Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Hướng dẫn cách xin quẻ dịch - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Hướng dẫn cách xin quẻ dịch, Gieo quẻ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng dẫn cách xin quẻ dịch, tu vi Hướng dẫn cách xin quẻ dịch, tu vi Gieo quẻ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng dẫn cách xin quẻ dịch

Chuẩn bị :

Có nhiêù phương pháp gieo quẻ, nhưng dù theo phương pháp nào, ngừơi hỏi cũng cần chuẩn bị sẵn trước mặt :

          - Hoặc 1 đống đồ vật có thể đếm được ( như hộp diêm quẹt, hay hộp tăm, hay đống sỏi, đống đậu phụng ..)

          - Hoặc 3 đồng tiền (monnaie) như nhau. Qui ước : mặt ngưã là có hình ngừơi (âm), mặt sấp là mặt kia (dương).

 Cách gieo quẻ : Nên theo các bước sau đây :

       1/ Xin keo : tức là xin Thiên - Ðịa (Âm – Dương) :  lấy 2 đồng tiền ấp trong 2 bàn tay độ 1 phút, tập trung tâm tư , nguyện xin cho biết có xin quẻ hôm nay được không. Rồi gieo 2 đồng tiền xuống.

          Nếu được 1 ngữa và 1 sấp thì xem tiếp mục 2/3/4/5  dưới đây.

Nếu là 2 sấp hoặc 2 ngữa cả thì cho phép bạn xin vớt một lần nưã, nếu lần này được 1 sấp 1 ngưã thì xem tiếp mục 2/3/4/5  dưới đây.

Còn nếu vẫn không được (2 sấp hoặc 2 ngữa cả) thì hôm đó bạn nên bỏ ý định xin quẻ ;đừng cưỡng cầu; bảo đảm với bạn quẻ sẽ rất xấu.

        2/ Khi xin keo đã được (hoặc bạn không muốn xin keo mà muốn xin quẻ ngay) thì bạn tập trung tâm tư   khoảng 1 phút vào vấn đề muốn hỏi, muốn có câu trả lời, môĩ vấn đề một câu hỏi, tránh VÀ hay HOẶC; tự giới hạn (trong suy nghĩ) về không gian, thời gian, số tiền, cho ai, khi nào, ở đâu, bao nhiêu, việc gì , thời hạn, v.v…

       3/ Hoặc bốc một nắm đồ vật, một cách tự nhiên, đếm bao nhiêu và ghi số; từ số ta sẽ định ra quẻ.

Người ta cũng có thể chỉ căn cứ vào năm tháng ngày giờ lúc gieo quẻ để định quẻ; hay phối hợp nhiều cách khác nhau.

          4/ Hoặc kẹp 3 đồng tiền vào giữa 2 bàn tay trong thời gian tập trung tâm tư trên đây, rồi gieo 6 lần, ghi theo thứ tự từ 1 tới 6, môĩ lần bao nhiêu ngữa, bao nhiêu sấp. Mỗi lần gieo sẽ giúp ta định một vạch quẻ. Đây là cách định quẻ theo phương pháp 6 hào.

          5/ Ghi năm, tháng, ngày, giờ gieo tiền hay bốc đồ vật trên đây, cùng với kết quả trong (3) hay (4).

Ngoại trừ cách bạn gieo quẻ trước mặt thầy đoán thì thầy có thể giải ngay ; các cách trên đây bạn có thể làm bất cứ lúc nào, đặc biệt lúc mà ý niệm muốn biết loé lên trong đầu bạn thì xin quẻ ngay sẽ rất linh nghiệm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách xin quẻ dịch - Gieo quẻ - Xem Tử Vi

Nữ Cự Giải và nam Song Ngư - Cặp tâm đầu ý hợp

Nữ Cự Giải và nam Song Ngư hài hòa và lãng mạn. Cặp đôi ấy có tình yêu xinh lung linh luôn nhé.
Nữ Cự Giải và nam Song Ngư - Cặp tâm đầu ý hợp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nữ Cự Giải và nam Song Ngư hài hòa và lãng mạn. Cặp đôi ấy có tình yêu xinh lung linh luôn nhé.


3 ly do khien co nang Cu Giai nhat dinh phai tim chang trai Song Ngu hinh anh
 
Độ tương thích của nữ Cự Giải và nam Song Ngư đạt điểm 10 tuyệt đối vì sự hài hòa, đồng bộ, có nhiều điểm chung. Đôi ấy mà yêu nhau thì tình yêu vừa lãng mạn vừa xinh xắn, như một món quà ấy. 3 điểm dưới đây sẽ cho bạn thấy điều đó.
 
1. Sự ngây thơ

Đôi bạn trẻ cực kì ngây thơ dù ở độ tuổi nào. Cô nàng Cự Giải thì khỏi phải bàn về độ nhạy cảm và mơ mộng, nàng ấy đặc biệt thích suy nghĩ về chuyện tình cảm và ôm ấp những mộng tưởng như một đứa trẻ. Chàng Song Ngư còn ngây thơ hơn khi liên tục đưa ra những ý tưởng hẹn hò kiểu teen dù đã ở giai đoạn mãn teen từ lâu. Nên đừng ngạc nhiên nếu thấy cặp đôi này yêu nhau kiểu “xanh mượt” nhé.
 
2. Sự lãng mạn

Không thể phủ nhận nữ Cự Giải nam Song Ngư là cặp đôi có những ý tưởng tình yêu rất hay ho và ngọt ngào. Họ dành cho nhau những thông điệp tràn ngập yêu thương, những món quà nhỏ xinh xắn và nhiều ý nghĩa hay những bức ảnh chụp chung khiến ai ai cũng phải ghen tị.
 
3. Sự hỗ trợ

Cự Giải nổi tiếng là cô nàng nhanh nhẹn trong việc trợ giúp người khác nên không có gì lạ khi nàng ấy khá tích cực trong việc hỗ trợ người yêu. Cả trong công việc lẫn cuộc sống, Cự Giải đều là người đồng hành đáng tin cậy. Từ việc tư vấn những rắc rối đau đầu ở chỗ làm đến chăm lo bữa ăn giấc ngủ cho chàng đều được nàng ấy chu toàn.
 
Ngược lại, nam Song Ngư rất chiều chuộng bạn gái, biết cách lấy lòng và làm đối phương vui. Chàng ấy có thể dành toàn bộ tâm sức để đưa bạn gái đi shopping, đi làm tóc hay tư vấn nhiệt tình cho nàng về khoản thời trang, đồ công nghệ. Trong công việc, Cự Giải nhạy cảm rất cần được Song Ngư an ủi, vẽ ra những viễn tưởng màu hồng làm cho nàng an tâm. Chàng Song Ngư cũng khá hào phóng và chịu chi với người mình yêu nữa.
► Xem thêm: Bí ẩn 12 cung hoàng đạo và Mật ngữ 12 chòm sao mới nhất

Ngọc Bích (Theo Horoscopecompatibility)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nữ Cự Giải và nam Song Ngư - Cặp tâm đầu ý hợp

Lời Phật Dạy về đạo đức gia đình

Trong gia đình, quan hệ vợ chồng hay đạo đức gia đình là điểm xuất phát, làm cơ sở cho các mối quan hệ khác, vì thế nó rất quan trọng.
Lời Phật Dạy về đạo đức gia đình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điểm qua tình hình của đời sống xã hội hiện nay, ngoài những việc chúng ta làm được, cũng không ít những điều đáng đau buồn. Ta thấy nhan nhản những tệ nạn xã hội được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Từ việc phát ngôn vô văn hóa, đến những hành vi trộm cướp, những vụ tai tiếng… chung quy là băng hoại lối sống và đạo đức. Khảo cứu những hiện tượng mất đạo đức trong xã hội, dù gián tiếp hay trực tiếp, người ta thấy có mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội, xem chừng chúng có mầm mống từ gia đình mà ra. Do vậy, phải bắt đầu nghiên cứu từ gia đình.

Gia đình đóng vai trò là tế bào của xã hội, nhưng bản thân nó lại giống như một xã hội thu nhỏ. Do vậy, quan hệ đạo đức trong gia đình là cái khởi đầu cho quan hệ đạo đức trong xã hội. Trong kinh Thi Ca La Việt (Sìgalovàda sùttra), Phật dạy bổn phận làm chồng có 5 điều đối với vợ và làm vợ cũng có 5 điều đối với chồng; bổn phận làm cha mẹ có 5 điều với con cái và con cái cũng có 5 điều với cha mẹ. Chẳng hạn:

“Vợ thờ chồng có năm việc:

  • Chồng đi đâu về phải đứng dậy nghênh tiếp;
  • Khi chồng đi khỏi phải lo mọi việc nấu nướng, quét dọn chờ chồng về
  • Không được có lòng dâm dục với người khác, chồng có trách mắng cũng không được có thái độ trách mắng lại
  • Hãy làm theo lời chồng răn dạy, có nhặt được vật gì cũng không được che giấu
  • Khi chồng ngủ nghỉ, phải lo sắp xếp xong rồi mới ngủ.

Chồng đối với vợ cũng có năm điều:

  • Đi đâu phải cho vợ biết
  • Việc ăn uống đúng giờ, cung cấp áo quần cho vợ
  • Phải cung cấp vàng bạc châu báu
  • Những vật ở trong nhà nhiều ít đều phải giao phó cho vợ
  • Không được ngoại tình, bằng cách nuôi dưỡng, hầu hạ, chuyển tài sản”.

Đây là mối quan hệ hai chiều sòng phẳng, nó khác hẳn với tư tưởng quan hệ một phía: Quân, Thần, Phụ, Tử và coi khinh phụ nữ (không có Mẫu) của Nho giáo. Ngẫm ra, người ta chỉ cần thực hiện đúng những lời dạy của Phật, thì thiết nghĩ gia đình trong thiên hạ hạnh phúc hơn rất nhiều.

Trong gia đình, quan hệ vợ chồng là điểm xuất phát, làm cơ sở cho các mối quan hệ khác, vì thế nó rất quan trọng. Thực tế không ít trường hợp gia đình hạnh phúc, hoặc bất hạnh và điều đó để lại di chứng cho thế hệ sau cũng xuất phát từ mối quan hệ này. Nhân tiện cần nói thêm, ngay những đứa trẻ sinh ra trong một gia đình bất hạnh thì những thiệt thòi của chúng đã ghi vào tâm khảm – những thiệt thòi ấy, những mặc cảm ấy thường có khi cả đời chúng cũng không thể xóa được và cũng không có gì để bù đắp được! Tác giả đã từng đi tìm hiểu về số phận của những con người hư hỏng… thì thấy rằng, phần lớn đều xuất phát từ những gia đình bất hạnh. Mọi người cũng biết rằng, tình yêu là mơ mộng, nhưng hôn nhân là trách nhiệm và đây thực sự là việc chiến lược của một đời người… Với tầm quan trọng như vậy, nên Phật có dạy về 4 loại sống chung:

“Đê tiện nam sống chung với đê tiện nữ. Đê tiện nam sống chung với Thiên nữ. Thiên nam sống chung với đê tiện nữ. Thiên nam sống chung với Thiên nữ” (KinhTăng chi I)

Khi đưa ra 4 loại sống chung, Phật giảng cả một đoạn dài về vấn đề này, chủ yếu Ngài lấy Ngũ giới để làm tiêu chí cho chúng. Cuối cùng Ngài khẳng định một cuộc sống lý tưởng (Thiên nam sống chung với Thiên nữ) là cả hai người đều phải có đạo đức tốt và sống lương thiện.

Một điều đặt ra là, không phải ngay từ đầu người ta đã có phẩm chất của một Thiên nam hay Thiên nữ, mà cái này phải tu luyện, nhiều khi phải tu luyện gian khổ để trở thành lối sống và nếp sống. Như vậy, ngay trong một gia đình, tất cả mọi người chí ít cũng phải lấy Ngũ giới là tiêu chí để giữ mình. Chỉ đơn cử, không ít những trường hợp vì say rượu sinh ra những hậu quả không lường trước được như cha giết con, chồng hại vợ…, anh em chia lìa, kiện cáo lẫn nhau để rồi gia đình tan nát.

Phổ quát hơn, con người nói riêng (không phải là chúng sinh nói chung), phải biết chế ngự và đi đến từ bỏ tập khí sinh tử. Đó là tham, sân, si, nó bắt nguồn từ ái dục, cho nên ái dục là nguồn gốc của mọi đau khổ. Khái quát thì tất cả những hiện tượng gây rắc rối cho xã hội hiện nay, suy cho cùng nó từ cái tâm hữu ngã mà ra.

Từ quan hệ vợ chồng, chúng ta có thể mở rộng đến quan hệ ông bà và cháu chắt, đồng thời nếu giữ được các giới đó thì rõ ràng, ít ra cũng có thể gọi là một gia đình hạnh phúc. Tuy chưa có điều kiện thống kê, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, những gia đình có đạo (bất kể là đạo nào), thường có nếp sống đạo đức, văn hóa tốt hơn, đồng thời những vụ ly hôn, đổ vỡ… (nếu có) cũng ít hơn gấp nhiều lần so với những gia đình không có đạo. Đây là một điều cũng đáng để chúng ta suy ngẫm, phải chăng Trần Tế Xương đã hơn một lần nhận xét: “nhà kia lỗi đạo…”.

Một điều thực tế cho thấy, hiện nay các gia đình Phật tử, ít nhiều người ta đã thực hiện có hiệu quả và thiết thực những điều Phật dạy về hạnh phúc gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật Dạy về đạo đức gia đình

Luận về Xương Khúc

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất ...
Luận về Xương Khúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi có cả Xương lẫn Khúc hoặc đồng cung hoặc do tam hợp chiếu hiệp lại thành ra cách cục riêng biệt. Xương Khúc chỉ đồng cung ở Sửu Mùi rất cần được Thái Âm Thái Dương tức cách cục Âm Dương Xương Khúc. Cổ nhân có câu phú: “Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa”. (Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc cao sang) con người thông minh nhiều thiện cảm và may mắn với điều kiện là không bị Hóa Kị chen vào.
> Luận về sao Văn Xương> Luận về sao Văn Khúc
Văn Khúc Hóa Kị tâm ý bi quan. Văn Khúc Hóa Kị quá nhậy cảm mà không thích ứng được với đời (người và hoàn cảnh)
Xương Khúc ở Sửu Mùi gặp Thiên Lương rất tốt, chuyển Thiên Lương thành danh lợi giỏi giang. Xương Khúc Sửu Mùi đi với Vũ Khúc Tham Lang tạo nên khả năng lãnh đạo, chư cổ nhân nói: “Văn Vũ kiêm tư”
Xương Khúc đứng cùng Tử Vi Phá Quân cho sáng tạo lực, thêm quyền biến. Xương Khúc Sửu Mùi mà gặp Cự Môn Thiên Đồng rất dở. Cự Đồng Xương Khúc hay vướng tình lụy, dễ thất vọng, chí phấn đấu cùn nhụt, hiếu sắc ham chơi, suy tư viển vông.
Xương Khúc Sửu Mùi đi cùng Thiên Cơ nói hay, làm dở, đầu óc thiếu thực tế. Xương Khúc Sửu Mùi hội Liêm Trinh, Thất Sát thì khoa trương hão huyền. Xương Khúc hội hiệp với Thiên Tướng thông minh nhưng thiếu định kiến, vui đâu chầu đấy, dễ dao động trước sự việc. Xương Khúc hợp với Tử Vi Phá Quân khiến cho khí chất thuần hòa. Xương Khúc gặp Thiên Phủ thì ôn hậu, sáng suốt.
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư chương Đẩu số phát vi luận viết: “Xương Khúc tại hung hương, lâm tuyền lãnh đạm” nghĩa là Xương Khúc hãm gặp Không Kiếp thì chán nản việc đời muốn ở ẩn.
Những câu phú cần tham khảo về Văn Xương, Văn Khúc:
- "Tam hợp Văn Khoa củng chiếuGiả Nghị thiếu niên đăng khoa"(Xương Khúc tam hợp chiếu với Hóa Khoa Giả Nghị ngày xưa đỗ đạt sớm. Danh từ Văn Khoa chỉ vào Xương Khúc và Hóa Khoa)
- Xương Khoa tịnh cư hãm địa, đăng hỏa tân cần(Xương Khúc ở thế hãm danh phận lao đao, nên vào kinh thương hơn là theo đuổi chức vụ)
- Nhị Khúc miếu viên phùng Tả Hữu, tướng tướng chi tài(Văn Vũ Khúc đóng miếu địa có tài lãnh đạo nếu có luôn cả Tả Phù Hữu Bật)
- Nữ Mệnh Xương Khúc thông minh phú quí chỉ đa dâm(Mệnh nữ có Xương Khúc thông minh phú quí giàu sang nhưng đa dâm)
- Vũ Khúc Kình Dương Hỏa Linh Kị, nhược bất vi sương tất yểu triết(Văn Xương gặp Hỏa Linh Kình Dương Hóa Kị, luân lạc hoặc khó thọ nhất là đối với nữ mạng)
- Khôi Xương Tả Hữu tương hội hợp, phụ long phan phượng thượng cửu trùng(Mệnh có Thiên Khôi, Văn Xương, Tả Hữu thường gặp quí nhân mà nên danh phận. Số nữ lấy chồng quyền thế cao sang, giàu có)
- Văn Hao cư Dậu Mão chúng thủy triều đông(Văn Khúc đứng với Phá Quân ở Mão Dậu lên voi xuống chó. Phá Quân thuộc thủy, Văn Khúc cũng thuộc thủy nên gọi bằng chúng thủy)
- Xương Khúc cát tinh cư Phúc Đức, vị chi ngọc tụ thiên hương(Xương Khúc cùng với cát tinh đóng Phúc Đức là cách ngọc tụ thiên hương nên danh nên giá. Cách ngọc tụ thiên hương chỉ ở trường hợp Mệnh đóng ở Hợi hoặc ở Tỵ mà có Xương Khúc tại Sửu hay Mùi đi cùng với các sao tốt khác không bị hung sát tinh xung phá)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi tạo hình, bất thiện thả hư khoa(Xương Khúc đứng với Liêm Trinh ở Tỵ Hợi dễ tù tội, bản chất gian giảo, hay nói một tấc tới trời)
- Xương Khúc Phá Quân lâm hổ thỏ Sát Dương xung phá bôn ba(Xương Khúc đứng với Phá Quân ở Dần Mão, bị Kình Hỏa hay Hóa Kị suốt đời bôn ba)
- Xương Khúc nhập Mệnh thanh tú nhã chi lang(Xương Khúc hội hợp hay thủ Mệnh có duyên và phong nhã, đàn bà nhan sắc)
- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng(Văn Xương Văn Khúc thủ mệnh hiếu học và đa năng)
- Xương Khúc Sửu Mùi Giáp nhân dương nữ kiêm phùng Hồng Lộc hiền phụ chi nhân(Mệnh đóng Sửu Mùi có Xương Khúc tọa thủ thêm Hồng Loan, Hóa Lộc đàn bà tuổi Giáp là bậc hiền phụ)
- Xương Khúc phùng Tuế Dương thiện ác tụng sự(Xương Khúc thủ Mệnh hội Kình Dương Thái Tuế giỏi lý luận, có thể là nhà hùng biện hay, luật sư giỏi)
- Văn Xương phùng Quả Tú Trương Đế Sư bộ bộ tầm tiên(Mệnh có Văn Xương Quả Tú, như người họ Trương sống ẩn dật)
- Văn Khúc hí Nguyệt ư Hợi cung quốc sắc thiên hương(Văn Khúc đứng với Thái Âm tại Hợi đàn bà nhan sắc lộng lẫy)
- Văn Khúc đồng Hóa Kị hạn phòng yểu tử chi ưu(hạn thấy Văn Khúc Hóa Kị đề phòng yểu tử)
- Văn Xương cư Ngọ ký viết khốn, đắc thủy diệu chung thành đại khí(Văn Xương đóng Ngọ xấu, nhưng gặp được thủy diệu (sao thuộc thủy) lại nên hay)
- Nữ Mệnh phùng Xương Riêu nhất sinh dâm đãng(Số nữ Văn Xương đứng với Thiên Riêu dâm đãng)
- Xương Khúc Lộc Tồn do vi kỳ đặc(Mệnh Xương Khúc Lộc Tồn khả dĩ kể là kỳ cách)
- Xương Khúc Cơ Lộc thanh tú sảo(Mệnh Xương Khúc Thiên Cơ Hóa Lộc tinh xảo nghề nghiệp nhất là những nghề có dính líu đến nghệ thuật)
- Khúc Xương Nhật Nguyệt song Long mê sắc Dương Phi(Mệnh có Nhật Nguyệt Xương Khúc Long Trì Thanh Long thì đẹp mê hồn như Dương Quý Phi).
- Xương Khúc giáp Quan Lộc định tác cao khoa(cung Quan Lộc giáp Xương giáp Khúc thì đỗ cao)
- Xương Khúc Liêm Trinh ư Tỵ Hợi phùng Hình Bật, thiện thả hư khoa(Xương Khúc gặp Liêm Trinh ở Tỵ Hợi mà được thêm Thiên Hình, Hữu Bật kể là người có tài năng, nhưng không nên công nên việc)
"Khúc Xương nữ mệnh chẳng lànhVườn xuân ong bướm bẻ cành bán rao"(Chỉ bẻ cành bán rao nếu thấy Thiên Riêu đi cùng Hóa Kị)
- Văn Xương triều Nhật ư Ngọ vị phong trần địa bộ thế nan nhân(Thái Dương tại Ngọ thủ Mệnh đứng cùng Văn Xương xung chiếu là con người lịch duyệt phong trần ít ai bì kịp)
- Xương Khúc giáp Nhật nam mệnh quí nhi thả hiển(Nam mạng Thái Dương đắc địa, có Xương Khúc giáp Mệnh thì sang trọng, hiển đạt)
 "Khúc Xương là đấng thanh nhànThật thà đứng đắn là làng Đồng Lương"
"Khúc Xương Thương Sứ hợp bàiPhải phòng tai họa bên ngoài bên trong"(Xương Khúc đóng ở Nô (gặp Thiên Thương) hay ở Tật Ách (gặp Thiên Sứ) hay có họa đến bất ngờ)
"Xương Khúc Phá gặp Hình Kiếp SátChốn Mão Thìn Dậu Tuất lao đao"
"Mấy người hiếu sắc hoang tìnhVì Xương Khúc đóng bên mình Riêu Y"
"Khúc Xương Sửu Mùi hợp thànhNếu không cát diệu hữu danh vô dùng"(Xương Khúc Mùi Sửu mà không gặp những cát tinh khác thì chỉ có tiếng mà không có miếng)
"Thói dâm dật xướng hòa kém phúcẤy Văn Xương, Văn Khúc ai khen"
"Vũ không gặp đất miếu viênKhác chi Xương Khúc gối loan lạnh lùng"
"Phượng Long nhan sắc dịu dàngKhúc Xương Tả Hữu ấy làng tài hoa"
"Thê cung Nguyệt, Khúc trung tàngRa tay bẻ quế đông sang thiềm cung"
"Thê cung Xương gặp tam KhôngCon nhà danh giá tổ tông kết nguyền"
- "Khúc Xương Thái Tuế cùng ngồiChưa ngoa miệng lưỡi con người đa ngôn"(cung Mệnh số nữ có Xương Khúc Thái Tuế chua ngoa, nói nhiều nhưng có duyên, ở Thê cung thì bà vợ đa ngôn)
- "Vũ Tham tài phát phương ngoàiKhúc Xương Tả Hữu gặp người quí nhân"(Câu trên nói về Xương Khúc đóng cung Thiên Di)
- "Khúc Xương Long Phượng phát vănVũ Tham Sát Phá thì rằng võ công"(câu này nói về Xương Khúc đóng Quan Lộc)
- "Tử cung mà gặp Khúc XươngTuồng gì con gái những phường chơi hoang"(cung Tử Tức này còn phải thêm Thiên Riêu hay Hóa Kị nữa mới như vậy)
- "Vũ Xương hoặc Khúc cùng ngồiSinh con xinh đẹp hơn người chẳng ngoa"
- "Khúc Xương Tả Hữu có dưThiên Đồng bạch thủ cơ đồ lại nên"(câu trên đây nói về Xương Khúc vào cung Tài Bạch)
- "Tấu Thư Xương Khúc rành rànhVào cung Điền Trạch ắt sanh tiền tài"
- "Tấu Thư Xương Khúc tương phùngTôn thân có kẻ thần đồng hiện ra"(câu này nói về Xương Khúc đắc địa đóng cung Phúc Đức)
- "Khôi Khoa Xương Khúc Tấu ThưPhát đà văn học có dư anh tài"(cũng ở cung Phúc Đức)
- Văn Xương dữ Thất Sát Liêm Trinh Dương Đà đồng cư vi trá ngụy(Văn Xương đứng cùng Liêm Sát Dương Đà là con người trá ngụy)
- Văn Khúc Cự Môn đồng cung táng trí(Văn Khúc đứng cùng Cự Môn ở một cung hay nản chí, có thể vì lý luận quá mức mà chùn bước trước hành động)
- Văn Khúc đan cư Mệnh Thân cung, cánh phùng hung diệu vô danh thiệt biện chi đồ(Văn Khúc đóng ở Mệnh Thân gặp sao hung chỉ là anh lẻo mép, chẳng làm được chuyện gì)
- Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo(Văn Khúc đứng với Tham Lang tại Mệnh ưa dùng ngụy biện phá rối kỷ cương)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận về Xương Khúc

THẾ ĐỨNG CỦA MỆNH, THÂN TRÊN LÁ SỐ TỬ VI VÀ HỆ QUẢ TẤT YẾU

Mệnh chỉ tính tình, tư tưởng, khí chất dung mạo..Thân chỉ hành động, hậu vận, hậu thiên, và khả năng thành công hay thất bại trong sự nghiệp. Học thuyết cụ Thiên Lương, qua một thời kỳ nghiệm lý lâu dài, đã rút ra được tính chất khái quát, về mối quan hệ mệnh - thân này
THẾ ĐỨNG CỦA MỆNH, THÂN TRÊN LÁ SỐ TỬ VI VÀ HỆ QUẢ TẤT YẾU

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

   Ở nội dung trước tôi đã trình bày học thuyết của Thiên Lương trong vấn đề tư cách con người trong cõi nhân sinh. Trên thực tế thì cuộc sống muôn hình vạn trạng, Tử vi có hơn 100 tinh đẩu, nhưng quy nạp, tổng hợp lại thì có bốn tư cách cơ bản như vậy. Thế nhưng vũ trụ vận động, xã hội là một bức tranh đa màu sắc, có màu sáng, và có màu tối. Nhiều khi, con người ta dù mong muốn thế này, ước nguyện thế kia, quyết tâm làm điều này, điều khác, nhưng có mấy ai được thỏa chí mình, có những người nói một đằng, nhưng hành động lại khác. Có những người tư chất khôn ngoan sáng suốt, nhưng bắt tay vào hành động thì nhầm lẫn, thất bại và phải ôm mối hận uất xuống tận nấm mồ.

   Nguyên nhân chính là vị trí cung Thân đóng tại chốn nào. Vì mệnh là tư tưởng, khí chất, tính tình, năng lực. Thì thân chủ về hành động, Thân là hậu vận về sau của đương số. Nó nói lên hậu vận, và sự thành công của đương số trong cuộc đời.

   Người có Mệnh trong tam hợp Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, mang trong mình tư cách, nhân phẩm, chính phái, cao đẹp, rất đáng quý rồi mà Thân cũng đóng trong vòng sao này, thì có sự nhất quán triệt để giữa tư tưởng và hành động. Nhân sinh quan của họ là nhân sinh quan tiến thủ mạnh mẽ, luôn hướng tới sự nghiệp của đất nước của nhân dân. Họ là những người đầy lòng tự hào, hành động luôn vì nhân thế, sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi để đem lại hạnh phúc cho con người, cống hiến cho thời đại. Mức độ mạnh yếu, công lao họ đóng góp, và sự thành công của họ trên sự nghiệp vĩ đại lớn lao đó đến đâu nó còn phụ thuộc vào bộ chính tinh, kèm theo sự phò tá của các bộ trung tinh kèm theo nữa.

      Hình thái, tính chất, hành động cống hiến, đóng góp phụ thuộc và ba sao trong vòng sao này. Thái tuế, suy tính, tư tưởng hành động hướng về nghĩa cả.

      Quan phù, hướng tới nghĩa lớn, với hành động được suy tính một cách rất thận trọng

      Bạch hổ, vì chính nghĩa mà xông pha, hành động cứng tay quyết liệt. Kể cả những việc dễ bị quy tội, hay mang tiếng xấu đi chăng nữa, cứ là việc vì chính nghĩa là họ làm. Hình ảnh của một tráng sĩ, hăng hái quên thân, đùi vế chấp giáo gươm, thân mình khinh nhờn giáo mác, trợn mắt nghiến răng, không khi nào ngừng nghỉ.

      Mẫu người Mệnh Thái tuế mà Thân có nhóm Tuế phá, Điếu khách, Tang môn. Là một mẫu người rất phức tạp, giữa tư tưởng, lời nói và hành vi. Có thể nói, khoác trên mình danh phẩm chính phái nhưng khi hành động, bước chân vào đời họ là những người bất mãn, lo âu, phải dùng nhiều nghị lực, vất vả, phấn đấu nỗ lực mới giành được thành công, và dựa cả vào vận thế nữa

      Nếu cung thân gặp chính diệu sáng sủa, ngay thẳng, đạo đức, trí tuệ thì nghị lực, sự chịu khó, cần cù, nhẫn nại, lo toan của họ thật đáng khâm phục và quý giá biết nhường nào. Nếu có không gặp vận tốt để thành công và đứng lên cùng nhân thế, thì cũng là một bậc quân tử trong đời, mang nặng tâm sự và mối ưu tư

     Trường hợp này mà gặp chính diệu mờ ám, phụ tinh toàn loại phá cách loại mờ ám, vô học, vô hạnh, phá cách thì hẳn người đó là một người ngụy quân tử, vỏ bọc, hay lời nói xướng lên một thuyết vô cùng tốt đẹp, nhưng hành động hoàn toàn ngược lại. Vỏ là người quân tử, nhưng ruột là kẻ tiểu nhân, họ xướng nên thuyết này thuyết khác, hay dùng lời lẽ hoa mỹ chỉ là để lợi dụng thành quả của phong trào, hay che đậy, giấu giếm một dã tâm lang sói. Từ tư tưởng, lời nói đến hành động là một sự mâu thuẫn, đến mức quay ngoắt 180 độ chẳng sai.

     Cung thân của một người ở cùng sáu cung. Mệnh – Thân đồng cung, Thân cư Quan lộc, Thân cư Tài bạch là những trường hợp Thân – Mệnh nằm cùng nhau trên vòng Thái tuế.

    Ngược lại, nếu Mệnh đã ở vòng Thái tuế, mà Thân cư Phúc đức, Thân cư Thiên di, hay Thân cư Phu thê là gặp cách Thân có Tuế phá, Tang môn, Điếu khách.

    Ví dụ Tuổi Hợi, Mão, Mùi mệnh lập tại Hợi, Mão, Mùi (Mộc cục) thân lập tại Tị, Dậu, Sửu (Kim cục)

    Mệnh thuộc thế Tuế phá, Điếu khách, Tang môn mà Thân cũng nằm trong thế sao này, là người sinh ra đã bất mãn, vốn chẳng bao giờ thỏa nguyện bình sinh, nên họ là những người từ lời nói đến hành động đều chứa đầy sự phẫn nộ, bất mãn, và xông pha một cách cực đoan, liều lĩnh. Họ đả phá, thanh trừng bất cứ điều gì ngáng đường, chống lại tất cả những gì ngăn trở. Điển hình trong lịch sử dân tộc là tay sai của thực dân Pháp trong thời kỳ xâm lược nước ta, Hoàng Cao Khải, lá số của ông được phân tích, luận giải kỹ càng trong cuốn Tử vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương.

   Tuổi Thân, Tý, Thìn (Thủy cục) mệnh và thân tại Dần, Ngọ, Tuất (Hỏa cục)

   Tuổi Dần, Ngọ, Tuất (Hỏa cục) mệnh và thân lập tại Thân, Tý, Thìn (Thủy cục)

   Tuổi Hợi, Mão, Mùi (Mộc cục) mệnh và thân lập tại Tị, Dậu, Sửu (Kim cục)

   Tuổi Tị, Dậu, Sửu (Kim cục) mệnh và lập tại Hợi, Mão, Mùi (Mộc cục)

    Trái ngược với nhóm người kể trên nhóm người có mệnh thuộc nhóm Tang môn, Tuế phá, Điếu khách, nhưng có thân ở tại thế Thái tuế, Bạch hổ, Quan phù. Là những người xuất thân từ chốn gian nan, sinh ra đã nhiều bất mãn, tuổi thơ đầy lo toan, và nghị lực, lời lẽ có phần ngông cuồng, sách động, khích bác, nhưng là người sớm giác ngộ, hành động của họ hướng tới công lý, lẽ phải, và cũng là mẫu người dấn thân, cống hiến cho sự nghiệp, lý tưởng cao cả. Ngược hẳn với chiêu bài thủ đoạn mỵ dân, hay những kẻ cực đoan tột đỉnh.

Tuổi Thân, Tý, Thìn – mệnh tại Dần, Ngọ, Tuất – thân ở Thân, Tý, Thìn.

Tuổi Dần, Ngọ, Tuất – mệnh lập tại Thân, Tý, Thìn – thân ở Dần, Ngọ, Tuất

Tuổi Hợi, Mão, Mùi – Mệnh tại Tị, Dậu, Sửu – thân tại Hợi, Mão, Mùi.

Tuổi Tị, Dậu, Sửu – mệnh lập tại Hợi, Mão, Mùi – thân tại Tị, Dậu, Sửu.

  Thái tuế là ngôi thọ lãnh vị trí, sứ mạng cao cả, thì Tuế phá đóng vai trò là lãnh tụ phe đối lập.

   Có những người một đời thông minh quán chúng, sáng suốt hơn người. Họ được nhiều người khâm phục vì sáng suốt từ cái nhìn, tư duy, suy nghĩ cho tới hành động. Ấy bởi, mệnh thân cùng ở thế Thiếu dương, tử phù, Phức đức. Những người này cũng thường gặp may mắn, công danh khoa cử sớm thành, nếu gặp Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc thì tuổi trẻ đã nhẹ bước công danh. Tuy nhiên cũng cần phải lưu tâm, nếu như chính diệu, phụ diệu mà mà ám, xấu xa, thiếu ngay thẳng, thì cũng rất dễ biến chất, bởi thế sao này luôn có Hồng Loan, Đào Hoa, nếu hội hợp nhiều dâm tinh thì nam là tay ăn chơi, phong lưu, phóng đãng. Nữ dễ gặp những khó xử về tâm tư tình cảm, gia đạo, nhân duyên

    Mệnh mà sáng suốt, nhưng thân mà lầm lỡ, thì kết cục cũng là chuốc lấy thất bại. Mệnh Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức mà thân về thế sao Thiếu âm, Long đức, Trực phù.

    Mệnh mà lập vào chỗ sinh xuất thua thiệt, nhưng chắc đâu đã không làm nên sự nghiệp gì, ấy là chỗ cung Thân của họ, vận của họ có gặp cảnh đắc ý hay không.

     Mệnh và Thân đều ở thế sinh xuất, thua thiệt của vòng Thiếu âm, Long đức, Trực phù thì nên tự biết mình, giữ gìn kỷ cương, trung hậu nhiệt tình, cung cúc tận tụy ở địa vị của mình. Cho tới khi cuộc đấu tranh nội tâm đã ngã ngũ, sẽ trở thành một người già cả đáng tin cậy, vui vẻ với đạo lý, dự khán sự trưởng thành khôn lớn của con cháu.

    Thông qua quá trình phân tích về các thế sao, vấn đề được làm rõ ở đây chính là thế đứng của mệnh và thân. Mệnh tốt, thân tốt, gặp hạn tốt thì cực kỳ hiển vinh phú quý (Phú văn : Mệnh hảo, thân hảo, hạn hảo, đáo lão vinh xương). Mệnh là tư chất thiên bẩm, thiên phú, thân là nỗ lực hậu thiên, hậu vận. Mệnh là tư tưởng, ngôn ngữ, suy nghĩ, thân là hành động. Chính bởi mệnh – thân đóng tại những thế khác nhau, nên đôi khi, lời nói, hành vi, sướng, khổ, nhục, vinh, thành công, thất bại nó không có tính nhất quán, và chúng ta phải nghiên cứu kỹ, trong quá trình luận giải.

   

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: THẾ ĐỨNG CỦA MỆNH, THÂN TRÊN LÁ SỐ TỬ VI VÀ HỆ QUẢ TẤT YẾU

Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg

Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg. Irwin Allen Ginsberg (3/6/1926 – 5/4/1997) là nhà thơ Mỹ, một trong những người đi đầu của “Thế hệ Beat”
Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg. Irwin Allen Ginsberg (3/6/1926 – 5/4/1997) là nhà thơ Mỹ, một trong những người đi đầu của “Thế hệ Beat” – một nhóm các nhà văn, nhà thơ hoạt động trong thời kỳ sau Thế chiến II.

Ông phản đối mạnh mẽ chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa duy vật và sự đè nén nhu cầu thể xác. Ông được biết tới nhiều nhất với bài thơ Howl (Tiếng tru), một trong những bài thơ điển hình nhất của Thế hệ Beat trong thời kỳ nước Mỹ bảo thủ những năm 1950, trong đó ông mạnh mẽ tuyên bố về những gì mình nhìn thấy như là sức tàn phá ghê gớm của chủ nghĩa tư bản và một xã hội công nghiệp máy móc.

Bài thơ mở đầu với những dòng thơ dài:

“I saw the best minds of my generation destroyed by madness, starving hysterical naked, dragging themselves through the negro streets at dawn looking for an angry fix…”

“Tôi đã thấy những trí tuệ xuất sắc nhất của thế hệ mình bị huỷ diệt vì sự điên rồ, trần truồng điên dại đói khát lê bước qua những phố da đen trong buổi bình minh tìm kiếm một liều cuồng nộ…”

Howl chứa đựng nhiều dòng thơ nhắc tới thuốc phiện và hoạt động tình dục, cả bình thường và đồng tính. Sau khi xuất bản, chủ nhà xuất bản City Lights Book đã xuất bản bài thơ, Lawrence Ferlinghetti bị bắt và bị đưa ra tòa vì truyền bá “văn học bẩn thỉu” nhưng được xét xử trắng án, và tên tuổi của Ginsberg cũng như bài thơ trở nên nổi tiếng.

Allen Ginsberg được coi là nhà thơ có ảnh hưởng lớn đối với thi ca Mỹ và là một trong những nhà thơ trung tâm của phong trào phản văn hóa thập niên 1960. Tinh thần của ông về giải phóng chính trị, tình dục và tinh thần ảnh hưởng lớn tới giới trẻ Mỹ cũng như nhiều nhà thơ thời kỳ đó. Ông đã được bầu vào Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ Hoa Kỳ.

Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg

Sức nặng của thế giới là tình yêu. Dưới gánh nặng của sự cô độc, dưới gánh nặng của sự bất mãn.

The weight of the world is love. Under the burden of solitude, under the burden of dissatisfaction.

Hãy đi theo ánh trăng nội tâm của bạn; đừng che dấu sự điên rồ.

Follow your inner moonlight; don’t hide the madness.

Nước Mỹ, tại sao tự do của ngươi lại tràn đầy nước mắt?

America, why are your libraries full of tears?

Bên trong, tất cả chúng ta đều là hoa hướng dương.

We’re all golden sunflowers inside.

Ai kiểm soát truyền thông đại chúng, người đó kiểm soát văn hóa.

Whoever controls the media, the images, controls the culture.

Trái tim bạn tan vỡ vẫn là chưa đủ bởi giờ trái tim ai cũng tan vỡ.

It isn’t enough for your heart to break because everybody’s heart is broken now.

Tôi không nghĩ có cái gì gọi là sự thật. Chỉ có các góc nhìn.

I don’t think there is any truth. There are only points of view.

Tôi thực sự tin, hoặc muốn tin, rằng tôi thực sự điên rồi, nếu không tôi sẽ không bao giờ tỉnh táo.

I really believe, or want to believe, really I am nuts, otherwise I’ll never be sane.

Tôi biết quá nhiều và vẫn không đủ.

I know too much and not enough.

Tôi đã thấy những trí tuệ xuất sắc nhất của thế hệ mình bị huỷ diệt vì sự điên rồ, trần truồng điên dại đói khát lê bước qua những phố da đen trong buổi bình minh tìm kiếm một liều cuồng nộ…

I saw the best minds of my generation destroyed by madness, starving hysterical naked, dragging themselves through the negro streets at dawn looking for an angry fix…

Thứ duy nhất có thể cứu được thế giới là phục hồi nhận thức của thế giới. Đó là công việc của thi ca.

The only thing that can save the world is the reclaiming of the awareness of the world. That’s what poetry does.

Đầu chúng ta tròn để tư duy có thể thay đổi phương hướng.

Our heads are round so thought can change direction.

Thật may mắn nghệ thuật là một nỗ lực cộng đồng – một cộng đồng nhỏ nhưng tinh túy sống trong thế giới tâm linh hóa nỗ lực để giải nghĩa những cuộc chiến và sự cô độc của xác thịt.

Fortunately art is a community effort – a small but select community living in a spiritualized world endeavoring to interpret the wars and the solitudes of the flesh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuyển tập những câu nói hay của Allen Ginsberg

2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Hiếu thuận với cha mẹ là là phúc báo mà Phật giáo khuyên nên làm nhất trên đời. Vậy, thế nào là hiếu thảo với cha mẹ?
2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiếu thuận với cha mẹ là nghiệp lành lớn nhất của đời người, là phúc báo mà Phật giáo khuyên nên làm nhất trên đời. Vậy, thế nào là hiếu thảo với cha mẹ? Có phải mang đồ ngon, đồ tốt tới cho cha mẹ đã là hiếu thảo?


=> Mời các bạn xem thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

2 dieu Phat day cach hieu thao voi me cha tuong de ma kho  hinh anh
 
Phật chỉ ra nhân duyên kiếp trước của 10 loại người
Phật giáo
luôn nhấn mạnh, chữ hiếu là hàng đầu, làm trăm điều thiện không bằng một chữ hiếu. Công ơn của cha mẹ đối với con cái là trời là bể. Con cái báo hiếu cha mẹ chỉ như muối bỏ bể mà thôi. Bất cứ ai cũng phải gắng tâm, gắng sức để hiếu thuận. 
  Nhà Phật đã chỉ ra 2 phương pháp hiếu thảo với cha mẹ, con cái nên lấy đó làm gương để tu dưỡng .
1. Anh em hòa thuận   Gia đình là chỗ dựa, cũng là tâm huyết cả đời của cha mẹ. Bậc làm cha làm mẹ nào cũng mong muốn anh em trong nhà vui vẻ, đầm ấm, xây dựng không khí tình thân. Chỉ cần người nhà đối với nhau thân tình, thuận hòa, bên nhau khi vui khi buồn, chia sẻ khó khăn, tương trợ hoạn nạn là cha mẹ đã cảm thấy yên lòng.   Con nào cũng là con, nếu xảy ra mâu thuẫn thì người cha người mẹ ở giữa khó phân xử, cũng cảm thấy lo lắng, muộn phiền. Vì ngoài cha mẹ ra, trên đời này, người gần gũi nhất, ruột thịt nhất chính là anh em trong nhà. Cha mẹ tuổi già, sức yếu thì anh em nương tựa lẫn nhau, ấy chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, cũng là sự an tâm lớn nhất.   Nghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời người
2. Tu dưỡng bản thân
  Không cần đâu xa xôi, mang cơm ngon, quần áo đẹp tới cho cha mẹ, muốn tích nghiệp lành, muốn cầu chữ hiếu thì tu thân dưỡng tâm, trưởng thành và khỏe mạnh. Vì con cái là tài sản vô giá của cha mẹ, nên chỉ cần con cái bình an, hạnh phúc, tốt đẹp là đã đền đáp công ơn sinh dưỡng.
2 dieu Phat day cach hieu thao voi me cha tuong de ma kho  hinh anh
 
Phật giáo đã dạy, không để cha mẹ phiền lòng chính là đạo hiếu. Để cha mẹ lo buồn cho mình, chính là bất hiếu. Viên mãn nhất đời cha mẹ chính là sự thành công của con cái. Đức hạnh tốt, phẩm chất cao đẹp, thành người thiện lương, chỉ cần 3 điều đó thôi là đủ.   Bất cứ ai cũng là con của cha mẹ và rồi làm cha mẹ của con, cuộc đời xoay vòng trong chữ hiếu và đạo hiếu. Cha mẹ vì ta mà hi sinh, ta lại hi sinh cho những đứa con. Đó là gốc rễ, cội nguồn và là đạo lý chân chính nhất của cuộc đời này. Hãy luôn sống để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và nuôi dạy con cái theo đức hiếu sinh.    Phật dạy cách làm người con có hiếu Phật hướng dẫn 5 việc cần và 4 việc phải của cha mẹ
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Tuổi Đinh Tỵ 1977 làm ăn hợp với tuổi nào?

Xem tuổi Đinh TỴ hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn sinh năm 1977 làm ăn hợp với tuổi nào? Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ gợi ý cho bạn những tuổi hợp làm ăn với tuổi Đinh Tỵ, màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Tỵ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem tuổi Đinh TỴ hợp làm ăn với tuổi nào? Bạn sinh năm 1977 làm ăn hợp với tuổi nào? Bài viết dưới đây Phong thủy số sẽ gợi ý cho bạn những tuổi hợp làm ăn với tuổi Đinh Tỵ, màu sắc và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Tỵ.

Tuổi Đinh Tỵ 1977 làm ăn hợp với tuổi nào?

Vài nét về tuổi Đinh Tỵ

Tuổi Đinh Tỵ sinh năm 1977, năm con rắn, cung mệnh Khôn, mạng cốt tinh Thổ.

Tính cách người tuổi Đinh Tỵ: Là người thông minh, có tư duy sắc bén, không chịu luồn cúi ai nhưng có chút nóng vội, thiếu ý chí phấn đấu. Có giác quan thứ 6 rất tốt, thường hay nghĩ đâu đúng đó, biết trước được chuyện may rủi. Bằng trí thông minh và có sự trợ lực của quý nhân, mà trong cuộc sống gặp được nhiều may mắn và đạt được mục tiêu đã chọn. Muốn leo lên bậc thang danh vọng bằng khả năng hung biện, chống lại bất cứ sự bất công nào trong xã hội.

Nghề thích hợp cho tuổi Đinh Tỵ:Có thể trở thành nhà sự phạm hoặc nhà tâm lí, nhà tâm thần học hoặc nhà chiêm tinh học, hoặc trạng sư rất hùng hồn.

Xem thêm: Giải mã hiện tượng bói hắt xì hơi theo giờ

Tuổi Đinh Tỵ làm ăn hợp với tuổi nào?

Tuổi Đinh Tỵ hợp làm ăn với tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Bính Dần, Đinh Mão, Giáp Tuất, Ất Hợi ( thuộc hành Hỏa) thì công việc làm ăn thuận lợi, được thịnh vượng.

Tuổi Đinh Tỵ hợp làm ăn với tuổi Nhâm Thân, Quý Dận, Ất Sửu, Giáp Tý, Nhâm Dần, Quý Mão, Canh Tuất, Tân Hợi ( thuộc mệnh Kim) thì người tuổi Đinh Tỵ thường làm trợ lý hoặc cấp dưới của những người mệnh Kim thì công việc mới thuận buồm xuôi gió.

Khi người sinh năm 1977 kết hợp làm ăn với những người có mệnh Thổ Bình Thìn, Đinh Tỵ, Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tý, Tân Sửu, Canh Ngọ, Tân Mùi thì được bình hòa, hai người cùng làm với nhau, lợi thì cùng chia, thiệt hại thì cùng nhau chịu.

Kết hợp làm ăn với những người mệnh Thủy gồm các tuổi Giáp Dần, Ất Mão, Nhâm Tuất, Quý Hợi, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Bính Tý, Đinh Sửu thì người Đinh Tỵ có điều kiện để phát triến, thành công trên con đường sự nghiệp.

Tuổi Đinh Tỵ không hợp làm ăn với các tuổi Mậu Thìn, Kỷ Tỵ, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Canh Thân, Tân Dậu ( thuộc mệnh Mộc) vì làm ăn dễ thua thiệt, công việc dễ lụn bài, gặp nhiều khó khăn, trắc trở.

Màu và hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Tỵ

Màu sắc hợp với tuổi Đinh Tỵ: Màu vàng, phối hợp với màu hồng, đỏ, tím, vàng nhạt hoặc nâu.

Hướng đặt bàn làm việc hợp với tuổi Đinh Tỵ hay còn gọi là phương vị tài thần: Đối với nam giới nên đặt bàn làm việc nhìn về hướng chính Bắc, đối với nữ giới nên đặt bàn làm việc nhìn về hướng chính Tây.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Đinh Tỵ 1977 làm ăn hợp với tuổi nào?

Những Điều chưa biết về thạch anh trong phong thủy(P1) –

CÁC LOẠI TINH THỂ (THẠCH ANH) Tinh thể Thạch anh (trong suốt) Thạch anh trắng (trắng) Thạch anh hồng (hồng) Thạch anh chanh (vàng) Thạch anh lam (lam) Ametit (tím) Aventurin (lam) Thạch anh hun khói (nâu) Thạch anh đen (đen) Mắt hỗ (vàng-hạt dẻ) Mắt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

CÁC LOẠI TINH THỂ (THẠCH ANH)

Tinh thể Thạch anh (trong suốt)

Thạch anh trắng (trắng)

Thạch anh hồng (hồng)

Thạch anh chanh (vàng)

Thạch anh lam (lam)

Ametit (tím)

Aventurin (lam)

Thạch anh hun khói (nâu)

Thạch anh đen (đen)

Mắt hỗ (vàng-hạt dẻ)

Mắt chim ưng (lam – đen)

Mắt mèo (lục – xám)

Thạch anh sắt (rỉ sét)

Calcedoin (vi khối kết tinh)

Calcedoin (xám – lam hay xám – lục)

Mã não (tất cả màu vân dài)

Mã não bọt, rêu (thể vùi xanh đậm)

Mã não dạng dãi (đen vân dài trắng)

Mã não hồng (Cam)

Sardoin (cam -nâu)

Ngọc thạch anh (gạch – vàng – lục)

Heliotrop (xanh đạm với đốm đỏ)

Chrysoprase (xanhtỏi)

trang

1. TINH THỂ THẠCH ANH TRONG SUỐT

Màu trong suốt, tương hợp trong pegmatites, trong các vân loại alpin hay trong một số đá biến chất. Ta tìm thấy trong tất cả các vùng núi miền Trung nước ta, có nơi

mà các tinh thể có thể lên đến nhiều tấn… (tuy nhiên trước khi khai thác chúng ta cần phải tìm hiểu chỉ số Bovis của các loại đá thạch anh trên 17.000 đơn vị.)

Chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết các đặc tính và khả năng trị liệu của tinh thể đá trong tài liệu này. Nó liên quan đến trung khu thần kinh cũng như tất cả các trung khu khác vì ánh sáng trắng chứa tất cả các màu sắc. Tác dụng của nó là giảm đau nhức trên và điều hòa năng lượng trên cơ thể (thể chất)

Giúp tập trung tư tưởng

Giúp sự cảm nhận (rung động) tăng lên

Phuc hồi trí nhớ

Thạch anh trắng :

¬Tình yêu cao thượng

¬Sắc đẹp

¬Làm tăng năng lượng cao thượng – cao nhã.

¬Nhún nhường – khiêm tốn

¬Trong trắng – ngây thơ

¬Sáng kiến mới

¬Sự thanh cao

¬Đoàn kết

Thạch anh trắng giúp :

¬Chữa bệnh đãng trí

¬Trợ giúp tìm người mất tích

¬Kiềm hãm và chặn đứng những tính xấu – tâm ma trỗi dậy.

2. THẠCH ANH TRẮNG

Màu trắng, mờ đục, thoát thai từ một cấu trúc ít hoàn hảo hơn lưới tinh thể, do bị lạnh quá nhanh làm cho tinh thể bị mờ đục. Đó là loại thạch anh thông dụng nhất được thấy với một tỷ lệ lớn trong tất cả các mỏ tinh thể đá. Thạch anh trắng này có một phẩm chất rất ÂM TÍNH so với tinh thể đá là DƯƠNG. Loại thạch anh TRẮNG này có thể được sử dụng để làm dịu hay tan biến các căng thẳng và sử dụng trên mối giao tiếp giữa người con với người mẹ và ngược lại. Các chứng bệnh có tính chất Dương.

3. THẠCH ANH HỒNG

Màu hồng do sự có mặt của titanium hay manganèse, trong mờ, tổng quát chắc và ít kết tinh.

Là loại thạch anh rất đặc sắc được dùng trong tình yêu. Có khả năng trấn an các cá nhân thường bị xúc động, giảm stress và các cảm xúc bất lợi. Làm thông thoáng các tắc nghẻn do sợ hãi và các cơn ghen tạo ra. Đó là loại thạch anh thúc đẩy tính đam mê và tình thương nhân loại. Đây là loại thạch anh của các tình nhân.

Có tác dụng trên thể tinh thần nên giúp cho ngũ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.

Giúp dễ dàng nhập định, làm thanh khiết các luân xa trong sự luân chuyển vòng quanh cơ thể khoảng 10cm. Làm tăng khả năng nhạy cảm của cơ thể.

Thạch anh hồng :

¬Tăng trưởng tình yêu thương

¬Giúp người trở nên chân thành – dễ thương

¬Giúp kích thích sự hy vọng và triển vọng của thành công

¬Tính độc lập

¬Trở nên dịu dàng – dễ mến

¬Tâm hồn trong trắng – thành thật.

¬Khỏi bệnh

¬Hài hòa

¬Trẻ mãi

¬Cởi mở tấm lòng

¬Luôn rộng lượng – tha thứ

¬Luôn giúp đở mọi người

¬Phục hồi những tổn thương về mặt tinh thần.

¬Thay đổi mới luôn luôn trong cuộc sống

thạch anh hồng có sao.

Giúp chữa các chứng sau :

¬Dễ đạt trạng thái vô thức

-Ổn định tinh thần

4. THẠCH ANH VÀNG

Thạch anh vàng trong suốt và màu vàng. Người ta tạo được thạch anh vàngnhân tạo bằng việc đốt nóng amétit lên khoảng 450o. Thạch anh vàng tự nhiên rất hiếm. Thạch anh vàng đun nóng được gọi là hoàng ngọc hay madère được tìm thấy ở Batây, Mỹ, Tây Ban Nha, Liên Sô, Madagascar, Pháp và Ecoce. Và Việt Nam chúng ta cũng có nhưng rất hiếm.

Thạch anh vàng giải tỏa sự bế tắc ở đám rối dương và cuống dạ dày vàlàm cho tâm hồn sảng khoái, lọc máu, thúc đẩy vùng thận và rất cần cho người bệnh tiểu đường.

5. THẠCH ANH LAM

Được gọi là ngọc lam có màu lam. Trong suốt và được tìm thấy ở Áo, Mỹ, Thụy Điển, Nam Phi và Ba Tây. Loại thạch anh được dùng để làm dịu các buồn phiền và tác động ở tuyến giáp trạng.

6. THẠCH ANH TÍM

Tím dợt hay sậm vì sự có mặt của sắt. Tìm thấy ở Âu Châu, Liên Sô, Uraguay và Ba Tây và ở Việt Nam nhưng rất hiếm. Bọt hơi trong các dung nham rắn lại tạo nên cái mà ta gọi là hốc tinh, một loại vỏ mã não rỗng tapiss phủ amétit, loại lớn nhất được thấy ở Ba Tây nặng hơn 100kg.

Amétit củng cố sức mạnh cho tuyến nội tiết. Trên địa hạt vật lý, đây là loại đá bảo vệ chống lại nhiều chứng bệnh. Nó tác động vùng đầu và làm dịu các cơn đau, giúp dễ nhập định và tinh thần trong sáng. Theo truyền thuyết và từ nguyên loại đá này dùng để phòng chứng say rượu

Thạch anh tím :

¬Tình yêu cao thượng

¬Tự chủ về mặt tinh thần

¬Có ý thức về mọi vấn đề

¬Niềm tin về tâm linh

¬Sự tự chủ – kiềm chế

¬Khả năng dự đoán – tiên tri

¬Sức sống mạnh mẽ

¬Tính chặt chẻ – chính xác

¬Đúng mực – thận trọng

¬Điều độ – tiết độ

Thạch anh tím giúp :

¬Hỗ trợ về mặt tâm linh

¬Can đãm

¬Xóa bỏ sự hẹp hòi ích kỷ

¬Xóa bỏ sự kiêu ngạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những Điều chưa biết về thạch anh trong phong thủy(P1) –

Một số lưu ý phong thủy nhà ở nhỏ nhưng hiệu quả

Phong thủy nhà ở cát thì vận khí hưng vượng, muốn vậy, hãy nhớ kĩ những lưu ý phong thủy quan trọng dưới đây.
Một số lưu ý phong thủy nhà ở nhỏ nhưng hiệu quả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy nhà ở cát thì vận khí hưng vượng, muốn vậy, hãy nhớ kĩ những lưu ý phong thủy quan trọng dưới đây.


Mot so luu y phong thuy nha o nho nhung hieu qua  hinh anh
 
Phong thủy nhà ở tốt được hình thành nên từ nhiều phương diện, trong đó, phương diện được quan tâm nhiều là hướng nhà, đất ở. Nhưng, đừng quên những lưu ý phong thủy nhỏ nhưng hiệu quả lớn nhé.   1. Đồng hồ treo tường   Dưới góc độ phong thủy, đồng hồ treo tường là món không thể thiếu, trong nhà, nơi làm việc, đặc biệt là ở văn phòng, thư phòng. Đồng hồ có 5 tác dụng phong thủy nổi bật: chiêu tài, tránh quỷ khí, trợ vận thế, quản lý cấp dưới, kiểm soát thời gian. Vì thế mà không nên tùy tiện treo đồng hồ, hãy treo hướng ra cửa hoặc ban công là tốt nhất.   2. Cá vàng
Mot so luu y phong thuy nha o nho nhung hieu qua  hinh anh
 
Cá vàng được xưng tụng là loại cá phong thủy, có thể bù đắp những chỗ thiếu hụt trong phong thủy nhà ở, cũng bổ sung sinh khí và hỗ trợ vận khí cho ngôi nhà. Chú ý, bể cá vàng phải có kích thước vừa phải, xung quanh không chất đồ dạc linh tinh, cũng không đối diện với bếp. Hơn thế nữa, không nên đặt Thần Tài trên bể cá vì dòng nước lưu động, tài vận không ổn định.
  3. Cây xanh   Cây xanh rất thích hợp để cải thiện phong thủy nhà ở. Phòng khách bày trúc phú quý, cây phát tài tượng trưng cho sức sống, khởi tạo dưỡng khí, thúc đẩy tài vận. Không cần nhất nhất phải có hoa tươi bốn mùa nhưng nên có cây xanh quanh năm, khi héo úa thì lập tức thay mới để tránh ảnh hưởng tới vận thế.   4. Cửa

Mot so luu y phong thuy nha o nho nhung hieu qua  hinh anh
 
Nhà ở dù thế nào cũng phải có cửa sổ để khí thông thoát, lưu chuyển, đổi mới sinh khí, tống cựu nghênh tân. Nếu thực hiện được nguyên tắc “nước chảy không lưu, trụ cửa không mục” là rất tốt. Cửa lớn thì không nên thiết kế quá lớn có thể tiết lộ tài vận của gia chủ cho người ngoài.   5. Màu sắc   Màu trắng, ánh kim, xanh lam, xanh lá là những màu cát trong phong thủy nhà ở, màu nâu cũng khá tốt nhưng kị dùng màu đen, màu xám. Màu sắc trần nhà cũng không nên xem thường vì trần nhà tượng trưng cho Trời, nên sơn màu trắng tượng trưng cho mây, vàng nhạt tượng trưng cho ánh nắng, lam nhạt tượng trưng cho trời xanh. Sàn nhà lấy mầu trầm làm chủ đạo, phù hợp với nguyên tắc thiên địa hòa hợp.
 
  7 chiêu phong thủy khiến các ông chồng phải nghe lời vợ Giải thích các khái niệm cơ bản trong phong thủy (phần 1) Giải thích các khái niệm cơ bản trong phong thủy (phần 2) Nằm lòng kiến thức phong thủy cho nhà ở nông thôn
►Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Một số lưu ý phong thủy nhà ở nhỏ nhưng hiệu quả

Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Mặc dù có nhiều điểm khác biệt nhưng Tý và Tuất vẫn kết hợp khá ăn ý. Tý thích xung quanh có nhiều bạn bè thân còn với Tuất, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa nếu không có sự trung thành. Đáng tin, khôn ngoan và có trách nhiệm, tuổi Tuất là người bạn tuyệt
Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Chọn xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia

Tham khảo cách chọn hướng nhà bếp theo phong thủy để có vị trí tốt lành trước khi xây dựng mang lại tài lộc và gia đình êm ấm, an hòa dưới đây.
Chọn xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Bếp là một trong ba không gian quan trong trong kết cấu không gian một căn nhà và có ảnh hưởng tới vấn đề sức khỏe – hành phúc gia đình – tài lộc. Do đó, để giúp bạn có được hướng bếp phong thủy chúng tôi xin chia sẻ một số kinh nghiệm chọn hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia. Trong đó, có 3 vấn đề các bạn cần quan tâm trong phong thủy hướng bếp là:

Thứ nhất, hướng nhà bếp, phòng bếp

Thứ hai, hướng đặt bếp theo phong thủy

Thứ ba, bố chí không gian bếp với đồ dùng theo phong thủy

1. Chọn hướng nhà bếp theo phong thủy

Xem hướng nhà bếp theo phong thủy trong không gian tổng thể căn nhà của bạn chính là cửa vào bếp. Phụ thuộc vào các phòng trong căn nhà của bạn mà cửa nhà bếp cần phải sắp xếp sao cho hợp lý và đảm bảo được yêu cầu về phong thủy, tốt lành cho chủ nhà.

Chọn xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia

3. Chú ý cần tránh để bếp có phong thủy tốt

Ngoài việc xem phong thủy hướng nhà bếp và đặt bếp thì cũng cần chú đến việc bài trí không gian bếp và tránh cách xếp đặt các dụng cụ không phù hợp, ảnh hưởng xấu tới phong thủy bao gồm:

Tránh các góc nhọn chiếu góc vào khu vực nấu vì có thể làm mất đi sự hòa thuận trong gia đình và tránh các xà ngang trên bếp cũng không tốt cho nữ gia chủ, sức khỏe của gia đình

Không nên đặt bếp quay về hướng bắc (hướng thủy vượng) và bàn nấu ăn ở trên rãnh, mương, đường nước chảy, tránh đặt vị trí thấp, không cao ráo và đủ ánh sáng hoặc xô lệch bàn nấu ăn.

Tránh cửa nhà vệ sinh nhìn thẳng vào bếp, cửa ra vào trước vì đây là nơi ố khí và trực diện với đường đi nên dễ bị tác động. Đồng thời, không đặt bếp ngược hướng nhà tức là người nấu quay lưng về hướng cửa nhà chính hoặc cửa chính nhìn, đâm thẳng vào bếp. Và không để không không quá rộng phía sau vị trí đặt bếp mà cần có điểm tựa vững chắc.

Kiêng nhà bếp đối diện hoặc sát với cửa phòng ngủ hay giường ngủ vì có thể ảnh hưởng tới sức khỏe, dễ sinh bệnh đối với người trong phòng ngủ. Kiêng mặt trời chiếu xiên buổi chiều hoặc góc nhọn chiếu thẳng vào bếp vì theo phong thủy học bếp hướng tây nếu bị mặt trời chiếu xiên từ hướng chính tây vào sẽ mang lại điều không tốt về sức khỏe cho mọi người trong gia đình.

Mặt khác, bếp thuộc hỏa, hỏa vốn kỵ nước,nước và lửa không dung hòa, vì vậy lửa không nên để gần nước quá. Nếu như bếp đặt trên đường nước là không thích hợp. Tránh đặt các dụng cụ có sự xung khắc giữa nước và lửa như: đặt tủ lạnh đối diện hoặc quá gần bếp nấu hoặc tử lạnh/máy giặt/chậu rửa ở hai bên và bếp nấu ở giữa…

Trên đây là một số lưu ý về xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia mà bạn nên tham khảo khi xây dựng, thiết kế, bố trí, sắp xếp một căn bếp hợp phong thủy.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn xem hướng nhà bếp theo phong thủy để vượng gia

Kiêng cữ trong ngày Tam nương không nên xây nhà, xuất hành, cưới hỏi

Ngày Tam nương không nên xây nhà, cưới gả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ trước đến nay, mọi người thường hay nói đến ngày rất xấu là ngày Tam nương. Do đó, người ta thường tránh làm những khởi sự quan trọng như xuất hành, khai trương, động thổ xây nhà, cưới hỏi,… vào ngày Tam nương để khỏi gặp những điều xui xẻo. Vậy ngày Tam nương là gì?

Tam nương có nghĩa là “ba người đàn bà”. Theo quan niệm trong dân gian Trung Quốc, tam nương gồm ba người là Muội Hỉ, Đát Kỉ và Bao Tự, những giai nhân tuyệt sắc đã làm sụp đổ ba triều Hạ, Thương, Tây Chu trước Công Nguyên. Trong thời đại của mình, họ được coi là “hồng nhan họa thủy”, mang lại sự xui xẻo và bất hạnh cho những người liên quan.

xây nhà
Muội Hỉ mê hoặc vua Kiệt làm sụp đổ nhà Hạ đã từng tồn tại 500 năm (khoảng
2100 TCN – 1600 TCN).

không nên xây nhà
Đát Kỷ làm vua Trụ si mê, khiến nhà Thương (khoảng 1600 TCN – 1066 TCN) sụp đổ. Người
đời thường khắc họa Đát Kỷ là một con hồ ly tinh biến thành.

ngày Tam Nương không nên xây nhà
Bao Tự làm u mê vua dẫn đến làm sụp đổ nhà Tây Chu (khoảng 1066 TCN – 771 TCN).

Trong mỗi tháng âm lịch, có 6 ngày được coi là ngày Tam nương gồm: ngày mùng 3, mùng 7, 13, 18, 22 và 27. Dân gian truyền miệng rằng đây là những ngày này là ngày sinh và ngày mất của ba nàng.

Ngày Nguyệt kì trong quan niệm của tử vi phương Tây

Tuy có có điểm khác biệt về các chòm sao, cung hoàng đạo,…nhưng có một điều rất đáng ngạc nhiên là ngày Tam nương của phương Đông và ngày Nguyệt kì của phương Tây lại trùng với nhau. Nguyệt kì là lịch theo tuần trăng, biểu hiện ngày trăng tròn, trăng khuyết trong tháng.

Trử vi phương Tây có 12 cung hoàng đạo. Khi mặt trăng quay quanh trái đất và trái đất tự quay quanh mình, cứ khoảng 2 ngày rưỡi, mặt trăng sẽ di chuyển qua một “vùng trời” mới. Khi di chuyển sang một cung hoàng đạo mới, mặt trăng sẽ tạo thành một dòng năng lượng mới ảnh hưởng tới toàn bộ sự sống trên trái đất.

không nên động thổ xây nhà
Khi qua mỗi cung hoàng đạo, mặt trăng sẽ mang lại một dòng năng lượng mới

Trong một tháng, thời điểm trăng non là khi năng lượng trong vũ trụ tràn đầy nhất, mọi người có thể khởi sự làm những việc trọng đại như động thổ làm nhà, kí kết hợp đồng. Trăng non di chuyển qua trăng lưỡi liềm vào khoảng ngày mùng 3 âm lịch và mùng 7 âm lịch là trăng thượng huyền. Hai ngày này là thời điểm giao thời, nửa tối nửa sáng, hay bị lỡ dở khi làm việc quan trọng.

Kỳ trăng khuyết diễn ra trong các ngày 8 – 13 âm lịch. Đây là thời điểm cần tập trung hành động để giải quyết vấn đề. Ngày 13 là giai đoạn chuyển từ bán nguyệt sang trăng tròn. Trăng tròn (từ ngày 14 – 18 âm lịch) là những ngày tốt để gặt hái thành quả sau một thời gian dài bỏ công sức. Ngày 18 là thời điểm chuyển giao từ trăng tròn sang trăng khuyết, là lúc năng lượng bấp bênh gây nên xung động lớn cho vạn vật. Ngày 22 là thời điểm năng lượng suy yếu dần khi chuyển giao sang một cung hoàng đạo mới. Trăng tàn (diễn ra từ ngày 27) là khoảng thời gian các “phù thủy” khoái nhất vì đây là lúc con người có giác quan thứ 6 mạnh nhất, thích hợp để cúng tế.

không nên xây nhà, cưới gả
Chu kỳ chuyển biến của mặt trăng

Trong tử vi phương Đông và phương Tây luôn có những ngày xấu khi những nguồn năng lượng không ổn định. Mặc dù đây chỉ là quan niệm dân gian nhưng nhiều gia đình vẫn tin theo khi làm chuyện đại sự vì quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.

(Theo Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng cữ trong ngày Tam nương không nên xây nhà, xuất hành, cưới hỏi

Xá Lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Xá Lợi là chỉ cho di cốt và những viên trân châu, giống như đá quý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ cõi Ta bà, cũng là Tổ sư của Phật giáo, sau khi viên tịch đã lưu lại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tất cả các bạn sau khi chiêm ngưỡng Thánh vật Phật Tổ, nên niệm Phật hiệu: "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu ni Phật". Xá Lợi là chỉ cho di cốt và những viên trân châu, giống như đá quý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni - giáo chủ cõi Ta bà, cũng là Tổ sư của Phật giáo, sau khi viên tịch đã lưu lại

Hơn 2500 năm trước, đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn, khi trà tỳ, chúng đệ tử nhặt được một số Xá Lợi Tử từ chân thân của Ngài như: Xá Lợi đỉnh đầu, xương, huyết, răng, ngón tay và 84000 viên Xá Lợi đủ màu. Những Xá Lợi lưu lại của Phật Tổ được thế giới xem như Thánh vật, tranh nhau thờ phụng cúng dường.

Xá Lợi tử là do sự tu trì giới định tuệ của mỗi cá nhân, thêm vào đó là nguyện lực lớn của chính mình, nó vô cùng hi hữu, quý báu. Lúc Phật tịch diệt, Xá Lợi của Ngài sau khi trà tỳ là 1 thạch 6 đấu (1 thạch: 100 lít, 1 đấu:10 thăng). Lúc đó có 8 quốc vương của 8 nước tranh nhau chia Xá lợi của Phật, đem về nước của mình, xây dựng bảo tháp, để cho bá tánh chiêm ngưỡng, lễ bái.

Ngoài ra, có những bậc cao tăng và các tín đồ tại gia, thành tựu công đức tu hành, sau khi vãng sanh cũng đều có Xá lợi. Như các đại sư: Lục Tổ Huệ Năng Trung Quốc, đại sư Hoằng Nhất, đại sư Ấn Quang, đại sư Thái hư, đại sư Chương Gia... thời cận đại, những vị này đều để lại số lượng Xá Lợi tương đương.


                          Xá Lợi NÃO 7 màu của đức Phật Thích Ca Mâu

Xá Lợi Tử, Ấn Độ dịch là Đà Đô, cũng gọi là Thiết Lập La, Thiết Lợi La. Trung Hoa dịch là Linh cốt, Thân cốt, Di cốt. Là một thể kết tinh của một người sau khi vãng sanh đã để lại. Hình dáng của nó là thiên biến vạn hóa, có loại hình tròn, hình bầu dục, hình hoa sen, hình Phật, Bồ Tát; màu sắc của nó cũng có rất nhiều như trắng, đen, vàng, xanh, đỏ; Xá lợi tử có loại giống như trân châu, mã não, thủy tinh; có loại trong suốt, có loại tỏa ánh sáng, có loại giống như kim cương.

               Xá Lợi XƯƠNG của đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Sự hình thành của "Xá Lợi Tử", các nhà khoa học mãi đến hôm nay vẫn không căn cứ chính xác, nhưng Phật giáo thì cho rằng nó là kết tinh của mỗi cá nhân tu hành thành tựu Giới, Định, Tuệ.

                                            Xá Lợi của Bích Chi Phật


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xá Lợi của đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Luận giải vận số của người tuổi Tuất theo tháng sinh

Người tuổi Tuất sinh tháng Giêng thường đôn hậu, thân thể khỏe mạnh, nhưng lại thiếu nhanh nhạy, dễ nản lòng, rối chí. Người này nên biết kiềm chế bản thân,
Luận giải vận số của người tuổi Tuất theo tháng sinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sinh tháng Giêng: Là người đôn hậu, thân thể khỏe mạnh, nhưng lại thiếu nhanh nhạy, dễ nản lòng, rối chí. Người này nên biết kiềm chế bản thân, suy nghĩ chín chắn, tránh chuyện thị phi.

(Tranh minh họa)

Sinh tháng 2: Là người khỏe mạnh, tốt bụng, dũng cảm, tuy nhiên một số người lại lại hay tỏ vẻ ngông nghênh, thiếu tôn trọng người khác. Sinh vào tiết Kinh Trập, người tuổi Tuất thường thích đi đây đó, làm việc theo cảm tính.
Sinh tháng 3: Sinh tháng này thường là người thanh tú, phong lưu, thông minh, tài năng hơn người, giao tiếp giỏi. Người này thích đi nhiều, mọi việc thuận lợi. Tuy nhiên, do có thói ham mê sắc đẹp nên dễ gặp phải rắc rối trong cuộc sống.

Sinh tháng 4: Người sinh tháng này tuy không giàu sang nhưng có nhiều niềm vui và may mắn trong đời. Tuy nhiên, họ cần biết cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp và cuộc sống.

Sinh tháng 5: Sinh vào tiết Mang Chủng là người có hoàn cảnh phức tạp, dễ gặp tai họa. Số này phận mỏng, hậu vận bình an.

Sinh tháng 6: Người tuổi Tuất sinh vào tiết Tiểu Thử thường có tính cách khác người, tuy có chí khí nhưng không có cơ hội để vươn lên. Số này nhiều nạn, nếu không làm những chuyện bất chính sẽ có được cuộc sống no đủ.

Sinh tháng 7: Là người có số may mắn, hay được giúp đỡ tận tình. Tuy vậy, sự nghiệp khó thành, cuộc đời bất ổn, cuối đời tuy có của nhưng không tránh được đau buồn.

Sinh tháng 8: Sinh tháng này thường là người tự trọng, thông minh, khéo ăn nói. Tuổi trẻ gặp nhiều trở ngại nhưng đều vượt qua. Số này địa vị bấp bênh, cả đời không có hạn lớn, hậu vận may mắn, danh tiếng vang xa nhưng tài lộc không nhiều.

Sinh tháng 9: Là người cương nghị, dũng cảm, có ý chí vươn lên trong cuộc sống, được mọi người kính trọng. Tuy nhiên, không ít lần gặp phải sai lầm, thất bại.

Sinh tháng 10: Người tuổi Tuất sinh tháng này thường rất chính trực, trung thành nhưng cuộc sống bấp bênh, danh lợi khó đạt, cả đời vất vả nhưng cũng không nên nghiệp lớn.

Sinh tháng 11: Là người cần cù, chăm chỉ, tuy vất vả khó nhọc nhưng mọi việc khó thành. Số này may mắn được quý nhân phù trợ nên cả đời bình an.

Sinh tháng 12: Là người nghiêm khắc, có uy thế lớn. Số thuận lợi, công danh đều thành, phúc thọ lâu dài, được lộc an nhàn, gia thế hưng vượng, có của dễ giữ.

(Theo Nhân duyên & tướng cách đàn bà)

 

 
 
 
 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải vận số của người tuổi Tuất theo tháng sinh

Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Một bài sưu tập các bài viết của anh AlexPhong để tiện theo dõi.
Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một bài viết mình chép lại các kinh nghiệm của anh AlexPhong trên các diễn đàn.

Kình Đà hiệp Kỵ

1. Tử vi dùng vòng địa chi làm tiêu chuẩn đánh giá các sao khác. Trong đó cơ sở nền tảng là địa bàn gồm 12 cung cố định. Tiếp đến là vòng Thái Tuế và tất cả các sao hàng chi đại diện cho địa chi của năm sinh. Tiếp đến là vòng Lộc Tồn và vòng Trường Sinh. Đến đây coi như bức tranh đã vé xong cái nền. Trên cái nền đó, chính là hoàn cảnh của lá số, các tinh đẩu còn lại như 14 chính tinh, lục cát tinh, lục sát tinh và tứ hóa thao diễn thất tình lục dục của cuộc đời.

Vậy giữa địa chi và thiên can thì dùng cái nào để đánh giá cái nào. Nói cách khác dùng cái nào làm nền cho cái nào. Xin thưa đó là dùng địa chi làm nền cho thiên can, như hệ tọa độ cho các điểm thiên can. Hỏi vì sao, thì đó là tiên đề, đó là quy ước khi lựa chọn 12 cung địa bàn.

Cho nên, vòng Thái Tuế là cơ sở đánh giá tất cả các sao còn lại. Tác giả Thiên Lương vô tình khám phá ra điều này. Tại sao không dùng vòng Lộc Tồn thì đơn giản vì Lộc Tồn theo can, an còn không đủ kín 12 cung thì làm sao dùng làm nền.

2. Có nhiều cách phân loại vòng Lộc Tồn, ông Thiên Lương phân loại theo Thái Tuế, Lộc Tồn Tuế Hổ Phù, Lộc Tồn không Tuế Hổ Phù. Cách phân loại này vô tình trùng hợp một phần cách phân loại của sách cổ. Đó là phân loại theo âm dương. Chỉ có hai loại Lộc Tồn: đó là thuận âm dương hay nghịch âm dương. Với vòng Thái Tuế thì đương nhiên Lộc Tồn phải thuận âm dương mới gặp được Thái Tuế.

Lộc Tồn thuận âm dương là Lộc Tồn của những năm Giáp Ất Canh Tân. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung dương, Lộc Tồn tuổi âm an can âm. Chỉ có Lộc Tồn của 4 tuổi này đi kèm Tuế Hổ Phù hoặc Long Phượng Hổ Cái. Cho thấy phép dùng địa chi để đánh giá thiên can, sơ qua cũng có thể thấy Lộc Tồn 4 tuổi này ưu việt hơn 6 tuổi còn lại.

Lộc Tồn nghịch âm dương là Lộc Tồn của những năm Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý. Khi Lộc Tồn tuổi dương an cung âm, và Lộc Tồn tuổi âm an cung dương.

Vì sao dám nói, người xưa phân loại Lộc Tồn theo cách này. Vì có dấu vết. Dấu vết rất rõ nhưng con cháu không mấy kẻ lần ra. Đố là biểu hiện của song Hao. Trục song Hao vuông góc với trục Lộc Tồn Phi Liêm. Nói cách khác, khi Lộc Tồn cực mạnh thì song Hao phải cực tiểu và ngược lại. Cho nên khi Lộc Tồn trái vị âm dương thì song Hao miếu địa.

Khi Lộc Tồn trái vị âm dương ở tý ngọ tị hợi. Thì song Hao miếu địa ở dần thân mão dậu. Qua đó, hiểu ý tiền nhân rằng Lộc Tồn trái vị âm dương là Lộc Tồn hãm địa. Qua đó, hiểu ý tiền nhân dùng lý âm dương để định vị miếu hãm chứ không phải lý ngũ hành. Hỏi sao khi áp ngũ hành vào lý giải lúc trúng lúc trật. Vì ngũ hành là sản phẩm không hoàn hảo của âm dương. Vì không hoàn hảo nên mới chuyển động (hành). Nhưng cũng vì không hoàn hảo nên mới có sai số. Như một ván cờ ban đầu hai bên cân bằng âm dương. Sau vì một bên đi trước tạo chênh lệch âm dương mà tạo thành cục diện tranh đoạt đồ sát về sau.

Tuổi Bính Mậu Nhâm, Lộc Tồn can dương đóng âm vị, dương lạc vị thì âm đắc vị cho nên Đà La miếu địa ở thìn tuất.

Tuổi Đinh Kỷ Quý, Lộc Tồn can âm đóng dương vị, âm lạc vị thì dương đắc vị cho nên Kình Dương miếu địa ở sửu mùi.

3. Xét qua tứ hóa, tứ hóa là sản phẩm diễn hóa của thập can. Nói cách khác chúng là 4 đứa con lưu lạc của Lộc Tồn. Lộc Tồn không cư tứ mộ thì tứ mộ đối với tứ hóa mà nói cũng không hề ủng hộ nhau chút nào. Cho nên khi Hóa Kỵ cư tứ mộ được coi là đắc địa vì bản chất Hóa Kỵ là xấu. Cái xấu không tung hoành được ở mộ địa có nghĩa là tốt. Ta tự hiểu cho các trường hợp Lộc Quyền Khoa đóng ở tứ mộ cũng coi như bị hạn chế tác dụng.

Xét một câu phú liên quan: Kình Đà hiệp Kỵ vi bại cuộc. Tức Kình Đà giáp hai bên cung có Hóa Kỵ thì rất xấu. Ta là người nay, ta hiểu tính đỏng đảnh của người xưa. Những câu phú người xưa để lại lúc ứng lúc không, vì họ chưa nói hết. Tùy điều kiện mà phân ra ứng hay không. Ở đây ta tìm thử xem Kình Đà hiệp Kỵ khi nào xấu khi nào không, thì coi như hiểu câu phú này. Nôm na là Lộc Tồn đồng cung Hóa Kỵ.

Tại những vị trí Lộc Tồn đúng vị âm dương:

Với Lộc tại dần, can Giáp, Nhật kỵ. Ta thấy Cự Nhật miếu vượng.

Với Lộc tại mão, can Ất, Nguyệt kỵ. Ta thấy Nguyệt hãm.

Với Lộc tại thân, can Canh Đồng kỵ. Ta thấy Đồng Lương miếu địa.

Với Lộc tại dậu, can Tân Xương kỵ. Tại dậu Xương hãm địa.

Tại những vị trí Lộc Tồn trái vị âm dương:

Với Lộc tại tỵ, can Bính, Liêm kỵ. Liêm Tham tại tỵ cực hãm. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại tỵ, can Mậu, Cơ kỵ. Cơ tại tỵ đắc địa.

Với Lộc tại hợi, can Nhâm, Vũ kỵ. Vũ Phá tại hợi cực hãm.

Với Lộc tại tý, can Quý, Tham kỵ. Tham Lang cư tý hãm địa. Trường hợp này có Triệt án ngữ.

Với Lộc tại ngọ, can Đinh, Cự Kỵ. Cự Môn ở ngọ không được coi là miếu, vì cần tuần triệt mới đập đá lộ ngọc. Ngọc mà ở trong đá đương nhiên ngọc hãm địa.

Với Lộc tại ngọ can Kỷ. Văn Khúc hóa Kỵ. Tại ngọ Văn Khúc hãm địa.

Khi Lộc Tồn chính vị âm dương. Lộc Tồn ngộ Kỵ trong những trường hợp chính tinh miếu vượng, không có Triệt Tuần án ngữ. Trong khi Lộc Tồn trái vị âm dương khi Hóa Kỵ xâm nhập, thường những trường hợp đó chính tinh hãm địa. Chỉ có trường hợp của Thiên Cơ nhìn mặt Thái Âm miếu địa ở hợi mà đắc địa.

Cho nên có khả năng Kình Đà hiệp Kỵ là cách chơi chữ của tiền nhân khi nói về các diễn hóa âm dương phía trên. Mà ta chỉ cần hiểu đơn giản nó chỉ xấu khi chính tinh đi cùng hãm địa, hoặc nó chỉ xấu với 6 can Bính Mậu Nhâm Đinh Kỷ Quý khi Lộc Tồn trái vị âm dương. Qua đây, cũng thấy rằng chính tinh hãm địa hóa Kỵ bị coi là xấu không cửa bật. Chính tinh hãm địa hóa Lộc Quyền được khen tốt trong nhiều câu phú, ở đây không nhắc lại nữa. Vậy phải chăng chính tinh miếu vượng cát hóa vẫn tốt hơn chính tinh hãm địa cát hóa?

4. Nhân đây ta xét tương quan Triệt với chính tinh cực hãm:

Xét trục tỵ hợi. Trục tỵ hợi là trục rất khốc liệt. Biểu hiện của nó là Không Kiếp đại ma đầu miếu địa, đương nhiên ta phải ngầm hiểu sự khó chịu của các chính tinh, nhất là những cát chính tinh khi đến đây. Tại đây vua tử vi phải ôm kiếm ra trận. Tại đây trinh nữ Liêm Trinh gặp dê xồm Tham Lang. Tại đây thương gia Vũ Khúc gặp tướng cướp Phá Quân. Tất cả những chính tinh dương như Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham đến đây đều gặp khó. Đám văn nhân Cự Cơ Đồng Lương thì phập phù nhưng đỡ khổ hơn vì tính mềm, đến nơi ma giáo lên ngôi cũng đỡ khổ hơn mấy anh cứng đầu. Đến Thái Dương cũng cực hãm ở hợi và tuy vượng ở tỵ thì gặp cảnh đắc thời nhưng trái vị. Thái Âm đối với trục tị hợi thì đỡ hơn vì dù sao ít nhất cũng đắc vị, còn tùy thời, tại hợi thì lưỡng toàn kỳ mĩ, tại tị thì hãm địa nhưng đắc thời.

Xét Vũ Phá. Vũ Phá ở hợi thì không gặp Triệt. Vũ Phá ở tị gặp Triệt với hai can Bính Tân. Bính Đồng Cơ hóa Lộc Quyền, Bính ngó lơ không cứu Vũ Phá. Tân Cự Nhật hóa Lộc Quyền, Tân cũng ngó lơ không cứu Vũ Phá. Trong trường hợp này Vũ Phá có Lộc Tồn đồng cung hoặc tam hợp. Ta biết cũng chẳng đến đâu, mà còn gieo rắc sự ngờ vực liệu Phá Quân có phá Lộc Tồn. Kỳ thực, chẳng phải vậy mà do nhiều yếu tố cộng hưởng lại.

Xét Liêm Tham ở tỵ. Tuổi Bính Liêm Trinh hóa Kỵ. Ta biết Triệt cũng không cứu Liêm Tham trong trường hợp này. Tuổi Mậu Tham Lang hóa Lộc. Ta biết Triệt có cứu Liêm Tham trong trường hợp này, Liêm Tham có song Lộc.

Xét Liêm Phá cư dậu cực hãm. Tuổi giáp có Triệt. Liêm hóa Lộc Phá hóa Quyền Vũ Hóa Khoa chiếu về. Ta biết Triệt cứu Liêm Phá trong trường hợp này. Nhưng tuổi Kỷ Vũ hóa Lộc Tham hóa Quyền, ta biết Triệt có cứu nhưng kém ưu ái hơn so với trường hợp của Giáp.

Xét Liêm Phá cư mão tuổi Đinh. Nguyệt Đồng hóa Lộc Quyền. Triệt ngó lơ Liêm Phá. Tuổi Nhâm Lương Lộc Tử Vi hóa Quyền, Vũ Khúc hóa Kỵ. Như vậy có Quyền Kỵ chiếu về. Trường hợp này Triệt có cất nhắc Liêm Phá hơn trường hợp tuổi Đinh. Như vậy, Liêm Phá thích Giáp Nhâm hơn Kỷ Đinh. Cũng là cái lý dương tìm dương.

Xét Đồng Cự cực hãm sửu mùi. Tại sửu gặp Triệt của Mậu Quý. Tuổi Mậu Tham hóa Lộc, Nguyệt hóa Quyền tại hợi. Ta biết Triệt của Mậu không cứu. Tuổi Quý Phá hóa Lộc Cự hóa Quyền có Kình Dương đồng cung. Ta biết tuổi quý có cứu. Tuổi Bính Đồng gặp Triệt ở Tuất hóa Lộc. Ta nói Đồng được Triệt cứu trong trường hợp này. Tuổi Mậu có Thái Âm hóa Quyền từ cung thân chiếu về. Có cứu nhưng kém tuổi Bính.

Như vậy, Triệt có lúc cứu có lúc không cứu chính tinh hãm địa. Cho thấy nói Triệt cứu chính tinh hãm địa chẳng phải hoàn toàn.

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế

Bí ẩn nhân quả của vòng Thái Tuế, giữ đã lâu giờ chia sẻ với quý độc giả. Cho thấy cái hiểu về vòng Thái Tuế của những người tưởng là hiểu, xưng danh môn nọ kia kỳ thực mới chỉ là da thịt mà thôi.

Nhân (Thiên Không)-Quả (Quả Tú). Nhân quả bất khả đồng cung.

Có ba loại Phượng Các ở địa bàn, đó là:

1. Mã Phượng

2. Hổ Phượng

3. Long Phượng

Hàm ý mỗi con tung cánh một thời. Cũng hàm ý có 3 kiểu bay: bay như ngựa, bay như rồng, bay như hổ.

Có ba loại Thái Tuế ở địa bàn, đó là:

1. Thái Tuế Hoa Cái: vua ngồi dưới lọng rồi nhận Quả Phúc. Sao Hoa Cái mang nghĩa tu hành đầy ẩn ý.

2. Thái Tuế Khốc Hư: vua thở dài rồi nhận Quả Điếu cay đắng.

3. Thái Tuế Mã Phượng: vua rong chơi rồi nhận Quả Hồng gió bụi nhưng đó là sự thành công ở cõi trần.

Chớ tưởng vua nào cũng như vua nào mà ngộ nhận Thái Tuế là toàn tốt đẹp. Cảnh nhà địa chi không vui vẻ như bề ngoài ngó vào mà thấy.

Có ba loại Thiên Mã ở địa bàn, đó là:

1. Mã Tang Hổ: ngựa chở xác, khi vua khóc và Đào Hồng Hỷ gặp nhau vui say, để rồi nhận được Quả Điếu.

2. Mã Khốc Khách: ngựa vượt khó, hướng tới cái Quả Phúc

3. Mã Phượng Tuế: ngựa bay chở vua, dẫn tới Quả Hồng thành đạt

Cùng là ngựa, thân phận nào giống nhau. Đâu cần dùng ngũ hành phân ra mã cùng đồ mà biết ngựa đi về đâu.

Có ba loại hoa đào ở địa bàn, đó là:

1. Đào Thiên Không: xảo trá, hoa giả để nhận Quả Hồng vinh quang đó nhưng luân hồi gió bụi.

2. Đào Hồng Loan: hương sắc để nhận Quả Điếu cay đắng tóc tang.

3. Đào Tử Phù: chỉ còn xác hoa, chứ hoa đã chết ở cách cục Hồng Kiếp cho tuổi tứ mộ. Quá chán kiếp hồng trần gió bụi nên cắt nát đóa hoa đào. Nhưng nhờ Mã Khốc Khách vượt khó mà nhận Quả Phúc vẹn toàn.

Chớ tưởng hoa đào ở đâu cũng là đào hoa.

Có ba loại Kiếp Sát ở địa bàn, đó là:

1. Hồng Kiếp: kiếp hồng trần, đi cùng Thiên Hỷ nên ở đây Sát không còn là giết mà Sát là sát hạch xem có qua được cửa Tham Sân Si không. Hồng Kiếp luôn đi kèm Thiên Không càng làm rõ cái nhân đầy cắc cớ cho tuổi thìn tuất sửu mùi để cuối cùng nhận Quả Phúc.

2. Cô Kiếp: kiếp cô đơn. Có lúc nhận Quả Hồng có khi nhận Quả Phúc.

3. Tử Phù Kiếp Sát: đi kèm chiêu hồn lệnh Tử Phù của thần Nguyệt Đức âm hàn, Kiếp Sát chính là lưỡi hái tử thần. Nên giành cho Quả Điếu.

Chớ tưởng Kiếp nào cũng là kiếp.

Đào Không thì Hồng Quả mà Hồng Không thì Phúc Quả. Tuổi thìn tuất sửu mùi có cách cục Hồng Không (không dính bụi hồng trần, cái nhân tu hành) và Quả Phúc (nhận quả phúc) cho nên tuổi tứ mộ được khuyên tu hành, và tuổi tứ mộ có ưu thế tu hành hơn so với tuổi khác. Ngàn năm chỉ thấy Hồng Không, đến nay mới thấy có Phúc Quả. Cho nên Đào Không thì Hồng Quả có nghĩa cứ gian dối đi cứ giả lả sắc không đi sẽ thành công đấy nhưng rồi ngập trong bụi trần khó thoát. Hơn nữa, ta thấy chỉ có Cô Thần đi với Thiên Không chứ Quả Tú không bao giờ đi với Thiên Không cho thấy không có Quả Không. Vì nhân quả không thể đồng cung. Khi Hồng Quả thì cùng lúc cách cục có Mã Phượng Tuế, cảnh vua cưỡi ngựa đi chơi đậm chất hồng trần là chuẩn mực của thành công nhân thế. Còn ở cảnh Quả Phúc, phải chăng tiền nhân sâu xa cổ vũ cuộc đời Mã Khốc Khách vượt muôn dặm Kiếp Hồng Không để giành được Quả Phúc?

Người xưa nói Hồng Phúc tề thiên. Tử vi coi đời người có ba loại quả: Quả Hồng giành cho vua thể hiện sự rực rỡ thành đạt ở cõi trần. Quả Phúc giành cho người giác ngộ thể hiện sự giải thoát thanh cao, và Quả Điếu để trừng phạt những kẻ buông lơi bản thân rơi vào cám dỗ.

Thật không sai chạy mảy may.

...

12 cung liên hòan có nhiều cách phân loại. Nếu phân loại theo tam hợp thì có 4 bộ tam hợp, đây là cách phân loại của Thiên Lương. Bài trên là phân loại theo bộ tứ nên có 3 bộ tứ: thìn tuất sửu mùi, dần thân tị hợi và tý ngọ mão dậu. Vì bộ tứ xét theo trục, nên coi đồng trục là một loại. Hoàn cảnh của tuổi thìn và tuất giống nhau, hoàn cảnh của sửu và mùi giống nhau. Hoàn cảnh của trục thìn tuất giống trục sửu mùi.

Cho nên ta thấy sau khi phân loại thì sao nào cũng có 3 loại. Ta rất dễ nhớ 3 hoàn cảnh sau:

1. Tuổi tí ngọ mão dậu. Thái Tuế Khốc Hư, khi đó Đào Hồng Hỷ đồng trục, Mã Tang Hổ, cho Quả Điếu. Diễn xuôi là cảnh vua lo buồn, Đào gặp Hồng nên duyên nghiệp, con ngựa chở tang dẫn đến quả Điếu u ám. Dễ nhớ đây là tuổi tứ chính, Thái Tuế và Khốc Hư sẽ đồng trục.

2. Tuổi thìn tuất sửu mùi. Thái Tuế Hoa Cái, Kiếp Sát Hồng Không, Mã Khốc Khách, Quả Phúc Đức. Cảnh đức vua ngồi thiền (Đức Phật ngồi tòa sen), con ngựa vượt khó đưa chủ nhân vượt qua kiếp hồng trần đến với quả phúc. Dễ nhớ đây là tuổi tứ mộ. Thái Tuế Hoa Cái sẽ đồng cung.

3. Tuổi dần thân tị hợi. Thái Tuế Mã Phượng, Đào Không, Quả Hồng. Đức vua cưỡi ngựa che lọng, trong cảnh sắc không đời thường mà đạt thành công to lớn Quả Hồng. Dễ nhớ vì đây là tuổi tứ mã, Thái Tuế và Thiên Mã sẽ đồng trục.

Đến đây bạn dễ nhớ 12 tuổi chung quy chỉ có 3 cảnh trên, tất cả các sao đi vào hệ thống củng cố cho một ý nghĩa mạch lạc. Bạn không còn mơ hồ đi gom từng sao lẻ. Bạn cảm nhận được, cầm nắm được Thái Tuế. Biết "đức vua" của bạn đang trong hoạt cảnh nào. Vậy có thú vị không?

Mới nghe thì thấy có bộ tứ đẹp có bộ không. Kỳ thực là tùy thời mà cái gì lên ngôi ở hoàn cảnh đó. Như tuổi tứ mộ, ta biết cảnh tu hành đầy hứa hẹn nhưng phải hiểu Thái Tuế tứ mộ xét theo triết lý đời thực với hoàng đế là biểu tượng của thành đạt thì thế tứ mộ này là thế kém rồi. Xét theo chuẩn của hoàng đế thì thế Tuế Mã Phượng mới là mặt trời chính ngọ của vị thiên tử đang đương thời hoạt động. Thái Tuế tứ mộ là đức Thái Thượng Hoàng đã qua thời và đi nghỉ ngơi giống Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Cho nên Thái Tuế Hoa Cái chính là cảnh vua ngồi thiền hay hình ảnh Đức Phật tọa trên tòa sen. Theo quan điểm đời là kém, nhưng theo quan điểm đạo là cực phẩm. Tương tự như thế, tuổi tứ chính hay còn gọi là tứ bại, tứ đào hoa. Ta thấy nếu xét từ vị trí ông vua thì đó không phải thời chính trị pháp luật thịnh thế như Mã Phượng Tuế của tuổi tứ mã, cũng không phải thời tâm linh lên ngôi như Thái Tuế Hoa Cái của tứ mộ, mà là thời của Đào Hồng duyên nghiệp thủ diễn. Nôm na có thể hiểu là thời mà cảnh dở khóc dở cười diễn ra nhiều nhất. Nếu nói thời Mã Phượng Tuế chính trị làm chủ, xã hội trật tự theo pháp luật. Nếu nói thời Thái Tuế Hoa Cái, tâm linh làm chủ. Thì thời Đào Hồng Hỷ cảm xúc con người làm chủ, mang đậm chất hỷ nộ ái ố của kiếp người. Đây là thời văn học nghệ thuật phát triển nhưng cũng là thời nhiều loạn lạc nhất của xã hội.

Hiểu theo khách quan thì 3 bộ tứ cân bằng nhau, mỗi bộ thủ diễn một vai trò không thể thiếu của tự nhiên. Bộ tứ mã chính là hình ảnh của Thiên khi thiên tử trị vì. Bộ tứ mộ chính là hình ảnh của Địa khi tâm linh trị vì. Bộ tứ bại chính là hình ảnh của Nhân khi cảm xúc hỉ nộ ái ố của con người trị vì.

...

Đến đây quý độc giả dễ dàng vận dụng ý nghĩa cốt lõi của 3 bộ tứ, bất kỳ người có trí nhớ tệ thế nào cũng nhớ được:

1. Tuổi tứ mã, thời tứ mã dần thân tị hợi là khi chính thống chuẩn mực lên ngôi. Thời này cứ vững tin theo chính đạo mà bước theo chắc chắn sẽ thu được thành công. Hình ảnh lúc trung niên, hình ảnh lúc Lâm Quan. Cho nên Thất Sát miếu địa ở dần thân thỏa sức thi hành chính đạo.

2. Tuổi tứ mộ, thời tứ mộ thìn tuất sửu mùi là lúc ngưng nghỉ, khi tinh hoa hội tụ để chuẩn bị thoát thai sang giai đoạn mới. Thời này là buổi đêm mà người xưa khuyên con người nên ngồi kiểm điểm lại bản thân trong ngày để tiến bộ vào ngày hôm sau. Hình ảnh lúc già. Cho nên Tham Lang miếu địa ở thìn tuất lặng im tích lũy.

3. Tuổi tứ bại, thời tứ bại tý ngọ mão dậu là lúc hoạt động sôi nổi, khi trải nghiệm là cần thiết để đúc rút được kinh nghiệm về sau. Thời này giống thời hoạt động sôi nổi của thanh niên, yêu đương nhiều người, đi chơi nhiều chỗ, va nhiều nên có vui có buồn mà dần trưởng thành. Thời này không thể theo lề lối cứng nhắc hay thụ động chờ đợi mà phải thử và sai, thử và sai nhiều lần mới tiến bộ. Hình ảnh lúc trẻ. Cho nên Phá Quân miếu địa ở tý ngọ nhiệt tình khai phá.

Bây giờ mới biết 3 anh em Sát Phá Tham thì Tham Lang già nhất, Thất Sát mới đang trung niên, còn Phá Quân nghịch ngợm trẻ nhất.

Lộc Tồn

Như bài trước ta đã phân ra hai loại Lộc Tồn: Lộc Tồn thuận lý âm dương và Lộc Tồn nghịch lý âm dương. Bài này ta xét sâu hơn về các dạng Lộc Tồn trên và các hệ quả của nó.

Lộc Tồn tuổi giáp tại dần, Đà La tại sửu, Kình Dương tại mão. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại sửu Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc sửu.

Lộc Tồn tuổi ất tại mão, Đà La tại dần, Kình Dương tại thìn. Khi đó Khôi Việt tại Tý và Thân cứu cánh cho hai vị trí Kình Đà. Tại thìn Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc thìn.

Lộc Tồn tuổi Canh tại thân, Đà La tại mùi, Kình Dương tại dậu. Khi đó Khôi Việt tại sửu mùi cứu cánh cho vị trí Kình Đà. Tại mùi Đà La hội đủ Khôi Việt. Đà La đắc tại mùi.

Lộc Tồn tuổi Tân tại dậu, Đà La tại thân, Kình Dương tại tuất. Khi đó Khôi Việt dần ngọ cứu cánh cho Kình Đà. Tại tuất Kình Dương hội đủ Khôi Việt. Kình Dương đắc tại tuất.

Như vậy, với 4 tuổi Giáp Ất Canh Tân, Kình Đà đều có Khôi Việt cứu giải và tại vị trí đắc địa thì Kình hoặc Đà luôn hội đủ Khôi Việt. Cho thấy, tử vi quan điểm Lộc Tồn thuận lý âm dương thì Kình Đà là vị trí cần cứu giải chứ không phải Lộc Tồn.

Sang đến 6 tuổi còn lại khi Lộc Tồn trái lý âm dương. Đa số các vị trí của Lộc Tồn có Khôi Việt hội chiếu. Như tuổi Mậu Lộc Tồn tị có Thiên Khôi sửu chiếu. Tuổi Bính Lộc Tồn tị có Khôi Việt từ hợi dậu chiếu lên. Tuổi Kỷ Lộc Tồn ngọ có Thiên Khôi ở tý chiếu. Tuổi Nhâm Lộc Tồn hợi có Khôi Việt ở mão tị chiếu về. Như vậy, tử vi quan niệm Lộc Tồn trái lý âm dương là Lộc Tồn yếu cần có Khôi Việt hội chiếu hỗ trợ. Trong khi Kình Đà của 4 tuổi Bính Mậu Nhâm Kỷ không cần có Khôi Việt hỗ trợ.

Riêng hai tuổi Đinh và Quý, tuy Lộc Tồn trái lý âm dương nhưng không được Khôi Việt hội chiếu, mà các vị trí Kình Đà của hai tuổi này được Khôi Việt cứu giải. Điều đó đồng nghĩa với công nhận Lộc Tồn của Đinh Quý là Lộc Tồn không yếu kém. Có thể đây là sai số của tử vi khi cố tình thêm Khôi Việt để cứu giải Kình Đà. Nhưng khả năng đây là sai số bị loại trừ vì ta biết với tuổi Canh thì Khôi Việt trong các môn khác vốn an ở dần ngọ nhưng bị điều chỉnh sang sửu mùi ở tử vi. Mục đích của việc điều chỉnh đương nhiên là để lá số cân bằng hơn. Nói cách khác, vị trí sửu mùi là vị trí cần hỗ trợ của tuổi Canh. Ta biết ở đó có Kình Đà. Vậy thì, nếu Đinh Quý là sai số của Khôi Việt thì tại sao không điều chỉnh như tuổi Canh. Cho nên có khả năng Khôi Việt của Đinh Quý mở ra một tác dụng đặc biệt nữa của Khôi Việt ngoài mục đích hóa giải Kình Đà.

Ta biết Lộc Tồn là cát tinh, như bài trước đã phân tích thì Lộc Tồn bao hàm toàn bộ tứ hóa. Thế nhưng, áp hai bên Lộc Tồn là Kình Đà mang ý nghĩa xấu, thì Lộc Tồn có thể nói chính là bao hàm của cát hóa Khoa Quyền Lộc. Và Kình Đà là hình ảnh của Hóa Kỵ. Khôi Việt xuất hiện để giải cứu các vị trí có Kình Đà. Vậy còn Hóa Kỵ thì Khôi Việt có cứu giải không.

Bắt đầu từ tuổi Đinh, Khôi Việt ở hợi dậu có thể cứu giải cho trường hợp Đồng Cự Kỵ ở sửu mùi trong tình thế Đồng Cự cực hãm. Nếu thay đổi vị trí của Khôi Việt cứu giải Lộc Tồn ở ngọ, thì Khôi Việt không thể cứu giải cho Đồng Cự.

Tuổi Quý, Khôi Việt ở mão tị có thể cứu giải lý tưởng cho Liêm Phá Kỵ và Vũ Phá Kỵ ở tị hợi và mão dậu. Như vậy, nếu nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ là không xấu thì không đúng, vì không xấu thì tại sao Khôi Việt phải cứu giải. Mà phải nói là cực xấu như hoàn cảnh một người đã vừa nghèo đói lại còn mắc bệnh nan y. Nhưng nhờ có Khôi Việt quý nhân đến mà ta có thể nói chính tinh cực hãm hóa Kỵ thì cùng tắc biến thành tốt đẹp. Tốt đẹp ở đây do Khôi Việt mang lại, còn cùng cực thì do Hóa Kỵ gây nên.

Đến đây, ta biết được tác dụng đặc biệt của Khôi Việt được an để lập lại cân bằng cho lá số, cụ thể là cứu giải cho Kình Đà và Hóa Kỵ.

Kiểm tra khả năng cứu giải Hóa Kỵ của Khôi Việt cho 8 tuổi còn lại thì thấy:

Tuổi Giáp Nhật Nguyệt Kỵ sửu mùi có Khôi Việt thủ và chiếu.

Tuổi Ất Nguyệt hãm dần thìn ngọ hóa Kỵ có Khôi Việt tý thân chiếu. Ba vị trí hãm này của Nguyệt là cực hãm vì sai cả thời lẫn vị.

Tuổi Bính Liêm Phá hãm mão dậu và Liêm Tham hãm tị hợi có Khôi Việt thủ chiếu hóa giải. Nếu cực đoan, ta có thể kết luận một thủ bằng hai chiếu.

Tuổi Mậu có Thiên Cơ hóa Kỵ. Do đặc điểm Thiên Cơ hãm địa tại dần và hợi đều do ảnh hưởng của Thái Âm hãm địa ở dần và tị mà ra. Nhưng tuổi Mậu Thái Âm luôn hóa Quyền, đi cùng Thiên Cơ thành cách Quyền Kỵ không tồi. Cho nên Khôi Việt sửu mùi được thiết kế để cứu Thiên Cơ đơn thủ ở hợi mà lờ đi Cơ Nguyệt đồng cung ở dần. Có thể nói không phải không có lý.

Tuổi Kỷ Văn Khúc hóa Kỵ. Văn Khúc cực hãm ở dần ngọ, có Khôi Việt ở tý thân chiếu hội cứu giải.

Tuổi Canh Thiên Đồng hóa Kỵ. Tại sửu Đồng Cự cực hãm, nên có Khôi Việt sửu mùi cứu giải.

Tuổi Tân có Văn Xương hóa Kỵ. Xương cực hãm ở dần ngọ, được Khôi Việt đóng tại dần ngọ cứu giải.

Tuổi Nhâm có Vũ Phá cực hãm hóa Kỵ ở tỵ hợi, có Khôi Việt ở mão tỵ cứu giải.

Như vậy 100% các trường hợp chính tinh cực hãm hóa Kỵ được Khôi Việt cứu giải. Trong khi có 80% Kình Đà hoặc Lộc Tồn được Khôi Việt cứu giải. Có thể nói Khôi Việt được thiết kế để giải cứu chính tinh cực hãm hóa Kỵ là tiên quyết, đồng thời cứu cả Kình Đà nhưng là thứ yếu so với Hóa Kỵ.

Nhưng không đơn giản chỉ có vậy. Từ tinh bàn, ta có thể thu được nhiều hệ quả khác. Như có ý kiến cho rằng Kình Đà miếu tứ mộ. Có ý kiến lại cho rằng Đà La miếu tứ sinh. Nay thì ta biết, đó là do Khôi Việt. Khi có Khôi Việt đó là Kình Đà miếu, nhất là trường hợp đồng cung hoặc hội đủ Khôi Việt, mạnh nhất là tọa Khôi hướng Việt hoặc ngược lại tọa Việt hướng Khôi. Còn nếu nói Kình Đà miếu tứ mộ, rồi Đà La miếu tứ sinh thì lúc trúng lúc trật. Đó không phải bản chất.

Hệ quả tiếp theo là Nhật Nguyệt hóa Kỵ sửu mùi. Các sách đều cho rằng Nhật Nguyệt tranh tối tranh sáng. Cần Hóa Kỵ hoặc Triệt để tách ra. Kỳ thực đó không phải bản chất. Bản chất là Khôi Việt. Do đó khi Nhật Nguyệt sửu mùi Hóa Kỵ mà không có Khôi Việt thì ta biết trường hợp đó chẳng thể phản cách. Triệt ngọ mùi chỉ có ở tuổi Ất Canh. Tuổi Canh thì Khôi Việt đóng tại sửu mùi, tuổi Ất thì Khôi Việt tại tí thân không ứng cứu. Nếu so sánh giữa hai tuổi thì tuổi Ất có Khôi Việt và Quyền Kỵ Lộc Tồn thủ chiếu. Tuổi Canh có Khôi Việt Lộc Khoa tại bản cung. Bù lại tuổi Ất tránh được Đà Kình, còn Canh dính phải Kình Đà. Cân nhau chằn chặn.

Hệ quả tiếp theo là tương truyền Hóa Kỵ đắc địa tứ mộ. Có thể suy nghĩ rằng tứ mộ không chứa Lộc Tồn, Khôi Việt cũng không an La Võng. Vậy thì tứ mộ bất lợi cho toàn bộ tứ hóa, riêng Hóa Kỵ có nghĩa xấu cho nên khi bị kìm hãm tại tứ mộ mà thành bớt xấu chăng. Nhưng đến đây, ta có thể chắc chắn hơn với trường hợp Hóa Kỵ tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu, khi đó chắc chắn rất tốt đẹp cho Hóa Kỵ. Cũng chắc chắn hơn với Kình Đà tứ mộ có Khôi Việt thủ chiếu.

Hệ quả tiếp theo là giả thuyết Kình Đà hiệp Kỵ chỉ là bại cục khi không có Khôi Việt. Ở các bài trước khi chưa xét Khôi Việt, ta ngờ bại cục là do chính tinh cực hãm hóa Kỵ. Nhưng ở bài này ta thấy cả hai trường hợp chính tinh cực hãm đó. Vũ Phá hợi tuổi Nhâm, và Liêm Tham tị tuổi Bính đều có Khôi Việt hội chiếu cứu giải. Nếu đã chấp nhận rằng Khôi Việt đặt ra để giải Hóa Kỵ, thì ta công nhận rằng Kình Đà hiệp Kỵ là nói tất cả các trường hợp còn lại không có Khôi Việt hội chiếu.

Hệ quả nữa, là có thể nhận định Kình Đà mà gặp Hóa Kỵ mới đích thị là Kình Đà sát thủ (tất nhiên không có Khôi Việt cứu giải). Về sau ta còn biết thêm chỉ khi Hình Diêu gặp Hóa Kỵ thành cách Hình Kỵ hoặc Diêu Kỵ thì khi đó Hình Diêu mới là Hình Diêu xấu. Quan điểm này trùng với quan điểm của tứ hóa phái khi cho rằng lục sát tinh gặp Hóa Kỵ mới tác họa, còn không thì vẫn chỉ tiềm tàng dưới dạng rủi ro.

Cũng có thể có ý kiến cực đoan hơn cho rằng, Khôi Việt là quý nhân chỉ cứu những cảnh cùng cực chứ không cứu cảnh bình thường. Nói cách khác, Khôi Việt chỉ cứu Hóa Kỵ do chính tinh cực hãm hóa thành, gọi là mạt lộ gặp quý nhân mà phản vi kỳ cách. Chứ Khôi Việt không cứu giải tất cả Hóa Kỵ.

Nhưng dù sao từ nay quý độc giả dùng Khôi Việt, Kình Đà, Hóa Kỵ trong luận giải sẽ tự tin hơn nhiều cảnh mơ mơ hồ hồ trước đây.

Sự ngoại lệ của can Đinh và can Quý tại sao Lộc Tồn trái vị âm dương mà không kém, thì ta biết về sau Quan Phúc sẽ bù trừ cho. Nhưng đó là chuyện dài, vì sau khi đặt Khôi Việt vào lá số, do Khôi Việt đi cứu giải hết thế xấu của Kình Đà Kỵ, tiền nhân đã phải đặt Hỏa Linh để chuyên khắc chế Khôi Việt. Rồi sau khi lỡ tay thả Hỏa Linh vào rồi thì phải đặt ra Quan Phúc để kiềm chế bớt Hỏa Linh. Cứ thế cứ thế cho đến khi sai số nhỏ xuống mức chấp nhận được.

...

Giờ ta biết Khôi Việt có thể trị được Hóa Kỵ. Ta phân tích lại tượng sau khi đã có cơ sở lập tượng. Bắt gặp câu phú:

Việc người xích mích khá không

Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm

Việc xích mích ở đây ám chỉ Hóa Kỵ. Khôi Việt thì đã rõ có thể trị Khôi Việt nhưng không rõ vì sao có Tử Vi vì câu phú khác nói "Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh". Rõ ràng Tử Vi không thích Hóa Kỵ chút nào. Mà chẳng cần câu phú đó, chỉ cần ta biết Tử Vi ưa Lộc Tồn thì đương nhiên không thích Kình Đà Kỵ.

Đi tìm Tử Vi Hóa Kỵ ta thấy Tử Vi chỉ gặp Hóa Kỵ khi Vũ Khúc Hóa Kỵ hoặc Tham Lang Hóa Kỵ, vì đơn giản trong các sao có thể đồng cung hoặc hội chiếu với Tử Vi thì chỉ có hai sao đó có thể Hóa Kỵ. Mà hai sao đó Hóa Kỵ chỉ ở tuổi Nhâm Quý. Khôi Việt của Nhâm Quý đều an ở tị và mão.

Tuổi Nhâm Vũ Khúc Hóa Kỵ nhưng đồng thời Tử Vi Hóa Quyền, khi đó là cách Quyền Kỵ bớt xấu, thậm chí tốt.

Tuổi Quý Tham Lang Hóa Kỵ nhưng luôn có Khôi Việt soi rọi hai cung mão dậu. Trường hợp Tử Tham đối cung ở tý ngọ, thì bạn biết câu phú Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí công khanh rồi. Vì sao tuổi Quý có Lộc Tồn cư tý chiếu Tử Vi ngọ mà sách không kể. Đó là vì Tham Lang hóa Kỵ đồng cung chiếu lên.

Cho nên "Tử Vi Khôi Việt ba ông phải tìm" có nghĩa là khi Tử Vi gặp Kỵ thì cần có Khôi Việt hóa giải, đồng thời khẳng định ý nghĩa Khôi Việt giải Kỵ.

Nhưng nghĩ cho kỹ Khôi Việt sinh ra để giải Kỵ phải chăng Khôi Việt hợp Kỵ. Nói thế tuy không đúng nhưng cũng không sai, vì nếu không gặp thì làm sao hóa giải. Như Quan Phúc sinh ra để hóa giải Hỏa Linh nếu không gặp Hỏa Linh thì ai trị Hỏa Linh, và Quan Phúc khi đó làm gì. Nếu dụng tượng có thể biết tuy hai ông thầy tu quan phúc bắt bọn ma tà Hỏa Linh nhưng Hỏa Linh cũng là đèn nhang để thầy tu Quan Phúc có thể tu hành.

Hóa Kỵ là cãi vã xích mích. Khôi Việt có tượng là trưởng là đầu. Có thể giải quyết cãi vã thì phải chăng Khôi Việt là tượng trưởng bối đứng ra dàn xếp lũ con nít tranh giành, hay Khôi Việt là công lý có thể giải nỗi oan Hóa Kỵ. Sau này khi bạn biết Quang Quý không ưa gì Hóa Kỵ bạn sẽ hiểu vì sao Khôi Việt phải đi cùng Quang Quý để giải Không Kiếp. Đơn giản vì Quang Quý có thể đặc trị Không Kiếp nhưng phòng ngừa Hóa Kỵ xâm nhập phá tan uy tín của Quang Quý, thì Khôi Việt phải chắp tay đứng đó sẵn sàng quét sạch bụi thị phi cho Quang Quý rảnh tay mà cải hóa Không Kiếp.

Quang Quý Hóa Kỵ là cảnh tai tiếng khi làm ơn. Ý nghĩa rất phong phú còn tùy các cách cục đi kèm. Như làm ơn mắc oán, hay lợi dụng tiền từ thiện để tiêu xài cho riêng mình đều là cảnh này. Ân Quang ban ân vì ân mà nên oán. Thiên Quý được người quý, quý quá mà lại thành thù.

Quay lại cảnh Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ. Ta có thể hiểu là Thiên Hình và Hóa Kỵ. Nhưng cũng có thể đó là Kình Dương và Đà La vì hóa khí của Kình là Hình mà của Đà là Kỵ. Khi đó hiểu đơn giản là Tử Vi ưa thích Lộc Tồn chứ không thích gặp Kình Đà. Nhưng tại sao phải sợ Hóa Kỵ của tuổi Quý mà không dám nhận Lộc Tồn từ tý chiếu về. Hàm ý sâu xa ở đây là do chính Hóa Kỵ là chất xúc tác để Kình hóa hình và Đà hóa kỵ. Có Hóa Kỵ Kình mới thể hiện tính hình, có Hóa Kỵ Đà mới thể hiện tính kỵ. Ngược lại, có Khôi Việt thì Kình Đà sẽ không hóa hình kỵ nữa.

Hóa khí chẳng qua là cách nói ẩn dụ của tính chất tiềm tàng. Nó có đấy nhưng chưa gặp xúc tác sẽ chưa bộc lộ. Điều này góp phần làm nên sự huyền ảo của tử vi. Phần nào nói lên tính động của dịch lý.

Khôi Việt tượng là đầu. Là đầu nên làm chủ được cái lưỡi Hóa Kỵ mà giải Kỵ. Là đầu nên sợ sét Hỏa Linh đánh, vì sét đánh trúng đầu không ai nói sét đánh trúng cái mông Thai Tọa. Ông tăng Quan Phúc ngồi thiền Thai Tọa trong đèn nhang Hỏa Linh mà thành được việc. Nhưng để sét đánh thì Hỏa Linh Khôi Việt chưa đủ, khi đó bạn mới chỉ mắc bệnh nhức đầu nhức óc. Để thành cách sét đánh phải có Thiên Hình là hình phạt là hành hạ thì mới rõ nghĩa trời phạt. Cho nên sét đánh phải là "Hỏa Linh Hình Việt".

Sau này bạn sẽ biết vì sao phải có Hình mới gây thương tổn đánh đập trừng phạt trực tiếp, phải có Diêu mới mang ý nghĩa lừa đảo dụ dỗ trực tiếp. Không có Hình thì Hỏa Linh Khôi Việt mới là nhức đầu. Không có Diêu thì Kỵ Đà Khôi Việt là ẩn sĩ, thêm văn tinh thì kẻ ẩn sỹ có tài, có tài nhưng vô dụng nên ẩn sĩ. Nhưng họ không lừa ai vì không có Thiên Diêu.

Dù là một sao, nhưng xúc tác cho ý nghĩa quyết định. Đến đây bạn hiểu phép dụng tượng.

...

Có 12 cung. Cho dù nhiều thần sát đến đâu cũng chỉ có 12 cung. Hết chỗ đứng thì phải dẫm lên chân nhau mà đứng. Mà đứng cùng nhau rồi thì bị đối xử không khác gì nhau cả. Cho nên tối đa số thần sát có ý nghĩa chỉ là 12 hoặc 4 hoặc 3 là đủ.

Long Trì Quan Phù đồng cung, Thiên Không Thiếu Dương đồng cung, Tuế Phá Thiên Hư đồng cung là những ví dụ điển hình. Vì cùng là sao chi năm cho nên dù an ra cả vạn thần sát thì cũng chi biểu hiện cho chi năm từ các góc nhìn. Cho nên càng nhiều thì càng rối.

Trở lại bản đồ các sao an theo can năm. Thấy rằng dù an bao nhiêu sao thì cũng chỉ biểu hiện can năm trên 12 cung. Hiện nay đã có các sao:

12 sao vòng Bác Sỹ

2 sao Đường Phù Quốc Ấn

3 sao Lộc Kình Đà

2 sao Khôi Việt

2 cung gặp Triệt

2 sao Quan Phúc

1 sao Lưu Hà

1 sao Lưu Niên Văn Tinh

1 sao Thiên Trù

Tổng cộng đã là 26 sao cho 12 vị trí. Nghĩa là mỗi vị trí trung bình có 2,2 sao. Mỗi cung bị lặp lại hai lần. Số sao dùng để mô tả cung bị thừa đến hơn 2 lần. Điều này nói lên sự rối rắm của tư duy phương Đông. Ví dụ cung sửu của tuổi Giáp hội tụ tất cả Khôi Việt Đà Quan Phúc Lưu Hà Lưu Niên Văn Tinh, tốt xấu lẫn lộn, chỉ biết luận là tốt.

Cho nên cần thiết phải thanh lọc, chỉ để lại những đại diện có ý nghĩa duy nhất không thể thay thế thì khi luận giải mới không bị loạn.

Với vòng Thái Tuế, ta chia được thành 3 loại. Vậy với 10 thiên can có thể làm vậy không.

Con số 12=3X2X2 cho nên có thể phân thành 2 loại, 3 loại, 4 loại, hoặc 6 loại. Nhưng con số 10=2X5 chỉ có thể phân thành 2 loại hoặc 5 loại.

Phân chia thành 5 loại ví dụ:

Giáp Canh có tương quan Khôi Việt và Lộc Tồn giống hệt nhau chỉ khác vị trí, có thể gom cùng 1 loại.

Ất Tân một loại

Mậu Kỷ một loại

Bính Nhâm một loại

Đinh Quý một loại

Nếu phân tiếp thành 2 loại thì:

Giáp Canh Ất Tân Đinh Quý một loại, loại Kình Đà gặp Khôi Việt

Mậu Kỷ Canh Nhâm một loại, loại Lộc Tồn gặp Khôi Việt

Một loại này bao hàm 3 sao Lộc Kình Đà, 12 sao vòng Bác Sỹ, 2 sao Khôi Việt. Như vậy là gom được 17 sao.

Triệt có cách phân bố không phụ thuộc các sao trên. Cho nên nhất thiết phải xét Triệt không thể ngó lơ.

Phép hội sao

Xét vòng Thái Tuế bạn thấy Tuế Phá luôn xung chiếu Thái Tuế, khi bạn ở Thái Tuế thì chẳng đời nào bạn chịu coi mình có Tuế Phá chiếu về. Khi bạn ở Tuế Phá chẳng thể nào bạn phủ nhận Tuế Phá mà vơ Thái Tuế. Như vậy rõ ràng hai vị trí này là khác nhau. Và rõ ràng là bạn không thể lấy sao chính xung về làm sao của mình được. Nếu coi xung như thủ thì chẳng ai phân ra Lộc Tồn chiếu Phi Liêm, chẳng ai phân ra Phục Binh chiếu Thiên Tướng, Bệnh chiếu Trường Sinh.

Nhưng tại sao trước giờ tam hợp phái lại ôm tất cả các sao xung chiếu cũng như tam chiếu về xét một mớ. Rõ ràng có gì đó không ổn, vì cách xét đó ít ra là sai với ba vòng Thái Tuế, Bác Sỹ và Trường Sinh.

Bây giờ xét tam hợp. Ba vị trí Sinh Vượng Mộ tam hợp với nhau. Nhưng Mộ là mộ, không thể coi là Trường Sinh, Sinh là sinh không thể coi là Đế Vượng. Như vậy Sinh Vượng Mộ cho bạn biết không thể nào xét tam hợp hổ lốn cá mè. Mà chính xác nhất phải xét sao thủ tại cung đó.

Đến đây bạn thừa nhận ít ra với 3 vòng cơ bản Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, không thể xét tam hợp cũng như xung chiếu làm sao của mình. Nếu cố tình làm vậy lập tức bị sai lạc.

Xét đến vòng chính tinh bạn thấy tương tự. Không thể nào ngồi ở cung Vũ Khúc bạn kéo Tử Vi tam chiếu về làm như là của mình, vì Tử Vũ Liêm vĩnh viễn tam hợp. Sát Phá Tham cũng vậy. Nói cách cục là để bạn hiểu tình thế của tinh bàn. Nhưng vô tình người xưa mập mờ làm bạn hiểu lầm phép tam chiếu và chính chiếu.

Đến đây lại có hai hướng:

1. Nếu mở rộng suy luận trên cho tất cả các sao, thì bạn chỉ có thể xem sao thủ cung để luận mà bỏ qua xung chiếu và tam hợp. Phép này cũng có lý cho cách xem hạn của nam phái. Đó là đến từng hạn, thì bạn phải gom từng cung lại và bức tranh dần hiện ra.

2. Phép hội sao trên chỉ có ý nghĩa với các vòng sao kín như Thái Tuế Bác Sỹ Trường Sinh, còn các sao đơn như Long Phượng Mã Đào Hồng Cái Tả Hữu đều có thể xung chiếu và tam chiếu, vì những sao đó không có các sao khác vĩnh viễn xung chiếu nó hoặc tam hợp nó. Ở đó là vị trí trống nên có thể chịu ảnh hưởng bởi xung chiếu và tam chiếu. Lập luận này cũng có lý, và từ đây bạn mở ra phép hội sao, biết sao nào chiếu được sao nào không.

Đến đây, bạn biết trong phép xem hạn của tam hợp phái hay nam phái, chỉ có một mình cung hạn được tính. Xem đại vận bạn có một cung, xem xuống tiểu vận bạn có 2 cung, xem đến tháng bạn có 3 cung. Cứ thể tổ hợp lại ra cách cục gì bạn chịu cách cục đó.

Nói về cuốn Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của tác giả Thái Thứ Lang

Trong Tử Vi Đẩu Số Tân Biên của Thái Thứ Lang các câu phú được cho vào phần PHỤ GIẢI nằm dưới phần ĐẠI CƯƠNG, có nghĩa là khi áp dụng có mâu thuẫn thì điều chỉnh theo phần đại cương ở trên.

...

Nói chung ông TTL đặt nặng đắc hãm và xét việc theo thứ tự trên dưới chứ không lung tung. Ngôn từ dùng khá chặt chẽ và máy móc, chứ không chém bừa.

Ví dụ:

Phá Miếu gặp cát tinh miếu, Kình Đà Không Kiếp đắc thì thôi, khen lên mây luôn.

Phá hãm gặp Kình Đà Không Kiếp đắc vẫn được phê là: cũng được hưởng giàu sang nhưng hay mắc tai họa.

Chỉ có Phá hãm lại gặp sát tinh hãm thì thôi, đổ mực vào cách cục: nào là cùng khốn, nào là lang thang, nào là nan y, nào là xiềng xích, nào là yểu tử, nào là thê thảm, bla bla bla...

Tóm lại nguyên tắc xét là:

- Chính tinh MVĐ hay hãm

- Sau đó mới đến sát tinh đắc hay hãm

Trường hợp xấu nhất luôn là Chính tinh hãm+Sát tinh hãm, lại không hợp cách nữa thì thôi, mang chuyện địa ngục lên để luận.

Còn chính tinh miếu+cát tinh đắc+sát tinh đắc hợp cách= thiên đường là đây, tiền lắm râu dài trường thọ, bla bla bla...

Ngoài ra, còn một đặc điểm với chính tinh là phân chia thành bộ, rồi bộ này có hợp bộ kia không.

TVĐSTB - trang 317

Phương pháp luận đoán vận hạn:

A. Quan sát

1.Gốc đại hạn 10 năm

2.Lưu đại hạn một năm (để cấp độ xét vẫn trên tiểu hạn)

3. Lưu niên tiểu hạn một năm

a. Sự tương sinh tương khắc giữa: (lúc nào cũng cân nhắc ngũ hành trước)

b. Chính diệu nhập hạn và chính diệu thủ mệnh thuộc cùng nhóm hay khác nhóm.

c. Sự tốt xấu của các sao hội hợp nhập hạn.

Đặc điểm của sách này là thích phân cấp độ, thứ tự ưu tiên rõ ràng. Xét cái gì trước, cái gì sau, cái gì to, cái gì bé, cái gì chính, cái gì phụ. Cho nên đề mục chi chít như lá mít. Việt Nam còn 2 tác giả cũng rất thích cụ thể hóa vấn đề là Thiên Lương (chuẩn hóa vòng Thái Tuế), Việt Viêm Tử (chia 8/2, 7/3 cho tuần triệt). Trung Hoa có Phan Tử Ngư và Liễu Vô Cư Sỹ cũng rất thích sợi tóc chẻ tư, viết cái gì là rõ ràng rành mạch không thích cảm tính chung chung.

Có lẽ, đây là tính hệ thống của cuốn sách. Gặp lá số nào cũng mang barem ra chém như chấm thi từ mục 1 đến 100, trong 1 lại chém từ a đến z.

Có lẽ trước khi đi tu, tác giả là quân nhân.

Đậu phụ, chém.

Cà rốt, chém.

Bắp cải, chém.

Rau sống, chém.

Chém,

Chém,

Chém hết.

Như bản The Mass:

Chém hết cho anh,

Chém hết cho anh,

Mang vào đây, mang vào đây chém, mang vào đây chém cho anh...

Chém, chém, chém, chém hết cho anh...

...

1. Trang 58 TVĐSTB, mục Hóa Lộc, TTL có thòng một câu: "Gặp Lộc Tồn đồng cung: gây ra những sự chẳng lành."

Trang 150, câu 7, 8, 9 đều ca ngợi cách bày đặt của Lộc Tồn và Hóa Lộc không đồng cung mà phải chính chiếu mới tốt đẹp.

Trang 164 câu 4, 5 ca ngợi thêm trường hợp một Lộc thủ một Lộc tam chiếu cũng OK.

Trang 165 câu 7 tác giả vẫn hết sức dè dặt không cho song Lộc đồng cung, dàn xếp rất rõ ràng: một thủ một chiếu.

Thì, tóm lại ý của ông ta vẫn ca ngợi chiếu hội thì đẹp, còn đồng cung thì "chẳng lành". Câu phú Lữ Hậu có lẽ ghép sự "chẳng lành" là "độc đoán" và "chuyên quyền" chứ không có các ngôn từ của địa ngục như "bại liệt" "tan xác" "hỏng người"...

Nếu coi hai lời phán "độc đoán" và "chuyên quyền" là xấu thì toàn bộ hệ thống trên nhất quán. Nhưng bôi thêm "xấu" là phanh thây, bay đầu, ngồi phải bàn chông, tông nhầm lựu đạn thì không có.

2. Theo tinh thần chính xác từng câu từ của tác giả, thì trang 166 câu 16: Khoa mệnh Quyền triều, đăng chung giáp đệ, có giải thích rõ ràng là Khoa thủ mệnh và Quyền chiếu chứ không phải đồng cung cũng không phải tam hợp, vì sao có đặc điểm này?

Tiếp theo, trang 162 mục tứ hóa, duy nhất có Hóa Quyền bị cảnh báo là "nếu gặp Tuần Triệt án ngữ" thì công danh trắc trở thành ít bại nhiều, trong khi 3 hóa còn lại không có lưu ý tuần triệt.

Trang 58 khi giới thiệu về tứ hóa, riêng Hóa Quyền có một đặc điểm:

"Gặp nhiều sao tốt đẹp: làm cho tốt đẹp hơn

Gặp nhiều sao xấu xa: làm cho xấu xa thêm".

còn 3 hóa còn lại không có đặc điểm này.

Truy tiếp Tuần Triệt thay đổi tính chất của các sao như Tử Phủ Nhật Nguyệt Tướng Tướng Hình Thai Ấn Mã Khôi Việt, rồi các sao Tả Hữu, Phục Binh, Quan Phù, Phi Liêm, Lực Sỹ, Lâm Quan có tính chất trợ tốt trợ xấu như Hóa Quyền thì thêm được:

- Hóa Quyền có tính thay đổi cường độ, các hóa khác không có.

- Các sao chủ quyền lực rất kỵ Tuần Triệt.

- Tuần Triệt có tính chất thay đổi cường độ--->phù hợp với tính chất đảo ngược đắc hãm của chính tinh mà TTL dùng rất nhiều trong sách.

Thì, đó người ta gọi là thực học.

...

Phần xem vận TTL có nói khi các sao lưu gặp các sao cố định thì mới tác dụng. Quan điểm này trùng với cách xem của Big boy Vương Đình Chi. Như vậy không phải lúc nào cách cục này cũng được kích hoạt.

...

Tử Vi Đẩu Số Trung Châu Vận Đoán-Vương Đình Chi, trang 319-320:

2. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SUY ĐOÁN ĐẠI HẠN, LƯU NIÊN, LƯU NGUYỆT, LƯU NHẬT. Phàm đối với các sao mà có "lưu tinh" thì lấy lưu tinh làm chủ. Mệnh bàn vốn có các sao, không xung thì không khởi tác dụng.

...

Ứng kỳ và độ bền của mệnh:

Nhân-->Địa--->Thiên;

vận--->thân--->mệnh;

xinh gái--->đằm thắm--->nhân hậu;

đẹp trai--->tài cao------->dũng cảm;

bằng giỏi--->kiến thức rỗng--->giả dối;

có học--->thiếu tư duy--->trí thức rởm;

giao tiếp vụng--->hảo ý--->chân tình;

Nói chung, cái gì cũng sẽ bộc lộ dần theo thời gian, vị cay xộc lên trong nháy mắt vị đắng ngấm xuống tận trăm năm. Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

...

Tinh đẩu biểu hiện trong nháy mắt, bản chất của đại vận sẽ biểu hiện trong cả 10 năm. Cái đơn giản lại tổng quát, cái chi tiết lại nhất thời.

Có nghĩa là:

Những đại vận thấy tinh đẩu sáng sủa hội tụ, nôm na là đẹp nhưng thành tựu so với vận khác lại tầm thường thì:

1. Xem lại khái niệm "đẹp" của đại vận.

2. Phải có một yếu tố A nào đó ẩn tàng có tác dụng điều chỉnh bề nổi là "đẹp". Phải chăng A là ngũ hành âm dương, phải chăng A là thiên can mệnh cung, hay tứ hóa thiên nguyên thì tùy phái.

Tương tự khi gặp một vận tinh đẩu xấu hội tụ mà thực tế cái xấu không đáng kể, thậm chí hi hữu còn đại phát thì cũng như trên sẽ tìm được yếu tố A.

Nếu chấp nhận có tam tài tức ba cấp độ mạnh yếu rộng lớn khác nhau là Thiên Địa Nhân thì phải chăng phối hợp tinh đẩu chỉ cho biết yếu tố nhân. Quan điểm phân cấp này đối lập với quan điểm hài hòa tất cả ngũ hành của ông Sở Hoàng trong bộ Hỷ Kị. Đây cũng chính là bế tắc trong phần luận ngũ hành của tác giả Nguyễn Phát Lộc khi ông không phân biệt được thứ tự quan trọng của các tương tác.

Nói cách khác, các tính trạng bộc lộ ra bên ngoài chịu chi phối của trình tự DNA bên trong và không biểu hiện hoàn toàn trình tự của DNA.

Thôi, viết vậy, lười quá, ai quan tâm tự tìm nhé.

...

Còn về mệnh cung thiên can. Ví dụ: Tử Vi cư ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ vị chí bô-xít.

Thì, Giáp Đinh Kỷ không hẳn do hóa khí khi phối GĐK vào. Mà có ý kiến cho rằng. Dần ẩn tàng Giáp, Ngọ ẩn tàng Đinh Kỷ nên Tử Vi cư ngọ lấy thiên can của dần ngọ biểu hiện bằng Lộc Tồn.

Rồi Tử vi nam hợi nữ dần cung, Nhâm Giáp sinh nhân phú quý đồng. Do lấy Nhâm can từ hợi và Giáp can từ dần.

Trang 99 TVĐSTB: câu 3. Thái Dương cư ngọ Canh Tân Đinh Kỷ thì Canh Tân lấy do hóa khi, còn Đinh Kỷ lấy do Lộc Tồn.

Điều này dẫn đến điểm rất quan trọng về cách chia đại vận thành nhiều mảnh và có vài ông giấu diếm dùng trên forum trước đây.

Ví dụ:

Sửu, tháng 12 Sau Tiết Tiểu Hàn, Quý chiếm 9 ngày, Tân chiếm 3 ngày, Kỷ

chiếm 18 ngày.

Tức là, đại vận sửu 10 năm: 3 năm đầu đứng chữ Quý, 1 năm sau đứng chữ Tân, 6 năm cuối đứng chữ Kỷ.

Đây cũng là tuyệt kỹ mà tử vi chợ cóc trong mơ cũng không có, các tử vi siêu thị nghiệm thử xem.

...

Và cũng nói luôn, là không bao giờ chứng minh hay hiểu vì sao 1 3 5 đặt ở ngọ dần thìn từ cách an sao tử vi hiện nay. Muốn truy gốc phải tìm từ các văn bản cổ hơn tử vi.

Triệt đóng nhâm quý cũng vậy, nó chỉ là biểu hiện chứ bản chất vì sao nó vậy mà không có tài liệu khác thì giải thích thế quái nào được. Vì trong phép an sao tử vi làm gì có các tiền đề đứng trước nó mà giải thích. Trong tử vi, nó được đặt cái huỵch như tiền đề, muốn giải thích nó bằng chính nó có mà ăn chinsu.

Sơ đẳng về phương pháp luận như vậy các ông còn không nắm được thì còn tìm tòi nghiên cứu cái gì.

Trước một vấn đề, phải biết mình cần gì đã.

Nhận xét về cuốn Tử Vi Đại Toàn của tác giả Thái Đình Nguyên

Đầu tiên là ngưỡng mộ tình yêu đối với tử vi của tác giả. Thiếu TY này mọi thứ chỉ là loại rác không thể tái chế.

Về phương pháp tử vi từ kỷ Jura cho đến thời tên lửa hành trình, đi đâu loanh quanh cũng chỉ vài phương pháp:

- Vòng tròn: dung hòa tất cả, pp này có ông Sở Hoàng với Hỉ kị đại đột phá, có tác giả VDTT với Hoàn Toàn Khoa Học, có Liễu Vô Cư Sỹ với "phải có cả cát tinh và sát tinh mới coi là tốt". Mỗi phái này đưa ra các tiêu chuẩn để lấy điểm trung hòa.

- Điểm mốc: điển hình cho phương pháp luận này là phái ngũ hành, bất kể thế nào cứ sinh là tốt khắc là xấu, đôi khi có phản cách nhưng không nhiều. Triết lý của phái này là: người hàng xóm chết nhưng hai cha con bán quan tài lại mừng thầm. Không có tốt xấu, chỉ có tốt với ai, và xấu với ai. Hôm nay có người thăng quan thì cũng có người vào tù, vấn đề là khí nào trong ngũ khí nắm lệnh. Khí Alex nắm lệnh thì tất cả đàn em của Alex ngồi từ cấp Thứ trở lên, khí Alex thất lệnh thì: alo, alo, anh, anh khỏe không, 5 năm em mới gọi được cho anh, bận quá trời anh ơi...Điển hình có cụ BaLa lấy ngũ hành nạp âm của năm sinh làm chuẩn phán định tất cả phần còn lại của lá số.

- Cung bậc: chia làm các tầng khác nhau để xét như barem thi đại học, Thiên-Địa-Nhân, Sinh-Vượng-Mộ chẳng hạn. Phương pháp này xét theo thứ tự ưu tiên, to nhỏ, nặng nhẹ khác nhau. Cách xem hạn trong Tử Vi Giảng Minh thể hiện phương pháp chia tầng này. Phương pháp này lợi hại ở chỗ xem được cuống và lá, cân phân nặng nhẹ, suy xét thực hư.

Về tĩnh-động thì VN mình theo tĩnh, còn Đài Cảng theo động. Vì theo tĩnh, nên phải ôm 108 sao, trong một vận lại phải dùng các pp phân định sao nào ảnh hưởng nhiều sao nào ảnh hưởng ít. Sản phẩm trôi nổi thị trường là phương pháp sao treo sao rung sao bay. Nhiều người lên đây bán hàng nhái, nhưng tôi khẳng định là: không có đâu. Vì ngay chiều hôm nay, một chân truyền của sao treo rung bay đã ngồi đây cà fe chém gió với tôi.

Quyển TVĐT thay vì chọn cách đứng cao lên-nhìn rộng ra-tổng quát hóa thì lại đi sâu vào lá số, sách viết rất chi tiết phần tính lý tinh đẩu và các cách cục, dùng ngũ hành làm tôn chỉ đoán mệnh. Và nhu cầu thiết yếu là phải dùng các cách Sinh-Tuyệt-Mộ rồi Tuần Triệt theo các tuần hoa giáp để phân định ảnh hưởng nặng nhẹ của sao từ các cung xung chiếu, và tác dụng lên mệnh bàn nói chung.

Nói chính xác thì pp sinh tuyệt mộ này không sai, trước đây có bác Hổ Về Rừng dùng rồi, nhưng tùy hệ phái mà có nên dùng hay không. Chứ không phải thấy mọi người dùng mình cũng ôm vào. Đã khác mạch thì muốn ôm cũng không nổi. Dù sao, cách luận như luận Tử Phá cư sửu của tác giả khá đặc sắc. Quyển này vẫn không thoát khỏi bóng dáng đè nặng của các tiền bối tử vi Việt trước đây để khai sáng một cách nhìn mới, một cách nhìn nào đó thực sự mới và hợp lý, nhưng bạn nào tôn thờ ngũ hành chắc chắn sẽ rất thích quyển này.

Mệnh cục tương khắc, âm dương nghịch lý

Xưa nay mệnh cục tương sinh, và thế âm dương thuận lý được coi là tốt. Nay ta cân phân xem có đúng vậy không.

Thứ nhất, âm dương thuận lý ta biết 6 cường cung sẽ nhận các sao như Tuế Hổ Phù Long Phượng, còn âm dương nghịch lý 6 cường cung sẽ nhận thế Thiên Không Kiếp Sát Thiếu Âm.

Nay xét mệnh cục, có 3 loại tương tác:

- Mệnh cục tỉ hòa

- Mệnh cục tương sinh

- Mệnh cục tương khắc

Nếu mệnh cục tỉ hòa coi như mệnh cục cùng sinh cùng diệt, khi cục trường sinh thì mệnh cũng trường sinh và khi cục tuyệt mệnh cũng tuyệt.

Mệnh cục tương sinh có hai trường hợp, mệnh sinh cục và cục sinh mệnh. Mệnh sinh cục thì mệnh có thể hỗ trợ cục. Ví dụ: mệnh kim cục thủy, khi cục thủy tuyệt khí tại tị thì mệnh kim trường sinh tại tị, tạo thành thế tuyệt xứ phùng sinh. Và ngược lại cho trường hợp cục sinh mệnh.

Mệnh cục tương khắc cũng có hai trường hợp, mệnh khắc cục và cục khắc mệnh. Đã khắc thì hàm ý là không giúp đỡ và hàm ý là không thuần nhất. Ví dụ mệnh kim khắc cục mộc. Mộc khí tuyệt tại thân nhưng tại đó kim vượng.

Trên cách nhìn tổng quát lá số thì khi mệnh cục tương khắc, tại một cung vị bất kì nếu hành khí này vượng thì hành khí kia suy và ngược lại.

Bây giờ xét xem sinh hay khắc là tốt hay xấu. Ta biết cách cục VCD Nhật Nguyệt thích Không Vong và ưa Mộc Suy Tuyệt. Nếu mệnh cục tương khắc, thì khi cục khí mộc suy tuyệt chắc chắn mệnh khí sẽ vượng. Tức nôm na ta hiểu sự mộc suy tuyệt ở đây không hòan toàn.

Đến đây có hai ngã rẽ để hiểu:

1. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh cần sinh vượng mộ bù lại cho cục mới là tốt

2. Cục mộc suy tuyệt rồi thì mệnh không nên sinh vượng mộ mới là thuần nhất, nếu không sẽ thành cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược.

Khi mệnh cục đồng hành, hay tương sinh thì sự đồng nhất của mệnh và cục cao hơn so với trường hợp mệnh cục tương khắc.

Đối với cách cục VCD Không Vong Nhật Nguyệt, ta biết cách này ưa Thiên Không cho nên phải là âm dương nghịch lý. Chứng tỏ âm dương thuận nghịch lý còn tùy cách cục mới biết được xấu tốt, không cứ thuận lý là tốt mà nghịch lý là xấu. Nếu thuận lý sẽ phù hợp với cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Tham khi đó Tuế Hổ Phù Long Phượng Hổ Cái sẽ tề tựu. Còn với VCD không vong Nhật Nguyệt lại cần Thiên Không Đào Hồng hơn Tuế Hổ Phù. Cách này còn ưa Mộc Suy Tuyệt hơn Sinh Vượng Mộ. Nhưng khi đó cần mệnh khí sinh vượng hay tử tuyệt?

Tứ mộ khởi biến hóa

Theo quy luật ngũ hành áp trên địa bàn. Tứ mộ là nơi ngừng nghỉ của năm hành. Không cần biết phương pháp gì, cách biện nào thì tứ mộ vẫn là nơi ngưng nghỉ của một hành nào đó, trước khi nó Tuyệt và trước khi hành khác sinh ra. Cho nên vận tứ mộ là vận thay đổi. Thay đổi có hai chiều hướng là từ tốt sang xấu và từ xấu sang tốt. Cho dù người mới học không rõ thay đổi đó là chiều hướng nào thì có thể nắm chắc một điều: tại vận tứ mộ phải có sự thay đổi. Ai đang đắp chăn ấm hãy lo ngại, ai đang co ro dưới gầm cầu hãy hi vọng. Đến tứ mộ đất trời cũng phải đổi thay chứ không nói con người.

Việt Nam đã có nhiều lần thay triều đổi đại vào năm Tuất. Kể cả không thay chiều đổi đại thì những năm thìn tuất cũng có sự kiện đáng kể. Gần đây những năm thìn tuất là sự chống tiêu cực trong giáo dục. Người đương thời Đỗ Việt Khoa anh cứ nhằm năm thìn tuất là tỏa sáng. Sau đó thì không thấy nhắc đến anh nữa. Năm sửu của Việt Nam thường là năm thất bại của các bang hội. Nhiều cuộc khởi nghĩa bị dập tắt năm sửu.

Tiểu vận của nam giới trong tử vi luôn đi thuận. Cho nên những năm La Hầu Kế Đô Thái Bạch của nam giới là những năm tiểu vận rơi vào tứ mộ. Với dân gian mà nói phải ra chùa làm lễ giải hạn. Với nhà tử vi mà nói đó là những năm rơi vào tứ mộ. Không hẳn xấu nhưng phải có thay đổi. Nắm được vấn đề cơ bản này, sẽ giúp ích rất nhiêu cho người mới học xem số, kể cả những người xem lâu năm có tiêu chí để đối chiếu tránh được mông lung. Vì đời người nhiều lắm có hai lần trải qua đại vận tứ mộ.

...

Tất nhiên phải kể đến ảnh hưởng của tinh đẩu, nếu không thì an tinh đẩu làm gì. Nhưng tử vi là bài toán mô tả không gian 3 chiều và 1 chiều thời gian. Muốn xác định được một điểm trong không gian phải dùng ba trục tọa độ x, y, z. Ba trục này đôi một độc lập nhưng không thể thay thế cho nhau. Nếu hỏi như trên là hiểu một trục có thể thay thế cho cả ba. Tất nhiên, không có chuyện đó. Nhưng nếu tìm được một thước đo có thể đánh giá rõ ràng vấn đề, phép đo đơn giản thì thước đo đó có giá trị.

Chân lý là con đường đơn giản nhất trong những con đường tương đương. Điều này đúng với cả chân người.

Về Tứ Hóa Phi Tinh

Xem Nghịch Thủy Kỵ là rõ nhất hàm ý của tứ hóa. Cung A đối xung cung B. Cung A phi hóa Kỵ tới cung B, nhưng cung B vốn sẵn có Hóa Kỵ năm sinh thì gọi là nghịch thủy Kỵ. Hàm ý Hóa Kỵ A muốn trao cho B bị B từ chối vì B đã có Hóa Kỵ rồi. Và Hóa Kỵ do A trao lại chảy ngược lại A thành vòng tuần hoàn vĩnh cửu.

Nghịch thủy Kỵ mang nghĩa tốt cho quan hệ A và B, cụ thể tốt cho A, ý tứ là dòng chảy giữa A và B cứ thế mãi mãi luân chuyển không ngừng nghỉ.

Tuy nhiên, có trường hợp đường dẫn bị thủng và nước rò ra ngoài. Đó là khi cung B tự hóa. Khi cung B tự hóa thì Hóa Kỵ của A trao sang B sẽ được B nhận và tiêu đi mất, thành ra không còn Nghịch Thủy Kỵ nữa. Cho nên xấu.

Phép xem tứ hóa cần lưu ý có hai loại hóa khác nhau. Nếu xem tứ hóa theo kiểu gom sao tam hợp sẽ thành cảnh hóa bay đầy trời.

Loại thứ 1: Tứ hóa do năm sinh gây ra, hoặc tứ hóa do lưu niên gây ra. Đây là tứ hóa ngoại nhập. Nó như cây cỏ gỗ đá của thiên nhiên bày ra, con người có thể tùy đó sử dụng.

Loại thứ 2: Tứ hóa do can cung gây ra. Loại này là tâm ý các cung, nó muốn gì, muốn phi hóa đi đâu, và nó nhận phi hóa từ đâu, tự hóa thế nào đều chính là tứ hóa loại 2 này.

Ta tưởng tượng Chúa Trời đưa quả táo cho con người, thì quả táo này là tứ hóa loại 1. Con người đối với quả táo này có 4 cách xử lý, thì cách cách xử lý này là tứ hóa loại 2 do can cung thủ diễn. Có thể ăn, có thể ném, có thể đem trồng.

Cho nên mới thấy Chúa Trời đưa quả táo, thì chỉ thấy thùy tượng. Phải biết quả táo đó được dùng thế nào thì mới xem được số. Nhưng đừng nhầm hai loại tứ hóa kẻo lại bắt gà lúc 6 giờ chiều.

.........

Người học tứ hóa nên nắm chắc hàm ý của phi hóa trước. Tự hóa là trường hợp riêng của phi hóa tại chỗ. Phi hóa là xu hướng tiềm năng, là con đường giao thông giữa các cung. Muốn có những chiếc xe tải chạy trên đường cần có hóa khí [năm sinh] hoặc hóa khí [lưu niên] xâm nhập.

Tôi nghĩ 90% người tử vi ở Việt nam hiện nay không hiểu ý nghĩa và cách dùng phi hóa.

Ví dụ mệnh nhận Hóa Lộc [năm sinh] nhưng từ đó lại phi Lộc sang tài bạch thì luận sao, phi Kỵ sang điền trạch thì luận sao. Họ đều ngáo ngơ cả.

Phi hóa trong tử vi chính là ý hướng của can chi trong tử bình. Can đó chi đó muốn gì, muốn hướng tác dụng sang đâu, blah bloh.

.........

Tổng hợp

Tứ sát:

Sát Phá Tham của vòng chính tinh

Mộc Suy Tuyệt của vòng Trường Sinh

Kình Đà của can năm sinh

Không Đào Sát của chi năm sinh

Đến đây ta đã có thể xem tử vi theo hệ thống.

Với yếu lĩnh lượng đổi chất đổi, khi có 1 thì gọi là mầm mống, khi có 2 là thành hiện tượng, khi có 3 thì cực điểm, nhưng khi có 4 yếu tố hội tụ thì lại phản vi kỳ, không trở thành có, mà sát lại đảo thành cát.

Tứ sinh:

Tử Vũ Liêm của vòng chính tinh

Tuế Hổ Phù của vòng thái tuế

Lộc Tướng Ấn của vòng lộc tồn bác sỹ

Sinh Vượng Mộ của vòng trường sinh

Tứ sinh được mô tả trong thế chân mệnh thiên tử của topic này. Tứ sinh cộng hưởng với nhau thì hoàn mỹ.

Việc xem số xoay quay Tứ Không, Tứ Sát và Tứ Sinh. Dựa vào hệ thống này thì giờ đây chúng ta có thể xem tử vi một cách toàn diện, không thiếu sót. Và hiểu được cái gì là chính cái gì là phụ. Sau khi đã xác định được khung số, việc xét đoán các tiểu tiết sẽ có định hướng và bớt mông lung hơn, tất nhiên sẽ tự tin và kết quả sẽ chính xác hơn. Xin chúc mừng cộng đồng biết được điều này.

Mệnh Tài Quan trong cách hiểu tổng quát thì cũng là một loại "sao". Loại sao này có thể tổ hợp với bất cứ bộ sao nào phía trên để ra chi tiết cuộc đời. Tức là bạn có 5 yếu tố để xét số rồi đấy. Trước giờ bạn nghĩ cứ phải nhìn từ mệnh tài quan nhìn đi. Giờ bạn đã biết có thể nhìn từ bất cứ cung nào cũng là lá số của mình, và mệnh tài quan cũng chỉ là một tam hợp.

Khi 5 yếu tố cộng hưởng: Mệnh tài quan có Tử Vũ Liêm+Tuế Hổ Phù+Lộc Tướng Ấn+Sinh Vượng Mộ.

Nếu Mệnh Tài Quan là tượng của Sinh Vượng Mộ thì Điền Tật Bào chính là tượng của Mộc Suy Tuyệt. Giả sử Điền Tật Bào của bạn hội tụ 4 yếu tố tứ sinh thì bạn có tứ sinh+ 1 Tuyệt tất nhiên sẽ không tốt bằng ngũ sinh khi Mệnh Tài Quan + 4 sinh rồi.

Và khi đại vận đi đến cung Tật, bạn cũng ngầm hiểu giống như mình từ vị trí Sinh Vượng Mộ đến vị trí Mộc Suy Tuyệt ắt không thể tốt đẹp. Đó là lý thống nhất về quy luật của tất cả các tam hợp.

....

Cũng chẳng có gì phải giữ làm của riêng. Vì có đưa ra cũng chưa chắc đã lãnh hội được.

Có những điều các tiền bối nói trước đây tôi rất coi thường, ví dụ như Nhật/Nguyệt thủ mệnh thì khắc đoạt phụ tinh/mẫu tinh nên cha mẹ mất sớm.

Sau này thực tế thấy nhiều lá số có Thái Dương hoặc Thái Âm thủ mệnh đều: hoặc sau khi cha/mẹ mất thì phát tài phát quyền, hoặc phát tài phát quyền xong trong thời gian ngắn cỡ vài tháng thì cha/mẹ mất. Cách đây không lâu khi cha tôi đưa lá số đối thủ chính trị của ông có Thái Dương thủ mệnh, sau khi lên chức vài tháng cha bại liệt rồi qua đời trong trạng thái thực vật. Tôi mới ngỡ ngàng đốn ngộ, buột miệng bảo: lá số này quả nhiên có Thái Dương thủ mệnh. Ngẫm lại mới thấy ngày xưa quá non nớt, chuyện đời thật rộng lớn mênh mông như biển Thái Bình.

Đó mới chính là phần tâm linh thú vị khó lý giải của tử vi, chứ không phải như mấy thằng ngu có vài thuật toán cơ bản không luận được lại đổ tại cho huyền bí.

Cho nên có lẽ các chiêu thức kinh khiếp nhất đều lộ lộ trong sách rồi, chỉ trách ta quá thông minh mà u mê thôi.

Ta vẫn lang thang buổi chợ chiều

Đường dài bóng đổ dáng liêu xiêu

Từ ngày hôm đó ai đi mất

Ta vẫn đi ngang buổi chợ chiều.

....

Vòng Thái Tuế không chịu tương tác với Không Vong nhưng vòng Trường Sinh thì đặc biệt chịu sự tác động mạnh mẽ của Không Vong. Nói vậy để bạn biết con gà không thể cộng với con vịt mà phải chọn đúng gà.

Vị trí Tuyệt rất hợp với Triệt, thậm chí có người coi nó là Triệt thứ hai.

Vị trí Mộ rất hợp với Tuần, cả hai cùng chủ tích lũy thu hút gom góp.

Cho nên bạn biết Trường Sinh không ưa Triệt Tuần chút nào, trừ khi phải đào dòng chảy với kỹ thuật âu thuyền nâng con tàu qua kênh đào Panama kỳ diệu.

Nói về sát tinh, có Địa Không và Linh Tinh hợp với cách cục VCD Nhật Nguyệt, còn Kình Đà thì phá hoại cách cục này. Mệnh thân đắc cách VCD Nhật Nguyệt rất kỵ hành vận Sát Phá Tham do tính âm dương đối chọi nhau điên đảo. Còn mệnh Sát Phá Tham gặp vận Nhật Nguyệt bạn có thể hỏi vua Quang Trung.

Câu đầu tiên khi nghĩ về cách cục Nhật Nguyệt là bạn phải nhớ tới thông minh. Cách cục Nhật Nguyệt đại diện cho trí thông minh, uyên bác trên bất cứ lá số nào. Cách cục Sát Phá Tham cho biết khả năng hành động. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng cho biết khả năng tổ chức quản lý. Sát Phá Tham thì thiên dương, Nhật Nguyệt thiên âm, còn Tử Phủ Vũ Tướng dung hòa ở giữa.

Cho nên nghĩ tới Nhật Nguyệt là nghĩ tới thông minh và trường thọ. Còn lại tùy bạn gia giảm khi cách chưa hoàn thiện hoặc bị phá.

...

Không Kiếp là lưỡi kiếm sắc bén. Khôi Việt là cái chuôi, Quang Quý là cái vỏ. Xuất chiêu mạnh yếu xem cục khí, ai cầm kiếm xem chính tinh.

Lưỡi kiếm mà không có chuôi và vỏ thì không dùng được. Cố dùng đứt tay.

Hỏa Tinh là ngọn lửa, Thai Tọa là chân đế. Quan Phúc là nắp chụp. Cục khí là dầu hỏa. Thành ngọn đèn Huê Kỳ sáng rực. Với Linh Tinh tương tự thành ngọn lửa hàn xì.

Không có chân đế và nắp chụp ngọn lửa không dùng được.

....

Đầu tiên nói về thể dụng. Thể dụng là nội hàm bất biến của quẻ. Nó phụ thuộc vào vị trí hào động là ở đâu. Ví dụ Thiên Phong Cấu thì mãi mãi là kim khắc mộc. Cho nên thể dụng cho biết cái Thế của quẻ. Thế đứng, thế chủ động hay thế bị động, thế chính danh hay thế danh bất chính đều do thể dụng mà ra. Ví dụ thể là kim khắc dụng mộc thì mình được thế chủ động. Mình là vua còn dụng là bề tôi. Nhưng ngoài thế còn có lực. Vào mùa xuân, kim tuyệt không khắc nổi mộc vượng. Vào thời Hiến Đế vua không bảo được Tào Tháo. Vào thời Chúa Trịnh thì vua Lê chỉ là cái bóng. Cho nên nhìn vào mùa gieo quẻ thì bạn biết lực lượng của hai phe thể dụng. Bạn biết có khắc nổi không, có sinh nổi không. Nó cho biết thực hư của mối quan hệ thể dụng. Bề ngoài Hiến Đế và Tào Tháo là vua tôi. Bên trong thì Tháo nắm quyền.

Yếu tố thứ ba là tên quẻ. Tên quẻ cho biết tính chất của thời đó. Địa Thiên Thái và Thiên Địa Bĩ đều là Thổ sinh Kim. Nhưng một thời thái một thời bĩ. Ý nghĩa quẻ có mối liên hệ chặt chẽ với tương quan nội quái ngoại quái. Bạn kiểm nghiệm sẽ hiểu sự kì diệu này. Vì dụ Bĩ là nội sinh ngoại không tốt. Thái là ngoại sinh nội nên tốt. Thiên Trạch Lý lễ dã lộ hành. Nội ngoại đều là kim nhưng ngoại quái Càn là quái mạnh. Nội quái Đoài yếu đuối thụ động hơn, phải chịu sự uốn nắn và chuẩn mực của càn, cho nên nghĩa quẻ là theo lề lối khuôn phép mà đi. Lý nghĩa đen là cái giày. Giày có khuôn thước. Sau khi dựa vào những cơ bản trên và thực hành. Bạn sẽ nắm vững cách xem.

....

Phát hiện quan trọng: tiểu vận có tác dụng lên tên cung hơn là thái tuế. Ví dụ tiểu vận đóng cung quan lộc thì năm đó công việc có biến chuyển. Thái tuế đóng đó thì chưa hẳn nha.

Thái tuế có tác động mạnh lên chính tinh cung nó đóng hơn là tên cung. Ví dụ cung điền có Thái Dương. Thái tuế đóng đó thì ảnh hưởng của Thái Dương lập tức phát huy. Chuyện điền trạch thì chưa chắc.

Lưu niên đại vận cho kết quả chung cuộc cả năm. Thành bại phải xem LNDV.

Nếu lười có thể nháng qua LNDV là có thể dự đoán kết cục. Ví dụ một năm mà Không Kiếp hãm rồi tóe loe hao bại xung quanh. Cho dù tiểu vận và thái tuế đẹp cũng không đến đâu. Kiểu được cấp trên hứa thật nhiều rồi thất hứa thật nhiều. Nhưng đừng dùng LNDV đoán tên cung. Nó có đóng vào phụ mẫu. Sự việc chưa chắc liên quan phụ mẫu.

Nhiều người xem tử vi lâu năm cũng không phân biệt được 3 loại vận này nên đành dự đoán cảm tính, sự mơ hồ thế nào không nói cũng biết

Chúc bạn thành công

....

Chính tinh là tâm thái, phụ tinh cho mô tả chính xác. Ví dụ: "cái áo" cụt lủn chỉ cho biết là cái áo, nhưng áo bộ đội, hay áo khoác, hay áo rét, hay áo gió, hay bra, thì tùy thuộc vào phụ tinh. Thoáng qua bề ngòai tướng người thì do chính tinh làm chủ. Cụ thể con người đó thế nào thì do phụ tinh chi tiết thêm.

Phân cách phải nắm chắc tầng bậc, thứ tự mới không thể nhầm lẫn. Vũ trụ có trật tự của nó, thời gian có thứ tự trước sau. Chỉ cần thay đổi thứ tự, ý nghĩa thậm chí bị đảo ngược.

...

Đó là thuận lý tự nhiên. Tử vi và đời có những cách thuận lý cũng có những cách nghịch lý. Thuận lý thì bền và được quần chúng ủng hộ. Nghịch lý thì cũng có thể thành công, nhưng phải trả giá bằng tai tiếng hoặc tù tội hoặc mạng sống. Ví dụ đi ăn cướp sẽ có tiền nhanh nhưng hậu quả là bỏ mạng hoặc đi tù. Tiếc là bây giờ nhiều người đi theo con đường bất chấp này.

Biểu hiện thành hình của sự nghịch lý tự nhiên là các vị trí sát tinh. Cứu cánh của nó là miếu đắc địa, tức vị trí cân bằng âm dương của sát tinh. Khi sát tinh miếu địa, thành công vang dội và bất ngờ nhưng bạo phát bạo tàn. Bạo tàn vì căn lõi của nó là sự nghịch lý rồi, nên không thể bền.

Tổng hợp từ Facebook

- Mệnh khắc xuất là sướng trước khổ sau hay khổ trước sướng sau?

- Khổ trước sướng sau.

- Vì sao có thể biết như vậy?

- Vì bốn mùa xuân hạ thu đông có trật tự rõ ràng.

...

Âm dương đã nghịch lý thì mệnh cục trái tính âm dương. Trái tính âm dương rồi thì sinh hay khắc đều không có tác dụng mạnh. Cho nên:

- Âm dương là tiên quyết, ngũ hành là hậu quyết.

Xét mệnh cục tương khắc phải trong không gian âm dương thuận nghịch lý.

Học mãi mới hiểu vì sao đời kêu oai oái mệnh cục tương sinh hay tương khắc đều chẳng khác gì nhau.

...

Trong tử vi thì dương mặc định cho tốt. Âm cho xấu. Ví dụ Tử Vi cung dương bao giờ cũng tốt hơn cung âm. Dương là thuần nhất rõ ràng. Âm là tạp loạn mập mờ. Ví dụ các chính tinh đồng cung dương là các sao cùng tính chất gặp nhau. Các chính tinh đồng cung âm là chính tinh khác tính chất gặp nhau.

Nếu tháng giờ cùng tính âm dương, mệnh thân đóng cung dương.

Nếu cung mệnh và năm cùng tính âm dương, đó là âm dương thuận lý, xác suất gặp sao tốt rất cao.

Nếu cung mệnh và tháng cùng tính âm dương, không gặp Hình Riêu.

Nếu cung mệnh và giờ cùng tính âm dương, không gặp Không Kiếp.

Cục dương với ngày dương tốt hơn ngày âm.

Cục âm thì hỗn độn có tốt có xấu.

Nếu tháng và ngày cùng tính âm dương Thai Tọa sẽ đóng cung dương.

Như vậy chưa cần lập lá số. Xem tổ hợp năm- tháng- ngày- giờ nếu thấy cùng tính âm dương nhiều sẽ tốt nhiều. Khác tính âm dương sẽ kém tốt.

Xem vận nếu nhập vận cung dương thấy nhiều sao xấu e rằng khó cứu vì cái xấu là thuần nhất. Nhập vận cung âm thấy nhiều sao tốt coi chừng cái tốt thiếu ổn định. Tuổi âm nhập vận cung dương tất nhiên phải chịu nhiều chóe ngoe. Cho dù nhiều sao tốt cũng không thể mãn ý như tuổi dương nhập cung dương.

Xem ra phép âm dương cô đọng quá mà ít người chịu dùng triệt để.

...

Thái Thứ Lang cho rằng mệnh VCD hợp vận Sát, Phá, Liêm, Tham, lục sát, lục bại. Cung VCD thì hợp Tuần Triệt án ngữ. Nhưng sách vở khác như Thiên Lương chỉ đề cập đến Bạch Hổ mà không hề nhắc tới 5 bại tinh còn lại là Tang Khốc Hư song Hao.

Kì thực do yếu quyết: " hỏa không phát, kim không minh". Dẫn đến mệnh rồi sao hợp với VCD đều phải là hỏa hoặc kim. Mà Tang mộc, Khốc Hư đều thuộc thủy. Song Hao thì Thái Lang cho là hỏa. Có sách cho là thủy. Các sách không dùng Hao cho VCD chắc quan điểm Hao thủy. Còn theo Thái Lang thì dùng Hao cho cung VCD ngon lành.

...

Cái gì nghịch với Đạo (quy luật tự nhiên) thì không bền. Cái gì thuận với Đạo thì không thể vội.

...

Nhược điểm song Hao: có tiền là tiêu, có sức là chơi.

Đặc điểm song Hao: tích độc nhanh, thải độc nhanh. Nên song Hao đi kèm sát tinh dễ trúng độc cấp tính mà đột quỵ. Song Hao kèm cát tinh phú quý không thể bền.

Nhược điểm Lộc Tồn: tụ không thể tán. Nên Lộc Tồn khả giải sát tinh nhưng lại làm ngưng trệ tam hóa. Dẫn đến hóa khí khó phát tác. Dễ nhiễm độc mạn tính. Khi phát hiện không thể cứu.

Hóa Kị phúc đức có xu hướng tự kỉ. Đi kèm Đà Riêu thì khó chữa. Hay nghĩ đến việc tự sát hoặc bi quan không lối thoát.

...

Trong mệnh lý, có những yếu tố luôn đi thuận, thể hiện quy luật bất biến. Ví dụ: vòng thái tuế, bốn mùa xuân hạ thu đông, quy luật sinh khắc của ngũ hành. Sách nói: "Thiên địa bất nhân coi vạn vật như chó rơm". Hàm ý các quy luật tự nhiên cứ vận hành như vậy bất kể ý muốn con người ra sao. Người tốt hay người xấu nhảy từ tháp Effel xuống đều chết vì trọng trường tác dụng bất kể tốt xấu.

Nhưng liên quan đến con người luôn có thuận và nghịch. Như đại vận phải tính tới yếu tố nam nữ. Vong Trường Sinh Vòng Bác Sĩ đều kể tới yếu tố nam nữ. Cách an Hỏa Linh cũng kể đến nam nữ. Tiểu vận cũng kể đến yếu tố nam nữ. Cho nên các sao trên có thể xếp vào phần Nhân.

Tuy nhiên, các quy luật tự nhiên (chỉ an thuận hoặc chỉ an nghịch) hay còn gọi là phần Thiên luôn có ảnh hưởng lấn át áp đặt lên phần nhân. Tính chất của các sao đó như các hằng số bất biến. Sự luận giải cũng đơn nhất không đa nghĩa. Và là tiêu chuẩn để hiệu chỉnh khi có sự mập mờ từ các suy luận khác. Nhược điểm của yếu tố Thiên là thô mộc, thiếu chi tiết tinh xảo, rõ ràng nhưng chung chung.

...

Tham Sát Phá: tham sân si. Tham có lúc hóa Lộc hóa Quyền hóa Kỵ nhưng không hóa Khoa. Lòng tham có thể làm con người giàu có quyền lực cũng có thể gây họa (Kỵ) nhưng không thể mang lại sự sáng suốt (Khoa).

Phá có thể hóa Lộc, Phá có thể hóa Quyền, nhưng không hóa Khoa và Kỵ. Si mê có thể đem lại giàu có và quyền lực nhưng không đem lại sự sáng suốt nhưng cũng không gây họa ( có ý kiến cho rằng trong Phá luôn có tính Kỵ rồi nên không cần hóa Kỵ nữa).

Nhưng Sát tức sân hận thì không hóa, không thể chuyển hóa hay rất khó chuyển hóa.

...

Trong tử vi:

1. Dương là quy ước của tốt. Âm là quy ước của xấu.

2. Thuần tốt hơn Tạp.

3. Nếu tạp thì cân đối tốt hơn thiên lệch.

Điều 1 thể hiện qua vị trí khởi điểm của các cát tinh và chính tinh. Điểm hai thể hiện trong cách cục. Điểm ba thể hiện trong sự miếu đắc của sát tinh.

...

Thứ 7 là ngày dành cho gia đình.

Chủ nhật là ngày dành cho bản thân.

Những ngày còn lại dành cho xã hội.

Written by người phản đối những khuyến khích làm việc cả ngày thứ 7 và CN của bọn chủ người Nhật.

Quy luật tự nhiên có nhịp điệu có chu kỳ. Mặt trời mọc rồi lặn hàng ngày. Từ lâu loài người đã phát hiện ra chu kỳ 7. Tại vị trí số 7, năng lượng yếu nhất và cần phải tĩnh dưỡng. Trong tử vi đó là ngôi Thất Sát đứng thứ 7 kể từ vị trí sung mãn là Thiên Phủ. Phủ trù phú thì Sát rất nghèo. Phủ đầy năng lượng thì Sát ít năng lượng. Phủ vượng thì Sát diệt. Trong Tarot, con bài số 7 của cả bốn nguyên tố đều mang nghĩa xấu. Thất côn chủ tranh đoạt. Thất kiếm chủ trộm cắp. Thất cốc chủ mê muội. Thất tiền chủ sự nghỉ ngơi. Thất tiền mang ý nghĩa khá nhất tứ nguyên tố thì cũng không thể hoạt động được.

...

Tử vi là tà đạo và chỉ có những người chính khí ngút trời mới có thể làm chủ được nó. Còn lại đều bị tử vi dắt vào con đường lầm lạc, đều làm nô lệ cho nó và bị tâm ma sai khiến bất kể kẻ đó bao tuổi, tài cao bao nhiêu. Cho nên học tử vi mà thấy càng ngày Tham Sân Si càng lộ rõ và ngấu nghiến tâm can thì kẻ đó đã bước vào ma đạo rồi. Những lời khuyến cáo của tôi hay bị bọn u mê coi thường. Chúng không hiểu bản chất tà ngụy của các thuật bói. Chúng không hiểu vì sao các đại đức họ chỉ khuyên người đời tu tâm chứ đừng ham cầu bói toán. Biết sẽ chết lúc nào. Nhưng không biết bệnh gì. Dù biết bệnh gì. Nhưng không biết cách chữa thì biết làm gì. Hay cái biết đó để phục vụ cho lòng tham của tâm, tham phúc và sợ họa. Phúc không phải đuổi theo mà được. Phúc do nó tự tìm mình mà đến. Họa không phải đuổi mà đi. Họa do nó tự bỏ ta mà đi. Vạn sự do tâm. Tâm thiện phúc đến. Tâm ác họa đến. Bọn bói toán chỉ cầu biết cái biểu hiện mà không biết được nguyên nhân thì sao chúng có thể giúp người. Chưa nói trình độ của chúng thì như gia cầm lục súc.

...

Tứ hóa là bốn loại tâm lý cảm xúc, nói gọn là tâm thế. Hóa Kỵ là tâm thế tiêu cực. Tứ hóa phái cho rằng lục sát tinh không đáng sợ, đáng sợ là khi Hóa Kỵ đến kích phát lục sát tinh tác họa. Lục sát tinh nó như tính xấu tiềm ẩn trong con người bạn do DNA quy định khi chúng ta sinh ra. Nhưng nếu không có tâm lý tiêu cực thì lục sát tinh đó cũng không tác họa. Con người sơ sinh mang hai tính thiện ác. Thiện như cát tinh, ác như lục sát. Nhưng nếu không vào hoàn cảnh nhất định của cả thân và tâm, thì những căn ác đó không có điều kiện nảy nở mọc thành quả, thậm chí còn lặn mất. Hóa Lộc bản chất là loại tâm lý tích cực, có tác dụng kích phát theo hướng lạc quan. Khi đi cùng lục sát, Hóa Lộc biến lục sát thành kỳ cách. Ví dụ như sự tinh xảo của các nghệ nhân hay các cầu thủ bóng đá. Họ dùng cái quái cái tinh xảo đó để phục vụ cái tốt. Hoa sen trong bùn là tượng tương ứng của Hóa Lộc trong lục sát. Diêu Đà Kỵ là một cách cục thể hiện sự kích phát của Hóa Kỵ. Bản chất là Kỵ kích phát Đà Diêu. Trong cách cục có thể chỉ có Đà Diêu, khi gặp vận có Kỵ kích phát sẽ xảy ra chuyện không hay.

Qua bài này, bạn hiểu thêm về tứ hóa, cảm thấy sờ được, nắm được tứ hóa chứ không mơ hồ như kinh điển từ ngàn xưa. Ngoài ra, chịu khó áp dụng bạn còn hiểu được ứng kỳ. Cứ khi nào Hóa Kỵ nhập hoặc xung cung lục sát thì xấu. Cứ khi nào Hóa Lộc nhập hoặc xung thì khả quan. Không có Lộc Kỵ kích phát thì không sợ sát tinh. Tất nhiên đi ngang con chó, nó đã không bảo gì đừng có đá vào mõm nó.

...

Thái Âm cặp với 3 người đàn ông: Cơ Nhật Đồng.

Thái Dương cặp với 3 người đàn bà: Cự Nguyệt Lương.

Tử Vi làm việc với 5 đồng đảng: Phủ Tướng Sát Phá Tham.

Nhóm sao âm chủ quan hệ con người hơn là nhóm sao dương. Nhóm sao dương chủ quan hệ công việc hơn là nhóm sao âm.

...

Cần nghiêm khắc nhìn lại thuyết tam tài. Đây là thiếu sót lớn nhất của giới mệnh lý ngày nay.

...

Tượng Khí Số và Lý. Mãi không hiểu Lý là gì sau mới biết Lý là câu chuyện.

Khách hàng không mua rượu vang, họ mua câu chuyện về nút gỗ sồi gắn với chai rượu ấy. Vì câu chuyện hàm chứa mạch xuyên suốt từ lúc hình thành chai vang đó. Câu chuyện cho họ thấy sự có lý. Câu chuyện cho họ lý do mua nó và uống nó chứ không phải loại vang khác.

Tử vi cũng có Lý bên cạnh Tượng Khí Số. Lý của tử vi là câu chuyện hợp lý giữa các tương tác sao. Khách hàng muốn nghe câu chuyện xuyên suốt toàn lá số. Nên hãy túm được mạch chuyện và kể cho họ. Mà muốn làm được việc đó thì phải giỏi. Cố gắng giỏi nhé.

...

Những người có Không Kiếp thủ mệnh, nhất là Không Kiếp hãm địa là những người khi nói chuyện hay tỏ ra biểu hiện nguy hiểm. Không hẳn họ muốn vậy, và cách nhìn sự thế của họ như vậy. Sự việc có thể đơn giản thường lại bị họ làm cho rối tung lên. Một người vá xe bình thường cũng có thể trở thành điệp viên quốc tế trong mắt họ. Tuy nhiên, đó chỉ là thùy tượng của Không Kiếp. Tùy tình huống cụ thể mà cân phân khác nhau. Nhưng qua đó, ta thấy được cuộc đời phụ thuộc vào cách nhìn đời hơn là phụ thuộc vào đời thực. Thấy sự việc nguy hiểm sẽ có tâm thái tương ứng đối phó với sự việc đó. Phải chăng truyền thuyết các đại sư ngồi thiền, chim chóc rắn rết có thể bu quanh là có thật?

[Mình cũng đang tỏ vẻ nguy hiểm ^^]

Vậy sao Khôi Việt Quang Quý giải quyết được sự "tỏ vẻ nguy hiểm" này?

...

Cách nghiên cứu một sao trong tử vi rất đơn giản. Bạn cứ nhìn thẳng vào nó, trong khi mọi thứ xung quanh nó thay đổi thì bạn vẫn nhìn thẳng vào nó. Rồi bạn sẽ nhận ra nó, nhận ra mối liên hệ giữa bầu trời sao xung quanh nó với nó.

...

Ngũ hành là thuộc tính. Âm dương là trạng thái. Cùng là sắt nhưng có sắt nguội sắt nóng, có sắt khối sắt vụn, có sắt thuần sắt tạp.

...

Trong tử vi. Yếu tố A có tính chất tiên thiên của nó. Nhưng khi gặp yếu tố B thì cát hung là sự tương tác giữa A và B. Nói cách khác đó là hậu thiên của A. Ví dụ A là đèn, B là trời nắng. AB là đốt đèn giữa trời nắng. Cho nên cần lắm nhận thức đúng đắn khi xem vận. Cùng cái đèn đó nhưng trong đêm thì lung linh huyền ảo.

Hay như mệnh Sát Phá Tham đến đại vận Nhật Nguyệt, dù Nhật Nguyệt có rực rỡ cùng các cát tinh đi kèm đến đâu thì cũng khó mà tốt đẹp. Cái nhìn này khác với cái nhìn khi nhập đại vận nào đó, không cần xét đến vốn mệnh là gì.

...

Tuần và Triệt là Không Vong. Không Vong có nghĩa là thời gian không thực. Trong đó Triệt là quá sớm. Tuần là quá muộn. Thái Dương hợp Triệt vì mặt trời chủ tán xạ chủ sáng sớm. Thái Âm hợp Tuần vì mặt trăng chủ thâu liễm thu vào. Cho nên khi Nhật Nguyệt hãm địa tức mặt trời và mặt trăng sai thời. Gặp Tuần Triệt thì thời được điều chỉnh lại.

Vấn đề ở chỗ muộn là muộn bao lâu, sớm là sớm bao lâu. Có thể ngẫm mà biết được.

...

Trong tử bình, động tĩnh do địa chi báo. Cát hung do thiên can quản. Ví dụ tiểu vận năm ất mùi, chắc chắn chi mùi được hiện và chi sửu bị xung. Vào năm đó sửu và mùi đều có chuyện. Nhưng cát hay hung phải xem biểu hiện của can ất. Dụng Kỷ, Ất phá Kỷ thổ dụng thần là hung. Dụng Canh, Ất hợp Canh là cát.

Trong tử vi thì địa chi năm vận cho biết cung bị động. Nhưng động cát hay động hung phải xem thiên can. Nôm na phái tứ hóa khẳng định cách xem của mình.

...

Ngũ hành sinh khắc đi cùng nhau song song. Có sinh mới có khắc và ngược lại. Kim khắc mộc để mộc sinh hỏa. Dao chẻ củi đốn cây để mang đi đốt. Thủy dập hỏa thành tro để hỏa sinh thổ. Hỏa khắc kim để kim sinh thủy. Lửa nung kim loại tan chảy thành lỏng. Thổ ngưng thủy để thủy bớt tràn lan có thể dưỡng mộc. Mộc khắc thổ để thổ sinh kim. Cây mọc trên đất để chuyển khoáng vào đất.

Đó là khắc để mà sinh. Và còn sinh để mà khắc.

Hỏa sinh thổ để thổ khắc thủy cứu hỏa.

Thổ sinh kim để kim khắc mộc cứu thổ.

Kim sinh thủy để thủy khắc hỏa cứu kim.

Thủy sinh mộc để mộc khắc thổ cứu thủy.

Mộc sinh hỏa để hỏa khắc kim cứu mộc.

Cho nên xét ngũ hành đầy đủ cần biết cả sinh khắc vậy. Vì sao chưa sinh vì chưa bị khắc. Bị khắc mới chuyển hóa. Vì sao còn khắc vì khắc chưa đủ để sinh.

Tiếp theo là ngũ hành phản khắc nha. Bình thường dương khắc dương nhưng phản khắc là âm khắc dương.

Bình thường thủy khắc hỏa. Nhưng âm hỏa (ngọn lửa không trực tiếp) phản khắc thủy thì thủy cũng sinh mộc. Ví dụ lửa đun nước nước hóa hơi (mộc).

Thổ khắc thủy nhưng thủy phản khắc xói mòn thổ mà lộ kim.

Kim khắc mộc (cây) nhưng âm mộc (khí) phản khắc ăn mòn làm kim loại chảy nước.

Phản khắc có thể luận như sau:

Hỏa khắc kim nhưng kim hóa thủy phản khắc lại hỏa làm hỏa sinh thổ.

Kim khắc mộc nhưng mộc hóa hỏa khắc lại kim làm kim sinh thủy.

Mộc khắc thổ nhưng thổ sinh kim khắc lại mộc làm mộc sinh hỏa.

Thổ khắc thủy nhưng thủy sinh mộc phản khắc lại thổ làm thổ sinh kim.

Thủy khắc hỏa nhưng hỏa sinh thổ phản khắc lại thủy làm thủy sinh mộc.

Nếu nắm được do khắc mà sinh và do sinh mà khắc thì thông đạt ngũ hành.

...

Lửa là dương hỏa. Nhiệt là âm hỏa. Gặp lửa có thể bén ngay nhưng quá trình truyền nhiệt cần có thời gian. Cái gì cần có thời gian cần có tích lũy số lượng mới chuyển hóa thì cái đó thuộc về âm.

Cô cảnh sát giao thông xinh đẹp dắt bà cụ qua đường cho phóng viên chụp ảnh. Là hiện tượng âm hay dương? Phải chăng là âm khi hai nhân vật trong sự việc là nữ. Nhưng không, đó là dương. Vì hiện tượng trên là không thường thấy là đặc biệt, là nỗ lực 5 phút đã có thể thực hiện được. Thời gian ngắn thì bạn biết ngay là dương. Âm cần có quá trình. Số lượng ít bạn biết ngay là dương. Âm cần xảy ra ở nơi nơi.

Vậy thì hiện tượng âm là gì với giao thông. Đó là quy hoạch quy mô lớn. Đó là giáo dục ý thức tham gia giao thông của người dân trong thời gian dài. Đó là hệ thống cống ngầm tương xứng với số dân trên mặt đất. Đó là không đập cầu đi bộ mới xây để dựng cầu vượt. Những cái đó cần có tầm nhìn cần nỗ lực trong thời gian dài. Nó thuộc về âm. Nếu nó thành công thì toàn bộ thành phố chuyển mình thành tiêu biểu giao thông của thế giới. Cái tiêu biểu đó là dương.

Chứ cái dương nhỏ nhoi dắt bà cụ qua đường làm trò lòe con mắt người dân để gây thiện cảm. Chỉ làm trò được vài lần, nhiều quá thành lố. Trong khi tắc vẫn tắc, khổ vẫn khổ, ăn chặn vẫn ăn chặn, mất lòng tin vẫn mất lòng tin.

Cái âm tác dụng cần thời gian. Thủy xói mòn thổ cũng cần thời gian. Nước chảy đá mòn chính là hiện tượng thủy phá thổ. Phản khắc thuộc âm. Âm cần bền bỉ lâu dài và tích lũy. Không khí ăn mòn kim loại tức mộc (khí) phá kim cần thời gian. Khắc là gì. Khắc là thuận theo tự nhiên. Phản khắc là gì. Phản khắc là nghịch lại tự nhiên. Nghịch lại thì khó. Khó thì phải từ từ bền bỉ, không thể sốt xình xịch.

Trong phim bến Thượng Hải, quá trình tán gái của Hứa Văn Cường là thuận thiên, anh đến với Trình Trình trong thế dương Thái Sơn áp đỉnh. Nhưng quá trình tán gái của Đinh Lực là thế âm. Anh phải mài mòn Trình Trình theo thời gian, kiên trì ít một ít một. Và cuối cùng con cóc ăn thịt thiên nga.

...

Mỗi người có một mối quan tâm cũng như gắn bó vào một mấu chốt trong từng giai đoạn cuộc đời. Lá số tử vi có 12 cung. Có tốt có xấu. Nói theo thiên hướng là sở trường sở đoản mỗi người không giống nhau. Mới đầu xem tử vi ai cũng xem dàn trải mọi việc. Sau khi có kinh nghiệm mới biết thế nào là trọng điểm. Với một tay phó tổng cục trưởng. Vấn đề chủ chốt là có lên chức được nữa hay không. Điều chuyển công tác thế nào. Tất nhiên sức khỏe là điều quan trọng với mọi người nhất là quan chức có tuổi. Trọng điểm là sức khỏe và công tác, những lĩnh vực còn lại ít ảnh hưởng hơn. Có những trường hợp cụ thể khác nhau nhưng mấu chốt vẫn là công tác và sức khỏe.

Với những hoàng hậu và phi tần. Vấn đề là con trai có lên làm vua không. Làm vua lâu bền không. Thì cuộc đời bà mẹ sang trang. Có những bà thái hậu có con ở ngôi thời gian ngắn thì bị chết, không rõ bệnh hay tự chết, cho nên bà đó dành phần đời còn lại đi tu. Đi tu là đúng vì tuy trẻ nhưng cuộc đời coi như chung kết rồi. Bà ấy có đi buôn, có viết sách, có làm gì nữa thì cơ bản thế cục đã định.

Cho nên số phận do chúng ta lựa chọn một phần. Chúng ta chọn công chức hay buôn bán thì cuộc đời sẽ xoay quanh những khung chính đó. Và cung trọng điểm theo đó mà hiện. Hơn nữa cơ bản trong mỗi một giai đoạn cuộc đời, ta ngồi nghĩ cũng biết điều chủ chốt là gì mà khi điều đó thay đổi thì mọi thứ thay đổi.

...

Mộc là khí. Mộc ứng với gió trong tứ nguyên tố. Trong Dịch, quẻ Tốn là gió thuộc mộc. Trong Đông y, thủy sinh mộc mộc sinh hỏa, thủy ứng với tinh, mộc ứng với khí, hỏa ứng với thần. Tinh sinh khí khí sinh thần. Lấy ngọn đèn bấc làm ví dụ thì dầu là tinh thủy dưới đáy. Bấc là khí mộc ở giữa kết nối. Ngọn lửa chính là thần hỏa phía trên cùng.

Lại có thủy đới mộc, hóa ra chính là xăng. Mộc ở đây là khí là nhẹ. Nhờ thành phần hydrocarbon no và nhẹ này mà xăng duy trì sự cháy. Mộc sinh hỏa.

Hôm trước nói về phản khắc hôm nay nói về phản sinh. Mộc sinh hỏa nhưng hỏa cũng thiêu đốt mộc, hỏa càng sáng thì mộc càng tiêu. Kim sinh thủy nhưng thủy càng nhiều càng mòn kim. Thủy sinh mộc nhưng mộc nhiều hút cạn nước. Hỏa sinh thổ nhưng thổ nhiều thì hỏa cũng tắt. Thổ sinh kim nhưng kim nhiều thì thổ không còn là thổ.

Quá trình sinh là tiệm tiến lượng đổi chất đổi. Cho nên dương không sinh dương. Âm không sinh âm. Mà dương sinh âm, khi âm đã trưởng thì âm lại sinh dương. Mới đầu củi nhiều lửa ít. Củi là dương lửa là âm. Sau lửa to củi ít dần. Lửa dần thành dương mà củi dần thành âm. Đó chính là chuyển hóa âm dương.

...

Tứ sinh là nơi vấn đề phát sinh. Thích hợp với các sao ưa tung hoành như Thiên Mã Không Kiếp, song Hao Thất Sát Vũ Tướng Đồng Lương cung dương.

Tứ bại là nơi vấn đề vừa phát sinh. Thích hợp với các sao bại tinh như Khốc Hư miếu tí ngọ. Tang Hổ miếu mão dậu. Song Hao miếu mão dậu. Cơ Cự miếu mão dậu. Cho nên có ý kiến cho rằng Cơ Cự phù hợp với các bại tinh như Tang Hổ Khốc Hư Song Hao. Thực ra chúng là những kẻ đồng hương.

Tứ mộ là nơi an tĩnh, nơi tập hợp lại binh lực, nơi ủ mưu để chuyển hóa từ cũ sang cái mới. Cho nên tứ mộ phù hợp với những sao ưa sự an định như Tả Hữu Xương Khúc Hóa Kị Thai Tọa Quang Quý Cơ Lương Liêm Phủ. Và không phù hợp với các sao thích động như Đồng Cự. Đồng ở mộ như đứa trẻ bị nhốt ở nhà. Cự vốn là ám tinh ở mộ u ám càng không ai soi rọi làm sáng cho, nên càng hôn ám.

Nguyên lý của cát tinh hay sát tinh miếu là sự thuận lợi do phù hợp với địa bàn mang lại. Những cung đó coi như quê hương của các tinh đẩu đó. Nhưng sát tinh miếu vượng còn tuân theo 1 nguyên lý nữa đó là sự kìm hãm cái xấu. Kìm hãm sự mất cân bằng. Đây gọi là chế hóa.

Nguyên lý trên giống như sự thuần cách trong tử bình. Nguyên lý dưới giống như sự cân bằng theo phép lấy dụng thần theo thân vượng nhược của tử bình.

Tuy nhiên nhìn lại 3 phân cách trên. Thì tứ bại và quê hương của lục bại Tang Hổ Khốc Hư Hao tuy có gây mệt mỏi nhưng không phải là sự sát phạt tột cùng cực đoan. Bại và hao có thể hiểu như cơn ốm, như vụ tai nạn có thể đền tiền mà xong, như sự mệt mỏi nhọc nhằn không xấu để chết mà chẳng tốt để vui.

Sát địa chính là tứ sinh. Tứ sinh chính là tứ sát. Quê hương và hộ khẩu vĩnh viễn của Kiếp Sát Thiên Mã. Nơi thường trú và địa bàn ưa thích của Không Kiếp. Ở tứ sinh sự việc chỉ có hai thái cực, một là tột cùng vui sướng, hai là tột cùng bi thảm. Không có chỗ cho kiểu nửa buồn nửa vui nửa âu sầu như tứ bại. Ở đây tính chất con bạc của Không Kiếp được ủng hộ triệt để.

Tứ sinh chính là tứ sát.

Tứ bại chính là tứ thành.

Tứ ám (mộ) lại chính là tứ vinh.

...

Địa Không: trộm.

Địa Kiếp: cướp.

Trộm cướp gặp nhau rất tâm đầu ý hợp.

Địa Không là không được.

Địa Kiếp là có rồi mất.

Không Kiếp gặp nhau an ủi nhau thôi thì tôi cũng như anh.

Tên khai sinh của Địa Không là Thiên Không. Sau này nhập tịch Việt Nam thì đổi thành Địa Không. Cho nên Không Kiếp bản chất là "của thiên trả địa". Cái có lấp ló cái không.

Thiên Cơ là hỏi. Cự Môn là đáp. Cơ Cự gặp nhau là là có hỏi có đáp nên miếu địa.

Thiên Đồng là đồng ý. Cự Môn là phản đối. Đồng Cự là phản đối gặp đồng ý nên hãm địa.

Cự là gái trẻ. Cơ là trai trẻ. Trai trẻ gặp gái trẻ thì đăng đối.

Cự là gái trẻ. Nhật vượng là trai trẻ. Nên Nhật vượng thì Cự vượng.

Cơ là trai trẻ. Nguyệt vượng là gái trẻ. Nên Nguyệt vượng thì Cơ vượng.

Nhật hãm là trai già. Trai già gặp gái trẻ thì khó hợp nên Nhật hãm thì Cự hãm.

Nguyệt hãm là gái già. Gặp Cơ là phi công. Nên Nguyệt hãm thì Cơ hãm.

Đồng là đồng ý. Âm là im lặng. Đồng Âm im lặng và đồng ý.

Cự là hỏi. Cự Nhật là người đàn ông hỏi ở dần thân. Khi đó Đồng Âm là người phụ nữ đồng ý ở tý ngọ. Đó là tượng thuận vợ thuận chồng.

Nhật còn là thông minh. Nguyệt là hiền ngoan. Cự Nhật là hỏi thông minh. Đồng Âm là sự đồng ý ngoan ngoãn. Nhật khôn thì Nguyệt ngoan.

Đồng là cậu bé trai. Lương là cô bé con của Nguyệt vĩnh viễn tam hợp Nguyệt. Đồng Lương gặp nhau thì đăng đối. Đồng đồng ý, Lương thì lành vì là con của mẹ hiền (Thái Âm).

Cơ Cự Đồng Lương về động từ là hỏi đáp thuận tòng, về tính chất là linh hoạt hiền lành nhẹ nhàng, về giới tính Cơ Đồng là trai Lương Cự là gái. Về tuổi tác thì Đồng Lương nhỏ tuổi Cơ Cự thì thành niên. Tham Liêm là trung niên. Nhật Nguyệt thể hiện chung lúc già lúc trẻ.

Cơ Lương cũng là cách miếu vì Cơ thiện Lương lành. Cơ trai thành niên gặp cô gái nhỏ.

Nhật là ý chí. Nguyệt là tấm lòng. Trai cần khôn. Gái cần ngoan.

...

Tham Lang hình là thủy khí là mộc, tính dâm và tham lam. Khí mộc nên hợp với Hỏa Linh vì ngũ hành sinh khắc theo khí không theo hình. Nhưng tính dâm tham theo hình không theo khí. Mang tính đào hoa nên tại tứ bại địa Tham hãm địa. Hãm vì tính dâm tham không được kiềm chế. Hãm vì Tham ưa lén lút ẩm ướt tối thui ở tứ mộ hơn là những nơi đường đường chính chính như tứ chính (cũng là tứ bại). Tại tứ bại Tham làm hủ hóa Tử Vi.

Tại tứ mộ nhất là âm mộ sửu mùi. Tham miếu địa vì tìm được bạn tình và không gian phù hợp đó là Vũ Khúc. Sự đam mê hào hoa của Tham gặp được sự khéo léo tài năng của Vũ Khúc. Sự bừa phứa của Tham được khuôn chỉnh bởi sự cương nghị của Vũ Khúc. Tính mộc của Tham được âm kim của Vũ khắc chế. Trong khi tính mộc của Tham khắc chế tính thổ của Tử Vi nên sự hoang tàng của con dê Đát Kỷ này khống chế hoàn toàn Trụ Vương cường tráng.

Nhiều bạn hỏi khi nào là tứ chính, khi nào là tứ bại. Thực ra, chính và bại chỉ là hai cách gọi khác nhau của cùng 1 sự. Tuy nhiên phân tiếp theo âm dương thì Tý Ngọ là chính còn Mão Dậu là bại.

Tử Vi tại mão dậu bị Tham khống chế hoàn toàn. Đất mão dậu luôn là niềm đau của Tử Phủ Vũ Tướng.

Tại Tý Ngọ ít ra Tử Vi đóng cung dương và tại ngọ Tử Vi tại chính vị ngôi cửu ngũ chí tôn.

Cũng như tứ mã tứ sinh dần thân tị hợi. Tử Vi ở dần thân gặp Thiên Phủ được coi là tốt hơn tị hợi. Cho nên dần thân có thể coi là sinh địa. Còn Tử Vi cầm kiếm Thất Sát ở tị hợi. Thứ nhất là âm cung khó hợp tính dương của Tử. Thứ hai là khi đó đức vua phải chinh chiến. Cho nên tị hợi có thể coi là mã địa phù hợp hơn là sinh địa.

Đất tứ mộ cũng chia âm dương. Dương mộ là La Võng. Âm mộ là sửu mùi. Đối với Tử Vi tại la võng đi cùng Tử Tướng xung đối Phá Quân. Ít ra vẫn là cung dương và chính danh với Tử Vi. Còn tại âm mộ sửu mùi bị Phá Quân quấn chặt thành thần bất trung tử bất hiếu. Sự bất nhân của Phá thìn tuất vẫn đường đường là một người anh hùng chứ không ám tàng như Tử Phá. Đó cũng là tính chất khác nhau cơ bản của cung âm cung dương. Tại la võng Nhật Nguyệt cũng xung nhau quyết liệt chứ không quấn quít như sửu mùi. Cho nên nếu nói tính chất tứ mộ là kìm hãm sa lầy thì đó là âm mộ. Còn dương mộ có hẳn một tên khác là La Võng. Cái tên thiên la địa võng thể hiện phần nào tính chất khốc liệt của dương mộ. Dương mộ không phải chỗ hãm lại bằng âm mưu mà là chỗ khuất phục bẵng võ lực bằng bá đạo.

...

Trong lá số tử vi có 6 cung cùng là cung dương và 6 cung cùng là cung âm. Như cung mệnh tài quan phuc di thê là có cùng tính âm dương. Và 6 cung còn lại như phụ tử nô điền tật bào có cùng tính âm dương. Cùng tính âm dương thì có thể xung chiếu tam hợp với nhau, gây ảnh hưởng với nhau trực tiếp. Khác tính âm dương thì chỉ có thể gặp nhau qua giáp hợp hại. Nói cách khác giáp hợp hại là cách mà các cung khác tính âm dương gặp nhau. Các cung khác tính âm dương thì các sao phân bố ở đó cũng khác chủng loại tính lý. Nói cách khác các sao đó không bao giờ có thể cộng hưởng theo cách ngưu tầm ngưu mã tầm mã. Sự cộng hưởng của cùng tính âm dương là cộng hưởng gây tăng cường độ số lượng. Sự cộng hưởng khác tính âm dương là cộng hưởng gián tiếp, gây tốt hay xấu theo thời gian lâu dài chứ không ngay tức khắc như cộng hưởng cùng tính lý.

Có 5 cặp sao vĩnh viễn nhị hợp nhau như Phủ và Nhật; Cơ và Phá; Vũ và Nguyệt; Đồng và Tham; Liêm và Lương.

Tính chất của các căp nhị hợp không cùng loại mà cũng không đối nghịch chan chát. Vì dù sao không thể cộng cũng không thể trừ do khác thứ nguyên hay hông cùng loại. Chúng tồn tại song song với nhau như hai mặt của vấn đề. Cơ hệ thống hợp với Phá bát nháo. Khi Cơ miếu thì Phá hãm còn khi Phá miếu thì Cơ hãm. Nhưng ngũ hành của Cơ là mộc được âm thủy của Phá sinh trợ. Cơ và Phá cùng là sao âm. Tức âm dương ngũ hành của các cặp sao này thuận nhau. Nhưng sự đắc hãm là đối nghịch. Điều này hợp lý vì hai mặt của một vấn đề khó mà cùng tỏa sáng.

Phủ Nhật hỏa thổ tương sinh cùng là sao dương. Phủ chủ gom chứa ẩn giấu che chở, Nhật chủ tỏa sáng phát huy quảng bá.

Đồng Tham cùng là sao dương thủy mộc tương sinh. Tham chủ vơ vét tư túi, Đồng chủ phúc chia sẻ xởi lởi.

Vũ Nguyệt cùng là sao âm kim thủy tương sinh, Vũ chủ luồn lách khéo léo, Nguyệt lại chủ thu liễm an định.

Liêm Lương đều là sao âm, hỏa thổ tương sinh. Lương hình mộc khí thổ chủ lành chủ bao dung. Liêm chủ nguyên tắc hình phạt.

Các bộ sao lục hại vĩnh viễn gồm có: Tử vi Cự Môn; Cơ Tướng; Sát Nhật. Các sao Tử Cự Tướng Sát không tham gia nhị hợp chỉ tham gia lục hại. Với Tử Vi đó là sự cô độc chí tôn không cần sự ám trợ của bất kì ai. Với Cự Môn đó là sự chống đối bẩm sinh, không thích ai giúp và không thích giúp ai. Với Tướng Sát cũng vậy. Sát thủ cô độc Thất Sát và sự chấp chưởng hành chính không lôi thôi của Thiên Tướng.

Cặp Sát Nhật cùng là sao dương và hỏa khắc kim. Tính chất xây dựng quảng bá của Nhật bị đối chọi bởi tính hủy diệt của Thất Sát.

Thiên Cơ và Thái Dương là hai sao vừa hợp vừa hại. Nhưng Cơ hợp cái xấu là Phá và hại cải tốt là Tướng. Còn Nhật hại cái xấu là Sát và Hợp cái thiện là Phủ. Những sao như Đồng Lương chỉ hợp không hại, điều đó nói lên tính cách không tranh giành của Đồng Lương. Tham Lang tuy là tham trong tham sân si nhưng cũng không tham gia lục hại thể hiện cái xấu thụ động của Tham, cái xấu không áp đặt không tranh đoạt.

Từ hại hợp hiểu được tính trừ ác của Thái Dương và xu hướng theo ác của Thiên Cơ. Thái Dương tuy là văn tinh nho nhã nhưng dám tranh đấu với cái ác. Hình ảnh cho Thái Dương là các trí sĩ cách mạng như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Họ đều là người có học và không phải tay dao súng nhưng không phải vì thế mà sợ ác phụ tà.

Cũng hiểu sự chống đối bất mãn của Cự Môn khi công khai bác bỏ ngôi của Tử Vi. Mặc dù bị thổ của Tử Vi áp chế nên sự chống đối của Cự là vô lực nhưng dù sao đức vua chắc chắn phải đạp lên miệng thế gian mà thi hành vương đạo.

Cặp đối xung vĩnh viễn Phá Tướng vừa hợp vừa hại với Thiên Cơ. Nhưng thế lục hại của Cơ Tướng lạ kì ở chỗ Cơ mộc được Tướng thủy sinh. Đây là cặp lục hại tương sinh duy nhất. Có thể nó mang hai hàm nghĩa. Một là phe chính nghĩa Thiên Tướng không thể bị khắc chế. Hai là Thiên Cơ cũng không phải sao ác. Hoặc cũng có thể tính hệ thống của Cơ cạnh tranh tính bảo thủ cơ chế của Thiên Tướng.

Nôm na có thể hiểu. Nhị hợp là hỗ trợ, sự hỗ trợ nhưng không tham gia cùng như đồng bọn (tam hợp). Hỗ trợ như cha mẹ hỗ trợ con ăn học nhưng cha mẹ không thi hộ được. Lục hại là sự cạnh tranh. Cạnh tranh nhưng không đối đầu hay hủy diệt nhau. Cạnh tranh như các bạn học cùng đi thi, như môn thể thao đua ngựa. Hợp và hại không cùng thứ nguyên nên không thể cộng dồn tăng lượng như tam hợp. Nhưng ảnh hưởng của nó không thể không xét đến trong tử vi. Có điều nếu cứ gom sao tả pí lù cùng với tam hợp xung chiếu tất sẽ sai và thêm rối.

...

Thế đối xung vĩnh viễn của chính tinh đòi hỏi hai chính tinh đó cùng 1 vòng Tử Vi hoặc Thiên Phủ. Phủ đối Sát và Tướng đối Phá, cho thấy sự đặc biệt nghiêm trọng của Sát Phá nên cần sự coi chừng trông nom của Phủ Tướng.

Thế nhị hợp và lục hại vĩnh viễn cần sự đóng góp của 2 chính tinh thuộc 2 tinh hệ khác nhau, 1 sao từ Tử Vi và 1 sao từ Thiên Phủ.

Tinh hệ chòm Tử Vi có một đặc điểm là không có sao nào vĩnh viễn xung chiếu sao nào, tất cả các sao đều xung với cung vô chính diệu. Và đặc biệt hơn, toàn bộ tam hợp xung ngôi Tử Vi đều không có chính tinh. Ví dụ ngôi Tử Vi ở tý thuộc tam hợp thân tý thìn thì tam hợp xung đối với nó ở dần ngọ tuất không có chính tinh nào thuộc chòm Tử Vi. Nói cách khác chòm Tử Vi không có nội xung và ngôi Tử Vi không chịu sự tương xung của tam hợp đối.

Thế nhưng Tử Vi có vây cánh vĩnh viễn là Vũ và Liêm. Thiên Cơ có vây cánh Thiên Đồng. Vây cánh từ tam hợp vĩnh viễn thể hiện đồng bọn đồng đảng hay chính bản thể sao đó ở vị trí khác. Như Nguyệt với Lương như Phủ với Tướng, cùng một gốc sinh ra, theo thời sinh vượng mộ khác nhau mà diễn hóa khác nhau. Các sao có tam hợp vĩnh viễn cơ bản là sao đa hình, có nhiều bộ mặt chứ không thuần nhất. Vũ hay Liêm cũng là bộ mặt hay trạng thái lúc nào đó của Tử Vi. Phủ hay Tướng cũng là hai bộ mặt của cùng một sự vật. Nguyệt hiền thì Lương lành.

Nhưng ngôi vị Thái Dương không tam hợp với bất cứ chính tinh nào trong chòm tử vi. Thái Dương cũng không xung đối với chính tinh nào. Nói cách khác Thái Dương duy nhất và đơn độc như mặt trời vĩ đại rọi ánh sáng về 3 cung tam hợp và chính chiếu với nó. Nó cũng không có bộ mặt hay biến thể nào khác. Phe xung đối Thái Dương có Đồng Cơ trong tam hợp khác với ngôi Tử Vi bất khả chống đối.

Từ bố trí chòm Tử Vi có thể thấy hình bóng quân thần khánh hội bất khả chống đối của Tử Vi và sự cô độc chí tôn của vầng Thái Dương ban phát ánh sáng vô lượng tới các cung.

Trong chòm Thiên Phủ, một mạch 7 sao liên hoàn. Tam hợp Sát Phá Tham vĩnh viễn xung tam hợp Phủ Tướng, Tham Lang ở vị trí dễ thở nhất không bị áp chế. Cự Môn là hình ảnh của Thái Dương bên chòm tử vi khi không tam hợp cũng như không xung chiếu với bất cứ cung nào. Trong tam hợp xung đối với Cự Môn là Nguyệt Lương một phe hiền lương vốn có. Dựa trên nguyên tắc bày sao của chòm Thiên Phủ thì Cự Môn phải mang tính tà ám xấu xa đối với tính hiền lành của Nguyệt Lương. Nếu Nguyệt Lương không tranh giành thì Cự Môn như cái hố đen hút sạch tất cả những gì tam hợp hay đối xung với nó. Nên tượng Cự Môn là cánh cửa lớn là cái mồm là hố đen chuyên hút vào. Đối lập với sự tỏa sáng của Thái Dương luôn ban phát tỏa ra. Cho nên khi Cự gặp Nhật sáng, Cự Môn no nê ánh sáng nên vượng địa. Qua đó thấy thêm sự ích kỷ của Cự Môn. Trước giờ người đời chỉ hiểu Cự là chống đối chứ không hiểu sức hút khủng khiếp của nó. Chính vì tính câu hút khủng khiếp mà nó rất hợp với các sao Không Vong như tuần triệt, mà dấu vết của tính chất này là cách cục Thạch Trung ẩn ngọc. Cự hút sáng vì nó là vùng ám tối. Cho nên chắc chắn không thể hợp với Hóa Kỵ chủ đêm đen và cũng là sao thu liễm. Cự Kỵ bị xếp vào phá cách là vì vậy. Cự Môn ghét sự ám tối của tứ mộ vì Cự đã ám vốn khát khao ánh sáng vào tứ mộ không thể khá lên nên Cự hãm tứ mộ. Ở tứ sinh, Cự nhận được ánh sáng từ Thái Dương nhưng sự miếu hãm của Cự tại tứ sinh phải nhìn mặt Thái Dương, nếu Thái Dương miếu thì Cự vượng nếu Thái Dương hãm thì Cự đói ánh sáng cũng hãm địa. Nhưng khi Thái Dương ở ngọ thì Cự hãm ở tuất, mặc dù cùng tam hợp. Điều đó cho thấy sự khác nhau của tam hợp và xung chiếu. Xung chiếu và đồng cung thì Nhật vượng có thể bù cho Cự thành vượng. Nhưng trong tam hợp thì không. Xung chiếu chính là rọi đèn vào trực diện, tác dụng ngay lập tức, còn tam hợp là hợp chứ không phải xung chiếu. Một Cự hãm dù tam hợp Thái Dương nói lên điều đó và nói lên rằng trong đội của bạn có những người giỏi và người kém, người giỏi đó không chuyển hóa người kém tốt lên, nhưng kẻ thù sẽ làm anh ta giỏi lên.

Và khi Cự gặp Cơ thì Nhật Nguyệt đồng cung sửu mùi. Cự miếu khi đồng cung với Cơ mặc dù Cơ không có ánh sáng như Nhật, phải chăng Cơ có 1 cái gì đó khác mà Cự cần được bổ khuyết. Cự có một nhu cầu nào đó được Cơ đáp ứng.

Tứ mộ bít bùng thì Tuần Triệt là sự trải rộng.

Tứ mộ là tối ám thì Tuần Triệt là sự quang đãng.

Tứ mộ trợ tối thì tuần triệt trợ sáng.

Cự Môn cần khoảng không và ánh sáng, một khao khát chính đáng và hướng thiện, như người tù trong địa ngục hướng về thiên đường rực rỡ cao xa.

Cự muốn đối cung của nó là khoảng trống, cho nên nó thích đối cung vô chính diệu như Cự Cơ mão dậu. Cự Nhật dần thân. Nếu đối cung là chính tinh thì mong sao đó là ánh sáng của Thái Dương ở tị hợi. Ở sửu mùi tuy Cự đồng cung với Đồng, đối cung là vô chính diệu nhưng hiềm là đất tứ mộ không phù hợp nên Cự hãm địa.

Cách đồng cung của Cự có Cự Đồng Cự Nhật Cự Cơ. Trong trường hợp Cự Cơ đối cung ở tý ngọ, cần sự hỗ trợ của Tuần Triệt để tạo khoảng trống, Cơ ví như tảng đá lấp mặt Cự Môn nên cách cục gọi là Thạch Trung Ẩn Ngọc. Nói về tính không của địa bàn thì tứ sinh hay tứ mã gần với tính không nhất. Trong khi tứ mộ tĩnh tứ chính chuẩn mực thì tứ mã thay đổi và chuyển động. Vì có bóng dáng tính không nên Không Kiếp thích tứ mã, tại tứ mã dần thân tị hợi Cự Môn cũng khá thoải mái với Thái Dương. Người cha kèm cô con gái. Đến cung mão dậu thì gả cho chàng trai trẻ Thiên Cơ. Người mẹ kèm chàng trai trẻ Thiên Cơ đến mão dậu thì trao cho cô gái trẻ Cự Môn. Từ cung tý Cự nhìn thấy tình yêu của đời mình ở Thiên Cơ ở ngọ, chàng tỏa sáng nhẹ nhàng làm Cự muốn nghịch chuyển không thời gian đến với chàng qua cây cầu Tuần Triệt. Đến sửu Cự Môn kết hôn với chàng trai Thiên Đồng ham chơi. Hai vợ chồng choảng nhau suốt ngày rồi ra tòa. Sang cung dần Cự về với người cha già Thái Dương tu dưỡng vá víu lại bầm giập của đời gái sau khi bị Thiên Đồng vầy vò. Trong khi đó Thiên Cơ cũng ngược đường ngược nắng về tìm Cự, và anh chị tìm thấy tình yêu của đời mình ở mão dậu. Hai vợ chồng buôn bán xuất nhập khẩu điên đảo chẳng mấy chốc thành cự phú. Rồi Cự gặp chồng cũ ở tứ mộ. Thiên Đồng giờ đã tướp như xơ mướp. Khi Cự đến tị thì người cha Thái Dương đã già ở hợi. Cự lại đến ngọ hướng về người chồng Thiên Cơ và mong sao nhịp cầu Tuần Triệt giúp họ đến với nhau.

...

Trong tử vi, các chính tinh cùng tam hợp vĩnh viễn như Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham thì tương sinh, đối xung như Phủ Sát và Tướng Phá thì tương hòa, lục hại như Nhật Sát hay Tử Cự mới tương khắc. Cho thấy sự đối xung dù trái ngược tính chất sao nhưng vẫn là sự tương hỗ lẫn nhau tạo sự cân bằng nhất định. Trong khi thế tương khắc của ngũ hành phản ánh sự khác biệt cả về tính chất và bất phối hợp. Các cặp sao miếu vượng đồng cung đa số là tương sinh tương hòa. Chỉ trừ có cặp Cự Nhật và Tham Vũ là có tương khắc. Các cặp sao cực hãm đa số nằm ở tị hợi mão dậu có trường hợp tương sinh như Vũ Phá, nhưng Vũ Phá đều là sao âm. Sự phối hợp hai sao âm như Liêm Phá hay Vũ Phá đều là sự cực đoan. Không tốt so với các trường hợp 1 sao dương 1 sao âm đồng cung.

Miếu hãm là sự tổng hòa của âm dương+ngũ hành+tính lý. Nhưng trên cái nhìn tổng quát ngũ hành tương sinh và tỉ hòa đa số tốt hơn tương khắc dù ngũ hành là bài toán gần đúng. Sự phối hợp cộng hưởng các sao đòi hỏi cần có sự phối hợp ngũ hành âm dương làm nền tảng.

Miếu hãm của sao là sự tổng hợp thực dụng nhất từ âm dương ngũ hành và tính lý. Nói về địa bàn thì đất có thổ công sông có hà bá. Tị hợi và mão dậu là địa bàn xảy ra chính tinh cực hãm nhiều nhất. Mão dậu là đất ưa thích của bại địa song Hao và Tang Hổ Hình Riêu. Tị hợi là đất ưa thích của Không Kiếp. Đã là cung âm và là đất ưa thích của sát bại tinh thì chính tinh cát tinh đến đó phải chịu tù túng hãm địa. Duy có Cơ Cự miếu mão dậu. Duy có Tử Sát tạm ổn tị hợi. Tuy là tạm ổn nhưng thế Tử Sát là một thế yếu của Tử Vi.

Ba sao có tính chất tiên thiên mặc định xấu của tử vi là Sát Phá Tham. Nó là hình bóng Mộc Suy Tuyệt. Trong đó Sát là Tuyệt, Tham là Mộc Dục và Phá là Suy. Sát Tuyệt nên hoành hành cung tứ tuyệt, miếu ở dần thân và đắc ở tị hợi. Tuy nhiên là sao dương nên thoải mái nhất ở dần thân. Tham lộng hành ở tứ bại áp chế và hủ hóa Tử Vi. Phá bất nhân nghịch tử ở tứ mộ và ngụy quân tử hóa Tử Vi. Ở cung âm trong trục sở trường, 3 sao trên đều đồng cung Tử Vi.

Đã là 3 sao xấu. Cho nên khi hãm địa là xấu nhất. Và sự xấu nhất nằm trên tị hợi mão dậu. Trục tị hợi có thể gọi thay bằng trục sát. Trục mão dậu có thể gọi thay bằng trục bại.

Cực hãm có thể phản hóa thành kì cách, nhưng cũng có thể Hóa Kị để tồi tệ thêm. Như Vũ Phá tuổi nhâm, Liêm Tham tuổi quý là cách cục Kình Đà hiệp Kị điển hình. Tử Tham tuổi Quý là cách cục Tử Tham song Hao Kị. Thế Hóa Kị của Tham luôn có Hóa Lộc từ Phá Quân tam hợp. Cũng như tuổi Nhâm thế Hóa Kị của Vũ luôn có Quyền của Tử Vi tam hợp.

Nói cách khác trong Quyền của Tử Vi có tàng Kị. Trong Lộc của Phá Quân cũng có tàng Kị. Tuổi Giáp thì Liêm Hóa Lộc luôn có Vũ hóa Khoa củng cố. Tuổi Bính có Lộc Quyền song hành. Tuổi Đinh có Khoa Quyền song hành.

Như vậy là có đủ các cặp:

Lộc Quyền

Khoa Quyền

Lộc Khoa

Lộc Kị

Quyền Kị

...

Mệnh tuần thân triệt Cơ Nguyệt Đồng Lương

Mệnh triệt thân tuần cần vô chính diệu

Mệnh trước, thân sau. Triệt tác dụng mạnh 30 năm đầu. Tuần dai dẳng cả đời. Vì sao có con số 30 vì thời gian chỉ có số 60. Chia đôi hai nửa thì 30 thuộc nửa đầu. Con số 30 của triệt nói rằng triệt khỏe mạnh 30 năm đầu.

Cho nên mệnh triệt thân tuần là chính cách không vong. Như trứng gặp trứng, đá gặp đá. Sách Thái Thứ Lang cho rằng mệnh triệt thân tuần thì cần vô chính diệu là vì vậy. Vì không vong khi đó là chính cách.

Nói về thời gian thì sát tinh bộc phát sau đó tàn phai. Cát tinh thì bền vững ổn định. Trong tử vi cát tinh nhiều hành thổ và Tả Hữu Xương Khúc đều đắc ở tứ mộ. Biểu tượng thủ lãnh của tử vi là ngôi Tử Vi cũng được gán hành thổ. Vị phó vương thiên phủ cũng được gán hành thổ. Trong môn tử vi, thổ đại diện cho trung dung đại diện cho chuẩn mực. Như Tử Vi là điểm chuẩn của 14 chính tinh. Lộc Tồn là điểm chuẩn của chính vị thiên can. Thể hiện sự ổn định bền vững. Tử Vi tốt nhất gặp Lộc Tồn chứ không phải Khoa Quyền Lộc. Phủ Tướng thậm chí không cần Khoa Quyền Lộc.

Ngoài đời thực cũng vậy. Cái gì gian ác hay xảo trá ban đầu hoành hành rất mạnh, nhưng về lâu về dài, ảnh hưởng càng kém dần. Nói cách khác cái gì không có sự bền vững là sát tinh. Cái gì mưu mẹo chỉ có tác dụng nhất thời. Về lâu về dài, những cái hào nhoáng đó bong đi mất chỉ còn cốt lõi bản chất thủ diễn. Mới đầu đi tán gái hỏi vợ, tay xảo trá bóng mượt chiều lòng. Khi đã đạt mục đích hay không đạt mục đích. Chúng lật lọng giở dói. Vì sự tốt đó không phải bản chất của chúng mà vì mục đích chúng phải giả tốt. Vì sao thiên hạ bị lừa. Vì mới đầu bọn đi lừa có một túi đường. Chúng ném cái chóc vào tai con mồi. Đường rơi xuống tim nở hoa. Cô gái tin tưởng giao tiền bạc và thân thể cho chúng sử dụng lạm dụng rồi chán rồi thì chúng chà đạp.

Cho nên Hoàng Thạch Công phải thử Trương Lương 3 lần mới giao sách. Thử 3 lần xem độ nhẫn có dài không. Thử 3 lần xem tâm có suy chuyển không. Thử 3 lần xem lớp sơn tử tế có bong ra hay không. Gia Cát cũng phải thử 3 lần xem Lưu Bị có nhẫn không. Hay khi ông cần thì ông cần vậy. Lúc bất cần thì khỏi vòng cong đuôi. Sự nhẫn chính là độ bền mà nó không có ở sát tinh nhất là sát tinh hãm địa. Trong tư duy của người kém thành công, có điểm chung là thiển cận. Thiển là nông còn cận là gần. Không nghĩ sâu và không nhìn xa. Nếu chúng ta cứ nhìn sâu và xa mãi thì chúng ta đều là người lương thiện. Vì lương thiện là sự cư xử cân bằng. Vì nhìn xa mãi thì gieo nhân nào gặp quả đó. Không thể khinh suất coi thường.

Điểm chung của Lê Văn Luyện, Nguyễn Đức Nghĩa, Nguyễn Hải Dương là sự manh động không tính hậu quả. Đó cũng là đặc tính của sát tinh. Là sự vô trách nhiệm với việc mình làm. Thường thì người ta vì cái lợi trước mắt mà sẵn sàng thiêu đốt tương lai. Vì cơn đói mà ăn mất bát thóc giống. Sự cân bằng giữa lâu dài và tức thời chính là hạnh phúc.

Cát tinh, người tốt có điểm chung là sự bền vững lâu dài. Đòi hỏi chữ nhẫn. Đòi hỏi thử thách. Theo thời gian cái gì bên trong cùng sẽ biểu hiện và lộ ra sau cùng. Cho nên cần thời gian. Cần thời gian để trồng cây, để xây dựng một thương hiệu, hay phát triển nghề. Chúa cũng cần thời gian để truyền giáo. Ngày đầu bị truy quét cực kì gian khổ. Nhưng cái tốt cái đẹp luôn may mắn rơi vào kẽ đá và mọc lên. Vì cái tốt kiên trì hơn cái ác. Triệt rất mạnh mẽ 30 năm đầu. Nó thuộc kim cho đúng tượng con dao hay dây thép. Đã siết là thành hình và có tì vết. Nó áp mệnh thì tác dụng rất mạnh mẽ triệt để, cho nên mệnh cần vô chính diệu mới hợp cách. Còn tuần áp mệnh thì mức độ không mạnh như triệt. Các sao mềm như Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chịu được. Trong đó Đồng Cơ là một bộ tam hợp. Nguyệt Lương là một bộ tam hợp. 4 sao mềm nhất tử vi lý số.

Có người hỏi khi nào có thể phản vi kì cách. Chỉ có thể phản vi khi có yếu tố dương. Không có dương thì không thể phản vi. Như Không với Kiếp, phản vi chỉ có thể là Không. Hai tên bất lương Không Kiếp thì Không có đầu óc và thích lọc lừa. Kiếp khỏe chân tay và thiên về cướp bóc. Nói với Không, khuyên nhủ Không và chuyển hóa Không dễ hơn Kiếp. Không thuộc dương có sự bao quát dù cực đoan. Kiếp thuộc âm có sự cụ thể và chi tiết. Sát tinh âm như cái xấu đã thành hình khó mà chuyển hóa. Sát tinh dương như cái xấu mới sinh còn có thể uốn nắn. Cho nên muốn phản cách phải có yếu tốt dương. Phải có cái mầm của sự vươn lên ở trong bùn thì mới thành. Dương mộc là cây còn sống. Âm mộc là gỗ đã chết. Cây sống có thể uốn, cây chết chỉ có thể đục và ghép mà thôi.

....

Con người có hai cực đại là sinh và tử. Sinh được mặc định là cát, tử được quy ước là hung. Cát hung là việc của bản thân mình còn việc sinh tử liên quan đến người thân thì gọi là việc hiếu hỷ. Trong đó việc hỷ là việc có thêm người. Việc hiếu là việc có người thân qua đời. Trong chòm thái tuế 12 cung, việc hiếu được đánh giá bởi tam hợp Tang Tuế Điếu, trong đó ý nghĩa của Tang Môn và Điếu Khách khá rõ ràng chủ việc tang và người tới viếng. Việc hỉ được đánh dấu bởi chòm Đào Hồng Hỉ với Thiên Hỷ vĩnh viễn xung Hồng Loan. Tang và Hỷ là hai tam hợp liền kề nên không bao giờ xung chiếu nhau tạo cảnh dở khóc dở cười tróe ngoe.

Thiên Hỉ cũng được bố trí để không gặp được Thiên Mã. Nhưng chỉ khi đóng ở tứ chính là Hồng Hỷ không gặp Cô Quả. Còn lại Hồng Hỉ luôn gặp cô quả. Tức là có vui nhưng cô đơn.

Xét kĩ hơn thì Tuế Hổ Phù chủ cãi vã tranh chấp. Tang Tuế Điếu chủ tan buồn. Đào Hồng Hỉ chủ vui vẻ. Và Âm Long Trực chủ không cạnh tranh mà an phận.

Tức là có 4 thái cực: cạnh tranh, an phận, vui, buồn. Vui buồn có lẽ là hai thái cực rõ ràng. Còn cạnh tranh hay an phận đều gây nên những ấm ức. Tuế Hổ Phù ngoài nghĩa cạnh tranh có thể gọi là THẮNG. Còn Âm Long Trực ngoài nghĩa an phận có thể gọi là THUA. Vậy là có Vui, Buồn, Thắng, Thua.

Thắng thua xong lại vui buồn

Buồn vui rồi lại mưu cầu thắng thua

....

Cái gì hợp với Không sẽ ghét Mộ. Cái gì hợp với Mộ sẽ ghét Không. Vì Không là giải tỏa phóng khoáng thì Mộ là kìm nén tích tụ. Không là rộng thì Mộ là đọng. Không là cho thì Mộ là giữ. Nhật Nguyệt cần khoảng không để soi rọi. Nhật Nguyệt ghét tứ mộ o bế. Đồng Cự thích Không để đồng thoáng cửa mở, nên Đồng Cự ghét tứ mộ vì Đồng tắc còn cửa đóng. Hóa Kị thích tứ mộ an tĩnh như con mèo lười. Hóa Kị ghét Không thành mông lung. Nếu không gặp Không thì ít ra gặp tứ mã tung hoành. Quý nhân không cư tứ mộ nên Quý Nhân chẳng ngại Không Vong. Các cát tinh thích an định ở tứ mộ nên các cát tinh chẳng cần quý nhân. Quý nhân là dành cho hiểm cảnh. Tứ mộ như phe của bên bảo thủ bên có sẵn bên đang nắm quyền, chứ tứ mộ không hợp cho phe cách mạng. Cách mạng thích tứ mã xung động. Không Kiếp là sao âm nên thích tị hợi hơn dần thân. Đồng Lương phe chính nghĩa thích dần thân cung dương hơn tị hợi. Khi mộ gặp không vong thì không vong phá mộ. Dương mộ cứng như đá ong nên gia La Võng khẳng định. Âm mộ nhão như bùn lầy. Nên Triệt Kình phá La Võng vì Triệt chủ cắt phá chia tách. Âm mộ nhão nhoét nên cần Tuần để thu hút đóng khung. Cho nên Nhật Nguyệt ở sửu mùi cần triệt chia tách tại bản cung. Nhưng cung vcd ở mùi thì cần tuần để thu hút ánh sáng Nhật Nguyệt.

....

Sự cộng hưởng của các vòng sao trong tử vi cũng tương tự sự cộng hưởng các yếu tố trong đời. Ví dụ sự cộng hưởng của thời gian của sức khỏe của sự nghiệp của gia đình. Nếu thuở sức khỏe tốt mà tiền bạc sự nghiệp cũng tốt, gia đình cũng đầm ấm là lí tưởng. Còn nếu không có sự cộng hưởng. Ví dụ lúc khỏe thì nghèo, già rồi không mấy thời gian lại giàu thì không có mấy thời gian hưởng. Lúc khỏe thì nghèo lúc giàu thì yếu tiền cũng chỉ để chữa bệnh. Lúc nghèo thì cả nhà sum vầy. Giàu rồi gia đình li tán. Cho nên sự cộng hưởng của các vòng sao là quan trọng. Lúc lên được tất cả cộng hưởng nên năng lượng rất mạnh. Lúc xuống thì sự cộng hưởng năng lượng xấu cũng tạo ra sự chấm dứt gọn gàng. Cách cục Trúc La là sự cộng hưởng sát tuyệt của các vòng sao Trường Sinh (Mộc Suy Tuyệt); chính tinh ( Sát Phá Tham); Thái Tuế (Đào Hồng Không Sát). Khi đầy đủ các yếu tố thiên địa nhân, sự sát sẽ xảy ra. Đó là cốt yếu của cách cục. Cách cục cần có sự phối hợp của các vòng sao thuộc tam tài chứ không chỉ 1 tài thiên hay địa hay nhân.

Bạn xét thử Linh Xương Đà Vũ?

....

Trời tròn đất vuông. Tự nhiên tròn. Khoa học vuông. Nếu thứ nguyên của vuông là 1 thì thứ nguyên của tròn là pi. Nếu thứ nguyên của tròn là 1 thì thứ nguyên của vuông là pi. Thứ nguyên của vuông và tròn không thể nào cùng là số nguyên. Pi là số vô tỷ. Cho nên khoa học mãi mãi chỉ tiệm cận tự nhiên. Không tài nào trùng khít. Nguyên tắc lề lối xã hội loài người cũng vuông. Luật pháp loài người cũng vuông. Đời thực thì lại tròn. Con người từ xưa đã phát hiện ra sai khác này nên đã bỏ vuông mà theo tròn. Đó là những người đi tu. Đó là sự phát biểu Đạo khả đạo phi thường đạo. Đạo là hình tròn không thể mô tả bằng hình vuông dù số hình vuông là rất lớn. Người theo tròn thì thờ chân lý. Người theo vuông thì thờ chiến thắng. Người chiến thắng được gọi là thành công. Còn người theo tròn thì không có thành công. Vì không có thành công nên không có thất bại. Nhưng Phật phải ở trong chùa. Phật phải ở trong đời.

Có đạo thì cũng có đời

Đời không muốn thấy đạo truyền ở đâu

Vì tròn nên đời không hiểu đạo. Khi kể về đạo phải dùng vuông để kể thì đời mới hiểu. Vuông là ngón tay chỉ. Tròn là mặt trăng. Vì tròn nên không thể nắm bắt không thể đặt để. Nên tròn phải được bọc bên ngoài là vuông. Để có thể đặt để trên bàn trên kệ thờ cho người đời ngắm nhìn tròn.

Nhìn vuông là để ra tròn

Thấy tròn là lúc chẳng còn thấy vuông

...

Cự là trả lời. Cơ là hỏi. Không hỏi mà trả lời là vô duyên cho nên Cự gặp được Cơ là miếu địa.

Cự là logic. Cơ là con số. Cự gặp Cơ là vừa có số vừa có lý. Cự không thì thiên về logic. Cơ không thì thích cụ thể. Cho nên Cự Cơ thành kì cách. Nhiều nhà toán học có Cự Môn ở mệnh. Cũng nhiều thầy giáo dạy toán có cách cục Cơ Không Kiếp.

Cự là nói. Cơ là suy nghĩ. Cự Cơ là nói có nghĩ.

...

Càn là càn rỡ. Khôn là khôn ngoan. Li là li tán. Khảm là hợp vào. Tốn là tốn kém. Cấn là lấn cấn. Chấn là chấn động. Đoài là đòi hỏi.

Tưởng đùa mà thật.

...

Mệnh là cái đầu. Thân là đôi tay. Phúc là tâm.

Không Kiếp là dối trá. Hỏa Linh là điên loạn. Kình Đà là cố chấp.

...

Tâm thiện đến đâu, phúc sâu đến đó.

Tâm nhẫn đến đâu, phúc lâu đến đó.

...

Tuần là bùng binh. Triệt là đèn xanh đèn đỏ. Một cách hóa giải xoay tròn. Một cách hóa giải ngăn chặn.

...

Bùng binh là một sự ngăn trở đối với đường thẳng và sự nhanh. Nhưng bùng binh là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đèn giao thông là sự ngăn trở của đường thẳng và sự nhanh. Nhưng cũng là cơ hội để các xe chuyển hướng an toàn.

Đối với các xe không muốn chuyển hướng thì Tuần và Triệt là sự cản trở. Tuần thì chuyển chậm và liên tục. Triệt thì đóng mở đóng mở. Sự xung đột của Sát Phá Tham ở mức độ nào đó cần có sự hạn chế điều chỉnh của TT. Đây chính là các tổ lái đường phố. Tử Phủ là xe nguyên thủ trong nước. Nhật Nguyệt là xe nguyên thủ quốc tế. Tử Phủ Nhật Nguyệt ít thích Tuần Triệt.

...

Tiểu vận tốt trong đại vận xấu như ngày nắng trong mùa mưa.

...

Lá số bà Nancy Reagan cách cục Phủ Tướng triều tam không hội đủ Tả Hữu Long Phượng Lộc Ấn nên quý cách. Mệnh VCD ngoài Nhật Nguyệt có thể nhận sự đầm ấm của Phủ Tướng. Vì Phủ Tướng không hóa nên ưa thích Lộc Tồn. Vì VCD không vong nên ưa thích Mộc Suy Tuyệt.

Cơ bản những tranh cãi tồn tại vì người đời không chịu tìm cách cục khi xem một lá số tử vi. Quý? cách cục gì? Phú? cách cục gì?

...

Cách cục VCD đắc tam không hội song Lộc là kì cách. Nếu không có song Lộc mà chỉ có tam không thì nhiều ý tưởng, thông minh nhưng không có thành quả.

...

Lá số VCD của Trần Lập tại dậu được tổ hợp Tử Phủ Vũ Tướng khá tốt đẹp. Tổ hợp Nhật Nguyệt tịnh minh thiếu song Lộc và bị sát tinh xâm phạm. Đại vận Nhật Nguyệt phát mạnh nhưng mệnh VCD đến đại vận Sát Phá Tham là vận Trúc La nên gặp ác hạn. Mệnh thân nhiều sát tinh có Tuần Triệt án ngữ như bom Văn Phú nổ chậm. Hình thái cách cục giống lá số Lý Tiểu Long và John Lennon, sát tinh ngộ chế. Đến khi không thể chế thì tác họa.

Kì lạ cả thái tuế Lưu niên ĐV và tiểu vận đều hội cung tật. Phải chăng gợi mở một cách xem vận?

Tiểu vận có Riêu Y Bệnh Phù. Năm Bính Liêm hóa Kị xung tật. Kị thủ có thể thoát nhưng Kị xung thì khó né. Đại vận Bính Tý Liêm lần nữa hóa Kị xung tật. Xem ra không phải ngẫu nhiên mà Hóa Kị cố tình tác họa. Một bản mệnh vốn bị Kị xung ẩn tàng sự bất trắc sẽ đến trong cuộc đời. Đến vận liên hoàn Kị xung nữa thì không đỡ nổi.

...

"Lộc tùy Kị tẩu" cho biết rõ thế nào là Kị xung, thế nào là Lộc xung, thế nào là phát xạ, thế nào là thu liễm.

Nếu Lộc là ánh sáng thì Kị là con mắt.

...

Hóa Lộc thủ, Hóa Quyền chiếu và ngược lại Quyền thủ Lộc chiếu trường hợp nào tốt hơn? Trả lời câu hỏi cơ bản này là cả một nghệ thuật cầu kì.

...

Vốn có một Hóa Kị, lại thêm một Kị đến xung. Tốt hay xấu? Chọn đúng thiên đường, chọn sai ra đường. Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung vốn có Hóa Kị, vận có Hóa Lộc đến xung hàm ý tốt hay xấu? Chọn đúng là thiên đường, chọn sai là ra đường. Lại một nghệ thuật cầu kì.

...

Cung phu, cung nô, hay cung tử tức liên quan trực tiếp việc có người yêu nếu người đó chưa kết hôn?

...

Nhân có bạn nói về nhất lục cộng tông. Lưu ý nhất lục cộng tông là cặp đối ngẫu nhưng chỉ có một chiều thuận sinh là chiều nghịch của địa bàn. Nghĩa là xem phúc để rõ hơn về nguồn tử tức. Xem tật để rõ hơn nguồn phúc. Xem mệnh để rõ hơn nguồn họa. Xem tài để rõ hơn nguồn điền.

Nhưng cũng có nghĩa là xem tử để rõ hơn về hậu của phúc. Xem nô để rõ hơn về hậu của phối, cho nên có ý kiến cho rằng nô là vợ hai hoặc chồng hai. Cái đó đúng. Xem phúc để rõ hơn về hậu của họa. Xem điền để rõ hơn tiền có tích lũy được không. Bắc phái xem điền để biết có của tích lũy không. Xem họa để rõ hơn hậu của mệnh.

MỆNH ---> HỌA --->PHÚC

PHỤ--->TÀI--->ĐIỀN

PHỐI--->NÔ--->MỆNH

Bạn có liên hệ gì duyên khởi duyên diệt của VẬN?

Đây cũng là một nghệ thuật cầu kì.

Cung số 6 là đối xứng của cung bên cạnh cung 1. Nói chung loanh quanh là chủ sự tiếp diễn. Cho nên nhất lục cộng tông nghĩa là cùng 1 tổ mà ra.

...

Nếu xếp các việc con người làm theo một thang bậc thiện- ác đúng- sai. Thì ranh giới thiện-ác đúng-sai sẽ được tâm lý con người quy ước là ở giữa. Dù cái thang đó có dài ra hay ngắn lại theo thời gian thì lằn ranh tâm lý luôn rơi vào giữa.

Luật pháp là sự quy ước cái ĐÚNG. Thế nào là ĐÚNG thì xem luật. Không đúng luật là sai. Nếu không có luật pháp thì không có căn cứ để xử đúng sai. Luật pháp thay đổi theo thời gian căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm xử thế của loài người. Và luật pháp luôn có xu hướng tiệm cận chân lý nhưng không phải chân lý.

Người có đạo đức đơn giản là người tuân thủ luật pháp. Sống thời nào theo luật pháp thời đó. CÔNG LÝ là cái lý của công chúng. Công chúng là đa số xã hội. Họ quyết định thế nào là Đúng.

Luật pháp là giao ước giữa người và người với nhau. Để khi xảy ra chuyện thì căn cứ vào đó để xét và xử.

Người bị luật pháp giết là người bị người giết. Người chết già là người bị trời giết vì những quy luật hạn chế của sinh giới.

Thái Tuế là luật pháp, Bạch Hổ là công an, Quan Phù là viện kiểm sát.

...

Cơ bản thì số phận có hai phần. Phần do mình chủ động và phần do mình thụ động. Nỗ lực bản thân chỉ có thể thay đổi phần chủ động. Còn phần bị động thì vô phương. Mở rộng phần chủ động càng rộng càng tốt cũng là một cách thay đổi số phận. So sánh khập khiễng là nắm đằng chuôi. Gốc rễ là Tâm. Thân cành là Ý. Lá quả là hành động. Vì vạn vật đồng nhất thể nên cơ cấu bộ máy quốc gia cũng vậy. Tâm chính là ý thức hệ, cộng sản hay tư bản. Ý chính là ý thức hệ được diễn giải thành văn bản như Hiến Pháp Luật Pháp. Hành chính là sự thực hành những quy ước đó. Số phận phần chủ động được quyết định trực tiếp bởi hành động. Mối quan hệ này tuân theo quy luật tự nhiên. Hành động thế này sẽ tương ứng có hậu quả thế này. Hành động thế kia có hậu quả thế kia. Hành động thường theo thói quen. Hành động cũng chính là lựa chọn. Chọn làm cái này không làm cái kia. Chọn người này không chọn người kia. Hành động là chuỗi các lựa chọn. Lựa chọn thì bị quyết định bởi Ý. Ý chính là muốn hay không muốn. Ý bị quyết định bởi tâm. Tâm ác thì có ý giết người. Tâm thiện thì không nảy Ý giết người. Dù cả hai loại tâm có rơi vào hoàn cảnh như nhau thì lựa chọn cũng khác nhau. Trả đũa hay không trả đũa. Lấy hay bỏ. Thông minh là cấp độ của Ý. Sáng ý là thông minh. Tối ý là ngu. Thông minh là có tài. Có người tài mắt có người tài tay. Nôm na đều sáng ý. Tài là có làm được không? Đức là có nên làm hay không? Thông minh không có nghĩa là tâm tốt. Vì ý nằm dưới cấp độ của tâm. Ý như con sao. Sắc hoặc cùn. Tâm quyết định con dao đó nấu ăn hay chém người. Cho nên muốn đổi số phận thì tu Tâm. Tâm dẫn Ý tốt theo. Ý lại chỉ thân làm gì. Kết quả của hành động chính là phần chủ động của số phận. Biểu hiện của số phận thay đổi là thói quen thay đổi. Biểu hiện của số phận thay đổi là quan điểm thay đổi. Cụ thể là cách làm thay đổi. Ba cái đó chưa thấy thay đổi thì ta chỉ già đi và chờ may rủi của phần còn lại của số phận rơi xuống thôi.

...

Thanh kiếm cắm xuống là biểu tượng của quyền lực, sự răn đe. Kiếm chỉ lên trời là khởi nghĩa tấn công. Kiếm giương ngang là phòng thủ. Đó là tam kiếm.

...

Vì sao lấy vòng Thái Tuế làm thước đo các sao khác mà không lấy vòng Lộc Tồn? Vì vòng Thái Tuế không phụ thuộc vào địa bàn như vòng Lộc Tồn Bác Sĩ. Lộc Tồn ít ra phải né tứ mộ.

Vòng Trường Sinh còn phụ thuộc hơn khi Trường Sinh buộc phải đóng ở 4 cung dần thân tị hợi.

...

Các bạn học tử vi có phương pháp có hệ thống dù chưa giỏi rồi sẽ giỏi. Còn không có hệ thống, dù nay đoán trúng mai lại đoán trật cũng chẳng biết vì sao.

...

Thông thường tam hợp phái cho rằng xung chiếu và thủ là giống nhau. Nhưng tứ hóa phái cho rằng thủ và chiếu là khác nhau, thậm chí còn có một chiều. Đó chính là phép hội sao: sự phân biệt chiều hội chiếu.

...

Việc xem vận hạn cần có nguyên tắc. Có nguyên tắc mới hiểu căn nguyên. Như một người vốn có tính ăn cắp. Gặp được kho hàng mới nảy sinh lòng tham. Đến khi người gác lơ là mới thực hiện hành vi ăn cắp. Chứ không phải ai lúc nào thấy kho hàng cũng ăn cắp.

Xem vận cũng vậy. Hiện nay đa số xem vận từ ngọn. Thấy tiểu vận quét vào cung nào liền đoán sự việc liên quan cung đó. Thì làm sao trúng. Lá số lập nên cho biết tiềm năng ý hướng của mệnh tạo. Nhưng đó chỉ là cách cục chứ không cho biết cát hung. Đến đại vận thì những ý hướng đó bắt đầu nổi rõ hơn. Và trận địa bày sẵn. Khi lưu niên dẫm phải đúng kíp nổ. Sự kiện liền xảy ra. Như vậy sự kiện có gốc có thân mới có ngọn. Truy tìm từ gốc có thể dò được năm lưu niên ứng kì. Trong đại vận có khả năng phát quyền. Lưu niên tới kích hoạt sẽ phát quyền. Trong đại vận không phát quyền. Lưu niên tới đấm bùm bụp vào cung quan cũng không đổi. Xem tiếp về gốc của quyền. Như Quang Trung bẩm sinh là thiên tướng quân. Đến vận phát quyền sẽ khác hẳn người thường. Mình không có, đến vận mượn được chỉ là cái áo sặc sỡ bên ngoài mà thôi. Quá vận sẽ trở lại con số 0 ban đầu. Nên cơ bản lộ trình xem vận là Thiên- kết cấu lá số (chủ tư chất tiềm năng thiên khiếu sở trường), Địa- đại vận dẫn hóa (chủ cách cục và xu hướng cát hung), Nhân- lưu niên ứng kì (chủ cát hung). Xem trong đại vận có tín hiệu phát tài mới tìm lưu niên phát tài. Đại vận tuy vẫn là cách cục nhưng đã đóng khung ấn định cát hung rồi.

...

Trong cả rừng phú và sách, các bạn học tử vi hãy chọn cho mình những nhận định chuẩn mực (nói cách khác là ví dụ mẫu). Học thuộc và kiểm nghiệm nhiều lần nhận định đó. Sau tích lũy các nhận định đó sẽ hình thành yếu lĩnh của phép xem. Còn hơn lan man ôm đồm quá nhiều nhận định. Nếu cả quyển sách tóm lược vào 10 câu trọng yếu. Thì 10 câu đó là gì?

Hàng Long Thập Bát Chưởng cũng vậy. Đó là 18 chưởng tiêu biểu đủ để toàn diện cho phép đánh. Tuy là trong thực tế có nhiều biến hóa đa đoan nhưng con số 18 đủ để đại diện những trọng yếu. Nắm vững 18 phép đó có thể tự biến hóa toàn diện. Các tiền bối trải qua quá trình nghiên cứu và chắt lọc thấy rằng không thể rút xuống 17 chiêu, còn nếu để 19 chiêu thì thừa. Như một giáo trình ngoại ngữ, các vấn đề đưa ra là chọn lọc với mục đích là đơn giản nhất nhưng toàn diện nhất. Cho nên học trọn vẹn một giáo trình tốt hơn mỗi quyển học một tí.

Sách của Trung Châu tuy tỉ mỉ nhưng nhược điểm là dễ gây loạn. Nếu người đọc rút được những câu trọng điểm và từ đó nương vào thì đỡ khổ hơn.

...

Ăn mặc là hình thức, phòng ở là nội tâm. Macbook là hình thức, quản lý file là nội tâm. Cả hai đều quan trọng, nội tâm là bên trong nên theo thời gian sẽ bộc lộ ra sau.

...

Con đến trường để học tập. Học tập để khai phá tiềm năng của bản thân rồi sau này đóng góp xã hội. Giáo dục là để phát hiện sở trường và vun đắp sở trường, định hướng thành sản phẩm hữu ích cho cộng đồng. Chứ học tập không phải để hơn người, không phải để hơn con nhà hàng xóm như tiềm thức ăn sâu vào đa số phụ huynh Việt. "Mày cũng chẳng bằng con người ta".

...

Theo chiều nghịch của địa bàn: quan ---> mệnh ---> tài. Cung quan là khí chất bên trong mệnh. Cung tài là biểu hiện bên ngoài mệnh.

Nói về đời thực, tiền tài là phục sức bề ngoài. Khả năng và khí chất ẩn ở bên trong.

...

Khi năm sinh gửi tứ hóa đến các cung. Các cung có 4 thái độ đối với hóa khí được gửi đến. Đó chính là tự hóa. Đây là mô phỏng chính xác nhất tâm tư của đời người. Khi người khác yêu (Hóa Lộc) bạn. Bạn có 4 cách đối đáp: yêu lại (Lộc), kiêu kì (Quyền), hòa nhã (Khoa), thu mình lại (Kị). Tương tự khi người khác đánh (Quyền) bạn, bạn có thể: cười nhăn nhở, đánh lại, phân bua, và sợ hãi. Bạn tươi cười chào (Hóa Lộc) người khác. Người khác có thể niềm nở lại, có thể kiêu, có thể chừng mực, có thể sợ hãi bị bạn lừa. Đó là phản ứng nằm ngoài ý muốn của ta.

Cho nên đừng có ngồi trách đời sao phũ với mình. Đời nó phũ chung với mọi người. Còn cách phản ứng với cái phũ đó là do mình

...

Điền của nô chính là nô của điền, đó là cung tài bạch. X của Y chính là Y của X với bất kì X hay Y là gì.

...

Hoá Kị cung phối ý là một người cũng thấy nhiều. Hoá Lộc cung phối ý là bao nhiêu người cũng còn ít. Hoá Kị là ghét, Hoá Lộc là yêu quá. Yêu quá hay ghét quá đều dẫn đến một kết cục chung. Điều này khác với nhận định truyền thống rằng cứ Khoa Quyền Lộc là tốt. Ai dè trong thực tế Lộc cũng cho kết quả li hôn. Cho nên hiểu bản chất cách cục và hiểu qua loa về cách cục cho kết quả sai một li đi một dặm. Tương tự thì Khoa Quyền cung phối cũng không hề dễ chịu.

...

Nếu tam hợp phái là phái của tam hợp thì tứ hoá phái là phái của chính xung.

...

Phụ mẫu của vợ mình là bố mẹ vợ chính là phối của phụ mẫu. Tức phối của phụ mẫu mình là ông bà thông gia của bố mẹ mình.

Tử tức của phụ mẫu chính là phụ mẫu của tử tức, hay chính là con dâu của bố mẹ mình, tức mẹ của con cái mình, tức vợ mình.

Bào của phụ mẫu chính là phụ mẫu của bào. Bào của phụ mẫu là cô dì chú bác mình, chính là phụ mẫu của bào tức bố mẹ của tụi anh em họ mình.

Tử tức cố định là con mình, thì Tử tức của phép di cung là con dâu con rể. Phối của mình là vợ mình, phối của bố mẹ mình là thông gia. Như vậy bản chất cung phối là thông gia.

Qua di cung anh em là anh em họ.

Nhờ đó ta biết phép di cung là phép "phối chéo", âm với dương và dương với âm. Khi dương với dương là chính, âm với âm là chính, thì âm với dương là chéo. Trong đời thực có mối quan hệ bố mẹ vợ, anh em họ, chẳng lẽ trong mệnh lý không có.

...

Cát tinh hãm: tiền hung hậu cát, ví dụ Thái Dương hãm thành công muộn, đây chính là thiếu dương trong tứ tượng.

Sát tinh miếu: tiền cát hậu hung, ví dụ Không Kiếp miếu bạo phát bạo tàn, đây chính là thiếu âm trong tứ tượng.

...

Vận đến vòng Thái Tuế là đến thiên thời, vận đến tam hợp mệnh như được là chính mình. Cát hung là do trời nhưng sướng khổ do mình cảm nhận. Giả sử tam hợp mệnh không trùng tam hợp Thái Tuế thì ví dụ tinh giản nhất là: đến tam hợp Thái Tuế được làm vua, còn đến tam hợp mệnh được sống như chính mình. Làm vua là thành công nhưng sống như chính mình là hạnh phúc. Kiếp nhân sinh ảo diệu ở chỗ là được cái này mất cái kia. Đây chính là dạng thiếu âm thiếu dương trong tứ tượng. Người học thường bị loạn những chỗ này. Đây cũng là yếu quyết để xem vận. Tam hợp mệnh là một dạng "đúng" như tam hợp Thái Tuế thì nô và tật chính là "sai", cho nên đặt Thiên Thương và Thiên Sứ làm dấu.

...

Theo nhất lục cộng tông:

Cung di là cung bào hậu thiên. Gọi là anh em xã hội, những người bạn quen từ xã hội.

Cung thê là điền hậu thiên. Vợ chính là gia đình. Người xưa gọi là hiền nội.

Cung phúc là tật hậu thiên, tử là phúc hậu thiên, tật là mệnh hậu thiên.

Cung quan là tử tức hậu thiên. Công việc là đưa con tinh thần. Đi nghịch nhất lục từ mệnh đến quan là 5 bước, bằng đi thuận từ mệnh đến quan cũng là 5 bước.

Cung bào là quan hậu thiên, là quan của cung điền. Về điền là về vườn. Bào là công việc lúc về vườn.

...

Khó khăn của tử vi không phải là tìm ra cái mới, mà sử dụng cái đã có đúng như vai trò của nó, sắp xếp cái đã có đúng như trật tự của nó, một cách đơn giản nhất.

...

Tang Tuế Phá cùng âm dương nhưng nghịch ngũ hành. So với dương tử phúc thuận ngũ hành nhưng nghịch âm dương, cái nào tốt hơn? Trả lời được thì bạn giỏi nhì thế giới.

...

Trước đây tư duy của chúng ta cho rằng Tuần và Triệt là cản trở, rồi tiến bộ hơn lại cho rằng Tuần Triệt là lực lượng điều chỉnh. Để rồi vẫn mơ hồ câu hỏi: vậy miếu địa gặp Tuần Triệt thì xem thế nào.

Bây giờ hãy thay đổi đi. Hãy nghĩ rằng TT là cách điều chuyển năng lượng khác đi. Nghĩa là miếu hay hãm khi gặp TT vẫn là miếu hãm. Nhưng ví dụ Tuần câu hút năng lượng Nhật Nguyệt về, vo lại, nén dần, nén dần, đến khi thật chặt thì mới làm một cái nổ bum. Đó, mới là Tuần Triệt.

...

Tuần tích tụ dồn nén đến cực hạn thì bung ra. Triệt vét sạch dốc sạch năng lượng đến cực hạn thì co lại. Triệt giống như dùng doping, kích thích và vét sạch sức lực dùng khi đó để ngày mai nằm bệt mệt mỏi gấp n bình thường. Tuần cộng, triệt trừ. Tuần già Triệt trẻ. Tuần muộn, Triệt sớm. Đó là cách sử dụng năng lượng của Tuần Triệt vậy.

...

Thái Dương ngọ nên gặp Triệt, Thái Dương tí nên gặp Tuần. Chân lí giản dị vậy thôi.

...

Không phải cứ số nào cũng lên chức là hay, số nào giàu là hay. Quan trọng là đi đúng con đường của mệnh thì cuộc đời sẽ hanh thông. Còn cứ chạy theo thói đời thì sẽ đau khổ. Xem tử vi để nhìn ra con đường của mệnh. Công chức hay binh nghiệp hay tá điền. Đi con đường nào cũng có cái hay riêng. Sự an phận của người hiểu và không hiểu mệnh ở chỗ đó. "Số tôi không giàu" từ người bi quan và người hiểu mệnh nói ra khác nhau ở chỗ đó. Phương Tây gọi là sở trường sở thích. Phương đông chúng ta gọi là Số Phận. Làm một bà nội trợ hạnh phúc chồng con thành đạt còn hơn bon chen làm bà công chức làng nhàng. Hạnh phúc là đi đúng con đường vận mệnh của mình. Không hão vọng, dù con đường số mệnh của mình nhàn hay vất vả. Chỉ cần là số mệnh của mình, mình sẽ đi hết con đường đó. Đó chính là kiên định, đó chính là cá tính, đó chính là đặc sắc. Đi đúng đường mình sẽ tôn trọng đường người khác. Anh đánh cá việc anh, tôi kiếm củi kệ tôi. Giúp được nhau thì tốt, không thì đường ai nấy đi. Vui với cái của chính mình sẽ thông cảm với cái của người khác. Tử vi giúp con người thấy được con đường vận mệnh.

...

Lưu niên Thái Tuế:

Hoá Lộc nhập/ xung mệnh còn Hoá Kị nhập/ xung thê: lấy vợ.

Hoá Lộc nhập/ xung thê còn Hoá Kị nhập/ xung mệnh: bỏ vợ/ vợ bỏ.

Vì sao? Phải chăng vì một khi phụ nữ họ đã nắm được Hoá Lộc, họ cần chồng làm gì? Không phải, mà vì sự vận hành của Lộc Kị, cái chúng ta nói với nhau thành công thức như trên chỉ để dễ nhớ.

...

Lưu niên phi Hoá Lộc nhập tật, Hoá Kị nhập mệnh thì năm đó báo hiệu là năm xấu. Đừng nhầm Lộc di mệnh Kị nhé. Lộc di mệnh Kị lại tốt.

...

Tất cả nhận định của tiền nhân trong tử vi đều đúng, vấn đề là đúng đến đâu?

...

Thái Tuế Lộc Tồn chỉ là cột mốc, lên hay xuống do thời vận. Thời vận thay đổi từ các dấu mốc đó. Lên xuống tuỳ trường hợp.

John Lennon, Nguyễn Cao Kỳ, Tưởng Giới Thạch, John Kennedy, Muhammad Ali, Tôn Trung Sơn đều "ra đi" trong đại vận Thái Tuế.

...

Vận trình như nắng mưa bên ngoài. Cái cây còn sống thì nắng mưa rồi cũng qua hết. Nếu cây đã chết, vào nắng sẽ khô, ngâm mưa sẽ mục. Vấn đề không phải mưa nắng mà là nội tại cái cây.

Trong tử vi cái gì là nội khí?

...

Các tình yêu thấy chưa. Chung quy cứ phải Hoá Lộc Hoá Quyền. Cho dù cực hãm, làm cái phản hoá là xong. Tự cường là tự do. Kể cả có Không Kiếp Hoả Linh, có Quyền Lộc là thành Tôn Trung Sơn vĩ đại. Tiền và quyền có thể sai khiến và sử dụng côn đồ cũng như quân đội. Tuy nhiên để bền vững phải có Khoa và Kị.

...

Địa chi cho biết cái gì. Thiên can cho biết như thế nào. Cho nên vận địa chi như lưu niên thái tuế và tiểu vận, dù xem cách nào cũng chỉ cho biết cái gì. Thiên can tứ hoá mới cho biết cát hung. Sự cát hung do tứ hoá biểu hiện cũng giản dị. Như đại vận cung mão của Mao Trạch Đông, mới nhìn thì Không Kiếp hãm địa VCD, nhưng đại vận có Lộc Quyền nguyên thuỷ và Lộc Quyền đại vận xung chiếu, đại vận đó thành công quyết định, đả bại Tưởng thống nhất Trung Hoa. Như số của Tôn dù có Hoả Linh Không Kiếp, có Lộc Quyền chuyển thành cát cách. Thành công trong con mắt người đời, đó là Lộc Quyền.

...

Thượng trung hạ cách của tử vi có thể nhìn thấy từ vị trí của tứ hoá nguyên thuỷ. Thông thường các tổ hợp như tứ hoá toàn phùng là cực mạnh, Khoa Quyền Lộc là mạnh, sau đó đến Lộc Quyền, rồi Quyền Khoa, Quyền Kị... Các tổ hợp thiếu Hoá Lộc yếu hơn các tổ hợp khác. Ví dụ như Khoa Quyền hay Quyền Kị đều không tồi nhưng không thể so với Lộc Quyền. Kể cả Lộc Khoa cũng là tổ hợp khuyết thiếu. Đôi khi đơn hoá hợp cách lại có tác dụng tốt hơn nhị hoá hay tam hoá lủng củng.

...

Quang Quý Thai Toạ là dạng hoá khí của tứ cát Xương Khúc Tả Hữu. Xương Khúc Tả Hữu khi hoá cũng có thể thành Khoa Kỵ nhưng không thể thành Quyền Lộc. Vì tiến hoá của XKTH đã là Quang Quý Thai Toạ. Ứng dụng là gì? Là các sao hoá khí có thể dùng làm cơ sở để xét đoán. Tinh đẩu khi chưa hoá cũng như cá chép, hàm ý và tình tứ chưa rõ ràng. Còn khi đã hoá, là rồng, ý tứ là rõ rệt, biểu hiện cũng đơn nhất, tính chất cũng tinh tuý. Cho nên tứ cát Tả Hữu Xương Khúc ít được nhắc đến, hay nói đúng hơn là không cần nhắc đến. Chỉ xét tương tác tứ vinh, tứ hoá và lục sát đã đủ bao hàm trong đó: chính là tương tác của cát tinh và sát tinh. Thêm Không Vong đại diện thiên hãm, La Võng đại diện địa hãm, Thương Sứ đại diện nhân hãm. Gộp là lục hãm. Quý tinh, tứ hoá, sát tinh, và lục hãm phơi bày là đầy đủ căn cứ xét đoán một lá số. Không thể thiếu sót.

...

Sinh 1 đến 6, thuỷ nhị cục

Sinh 7 đến 12, mộc tam cục

Sinh 13 đến 18, kim tứ cục

Sinh 19 đến 24, thổ ngũ cục

Sinh ngày 25 đến 30, hoả lục cục

Là chính cục.

...

Tháng chủ cung, ngày chủ tinh.

...

Hình: có vẻ bề ngoài là cái máy bay

Lý: bay được

Khí: nhiên liệu

Vận: may hay rủi

Dụng: tầm ảnh hưởng bao lâu bao xa, bao nhiêu quan trọng? Máy bay do thám không người lái tuy nhỏ nhưng tầm ảnh hưởng có khi hơn Boeing 747.

Máy bay mô hình bán cho trẻ em khá giống bề ngoài nhưng không bay được. Máy bay đồ chơi bay được nhưng tầm ảnh hưởng chỉ là đồ chơi, tầm ảnh hưởng chỉ là vài trăm mét, sức bền chỉ là vài chục phút.

Nhưng mà có hình rồi mới xét lý, có hình lý mới xét khí. Không có hình lý chỉ có mỗi khí thì như hồn không có xác nhập vào, như địa chi không có thiên can biểu hiện.

Lý là sự hợp lý, hợp lý về khí động học, hợp lý về trọng trường mới bay được.

Hình lý khí cần tương xứng với nhau. Nếu không cân xứng thì vô dụng. Khí vượng thì lớn, khí suy thì nhỏ, khí âm thì lâu, khí dương thì mạnh mẽ.

Lý trong tử vi là cách cục. Cách cục là tổ hợp có lý của vài sao. Cách cục đó thấm đậm khí âm dương ngũ hành thì mạnh mẽ, không thì hời hợt nhếch nhác.

Hình dáng: chuẩn cho vận động viên bơi lội.

Lý: bơi đúng kỹ thuật

Khí: yếu

Vận: đen

Kết quả: vô dụng

Khí: vượng

Vận: đỏ

Kết quả: 100 huy chương vàng Olympic

...

Nói về tam hợp phái có thể gói trong hai câu:

Bị rách nhưng lại có vàng

Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng

...

Cự Môn hoá Lộc: tán dương, khen ngợi

Cự Môn hoá Quyền: đe doạ, hạ lệnh

Cự Môn hoá Khoa: giảng giải

Cự Môn hoá Kị: oán trách

Cự Môn Không Kiếp: nói dối

...

Miếu hãm của tinh đẩu có giá trị đáng kể. Cho dù không gặp phản cách Lộc Quyền nhưng sự miếu đắc của sát tinh vẫn cho kết quả tốt đẹp. Cho nên nếu gặp Hoá Kị tứ mộ, hay Kình Dương tứ mộ đơn lẻ. Có thể nhận định đó là tốt. Miếu hãm của tinh đẩu dù sao cũng do Khí mà ra. Tinh đẩu là cái Hình, cách cục là sự có Lý, miếu hãm là một biểu hiện của Khí.

...

Bệnh tật thuộc về mộ. Ngưng đọng trì trệ. Cần gặp Không để khai phá sự ngưng trệ này. Nên bệnh nhẹ gặp Không thì khỏi, bệnh nặng gặp Không thì vong.

...

Chính tinh mệnh thân của con cái ứng với chính tinh cung tử tức của cha mẹ, hoặc cung mệnh thân của cha mẹ. Cho nên đôi khi vận cha mẹ mất chưa chắc đã động cung phụ mẫu mà động tinh đẩu chính là chính tinh mệnh thân của cha mẹ. Ví dụ cha mệnh Thiên Tướng đến năm mất thì vận người con nhập đúng cung có Thiên Tướng.

...

Cách xem tiểu vận cho tuổi âm cần được rà soát lại nghiêm ngặt.

...

Trước khi học cách xem vận cần nắm được học thuyết tam tài thì sẽ không bị thừa hay thiếu.

...

Không có một quy luật hay công thức nào đơn điệu như kiểu vận rơi trúng cung thê thì cưới, hay Hoá Kị xung thê thì li hôn, vì vận rơi cung thê có thể cưới có thể bỏ, Kị xung cung thê có thể cưới có thể bỏ. Bởi vì đó chỉ là một yếu tố. Cần có ít nhất ba yếu tố độc lập mới đủ cho hệ quy chiếu tam tài. Cho nên có những vòng lặp 10 năm hoặc 12 năm khi thiên can hay địa chi quay lại đúng như vậy nhưng sự kiện thì không giống nhau.

...

Đàn ông lấy vk rồi thì mang tượng Thái Âm.

Đàn bà lấy ck rồi thì mang tượng Thái Dương.

...

Vượng suy là quan hệ can và chi. Hợp phá là quan hệ can và can. Hợp xung là quan hệ chi và chi. Chung quy tử bình chỉ có hai loại quan hệ này, cùng âm dương và khác âm dương. Cho nên dụng thần cũng chỉ có hai loại: một loại theo vượng suy và một loại theo cách cục.

Mối quan hệ can can hay chi chi là mối quan hệ tiềm năng, tức là có thể xấu cũng có thể tốt, chưa thể kết luận. Ví dụ địa chi tương xung có thể kích phát cũng có thể huỷ diệt. Yếu xung mạnh là kích phát. Mạnh xung yếu là huỷ diệt. Mối quan hệ can- chi hay mối quan hệ vượng suy là mối quan hệ có thể kết luận. Nói cách khác quan hệ can-can chi-chi là quan hệ cần, quan hệ can-chi là quan hệ đủ.

Nhưng như vậy cho biết cách cục dụng thần cần xét trước. Sự mạnh yếu của cách cục được xét bằng vượng suy. Từ đó mà có cách cục cao thấp.

Trong bốn trụ thì năm ngày cùng tính âm dương. Tháng giờ cùng tính âm dương. Năm như phúc đức, ngày như bản mệnh. Năm là gốc mệnh của mình, là mình khi nhỏ. Ngày là mệnh sau này mình tạo ra được. Tháng là lực lượng phủ chụp mình quản mình. Giờ là lực lượng mình tạo ra và do mình quản. Nó như quan và tài của tử vi. Cho nên khi năm hay ngày bị vận tới xung. Sự ảnh hưởng là trực tiếp rõ ràng. Khi tháng và giờ bị xung, sự ảnh hưởng là gián tiếp và từ từ. Có thể ví dụ cực đoan như bản thân bị ốm và vk con bị ốm. Đều là ảnh hưởng nghiêm trọng nhưng một trực tiếp một gián tiếp khác nhau.

...

Mỗi tam hợp lấy một cung đại diện. Tứ tượng của tử vi có thể là: ta (mệnh), người (nô), phúc (phúc), hoạ (tật).

...

Thái Dương cư tỵ miếu địa nhưng là cung âm, vì thế bên ngoài có danh có tí rực rỡ, nhưng mà bên trong không có thực như bên ngoài. Ví dụ: có danh nhưng mà nghèo, hoặc có tài nhưng không gặp thời. Cái lệch về âm dương ảnh hưởng đến bên trong, đến sự lâu dài, chứ không dễ thấy như bề ngoài.

...

Thái Tuế chủ danh cho nên chủ cả dự. Danh là tiếng, dự là được người khác khen. Người thuộc vòng Tuế Hổ Phù đến chết cũng coi mình là chân lý, đến chết cũng không nhận sai. Thế nhưng tuế hổ phù không làm người đó chủ động trong hành động của mình. Con người có thể phân ra hai loại: sống chủ động và sống bị động. Trong tứ hoá thì Lộc Quyền là chủ động, Khoa Kị là bị động. Còn trong cách cục thì song Lộc là chủ động. Nhật Nguyệt chiếu hư vô có tam Không là đỉnh cao của cách cục Không Vong. Nó cấu thành bởi tam tài thiên địa nhân là: Không Vong, Nhật Nguyệt và song Lộc. Không Vong là môi trường cho vầng Nhật Nguyệt soi rọi, nhưng cần có song Lộc mới hoàn hảo. Sự có mặt của song Lộc nói lên sự chủ động. Hạt giống thành công của đời người.

Tử Vi cư ngọ vô Hình Kị

Giáp Đinh Kỉ vị chí công khanh

Vì Tử Vi khi đó gặp Lộc Tồn là tử vi chủ động. Tử vi Hình Kị là Tử Vi bị động.

...

Dương âm cùng tồn tại nhưng dương luôn thống âm. Xem nhé.

Đàn bà tuy đòi hỏi nữ quyền, bình quyền. Ok hết nhưng chung quy trong thế giới này đàn ông vẫn thống trị. Chị em nên mở lòng chấp nhận sự thực này nhé.

Thiên luôn áp địa. Khi cả thiên hà này hỗn loạn sao bay khắp nơi thì cái quả cầu bé nhỏ này cũng chẳng thay đổi được gì.

Bà cả luôn lấn át bà hai, vì chính quy. Danh chính thì ngôn thuận. Này Hà Hồ, chị cho mượn ck chị đấy nhé. Dùng xong nhớ trả chị còn cho người khác mượn.

Quân đội chính quy và cảnh sát luôn lấn át xã hội đen. Về lòng dân cũng như về bài bản hệ thống. Hơn nữa, quan mà đi ăn cướp vẫn dễ hơn bọn trộm cắp đường chợ.

Khoa học luôn lấn át huyền học (vì tâm lý con người). Khoa học là ánh sáng, huyền học là bóng tối. Bóng tối là nơi không có ánh sáng. Trong con mắt và ngôn từ người đời, bóng tối bị định nghĩa bằng ánh sáng. Huyền học cũng đang bị định nghĩa bằng khoa học. Thực ra, đó là nhu cầu chủ quan của con người. Chứ bóng tối và ánh sáng ngàn năm cùng tồn tại, không có nhu cầu định nghĩa. Ngay khi huyền học phơi bày được quy luật gì, người đời xếp cái đó vào khoa học. Thứ chưa biết và đã biết mãi cứ là hai mảng âm dương quyện với nhau.

Thực ra âm dương vốn không hơn kém gì nhau. Nhưng tâm lý con người ta phân biệt. Tâm lý chúng ta hướng sáng hơn tối, hướng khô hơn ướt, hướng thiện hơn ác. Chứ đối với Đạo mà nói, thiện hay ác chẳng khác gì nhau. Khoá sắt hay khoá vàng đều là khoá.

Vậy vì sao có âm dương? Vì con người tự phân biệt ra vậy. Để làm gì? Để có cái nói với nhau về vũ trụ. Một vũ trụ bản chất của nó là vũ trụ không lời.

...

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế

Ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Dương chủ ấn định xác lập. Như một nhân sĩ cách mạng đi theo lý tưởng của mình. Đó là lí do trai tráng rời bỏ gia đình đi tòng quân chiến đấu.

Âm như cảm xúc, đi theo bản năng và xu hướng mà bất kể lí do lí trí. Đó là lí do Mị Châu rải lông ngỗng.

Cho nên phản cách chỉ xảy ra với sát tinh dương như Địa Không, Kình Dương và Hoả Tinh. Quý cách có Kình Dương nhập miếu chứ không có Đà La nhập miếu. Âm tòng thế nên không thể sáng lập cái mới, không sáng lập cái mới thì không thể phản cách.

...

Khi mà những thứ mình thiết lập đã cho thành quả thì đời phải chùng xuống lấy đà. Khi đó phải thiết lập cơ sở mới, và cần có thời gian để thiết lập mới nở hoa. Chứ lúc đó còn u mê tiếc nuối thì suy nghĩ thoái hoá quá. Giống như bố mẹ cho nền tảng cung Mệnh, ba mươi năm hưởng tràn cung mây, rồi sang cung Thân đời mình mình lo, bố mẹ già mà nền tảng mới con xây chưa vững thì phải chịu khó khăn một thời gian. Xã hội cũng vậy, trải qua thời kì thiết lập các bộ luật thời đại, kiểu hình thái xã hội. Đến lúc cơ sở hạ tầng phát triển vượt quá thiết lập thượng tầng cũ thì phải thay đổi. Lúc đó người ta gọi là thời chiến hay thời loạn. Tử vi cứ ba cung thì lại đến mộ. Tứ sinh là sinh, tứ chính là vượng, vượng xong lại mộ để ẩn tàng để an nghỉ để xốc lại quần áo. Sau đó lại tứ sinh, tứ đẹp rồi lại tứ mộ tức tứ già.

Nhịp đời cứ lên xuống như hình sin. Lúc xuống không phải là thoái mà là lấy đà. Nên chuẩn bị lấy đà mới trước suy thoái không? Không. Vì lúc đó cái cũ chưa vươn tới đỉnh cao. Lộc Tồn thiết lập, Kình Dương vút rồi Đà La sa xuống, Lộc Tồn mới xuất hiện, Kình Dương lại vút cao.

...

Sát tinh là vũ khí. Kình là giáo dài, Đà là đao sắc. Hoả Linh là dùi cui điện, súng ống bom mìn. Không Kiếp là vũ khí người tức quần chúng cách mạng.

Cách tốt cần có 1 đến 2 sát tinh ngoài những cát và quý tinh khác. Tốt nhất là có một sát tinh. Hoặc hai sát tinh cùng cặp. Nếu cách cục không có sát tinh, chỉ như cái vỏ bề ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong rỗng tuếch. Các tổ hợp chính tinh không phải Tử Phủ Nhật Nguyệt rất cần sát tinh yểm trợ. Lí do là vua chúa không cần mang theo đao kiếm nhưng cầm dùi cui điện cầm điện thoại cầm nút điều khiển bom, quan quân nhất định phải có vũ khí bên mình. Bách tính cũng cần cuốc xẻng xà beng để lao động. Cuốc xẻng xà beng tức Kình Đà. Búa liềm tức Kình Đà.

Quần cát ủng nhất sát thì đó là cực quý. Tưởng có một Linh Tinh kèm cát hoá. Bill Gates có một Linh Tinh kèm thượng cách Nhật Nguyệt tịnh minh song Lộc. Linh Tinh của Bill Gates là công nghệ thông tin. Tôn có đủ Hoả Linh Không Kiếp Lộc Quyền, nhưng sát tinh của Tôn hơi nặng nên tàn phá cơ thể không thể chịu nổi. Ôm cả bom dẫn theo quần chúng cách mạng thì thành trì ọp ẹp Mãn Thanh sao chịu nổi.

Tử Phủ Nhật Nguyệt hợp Hoả Linh. Hoả Linh là hương hoả là hào quang là ánh sáng của đế vương của thần phật. Bảo Đại có một Linh Tinh cung thân trong tổ hợp Tử Vũ Liêm. Tay cầm dùi cui điện làm trùm hai chục năm với Tử Vi đắc Lộc Tướng Ấn.

Cho nên Tử Phủ không hợp Kình