỏ đi 10 ngày sai lệch trong tháng 10/1582 là từ 4/10 nhảy ngay sang 15/10) đã tiến hành lần cải cách trọng đại thứ hai, và quy định: năm nhuận phải có số chia hết cho 4, và năm cuối cùng của thế kỷ (tức là năm có số cuối là 00) thì phải chia hết cho 400. Đó chính là Cách Liệt lịch (Lịch Gregory) mà ta đang sử dụng cho đến ngày nay.

Sau khi trải qua 2 lần cải cách nói trên, thì lịch pháp càng trở nên chính xác, nhưng mà vẫn đang còn sai số nhỏ sau dấu phẩy, đòi hỏi cứ 4000 năm lại phải giảm đi 1 năm nhuận. Vì vậy, người lại bổ xung quy định: phàm là các năm công nguyên 4000, 8000, 12000,... mà chia hết cho 4000, thì không tính là năm nhuận.

3.3 Giới thiệu sơ lược về lịch Thời Hiến

Bộ lịch Thời Hiến thuộc thời kỳ Thuận Trị triều Thanh, do một người Đức có tên là Thang Nhược Vọng (Johann Adam Schall von Bell, vẫn gọi tắt là Adam Schall) từ triều đại nhà Minh sửa chữa dựa trên cơ sở của bộ "Sùng Trinh lịch thư" mà hoàn thành được bộ Âm Dương hợp lịch này. Chọn dùng các số liệu thiên văn của Tây phương, nhưng vẫn bảo lưu hình thức lịch pháp truyền thống của Trung Quốc, tuần tự có hai phiên bản "Giáp Tý nguyên lịch" cùng "Ất Mão nguyên lịch". Cái trước (Giáp Tý nguyên lịch) lấy năm Khang Hi thứ 38 (tức là năm 1648, Giáp Tý) làm khởi điểm suy tính, chọn áp dụng số liệu năm hồi quy Đệ Cốc (Tycho Brahe, cũng có thể là phiên âm tên của ông Đề-Các - Descartes) là 365,2421875 ngày, còn cái sau (Ất Mão nguyên lịch) lại lấy năm Ung Chính thứ nhất (1723, Ất Mão) làm khởi điểm, áp dụng số liệu năm hồi quy Ngưu Đốn (Newton) là 365,2423 ngày. Loại lịch này chính là loại Âm Dương hợp lịch tiên tiến nhất và khoa học nhất, hiện nay vẫn được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và các Hoa kiều.

So với lịch pháp trước đây thì Lịch Thời Hiến có hai sự cải cách lớn nổi bật:

a, Lần đầu quy định, tháng Nhuận là một tháng như tháng kế trước đó, nhưng tháng được coi là Nhuận phải không chứa Trung Khí.

b, Thời triều Minh mạt thì lịch Đại Thống dùng phương pháp một giờ trăm khắc vạn phút, áp dụng đồng hồ do phương Tây chế ra, quy định mỗi nửa Thần (tức là nửa canh giờ cũ) coi là một tiểu giờ, mỗi tiểu giờ đó có 4 khắc, mỗi Thần là 8 khắc, mỗi khắc là 15 phút, một ngày là 96 khắc, tức 1440 phút. Tức là phương pháp chia thời gian như là ngày nay thông dụng.

Chú: Đặc điểm thứ hai trong lịch Thời Hiến nói trên thì có mối quan hệ cực kỳ mật thiết đối với Thiết Bản Thần Số. Còn đặc điểm thứ nhất thì có mối quan hệ mật thiết với Tử Vi Đẩu Số.

Ngoài ra thì lịch Thời Hiến còn có các đặc điểm như dưới đây:

c, Quy luật 19 năm 7 nhuận

Năm thường của nông lịch có 24 Tiết Khí, gồm 12 tháng, mỗi tháng Sóc Vọng đó có bình quân là 29.53 ngày, 12 x 29.53 = 354.36, cho nên năm thường của lịch Thời Hiến là 354 hoặc 355 ngày, mà năm thực tế (theo một vòng hoàng đạo) là 365.2422 ngày. Hai cái ấy sai lệch khoảng 11 ngày, lấy bội số chung nhỏ nhất của năm thực tế 365.2422 với Sóc Sách (độ dài tháng Sóc Vọng) 29.53, thì được 6939.6 ngày, tức khoảng 19 năm mặt trời (năm hồi quy), 235 tháng Sóc Vọng, 235 - 19x12 = 7, cho nên cứ 19 năm thì phải thiết lập 7 tháng nhuận.

d, Thiếp lập tháng Nhuận

Có hai loại phương pháp xác định Tiết Khí, một loại là phép Bình Khí (các khoảng thời gian giữa các Tiết Khí là bằng nhau), loại thứ hai là phép Định Khí (lúc giao Tiết Khí thì vị trí của Thái Dương là cố định bất biến), lịch Thời Hiến áp dụng phép Định Khí.

Tiết Khí bình quân là 30.44 ngày, độ dài một tháng Sóc Vọng là 29.53 ngày, giá trị sai lệch của nó tạo thành Nhuận dư, gần bằng 1 ngày, cho nên trong lịch Thời Hiến thì mỗi Tiết hoặc mỗi Khí đều lui về sau 1 ngày, tích lũy gần 15 ngày, Trung Khí sẽ chạy tới cuối tháng, như thế thì vào tháng sau tất nhiên không còn Trung Khí, mà chỉ có 1 Tiết Khí, tháng này chính là tháng Nhuận (nó không có tên tháng, nhưng được tiếp tục sử dụng tên của tháng ngay trước đó, gọi là "tháng... nhuận").

e, Hiện tượng năm Nhuận

Có tháng Nhuận, nên thành ra là năm Nhuận. Năm nhuận nông lịch có 25 Tiết Khí, trong đó có 2 tiết Lập Xuân ở đầu năm và ở cuối năm, gọi là "Lưỡng đầu Xuân", mà năm tiếp theo của năm Nhuận thì tất nhiên không có Lập Xuân, mà chỉ có 23 Tiết Khí, gọi là "Cách đầu Xuân" (chữ "Cách" có nghĩa là cách trở, ngăn cách, xa cách).

Bảng năm Nhuận theo lịch Thời Hiến đối chiếu từ năm công nguyên 1800 đến 2050:

Trong bảng trên cứ mỗi 19 năm lại có 7 năm nhuận, theo đó mà từ 1800 đến 2050 cộng 150 năm. Không nhuận vào các tháng: Giêng, tháng Một (Đông nguyệt), tháng Chạp (Tịch nguyệt).

QNB chú: Bảng trên là những năm Nhuận tháng Nhuận trong Lịch Thời Hiến, số liệu của nó giống với Lịch Vạn Niên được sử dụng ở VN nhưng lại khác với Âm Dương Lịch VN.

f, Tháng đủ với tháng thiếu

Tháng đủ là 30 ngày, so với tháng Sóc Vọng nhiều hơn 11 tiếng 15 phút 58 giây; còn tháng thiếu thì có 29 ngày, so với tháng Sóc Vọng thì ít hơn 12 tiếng 44 phút 2 giây. Trung bình thì mỗi tháng đủ và tháng thiếu lệch với tháng Sóc Vọng 1 tiếng 48 phút 4 giây, do đó mà tháng đủ nhiều hơn so với tháng thiếu mới có thể giữ nguyên được sự đồng bộ của Sóc Vọng. Trải qua thống kê, các tháng đủ ước chiếm 53% tổng số tháng, còn tháng thiếu thì ước chiếm 47%, hơn nữa là trong mỗi năm thì tháng nào đủ tháng nào thiếu là không giống nhau giữa năm nọ với năm kia.

g, Tiết Khí

Nông lịch chính là Âm Dương hợp lịch, trong đó cái gọi là "Dương" biểu thị có quan hệ với Thái Dương, biểu hiện tại chỗ chú giải thuyết minh về Tiết Khí.

Tiết Khí đối với việc trồng trọt nông canh là rất có sự tương trợ, tổng số 24 thành phần, biểu thị vị trí của Thái Dương ở trên đường Hoàng Đạo, một loại dùng đem Hoàng Kinh ra để mà đo lường, theo điểm bắt đầu 0 độ tại Xuân Phân, mỗi 15 độ là một Khí hoặc là 1 Tiết. Trong đó thì mỗi tháng sẽ có 1 Tiết với 1 Khí, tổng cộng là 12 loại Tiết và 12 loại Trung Khí (tháng Nhuận là ngoại lệ).

Trên thư tịch của lịch Thời Hiến, có thể hiểu rõ về ngọn ngành về Tiết với Khí.

h, Tháng Giêng

Lịch Thời Hiến lấy tháng Dần làm tháng Giêng, xưng là "Kiến Dần" hoặc là "Dần Chính".

Kiến Dần quy định từ triều Hán cho suốt về sau các triều đại đều tiếp tục sử dụng, chưa từng bao giờ thay đổi. Nhưng trước thời đại nhà Hán thì từng xuất hiện lịch pháp không giống thế mà lại Kiến Tý hoặc Kiến Sửu hoặc Kiến Hợi.

3.4 Tử Vi với Lịch Pháp

Tử Vi với Lịch Pháp có mối liên hệ rất mật thiết, nó áp dụng Thái Âm lịch, nhưng lại không phải Thái Âm lịch thuần túy mà còn có cả Âm Dương hợp lịch.

Cái gọi là Thái Âm lịch thuần túy, phải là không xét đến Thái Dương đi qua các cung, Tiết Khí với vấn đề tháng Nhuận của lịch pháp. Vì cơ bản là Thái Âm lịch không có khả năng xảy ra vấn đề tháng Nhuận, mỗi năm nó có 354 hoặc 355 ngày, giá trị sai số của nó với 365.2425 ngày của Tuế Chu hàng năm cứ tích lại ngày càng lớn, rồi sẽ xuất hiện lúc bắt đầu của lịch pháp lại xuất hiện ở ngày thuộc mùa Hè trong khi đúng ra thì nó phải thuộc vào mùa đông. Như thế thì bất lợi cho việc canh nông cùng với các hoạt động xã hội, tôn giáo, nên dần phải bị đào thải, và hiện nay thì không tìm được những thư tịch ghi chép đầy đủ về nó nữa.

Tử Vi biểu lộ rõ ràng sự giải quyết riêng của nó đối với tháng Nhuận, nó vẫn cứ phải suy xét đến vấn đề Tuế Chu của Mặt Trời, tại các tháng trước và sau của tháng Nhuận, điều đó với Âm Dương hợp lịch (Lịch Thời Hiến) là hoàn toàn tương đồng. Nói cách khác, Tử Vi tuy rằng không suy xét đến việc Thái Dương quá cung nhưng lại phải khảo xét chu kỳ của năm hồi quy, chứ không phải là hoàn toàn không suy xét đến Thái Dương. Bởi vì vậy, nếu mà nói là Tử Vi không xét đến Thái Dương quá cung, rồi mà lại nói dùng lịch pháp thuần túy Thái Âm lịch, thì đúng là kiểu kiến giải phiến diện.

Nguyên nhân của việc không suy xét đến Thái Dương đi đến cung nào thì rất đơn giản. 14 chính tinh của Tử Vi phải lấy ngày tháng âm lịch để định vị. Thái Dương với Thái Âm, mỗi loại đều đi trên đường của nó, mỗi tháng theo tháng Thái Dương có 30.44 ngày, mỗi tháng theo tháng Thái Âm có 29.53 ngày, mà ngày âm lịch là hoàn toàn căn cứ vào những tình huống xác định Sóc Vọng theo Thái Âm, cho nên trường hợp mà ngày mồng Một của âm lịch trở thành ngày Tiết Khí là rất khó thấy ở trong Âm Dương hợp lịch. Vì thế, nếu như mà áp dụng Tiết Khí để định tháng sinh trong khi lại áp dụng ngày của âm lịch (phản ánh vị trí của Thái Âm) để mà định 14 chính tinh, thì sẽ sa vào một tình cảnh cực kỳ khó xử:

Giả sử như hôm nay âm lịch là ngày mồng 6 tháng 6, thì Thái Dương vẫn còn chưa qua cung mà đến chỗ Tiểu Thử, tra cứu thuyết Tiết Khí, vậy Nguyệt Tướng tháng thứ 5 nắm lệnh, nhưng theo âm lịch đã sang tới tháng 6 rồi ; Nếu như toán theo Tiết Khí, đem ngày mồng 6 tháng 5, thì có thể thấy rằng ngày mồng 6 tháng 5 của âm lịch lại sớm đã qua lâu rồi. Hơn nữa, cái ngày mồng 6 của Âm lịch này với tháng 5 của tháng Thái Dương lại chẳng có tí liên quan gì cả, mà nó chỉ cùng với tháng 6 của tháng Thái Âm có liên quan thôi, biểu hiện là ngày thứ tự thứ 6 của tháng này. Do đó, số của tháng này chỉ có thể là số chu kỳ của tháng Thái Âm, mà tuyệt đối không thể là số chu kỳ của tháng Thái Dương.

Tử Vi trọng Thái Âm Bạch Đạo, còn Bát Tự thì trọng Thái Dương Hoàng Đạo, căn cứ lập luận của hai cái môn đó hoàn toàn không giống nhau. Một trong những căn cứ của việc nhập bàn của 14 chính tinh là theo ngày tháng nông lịch, cũng chính là trạng thái Sóc Vọng của Trăng (ánh trăng), lại tiến thêm một bước nữa nói là vị trí của Bạch Đạo.

Cơ thể con người có 80% là nước, chính như hiện tượng thủy triều đối với tác dụng của lực hấp dẫn của mặt trăng, khí huyết của cơ thể con người, kinh mạch của con người chịu ảnh hưởng lớn nhất của Mặt trăng. Cho nên Tử Vi Đẩu Số đặc biệt coi trọng vị trí và tác dụng của Thái Âm, cái điều này so với lý luận về nhịp sinh học hiện đại là trùng khớp.

Nguyên nhân chính là như thế, một tuần trăng là 29.53 ngày, hay là một chu kỳ Bạch Đạo, là số chu kỳ của "tháng Thái Âm" (tháng Sóc Vọng), chứ tuyệt đối không thể là số chu kỳ của "tháng Thái Dương". Không được phép, tại lúc an 14 chính tinh thì dùng tháng Thái Âm, mà tại lúc tính toán số tháng thì lại dùng tháng Thái Dương được. Do đó mà tại vấn đề tháng sinh nêu trên, nó không xét đến Tiết Khí.

Tiết thứ tư: Ngũ Tinh

Ngũ Tinh, ngày xưa còn gọi là "Ngũ Vĩ", là để chỉ 5 khối hành tinh trong Hệ Mặt Trời là Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh.

Thái Dương hệ có 9 đại hành tinh (năm 2003 phát hiện ra hành tinh thứ 10) là Thủy Tinh, Kim Tinh, Địa Cầu, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh và Diêm Vương Tinh. Chín hành tinh này chính là đối tượng nghiên cứu của thuật Thất Chính Tứ Dư, mà ở trong lý luận của Tử Vi Đẩu Số thì Ngũ Tinh cũng có địa vị tương đương.

4.1 Kiến thức khoa học thiên văn của mối quan hệ Ngũ Tinh.

Thủy Tinh, Kim Tinh, Hỏa Tinh với Địa Cầu có chung đặc điểm là: Thể tích tương đối nhỏ, mật độ tương đối lớn, có cùng bề mặt ngoài là thể rắn, nham thạch, có rất nhiều các loại nguyên tố kim loại, như vậy mà nói thì mặt ngoài có nhiệt độ tương đối cao, tốc độ tự quay tương đối chậm, vệ tinh tương đối ít. Về tính chất của các loại hành tinh này thì khả dĩ dùng Địa Cầu làm đại biểu, theo Thiên Văn học thì gọi là "Loại địa hành tinh" (hành tinh giống như Địa Cầu).

Mà đặc điểm chung của Mộc Tinh, Thổ Tinh (còn có cả Thiên Vương Tinh với Hải Vương Tinh) chính là: Thể tích khá lớn, mật độ tương đối nhỏ, nhiệt độ bề mặt ngoài tương đối thấp, không có thể rắn ở bề mặt ngoài, nhẹ, thành phần chủ yếu gồm có Hydro, Heli, Nitro, Carbon; tốc độ tự quay khá nhanh, có nhiều vệ tinh. Về tính chất của các loại hành tinh này thì có thể lấy Mộc Tinh làm đại biểu, trong Thiên Văn học gọi là "Loại mộc hành tinh" (hành tinh giống như Mộc Tinh).

Các hành tinh lớn bé trong Thái Dương hệ, trên thực tế có con số về đường kính và cự ly với là vô cùng lớn. Như đường kính của Thái Dương lớn gần gấp 10 lần đường kính của sao Mộc, mà sao Mộc vốn được coi là hành tinh lớn nhất trong số các hành tinh của Thái Dương hệ. Sao Thủy cách Thái Dương 3600 vạn dặm Anh, mà sao Diêm Vương thì lại có cự ly lớn hơn 100 lần con số đó. Ở trong đồ hình trên, không thể biểu diễn được là tỷ lệ thực tế của chúng.

Thủy tinh còn gọi là Thần Tinh, ở trong 9 đại hành tinh thì có cự ly so với Mặt Trời là gần nhất, thể tích và khối lượng là bé nhất. Bình thường thì với mắt thường rất là khó nhận biết được. Nó đúng là một quả cầu đá trơ trụi, 1 cái mặt mà nó hướng về phía mặt trời thì đặc biệt nóng; còn 1 cái mặt lưng kia của nó lại đặc biệt lạnh.

Do tốc độ quay của sao Thủy quanh Mặt Trời là rất nhanh, tốc độ tự quay của nó lại rất chậm, cho nên bình thường cứ ẩn hiện khó nhận biết, chỉ khi nào đó chạy đến 2 bên của Mặt Trời và ở vào chỗ xa Mặt trời nhất trên quỹ đạo của nó thì mới có thể thấy được.

Trước khi mà Mặt Trời lặn xuống dưới sau núi thì nó xuất hiện tại khoảng trời ở chỗ đường chân trời phía Tây, còn sau một thời gian nữa thì nó lại xuất hiện lúc tờ mờ sáng ở phương Đông, thông thường vào hạ tuần tháng 3 cho tới mấy ngày đầu tháng 4, Thủy Tinh với Kim Tinh gần kề nhau, thông qua ánh sáng rực rỡ của Kim Tinh mà chúng ta có thể thấy được Thủy Tinh, sau đó thì Thủy Tinh đến gần Mặt Trời và ta không thể thấy được nó nữa.

Kim Tinh còn được gọi là Khải Minh tinh (sao Mai), là Trường Canh tinh (sao Hôm), là Thái Bạch Tinh, Minh Tinh. Là một trong những hành tinh có cự ly rất gần với Địa Cầu. Ở trên bầu trời thì độ sáng của nó gần như chỉ đứng sau Nhật Nguyệt, tới mức mà vào ban ngày cũng có thể thấy được.

Về độ lớn bé, thể tích, khối lượng và mật độ đều gần tương tự như là Địa Cầu. Bầu khí quyển bề mặt của Kim Tinh dày gấp khoảng 100 lần bầy khí quyển bề mặt của Trái Đất. Tầng cao nhất của khí quyển có chủ yếu là khí Ôxy, tầng trung là vào khoảng 95% CO2, còn N2 có không quá 3%, O2 dưới 0.1%. Mặt mà Kim tinh hướng về phía Mặt Trời có nhiệt độ cao, mặt lưng của nó thì có nhiệt độ âm.

Sự tự quay của Kim Tinh lại có phương hướng không giống như của Thủy Tinh và của Trái Đất, nó tự quay từ Đông sang Tây, ngược với chiều quỹ đạo của nó khi quay quanh Mặt Trời. Do quỹ đạo quay của Kim Tinh quanh Mặt Trời là nằm phía trong quỹ đạo của Trái Đất quanh Mặt Trời, cho nên Kim Tinh gần Mặt Trời hơn, vì thế mà đứng ở Trái Đất thì chỉ thấy nó ở quanh quẩn phía 2 bên của Mặt Trời. Lúc Kim Tinh ở phía Đông của Mặt Trời thì vào khi mà Mặt Trời lặn xuống phía sau núi thì ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Tây trên bầu trời hoàng hôn, cho nên gọi là Sao Hôm. Còn lúc Kim Tinh ở phía Tây của Mặt Trời, thì vào lúc bình minh, trước khi Mặt Trời xuất hiện là ta có thể thấy Kim Tinh ở phía đằng Đông của bầu trời, cho nên gọi là Sao Mai.

Hỏa Tinh có đa phần bề mặt là sắc đỏ, lấp lánh như lửa, mà độ sáng lại có sự thay đổi, hơn nữa là lúc đi xa thì hoặc là từ Đông chuyển qua Tây hoặc là từ Tây chuyển sang Đông, tình huống rất phức tạp, khiến cho người ta mê hoặc khó nắm bắt, cho nên có danh là Huỳnh Hoặc. Thể tích của nó nhỏ hơn so với Địa Cầu, chu vi khí quyển cực kỳ mỏng manh, có 2 tiểu vệ tinh.

Với Địa Cầu thì nó rất tương tự, cũng có ngày đêm và phân chia thành 4 mùa. Độ dày khí quyển cơ bản trên Hỏa Tinh so với khí quyển của Địa Cầu cũng tương đương là khoảng 15 đến 18 km, chủ yếu là CO2, sau đó là Argon, Oxygen, hàm lượng hơi nước vào khoảng 1/1000 cho nên trên Hỏa Tinh không có sinh vật. Nhiệt độ xích đạo trên Hỏa Tinh rất cao, tới gần khu vực Nam Cực của nó thì co lớp băng là với độ âm rất sâu.

Mộc Tinh cũng xưng là Tuế Tinh, do tại vành đai Hoàng Đạo nó đi mỗi năm một Thứ (Thứ có nghĩa là Trạm, theo thuật ngữ "triền thứ" trong Thiên Văn), tức là mỗi năm nó đi qua một cung trong 12 cung nên mới có cái tên là Tuế tinh. Khoảng chừng 12 năm thì nó đi được 1 vòng quanh Mặt Trời, thường dùng để ghi niên kỷ.

Thể tích với khối lượng của nó còn lớn hơn cả thể tích của tổng số 8 hành tinh kia cộng lại. Tốc độ tự quay của nó rất nhanh, hình dẹt mà rộng. Khí quyển xung quanh rất dày. Có tới 14 vệ tinh. Vì nó cách nguồn nhiệt rất xa cho nên nhiệt độ cực thấp, thành phần khí quyển chủ yếu là Hydro vào chừng 75%, còn 25% kia thì Heli chiếm quá nửa, còn lại là NH3, nước và khí CH4.

Mộc Tinh tự quay quanh trục gần như thẳng đứng so với mặt phẳng quỹ đạo của nó, do đó mà ở trên sao Mộc không có 4 mùa. Bởi vì sao Mộc có thể tích rất lớn, tốc độ tự quay lại nhanh, nên vật chất có xu hướng dạt về phía xích đạo của nó, và hình thành nên một vành đai xích đạo nhô ra, mà mà ở 2 cực lại dẹt.

Thổ Tinh cũng được gọi là Điền Tinh, Trấn Tinh, Tín Tinh. Có chu kỳ quay quanh Mặt Trời là 29.45 năm. Đại thể là tương xứng với số lượng của Nhị Thập Bát Tú. Nói chung mỗi năm nó tiến nhập một Tú, như là thay phiên bổ xung hoặc tọa trấn Nhị Thập Bát Tú, cho nên mới được gọi là Trấn Tinh.

Quang sắc của nó màu vàng, ánh sáng của nó thì trừ các hằng tinh ở chòm sao Thiên Lang ra, ít có sao nào có thể sánh được. Ngoại trừ 10 vệ tinh ở phía ngoài, nó còn có một vành sáng nhưng rất mỏng, mắt thường khó mà phân biệt được. Mật độ thấp nhất trong 9 đại hành tinh. Thổ tinh có nhiệt độ ở lớp vỏ rất thấp. Tốc độ quay xung quanh Mặt Trời là rất chậm, tốc độ tự quay thì rất nhanh.

Từ Đông sang Tây của Thổ Tinh có ánh sáng rất đẹp, trên bầu trời nó đúng là một đại kỳ quan. Quầng sáng của nó dọc theo đường xích đạo bao bọc lấy Thổ Tinh nhưng không hề tiếp xúc với nó, mà vận độ tự do trong không gian. Đó chính là do vô số tiểu vệ tinh tập hợp lại mà thành.

QNB chú: đã lược bỏ không dịch khá nhiều những đoạn nói chi tiết về thành phần hóa học, đường kính, tốc độ quay,… của cả 5 hành tinh trên theo kiến thức của khoa học thiên văn hiện đại.

4.2 Tử Vi với Ngũ Tinh

Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, hợp xưng là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành Tượng, tại Địa thì hóa Hình, còn gọi là "Ngũ Đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng không thay đổi.

Sách "Thái Ất tinh kinh", chương Thiên Văn, viết rằng:

Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

=

Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm.

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết Long Mã Linh Quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng. Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản (nói kỹ thêm hãy xem ở chương 1 phần đại cương về âm dương dịch học).

Vì vậy dựa vào Hà Đồ, Ngũ tinh là căn nguyên của ngũ hành, mà theo sinh số của ngũ hành, thứ tự của Ngũ tinh là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, đây chính là sở luận của "Hồng Phạm" mà hậu nhân đều biết.

Mà theo sự sắp xếp thứ tự của tự nhiên đối với Ngũ Tinh thì là Thổ, Mộc, Hỏa, Kim, Thủy.

Lấy Thổ là đầu tiên, Mộc Hỏa cùng một thể, Kim Thủy cùng một nhà. Từ Trung ương là 5, 10 Thổ mà chuyển sang Đông phương 3, 8 Mộc; từ đó mà thuận hành đến Nam phương 2, 7 Hỏa; đến Tây phương 4, 9 Kim; đến Bắc phương 1, 6 Thủy; tức là hoàn thành.

Sự sắp xếp trình tự của Ngũ Tinh này, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Ngũ Tinh bản tự" (thứ tự gốc của Ngũ Tinh) vốn có ý nghĩa rất trọng đại.

Từ đồ hình bên trên có thể thấy, trình tự này thực tế chính là trình tự xắp xếp của 5 hành tinh trong Thái Dương hệ trong Thiên Văn học.

Lấy Địa Cầu làm gianh giới, thì bên trái là Kim Thủy, bên phải là Hỏa Mộc Thổ, là âm dương lưỡng hệ.

"Thái Ất Tinh Kinh" chương Thiên Văn viết:

Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số. Tức, ngũ tinh mỗi tinh các hành 72 thiên, tắc hợp chu thiên 360 độ, tiền giả ( mộc hỏa thổ ) đích quỹ đạo đại nhi tại ngoại, kháp hợp Càn quái sách số 216; hậu giả ( kim thủy nhị tinh ) quỹ đạo tiểu nhi tại nội, kháp hợp Khôn quái sách số 144, cố viết"Càn Khôn chi số".

=

Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, thì Thổ Mộc Hỏa ở ngoài, còn Kim Thủy ở trong, các ti 72 ngày, là số của Càn Khôn. Tức là, Ngũ Tinh mỗi tinh đều đi 72 ngày thì hợp vòng chu thiên 360 độ. Quỹ đạo nhóm sao trước (Thổ Mộc Hỏa) là kích thước rộng lớn mà ở phía ngoài, vừa đúng hợp số sách 216 trong quái Càn. Nhóm các sao sau (2 sao Kim, Thủy) có quỹ đạo nhỏ mà ở phía trong, vừa đúng hợp số sách 144 của quái Khôn. Cho nên viết "Càn Khôn chi số" (Số của Càn Khôn).

Sách "Thái Ất Tinh Kinh" viết:

Ngũ tinh chi thứ tự, thổ mộc hỏa kim thủy, tự trung ương hỏa khởi, nghịch số tam, lịch hỏa thổ kim mộc thủy nhi vô cùng, cố hỏa nhất thổ nhị kim tam mộc tứ thủy ngũ, dĩ thất khứ chi, hỏa lục thổ ngũ kim tứ mộc tam thủy nhị, cố hỏa hàm thổ, thổ hàm kim, kim hàm mộc, mộc hàm thủy, tử phủ thụ khí nhi phát, xuất thân nhập dần, dĩ thành hóa dục chi công hĩ.

=

Thứ tự của Ngũ Tinh, Thổ - Mộc - Hỏa - Kim - Thủy, từ chính giữa là Hỏa mà khởi, đếm nghịch số 3, trải qua sẽ là Hỏa -> Thổ -> Kim -> Mộc -> Thủy... cứ thế đến vô cùng. Cho nên Hỏa 1, Thổ 2, Kim 3, Mộc 4, Thủy 5. Lấy 7 mà trừ đi sẽ được Hỏa 6, Thổ 5, Kim 4, Mộc 3, Thủy 2. Cho nên Hỏa hàm Thổ, Thổ hàm Kim, Kim hàm Mộc, Mộc hàm Thủy, Tử Phủ thụ nhận khí mà phát sinh, xuất ra ở Thân nhập vào ở Dần, mà thành cái công dưỡng dục vậy.

Ngũ Tinh vốn tự hàm chứa nguyên lý của Cục số nạp âm (xem nói rõ hơn ở "luận về cái gốc ban đầu của Chính Tinh").

Tiết thứ 5: Thất Chính và Tinh kỳ

5.1 Thất Chính

Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh, chính là Thất Chính, tức là 5 hành tinh Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ cùng với Mặt Trời và Mặt Trăng, người xưa còn gọi là Thất Vĩ, Thất Diệu. Xưa nay, văn hóa truyền thống của Trung Quốc vốn rất coi trọng Thất Chính. Còn các thuật Thất Chính Tứ Dư với Chiêm Tinh phương Tây theo đó mà làm phương pháp luận.

Giang Vĩnh "Hà Lạc Tinh Uẩn" từ Hà Đồ đã suy diễn ra Đồ hình cao thấp của Thất Chính:

Thổ trung ngũ thập

Mộc đông tam bát

Hỏa nam nhị thất

Nhật hỏa chi tinh

Kim tây tứ cửu

Thủy bắc nhất lục

Nguyệt thủy chi tinh

(Thổ ở giữa, 5, 10

Mộc ở Đông, 3, 8

Hỏa ở Nam, 2, 7

Nhật là tinh của Hỏa

Kim ở Tây, 4, 9

Thủy ở Bắc, 1, 6

Nguyệt là tinh của Thủy)

Nói ngắn gọn về cái lý của nó, Ngũ Tinh lấy thanh - trọc (trong - đục) mà phân chia ngôi vị cao thấp, cái trọc (đục) thì ở trên, cái thanh (trong) thì ở dưới. Trong ngũ hành thì Thổ là trọc nhất, cho nên cư cao nhất, thứ đến là Mộc Hỏa, còn Nhật là tinh của Hỏa cho nên cư ở bên dưới của Hỏa, thứ đến nữa là Kim Thủy, mà Nguyệt là tinh của Thủy cho nên Nguyệt cư ở dưới của Thủy. Để rõ hơn, xem Giang Vĩnh - "Hà Lạc Tinh Uẩn" - quyển 8.

QNB chú: Giang Vĩnh sống ở thời nhà Thanh, cái lý luận cho việc sắp xếp ấy có lẽ không phải là của Giang Vĩnh, mà xem trong “Vân Đài Loại Ngữ” của cụ Lê Quý Đôn thì thấy nói rằng, người phương Tây vào Trung Quốc giảng về Thiên Văn đã nói rằng Trời có 9 tầng, cao nhất là tầng Tôn Động Thiên không có sao gì cả, tầng thứ hai là Liệt Tú Thiên, tầng thứ ba là Trấn Tinh Thiên (tầng trời của Thổ Tinh), tầng thứ tư là Tuế Tinh Thiên (tầng trời của Mộc Tinh), tầng thứ năm là Huỳnh Hoặc Thiên (tầng trời của Hỏa Tinh), tầng thứ sáu là Thái Dương Thiên (tầng trời của Thái Dương), tầng thứ bảy là Kim Tinh Thiên (tầng trời của Kim Tinh), tầng thứ tám là Thủy Tinh Thiên (tầng trời của Thủy Tinh), tầng thứ chín thấp nhất là Thái Âm Thiên (tầng trời của Thái Âm).

Vậy thì cách sắp xếp này chính là xuất phát từ người phương Tây.

Sắp xếp thứ tự bài bố này của Thất Chính, ở trong Tử Vi tượng học gọi là "Thất Chính bản tự" (thứ tự gốc của Thất Chính), là đúng với sự giãn nở của thứ tự gốc đối của Ngũ Tinh.

Thứ tự gốc của Thất Chính cũng thể hiện tư tưởng gốc của Lục Hợp (xem đồ hình trên), tức Tý Sửu hợp Thổ là 1, Dần Hợi hợp Mộc là 2, Mão Tuất hợp Hỏa là 3, Thìn Dậu hợp Kim là 4, Tị Thân hợp Thủy là 5, Ngọ Mùi hợp Nhật Nguyệt cư ở Mão Tuất với Tị Thân là sau cùng.

Thuật Thất Chính Tứ Dư có Thất Chính nhập viên đồ, cũng là cái lý đó, cái uyên áo sâu xa trong đó cần phải nghiên cứu thêm một bước nữa.

Trong thứ tự gốc của Thất Chính có hàm chứa cái nguyên lý bài bố của hai hệ tinh diệu các chính tinh theo Tử Phủ trong môn Đẩu Số (rõ hơn hãy xem "Chính tinh bản nguyên luận").

5.2 Tinh Kỳ (Tuần Lễ)

Người Ai Cập cổ đại đối với Thất Chính đã có những kiến giải đặc thù, người ta đem Thất Chính phân ra trị mỗi ngày, 7 ngày là một chu kỳ, quan niệm đó cũng là sản phẩm của Thái Âm lịch của người Ai Cập cổ đại. Căn cứ vào Tháng Sóc Vọng từ Sóc tới Thượng Huyền, từ Thượng Huyền tới Vọng, từ Vọng tới Hạ Huyền, từ Hạ Huyền tới Hối, đều trải qua 7 ngày.

Thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên, phương Tây đem quan niệm này nạp nhập vào lịch pháp Thái Dương của họ, tạo thành 7 ngày của Tuần Lễ (QNB chú: Tinh Kỳ có nghĩa là chu kỳ của sao, vì chu kỳ đó là 7 ngày nên cứ 1 chu kỳ thì gọi là 1 Tuần Lễ).

Tuần Lễ (Tinh Kỳ), là khái niệm thời gian của người ta thường dùng, nhưng có biết bao nhiêu người hàng ngày vẫn sử dụng mà không biết được cái lý của nó. Mà từ tiếng Nhật Bản hoặc tiếng Triều Tiên rất hay phản ánh về quan hệ đối ứng của tuần lễ với thất chính:

Tinh kỳ:.…TK-Nhật....TK-Nhất....TK-Nhị....TK-Tam....TK-Tứ....TK-Ngũ....TK-Lục

Thất chính:..Nhật.........Nguyệt.........Hỏa..........Thủy.........Mộc.........Kim.........Thổ

QNB chú: không chỉ trong tiếng Nhật với tiếng Hàn, mà ngay cả trong Tiếng Anh cũng có thể thấy có sự liên quan như Sun-day, Mo(o)n-day,... Satur(n)-day; còn Tuesday thì trong tiếng Đức (vốn là gốc của tiếng Anh) gọi là "Tiu day" với Tiu là vị thần cai quản chiến tranh và bầu trời theo phong tục của dân Scandinavia, chiến tranh là đặc trưng được gán cho sao Hỏa; hay như Wednesday vốn xuất xứ từ "Woden day" với Woden là vị thần có quyền năng cao nhất của người Đức,...

Từ cái này có thể thấy, Tinh Kỳ thực tế là một loại hình thức bài bố sắp xếp của Thất Chính. Loại sắp xếp này so với thứ tự gốc của Thất Chính là có sự biến đổi.

Giang Vĩnh triều Thanh cho rằng, "Trung Quốc có Giáp Tý, mà không biết lấy Tú trị ngày. Các nước phương Tây lấy Tú để trị ngày, mà lại không biết Giáp Tý. Về sau hợp nhất lịch Trung Quốc và lịch Công Nguyên (chú: chỉ triều Thanh ban hành lịch Thời Hiến dùng cho tới nay), cho nên lịch ngày nay cũng có phép lấy Tú mà trực nhật", cái đó gọi là phép lấy Tú trị nhật (ngày), tức Tinh Kỳ (Tuần Lễ).

Giang Vĩnh còn phát hiện việc 28 Tú cùng với Thất Chính là đích thực có quy luật đối ứng, là thực chất của Tinh Kỳ:

"28 Tú, tức là 4 lần của 7 vậy, là căn cứ theo trình tự cao thấp của Thất Chính, mà lấy Tú phối vào. Mỗi Tú trị nhất nhật, mỗi nhất nhật phân chia thành 24 tiểu giờ (QNB chú: tức 24 tiếng. Tác giả chú: lúc Giang Vĩnh tại thế, thì lịch Thời Hiến được ban hành, đã tiến hành chế độ dùng 24 tiếng một ngày theo Tây phương), mỗi tiểu giờ trải qua một Diệu. Như ở phương Đông có Thanh Long 7 Tú, lấy Giác làm đầu, cho nên Giác thuộc Mộc, từ đầu đến cuối thì mỗi tiểu giờ trải qua 1 Diệu, tất 24 tiểu giờ sẽ được 1 ngày, đến ngày kế tiếp là tú Cang trị nhật, tới Kim, nên Cang thuộc Kim, sau đó đều cách 4 Diệu mà đếm đi (chú: thực tế 28 trừ 24 chính là được hiệu số 4), thứ Thổ, thứ Nhật, thứ Nguyệt, thứ Hỏa, thứ Thủy, mà trở lại ở Mộc".

Kết luận nghiên cứu kể trên của Giang Vĩnh có giá trị khiến cho việc nghiên cứu tiến bộ vượt bậc.

Đoạn này sách viết không được rõ ràng, thực ra là cần phải nói rằng bộ Lịch Thời Hiến có sự cải cách lớn về việc xác định Tiết Khí bằng phép Định Khí thay thế cho phép Bình Khí được dùng trong các bộ lịch trước đó. Theo đó khoảng thời gian giữa các Tiết Khí không cố định nữa mà xê dịch, chỉ có vị trí Mặt Trời là cố định theo vận tốc tức thời ở thời điểm chuyển giao Tiết Khí. Cho nên việc xác định tháng Nhuận sẽ dễ hơn và lịch sẽ đạt độ chuẩn xác hơn.

Đối với quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng" thì trong Lịch Thời Hiến cũng có sử dụng, và QNB cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc này rất có thể liên quan đến tính chất Tôn Giáo.

Bộ Lịch Thời Hiến, thực chất là được ông Thang Nhược Vọng và các quan cả Tây lẫn Tàu thuộc Khâm Thiên Giám triều Minh đem sửa lại từ bộ Lịch Đại Thống. Thời đó trong bộ phận làm Lịch của Khâm Thiên Giám triều Minh có 2 Cục chính là Đông Cục (quan làm lịch người Hán) và Tây Cục (Từ Quang Khải và các giáo sĩ phương Tây), ngoài ra còn có một Cục nữa là Cục Hồi Hồi (còn gọi là Ti Thiên Giám Hồi Hồi, được đặt ra từ năm Hồng Vũ thứ nhất, Mậu Tuất, 1368).

Đây chính là nguyên nhân có cái quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Một, Chạp, Giêng".

Bởi vì, Lịch Hồi Giáo vốn chính là bộ Thái Âm Lịch thuần túy (gần như là duy nhất trên thế giới vẫn sử dụng), và có quy ước "Không được Nhuận vào các tháng Dhu al-Qi'dah, Dhu al-Hijjah, Muharram" và các tháng đó lại trùng khớp với các tháng Một, Chạp, Giêng. Và quy ước đó trong Kinh Coran vào khoảng năm thứ 9 thứ 10 của Lịch Hồi Giáo, tức là thuộc thế kỷ thứ 7 CN.

Các tháng của Lịch Hồi Giáo

1. Muharram (hay Muḥarram al Ḥaram)

2. Safar (hay Ṣafar al Muzaffar)

3. Rabi' al-awwal (Rabī' I)

4. Rabi' al-thani (hay Rabī' al Thānī hoặc Rabī' al-Akhir) (Rabī' II)

5. Jumada al-awwal (Jumādā I)

6. Jumada al-thani (hay Jumādā al-akhir) (Jumādā II)

7. Rajab (hay Rajab al Murajab)

8. Sha'aban (hay Sha'abān al Moazam)

9. Ramadan (hay Ramzān, dạng dài: Ramaḍān al Mubarak)

10. Shawwal (hay Shawwal al Mukarram)

11. Dhu al-Qi'dah

12. Dhu al-Hijjah

Tiết thứ 6: Bắc Cực với Nam Bắc đẩu

6.1 Bắc Cực

Bắc Cực ở đây tức là sao Bắc Cực, còn gọi là Thái Ất, Thái Nhất, Đế Tinh, Cực Tinh, Tử Vi,... là một sao sáng nhất ở trong Tử Vi Viên, do sự di chuyển của nó là cực kỳ nhỏ (quan trắc bằng kính viễn vọng thiên văn, thì bán kính di chuyển của nó chỉ khoảng gần 1 độ), cho nên cổ nhân từng cho rằng nó không di chuyển, điều mà họ gọi là "Tử Vi cao chiếu" chính là chỉ sao này tọa trấn Bắc Cực, vĩnh viễn không bao giờ chìm xuống.

Bắc Cực chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng trong văn hóa Trung Quốc cổ đại, bởi vì nó luôn luôn nằm ở Trung Tâm thiên cực phía Bắc. Trục tự quay của Trái Đất kéo dài vô hạn sẽ luôn luôn gặp Bắc Cực, và lại Bắc Đẩu thất tinh lại cũng luôn vận chuyển xung quanh nó, người xưa lấy đó để làm tiêu chuẩn định vị phương Bắc. Cho nên có điềm báo của Đế Vương, theo thuật Thái Ất, còn các nhà y thì dùng linh quy thám huyệt đều có phương pháp xét Thái Ất ở cửu cung, đại để là có sự gắn bó rất mật thiết.

Bởi vì tồn tại Tuế Sai, trên thực tế thì Bắc Cực tinh vẫn có sự di chuyển cực kỳ chậm, như ở thời kỳ nhà Chu cách nay khoảng 3000 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh ở tại Đế Tinh, còn thời Tùy Đường cách nay khoảng 1500 năm thì lúc đó Bắc Cực Tinh là Thiên Xu (Thiên Khu), còn ngày nay thì Bắc Cực Tinh là Câu Trần, trải qua 5 vạn năm nữa thì Bắc Cực tinh sẽ trở lại vị trí Đế Tinh.

6.2 Bắc Đẩu

Bắc Đẩu thất tinh là một tổ hợp sao rất được người ta chú ý, nằm ở trên bầu trời khu vực phía Bắc của Trung Quốc. Vào thời cổ đại thì thuộc Tử Vi Viên, còn Thiên Văn học ngày nay thì gọi là chòm sao Đại Hùng, nó sắp xếp theo hình cái Đấu tửu (gáo múc rượu), mỗi năm vào cả 4 mùa đều có thể quan sát được.

Cổ "Tinh Kinh" có bài Thiên Ca viết:

Bắc đẩu chi tú thất tinh minh,

Nhất Xu nhị Tuyền tam Cơ tinh.

Đệ tứ danh Quyền đệ ngũ Hành,

Khai Dương, Dao Quang lục thất danh.

(Bảy sao Bắc Đẩu sáng bao la

Xu một, Tuyền hai, Cơ thứ ba

Thứ bốn Quyền tinh, Hành kế tiếp

Khai Dương, Dao Quang sáu bảy nha).

Danh xưng và kết cấu ước lược như hình bên dưới (QNB chú: 2 sao cao nhất trong hình là các sao thứ 8, thứ 9, gọi là Tả Phụ, Hữu Bật, vì mờ hơn nên không được xếp vào nhóm 7 sao).

Tham Lang, Lộc Tồn, Cự Môn, Văn Khúc, bốn sao này tạo thành Đấu Khôi (đầu của cái gáo), cùng được gọi là Tuyền Cơ.

Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân, ba sao này tạo thành Đấu Bính (đuôi của cái gáo), cũng được gọi là Đấu Chước hoặc là Ngọc Hành.

"Sử Ký" viết:

"Đẩu vi đế xa, vận vu trung ương, lâm chế tứ phương. Phân âm dương, kiến tứ thì, quân ngũ hành, di tiết độ, định chư kỷ, giai hệ vu đẩu."

=

Đẩu là Đế Xa (cái xe của vua), chuyển động tại trung ương, phỏng theo định chế bốn phương. Phân chia Âm Dương, thấy ở 4 mùa, quân bình ngũ hành, thay đổi tiết độ, định ra chư kỷ, đều là ở Đẩu cả.

Lại nói:

"Bắc đẩu thất tinh, sở vị huyền cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Chước huề long giác, hành ân nam đẩu, khôi chẩm tham thủ."

=

Bắc Đẩu thất tinh, cái gọi là Huyền Cơ, Ngọc Hành mà như thất chính. Chước nắm Long Giác, Hành thì chăm Nam đẩu, Khôi gối đầu Sâm".

Ý tức là, theo Đấu Chước kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến phương Đông sao Giác, theo Ngọc Hành (Liêm Trinh) mà kéo thẳng ra thì sẽ vừa đến Nam đẩu, theo Đấu Khôi mà kéo thẳng ra 2 đường thì sẽ vừa đến trên 2 vai của sao Sâm.

Bắc đẩu thất tinh vận hành xung quanh của sao Bắc Cực, như là cái xe của vua Bắc Cực, thay trời mà hành lệnh. Cho nên có cái thuyết của Cửu cung Thái Ất, như cây gậy chỉ huy của sự vận hành của trời. Nhưng cũng phân rõ Đông Tây Nam Bắc cùng phương vị của 28 Tú.

Bởi thế mà lời xưa nói: Hiểu được Bắc đẩu thì đi được khắp thiên hạ. Thí dụ như, đường kéo dài nối từ 2 sao Lộc Tồn và Tham Lang hướng về phía trước 1 khoảng là 5 lần khoảng cách của chúng thì sẽ thấy được chỗ sở tại của Bắc Cực Tinh, bởi vậy mà cặp sao này còn được gọi là "chỉ Cực Tinh".

Lại như, cổ thư đều nói: Đẩu Bính chỉ hướng Đông thì khắp thiên hạ đều vào mùa Xuân, Đẩu Bính chỉ hướng Nam thì thiên hạ đều Hè, Đẩu Bính chỉ hướng Tây thì khắp thiên hạ đều vào Thu, Đẩu Bính chỉ hướng Bắc là khắp thiên hạ đều Đông.

Ngoài ra, còn có thể dùng Bắc Đẩu để xác định thời gian, như lấy Đẩu Kiến để mà định Tiết Khí, mỗi năm 24 Tiết Khí đều lấy việc Bắc Đẩu gặp gỡ hay không để mà xác định. Cổ nhân tổng kết quy luật đó là, mỗi tháng thì Nhật Nguyệt tương hội một lần là Tiết, nếu như Đẩu lại đến hội thì tất sẽ là một Khí, còn như Nhật Nguyệt tuy tương hội nhưng mà Đẩu lại không đến hội thì tất Tiết Khí cũng không thể thành lập, đó chính là tháng Nhuận.

Bên cạnh đó, bởi vì Đẩu Bính mỗi ngày vận chuyển 1 độ, vì thế mà có thể dùng để xác định ngày.

Cái gọi là "Nguyệt Kiến" là, Kiến chính là Đẩu kiến chi vị, đó là Đẩu Bính (cán chòm sao Đẩu) chỉ vào tháng nào, mà phân biệt đối với Nguyệt Tướng tại nhật triền. Vì vậy mà "Tinh Tông" viết: phàm ở chỗ Nguyệt Kiến, tất đúng là cán chòm Đẩu chỉ vào vậy, duy chỉ có tháng Nhuận thì cán chòm Đẩu chỉ xéo vào giữa của 2 Thần (tức là tên gọi của 2 Địa Chi làm chủ 2 cung). Mỗi năm có 12 Tiết hậu, thì Đẩu Chước tùy theo Nguyệt Kiến mà chuyển.

Cổ nhân vào đêm mà khảo Cực tinh, chính là lấy Thiên đỉnh Bắc Cực làm tiêu chuẩn định vị, lấy khu vực gianh giới của 28 Tú làm những vạch chia nhỏ, lấy 12 cung thứ làm vạch chia lớn lấy cán của chòm Bắc Đẩu để làm kim chỉ dẫn, hình thành 24 Tiết Khí cùng với việc xác định tháng Nhuận, để mà quan sát Ngũ Tinh với Nhật Nguyệt xem các tình huống biến hóa như thế nào.

6.3 Nam Đẩu

Cuốn "Chiêm Kinh thời Khai Nguyên đời Đường, quyển 61" có ghi:

Nam đẩu, nhất danh thiên phủ thiên quan, nhất danh thiên ky, nhất danh thiên đồng, thiên tử kỳ dã, bắc nhị tinh, thiên phủ đình, trung ương nhị tinh, tương dã, nam nhị tinh, thiên khố lâu dã, thiên lương dã.

=

Nam Đẩu, một tên Thiên Phủ Thiên Quan, một tên Thiên Cơ, một tên Thiên Đồng, cờ của Thiên Tử vậy, Bắc nhị tinh, Thiên Phủ Đình, ở giữa nhị tinh, Tướng vậy, Nam nhị tinh,Thiên Khố Lâu vậy, Thiên Lương vậy.

Sách "Linh Đài Bí Uyển" phần đồ hình 7 sao phương Bắc viết:

Nam đẩu, kỳ trạng tự bắc đẩu.

=

Nam đẩu cũng tựa như Bắc đẩu.

Quyển Nhị của nó lại viết:

Nam đẩu lục tinh, nguyên quy chi thủ ( chú: chỉ huyền vũ đích quy thân bộ phân ), diệc vi thiên miếu tể tướng chi vị. Chủ bao hiền tiến sĩ, bẩm thụ tước lộc, cố đẩu vi lượng khí, sở dĩ châm chước nhi thụ tước dã.

=

Sáu sao Nam đẩu, tạo thành đầu của con rùa (chú: chỉ bộ phận trên thân thể con rùa của chòm Huyền Vũ), cũng là vị trí của miếu trời của Tể Tướng. Chủ về chiêu hiền tài, tiến cử kẻ sĩ, trình và trao tước lộc, cho nên Đẩu là cái khí cụ đo lường, đó là lý do cân nhắc mà trao tước vị vậy.

Lại viết:

Binh diệc viết thiên ky, nam nhị tinh viết khôi, khố lâu thiên lương dã, trung nhị tinh, tương dã, thiên phủ, kiến chước dã, sơ viết bắc đình, hựu viết thiên quan, hựu viết phu việt.

=

Việc binh cũng viết Thiên Cơ, 2 sao Nam viết Khôi, Khố Lâu Thiên Lương vậy, ở giữa 2 sao, Tướng vậy, Thiên Phủ, kiến Chước vậy, ban đầu viết Bắc Đình, lại viết Thiên Quan, lại viết Phu Việt.

Trên đây là 2 sách đều thuộc Bắc Chu, điển tịch tinh học đại quan triều Đường, theo ghi chép của các sách ấy, có thể thấy:

a, Nam đẩu tổng cộng có 6 sao, nằm ở trong Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ ở phương Bắc, thật là Cự tinh của Đẩu tú.

b, Danh xưng của Nam đẩu lục tinh là: Thiên Phủ (còn tên là Thiên Quan, Bắc Đình, Phu Việt), Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thiên Tướng, Thiên Khố Lâu, và Thiên Lương, đều có chữ "Thiên" cả.

c, vị trí và kết cấu của nó suy đoán có khả năng như hình nêu trên (so với thuyết pháp của "Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư" thì không giống nhau).

Tác giả chú: Theo các số liệu dân gian chân truyền "Thái Ất châm kinh thập tam thức" (13 thức châm cứu kinh mạch Thái Ất) giới thiệu thì có đoạn văn này đáng chú ý:

"Nhâm, đốc nhị mạch phân bố tại thể biểu cơ phu hạ thâm xử, tịnh thả nhâm, đốc nhị mạch xử vu tương đối vị trí. Nhâm mạch đả khai, tòng đầu khai thủy tuần hoàn, kinh hung phúc thối đáo cước, nhiên hậu tái phản hồi đáo đầu, xưng vi nhất đại tuần hoàn. Nhâm mạch dữ đốc mạch tương bỉ giác, nhâm mạch dung dịch đả khai, nhâm mạch đả khai hậu tại thể nội vu huýnh tuần hành đích lộ tuyến dữ thiên văn tinh tương trung đích nam đấu lục tinh tương nhất trí, tại hung phúc tuần hành khúc chiết vu huýnh thất đoạn, xưng chi vi"Thất kinh", tẩu đích đô thị thể biểu phù mạch, huyệt mạch hữu thâm hữu thiển. Tâm tạng đích trọng tân khải động, hoàn dương pháp, hoàn hồn tỉnh não, giai thị nhâm mạch đả khai chi hậu đích công hiệu; nho y đạo thính đồ thuyết, tương thất kinh đỗ soạn thành"Kỳ" kinh, giá tựu thị ngã môn hiện tại khán đáo đích"Kỳ kinh bát mạch" đích kỳ tự".

=

Hai mạch Nhâm Đốc phân bố trên cơ thể tại chỗ sâu dưới da thịt, mà vả lại 2 mạch Nhâm Đốc cũng có vị trí trái ngược nhau. Nhâm mạch mở ra từ trên đầu mà xuất phát tuần hoàn, xuyên qua ngực bụng cẳng chân đến bàn chân, sau đó lại đi ngược lên đầu, gọi là một vòng tuần hoàn lớn. Nhâm mạch khá hơn so với Đốc mạch, vì Nhâm mạch có thể mở ra được, và nó mở ra sau khi tại bên trong cơ thể đi tuần hành vòng vèo mà lại cùng một dạng với Nam Đẩu lục tinh ở trong thiên văn, ở chỗ ngực bụng thì tuần hành quanh co vòng vèo 7 đoạn, gọi là "Thất Kinh", đi ở phù mạch bên ngoài, chỗ huyệt mạch lại có nông có sâu. Sự khởi động mới của tạng Tâm, phép hoàn dương, tỉnh não hoàn hồn, đều là công hiệu của việc sau khi khai mở được mạch Nhâm; nhiều ông Nho Y lại nghe hơi nồi chõ, rồi đem Thất Kinh hư cấu thành "Kỳ Kinh", cái này chính là chúng ta hiện đang chứng kiến văn tự đặc sắc của "Kỳ Kinh Bát Mạch".

Phương pháp này chính là tiêu chuẩn của Trung Y dân gian, chuyên trị các quái chứng cùng nham chứng (QNB chú: “Nham chứng” trong Đông y mới chính là Ung thư ác tính – Cancer – hiện nay), người ta nói là Trung Y chính thống thực sự, chê bai "Chu Dịch", "Nội Kinh" với cả Linh Quy thám Huyệt là tà thuyết, có thể thấy rằng những chuyện bí ẩn của dân gian với sách vở là có 1 khoảng cách sai biệt cực kỳ lớn.

Tiết bảy: Nhị Thập Bát Tú

Các hằng tinh (định tinh) được Thiên Văn học cổ đại phân thành Tam Viên và Nhị Thập Bát Tú.

Tam Viên là chỉ 3 khu vực phân bố các hằng tinh trên bầu trời, tức là Tử Vi Viên (còn gọi là Tử Vi cung, Tử cung), Thái Vi Viên (Thái Vi cung) và Thiên Thị Viên. Trong đó, Tử Vi Viên là cung viên nằm ở chính giữa, ở Đông Bắc của Bắc Đẩu, có 15 chòm sao, bày ra Đông Tây, lấy Bắc Cực tinh là trung tâm để xoay quanh mà tạo thành một hàng rào bảo vệ;

Còn Thái Vi Viên là cung viên ở phía trên, tại phía Nam của Bắc Đẩu, gồm Chẩn và sao Dực có 10 sao, lấy Ngũ Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ;

Còn Thiên Thị Viên là cung viên phía dưới, ở Đông Bắc gồm Phòng với Tâm có 12 sao, lấy Đế Tòa làm trung tâm để xoay quanh mà làm hàng rào bảo vệ.

Người xưa khi xem xét bầu trời có phân biệt thời gian, kinh độ mà đo đạc dài hạn đối với Ngũ Tinh tại Thiên Xích Đạo với các vùng phụ cận Hoàng Đạo, lựa chọn 28 nhóm hằng tinh, mệnh danh là Nhị Thập Bát Tú, cũng gọi là 28 Xá hoặc 28 Tinh, gọi tắt là các chòm sao.

Hai mươi tám sao này là:

Đông phương có Thanh Long 7 sao: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Nam phương có Chu Tước 7 sao: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Tây phương có Bạch Hổ 7 sao: Khuê, Lâu, Vị, Chủy, Tất, Mão, Sâm.

Bắc phương có Huyền Vũ 7 sao: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Mỗi Tú đều có một hằng tinh tạo ra khởi điểm của Tú ấy, gọi là Cự Tinh, khoảng cách ở giữa 2 bên của cự tinh gọi là Cự Độ. Nhật Nguyệt và Ngũ Tinh khi vào trong Tú ấy tương đối với góc độ Cự Tinh gọi là Nhập Cự Độ, tương đối với góc độ của Bắc Cực tinh thì gọi là Cực Độ. Các yếu tố này cùng tạo thành hệ thống tọa độ Thiên Cầu cổ đại, để mà biểu thị vị trí của tinh thể trên bầu trời.

Tên và Cự Độ của 28 Tú theo cách sắp xếp nghịch chiều kim đồng hồ là:

1, Đông phương Thanh Long thất tú, hình thì như con rồng, sắc như màu xanh: Giác 12 độ, Cang 10 độ, Đê 15 độ, Phòng 5 độ, Tâm 5 độ, Vĩ 8 độ, Cơ 17 độ.

2, Nam phương Chu Tước thất tú, hình như con chim, sắc như màu đỏ: Tỉnh 33 độ, Quỷ 4 độ, Liễu 15 độ, Tinh 7 độ, Trương 18 độ, Dực 18 độ, Chẩn 17 độ.

3, Tây phương Bạch Hổ thất tú, hình như con hổ, sắc như màu trắng: Khuê 16 độ, Lâu 14 độ, Vị 14 độ, Mão 11 độ, Tất 16 độ, Chủy 2 độ, Sâm 9 độ.

4, Bắc phương Huyền Vũ thất tú, hình như con rắn, sắc như màu đen: Đẩu 26 độ, Ngưu 8 độ, Nữ 12 độ, Hư 10 độ, Nguy 17 độ, Thất 16 độ, Bích 9 độ.

Vì có tồn tại Tuế Sai, nên liệt Tú ước chừng khoảng 70 năm lại dịch về phía Tây 1 độ, cho nên trải qua các thời đại đều có số liệu không đồng nhất.

Bởi vì 12 cung thì về cơ bản là chia đều nhau, mà 28 Tú lại rộng hẹp không được đồng nhất, cho nên một số sao lại vượt ra ngoài cung, số liệu cận đại về cung dộ của chúng như bên dưới:

Vì sao mà lại có con số 28 Tú?

Cổ nhân cho rằng, 28 Tú lúc ban đầu là do khi quan sát hành độ của Mặt Trăng mà được, bởi vì số ngày mà Mặt Trăng di chuyển ước chừng 27 và 1/3 ngày là hết một vòng chu thiên, khoảng chừng mỗi ngày hành trình qua 1 Tú, trải qua 28 ngày lại quay lại chỗ Tú ban đầu, cho nên hình thành con số 28 hằng tinh đó.

Trải qua sự nghiên cứu của người ngày nay thì thấy độ số của 28 Tú là ít nhiều không đồng đều với nhau, với sao ít thì không được 1 độ, với sao nhiều thì lên tới 31 độ, nên mới đưa ra mối quan hệ về quy luật của 28 Tú với Nguyệt Thực. Thí dụ như, cự ly ngắn nhất của khoảng không gian điểm Nguyệt Thực là chưa đến 1 độ, còn cự ly lớn nhất của khoảng ấy là hơn 30 độ. Bởi vì cứ 19 năm thì có 28 lần Nguyệt Thực, cho nên mới có con số 28 của các Tú ấy.

28 Tú cũng đối ứng với Thất Chính, xưa có môn thuật số Diễn Cầm Pháp, tức là lấy Thất Chính phối với 28 Tú, được sự đối ứng của chúng như dưới đây:

Mộc.....Kim.......Thổ......Nhật......Nguyệt......Hỏa......Thủy

Giác....Cang.......Đê......Phòng…...Tâm.........Vĩ..........Cơ

Tỉnh....Quỷ........Liễu.....Tinh.....Trương.....Dực.....Chẩn

Khuê....Lâu........Vị........Mão.........Tất..........Chủy......Sâm

Đẩu.....Ngưu.....Nữ.......Hư..........Nguy.......Thất.......Bích

Cái này chính là hình thức bài bố của Thất Chính mà cũng là biến dạng của thứ tự gốc của Thất Chính.

Tiết thứ 8: Tứ Độ

Gom các giờ thành ngày, gom các ngày thành tháng, gom các tháng thành năm. Năm tháng ngày giờ chính là 4 dạng tham số thời gian đầu vào của Tử Vi tượng học, cũng chính là 4 loại số liệu của lịch pháp. Tử Vi tượng học gọi đó là Tứ Độ.

8.1 Niên Độ

Phép biểu thị Niên Độ có 3 loại: một là ghi năm theo Công Lịch, lấy con số biểu thị, như năm nay là năm Công Nguyên 2004; hai là ghi năm theo Dân Quốc, lấy năm Công Nguyên 1911 là năm đầu tiên của Dân Quốc (dó cách mạng Tân Hợi là 1911), hiện nay ở Đài Loan vẫn còn sử dụng, như năm nay là năm Dân Quốc thứ 93; ba là ghi năm theo Can - Chi, như năm nay là năm Giáp Thân.

Niên Độ có 3 loại hàm nghĩa:

thứ nhất theo Công Lịch thì biểu thị mỗi một năm từ ngày 1 tháng 1 cho đến ngày 31 tháng 12, trong khoảng thời gian này có tổng trường độ là 365 hoặc 366 ngày;

thứ nhì, ở Bát Tự học là khoảng thời gian mà Thái Dương tại Hoàng Đạo từ điểm Lập Xuân này đến điểm lập Xuân sau, tổng trường độ là 365.2422 ngày;

thứ ba, ở Tử Vi Đẩu Số là thời gian của Nhật Nguyệt hội hợp 13 lần, tức là khoảng thời gian từ ngày mồng 1 tháng Giêng cho đến ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp của âm lịch, tổng trường độ thời gian là 354 hoặc 355 ngày (năm Nhuận là 383 hoặc 384 ngày).

Tử Vi tượng học cùng với Bát Tự học đều áp dụng phép ghi năm theo Can-Chi, Niên độ đều có thể lấy Can Chi để mà biểu thị. Tuy nhiên như thế cũng không có nghĩa là đánh đồng mối quan hệ của năm Can Chi trong Bát Tự học với Tử Vi tương học đâu đấy, điểm này phải phân biệt cho rõ. Chính như đã nói từ trước, Tử Vi tượng học áp dụng Âm Dương hợp lịch, nhưng không khảo xét đến việc Thái Dương quá cung, tất nhiên là tồn tại bất đồng với Thái Dương lịch nhưng cái nổi trội của nó lại là "Niên".

Tục ngữ vẫn nói "Tuế tuế niên niên", nhưng kỳ thực thì Niên với Tuế vốn không phải 2 khái niệm giống nhau, trong Thiên Văn Lịch Pháp thì Tuế là chỉ 1 vòng chu thiên của Thái Dương, tức là theo Thái Dương đi qua điểm Xuân Phân cho đến lúc Thái Dương quay lại điểm Xuân Phân là 1 chu kỳ. Thí dụ như theo lời người xưa chính là Tuế Thực, Tuế Sai, Tuế Chu, Tứ thời thành Tuế, Lưu niên Thái Tuế,... còn Niên là chỉ chu kỳ của 12 tháng Sóc Vọng trong Lịch Pháp, lấy Ngày đối Ngày, tức là theo ngày mồng 1 tháng Giêng cho tới ngày cuối cùng của tháng Chạp là 1 năm.

Niên thì đại diện cho Âm lịch, Tuế thì đại diện cho Dương lịch, hai cái hợp dụng là minh chứng cho việc dùng Âm Dương hợp lịch của người Trung Quốc.

Thông thường thì người hiện đại cứ nói Niên là chỉ năm Thái Dương hồi quy (năm Mặt Trời), bất kể là năm Công Nguyên nào theo lịch Cách Liệt Cao Thụy, hay là năm Can Chi nào trong Bát Tự học, đều là do Thái Dương định đoạt, là 365 ngày, bởi lẽ người hiện đại áp dụng Thái Dương lịch, cho nên cái khái niệm Niên với Tuế nó mới cơ bản không phân chia. Bởi vì bất kể là theo Công Lịch hay là theo Bát Tự học đều lấy 365 ngày là 1 chu kỳ của năm hồi quy. Còn Tử Vi Đẩu Số thì cơ bản là không khảo xét Thái Dương quá cung với Tiết Khí, vì vậy mà mỗi năm của nó là tổng số có 12 tháng Sóc Vọng riêng biệt, tức là mỗi năm 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

Bởi thế mà trong Bát Tự học có thuyết Vận Tuế, mà ở trong kỹ thuật của Tử Vi lại biến thành Hạn Niên, nguyên nhân nằm ở chỗ Vận với Hạn là đúng so về Tháng, ở Bát Tự lại dùng tháng Thái Dương gọi là Vận, còn trong Đẩu Số dùng tháng Sóc Vọng nên gọi là Hạn, ở trong Bát Tự dùng Thái Tuế là năm Thái Dương, còn trong Đẩu Số dùng Niên là năm Thái Âm, các loại này cần phải phân biệt mà nắm cho rõ.

Thí dụ như, người nào đó sinh ra vào tháng Chạp nông lịch năm Nhâm Tý, có thể tra cứu Hoàng Đạo Tiết Khí, đã qua tiết Lập Xuân, như thế năm sinh của người này là tính là năm sau ư? Hay là vẫn tính theo chính năm ấy? Nói cách khác, rốt cuộc là người này cầm tinh con gì?

Niên Can (Thiên Can của Năm) của kỹ thuật của Tử Vi truyền thống là số thứ tự chu kỳ của Hoàng Đạo, mà các Can cung của mệnh bàn là do "độn" Niên Can mà ra. Rất nhiều người bị ảnh hưởng của lý luận trong Bát Tự học, câu nệ vào thành kiến, mà đều đã nghĩ đến việc dùng "Tháng" của Hoàng Đạo để thay thế cho số thứ tự chu kỳ của Bạch Đạo, cái này chắc chắn là tưởng nó đương nhiên thế.

Căn cứ vào Lịch pháp Thái Âm, năm của kỹ thuật Tử Vi bên trên, chính là 354 hoặc 355 ngày, tháng sinh là ám chỉ chu kỳ thứ mấy của Mặt Trăng quay quanh Trái Đất trong năm đó, chứ không phải là cung vị thứ mấy của Mặt Trời ở trên Hoàng Đạo. Năm với Tháng của Âm Lịch vẫn có thể dùng Can Chi để biểu thị như cũ, chứ không phải Can Chi là "độc quyền" của Hoàng Đạo.

Do đó, đối với đáp án cho đề mục nêu trên, nếu mà dùng Bát Tự học thì người ấy phải thuộc tuổi Trâu, nếu mà dùng kỹ thuật Tử Vi thì người ấy thuộc về tuổi Chuột. Có thể thấy sự bất đồng của lịch pháo sẽ dẫn đến năm Can Chi bất đồng ở 2 môn ấy. Nhưng thông thường dân gian vẫn nói việc cầm tinh con gì, bất luận Tiết Khí là gì, chỉ nói về năm mới thôi.

Tóm lại, chính là như ngày Tết của người Trung Quốc không khảo xét đến tiết Lập Xuân, chỉ lấy điểm gianh giới của ngày 30 tháng Chạp năm cũ với ngày mồng 1 tháng Giêng năm mới để làm chuẩn. Kỹ thuật Tử Vi lấy ngày mồng 1 tháng Giêng mỗi năm làm điểm bắt đầu.

Tóm lại là điểm bắt đầu của năm trong kỹ thuật Tử Vi ở tại ngày mồng 1 tháng Giêng của lịch Thời Hiến, ngày cuối cùng của năm âm lịch là ngày 30 tháng Chạp, tổng cộng có 354 hoặc 355 ngày (năm nhuận là ngoại lệ).

8.2 Nguyệt Độ

Nguyệt Độ có 3 loại phương pháp biểu thị, một là tháng của Công Lịch, hai là tháng theo nông lịch, ba là tháng Can-Chi.

Tuy nhiên kỹ thuật Tử Vi truyền thống đều không lấy tháng Can Chi ra biểu thị, nhưng trên thực tế thì Đẩu Số vẫn cứ có tháng Can Chi. Thiên Can của các cung trên mệnh bàn là lấy Can năm dùng "Ngũ Hổ độn" mà tính ra, trên thực tế chính là Thiên Can của Tháng.

Do đó, kỹ thuật Tử Vi và Bát Tự học đều áp dụng phép ghi tháng Can Chi. Nguyệt Độ đều lấy Can Chi để biểu thị. Tuy là như thế, Can Chi trong Bát Tự học với Can Chi trong Đẩu Số không phải là đánh đồng như nhau được, điểm này nhất thiết phải chú ý.

Bát Tự học áp dụng Thái Dương lịch, trọng yếu ở Tiết Khí mà định tháng Sinh. Bởi vậy, điểm đầu cuối của Can Chi tháng của nó là từ bắt đầu Tiết của tháng này cho đến hết Trung Khí của tháng này.

Kỹ thuật Tử Vi áp dụng Âm Dương hợp lịch, tháng với ngày đều lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, điểm đầu cuối của Can Chi tháng là ngày Sóc mỗi tháng cho đến ngày Hối là 29 hoặc 30 cuối tháng đó.

Ở trong số thứ tự của tháng, cũng lấy Thái Âm Bạch Đạo làm chuẩn, tức là số của tháng âm lịch trong sách lịch. Thí dụ như, hôm nay là ngày 8 tháng 11 dương lịch năm 2004, tra ngày tháng âm lịch là 26 tháng 9 năm Giáp Thân, thì Nguyệt Độ theo kỹ thuật của Tử Vi là tháng 9 al, có Can Chi là tháng Giáp Tuất; nhưng mà đối chiếu với quy tắc của Bát Tự học thì có sự bất đồng, vì ngày 7 tháng 11 dương lịch đã tới tiết Lập Đông cho nên Nguyệt Độ theo Bát Tự học là tháng 10 al, có Can Chi là Ất Hợi.

Trong giới Tử Vi thì có người lấy Tiết Khí để mà xác định Nguyệt Độ, phương pháp kiểu này là có sai lầm ở chỗ có sự hiểu sai khá lớn đối với lịch pháp trong kỹ thuật của Tử Vi, lẫn lộn giữa Bát Tự học Thái Dương lịch pháp với Đẩu Số Thái Âm lịch pháp. Xin xem lại tiết 1 ở chương lịch pháp có nội dung liên quan.

Nguyệt Độ còn có một vấn đề rất trọng yếu tức là vấn đề về tháng Nhuận, xem ở nội dung tiếp sau.

8.3 Nhật độ

Nhật độ có ba loại phương pháp biểu thị, một là ngày theo Công Lịch (dương lịch), hai là ngày theo Âm lịch, ba là ngày Can - Chi.

Bát Tự học dùng ngày Can - Chi, kỹ thuật Tử Vi dùng ngày Âm Lịch, mà ngày Âm lịch chỉ có thể thông qua việc tra ở sách lịch mới có thể biết được, nhưng từ trước tới nay đều có những người giỏi nghề, có những người tìm ra được việc lợi dụng công thức số học để mà hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch.

Phép dùng công thức số học của việc hoán chuyển ngày dương lịch thành ngày âm lịch:

Giả thiết số của năm công nguyên là N, lấy N trừ đi 1977 hoặc 1901, số đạt được lại chia cho 4, thì được thương số là Q với số dư là R.

tìm M = 14Q+10.6(R+1)+số thứ tự của ngày trong năm,

Lại lấy M chia cho 29.5 xem số dư được bao nhiêu, số dư này chính là ngày âm lịch.

Ví dụ: tìm ngày âm lịch của ngày Dương lịch là 7 tháng 5 năm 1994?

1994 - 1977 = 17

17 / 4 = 4 dư 1

Do Q = 4 và R = 1

nên M = 14 x 4 + 10.6(1 +1) + (31 + 28 + 31 + 30 + 7)

<=> M = 56 + 10.6 x 2 + 127 = 21.2 + 183 = 204.2

204.2 / 29.5 = 6 dư 27.

Vậy âm lịch chính là ngày 27.

Chú: ứng dụng phép này có thể thu được kết quả với hầu hết các trường hợp, nhưng có một vài trường hợp bị sai lệch 1 ngày.

8.4 Thời Độ

Thời độ có 2 loại phép biểu thị, một là dùng 24 tiểu giờ của lịch Công Nguyên, lấy số để biểu thị, như 12 giờ, 23 giờ,... thứ hai là dùng 12 thời thần như người xưa, thông thường dùng Can Chi để biểu thị, Đẩu Số và Bát Tự học đều dùng cái này.

Quy định thập nhị thời thần vào thời Tây Chu đã sử dụng, vào thời Hán có những tên gọi như:

Dạ Bán (nửa đêm),??? Minh, Bình Đán (tảng sáng), Nhật Xuất (Mặt trời mọc), Thực Thời (giờ ăn), Ngung Trung (giữa góc), Nhật Trung (giữa trưa), Nhật Điệt (xế bóng), Bô Thời (quá trưa), Nhật Nhập (đang lặn), Hoàng Hôn, Nhân Định (người nghỉ ngơi),

Nhưng cũng lại vừa sử dụng 12 Địa Chi để sử dụng, lấy nửa đêm lúc 23h00 đến 1h00 là giờ Tý, từ 1h00 đến 3h00 là giờ Sửu,... Từ thời nhà Tống về sau lại thực hiện quy định 24 khoảng cho 12 thời thần, lấy mỗi canh giờ chia đôi ra làm nửa Sơ và nửa Chính, có dạng như Tý sơ, Tý chính, Sửu sơ, Sửu chính,... theo đó chia làm 24 khoảng, tương đương với cách dùng 24 giờ hiện nay. Đến nhà Thanh ban hành lịch Thời Hiến, phát triển quy định 24 tiểu giờ theo phương Tây, nhưng trong dân gian vẫn quen dùng 12 thời thần.

Việc xác định của thời thần đối với người xưa không phải là vấn đề gì cả, bởi vì ngay ấy không có loại thời gian cho 1 nước thống nhất, lại cũng không có cái gọi là "mùi giờ", càng không có loại đồng hồ phổ cập như bây giờ. Người ta đều dùng thời gian địa phương để làm chuẩn. Nhưng khoa học hiện đại phát triển khiến cho thời gian có thể đo được hết sức chính xác đến từng giây, cho nên lại xuất hiện vấn đề: rốt cuộc là lấy thời gian vùng nào làm chuẩn? Trung quốc nằm trên 5 múi giờ thì việc xác định thời gian sẽ như thế nào?

Tử Vi chủ yếu là căn cứ vào tự nhiên bản xứ mà có sự thay đổi thời gian để mà xác định chính tinh của Mệnh chủ, điều này phù hợp với vận khí bà sự tương ứng với tự nhiên của con người, tùy sự biến hóa của tự nhiên mà có sự biến hóa theo quy luật.

Do đó, các địa phương mà căn cứ vào thời gian Bắc Kinh để xác định giờ sinh là sai lầm lớn. Các khu vực đều có vị trí kinh độ là không giống nhau trên bề mặt của trái đất, và tự nhiên ở đó cũng thay đổi có sớm có muộn, cho nên cần phải lấy thời gian địa phương làm chuẩn. Các kiểm nghiệm thực tiễn cũng đã chứng minh sáng tỏ, phải lấy "thời điểm quan sát Thái Dương" ở địa phương mà làm chuẩn.

Trong giới Bát Tự học với Đẩu Số có một thuyết là "Giờ Thái Dương chuẩn xác", chủ trương thống nhất tiêu chuẩn giờ đều hoán chuyển thời gian giờ thành giờ ở địa phương, khảo xét tính toán sự chuyển động không đều của Địa cầu mà suy tính ra "giờ Thái Dương chuẩn xác".

(bỏ qua 1 đoạn phân tích rất cặn kẽ chi tiết các trường hợp ở từng vùng của Trung quốc khi xét kinh độ, múi giờ,... Tựu chung cũng chỉ để chứng minh việc xác định giờ sinh là căn cứ vào giờ tự nhiên theo Mặt Trời ở địa phương nơi sinh)

8.5 Thời khắc

Trải qua tìm tòi và những nghiệm chứng thực tế, Tử Vi tượng học đột phá sự giới hạn phân loại của Tử Vi Đẩu Số truyền thống, có thể lấy một thời thần (1 canh giờ) mà phân làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 10 phút, mỗi một đoạn giờ lại tương ứng với 1 loại hình, loại đơn vị thời gian này gần như không thể tìm được loại nào tượng tự từ thời xưa, gần như là chỉ có sự gần tương tự ở trong "Đạo Tạng Tử Vi Đẩu Số" với "Đạt Ma nhất chưởng kinh" phần <Tổng luận về độ số thời khắc tinh mệnh> mục phép phân chia "Khắc".

Sự áp dụng quy định 100 khắc ở Trung Quốc có khả năng là khởi nguyên ở thời đại nhà Thương, tức là phân chia 1 ngày-đêm thành 100 khắc đều nhau, sự ra đời của nó với việc sử dụng Lậu Khắc (đồng hồ nước, đục lỗ dưới đáy) là có mối quan hệ. Như "Linh Khu kinh" nói: "Lậu thủy hạ bách khắc, dĩ phân trú dạ" (Nước ở trong đồng hồ nước xuống dưới 100 khắc, lấy phân làm 1 ngày đêm). Đến thời nhà Hán lại cải tạo thành một ngày-đêm có 120 khắc, sau đến Nam Triều lại cải tạo thành có 96 khắc, rồi 108 khắc, v.v... nhiều lần lặp lại, mãi đến thời Minh mạt có tri thức về Thiên Văn của người Châu Âu đưa vào mà đề xuất ra cải cách mỗi ngày có 96 khắc, rồi vào đầu thời Thanh được định làm chế độ phân khắc chính thức, quy định trong lịch Thời Hiến triều Thanh, mỗi thời thần (canh giờ) là 2 tiểu giờ, là 8 khắc (tức là mỗi khắc 15 phút). Môn "Thiết bản thần số" áp dụng phép phân loại thời gian loại này.

Tiết thứ chín: Thập nhị cung

Thập nhị cung, ám chỉ việc lấy Tý Sửu Dần Mão... 12 Địa Chi thuận theo kim đồng hồ mà sắp xếp thành 12 cung vị, tượng cho 1 vòng chu thiên 360 độ, người xưa gọi là Thập Nhị cung hoặc là Thập Nhị Chi Thần. 12 cung ở trong Thiên Văn học vốn là hình tròn, sau này là để thuận lợi cho mục đích trực quan, thì trong các chủng loại thuật số đều dùng một loại là hình vuông.

Con số 12 là con số cự kỳ trọng yếu của Thiên Văn ở trong văn hóa cổ đại Trung Quốc. Trong "Hoàng Cực kinh thế" Thiệu Tử đã chỉ ra, trong khoảng trời đất có 2 loại nhịp điệu của tính căn bản là 12 với 30 (hoặc 10). Người xưa từ rất sớm đã phát hiện ra ở trong tính quy luật chu kỳ của Thiên Văn với Địa Lý, rồi tổng kết ra quan niệm của 12 Thứ.

Thái Dương cùng với Nguyệt Lượng, theo vành Hoàng Đạo mà vận hành một vòng là một năm, hội hợp 12 Thứ, tức 12 tháng, mỗi Thứ hội hợp đều có vị t trí riêng biệt, thông qua sự quan sát trường kỳ mà cổ nhân đem vòng Hoàng Đạo quanh trời 360 độ chia ra làm 12 đoạn, mỗi đoạn là 30 độ, gọi là Thập Nhị Thứ, mỗi Thứ một Tiết một Khí, một vòng (1 năm) có 12 cặp Tiết-Khí. Tên của chúng gọi theo thứ tự là: Tinh Kỷ, Huyền Hiêu, Tưu Tử, Giáng Lâu, Đại Lương, Thực Trầm, Thuần Thủ, Thuần Hỏa, Thuần Vĩ, Thọ Tinh, Đại Hỏa, Tích Mộc, các Thứ đều có tiêu chí định ra đối với Nhị Thập Bát Tú.

Cổ nhân cho rằng, trong 5 hành tinh lớn, thì Mộc Tinh có ảnh hưởng tới con người mạnh nhất. Các số liệu Thiên văn học hiện đại chứng tỏ khối lượng của sao Mộc là gấp bội tổng khối lượng của 8 loại hành tinh trong Thái Dương hệ, sự bức xạ tín hiệu của nó đối với sự sống trên Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn (cổ đại gọi là "Mộc tinh đại xung"). Chu kỳ quay quanh Mặt Trời của Mộc Tinh là 11.86 năm, và điểm tương đối gần Mặt Trời nhất của nó cùng với Trái Đất hội hợp là đúng 12 năm, trong một chu kỳ hội hợp có 11 lần Mộc tinh đại xung, mà thân thể con người có 12 đường kinh mạch, lại có 11 tạng phủ (lục phủ ngũ tạng), dường như đều cùng có mối quan hệ này, do đó có 12 năm là một chu kỳ của sự thay đổi.

Tiến sĩ Lý Ước, học giả người Hán cho biết, tiền nhân Trung Quốc đã giả tưởng ra một thiên thể mà tương phản với sự vận hành của Mộc Tinh, gọi là "phản Mộc tinh", lấy Thập Nhị viên làm chu kỳ, thay thế khái niệm thập nhị thứ lúc đầu, tức Thập nhị thần, cái thiên thể giả tưởng đó chính là "Thái Tuế", tuế chính biệt hiệu của Mộc Tinh từ thời cổ đại.

Do sự suy xét chu kỳ 12 năm của thập nhị thần tới chu kỳ 12 tháng của 1 năm, lại diễn sinh ra khái niệm của 12 Nguyệt Kiến với 12 Nguyệt Tướng, hai cái này đều biểu thị hoàng đạo thập nhị cung nhưng có sự khác biệt.

12 Nguyệt Kiến, chính là cái chuôi của Bắc Đẩu chỉ vào 12 cung, lấy 12 Địa Chi để biểu thị, nguyên nhân do Bắc Đẩu xoay thuận theo chiều kim đồng hồ, cho nên 12 cung cũng thuận chiều kim đồng hồ mà bài bố là Tý, Sửu, Dần, Mão,... phân giới của cung tương ứng với "Tiết" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, các môn chiêm bốc Lục Hào, thuật Kỳ Môn, Bát Tự học đều dùng thuận số cả.

12 Nguyệt Tướng, tức là triền cung của Thái Dương, chính là do mỗi năm có vị trí xác định của 12 tháng Thái Dương. Bởi vì ở trên hoành đạo thì Thái Dương vận chuyển nghịch chiều kim đồng hồ, cho nên ngược chiều kim đồng hồ mà bài bố 12 cung, lần lượt là Đăng Minh, Hà Khôi, Tòng Khôi, Truyền Tống, Tiểu Cát, Thắng Quang, Thái Ất, Thiên Cương, Thái Xung, Công Tào, Đại Cát, Thần Hậu, phân giới của cung tương ứng với "Khí" của Hoàng Đạo trong Lịch Pháp, thuật số Lục Nhâm, Chiêm Tinh Tây phương, thuật Thất Chính Tứ Dư đều dùng cả.

Sách "Thái Huyền" viết:

"Đẩu tả hành, kiến thập nhị thứ, nhật hữu hành, chu nhập bát xá",

=

Đẩu từ trái mà đi, thiết lập 12 Thứ, Nhật từ phải mà đi, vòng quanh 28 Xá.

cho nên khác biệt của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng ở chỗ không cùng hệ tham chiếu, Nguyệt Kiến thì thuận chiều kim đồng hồ mà từ trái đi sang, còn Nguyệt Tướng thì nghịch chiều kim đồng từ phải sang. Mặt khác, do bình quân 15 ngày sai khác của Tiết với Khí, cho nên Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng tồn tại 15 độ sai lệch về cung vị.

Liên quan về mối quan hệ của Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, cổ nhân có một kết luận rất trọng yếu: Đẩu Bính (chuôi sao Đẩu) chỉ vào Tý thì Nhật Nguyệt hội ở Sửu, Đẩu Bính chỉ Sửu thì Nhật Nguyệt hội ở Tý, Đẩu Bính chỉ Dần thì Nhật Nguyệt hội ở Hợi, Đẩu Bính chỉ Hợi thì Nhật Nguyệt hội ở Dần. Tức là Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng vĩnh viễn có mối quan hệ tương hợp, đây chính là nguồn cơn của quan niệm Địa Chi lục hợp. Lục Hợp lại cũng thường thấy ở trong các điển tịch về âm luật cổ đại.

Mối quan hệ tương ứng của Thập nhị thứ, Thập nhị cung, Thập nhị Nguyệt Tướng, Thập nhị chòm sao, với ngày tháng Công Lịch, Tiết Khí nông lịch, cùng Hoàng kinh độ số, 28 Tú, có thể biểu thị dưới đây (phải chú ý đến vấn đề khác biệt cung vị):

Cổ nhân nhận thấy, trời có 12 Thứ, Đất có 12 thần, Người có 12 cung, Thiên Địa Nhân tương hỗ cảm ứng, biết Số của Thiên Địa thì có thể đoán được số của Nhân Mệnh.

Do đó mà các loại phương pháp Mệnh lý, bất luận là nội ngoại hay cổ kim, đều lấy 12 cung 12 Địa Chi làm mô hình cơ bản, Bát Tự học, Thất Chính Tứ Dư, Chiêm Tinh phương Tây, Tử Vi Đẩu Số, Đạo tạng Tử Vi Đẩu Số, Thái Ất mệnh pháp, Lục Nhâm thuật,... đều không có ngoại lệ.

Phụ (Thêm):

Chú giải về Chương Thiên Văn của sách Thái Ất Tinh Kinh

- Thiên động nhi địa tĩnh, kiền khôn phân yên.

(Trời động mà Đất tĩnh, Càn Khôn phân ngôi).

Chú giải: Xưa có quan sát vòm trời theo Cái Thiên, theo Hồn Thiên. Tử Vi chính là quan sát theo vòm trời của Cái Thiên mà lấy Địa làm bản thể (hệ tham chiếu), quan sát tượng của các sao trên trời. Địa thì tĩnh cho nên lấy chỗ của Thái Ất (sao Bắc Cực) làm Tôn chủ, phân chia vòng trời thành hai nửa, trông một nửa để biết toàn bộ. Vì thế mà một nửa Xá của 28 Tú là 14 Chính tinh, một nửa Xá của 12 cung là 6 đạo. Cùng với Hồn Thiên giáp tý rất khác biệt. Học giả sau này không biết cái lý của Cái Thiên, thì sẽ chần chừ lưỡng lự, gây ra đi vào con đường sai lầm.

- Thiên tả toàn, tự đông nhi tây, chu thiên thập nhị thì, thị vi nhất nhật, cố trú dạ tương thế.

(Trời xoay về bên trái, từ Đông sang Tây, vòng trời 12 giờ, đúng là 1 ngày, nên ngày đêm đắp đổi).

Chú giải:

Trời xoay về bên trái (tả toàn, nghịch chiều kim đồng hồ), tức là cái lý tự quay quanh trục của Trái Đất ngày ngay, do lấy Địa (mặt đất) làm bản thể cho nên thấy Trời xoay sang trái (QNB chú: lúc quan sát sao Thái Ất = sao Bắc Cực, là người quan sát đứng ở mặt đất và hướng mặt về phía Bắc nên thấy bầu trời như từ phía Đông bên tay phải mà quay sang phía Tây bên tay trái). Do đó, phân chia thành 12 giờ, chính là tham số của Tử Vi. Còn "ngày đêm đắp đổi" là lúc theo Tây lịch ngày nay đến thời điểm 23h00, tức là 11 giờ 0 phút 0 giây của đêm hôm trước (cái thuyết giờ Tý sớm giờ Tý muộn là sai lầm không chịu được, để lại di hại vô cùng).

Tử Vi Đẩu Số lấy Tháng Giờ mà định Mệnh cung, bởi lẽ cổ thư diễn đạt không rõ ràng thành ra học giả về sau cứ lý giải loạn cả lên. Nghiên cứu rõ bản chất, chính là lấy giờ Tý làm kim chỉ dẫn, lấy phương pháp cộng thêm trên bàn và trừ đi quan sát, tức là chủ ý của nó rất rõ ràng, cái điều mà người ta gọi là "Đông Hạ trí Nhật", "Xuân Thu trí Nguyệt", cho nên Tinh Tông lấy Nhật làm chủ, nguyên do là lấy giờ Mão ở trong tam "Tung" mà kim chỉ dẫn Lập Mệnh; nhưng mà Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, lại lấy giờ Tý ở trong tam "Hoành" làm kim chỉ dẫn Lập Mệnh; đều là cái lý tự nhiên trong Trời Đất cả. Còn như tại sao lại lấy phép công thêm bàn pháp, thì tham khảo thêm ở Tinh Tông pháp thì biết ngay.

- Nhật hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên tam bách lục thập ngũ nhật tứ phân chi nhất, thị vi nhất tuế, cố hàn thử tương dịch.

(Nhật xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 365 lẻ 1/4 ngày, chính là một năm, cho nên nóng lạnh đổi trao).

Chú giải:

Dùng Địa làm bản thể, thì Nhật Nguyệt như là đều theo trời xoay về bên trái, nhưng mà Nhật Nguyệt đều tự riêng nó chuyển động, Nhật lấy 365.2425 làm chu kỳ hoàn thành một vòng Hoàng Đạo, thì Nhật từ Tây hướng về Đông mà xoay chuyển.

Bởi vì Tử Vi lấy Nguyệt làm chủ, cho nên một năm (1 vòng chu thiên) là 354 hoặc 355 ngày, năm nhuận thì có 384 ngày (giống như Dịch Kinh có 384 hào), mà không có liên quan đến chu kỳ Hoàng đạo thái dương vậy.

- Nguyệt hữu toàn, tự tây hướng đông, chu thiên nhị thập thất nhật tam phân chi nhất; nguyệt vô quang, dĩ nhật quang thành tượng, nhân hữu sóc vọng, sóc nhi phục sóc, nhị thập cửu nhật nhị phân chi nhất, thị vi nhất nguyệt, cố doanh khuy tương gian.

(Nguyệt xoay về bên phải, từ Tây hướng về Đông, vòng trời 27 lẻ 1/3 ngày; vốn dĩ Nguyệt không có ánh sáng, lấy ánh sáng của Nhật mà thành tượng, do có Sóc Vọng, từ Sóc mà trở lại Sóc là 29+1/2 ngày, chính là 1 tháng, cho nên tròn khuyết đan xen nhau).

Chú giải:

Xem phần chú bên trên. Chu kỳ gốc của Nguyệt quay quanh Địa Cầu là 27.3 ngày, do lấy Địa làm bản thể, không thể quan sát được, chỉ có thể lấy Nguyệt Tướng (hình dạng mặt trăng) Sóc Vọng mà theo dõi chu kỳ của nó, gọi là "tháng Sóc Vọng" với chu kỳ là 29.53 ngày (QNB chú: thực ra là do khi Mặt Trăng đang quay quanh Trái Đất thì Trái Đất cũng đồng thời đang quay quanh Mặt Trời, cho nên phải đủ 29.53 ngày thì đứng ở Trái Đất mới có thể thấy lại hiện tượng trăng tròn - Vọng, hay là không ánh trăng - Sóc, tiếp theo của lần thấy trước đó). Vì chu kỳ Sóc Vọng chỉ có 29 ngày rưỡi cho nên Lịch pháp chia ra tháng đủ thì có 30 ngày, còn tháng thiếu thì có 29 ngày.

Mà Tử Vi lấy số ngày Thái Âm lịch phối hợp cung khí Nạp Âm để xác định Tử Vi đến cung nào, đại thể là Tử Vi lấy Thái Âm làm chủ, mà không giống với việc lấy Nhật làm chủ của Tinh Tông. Việc lấy Thái Âm làm chủ này đích thực là "Nguyệt Tướng pháp" (Phép xem hình dạng Mặt Trăng).

- Bắc đẩu thất tinh, toàn cơ ngọc hành dĩ tề thất chính. Đẩu bính chỉ nguyệt kiến, nhật nguyệt hội, tắc kiến tiết khí, nhật nguyệt bất hội, tắc đẩu bính tà chỉ lưỡng thần chi gian, tắc nhuận.

(Bắc đẩu thất tinh, Tuyền Cơ Ngọc Hành nhằm đồng thời với Thất Chính. Đẩu Bính (cán chòm Bắc đẩu) chỉ vào Nguyệt Kiến, Nhật Nguyệt hội thì thấy Tiết Khí, mà Nhật Nguyệt không hội thì Đẩu Bính chỉ xéo vào khoảng giữa 2 Thần thì sẽ là Nhuận).

Chú giải:

Bắc đẩu thất tinh, có thể chỉ thị Bốn Mùa thậm chí là cả đơn vị thời gian Tháng, Giờ, gọi là "Đẩu Bính tư kiến". Đẩu Bính chỉ tới 12 cung, là chỗ của Nguyệt Kiến, chính là chỗ mà Nhật Nguyệt tương hội, tức là cung vị của Nguyệt Tướng với cung vị của Nguyệt Kiến tương hợp với nhau. Đẩu Bính hướng về chỗ cung vị mà nếu như Nhật Nguyệt đến hội thì thành một Tiết Khí, còn nếu như Nhật Nguyệt không đến hội thì không thành lập Tiết Khí mà thành ra tháng Nhuận, lúc đó chắc chắn Đẩu Bính chỉ vẹo vào chỗ giữa của 2 khoảng của Thần (thần = tên địa chi của cung). Lịch pháp lấy tháng Sóc Vọng mà không có Trung Khí định là tháng Nhuận đúng chăng, thực ra là phù hợp không có mâu thuẫn gì cả, mà tháng nhuận hay không nhuận chính là do thiên địa tạo hóa cho phép, chứ chẳng phải là do cách làm lịch gây ra.

Nhu cầu cần phải chỉ ra sự phân bố của chính tinh cũng mô phỏng Đẩu Bính tư kiến, mới lấy sao nào đó đại biểu cho Đẩu Bính, lại lấy sao nào đó đại biểu cho Nguyệt Kiến với Nguyệt Tướng, mối quan hệ của 3 cái đó không xuất phát từ cái này, vậy huyền cơ của Tử Vi mà học giả lại không nắm được cái lý của nó thì khó tránh khỏi sự không hiểu được điều kỳ diệu.

Riêng vấn đề tháng Nhuận, cho đến nay vẫn tranh luận không ngừng, mà thuật Thái Ất (nguyệt kế Thái Ất) đã sớm có cái nhìn nhận sáng tỏ rồi, đoạn này cũng tiết lộ yếu chỉ của nó, nghiên cứu thực chất của nó, chính là vấn đề tính toán cung khí của tháng Nhuận ra sao. Nói cách khác là, xác định Can Chi của tháng Nhuận như thế nào? Đáp án của vấn đề này chính là lời giải thỏa đáng cho việc lập Mệnh của tháng Nhuận. Các học giả đời sau không nghiên cứu Thiên Văn Lịch Pháp khó mà tránh được tự mình chuốc lấy phiền toái.

- Nhật hành nhất độ, nguyệt hành thập tam độ thập cửu phân chi thất, cố nhuận hữu thập tam nguyệt, nhất chương thập cửu niên, thất nhuận.

(Nhật đi 1 độ, Nguyệt đi 13+7/19 độ, cho nên năm Nhuận có 13 tháng, một Chương = 19 năm thì có bảy lần Nhuận).

Chú giải:

Cái này chính là vấn đề "Nguyệt hành bội ly" (Nguyệt đi xa gấp bội) của Thiên văn học cổ đại, vì cớ gì mà một Chương 19 năm lại có 7 Nhuận cùng với "Nguyệt hành bội ly" lại phù hợp như thế? Đây cũng là cái vi diệu của Thiên Địa.

- Ngũ tinh thổ mộc hỏa kim thủy, thổ mộc hỏa vu ngoại, kim thủy vu nội, các ti thất thập nhị nhật, vi kiền khôn chi số.

(Ngũ tinh Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy, với Thổ Mộc Hỏa ở phía ngoài, Kim Thủy thì ở phía trong, các ti sở 72 ngày mà thành số của Càn Khôn).

Chú giải:

Thổ Mộc Hỏa Kim Thủy gọi chung là Ngũ Tinh, ở tại Thiên thì thành tượng, tại Địa hóa Hình, lại cũng gọi là "Ngũ đức", "Ngũ Vĩ", thứ tự của chúng chắc chắn không thay đổi. Phân chia thành 2 hệ là Thổ Mộc Hỏa hệ có số 216 là số sách của quái Càn, với Kim Thủy hệ có số 144 là số sách của quái Khôn, cho nên viết "Càn Khôn chi số".

- Thủy tinh mỗi nhật nhất lục thì kiến bắc phương, mỗi niên nhất lục nguyệt kiến bắc phương, mỗi nguyệt nhất lục nhật hội nhật nguyệt vu bắc phương, cố nhất lục hợp thủy vu bắc. Hỏa tinh mỗi nhật nhị thất thì kiến nam phương, mỗi niên nhị thất nguyệt kiến nam phương, mỗi nguyệt nhị thất nhật hội nhật nguyệt vu nam phương, cố nhị thất hợp hỏa vu nam. Mộc tinh mỗi nhật tam bát thì kiến đông phương, mỗi niên tam bát nguyệt kiến đông phương, mỗi nguyệt tam bát nhật hội nhật nguyệt vu đông phương, cố tam bát hợp mộc vu đông. Kim tinh mỗi nhật tứ cửu thì kiến tây phương, mỗi niên tứ cửu nguyệt kiến tây phương, mỗi nguyệt tứ cửu nhật hội nhật nguyệt vu tây phương, cố tứ cửu hợp thủy vu tây. Thổ tinh mỗi nhật ngũ thập thì kiến trung ương, mỗi niên ngũ thập nguyệt kiến thiên trung, mỗi nguyệt ngũ thập nhật hội nhật nguyệt vu thiên trung, cố ngũ thập hợp thổ vu trung.

(Thủy Tinh mỗi ngày vào giờ 1, 6 thấy ở Bắc phương; mỗi năm năm vào tháng 1, 6 thì thấy ở Bắc phương; mỗi tháng vào ngày 1, 6 thì hội với Nhật Nguyệt ở Bắc phương. Cho nên 1, 6 hợp Thủy ở Bắc.

Hỏa Tinh mỗi ngày vào giờ 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi năm vào tháng 2, 7 thì thấy ở Nam phương; mỗi tháng vào ngày 2, 7 thì hội với Nhật Nguyệt ở Nam phương. Cho nên 2, 7 hợp Hỏa ở Nam.

Mộc Tinh mỗi ngày vào giờ 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi năm vào tháng 3, 8 thì thấy ở Đông phương; mỗi tháng vào ngày 3, 8 thì hội với Nhật Nguyệt ở Đông phương. Cho nên 3, 8 hợp Mộc ở Đông.

Kim Tinh mỗi ngày vào giờ 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi năm vào tháng 4, 9 thì thấy ở phương Tây; mỗi tháng vào ngày 4, 9 thì hội với Nhật Nguyệt ở Tây phương. Cho nên 4, 9 hợp Kim ở Tây.

Thổ Tinh mỗi ngày vào giờ 5, 10 thì thấy ở Trung Ương; mỗi năm vào tháng 5, 10 thì thấy ở giữa trời; mỗi tháng vào ngày 5, 10 thì hội với Nhật Nguyệt ở giữa trời. Cho nên 5, 10 hợp Thổ ở trung tâm).

Chú giải:

Đây chính là Hà Đồ tinh tượng, xưa nay học giả chỉ biết truyền thuyết linh quy, mà chẳng biết Hà Đồ vốn ở tại thiên tượng.

Hà Đồ là sự khái quát của quy luật ẩn hiện của ngũ tinh. Điều này thể hiện trí tuệ của hiền nhân Trung Quốc, vì cớ gì mà lại đi gán ghép chuyện long mã với linh quy các truyền thuyết quái đản?

Tử Vi Đẩu Số cũng ngụ ý bao hàm các quy luật của Hà Lạc, mà cái lý kỳ diệu của nó thực là khó có thể thấu hiểu.

- Thiên địa định vị, lôi phong tương bạc, sơn trạch thông khí, thủy hỏa tương xạ.

(Trời Đất định vị, Lôi Phong tương bạc, Sơn Trạch thông khí, Thủy Hỏa tương xạ)

Chú giải:

Đây chính là nói về phương vị của Tiên Thiên Bát Quái.

Tiên Thiên Bát Quái chính là căn nguyên của nạp giáp, mà nạp giáp là gốc của Tứ Hóa trong Tử Vi Đẩu Số. Như lấy dương nhất cục của Thiên Can chính tinh hóa Lộc mà xem xét, thì có thể thấy sơ sơ được cái ý của nó.

- Càn nạp giáp, khôn nạp ất, chấn nạp canh, tốn nạp tân, cấn nạp bính, đoài nạp đinh, ly nạp nhâm, khảm nạp quý.

Chú giải:

Đây là nói về phép nạp giáp.

Nạp giáp có Tiên Thiên thai dục pháp với Hậu Thiên lưu hành pháp. Huyền không địa lý chính là dùng Hậu Thiên nạp giáp, học giả ngỡ rằng nguyên cớ là 24 Sơn không có Mậu Kỷ, mà không biết là Khảm Ly Nhâm Quý chính là cái tuyệt diệu của trời đất tự nhiên, không ai mạnh hơn cả.

Tử Vi Đẩu Số kiêm dụng cả hai (loại nạp giáp) mà thành ra cái dụng của Lộc Kị.

- Khôn ất tựu tốn tân, tốn tân tựu đoài đinh, đoài đinh tựu khảm quý, khảm quý quy khôn ất. Chấn canh tựu ly nhâm, ly nhâm tựu càn giáp, càn giáp tựu cấn bính, cấn bính quy chấn canh.

Chú giải:

Đây là nói về nguyên lý của Tiên Thiên Bát Quái biến Hậu Thiên Bát Quái.

Biến của dương quái (tức là Dương quái Tiên Thiên chuyển vị thành quái Hậu Thiên), đầu mối quan trọng của nó ở tại Thất Sát. Biến của âm quái, đầu mối then chốt của nó ở tại Phá Quân (vì sao Thất Sát, vì sao Phá Quân? Từ đây có thể thấy được), cho nên hai sao Thất Sát với Phá Quân ở trên mệnh bàn Đẩu Số luôn luôn xung vào 2 sao Phủ Tướng, đều là căn cứ vào cái lý của Quái, cái mà gọi là "Đắc thử tức hiểu Thất Sát ý, minh chi khả giải Phá Quân tình" (Có được nó thì hiểu được tâm nguyện của Thất Sát, sáng tỏ được nó thì có thể giải được tính tình của Phá Quân).

Đoạn này cũng vạch ra nguyên cớ của Đẩu Số Tứ Hóa, phép nạp giáp chính là nguồn cội của Đẩu Số Tứ Hóa, rồi diễn hóa theo Tiên Hậu Thiên.

(Quyết viết:

Tiên thiên Lộc Kỵ, Âm dữ Dương,

Khảm Ly Ký Tế thành lưỡng phương.

Thủy Hỏa tương dịch Mậu Kỷ Môn,

Thiên phiên Địa phúc kiến Cơ Lương.

Điên đảo Càn Khôn tư thành mệnh,

Cát hung đắc triệu Lộc Kỵ chương.

Dục vấn Hóa Quyền cứu hà ý,

Càn Khôn Nhâm Quý huyền cơ tàng).

cái lý trong đó thâm sâu, lại không phải là "phiến ngôn chích ngữ" (chỉ dùng một vài lời) là có thể thấy rõ được.

Riêng cái huyền diệu của Tử Vi Đẩu Số, đa phần là ở tại hệ thống Tứ Hóa của nó, do Phá Quân Thiên Tướng Lộc Kị đạo dẫn đồ, Thập nhị cung Tiên Thiên Lộc Kị lưu chuyển đồ, Tiên Thiên Âm Dương Lộc Kị lai vãng đồ, Càn Khôn điên đảo đồ, Phiên thiên đảo địa đồ, Khảm Ly Ký Tế đồ, Cát hung thành triệu đồ hơn 10 loại bức đồ, có thể chứng tỏ sự khác biệt của Tiên Thiên Lộc Kị với Hậu Thiên Lộc Kị, quá trình diễn hóa của Tiên Hậu Thiên Lộc Kị Quyền tinh chính là nguyên lý của Thập Can Lộc Kị.

- Bắc cực nhất khảm phương, thiên kỷ cửu ly phương, hà bắc tam chấn phương, thất công đoái phương, tứ phụ tốn phương, thiên trù lục kiền phương, hổ bí nhị khôn phương, hoa cái bát cấn phương, ngũ đế cư trung ương.

(Bắc Cực 1 ở phương Khảm, Thiên Kỷ 9 ở phương Ly, Hà Bắc 3 ở phương Chấn, Thất Công 7 ở phương Đoài, Tứ Phụ 4 ở phương Tốn, Thiên Trù 6 ở phương Càn, Hổ Bôn 2 ở phương Khôn, Hoa Cái 8 ở phương Cấn, Ngũ Đế 5 cư ở Trung Ương).

Chú giải:

Đây là nói về phương vị của số Lạc Thư, với Thiên Kỷ, Hà Bắc, Tứ Phụ,... đều là tên sao thời xưa, ý nghĩa của nó với Lạc Thư đồ là không khác nhau.

- Đông bắc tây nam, long quy hổ điểu, tứ tượng thất chính, thành nhập bát túc. Đông phương thương long, giác, kháng, để, phòng, tâm, vĩ, cơ, thất thập ngũ số; bắc phương huyền quy, đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích, cửu thập bát số hựu tứ phân chi nhất; tây phương bạch hổ, khuê, lâu, vị, mão, tất, chủy, sâm, bát thập số; nam phương chu điểu, tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn, bách thập nhị số.

(Đông Bắc Tây Nam, Long Quy Hổ Điều, là tứ tượng thất chính, tạo thành 28 Tú. Phương Đông có Thanh Long gồm Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, số bảy mươi lăm (75); phương Bắc có Huyền Quy gồm Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, số 98 lẻ 1/4 (98.25); Tây phương có Bạch Hổ gồm Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm, số tám mươi (80); phương Nam có Chu Điểu gồm Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, số một trăm mười hai (112)).

Chú giải:

Đây là nói về 28 Tú. Vị quan xem Thiên Văn ngày xưa lấy 28 Tú làm Kinh, lấy Ngũ Tinh làm Vĩ, mà đo lường thiên tượng, nhằm chiêm nhân sự. 14 chính tinh của Tử Vi Đẩu Số chính là hóa thân của 28 Tú, mà không phải là ngôi sao thực nào cả, chính là rút ra tính quy luật của của sự đối ứng (tương ứng, phù hợp) của mối quan hệ giữa 28 Tú và Ngũ Tinh, mà hình thành nên "Hư tinh" vậy. Chứ nó với Nam Đẩu lục tinh và Bắc Đẩu thất tinh là không có liên can gì, chỉ mượn cái tên của chúng như thế thôi.

Nam đẩu lục tinh nằm ở phương Bắc chỗ Tú Đẩu của chòm Huyền Vũ và do 6 ngôi sao cấu thành nên, vị quan xem thiên văn xưa gọi là Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thiên Đồng cùng với Thiên Khố Lâu, trong số đó thì Tử Vi mượn dùng 5 ngôi.

Bắc đẩu thất tinh là Tham Lang, Văn Khúc, Liêm Trinh, Cự Môn, Vũ Khúc, Phá Quân, Lộc Tồn, trong đó Tử Vi cũng mượn dùng 5 ngôi (chính tinh), ngoài ra thêm Thất Sát, Tử Vi, Nhật Nguyệt là gọi chung bằng 14 chính tinh.

- Nhất tuế nhật nguyệt tương hội thập hữu nhị, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, nhập bát túc liệt yên, ngũ tinh kiến yên.

(Mỗi một năm thì Nhật Nguyệt tương hội 12 lần, viết: tinh kỷ, huyền hiêu, giáng lâu, đại lương, thực trầm, thuần thủ, thuần hỏa, thuần vĩ, thọ tinh, đại hỏa, tích mộc, chỗ của 28 Tú bày ra, nơi Ngũ Tinh được thấy).

Chú giải:

Đây là nói về 12 Thứ, cái gọi là "Nhập bát tú liệt yên, ngũ tinh kiến yên" đó chính là ý nghĩa của Kinh và Vĩ, cho nên Ngũ Tinh còn có tên là "Ngũ Vĩ". Cùng với đoạn dưới 12 Thần, 12 cung, tương hợp, tức là Thiên Địa Nhân tương giao cảm ứng, cho nên toàn bộ Tượng của Tử Vi đều có thể thể hiện ở trong 12 cung vị tại Địa Bàn.

- Thiên hữu thập nhị thứ, địa hữu thập nhị thần, nhân hữu thập nhị cung.

(Thiên có 12 Thứ, Địa có 12 Thần, Nhân có 12 cung).

Chú giải: xem chú giải ở trên.

- Thiên khai vu tý, địa tịch vu sửu, nhân sinh vu dần. Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần.

(Trời mở ở Tý, Đất mở ở Sửu, Người sinh ở Dần.

Chú giải:

Tý Sửu Dần chính là Thiên Địa Nhân tam nguyên (3 cái căn bản đầu tiên) của Đẩu Số, cái lý vô cùng của nó xuất phát từ đây. Cho nên quyển nhị "chương Lý Tượng" viết: "Tý Tham Lang, Sửu Phá Quân, Dần Thất Sát. Thiên Địa Nhân tam tài đủ cả vậy".

QNB chú: cái đoạn "Chu chính kiến tý, ân chính kiến sửu, hạ chính kiến dần", theo QNB hiểu thì muốn nói đến việc sử dụng lịch pháp của 3 triều đại, nhà Chu dùng lịch kiến Tý, nhà Ân dùng lịch kiến Sửu, nhà Hạ dùng lịch kiến Dần".

- Dần thân nhất, mão dậu nhị, thìn tuất tam, tị hợi tứ, tý ngọ ngũ, sửu mùi lục.

(Dần Thân 1, Mão Dậu 2, Thìn Tuất 3, Tị Hợi 4, Tý Ngọ 5, Sửu Mùi 6).

Chú giải:

Đây là nói về lục đạo. Dần cung làm điểm gốc tọa độ, là điểm gốc 0 độ trong hệ tọa độ, cho nên Tử Phủ xuất ở Thân mà nhập ở Dần (tức là khởi điểm nhịp rung động của các Cục trong Tử Vi là Dậu Ngọ Hợi Thìn Sửu Dần, quyển 2 "chương Lý Tượng" có phân tích), nên Dần là 1. Dần Thân, Mão Dậu, Thìn Tuất, Tị Hợi, Tý Ngọ, Sửu Mùi chính là 6 đạo của Cái Thiên quan, theo thứ tự sắp xếp khoảng cách, được âm dương ngũ cục, số giao của chúng cũng đều do 1 đến 6.

- Mão thìn tị ngọ mùi hoàng đạo, dậu tuất hợi tý sửu hắc đạo, kỳ dữ nhật nguyệt hà như tai?

(Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Hoàng Đạo, Dậu Tuất Hợi Tý Sửu Hắc Đạo, cái đó cùng với Nhật Nguyệt như thế nào mới phải?)

Chú giải:

Nguyệt có 9 đạo, Tử Vi chỉ dùng có Hắc đạo Hoàng đạo. Cho nên giảng Nhật Nguyệt, có thuyết Hoàng Đạo Hắc Đạo, cái này thường thấy ở trong các bài phú cổ "Chư tinh vấn đáp luận".

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cơ sở nguyên lý của Tử Vi tượng học

Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

Bị bồ đá thì hẳn là buồn rồi, nhưng các chàng trai đã bao giờ nghĩ xem lý do vì sao mình bị bồ đá hay chưa? Cùng xem các anh chàng hoàng đạo mắc lỗi gì nhé
Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bị bồ đá thì hẳn là buồn rồi, nhưng các chàng trai đã bao giờ nghĩ xem lý do vì sao mình bị bồ đá hay chưa? Cùng xem các anh chàng hoàng đạo mắc lỗi gì mà đến nông nỗi ấy nhé.
Người trẻ mà, chuyện tình cảm khi tan khi hợp là chuyện quá đỗi bình thường. Lý do chia tay thì có cả trăm điều, nhưng chắc chắn hầu hết là vì bạn có điều gì đó khiến đối phương không thể chịu đựng nổi nữa.
  Có người thì vì so đo tính toán quá mức mà bị bồ đá, có người thì người yêu không chịu được vì bị bám dính lấy cả ngày, mất tự do nên cũng “say goodbye”… Các chàng trai, các bạn vì sao mà bị bồ đá? Lịch ngày tốt xin chia sẻ lý do có thể khiến cho các chòm sao nam bị bồ đá, cùng theo dõi xem có chuẩn không nhé.


chang trai hoang dao vi sao bi bo da
 
 

Chàng trai Bạch Dương: Vì “bám dính” nên bị đá

  Thường thì con gái mới là người hay dính lấy người yêu, nhưng khi các chàng ra tay sử dụng chiêu này cũng có thể khiến cho các nàng xiêu vẹo vì độ đáng yêu maximum lắm đó. Tuy nhiên, cái gì cũng có giới hạn thôi, nếu bạn chỉ thi thoảng đôi lần tỏ ý muốn “bám dính” lấy nàng thì không sao, chứ thường xuyên như thế thì nguy cơ bị đá tung nóc nhà cao lắm đó.   Con gái dù sao thì vẫn thích những chàng trai mạnh mẽ và độc lập, khiến họ cảm thấy an toàn và được chở che. Chàng trai cung Bạch Dương khó tránh khỏi những phút yếu lòng mà bám lấy người yêu thì trong mắt các cô gái, bạn sẽ trở thành người yếu đuối, thiếu đi chất nam tính, chẳng sớm thì muộn cũng khiến cho cô gái chán nản mà tìm người mới thôi.   

Chàng trai Kim Ngưu: Vì quá “kẹt sỉ”


vi keo kiet
 
Anh chàng này vốn là người chỉn chu trong chuyện tiền nong, rất biết tiết kiệm và chi tiêu hợp lý, nhưng mặt khác, điều đó khiến cho chàng ta dễ trở thành người keo kiệt và nhỏ nhặt. Mới tiếp xúc thì điều này không dễ phát hiện, nhưng lâu ngày tính đó của bạn dễ khiến cho các nàng “bỏ của chạy lấy người” lắm đó.   Đến cả đi mua sắm với bạn gái còn không ngại trả giá mặc cả các kiểu thì không ổn rồi. Ừ thì tiết kiệm là tốt nhưng cái gì cần tiêu vẫn phải tiêu, đúng không nào? Đàn ông con trai thì phóng khoáng chút xíu nha, tiền bạc mình làm ra được thì mình cũng phải hưởng thụ những tiện ích mà nó mang lại. Hơn nữa, tiêu tiền cho người mình yêu thì cũng là một cảm giác thỏa mãn mà. Đừng để bị bồ đá vì thói xấu đó nhé Kim Ngưu!  

Chàng trai Song Tử: Vì quá sến sẩm

  Có thể nói đây là chàng trai có giàu tình cảm nhất trong số 12 cung hoàng đạo. Chàng trai Song Tử cảm xúc phong phú, nhất là khi yêu thì càng chẳng có điểm dừng, từ sáng tới tối có thể nói toàn những lời ngọt ngào, phong hoa tuyết nguyệt.   Rõ ràng là bình thường chỉ có con gái mới hay hỏi cái câu sến sẩm “Anh có yêu em không?”, nhưng nếu yêu chàng trai hoàng đạo này thì bạn sẽ thấy mình mới là người suốt ngày nghe mấy cái câu thiếu muối đó. Đường đường nam tử hán đại trượng phu mà tối ngày nói mấy câu khiến người ta nghe xong thấy ngọt tới sâu răng, sởn cả gai ốc, nghe thôi cũng mệt chứ đừng nói đến trả lời, bị đá cũng chẳng có gì ngạc nhiên.

Mời bạn đọc thêm: Những điều cần thay đổi khi bạn vừa chia tay.
 

Chàng trai Cự Giải: Vì quá thâm trầm, ít nói

  Bạn muốn có một người đàn ông của gia đình, chọn ngay anh chàng Cự Giải! Nhưng mà chàng ta cũng có nhược điểm, đó là chàng trai này quá mức ít nói, thâm trầm im lặng cả ngày, không phải ai cũng đủ vững vàng về tâm lý để tiêu hóa nổi.   Cảm giác khi ở bên chàng trai Cự Giải rất khó tả, như thể đang nói chuyện yêu đương với không khí vậy. Bạn muốn chút phản ứng từ người yêu còn khó chứ đừng nói gì đến chuyện lãng mạn. Đừng có mơ đến mấy cái màn tặng hoa tặng bóng trái tim tỏ tình hay sinh nhật các kiểu nhá, không có đâu.    Người yêu mà nổi hứng tự làm cho chàng bất ngờ thì càng tụt cảm xúc hơn, phũ phàng không thể tả được. Nhận quà chỉ biết cầm, tổ chức sinh nhật thì ngại ngùng ngồi như ông phỗng… Cô đơn, nhạt nhẽo trong chính cuộc tình, các nàng không chịu được thì bấm nút “Next” thôi.  

Chàng trai Sư Tử: Vì quá ngạo mạn, tự kiêu


vi ngao man
 
Kì thực anh chàng này rất có sức hấp dẫn với người khác phái, nhưng đau khổ thay là chẳng ai hoàn hảo. Là mẫu người đam mê quyền lực, anh chàng đem cả điều đó vào trong tình yêu. Tự tin là một chuyện, nhưng khi nó biến thành tự kiêu, ngạo mạn thì chắc chắn sẽ gây phản cảm. Đã bao lần anh chàng Sư Tử khiến bạn gái phật lòng vì cái thói đó rồi.   Ngạo mạn quá mức, đó chính là lý do chàng trai hoàng đạo này bị bồ đá không thương tiếc. Suy cho cùng thì đâu có ai muốn tìm một người ở bên suốt ngày lên giọng dạy bảo cơ chứ. Ừ thì người yêu có thể góp ý cho mình, nhưng tuyệt đối không phải là lên lớp nhé. Hơn nữa các cô nàng hay thích mấy chàng khi yêu thì nghe lời mình, chiều chuộng mình mọi điều, đâu có thích bị người yêu gia trưởng áp đặt đâu. Chia tay là điều tất yếu thôi.  

Chàng trai Xử Nữ: Vì cằn nhằn nhiều quá

  Nói anh chàng này lắm lời không hề khoa trương làm quá chút nào đâu ạ! Chỉ có ai đã từng chứng kiến mặt này của anh chàng Xử Nữ mới thấy cái sự cằn nhằn không ngơi nghỉ của chàng ta khiến cho người khác muốn phát điên!   Tất nhiên anh chàng này là người vô cùng chu đáo và tỉ mỉ, làm bạn gái chàng ta thì được chăm sóc tới tận răng, như công chúa vậy. Nhưng đôi khi điều đó khiến cho anh chàng giống với quản gia, mẹ em bé hơn là người yêu. Cái này cũng quản, cái kia cũng muốn quản, cả ngày đi cùng nhau mà bị nhắc nhở hết chuyện này tới chuyện khác thì ai mà chịu nổi chứ. Bớt nói nhiều đi chút Xử Nữ nhé, uhm, nếu bạn không muốn bị bồ đá!  
Bạn có biết Những cung hoàng đạo có duyên, chia tay rồi cũng sẽ quay lại là ai không?

Chàng trai Thiên Bình: Vì độc mồm độc miệng

  Anh chàng này trời sinh giỏi khoa ăn nói, nhưng chẳng được ngọt ngào như Song Tử đâu, nói 3 câu thì phải châm chích người ta ngay mới được. Dường như đó là tài năng của anh chàng Thiên Bình, khi mà người đối diện càng không thích nói đến điều gì thì chàng ta nhắc ngay tới điều đó, lại còn thản nhiên như chẳng có gì nghiêm trọng nữa.   Đôi khi cái sự ấy nó quá đà thành vô duyên, anh chàng này rất dễ bị bồ đá vì cái mồm độc địa, khiến cho người yêu luôn trong tình trạng “muốn bùng cháy”. Bản thân chàng ta chỉ nghĩ rằng mình đang nói sự thực mà thôi, nhưng mà này, ai bảo con gái lúc nào cũng thích nghe mấy lời nói thật phũ phàng ấy chứ???  

Chàng trai Hổ Cáp: Vì quá ghen tuông


vi ghen tuong
 
Một trong những tính xấu của anh chàng này chính là hay so đo tính toán, dù là với người mình yêu đi chăng nữa. Lần đầu tiếp xúc có lẽ khó để nhận ra, chẳng gì thì người ta cũng phải cố thể hiện mình để tạo ấn tượng tốt mà. Nhưng có lẽ “cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra”, dần dần người yêu cũng phát hiện ra thói xấu đó của anh chàng Hổ Cáp.   Chỉ chuyện bé bằng cái kẹo, chàng ta cũng có thể ghen tuông, tức giận. Dù bạn gái có xin lỗi, dỗ dành thế nào chàng Hổ Cáp cũng không chịu xuôi. Đã dỗ không được thì cho tức hoài hoài luôn, gì chứ tính cách trẻ con vậy thì bị bạn gái đá vài lần mới chừa được.  

Chàng trai Nhân Mã: Vì quá giàu tình cảm

  Cũng không hẳn là anh chàng này quá đào hoa, đem tình yêu rải khắp chốn với trái tim nhiều ngăn. Song tình cảm dạt dào quá mức, chàng ta chẳng những tốt với người yêu mà còn tốt cả với những cô gái khác nữa. Người đâu mà bạn gái thân với em gái nuôi một lô một lốc, bảo sao người yêu thấy thiếu cảm giác an toàn.   Con gái chỉ thích người mình yêu đối tốt với bản thân mình, thích độc chiếm người yêu, nào có ai muốn chia sẻ tình cảm. Chẳng thà đau một lần để tìm cho mình bến đỗ an toàn và ổn định còn hơn lúc nào cũng thấp thỏm sợ bị phản bội, đó chính là lý do các cô nàng quyết định “đá bay” anh chàng Nhân Mã đó!  
Bạn đã biết Những lý do chia tay bá đạo của 12 chòm sao nữ chưa?

Chàng trai Ma Kết: Vì quá nghiêm túc

  Kì thực thì anh chàng hoàng đạo này chẳng có điểm gì là không tốt, mỗi cái “thanh niên nghiêm túc” quá thôi. Không biết nói đùa, mà nghe người khác nói đùa cũng tưởng là thật. Nếu bạn gái anh chàng là cô nàng hài hước, thích đùa vui thì có lẽ khó mà chịu được việc bạn trai mình chẳng có chút hài hước nào. Ngược lại chàng ta cũng khó lòng hiểu nổi những câu chuyện cười của bạn gái. Đôi bên chẳng ai hiểu ai, dần dần ai cũng thấy mệt mỏi, chia tay là điều tất yếu!  

Chàng trai Bảo Bình: Vì quá lạnh lùng


vi lanh lung
 
Có một thói quen mà nam Bảo Bình nên sửa ngay, rõ ràng là thích người ta là lúc nào cũng trưng ra bộ mặt lạnh như “băng tảng ngàn năm” là sao chứ? Đã là người yêu rồi thì nên lạnh lùng với người khác thôi, với bạn gái thì phải biết trưng ra mặt dịu dàng chứ cứ lạnh lùng mãi thì ai mà chịu nổi.   Cho dù người ta có thích bạn đến thế nào mà thấy tình cảm cho đi cứ như đang đánh bóng với bờ tường, chẳng nhận được chút phản hồi thì dần dần cũng thấy nản lòng, chẳng thà đá bay bạn mà đi tìm anh chàng khác ấm áp hơn cho rồi, đỡ phải suy nghĩ nhọc lòng.  

Chàng trai Song Ngư: Vì quá bá đạo

  Anh chàng này lúc nào cũng thích làm theo ý mình, tỏ rõ sự gia trưởng và độc đoán, ngay cả với bạn gái cũng sai khiến hết chuyện này tới chuyện nọ, hoàn toàn chẳng coi trọng cảm xúc của đối phương. Nói thật nhé, bạn trai độc đoán như anh chàng Song Ngư chẳng cô nào ham đâu. Bạn cứ mãi cố chấp, khăng khăng làm theo ý mình vậy thì cứ sống độc thân thôi, đừng hỏi vì sao bị bồ đá nữa nhé.   Tanny

Khắc khoải thời điểm 12 chòm sao nữ đau khổ nhất khi chia tay 5 điều giúp bạn thức tỉnh sau khi thất tình Lời chia tay chất như nước cất của 12 chòm sao nam

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các chàng trai hoàng đạo vì sao bị bồ đá

4 con giáp có cơ hội vươn mình tỏa sáng sau tiết Lập Đông

Sau tiết Lập Đông là tháng có quan hệ ngũ hành Thủy Mộc tương sinh, có lợi cho toàn vận trình của người tuổi Mão.
4 con giáp có cơ hội vươn mình tỏa sáng sau tiết Lập Đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người tuổi Mão có ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc. Dù là sự nghiệp bạn đang nỗ lực phấn đấu, vận đào hoa bạn chờ đợi bấy lâu hay nguồn tài lộc dồi dào mà bản mệnh đang mong mỏi, tất cả đều có cơ hội thăng cấp, từ suy nghĩ trở thành hiện thực. 


► Mời các bạn xem Tử vi 2017 đã được cập nhật tại Lichngaytot.com
 

No1. Người tuổi Mão

  Người tuổi Mão trong 12 con giáp có ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc. Sau tiết Lập Đông là tháng có quan hệ ngũ hành Thủy Mộc tương sinh, có lợi cho toàn vận trình của người tuổi Mão. Dù là sự nghiệp bạn đang nỗ lực phấn đấu, vận đào hoa bạn chờ đợi bấy lâu hay nguồn tài lộc dồi dào mà bản mệnh đang mong mỏi, tất cả đều có cơ hội thăng cấp, từ suy nghĩ trở thành hiện thực.    Nhất là sau tiết khí này, đường Thứ tài của tuổi Mão vô cùng khởi sắc, thích hợp tiến hành các hoạt động đầu tư, thậm chí may mắn tới mức mua vé số cũng có thể trúng thưởng. Đây chính là thời điểm lý tưởng mà bạn gặt hái được nhiều cơ hội tài lộc, hãy chủ động nắm bắt.
4 con giap co co hoi vuon minh toa sang sau tiet Lap Dong hinh anh 2
 

No2. Người tuổi Thân

  Xét về ngũ hành mệnh cách, người tuổi Thân mang yếu tố Kim. Qua tiết Lập Đông, bản mệnh có quan hệ Kim Thủy tương sinh với chi tháng, thúc đẩy vận khí tăng mạnh. Theo đó, không chỉ có cơ hội thăng chức, tăng lương, mà những ai có ý định chuyển đổi công việc cũng được thỏa nguyện.    Thời gian này, mệnh chủ có nhiều cơ hội hợp tác làm ăn, mở rộng quan hệ xã giao. Nhân đà này có thể hoàn thành mục tiêu lớn đã đề ra.   Về tài lộc, Chính tài của bản mệnh được dịp “trở mình” sau tiết Lập Đông. Phương diện đầu tư, kinh doanh lý tưởng, kiếm được không ít lợi nhuận.
4 con giap co co hoi vuon minh toa sang sau tiet Lap Dong hinh anh 2
 

No3. Người tuổi Dần

  Tương tự người tuổi Mão, bản mệnh Dần có ngũ hành mệnh cách thuộc Mộc. Sau tiết Lập Đông, mệnh chủ bước vào tháng có Thủy Mộc tương sinh, vận trình có sự chuyển biến tích cực.    Nhân cơ hội hiếm có này, những chú Hổ có thể tiến hành một số hạng mục đầu tư mà trước kia chưa dám làm, tự tin bày tỏ tình cảm với đối phương, kết quả sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên. Nhất là phương diện sự nghiệp, nhân đà này, bạn cần tạo dựng nền tảng cơ sở vững chắc cho bước đường phát triển trong tương lai.

4 con giap co co hoi vuon minh toa sang sau tiet Lap Dong hinh anh 2
 

No4. Người tuổi Dậu

  Người tuổi Dậu mang ngũ hành mệnh cách thuộc Kim. Tiết Lập Đông qua đi, bản mệnh bước vào tháng có mối quan hệ Kim Thủy tương sinh, vận trình có sự khởi sắc tốt đẹp.   Những việc trước kia chỉ dám nghĩ mà chưa dám làm, nay bạn có thể tiến hành triệt để, sẽ thu về kết quả bất ngờ. Nhất là phương diện tài lộc, có khoản thu ngoài dự tính.    Vận đào hoa hưng vượng, người độc thân có dịp gặp gỡ, kết thân với đối tượng ưng ý, tình cảm phát triển nhanh chóng, thậm chí có thể đi đến chuyện hôn nhân.   Ngân Hà
Biến động trong vận trình của 12 con giáp tiết Lập Đông
Tiết Lập Đông đã về, vận trình 12 con giáp có sự biến động không hề nhỏ trong khoảng thời gian 15 ngày (từ 7 hoặc 8 đến 22 hoặc 23 tháng 11/2016). Cùng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 con giáp có cơ hội vươn mình tỏa sáng sau tiết Lập Đông

Những điều đại kỵ với nam giới tuyệt đối không được mắc phải

Những điều đại kỵ với nam giới: Theo phong thủy, nam giới muốn tài vận, tình cảm và muốn cuộc sống được như ý muốn thì nên chớ nên phạm phải 18 điều đại kị.
Những điều đại kỵ với nam giới tuyệt đối không được mắc phải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tập hợp những điều đại kỵ với nam giới: Theo phong thủy, nam giới muốn tài vận, tình cảm và muốn cuộc sống được như ý muốn thì nên chớ nên phạm phải 18 điều đại kị.

  1. Nam giới sống dưới tầng hầm hoặc sống trong một ngôi nhà được chu cấp bởi một người phụ nữ thì sẽ bị thiếu dương khí.
 
2. Tại phía Tây Nam của ngôi nhà đặt một chiếc giường, đầu giường hướng về phía Tây, nếu bạn vẫn độc thân thì sẽ tiếp tục tình trạng này trong vài năm nữa. Đây là một trong những điều đại kỵ với nam giới tuyệt đối không được phạm phải.

Danh sach nhung dieu dai ki, CANH CAO nam gioi cho nen pham phai hinh anh
Ảnh minh họa

 
3. Những người có sở thích xăm mình nên chú ý: Hình xăm giống nhau sẽ khiến cho cả Tình và Tiền đều đi xuống, nhất là vị trí xăm ở ngực. Bạn nên tìm hiểu thêm: Hình xăm phong thủy và những điều cấm kị

4. Trong phòng kỵ bừa bộn, nhất là tới nửa tháng rồi không đụng tới cái chổi thì tài vận sẽ mịt mù.
 
5. Nuôi cá hoặc trồng hoa thường xuyên thất bại hoặc chỉ chơi theo cảm hứng thì “quý nhân” tuyệt nhiên sẽ không xuất hiện.
 
6. Trong phòng có treo nhiều ảnh người đẹp mà lại không phải ảnh người nhà, cũng chẳng phải ảnh người yêu thì tài vận sẽ liên lục rơi rớt, tình cảm cũng thường xuyên gặp trắc trở.
 
7. Nếu mua nhà hoặc thuê phòng mà bị khuyết góc Tây Bắc thì hoặc là bản thân không có sức thu hút phụ nữ hoặc sau khi kết hôn sẽ bị vợ quản chặt. Tham khảo thêm bài viết Tránh góc khuyết tại phương vị Tây Bắc của ngôi nhà để có cái nhìn đúng đắn. 
 
8. Nếu giặt “quần nhỏ” không sạch hoặc không biết cách giặt sạch thì tài vạn sẽ ngày càng đi xuống.
 
9. Không có cốc uống nước hoặc chỉ dùng cốc giấy thì sự nghiệp của những người đàn ông mang ngũ hành Mộc sẽ gặp nhiều bất lợi, khó mà thăng tiến được.
 
10. Làm hỏng hoặc làm mất những món đồ mà người yêu tặng thì sẽ gặp những tình huống bất ngờ, không phải rủi ro thì cũng là tình cảm tan vỡ.
 
11. Thường xuyên “quan hệ” với nhiều người phụ nữ khác nhau mà không có tình cảm thật lòng, như vậy sinh lực sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cả đời không thể lấy lại được.

Danh sach nhung dieu dai ki, CANH CAO nam gioi cho nen pham phai hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
12. Thường xuyên trêu chọc, phá đám người khác thì sẽ gặp phải họa tiểu nhân.
 
13. Đàn ông đặt “đồ bảo hộ” ở vị trí bên trái của ngăn kéo ở văn phòng thì sẽ xuất hiện người thứ 3 xen vào phá đám chuyện tình cảm.
 
14. Trong văn phòng, vị trí làm việc ngồi sau một người phụ nữ hoặc bên cạnh nhà vệ sinh thì vận mệnh sẽ bị ảnh hưởng khá nhiều, nguyên tắc này đúng mọi lúc mọi nơi, nên chú ý.
 
15. Bất luận là tại văn phòng làm việc hoặc tại nhà mà chỉ đặt một chậu cây cảnh, mà lại là loại cây có gai thì sẽ nhanh chóng lâm vào cảnh khốn cùng, không chỉ tự mình đánh mất tình yêu mà vận thế cũng đi xuống.
 
16. Đàn ông làm cho phụ nữ sinh non khi thai nhi được 3 tháng mà không làm lễ siêu độ thì cuộc sống sẽ gặp nhiều phiền toái.
 
17. Lúc giàu có thì không biết tiết kiệm, lúc đói kém lại vay mượn khắp nơi, thậm chí là vay tiền của phụ nữ thì tài vận và sự nghiệp không thể phát triển được.
 
18. Tùy ý kết bạn, thậm chí là kết giao cả với những người xấu, khi nói chuyện cũng toàn dùng lời lẽ ác ý thì cả tài vận, tình cảm lẫn sức khỏe đều không được như ý muốn. Hãy ghi nhớ những điều đại kỵ với nam giới này để thuận buồm xuôi gió.

Không nên bỏ qua: 5 yếu tố phong thủy hủy hoại sự nghiệp đàn ông
 
Phương Thùy
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều đại kỵ với nam giới tuyệt đối không được mắc phải
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd