Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Trang sức cửa hàng có quan hệ như thế nào với phong thủy huyền không? –

Huyền không học là trường phái huyền bí nhất, sâu sắc nhất và linh nghiệm nhất trong dòng tư tưởng phong thủy. Nó không những có thể cải thiện vận mệnh, khiến con người chiêu bần tịch phú (sáng còn khó khăn chiều đã có thể giàu có), phú quý khang nin
Trang sức cửa hàng có quan hệ như thế nào với phong thủy huyền không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

h, còn có thể tác động đến sự hưng thịnh của quốc gia.

trang-suc-cua-hang

Chẳng trách mà Quốc sư đời Đường bên Trung Hoa Dương Quân Tùng có câu tâm huyết là “bí mật tại huyền không” được người đời tôn xưng là “cửu bần tiên sinh”. Tuy nhiên, nghĩa lý đó vô cùng tinh thâm rộng lớn, khái quát muôn vật trong trời đất, người học nếu như không có bí quyết chân truyền hoặc tự thân phải bò rất nhiều công sức thì dù có thông minh giỏi giang cỡ nào cũng khó có thể lĩnh hội được ý nghĩa kì diệu của môn này, còn nếu như có được bí quyết kỳ diệu thì mới có thể đăng nhập được đạo lí sâu xa.

Dưới đây giải thích năm điểm của hai chữ “huyền không”: Từ ý nghĩa của từ huyền không mà giải thích, huyền là thiên thời, “không” là không gian và phương vị. Cách nói cổ: ‘Thiên huyến địa hoàng là dùng huyền đại diện cho thiên, do thời gian tượng trưng hiện tượng thiên văn vận hành là biến hoá: dùng địa đại diện cho không gian, đất đai có thể sinh dưỡng vạn vật, là chỗ dựa cho vạn vật”. Do đó có thể thấy thời gian của hiện tượng thiên văn và không gian của mặt đất có quan hệ mật thiết không thể tách rời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trang sức cửa hàng có quan hệ như thế nào với phong thủy huyền không? –

Chùa Lân - Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử

Chùa Lân còn được gọi là Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử hay tên chữ là Long Động Tự. Ngôi chùa tọa lạc tại thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, Uông Bí
Chùa Lân - Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Lân còn được gọi là Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử hay tên chữ là Long Động Tự. Ngôi chùa tọa lạc tại thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chùa Lân trước kia là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất trong hệ thống chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm và được trụ trì bởi Thượng tọa Thích Thông Phương. Có lẽ vì sự sơ khởi của nguồn cội nơi đất Phật mà Trúc Lâm Thiền Viện có vị trí ngay dưới chân núi Yên Tử.

Lịch sử: Chùa Lân là địa điểm vua Trần Nhân Tông đã dừng chân trước khi lên Yên Tử tu hành. Năm Kỷ Hợi (1293) ngài đã cho tôn tạo, xây dựng chùa Lân thành một nơi khang trang lộng lẫy, chùa Lân trở thành Viện Kỳ Lân, là nơi giảng đạo, độ tăng. Trong hệ thống chùa tháp ở Yên Tử, chùa Lân là ngôi chùa quan trọng chỉ đứng sau chùa Hoa Yên, nơi có nhiều vị cao tăng đã trụ trì, thuyết pháp, trong đó vua Trần Nhân Tông đã từng giảng đạo tại đây.

Trong kháng chiến chống Pháp, chùa gần như bị thiêu huỷ hoàn toàn, chỉ còn hệ thống các mộ tháp gồm 23 tháp, trong đó tháp lớn nhất là tháp mộ thiền sư Chân Nguyên.

Năm Nhâm Ngọ (2002), lễ đặt đá xây dựng chùa Lân – Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử đã được tổ chức. Công trình được xây dựng với sự khởi xướng của hoà thượng Thích Thanh Từ, Viện trưởng Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt và công đức của các tăng ni, phật tử trong, ngoài nước. Ngày 11 tháng 11 năm Nhâm Ngọ (2002), Chùa Lân – Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử được chính thức khánh thành trên diện tích gần 5 mẫu.

Kiến trúc: Chùa Lân nằm trên một quả đồi có hình dáng một con lân nằm phủ phục. Hiện thời ngõ chùa Lân vẫn còn lưu dấu tích xưa, ngõ dài, rộng, hai bên có nhiều tháp mộ các nhà sư. Chùa được xây dựng bằng vật liệu hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống của ngôi chùa Việt. Các công trình chính của chùa gồm Chính điện, Nhà thờ tổ, Lầu trống, Lầu chuông, Nhà tăng, La Hán đường… Bài trí trong chùa đơn giản, khoáng đạt, dùng ngay chữ quốc ngữ trên các hoành phi, câu đối.

Trong Chính điện thờ tượng Thích Ca Mâu Ni toạ Thiền thành đạo dưới cội Bồ Đề được đúc bằng đồng có trọng lượng gần 4 tấn. Pho tượng Tổ Bồ Đề Đạt Ma tạc bằng gỗ Giáng hương có nguồn gốc từ Nam Mỹ, tượng cao 3,2m, bệ đỡ cao 0,65m, chiều rộng bệ đỡ 0,95m, nặng khoảng 3,2 tấn với những đường nét chạm khắc tinh tế, được đặt ở sau Chính Điện, trước nhà thờ Tam Tổ, để chúng Tăng, Ni, Phật tử, du khách chiêm bái.

Trong La Hán Đường thờ mười tám vị La Hán, tượng được tạc bằng gỗ Giáng hương, đường nét chạm khắc tinh tế, đủ các dáng điệu tư thế và lai lịch của từng vị.

Trước sân Thiền Viện đặt một quả cầu “Như ý báo ân Phật Tổ” bằng đá hoa cương đỏ, đường kính 1.950mm, trọng lượng 6,5 tấn được lấy từ mỏ đá An Nhơn, Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Quả cầu được đặt trên một bệ đá có tiết diện vuông, nặng 4,5 tấn, nó có thể tự quay quanh mình nó theo chiều chữ “Vạn”. Tất cả nằm trên bệ đá hình bát giác với tám bồn hoa bao quanh, tượng trưng cho bát chính đạo là: Chính kiến; Chính tư duy; Chính ngữ; Chính nghiệp; Chính mệnh; Chính tinh tiến; Chính niệm và Chính định.

chùa lân
Tháp Tịch Quang thờ thiền sư Chân Nguyên

Chính Pháp Đường là nơi thuyết pháp cho hàng ngàn chúng Tăng, Ni, Phật tử. Bên trong thờ Phật Thích Ca, Tam Tổ Trúc Lâm và các Tôn giả được tạc tinh tế bằng gỗ Giáng hương. Mỗi khi chúng Tăng, Ni, Phật tử, du khách trong và ngoài nước hành hương chiêm bái chốn Tổ Trúc Lâm, vào chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm lễ Phật, chiêm bái cảnh chùa và đi bộ quanh hồ Tĩnh Tâm ở trước cửa Chính Pháp Đường thấy lòng thanh thản, tâm hồn thư thái. Vào Chính Pháp Đường một không gian thoáng rộng, trang nghiêm, tôn kính Đức Phật và các Chư Tổ, cùng pho tượng Hoà thượng – Viện trưởng Thích Thanh Từ. Là một Thiền sư tu hành công phu, có công lớn phục hồi, phát triển dòng Thiền Trúc Lâm đời Trần từ những năm Năm mươi thế kỷ XX đến nay.

Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử đang được tiếp tục xây dựng, tôn tạo để ngày càng khang trang sạch đẹp, phát huy tinh thần của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử và là địa điểm tham quan, tìm hiểu, cầu nguyện, lễ phật hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Lân - Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử

Điểm danh nốt ruồi may mắn trên cơ thể

Trên cơ thể bạn có bao nhiêu nốt ruồi, mỗi nốt sẽ có đặc điểm thú vị riêng đấy nhé.
Điểm danh nốt ruồi may mắn trên cơ thể

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Nốt ruồi nằm trên đỉnh đầu

Từ trong bụng mẹ, bạn đã mang vận mệnh may mắn khiến nhiều người phải ao ước. Nếu gặp khó khăn, sẽ có quý nhân giúp đỡ bạn. Cuộc sống của bạn không cần phải lo "thiếu ăn thiếu mặc", trong khi người ta phải phấn đấu nhiều năm, còn bạn ngay từ khi sinh ra đã có cuộc sống tốt hơn người khác.

2. Nốt ruồi nằm trong lông mày

Nó đại diện cho vận mệnh của bạn gặp nhiều phú quý, con trai dễ nắm quyền lực trong tay, con gái sẽ đem lại may mắn cho chồng con.

2-5513-1423197623.jpg

3. Nốt ruồi trên trán

Đây là nốt ruồi phú quý, có nhà có xe, tài vận tốt.

4. Nốt ruồi ở huyệt thái dương

Ra đường gặp quý nhân hoặc có nguồn lợi phát triển từ bên ngoài, bạn thích hợp xuất ngoại hay di cư đến nơi khác.

5. Nốt ruồi ở dái tai

Có phúc khí, số mệnh trường thọ và tài vận may mắn, vành tai có nốt ruồi biểu thị bạn rất thông minh và lễ phép, sau tai có nốt ruồi nói lên sự giàu có tiềm ẩn.

6. Nốt ruồi ở gò má

Trong công việc, bạn có quyền lực và địa vị, dễ trở thành một nhà quản lý thành công.

7. Nốt ruồi ở môi trên

Bạn sẽ không lo “thiếu ăn thiếu mặc”, thường được nếm đồ ăn ngon, thường xuyên nhận được lời mời ăn uống.

8. Nốt ruồi ở môi dưới

Bạn làm việc cẩn thận, dễ nhận được sự tin tưởng từ mọi người.

Xem tiếp

Chocopie (theo Sina)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm danh nốt ruồi may mắn trên cơ thể

Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 1)

Nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn
Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

10 nghiệp lành của đạo Phật bên cạnh ý nghĩa tôn giáo còn mang ý nghĩa đạo đức rất sâu sắc và thực tế. Làm được 10 điều này thì tự nhiên cuộc sống sẽ nhẹ nhàng, tự tại hơn.

1. Thân vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình

Các loài hữu tình là các loài có sự sống như con người. Dù to lớn hay nhỏ bé, dù sống trên rừng hay dưới biển thì chúng sinh đều bình đẳng, đáng được tôn trọng và không nên giết hại.

Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, chúng ta cũng không nên chặt phá bừa bãi vì chúng cũng có sự sống. Nghiệp lành thứ nhất này không chỉ giúp con người từ bỏ điều hung dữ, trấn an tính ác, giữ tâm hòa ái mà còn bảo vệ môi trường, tôn trọng tự nhiên.

2. Thân vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác

Trộm cắp là thói hư tật xấu, xuất phát từ lòng tham của con người. Con người có lòng tham, lòng bất chính thì nảy ra trộm cắp, giành giật thứ không phải của mình, không thuộc về mình.

Từ đó kéo theo những tội ác khác để đạt được mục đích. Mà sống trong tội ác thì lúc nào cũng lo lắng, bất an, có vật chất đầy đủ cũng không yên. Kiếp này làm, kiếp sau sẽ có báo ứng, đó là luật nhân quả.

3. Thân vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh

Sự chung thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông phương. Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình hạnh phúc, an vui thì xã hội mới hạnh phúc, an vui. Sự văn minh, tiến bộ của loài người cũng là dựa trên đạo đức và khuôn phép trong mối quan hệ gia đình. Từ bỏ tà dâm, tà hạnh là tạo nghiệp lành cho bản thân, gia đình và xã hội

4. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối

Có lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù. Có lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản. Có lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác. Có lời nói dối đưa người khác đến tội tù, gia đình phân ly, tan nát. Có lời nói dối chặn đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác. Có lời nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết. Có lời nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm. Có lời nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau. Bởi thế, nói dối là tội ác, làm xã hội đảo điên, lòng người gian trá, chỉ có từ bỏ nó thì con người mới có sự bình yên.

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo

Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều. Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã mạnh mẽ hơn nhiều. Lý trí mù quáng, đẩy người khác vào tội đáng ra không phải gánh là tạo nghiệt, con người tự đầy đọa nhau. Bỏ đi những lời vu cáo, hãm hại là nghiệp lành thứ năm của đạo Phật.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sống hạnh phúc hơn với 10 nghiệp lành của đạo Phật (phần 1)

Phong thủy dương trạch –

An toàn thoải mái, tiện lợi là điều kiện cơ bản của việc cư trú từ việc dựng một căn lều nho nhỏ đến việc mua nhà, chung cư, biệt thự, thậm chí là quy hoạch đô thị, lựa chọn thủ đô của một quốc gia, đều liên quan mật thiết với sở học dương trạch. Dươ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

An toàn thoải mái, tiện lợi là điều kiện cơ bản của việc cư trú từ việc dựng một căn lều nho nhỏ đến việc mua nhà, chung cư, biệt thự, thậm chí là quy hoạch đô thị, lựa chọn thủ đô của một quốc gia, đều liên quan mật thiết với sở học dương trạch.

duong-trach-hoc

Dương trạch học tất nhiên có những mặt cao siêu huyền bí, những cũng có những lí luận giản đơn mà ai cũng biết. Ví như dương trạch đáp ứng điều kiện cát lợi cũng chính là phải tuân thủ theo nguyên tắc của phong thuỷ, của tự nhiên.

Nói về thành quách, đền chùa… của các đời vua chúa xưa.

Trục thần đạo Nam Bắc thường được chọn vì thực tế tự nhiên hay ưu đãi tạo ra hệ địa lý thuận phong thủy, nó được gọi là trục thần đạo.

Trục thần đạo thường được chọn lựa địa hình kỹ lưỡng trước khi quyết định chọn làm kinh thành cho một quốc gia. Đây là một trong những công việc đại sự quốc gia.

Nói về nhà ở:

Từ xưa, các cụ hay nói “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam” cũng ý chỉ trục thần đạo. Nó giúp cho ngôi nhà hay con người sinh hoạt trong đó thuận tự nhiên.

Trong khi ngủ, nghỉ ngơi, đặc biệt với trẻ nhỏ cũng nên tuân theo lẽ tự nhiên này (cách nằm: đầu bắc, chân nam).

Đôi chút về cách thức làm nhà xưa:

Thường với khuôn viên đủ rộng, phía trước đào ao (lấy đất làm nhà) làm dần từng hạng mục, về sau thành khuôn viên có dạng như sau.

Cũng theo phong thủy tổng thể, từ xưa người ta đã biết vận dụng, với những điều kiện hiện có.

Mặc dù địa hình không cho phép, không có núi cao phía sau, không có núi thanh long, bạch hổ… người xưa đã hiểu biết và vận dụng thành công, như:

Phía trước nhà có ao nước (hướng thủy) và có hàng cau để thanh lọc khí tốt vào nhà.

Phía sau có đất gò, có trồng hàng cây mít, cho vững chắc, tượng trưng như núi bao bọc phía sau hợp với câu “trước cau sau mít” như chúng ta vẫn thường nghe.

Bên trái là lối vào, rồi đến nhà ngang (tượng của dãy núi thấp của thanh long).

Bên phải có đống rơm to, tượng của núi bạch hổ.

Nhìn lại, yếu tố phong thủy được người xưa áp dụng vào cuộc sống, từ những hạng mục lớn của quốc gia hay với từng ngôi nhà của người nông dân.

Sự tài tình, khéo léo, áp dụng yếu tố phong thủy trong cuộc sống đã và đang như một nét văn hóa xuyên suốt chiều dài lịch sử của nhân loại.

Trục thần đạo thường được các đời vua chúa của các quốc gia áp dụng. Với nhà ở, chúng ta áp dụng thêm bát trạch sao cho hợp với mệnh của từng người, và tuân theo các yếu tố phong thủy là ổn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy dương trạch –

Tướng người tai nhỏ –

Giống như mắt, môi… tai cũng là bộ phận quan trọng được các nhà nhân tướng học chú ý xem xét khi phân tích, nhận định một con người. Tai nhỏ Những người sở hữu đôi tai nhỏ thường có khả năng tập trung tốt, hay chú ý tới tiểu tiết trong mọi việc. Họ t
Tướng người tai nhỏ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người tai nhỏ –

Sự tích cá Chép hoá Rồng

Sự tích các chép hóa rồng hay còn gọi là cá chép vượt vũ môn là biểu tượng của sự an lành, sung túc và thịnh vượng. Thăng tiến trong học hành, công danh, tài lộc.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Huyền thoại xưa ở Á Châu có kể rằng, khi trời đất mới hình thành, chính Trời đã làm ra mưa gió.

Nước từ mưa gió, sông, biển, và những sinh vật sống trong nước được Trời tạo ra đầu tiên, đó chính là nguồn phát sinh ra mọi thứ.

Sau, vì bận bịu tạo ra người và vạn vật nên Trời không làm mưa gió nữa, mà sai rồng là con vật ở cỏi trời, bay lượn ở trên không và phun nước xuống trần gian làm ra mưa.

Nhưng vì số rồng trên trời ít, không đủ làm mưa cho đều khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén chọn các con vật lên làm rồng, gọi là “thi rồng”.

Khi chiếu chỉ của Trời ban xuống dưới Thủy cung, vua Thủy tề là vì vua trông coi các công việc ở dưới nước, loan báo cho tất cả các giống sống ở đó, chúng tranh nhau đi thi.

Cuộc thi gồm ba kỳ, mỗi kỳ phải vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt qua cả ba đợt thì mới đậu để được hóa rồng.

Trong một tháng trời, bao nhiêu loài thủy tộc đến thi đều bị loại, vì không con nào vượt trót được cả ba đợt sóng.

Có con cá rô nhảy qua được một đợt, đợt sau thì bị rớt.

Có con tôm nhảy qua được hai đợt, ruột gan vây vẩy râu đuôi đã gần hóa rồng. Khi đến đợt ba, đuối sức bị té nên lưng cong lại.

Đến lượt có một con cá chép vào cuộc thi, con cá này bản chất của nó đã là quý hiếm đặt biệt, vì trong miệng nó có ngậm một viên ngọc trai…

Thần gió thấy lạ bay đến để xem, gió, mây ào ạt kéo đến, sấm sét ầm trời, và những đợt sóng cao trổi dậy…

Cá chép nhờ đợt sóng cao đưa lên, vượt luôn một lần qua ba đợt sóng, nhả ngọc vượt qua Vũ Long Môn và hóa rồng.

Cá chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự can đảm, may mắn, trót lọt, thành công, chiến thắng!

Cả bầy cá chép con nào cũng muốn vượt qua Vũ Long Môn, bởi chúng biết hễ vượt qua được cửa đó, chúng sẽ từ những con cá chép tầm thường trở thành con rồng siêu phàm, thoát tục… và biến thành rồng thiên, được sống đời đời.

Vẫy, đuôi, râu, sừng tự nhiên mọc đủ, hình dạng trọn vẻ oai phong, rạng rỡ, một biểu tượng cho sự khát vọng của con người trên thế gian…

Nhưng không phải con nào cũng có tính chất quí sáng (mang ngọc quý trong thân) và không phải cá chép nào cũng có phẩm chất, khả năng khắc phục khó khăn, trở ngại để đạt được thành công!

Cá chép hóa rồng phun nước làm cho đất đai mầu mỡ, cây cối xanh tươi, đem lại sức sống cho muôn loài.

Bởi vậy người ta thường xem hình ảnh cá chép hóa rồng là biểu tượng của sự an lành và sung túc, thịnh vượng. Thăng tiến trong học hành, thi cử, công danh và may mắn về tài lộc trong thương mại.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự tích cá Chép hoá Rồng

Những ngày xấu cần tránh

Khi chọn ngày tốt để tiến hành công việc, trước tiên bạn cần biết loại trừ các ngày xấu. Các ngày xấu trong nên tránh gồm: Nguyệt kỵ, Tam nương, Nguyệt tận, Tứ
Những ngày xấu cần tránh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ly, Tứ tuyệt, Kim thần thất sát.

Nhung ngay xau can tranh hinh anh
Ảnh minh họa

1. Nguyệt kỵ

Ngày 5, 14, 23  các tháng âm lịch.

2. Tam nương


Ngày 3, 7, 13, 18, 22, 27 các tháng âm lịch.

3. Nguyệt tận (ngày hối)


Ngày cuối của các tháng âm lịch.

4. Tứ ly


1 ngày trước tiết Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí.

5. Tứ tuyệt


1 ngày trước tiết Lập xuân, Lập hạ, Lâp thu, Lập đông.

6. Kim thần thất sát

- Năm Giáp, Kỷ: ngày Ngọ, Mùi.

- Năm Ất, Canh: ngày Thìn, Tỵ.

- Năm Bính, Tân: ngày Tý, Sửu, Dần, Mão.

- Năm Đinh Nhâm: ngày Tuất, Hợi.

- Năm Mậu, Quý: ngày Thân, Dậu.

Theo Bàn về lịch vạn niên


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những ngày xấu cần tránh

Mơ thấy chim sơn ca: Thành công và niềm vui –

Chim sơn ca trong mơ là tượng trưng của thành công và niềm vui. Chim sơn ca được mệnh danh là ca sĩ rừng xanh. Mơ thấy chim sơn ca dự báo bạn có một vài năng khiếu âm nhạc bẩm sinh. Nếu mơ thấy chim sơn ca đang tung cánh bay, nghĩa là thành công đến
Mơ thấy chim sơn ca: Thành công và niềm vui –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chim sơn ca: Thành công và niềm vui –

Nhà một phòng cần chú ý đặc biệt về phong thủy

Những bạn trẻ ra ở riêng khi chưa có điều kiện tài chính phải sử dụng những không gian ở nhỏ hẹp. Khi chỗ ở mang tính khép kín độc lập (cho cá nhân hoặc gia
Nhà một phòng cần chú ý đặc biệt về phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đình) thì dù rộng hay hẹp cũng vẫn là 1 trường khí thống nhất.

Để tạo nên tiện ích trong sử dụng cũng như hợp phong thủy, cần lưu ý một số vấn đề sau:

1. Phân cung - điểm hướng hợp lý

Thực chất ngôi nhà truyền thống cũng chỉ là 1 phòng lớn, dùng các vách ngăn lửng hay tủ kệ để chia không gian, còn tính chất trường khí vẫn liên tục. Ta có thể bố trí chỗ tiếp khách, ngủ, làm việc... cần có đầy đủ ánh sáng và thông thoáng tự nhiên, nằm về các phương vị tốt.

Có thể sắp đặt lối vào các chức năng phụ như bếp, vệ sinh, dành phần không gian tốt, cửa sổ và cây xanh lùi ra phía sau (các căn hộ dạng studio của Hồng Kông và Singapore được xem xét phong thủy rất kỹ cũng thường bố trí như vậy - hình 1). Chú ý khoảng giữa phòng luôn là Trung Cung, cần giữ thoáng đãng, chung quanh sắp xếp đồ theo chức năng và sự tiện dụng, tránh ăn ngủ ngay tại Trung Cung.

2. Tận dụng chiều cao và giữ trường khí thống nhất

Nhà 1 phòng thường hay thiếu các không gian riêng. Do đó, nếu chiều cao cho phép, bạn nên tận dụng đưa một số phần lên cao như chỗ ngủ hoặc làm việc riêng, kho, tủ thờ... Chỗ cầu thang (nếu có làm gác xép nhỏ) nên tận dụng làm tủ kệ đựng đồ, trang trí.

Một cách tận dụng chiều cao nữa là dùng giường tầng hoặc giường ngủ trên cao, bàn làm việc dưới thấp. Khi đó, trường khí toàn phòng vẫn là một, không bị ngăn cách nhiều. Nhà 1 phòng còn cần phải sử dụng các dạng tủ kệ liên hoàn để giảm diện tích chiếm chỗ, tránh kê nhiều đồ đạc đơn lẻ mà nên tận dụng các ngóc ngách, tủ treo, khung cửa sổ làm nơi chứa đồ và kết hợp trang trí (hình 2).

3. Giảm xung sát

Các xung sát trong nhà 1 phòng thường hay xảy ra do khu phụ và cách mở cửa. Phòng vệ sinh cũng nên đặt cửa ở vị trí kín đáo, tránh sinh hoạt trước phòng vệ sinh. Nhà 1 phòng có thể đưa lavabo ra ngoài kề cận chỗ ngủ, dùng vách kính ngăn nhẹ, còn bồn cầu thì cần phải che chắn kín đáo (hình 3).

1 dạng xung sát nữa là mở cửa vào gặp ngay giường ngủ, việc này cần khắc phục bằng cách sử dụng hệ thống đồ dùng liên hoàn và rèm che di động. Bình phong cũng là vật che chắn xung sát khá hữu hiệu, nên sử dụng để giảm tầm nhìn và gió lùa. Có thể kết hợp bình phong với tủ trang trí để tăng thêm tiện ích (hình 4).

  (Theo Archi)
 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà một phòng cần chú ý đặc biệt về phong thủy

Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Lễ bái hay cúi lạy vái 3 vái là một trong những nghi thức quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của người Việt,nhưng không phải ai cũng hiểu ý nghĩa vái 3 vái
Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lễ bái hay cúi lạy là một trong những nghi thức quan trọng nhất trong đời sống tâm linh của người Việt. Vái 3 vái lạy trước Phật đài mong bình an thanh thản, lạy trước tổ tiên tôn kính nhớ thương, lạy trước thần thánh chứng giám lòng thành. Và như nếp cũ, phong tục vái ba vái, lạy ba lạy được phổ biến tự nhiên, nhưng không phải ai cũng hiểu ý nghĩa vái 3 lạy này.


► Tra cứu: Lịch âm và Lịch vạn niên 2017 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Y nghia vai 3 vai trong doi song tam linh nguoi Viet  hinh anh
 
Vái lạy là hình thức, nghi lễ xuất hiện ở khắp nơi trong đời sống văn hóa người Việt. Người Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, vì thế lễ này cũng có nguồn cơn từ những lễ nghi của đạo Phật.

 

Ý nghĩa vái 3 vái

  Theo Phật giáo, để thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ với Đức Phật chúng Phật tử sẽ chắp tay và cúi đầu lạy sát đất. Khi Phật giáo dần ăn sâu bén rễ vào đời sống người Việt thì nghi lễ lạy này lan dần ra trong các dịp khác như lễ cúng ông bà tổ tiên, lễ cúng các vị thần thánh,….   Tại sao lại là lạy ba lạy? Ý nghĩa vái 3 vái là gì? Ba lạy tượng trưng cho lễ ba ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Một lạy nhớ ơn, kính ngưỡng Đức Phật soi sáng, chỉ đường để chúng sinh thoát khỏi khổ đau luân hồi, tìm thấy an nhiên cực lạc. Hai lạy Pháp – những lời vàng ý ngọc mà Phật truyền tụng lại, nguyện ý thực hiện những lời răn dạy quý báu để hướng tới chân tâm, học Phật soi mình. Ba lạy Tăng dẫn dắt chúng sinh trên con đường đạo, giúp chúng sinh gần gũi, thấu hiểu hơn với Phật pháp.

Y nghia vai 3 vai trong doi song tam linh nguoi Viet  hinh anh 2
 
Ngoài ra, Phật giáo cũng nhấn mạnh, ý nghĩa vái 3 lạy không chỉ lạy Tam Bảo mà còn là lễ chính ba ngôi quý trong mỗi cong người và trong toàn thể chúng sinh. Đó là Phật tính, Pháp tính và Thanh tịnh tính. Ai cũng có Phật tính sáng suốt, Pháp tính từ bi bình đẳng và Thanh tịnh tính hòa hợp. Cung dưỡng những tính ấy chính là cách để học Phật, hướng Phật.   Khi lạy, người đứng thẳng, hai chân nép sát vào nhau, hai tay chắp lại nghiêm trang, thể hiện của sự nhất tâm, chính tà hòa làm một, thiện ác không phân tranh. Khi cúi lạy chắp hai tay trước ngực, đưa cao lên quá đầu rồi từ từ quỳ xuống, đầu cúi sát đất, hai tay mở rộng ra hai bên. Lặp đi lặp lại như vậy 3 lần.   Quan trọng nhất khi lạy vái là thành tâm, giữ tâm thanh tịnh, không mang tới thế sự, không suy nghĩ chuyện nhân sinh. Một lòng hướng về đáng tâm linh, có như vậy mới sở cầu đắc sở nguyện, mọi sự hanh thông, thể hiện đúng tính chất và quy củ của lễ bái.
8 quy tắc dâng hương lễ Phật nên nhớ đừng quên Lễ Cúng cơm trong trăm ngày có ý nghĩa gì?
Tâm Lan

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa vái 3 vái trong đời sống tâm linh người Việt

Chàng trai nào sẽ 'cưa đổ' 12 con giáp nữ

Cô nàng tuổi Chuột thích những bất ngờ mới mẻ, cô nàng tuổi Rồng thích chàng trai tài năng đáng ngưỡng mộ...
Chàng trai nào sẽ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1-7614-1432873824.jpg
2-9956-1432873824.jpg
3-1528-1432873825.jpg
4-5018-1432873825.jpg
Sửu Dần Mão
5-9843-1432873825.jpg
6-4101-1432873825.jpg
7-9861-1432873825.jpg
8-7347-1432873826.jpg
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
9-3938-1432873826.jpg
10-1957-1432873826.jpg
11-5103-1432873826.jpg
12-1467-1432873826.jpg
Thân Dậu Tuất Hợi

Tuệ Anh (theo Diyixz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chàng trai nào sẽ 'cưa đổ' 12 con giáp nữ

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Đặt tên cho Con cần tham khảo

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tên là mệnh, là số mệnh sẽ đồng hành cùng Con và có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe, trí tuệ và vận mệnh của Con sau này. Vì vậy, việc chọn một cái tên để gửi gắm niềm mong đợi, hy vọng cho con của mình là điều rất được coi trọng. Bạn có thể tham khảo một số điều dưới đây trong khi lựa chọn tên cho con.

luu-y-dat-ten-be-2016

Tên đem lại nhiều may mắn cho bé trai sinh năm Bính Thân 2016:

Thân tam hợp với Tý, Thìn. Nếu tên của người tuổi Thân có các chữ trong tam hợp đó thì họ sẽ được sự trợ giúp rất lớn và có vận mệnh tốt đẹp. Mặt khác, Thân thuộc hành Kim, Thủy tương sinh Kim nên những chữ thuộc bộ Thủy cũng rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.

Theo đó, bạn có thể chọn những tên như: Khổng, Tự, Tồn, Tôn, Học, Hiếu, Nông, Thìn, Thần, Giá, Lệ, Chân, Khánh, Lân, Cầu, Băng, Tuyền, Giang, Hồng, Hồ, Tân, Nguyên, Hải…

Rừng cây là nơi sinh sống của khỉ nên những chữ thuộc bộ Mộc rất thích hợp cho người tuổi Thân, ví dụ như: Bản, Tài, Đỗ, Đông, Tùng, Lâm, Liễu, Cách, Đào, Lương, Dương… Nhưng Thân thuộc hành Kim, Kim khắc Mộc nên bạn cần cẩn trọng khi dùng những tên trên.

Những chữ thuộc bộ Khẩu, Miên, Mịch gợi liên tưởng đến nghĩa “cái hang của khỉ” sẽ giúp người tuổi Thân có cuộc sống nhàn nhã, bình an. Đó là những tên như: Đài, Trung, Sử, Tư, Đồng, Hướng, Quân, Trình, Thiện, Hòa, Gia, Đường, An, Thủ, Tông, Quan, Thất, Dung, Nghi, Ninh, Hoành, Bảo, Hựu, Thực, Khoan…

Người tuổi Thân thích hợp với những tên thuộc bộ Nhân hoặc bộ Ngôn bởi khỉ rất thích bắt chước động tác của người và có quan hệ gần gũi với loài người. Những tên gọi thuộc các bộ đó gồm: Nhân, Giới, Kim, Đại, Nhiệm, Trọng, Tín, Hà, Bảo, Hưu, Nghi, Huấn, Từ, Ngữ, Thành, Mưu, Nghị, Cảnh…

Khỉ rất thích xưng vương nhưng để trở thành Hầu vương và có được uy phong thì chúng phải trả giá rất đắt. Do vậy, những chữ thuộc bộ vương như: Ngọc, Cửu, Linh, San, Trân, Cầu, Cầm, Lâm, Dao, Anh… khá phù hợp với người tuổi Thân. Tuy nhiên, bạn nên thận trọng khi sử dụng những tên đó.

Dùng những tên thuộc bộ Sam, Cân, Mịch, Y, Thị để biểu thị sự linh hoạt và vẻ đẹp đẽ của chúng như: Hình, Ngạn, Ảnh, Chương, Bân, Lệ, Đồng, Thường, Hi, Tịch, Thị, Sư, Phàm, Ước, Hệ, Tố, Kinh, Hồng, Duyên… sẽ giúp người tuổi Thân có được vẻ anh tuấn, phú quý song toàn.

Tên hợp phong thuỷ cho bé trai, bé gái sinh năm 2016:

Tên có các bộ thủ Tý, Thìn và Thủy: Tuổi Thân sẽ nằm trong tam hợp với Tý, Thìn. Do đó nếu tên bé cũng có các bộ thủ Tý, Thìn thì vận mệnh sẽ rất tốt đẹp. Cũng vậy, người sinh tuổi Thân thuộc hành Kim nên tương sinh với Thủy. Vì thế, những tên có bộ Thủy sẽ tốt cho bé.

Như vậy, bạn có thể tham khảo những cái tên hợp vận với bé như sau: Nguyên, Hải, Băng, Giang, Tuyền, Khánh, Chân, Học, Nông, Thìn, Giá, Lệ, Tân, Hồ, Cầu, Lân…

Tên có bộ Mộc: Do khỉ rất thích leo cây và thường sống trong những cánh rừng rậm rạp cây cối nên những cái tên có bộ Mộc cũng sẽ rất tốt cho vận mệnh của người tuổi Thân.

Những cái tên mang bộ Mộc có thể kể đến như: Lương, Dương, Đào, Liễu, Tùng, Đỗ, Đông, Tài, Bản,… Tuy nhiên, cần lưu ý rằng người tuổi Thân đồng thời cũng thuộc hành Kim, mà Kim lại khắc Mộc nên khi đặt những cái tên liên quan đến bộ Mộc cũng cần phải thận trọng.

Tên có bộ Miên, Mịch: Từ xa xưa, khỉ cũng thường sống bầy đàn trong những cái hang nên những bộ thủ Miên, Mịch với hình dáng tượng hình gợi nhớ đến những cái hang khỉ cũng rất hợp để dùng đặt tên cho người tuổi Thân với ước muốn cầu mong người này có cuộc sống an nhàn. Theo đó, có thể kể đến những cái tên như: Đài, Thiện, Dung, Bảo, Đường, Gia, Hòa, Tông, Quan, Nghi, Hoành, Hựu, Thực, An, Trình, Hướng, Quân, Tư, Sử, Trung, Quân…

Tên có bộ Nhân, Ngôn: Bởi khỉ là động vật có những hành động gần giống con người nhất nên bộ Nhân hoặc bộ Ngôn gợi nhớ đến khuôn miệng bắt chước của khỉ cũng được dùng để đặt tên cho người tuổi Thân. Có thể kể đến trong số đó những cái tên như: Nhân, Nhiệm, Mưu, Nghị, Nghi, Giới, Đại, Kim, Huấn, Trọng, Ngữ, Thành, Cảnh, Tín, Hà, Bảo…

Tên có bộ Vương: Do truyền thuyết gắn với loài khỉ luôn thấy khỉ xưng thành Hầu Vương nên những chữ thuộc bộ Vương cũng được cho là đem lại may mắn, sung túc cho người tuổi Thân. Những cái tên có thể kể đến như: Dao, Cầm, Ngọc, Cửu, Linh, Cầu, San, Anh, Lâm…

Tên có bộ Sam, Y, Mịch, Cân: Vẻ ngoài đẹp đẽ và linh lợi của khỉ rất thích hợp để mô tả bằng những bộ thủ như Y, Sam, Mịch, Cân. Do đó, những bộ này được đặt cho người tuổi Thân sẽ giúp họ cũng may mắn có được một vẻ ngoài đạo mạo, tuấn tú hay cao sang, quyền quý. Có thể kể đến những cái tên trong số này như: Hồng, Hình, Chương, Ảnh, Thị, Y, Sư, Dao, Ước, Thường, Bân, Lệ, Ngạn, Kinh, Duyên, Tố, Hi…

Những tên không nên đặt cho con sinh năm 2016:

Các chữ thuộc bộ Kim, Dậu, Đoài, Mãnh, Điểu, Nguyệt không phù hợp khi dùng để đặt tên cho người tuổi Thân, bởi những chữ đó đều chỉ phương Tây (thuộc hành Kim).

Theo ngũ hành, Thân thuộc hành Kim; nếu dùng những chữ thuộc các bộ trên để đặt tên cho người tuổi Thân sẽ khiến Kim tụ lại quá nhiều, dễ dẫn đến hình khắc và những điều không tốt. Theo đó, những chữ cần tránh gồm: Kim, Cẩm, Ngân, Xuyến, Nhuệ, Phong, Cương, Chung, Thoa, Trân, Trâm…

Khỉ thích phá hoại các loại ngũ cốc trên đồng ruộng. Vì vậy, những chữ thuộc bộ Hòa, Mạch, Tắc, Mễ, Điền, Cốc như: Do, Giới, Thân, Nam, Đương, Phan, Khoa, Thu, Đạo, Chủng, Tùng, Tú, Bỉnh, Đường, Tinh, Lương, Lượng… không nên dùng để đặt tên cho người tuổi Thân.

Dần và Thân xung nhau, Thân và Hợi (Trư) thuộc lục hại. Do vậy, khi chọn tên cho người tuổi Thân, bạn cần tránh những chữ có liên quan tới các con giáp trên. Vì dụ như: Dần, Xứ, Hổ, Báo, Lư, Hiệu, Hợi, Tượng, Gia, Duyên, Hào, Mạo…

Những chữ thuộc bộ Khẩu cũng nên tránh ví dụ như: Huynh, Cát, Hòa… vì mang ý nghĩa bị kìm hãm. Các chữ như Quân, Tướng, Đao, Lực cũng nên tránh khi đặt tên cho người tuổi Thân.

Để đặt tên cho con tuổi Thân, bạn có thể tham khảo thêm các thông tin về Bản mệnh, Tam hợp hoặc nếu kỹ lưỡng có thể xem Tứ Trụ, (nếu bé đã ra đời mới đặt tên). Có nhiều thông tin hữu ích có thể giúp cho cha mẹ chọn tên hay cho bé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tên cho Con cần tham khảo

Xem tướng: Bí ẩn nốt ruồi hôn nhân tan vỡ –

Vị trí của nốt ruồi này nằm ngay giữa má, biểu hiện cho việc ngoại tình, chia ly,… người có nốt ruồi này sẽ chịu thiệt thòi. Nốt ruồi bị mất người yêu thương Trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều đôi yêu nhau lâu dài và sắp bước đến hôn nhân thì bỗng
Xem tướng: Bí ẩn nốt ruồi hôn nhân tan vỡ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng: Bí ẩn nốt ruồi hôn nhân tan vỡ –

12 cách sử dụng gương tốt theo phong thuỷ có thể bạn chưa biết

Gương nếu được sử dụng đúng cách, có thể là một công cụ tăng cường gấp đôi nguồn năng lượng tốt, thêm sức sống, sự may mắn của những người trong nhà và làm giảm nguồn năng lượng xấu.
12 cách sử dụng gương tốt theo phong thuỷ có thể bạn chưa biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là 12 nguyên tắc cơ bản khi chọn vị trí đặt gương để có thể khai thác được nhiều nhất tác dụng của chúng.

1. Đối với các các cửa hàng: Gương phải đặt sao cho có thể phản chiếu hình ảnh của những đồ vật, sản phẩm, không gian tốt nhất và không bao giờ đối diện với bất cứ đồ vật nào không tốt, đẹp. Lý tưởng nhất là nên đặt chúng ở vị trí có thể phản chiếu hình ảnh khách hàng khi họ bước vào cửa, điều này giúp tăng năng lượng dương, và là điều quan trọng để mang nguồn tài lộc vào cửa hàng của bạn.

2. Đối với không gian làm việc: Gương là một công cụ rất hiệu quả cho tăng gấp đôi nguồn năng lượng tốt tại nơi làm việc. Chúng đặc biệt hữu ích cho các cơ sở bán lẻ và nhà hàng. Nếu đặt một chiếc gương lớn ở gần phía trước của cửa hàng, nó sẽ có hiệu lực trong việc thu hút khách và nếu việc thanh toán tiền cũng được phản ánh trong gương, nó tượng trưng cho sự nhân đôi lợi nhuậntrong kinh doanh.

Tuy nhiên, nếu đặt gương trực tiếp tại bàn làm việc lại đưa đến những ảnh hưởng xấu. Vì điều này chẳng những không mang lại sự phát triển về sự nghiệp mà còn biểu thị số lượng công việc của bạn tăng gấp đôi, gây cảm giác mệt mỏi, áp lực.

3. Đối với không gian sống: Nên đặt gương ở phòng khách và phòng ăn là tốt nhất. Trong những căn phòng này, một tấm gương lớn từ sàn nhà lên tới trần là lý tưởng nhất cho việc tạo cảm giác mở rộng về không gian, điều này luôn được coi là mang lại may mắn.

Hiệu quả sẽ cao hơn, nếu chiếc gương này có thể phản chiếu những hình ảnh dễ chịu của không gian bên ngoài ngôi nhà như những hàng cây xanh, dòng sông, ngọn đồi, mang lại cảm giác về nguồn năng lượng thuần khiết từ thiên nhiên. Hình ảnh những hàng cây lớn mang lại năng lượng tăng trưởng, trong khi hình ảnh núi thể hiện cho các mối quan hệ thân thiết, nước là biểu tượng của sự thịnh vượng.

4. Không đặt gương trong phòng ngủ. Đây là một trong những điều đại kỵ về mặt phong thuỷ nội thất. Hạn chế đặt các đồ có bề mặt phản chiếu trong phòng ngủ, vì chúng sẽ thu hút các nguồn năng lượng không tốt từ bên ngoài vào, gây ra ra những ảnh hưởng xấu đến quan hệ hôn nhân của bạn. Khi gương phản chiếu hình ảnh cặp vợ chồng đang ngủ trong những giờ âm vật ăn đêm, thì họ dễ bị mất đi cảm giác, và năng lượng yêu đương của mình với người kia.

5. Trong nhà, gương được đặt tại khoảng không gian phía sau cửa chính, sẽ có tác dụng mở rộng không gian, tạo đường dẫn cho vận may và các nguồn năng lượng tốt vào nhà. Lưu ý: không đặt gương đối diện thẳng với cửa chính, mà nên đặt tại bức tường bên hông. Gương đặt tại vị trí này không cần quá lớn, mà chỉ cần có kích thước tương đối vừa phải.

6. Mở rộng một không gian nhỏ hẹp chật chội với gương. Những không gian nhỏ hẹp thường tạo cảm giác bức bối, tù túng. Sử dụng gương để tạo hiệu ứng trực quan về một không gian mở rộng là điều rất có lợi. Cố gắng cải thiện năng lượng của các góc hẹp, các căn phòng có diện tích khiêm tốn và các lối đi nhỏ theo cách này.

7.Gương ở khu vực vui chơi giải trí trong nhà của gia đình giúp tăng năng lượng dương và có tác dụng cao trong việc cải thiện các mối quan hệ. Gương để ở khu vực ăn uống cũng sẽ tăng thêm năng lượng dương.

8. Gương không bao giờ được phản chiếu hình ảnh của các hoá đơn, những tờ báo cũ hoặc hình ảnh lửa đang cháy. Vì vậy, khôn nên đặt gương trong văn phòng, nơi tất cả các các loại hoá đơn được đặt trên bàn làm việc trước khi chúng được trả tiền. Điều này tăng gấp đôi các hóa đơn tạo ra năng lượng của các khoản chi phí cao. Tương tự như vậy, gương tốt nhất không đặt trong nhà bếp, nơi phản chiếu ánh lửa là một điều rất không tốt. Và chắc chắn, hình ảnh chồng báo cũ gợi nhắc đến một gia đình luôn sống trong quá khứ.

9. Không bao giờ đặt một tấm gương bị nứt trong nhà bạn. Đây là một trong những điềm cực kỳ xấu đối với ngôi nhà của bạn. Ngay cả việc sử dụng những viên gạch kính lát tường là một ý tưởng tồi, vì điều này tạo ra hình ảnh phản chiếu bị biến dạng của những người sống bên trong nhà.

10. Bên trong các cửa hàng, gương tạo độ sâu của năng lượng. Ở đây, gương có thể phản chiếu hình ảnh các kệ đặt sản phẩm, tăng gấp đôi sản phẩm đang được hiển thị tạo cảm giác hàng hoá phong phú.

11. Gương trên trần nhà có thể tạo cảm giác cao hơn cho trần nhà thấp. Đây là chữa bệnh hiệu quả khi không sử dụng trong phòng ngủ hoặc trên diện tích là quá lớn. Tuy nhiên, nên hạn chế khi sử dụng phương pháp này. Trong một không gian nhỏ, gương có thể thực hiện tốt chức năng này, nhưng trong không gian quá lớn, chúng có thể trở thành một vấn đề Phong thủy.

12. Gương không nên phản chiếu hình ảnh chất bẩn, rác thải. Hãy cố gắng sắp xếp để chúng phản ánh những hình ảnh đẹp nhất như bầu trời trong xanh, dòng sông êm đềm…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 cách sử dụng gương tốt theo phong thuỷ có thể bạn chưa biết

Tìm hiểu về ngũ hành tương sinh

Ngũ hành tương sinh là một trong hai mối quan hệ cơ bản nhất của quy luật ngũ hành tương sinh tương khắc của vạn vật, trong đó vật này nuôi dưỡng vật kia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi nghe nói Ngũ hành tương sinh, ví dụ như Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim thì hiểu nôm na là hành này bồi đắp, nuôi dưỡng cho hành kia được lớn mạnh và phát triển. Chẳng hạn hành Kim nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Thủy lớn mạnh và phát triển, hành Thổ nuôi dưỡng và bồi đắp cho hành Kim lớn mạnh và phát triển...

Quan hệ tương sinh của Ngũ hành được mô tả theo sơ đồ sau:

ngũ hành tương sinh

Giải thích về ý nghĩa của Ngũ hành tương sinh, có thể hiểu đơn giản như sau:

  • Mộc sinh Hỏa: Mộc là cây cối, có Hỏa ẩn phục bên trong, xuyên thủng Mộc sẽ sinh ra Hỏa. Vì thế mới nói Mộc sinh Hỏa.
  • Hỏa sinh Thổ: Hỏa đốt cháy cây cối thành tro, tức là Thổ. Vì thế mới nói Hỏa sinh Thổ.
  • Thổ sinh Kim: Kim bị vùi lấp trong đất đá nên có Thổ tất có Kim. Vì thế mới nói Thổ sinh Kim.
  • Kim sinh Thủy: Khí của Kim chảy ngầm trong núi, hoặc nhiệt độ làm kim loại nóng chảy. Vì thế mới nói Kim sinh Thủy.
  • Thủy sinh Mộc: Nhờ có nước mà cây cối sinh trưởng được nên mới nói Thủy sinh Mộc.

Khi tìm hiểu về nguyên lý của Ngũ hành, cũng cần lưu ý một điều: Không phải cứ tương sinh là được tốt, mà phải hiểu Ngũ hành tương sinh được coi như là tốt giữa hai hành đó với nhau.

Trong mối quan hệ tương sinh đó sẽ có hai tình trạng sinh xuất và sinh nhập chứ không thể cùng tình trạng là sinh xuất hay sinh nhập. Có nghĩa, sự tương sinh chỉ có tính chất một chiều.

 Chẳng hạn: Kim sinh Thủy chứ Thủy không sinh Kim, Thổ sinh Kim chứ Kim không sinh Thổ.

Cũng có quan điểm cho rằng, sự tương sinh sẽ diễn ra hai chiều. Chẳng hạn: Mộc sinh Hỏa và Hỏa cũng có thể sinh Mộc. Quan điểm này được lập luận: Thủy sinh Mộc bởi nước đã giúp đất bớt khô, làm cho cây cối sinh trưởng tốt, còn Hỏa làm cho trời nóng, cây cối khỏi cóng rét nên cũng có thể nói Hỏa sinh ra Mộc. Quan điểm này không thực tế bởi cách lập luận như thế thật hết sức miên man, khiên cưỡng nên không thuyết phục.

Quan hệ sinh một chiều sẽ dẫn đến có sự khác biệt giữa hai hành trong mối tương sinh đó. Cái này sinh cho cái kia thì đó là sự sinh xuất, có nghĩa tình trạng sinh xuất sẽ thể hiện sự thua thiệt, vất vả để phù trợ cho cái được sinh (tình trạng sinh nhập). Cái này được sinh do cái kia sẽ được lợi, được phù trợ do cái kia đem lại. Hiểu nôm na, đơn giản: hành sinh xuất là cha mẹ, hành được sinh là con cái. Vì cha mẹ sinh ra con cái nên hết lòng vì con cái, bồi đắp và nuôi dưỡng cho con cái phát triển, còn con cái, được cha mẹ sinh thành, dưỡng dục nên người, sau này sẽ báo đền ơn nghĩa của cha mẹ, tuy nhiên, sự báo đáp đó không thể ngang bằng với công lao trời biển của bố mẹ.

So sánh như vậy để bạn đọc dễ hình dung về mối quan hệ Ngũ hành tương sinh, dễ đưa ra lời kết luận khi nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là trong văn hóa tín ngưỡng như Tử vi, Lý số...

Trong quan hệ vợ chồng, sự tương sinh giữa hai bản mệnh là rất cần thiết vì có sự tương sinh thì vợ chồng mới yêu thương, hòa thuận, mới cùng nhau vun đắp cuộc sống gia đình được viên mãn. Tuy nhiên, bản mệnh của người vợ phải ở tình trạng sinh xuất cho bản mệnh của người chồng thì sự tương sinh ấy mới thật sự là tốt đẹp, hoàn mỹ. Sự sinh xuất đó sẽ giúp người chồng gặp nhiều may mắn, con đường công danh, sự nghiệp của người chồng sẽ ít gặp những trắc trở, hoặc nếu có gặp thì sẽ dễ dàng vượt qua. Trường hợp này, dân gian gọi là người có số vượng phu ích tử. Ngược lại, bản mệnh người vợ được sinh nhập từ bản mệnh của người chồng thì người vợ sẽ được người chồng yêu thương, chở che, bao bọc. Vì ở tình  trạng sinh xuất nên người chồng không nhận được sự giúp đỡ của vợ, dù chỉ là “nhờ lộc tuổi của vợ” ... Dù sao, bản mệnh của hai vợ chồng rất cần có sự tương sinh về ngũ hành để cuộc sống gia đình được hạnh phúc.

Vì có tính chất Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành nên khi nói đến tương sinh, cần chú ý đến nguyên tắc về Âm - Dương của 2 hành tương sinh đó. Sự tương sinh chỉ sảy ra khi hai hành đó có  tính chất Âm (-), Dương (+) khác nhau, ví dụ:

  • Âm Kim sinh Dương Thuỷ (Đ)
  • Dương Thổ sinh Âm Kim (Đ)

chứ nhất quyết không có chuyện:

  • Âm Kim sinh Âm Thuỷ (S)
  • Dương Thổ sinh Dương Kim (S)

Có quan điểm cho rằng: Sự tương sinh chỉ sảy ra một chiều, theo hướng khí Âm (-) sinh khíĐương (+), chứ không thể khí Dương (+) sinh khí Âm (-). Chẳng hạn: cùng là Thổ và Kim nhưng chỉ có Âm Thổ sinh Dương Kim, chứ Dương Thổ không sinh được Âm Kim. Quan điểm này không chấp nhận được vì đã hiểu không đúng về nguyên lý Âm Dương trong dịch lý. Cổ nhân nói: Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, Âm cực sinh Dương và Dương cực sinh Âm. Ví dụ: Không khí là Dương, nước là Âm. Trong không khí (Dương) có hơi nước (Âm) và trong nước (Âm) có bọt khí (Dương).

Dịch lý cho rằng: Âm Dương thuận lý (tức là khí Âm (-) và khí Dương (+) dung nạp, hòa hợp nhau) để biến sinh ra vạn vật, con người. Triết lý Âm - Dương khẳng định: Âm và Dương là hai thực thể ngoại tại, tự thân chuyển hóa lẫn nhau. Ví dụ: Không khí khi gặp lạnh sẽ tạo thành mưa, nước khi gặp nóng sẽ bốc hơi tạo thành khí; hoặc hết ngày thì đến đêm, hết mưa thì sẽ nắng.... Vì thế, quan điểm cho rằng chỉ có khí Âm (-) mới sinh được khí Dương (+) còn khí Dương (+) không thể sinh được khí Âm (-) là sai với thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Bên cạnh việc căn cứ vào Âm Dương của Ngũ hành, cần phải cân nhắc, xem xét đến yếu tố thứ 3 là bản chất lý tính của Ngũ hành (tức nạp âm thủ tượng, còn gọi nạp âm ngũ hành) của các hành đó để đưa ra kết luận: Thực chất mối quan hệ tương sinh của các hành đó như thế nào? Không thể cứ thấy đặc tính Ngũ hành tương sinh là khẳng định luôn các hành đó tương sinh, cũng không thể chỉ thấy thuận lý Âm (-) Dương (+) thì cho rằng như thế là được.

Biết rằng Thủy sinh Mộc nhưng phải biết đó là Thủy gì, Mộc gì ... chứ không thể cứ thấy Thủy với Mộc là khẳng định đó là tương sinh. Phải biết bản chất lý tính của các hành đó là gì để căn cứ mà luận giải. Chẳng hạn Bình Địa Mộc (Mậu Tuất - Kỷ Hợi: Cây đất bằng) rất cần có Thiên Hà Thủy (Bính Ngọ - Đinh Mùi: nước mưa trên trời) tưới xuống để tốt tươi, lớn mạnh, ngược lại, nếu Bình Địa Mộc gặp Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất - Quý Hợi: Nước biển rộng) thì cây non mới đâm cành trổ lá làm sao mà tồn tại nổi.

Tương tự như vậy, khi nói Hỏa sinh Thổ cũng không thể hiểu Hỏa nào cũng sinh được Thổ, ví dụ, Thiên Thượng Hỏa (Mậu Ngọ - Kỷ Mùi: Lửa trên trời) không sinh được Bích Thượng Thổ (Canh Tý - Tân Sửu: Đất trên vách) mà còn làm cho Bích Thượng Thổ bị hủy diệt.

Ngay cả khi bản chất lý tính của Ngũ hành được tương sinh nhưng chắc chắn sẽ có ý kiến khác nhau, thậm chí còn trái ngược. Chẳng hạn, lấy tuổi Mậu Tuất với tuổi Bính Ngọ làm ví dụ.

  • Ý kiến thứ nhất cho rằng rất đẹp vì được tương sinh hai cấp độ (đặc tính và lý tính).
  • Ý kiến thứ hai cho rằng không được đẹp lắm vì không thuận lý Âm Dương.
  • Ý kiến thứ ba cho rằng bình thường, vì Ngũ hành từ khí mà ra nên Âm (-) Dương (+) là quan trọng. Dù được tương sinh ở 2 cấp độ nhưng sự nghịch lý Âm (-) Dương (+), coi như vứt bỏ.

Đây chính là sự phức tạp của thuyết Âm Dương Ngũ hành, làm cho người mới tìm hiểu, tiếp cận với Lý số học sẽ như lạc vào một trận đồ bát quái, khó tìm được đường ra.

Như vậy, mối quan hệ tương sinh của Ngũ hành không đơn giản như cách hiểu nôm na theo sơ đồ tương sinh đã nêu ở trang trước, mà khá phức tạp. Cũng lưu ý rằng, khi tìm hiểu về Ngũ hành tương sinh, bạn đọc nhất định phải chú ý đến 3 yếu tố sau:

  1. Đặc tính của Ngũ hành và tình trạng sinh xuất - sinh nhập.
  2. Tính chất Âm - Dương của Ngũ hành.
  3. Bản chất lý tính của Ngũ hành (còn gọi là nạp âm Ngũ hành).

Trong dân gian, có quan điểm cho rằng chỉ cần yếu tố thứ (3) là đủ, không cần thiết phải thêm 2 yếu tố (1) và (2), vì như thế chỉ thêm phức tạp, rối rắm. Nhưng cũng có quan điểm lại chú trọng tới yếu tố (1) và (2), bỏ qua hoàn toàn yếu tố nạp âm của Ngũ hành vì cho rằng như thế chỉ tăng thêm sự rối ren không cần thiết. Theo quan điểm của chúng tôi, sự kết hợp cả 3 yếu tố là điều cần thiết, không nên coi nhẹ bất kỳ yếu tố nào.

Chúng ta đều biết nạp âm Ngũ hành là sự phân chia ra 30 hành chi tiết của 5 hành cơ bản, để giải thích những sự phức tạp của quá trình sinh - khắc một cách hợp lý hơn khi áp dụng năm sinh để dự báo sự xung - hợp của tính tình con người.

Chúng tôi nghĩ rằng: Trong các trường hợp, khi bản chất lý tính của ngũ hành được xác định rõ ràng (nạp âm ngũ hành), thì sự kết hợp cả 3 yếu tố để luận giải sẽ tăng thêm độ chính xác, tin cậy của lời giải đoán, nhưng trong các trường hợp khác, khi lý tính của ngũ hành không thể xác định thì việc cân nhắc 2 yếu tố (1) và (2) là điều tiên quyết. Chẳng hạn, khi luận giải về giá trị của các sao trong lá số tử vi, người luận giải đương nhiên phải căn cứ vào đặc tính ngũ hành của các sao và vị trí Âm Dương của các sao để đưa ra lời kết luận. Trong những trường hợp như vậy, chỉ chú trọng tới yếu tố thứ 3 sẽ làm cho người đoán giải hoàn toàn rơi vào bế tắc.

Chúng tôi đưa ra nguyên tắc hội tụ 3 yếu tố trên để bạn đọc linh hoạt trong từng trường hợp. Chúng tôi cũng sẽ không đề cập lại vấn đề này khi bàn về Ngũ hành tương khắc, tương hòa hay quy luật chế hóa của Âm Dương ngũ hành ở những trang sau.


(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến, nxb Thanh Hóa)

tử vi kiến giải

Bài viết được tác giả gửi đến trang nhà Xem Tướng chấm net, tháng 9 năm 2015

Một số sách của tác giả Đặng Xuân Xuyến đã xuất bản như:

  • Tử Vi Kiến Giải - nxb Thanh Hóa
  • Tử Vi Vấn Đáp - nxb Thanh Hóa
  • Vào chùa lễ Phật, những điều cần biết - nxb Văn Hóa Thông Tin
  • Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng trong dân gian - nxb Thanh Hóa
  • Điềm báo và kiêng kỵ trong dân gian - nxb Lao Động - Xã Hội
  • Khám phá bí ẩn con người qua bàn tay - nxb Thanh Hóa

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tìm hiểu về ngũ hành tương sinh

Cách xem vận năm 2014 của bạn trong lá số tử vi (phần 1)

Xem tiểu vận, tiểu hạn trong lá số tử vi là vận hạn tốt xấu trong một năm, được dùng như một yếu tố phụ họa với Đại vận để định đến năm nào thì được tốt về

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiểu vận trong tử vi 

Tiểu vận hay tiểu hạn là vận hạn tốt  xấu trong một năm, được dùng như một yếu tố phụ họa với Đại vận để định thời gian cho đương số trong một Đại vận, đến năm nào thì được tốt về công danh, sự nghiệp, thi cử, thành hôn, sinh con, hay là gặp họa .Tiểu vận của năm được hiển thị ở góc trái cuối cùng của một cung trong lá số tử vi

ví dụ: tiểu vận năm giáp ngọ 2014 , xem trong lá số tử vi của bạn, cung nào có từ Ngọ ở góc trái dưới cùng thì cung đấy là cung hiển thị tiểu vận trong năm 2014 của chính bạn.

Sau đây là các yếu tố của tiểu vận:

- Hàng Can của niên vận so với Can năm sinh

- Hành của cung tiểu vận so với hành Mạng

- Những năm ấn định trước là năm hạn, năm xung, nhưng năm hạn tam tai.

- Các sao trong tiểu vận (cho biết tốt xấu về chi tiết)

1. Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi

Kinh nghiệm của Cụ Thiên Lương cho hàng Can của niên vân, so sánh với hàng Can của tuổi, là quan trọng nhất, xấu hay tốt ở đó mà ra. Như gặp Đại vận suy thoái (Thiên Không) hay Đại vận chết, tai hoạ thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận khắc Can tuổi. Gặp Đại vận tôt, việc tốt thường xảy ra vào năm hàng Can niên vận sinh cho Can tuổi.

Lấy thí dụ tuổi Kỷ, Sửu, Kỷ là Thổ. Vậy thì năm nào có hàng Can sinh cho Thổ tức là có Can Hỏa, thì năm ấy tốt, có việc tốt xảy ra: Ẩy là các năm Bính và Đinh. Hai năm cùng tốt, nhưng Đinh tốt hơn Bính, vì Đinh và Kỷ là Âm; khác Âm Dương như Bính và Kỷ, thì mặc dù Bính sinh Kỷ, cái tốt cũng kém đi.

Năm nào hành Can bị hành năm sinh khắc được, thì năm ấy cũng tốt nhưng chỉ tốt vừa, vì Mệnh khắc được Can niên vận tức là mình thắng được hoàn cảnh. Vậy đối với tuổi Kỷ Sửu, thì Kỷ (Thổ) chế ngự được 2 năm Nhâm và Quý (Thủy). Cùng Âm Dương ửù tốt hơn là khác Âm Dương. Vậy đối với Kỷ, năm Quý tốt hơn năm Nhâm.

Còn năm nào mà hàng Can khắc Can năm sinh thì năm đó gặp sung bại, khó khăn. Đối với tuổi Kỷ (Thổ), các năm Giáp, Ất (Mộc) là năm suy bại, vì Mộc khắc Thổ. Cùng Âm Dương thì xấu hơn.

Các năm mà hàng Can của tuôi sinh cho Can niên vận, thì đó là vận sinh xuất mệt nhọc, chịu đựng. Như hai năm Canh và Tân (Kim) của tuổi Kỷ (Thổ) vì Thổ sinh Kim.

Các năm mà Can đồng hành với Can tuổi, thì bình (trung bình, không xấu, không tốt).

Ta có bảng sau:

Can năm vận sinh Can tuổi

Tốt nhất

Can tuổi khắc Can năm vận

Tốt nhì

Can năm vận hoà Can tuổi

Bình

Can tuổi sinh Can năm vận

Mệt nhọc, kém

Can năm vận khắc Can tuổi

: Xấu, suy bại

 

ảnh hưởng tốt hay xấu mạnh hơn khi hai Can cùng Âm Dương, kém hơn khi hai Can khắc Âm Dương.

2.Hành của cung Niên vận so với hành Mạng

Trong tử vi yếu tố Hành của cung Niên vận so với hành Mạng kém hơn yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi  thường dùng để vớt vát nếu gặp xấu trong yếu tố Hàng Can của niên vận so với hàng Can của tuổi

Có mấy trường hợp:

- Hành của cung Tiểu vận sinh cho hành Mạng: Tốt nhất

Thí dụ: Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Mão thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa, -> vậy tốt.

- Hành của cung tiểu vận bị hành Mạng khắc: Tốt nhì

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Thủy, tiểu vận đến cung Ngọ thuộc Hỏa, Thủy khắc Hỏa, -> vậy là khá.

- Hành của cung tiểu vận là hành của Mạng: Bình

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Kim, tiểu vận đến cung Thân thuộc Kim, -> vậy là năm bình

- Hành của cung tiểu vận được hành của Mạng sinh (sinh xuất): xấu

Thí dụ: trong tử vi Người mạng Mộc, tiểu vận đến cung Tỵ thuộc Hỏa, Mộc sinh Hỏa, -> vậy là tiểu vận xấu.

 - Hành của cung tiểu vận khắc hành của Mạng (khắc nhập): xấu

Thí dụ:trong tử vi  Người mạng Hỏa, tiểu vận đến cung Tý thuộc Thủy, Thủy khắc Hỏa, -> vậy là tiểu vận xấu.

3. Năm xung, Năm hạn, Hạn tam tai

- Năm Xung

Năm Xung là năm hay có nhừng khổ khăn cản trở, các việc trố nên khó.

- Năm Hạn

Năm Hạn là năm hay có những vận hạn, những tai hoạ, lớn nhỏ còn tùy có sao nặng hay không, và có sao giải hay không.

- Hạn Tam Taỉ

Hạn Tam Tai chỉ về các năm hạn gặp những hoạ hại thuộc mọi loại như thất tài, táo tài, làm ăn thua lỗ, ốm đau, tai nạn, cháy nhà, nạn sông nước, thi trượt, mất việc - tai hoạ nào thì có sao ứng vào chi tiết, nhưng cũng còn tùy tiểu vận xấu hay tốt theo yếu tố" 1 (tiểu vận tổt hoặc có sao giải cứu có thể thoát được tai hoạ).

Bạn có thể xem tiếp Phần 2 tại đây : Xem tiểu vận trong tử vi

Bạn có thể lấy lá số tử vi bằng tiện ích tra cứu : Xem tu vi

Bạn có thể xem thêm các tuổi khác bằng tiện ích tra cứu:  Xông đất đầu năm 2014

Bạn có thể xem thêm màu sắc phong thủy bằng tiện ích tra cứu : Xem phong thuy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem vận năm 2014 của bạn trong lá số tử vi (phần 1)

Cát, hung của thái tuế

Theo Lục thập hoa giáp, tên của mỗi năm được gọi là lưu niên, bao gồm thiên can và địa chi. Ví dụ: Năm 1991 là năm Tân Mùi thì Tân Mùi chính là lưu niên, bao
Cát, hung của thái tuế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo Lục thập hoa giáp, tên của mỗi năm được gọi là lưu niên, bao gồm thiên can và địa chi. Ví dụ: Năm 1991 là năm Tân Mùi thì Tân Mùi chính là lưu niên, bao gồm thiên can Tân và địa chi Mùi.

Xét riêng địa chi (Mùi) của lưu niên (Tân Mùi) thì gọi là thái tuế của lưu niên, gọi tắt là thái tuế. Thái tuế là thiên tử của một năm, nắm quyền sinh sát của năm.

(Ảnh minh họa)

Thái tuế là vua, là không thể bị xúc phạm. Nếu xúc phạm thái tuế, nhẹ thì bị họa nhiều lần, nặng thì có thể gặp họa sát thân. Cho nên mới có câu: “Thái tuế rơi vào năm nào, nếu bị phạm sẽ mang họa”.

Trong dự đoán tứ trụ, thái tuế không được bị xúc phạm, tức là thiên can và địa chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh không được phát sinh các trường hợp hình, xung, khắc, hại thái tuế, nếu không thì người đó sẽ khó tránh khỏi tai họa.

Sự hình, xung, khắc, hại thái tuế có phân biệt nặng, nhẹ.

Một loại là thái tuế khắc tôi (tôi ở đây là tháng, ngày hoặc giờ sinh) và một loại là tôi khắc thái tuế.

- Thái tuế khắc tôi tức là trên khắc dưới, hoàng đế thống trị thần dân thiên hạ, cha quản giáo con cái, cấp trên quản cấp dưới, là thuận theo lẽ thường. Cho dù không vừa lòng nhưng chỉ cần không xâm phạm, không kháng lại thì có gặp nạn cũng qua. Cho nên trường hợp thái tuế khắc tôi thì hại nhẹ.

- Tôi khắc thái tuế tức là dưới phản trên, là con đánh cha, thần dân phản vua, phạm tội bất hiếu, phạm thượng, nhẹ ra thì bị thương, mất của, nặng thì có thể bị lao tù, mất mạng. Do đó hình, xung, khắc, hại thái tuế sẽ có nạn lớn.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cát, hung của thái tuế

Dịch lý và lý dịch

Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu. Từ triết lý về sự biến dịch đó mà Tiền Nhân đã khám phá ra cái Lý Đồng Nhi Dị hay Dị Nhi Đồng nghĩa là Lý Giống Mà Khác hay Khác Mà Giống. 

Lý  Dịch là gì?

Lý Dịch là cái lý lẽ nói về sự dịch chuyển, biến đổi của mọi thứ trong Vũ Trụ từ vô hình đến hữu hình. Là môn triết học lâu đời nhất của loài người nói về sự vận hành của mọi thứ trong khắp hoàn cầu. Từ triết lý về sự biến dịch đó mà Tiền Nhân đã khám phá ra cái Lý Đồng Nhi Dị hay Dị Nhi Đồng nghĩa là Lý Giống Mà Khác hay Khác Mà Giống. Rồi Tiền Nhân đặt cho cái danh chung của Giống và Khác là Âm và Dương hoặc ngược lại, gọi là TRIẾT LÝ ÂM DƯƠNG. Với Triết lý Âm Dương này Tiền Nhân đã suy luận ra định luật 8 gọi là Bát Quái và 64 Tượng Dịch (Quẻ Dịch) đủ sức diễn tả mọi trạng  thái biến hoá của Vũ Trụ.

Lý Dịch là một cái lý vô hình nay được Tiền Nhân định danh và hữu hình hóa ra các vạch đứt liền và tìm ra công thức Biến Hoá Luật, lập thành môn khoa học lý  luận hẳn hoi về Dịch nên gọi tên là Dịch Lý. Mà Lý Dịch có mặt ở khắp mọi ngành nghề khoa học nên Dịch Lý xứng đáng là môn Khoa Học Tổng Hợp.

KINH DỊCH là gì? Là lời diễn giải ý nghĩa của 64 Quẻ Dịch theo góc nhìn riêng của từng thế hệ đã qua.

Dịch Lý có ảnh hưởng gì trong đời sống và quyết định của con người? 

Con người luôn sống động trong cái lý của Dịch. Nói cách khác mọi hoạt động của con người đều bị và được Lý Dịch chi phối, từ lý trí, tư tưởng cho đến hành động, từ chủ quan đến khách quan, từ các giai đoạn sinh trưởng của con người như: Sinh – Lão – Bệnh – Tử…

Mọi quyết định và hành động của con người đều bị và được chi phối của Dịch Lý. Ngay cả đại thi hào Nguyễn Du đã đúc kết ngắn gọn nói lên điều này:

“…Ngẫm hay muôn sự tại trời,

 Trời kia đã bắt làm người có thân.

 Bắt phong trần phải phong trần,

 Cho thanh cao mới được phần thanh cao…”

“Phong trần và thanh cao” đâu phải ai muốn cũng được hoặc ai tránh cũng được. Vì trong cuộc sống ta luôn giao dịch với các yếu tố khách quan của xã hội bên ngoài mà ta thường hay nói là Hên hoặc Xui khi yếu tố khách quan thuận ý ta hoặc nghịch ý ta.

Ngoài ra còn có câu: “Mưu sự tại nhân mà thành sự tại thiên”. Cũng nói lên sự ảnh hưởng của Lý Dịch ở môi trường bên ngoài trực tiếp can thiệp mọi quyết định tính toán và hành động chủ quan của con người.

Biết Dịch Lý là biết nhiều góc nhìn để uyển chuyển, linh động trong cuộc sống hơn:

Trong cuộc sống của con người luôn trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm biến dịch mà các tình huống ta gặp phải không phải lúc nào ta cũng lựa chọn được. Từ đó Tiền Nhân mới khuyên:

-       “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài

Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”

- “Nhập giang tuỳ khúc – Nhập gia tuỳ tục”

Mỗi người ai cũng có một tính riêng biệt, tuy nhiên đôi lúc ta phải biết thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh gặp phải để tốt hơn.

Biết Dịch Lý là để Tri thiên mệnh rồi Tận nhân lực:

Tri Thiên Mệnh là biết được giai đoạn Số mệnh và Thời vận như thế nào, để ta tận hết sức của mình mà hành động sao cho tốt nhất. Đây là cái biết của trí tuệ loài người. Cái biết này đã được nhân gian nhắc đến qua Ca Dao Việt Nam:

“Người ta đi cấy lấy công,

Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề.

Trông trời, trông đất, trông mây,

Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm.

Trông cho chân cứng đá mềm,

Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng”.

Bởi nắng mưa là chuyện thời mùa khí tiết của Trời Đất là yếu tố hết sức khách quan, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến trồng trọt của nhà nông. Ca dao đã mượn hình ảnh “Đi cấy” không phải chỉ đển “Đi cấy” mà còn phải nhìn xa trông rộng, để biết sự vận hành biến đổi của nắng mưa sấm sét mà biết thời điểm để “gieo hạt – cày cấy” sao cho đúng lúc mưa thuận gió hòa để có mùa thu hoạch tốt nhất.

Biết Dịch Lý để chọn lựa và đưa ra giải pháp tốt nhất trong đời sống.

Với Dịch Lý ta biết được từng giai đoạn đang và sẽ đi qua được diễn tiến như thế nào,  từ đó ta có sự lựa chọn và đưa ra giải pháp thích hợp  mà quyết định và hành động một cách tốt nhất.

Biết Dịch Lý là ta biết được một ngôn ngữ chung của muôn loài vạn vật, nhằm hòa nhịp cùng giai điệu của Vũ Trụ. Một cuộc sống Biết – Hiểu – Cảm và Nhận, một tinh thần An nhiên – Tự tại – Hạnh phúc.

THANH TỪ – DỊCH HỌC SĨ: TRẦN QUỐC THÁI


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dịch lý và lý dịch

Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Con người đã tạo ra ghế cây từ một băng ghế để kết hợp hài hòa với cây xanh. Khi con người muốn làm mới khu vườn nhưng vẫn giữ lại cây xanh, ghế cây được nghĩ tới nhiều hơn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là những thiết kế ghế đẹp mắt, ấn tượng và gần gũi nhất khiến cho sân vườn của gia đình bạn tỏa sáng.

sân vườn 
Bạn có thể giữ lại cây và làm băng ghế bao quanh thay vì phải chặt bỏ
các cây xanh để quy hoạch lại sân vườn

sân vườn đẹp 
Ghế cây là một sự kết hợp hoàn hảo

Bạn có thể ngồi ở ghế băng ngằm nhìn thiên nhiên và thưởng thức vẻ đẹp thời tiết trong khi cây cối tỏa bóng mát, mọi thứ được hòa quyện thật hài hòa.

sân vườn độc đáo 

Để làm đẹp sân vườn, bạn có thể sử dụng nhiều hình dạng và kiểu dáng cho thiết kế chiếc ghế cây. Ghế lục gác thường được ưa thích hơn cả bởi nó dễ dàng lắp ghép với nhau.

sân vườn ấn tượng 

Tuy nhiên, nếu muốn độc đáo và ấn tượng hơn, bạn có thể chọ các thiết kế khác. Đơn cử như chiếc ghế hình xoắn ốc được tạo ra bao quanh cái cây này.

sân vườn thoáng 

Nếu cái cây của nhỏ, bạn vẫn có thể tận dụng và xây ngay một cái ghế xung quanh nó. Tuy nhiên, bạn nên lưu ý để cái ghế cách cây một khoảng rộng đủ lớn để cây phát triển lên trong tương lai.

sân vườn lung linh 
Bạn tìm ngay được cái ghế để dựa lưng vào nghỉ ngơi nếu đang ở giữa khu vườn
và sân sau căn nhà, thật tuyệt vời phải không nào

sân vườn hiện đại 

Bạn hãy tìm những băng ghế hình dạng thích hợp nếu muốn đơn giản và hiện đại hơn. Ví dụ, một chiếc ghế hình vuông, đơn giản, bằng phẳng bao quanh cây.

sân vườn rộng 

Tuy nhiên, làm sao với một ngôi nhà sàn cao như thế này? Chẳng có gì thay đổi trên thực tế cả. Bạn vẫn để cái cây ở giữa sàn và đặt một chiếc ghế bằng gỗ bao quanh cây xanh.

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngắm sân vườn tuyệt đẹp với ghế cây độc đáo

Người tuổi Mùi và người tuổi Tuất có hợp nhau?

Tuổi Mùi và tuổi Tuất có đôi chút không hợp nhau. Tuy nhiên, Tuất rất khéo léo trong cách cư xử nên không có vấn đề gì lớn cản trở mối quan hệ của 2 người.
Người tuổi Mùi và người tuổi Tuất có hợp nhau?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mùi và Tuất có đôi chút không hợp nhau. Tuy nhiên, Tuất rất khéo léo trong cách cư xử nên không có vấn đề gì lớn cản trở mối quan hệ của 2 người.

Mùi và Tuất có sự khác biệt về khả năng và sở thích. Mùi thích độc lập, không muốn dính líu đến mối quan hệ xã hội rắc rối. Mùi thấy hạnh phúc và thoải mái với lối sống mơ mộng của mình. Ngược lại, Tuất là người sống thực tế: thích giao lưu bạn bè và không ngừng phát triển thêm các mối quan hệ. Tuất có xu hướng chọn những người bạn có năng lực.

(Ảnh minh họa)

Khi yêu nhau, cả 2 sẽ gặp khó khăn trong việc sử dụng quỹ thời gian chung. Tuất cảm thấy không thể kiên nhẫn được với sự mơ mộng của Mùi. Tuất có đầu óc thực tế và thích các hoạt động liên quan đến thể chất (thậm chí chỉ đơn giản như làm vườn). Là người sống nguyên tắc nên Tuất biết cách điều chỉnh cảm xúc để không trở thành nhỏ nhen, ích kỉ với Mùi. Trong khi đó, Mùi lại rất biết cách làm cho người yêu hạnh phúc bằng sự chăm sóc ân cần như nấu những bữa ăn ngon hay tạo ra những niềm vui nho nhỏ. Tuất rất xúc động vì cảm thấy mình được quan tâm đặc biệt. Tuy vậy, do bản tính đa cảm, hay lo lắng và dễ bị kích động nên đôi khi Mùi dễ bị rơi vào trạng thái đau khổ tột cùng.

Khi là bạn làm ăn kinh doanh, Mùi và Tuất có thể hỗ trợ nhau rất tốt. Với tài ngoại giao, Tuất có thể là người đại diện cho công ty trong công việc giao thiệp với khách hàng. Tuất coi trọng chữ tín nên Mùi hoàn toàn có thể tin tưởng vào sự chân thật của người bạn đồng hành. Mùi luôn thích vai trò lãnh đạo để có thể vận dụng tốt sự nhạy bén của mình. Do đó, nên để Mùi điều hành trong kinh doanh, vạch ra những ý tưởng, kế hoạch và Tuất là người thực thi.

(Theo Zing)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi và người tuổi Tuất có hợp nhau?

Cắt tiền duyên đúng hay sai?

Một số trai thanh nữ tú muộn tuổi dựng vợ gả chồng, đi xem bói, các thầy phán rằng do duyên âm với người kiếp trước còn nặng. Không ít người phải đi "cắt tiền duyên" để mong xây dựng được gia đình. “Cắt Tiền Duyên” là việc tìm hiểu kiếp trước mình còn nợ tình ai đó, kiếp này “người ta” nấn ná, dùng dằng theo mình.
Cắt tiền duyên đúng hay sai?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Không ít người phải đi "cắt tiền duyên" để mong xây dựng được gia đình. 

Một số trai thanh nữ tú muộn tuổi dựng vợ gả chồng, đi xem bói, các thầy phán rằng do duyên âm với người kiếp trước còn nặng. Không ít người phải đi "cắt tiền duyên" để mong xây dựng được gia đình… Dân gian cho đó là "Duyên âm", "tình duyên" từ kiếp trước… Vậy giải thích về điều này như thế nào?

Hầu hết ai cũng có tiền duyên 

Khi sống, hầu hết con người ta ai cũng có tình cảm khác giới. Ngoài tình cảm vợ chồng thì còn có những mối tình nam nữ. Nhưng vì một lý do nào đó mà họ không thành vợ chồng hoặc là vợ chồng rồi nhưng không được ở lâu dài với nhau... Vì thế, ai cũng có sự nhớ thương hoặc nếu bị phản bội, đối xử quá tệ bạc thì sẽ trở thành hận tình.

Mỗi chúng ta đã sống ở trần tục này bao nhiêu kiếp? Trong tất cả các kiếp ấy chúng ta đã gặp bao nhiêu mối tình sâu nặng mà mãi mãi không bao giờ quên được? Tình yêu có sức mạnh vô biên, sức mạnh ấy đưa những linh hồn này đi tìm người mà mình yêu hiện đang sống ở trần tục để giúp đỡ hoặc cản trở, phá hoại (ghen) để người trần tục không thể lấy chồng hoặc lấy vợ được. Nếu người trần tục vẫn lấy chồng hoặc lấy vợ được thì tìm cách phá hoại hạnh phúc của đôi vợ chồng này.

Từ trước đến nay người trần tục chỉ nghĩ rằng, những người không lấy được vợ hoặc chồng hay rất khó khăn trong việc tìm vợ tìm chồng thì mới có tiền duyên. Theo một vài nghiên cứu thì hầu như ai cũng có tiền duyên. Chỉ có điều, những tiền duyên đó đã ảnh hưởng tới cuộc sống tình cảm vợ chồng hiện nay đến mức nào.

Cắt tiền duyên như thế nào?

Theo quan niệm người Việt nam, giải thích về “thế giới Tâm Linh ” thì Kiếp trước đã từng thề nguyền đính ước với người ta, hẹn kiếp này sẽ kết vợ chồng. Nhưng kiếp này người ta chưa được đầu thai thành người nên vẫn đi theo. Có người thì được người âm ngầm đi theo để giúp đỡ, nhưng có người lại bị người âm phá rối. Họ làm cho ta khi yêu ở xa thì không sao, nhưng hễ gần nhau thì trục trặc vì những chuyện rất linh tinh.

“Cắt Tiền Duyên” là việc tìm hiểu kiếp trước mình còn nợ tình ai đó, kiếp này “người ta” nấn ná, dùng dằng theo mình. Hễ cứ chớm yêu được cô (hay anh) nào thì “người ta” lại xông vào phá. Lễ cắt tiền duyên có nghĩa là nhờ thày thay mặt mình mà lạy lục van xin người kiếp trước tha cho…

Nhiều người còn bị duyên âm nặng đến nỗi phát thiệp cưới rồi mà người yêu còn bỏ đi. Có người cắt tiền duyên rồi mà vẫn chưa tìm thấy “một nửa” của mình. Những người này được chúng tôi giải thích về tâm linh là có duyên âm quá nặng, người cũ quyết phá nên mới vậy và khi các thầy làm lễ trả tiền duyên thì hoặc là do thầy chưa làm “đến nơi đến chốn”, hoặc là do thầy lừa bịp nên “người âm” vẫn không bỏ đi….

Nói một cách nôm na dễ hiểu là nếu ta nợ ai đó một món tiền nào đó, ta phải trả đúng người ta nợ thì họ mới không đòi còn nếu như ta trả cho người ta không nợ thì dù ta có trả bao nhiêu cũng vẫn cứ nợ như bình thường. “Cắt Tiền Duyên” cũng vậy, trước hết phải triệu thỉnh (Hoặc nhờ thầy triệu thỉnh) “người âm” đó lên, hỏi xem vì sao theo mình? Mình nợ người ta (hay người ta nợ mình) những gì? Có yêu cầu gì để thôi không theo ta nữa?… Làm như vậy mới thực sự là trả nợ “người âm”.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cắt tiền duyên đúng hay sai?

Cậu bé chết đi sống lại gặp được Chúa Giêsu

Cậu bé người Mỹ được báo tim đã ngừng đập suốt 20 phút nhưng sau đó Zack đột nhiên chết đi sống lại và kể về cuộc gặp mặt khó tin với Chúa Giêsu.
Cậu bé chết đi sống lại gặp được Chúa Giêsu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Lichngaytot) Cậu bé người Mỹ được báo tim đã ngừng đập suốt 20 phút nhưng sau đó Zack đột nhiên sống lại và kể về cuộc gặp mặt khó tin với Chúa Giêsu.
 

Cậu bé Zack gặp được Chúa Giêsu


Zack Clements sống rất khỏe mạnh cùng gia đình bang Texas, Hoa Kỳ. Trong tiết học thể dục tại trường trung học Victor Life Academy Brownwood cậu cảm thấy khó chịu, tức ngực rồi đột nhiên bị ngã bất tỉnh.

Cau be chet di song lai gap duoc Chua Giesu hinh anh
Cậu bé Zack may mắn được gặp Chúa Giêsu

Zack khẩn cấp được đưa ngay tới bệnh viện, thế nhưng các bác sĩ thông báo Zack đã chết vì tim cậu đã ngừng đập suốt 20 phút. Gia đình cậu đang rơi vào tình trạng tuyệt vọng, chuẩn bị cho tang lễ thì điều kỳ điệu đã xảy ra. Tim cậu đột nhiên hồi sinh trở lại. Zack đã chết đi sống lại một cách khó tin. 

 
Các bác sĩ đã chuyển cậu đến bệnh viện nhi Fort Worth, nơi cậu thức dậy vài ngày sau đó. Mặc dù đây đã là ca phục hồi kỳ diệu mà các bác sĩ không thể giải thích được, nhưng câu chuyện cậu kể lại sau khi tỉnh dậy mới khiến nhiều người kinh ngạc và được lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội.

 
Zack cho biết cậu đã trông thấy Chúa Giêsu với mái tóc xoăn và bộ râu rậm. Dù trong tiềm thức mơ hồ nhưng cậu khẳng định đó chắc chắc là Người. Chúa đã đặt tay lên vai động viên Zack rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, đừng lo lắng.

 
Mặc dù nhiều người nghi ngờ câu chuyện này, nhưng cha cậu, ông Billy Clements, thực sự tin vì nó mang đến điều kỳ diệu cho Zack. Bác sĩ và các chuyên gia thì giải thích đây là hiện tượng chết lâm sàng, hiện tượng tim bệnh nhân đã ngừng đập, não không có tín hiệu hoạt động, song không có nghĩa là người đó đã bị chết. 

 
Zack đã trở lại trường học sau khi hoàn toàn bình phục. Cho đến nay, các bác sĩ vẫn chưa giải thích được vì sao cậu đột nhiên ngã quỵ, tim ngừng đập 20 phút rồi bỗng tỉnh lại như một phép lạ vậy. Tuy nhiên, nhiều trường hợp chết đi sống lại rồi được gặp mặt các vị thần linh đem đến niềm tin to lớn cho con người. 

Bà Dí sống lại sau 7 giờ chết đuối


Cau be chet di song lai gap duoc Chua Giesu hinh anh 2
Cụ bà Nguyễn Thị Dí hồi sinh sau khi chết đuối

 
Ở Việt Nam cũng có nhiều trường hợp hồi sinh sau một thời gian chết lâm sáng. Điển hình là ngày 7/10/2010, sau hơn 7 giờ bị rơi và trôi nổi theo dòng nước, cụ bà Nguyễn Thị Dí, 70 tuổi mới được người dân phát hiện và vớt lên. 

 
Thân xác cụ bà lúc này đã cứng đờ, mũi không còn hơi thở. Biết đã “vô phương cứu chữa”, hàng xóm xung quanh liền đắp chiếu, thắp hương, rồi báo tin dữ cho người thân của cụ bà xấu số.

 
Tuy nhiên khi pháp y đang tiến hành khám nghiệm thì … “tử thi” đột nhiên sống dậy. Đúng lúc đó, tay bà Dí vung lên, mọi người hoảng loạn bỏ chạy thục mạng, kể cả con cháu bà Dí cũng không dám lại gần. Nguyên nhân bà Dí chết đi sống lại vẫn còn là điều bí ẩn.


T.H


10 thể nghiệm lạ lùng khi con người cận kề cái chết
Sau khi nghiên cứu nhiều trường hợp chết đi sống lại, các nhà khoa học tổng kết 10 hiện tượng lạ lùng khi con người cận kề cái chết.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cậu bé chết đi sống lại gặp được Chúa Giêsu

Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Có thể đoán tính cách qua việc xem tướng mặt nhờ quan sát vẻ mặt hay thần thái, người xưa nói tâm thế nào thì tướng thế đó ý chỉ xem tướng thấy tính cách
Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tâm thế nào, tướng thế đó, người xưa xem tướng mặt có thể đoán biết được tính cách của một người ấy là nhờ vẻ mặt toát từ nội tâm bên trong mà biểu hiện ra tướng mặt.

Người xưa cho rằng con người sống trên đời không thể tách rời 3 yếu tố lớn đó là: Tinh, Khí, Thần, người ta thường nói: “Được thần thì sinh, mất thần thì tử” do đó tướng học luôn xem xét về góc độ thần thái , nhãn thần của con người đó cũng là bước đầu tiên vô cùng quan trọng trong bộ môn xem tướng.

Nếu như dùng ngôn từ hiện đại để miêu tả thì việc đầu tiên của xem tướng là phải quan sát diện mạo, tinh thần, nhãn thần, khả năng phản ứng và tư duy. Bởi vì vẻ mặt của con người là một bức vẽ chân thực nhất về thế giới tinh thần và đặc trưng cho tính cách của người đó, là thế giới nội tâm khó che dấu được.

Đoán tính cách qua việc xem tướng 10 thần thái khuôn mặt

Căn cứ vào lý luận của tướng học khi xem một tướng mặt của một con người ta có thể xem xét một số trọng điểm dưới đây:

1. Tàng thần (vẻ mặt ẩn dấu)

“Ẩn tàng như sắc ngọc minh châu, ánh sáng của nó được ẩn dấu vào trong, phải ngồi thật lâu mới có thể thấy được”.

Như vậy, người có vẻ mặt ẩn dấu phần lớn là người có tính cách ổn định. Làm việc cẩn thận, mỗi khi có công việc là có chủ kiến, khả năng sống độc lập cao, khi còn nhỏ ít khi bộc lộ cảm súc với thế giới bên ngoài. Nhưng đến tuổi trung niên trở về sau thì có thể là tâm trí cùng quẫn, tư tưởng thái quá, dễ dẫn đến bệnh nặng, bệnh cấp tính, cho nên tuổi này cần chú ý tới sức khỏe của bản thân.

2. Lộ thần (vẻ mặt bộc lộ)

“Lộ thần là không ẩn dấu, mắt trừng lên nhưng không giận giữ, giống như là giận giữ nhưng lại không hiện ra mặt”.

Hoặc: “Hổ nhìn con mồi, mắt của nó nhìn thẳng một hồi lâu mà không ngoảnh lại (nghĩa là không linh hoạt)”.

Vẻ mặt bộc lộ là loại người mạnh mẽ nhưng bên ngoài lại khô khan, trông diện mạo rất mạnh mẽ, ngoài thực trong hư, không hề bị mê hoặc bởi những giả tưởng.

3. Tĩnh thần (vẻ mặt bình thản)

“Tĩnh là ánh mắt trong trẻo, sáng như mặt trăng mùa thu”, “Thoắt tĩnh, thoắt lặng nhìn lâu mới có thể thấy được, bình thản như không”

Vẻ mặt bình thản đó là một người bình tĩnh nhân từ, nhưng tính cách lại khá yếu đuối dễ mắc bệnh mãn tính.

4. Cấp thần (vẻ mặt gấp gáp)

“Cấp nghĩa là nói nhanh, đi nhanh, ăn nhanh, vui nhanh, giận nhanh”.

Những người mang vẻ mặt gấp gáp này phần lớn là những người gầy, lông mày rậm đen (can khí không đủ nhưng đảm khí có thừa), thường là đoán nhiều, mưu tình ít, việc ít thì thành công, nhưng việc nhiều thì thất bại, không hiểu rõ đầu đuôi sự việc. Nhưng người có vẻ mặt gấp gáp, thường là những người tinh ranh, mắt sâu, tròn có ánh sáng lấp lánh (đôi mắt đặc biệt có thần, và có sự chuyển động linh hoạt) có thể trở thành người có ích.

5. Uy thần (vẻ mặt có uy)

“Uy có nghĩa là không giận giữ mà vẫn uy phong, to, có thế khép mở”.

Người toát ra vẻ mặt có uy là người khi vui và giận đều biết kiềm chế, dù sợ hãi cũng không chớp mắt, nên nhìn họ rất uy nghi, trông rất kính nể. Là người có phong độ, ít khi chịu ưu phiền bởi tình cảm, ít bệnh tật, thọ lâu.

6. Hòa thần (vẻ mặt hài hòa)

“Hòa: nghĩa là ánh sáng mắt, bình tĩnh vẻ mặt hài hòa và điềm đạm, không vui cũng như là vui, tuy có giận dữ , nhưng niềm vui vẫn trường tồn.”

Có vẻ mặt hài hòa là người thoạt nhìn đã thấy tính cách hiền hòa, thật sự là người có tấm lòng rộng lượng, không đố kỵ, không có tính quái gở.

7. Hôn thần (vẻ mặt u tối)

“Hôn: có nghĩa là hai con người tuy lớn nhưng lại mờ mịt không có ánh sáng”

Người thường có vẻ mặt u tối là người phú bẩm không đầy đủ, hoặc tinh thần hoảng hốt, là người không có một chút chủ kiến nào.

8. Kinh thần (vẻ mặt kinh sợ)

“Kinh nghĩa là vẻ mặt khiếp sợ, mặt biến sắc”

Mang vẻ mặt kinh sợ là người mắt thường thể hiện ra, mắt lệch lên trên hoặc xuống dưới, hoặc trái hoặc phải, là người thiếu thần khí, ít quyết đoán.

9. Thoát Thần (vẻ mặt không linh hoạt)

“Thoát nghĩa là thoát ra nhưng không có khí, trạng thái như pho tượng bằng đất, bằng gỗ”.

Người mang vẻ mặt không linh hoạt, mặt mày cứng đơ người thể hiện sắc mặt khi có, khi không, tinh khí ngũ tạng đã cạn kiệt, cho nên có thể gọi là “Hành xác”.

10. Túy thần (vẻ mặt say):

“Túy có nghĩa trông mắt như người say, mắt chuyển động một cách mỏi mệt, đã lâu mà không khỏi bệnh, đó là người gnu muội và sáng xuất”.

Người có vẻ mặt say thường mê mẩn không tỉnh ngộ, ánh mắt cuồng dại nhìn lên, hoặc hai mắt cách xa nhau, phần lớn đây là những người thuộc dạng ngu muội, hoặc là người phải chịu vết thương tinh thần quá lớn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng mặt đoán tính cách qua vẻ mặt

Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Màu sắc may mắn trong năm 2016 của người tuổi Tý là đen, trắng, xám; tuổi Tuất là vàng, kem, đỏ.
Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-1
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-2
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-3
Sửu Dần Mão
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-4
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-5
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-6
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-7
Thìn Tỵ Ngọ Mùi
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-8
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-9
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-10
van-menh-cua-12-con-giap-trong-thang-11-11
Thân Dậu Tuất Hợi

Maruko (theo d1xz) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Màu sắc và con số may mắn của 12 con giáp năm 2016

Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản

Quẻ Quan Âm thứ 56 dựa trên tích An Lộc Sơn mưu phản, nói sự việc nên được giữ nguyên hiện trạng, chờ đợi đến khi thời cơ chính mùi, quý nhân xuất hiện
Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 56 được xây dựng trên điển cố: An Lộc Sơn mưu phản trong cuộc loạn An Sử nổi tiếng trong lịch sử nhà Đường.

Quẻ này trung bình, quẻ thuộc cung Sửu. Ý quẻ nói rằng những việc mưu cầu thì nên nhẫn nại chờ đợi thời cơ đến hẵng hành động. Bắt tay thực hiện ngay lúc này thì uổng phí công sức, chi bằng giữ nguyên hiện trạng, chờ đợi quý nhân phù trợ xuất hiện thì hãy tiếp tục liệu tính, như vậy mới tốt đẹp.

Điển cố quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn mưu phản

An Lộc Sơn (703 – 757), người Doanh Châu sống vào đời Đường. Cha của An Lộc Sơn là người dân tộc Hồ, họ Khang, mẹ là người dân tộc Đột Quyết, tên ban đầu là A Lạc Sơn (còn có tên là Yết Lạc Sơn), có nghĩa là “chiến đấu”. An Lộc Sơn khi nhỏ đã mất cha, theo mẹ ờ với người Đột Quyết. Sau đó mẹ của An Lộc Sơn tái giá với An Diên Yến, anh trai của tướng quân dân tộc Đột Quyết An Ba Chú, vì thế An Lộc Sơn mới mang họ An, tên là Lộc Sơn.

Năm mười ba tuổi, An Lộc Sơn gia nhập quân đội, chưa đến bốn năm, đã làm đến chức Bình Lư tướng quân. Năm bốn mươi tuổi, ông một bước thăng lên Bình Lư quân Tiết độ sứ, là một trong những chức thống soái quân sự cao nhất canh giữ biên cương lúc bấy giờ.

Sau khi An Lộc Sơn được làm Tiết độ sứ, đã ra sức tìm kiếm các loài chim thú quý hiếm, trân châu ngọc quý, đưa đến cung đình lấy lòng Đường Huyền Tông. Đường Huyền Tông cho rằng An Lộc Sơn có lòng trung với mình, nên phong cho Lộc Sơn làm Quận vương, cho xây dinh phủ tráng lệ cho An Lộc Sơn ờ Trường An. Sau khi An Lộc Sơn chuyển vào Vương phủ, Đường Huyền Tông còn cho người đến uống rượu nghe nhạc cùng An Lộc Sơn, để Dương Quý Phi nhận An Lộc Sơn làm con.

Sau khi Tể tướng Lý Lâm Phủ bị bệnh qua đời, người anh cùng họ của Dương Quý Phi là Dương Quốc Trung nhờ vào thế lực của ngoại thích đã được nhận chức Tể tướng. Dương Quốc Trung vốn là tên vô lại, An Lộc Sơn coi thường Dương Quốc Trung, Dương Quốc Trung cũng rất căm ghét An Lộc Sơn, giữa hai người đã phát sinh mâu thuẫn, Dương Quốc Trung nhiều lần nói với Đường Huyền Tông rằng An Lộc Sơn có ý đò làm phản, nhưng Đường Huyền Tông không tin.

Tháng mười năm 755, An Lộc Sơn đã chuẩn bị xong xuôi, quyết định tạo phản. Lúc này, vừa hay có một quan viên từ Trường An đến Lạc Dương. An Lộc Sơn làm giả chiếu thư của Đường Huyền Tông từ Trường An gửi đến, triệu tập các tướng sĩ tuyên bố rằng: “Đã nhận được mật lệnh của hoàng thượng, muốn ta lập tức đem quân vào kinh diệt Dương Quốc Trung” Và như vậy, mười lăm vạn bộ binh và kỵ binh đã xuất phát từ vùng Bình Nguyên ở Hà Bắc, như một cơn lốc cuồn cuộn tiến về, trống chiêng vang dậy. Một dải Trung Nguyên đã hơn một trăm năm không có chiến tranh, dân chúng đã mấy đời không nhìn thấy cảnh chém giết, nên quan viên ờ ven đường người thì bỏ chạy, người thì đầu hàng.

Phản quân của An Lộc Sơn tiến thẳng theo hướng nam, hầu nhừ không gặp phải sự kháng cự nào.

Chẳng bao lâu, phản quân đã vượt sông Hoàng Hà, chiếm tĩnh Lạc Dương. Sau khi Đồng Quan thất thủ, Đường Huyền Tông vội vàng chạy về Thành Đô. An Lộc Sơn liền tự xưng vương, đổi tên nước là “Yên”.

An Lộc Sơn vốn có bệnh ở mắt, từ khi khởi binh đến lúc này, thị lực dần dần giảm sút, sau cùng hai mắt bị mù. Lại thêm mắc chứng ung nhọt, nên tính tình ngày càng tàn bạo, với những người hầu hạ bên cạnh, chỉ cần hơi phật ý, không bị đánh đập cũng bị mắng chửi. Chỉ cần có một chút sai sót, liền bị giết ngay. Sau khi An Lộc Sơn xưng đế, những chuyện các tướng tĩnh bàn bạc, đều được Nghiêm Trang truyền đạt lại. Nghiêm Trang tuy được trọng dụng, nhưng cũng thường xuyên bị An Lộc Sơn đánh đập. Hoạn quan Lý Trư Nhi thường hầu hạ y phục cho An Lộc Sơn là người bị đánh nhiều nhất, nên vô cùng bất mãn. Đoàn thị được An Lộc Sơn sủng áỉ, sinh được một người con trai, tên là “Khánh Ân”, rất được yêu mến, An Lộc Sơn luôn muốn cho Khánh Ân thay thế vị trí của thái tử An Khánh Tự. An Khánh Tự cũng lo mình bị phế truất. Vì thế, Nghiêm Trang và An Khánh Tự, Lý Trư Nhi liên kết với nhau, mưu hại An Lộc Sơn.

Đêm ngày mùng năm tháng giêng năm Chí Đức thứ 2 (tức năm 757), ba người bí mật lẻn vào phòng ngủ của An Lộc Sơn. Lý Trư Nhi tay cầm cây đao lớn lao thẳng vào trong màn, nhằm trúng bụng của An Lộc Sơn đang nằm trên giường đâm mạnh một nhát, kết thúc cuộc đời của An Lộc Sơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: An Lộc Sơn Mưu Phản
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd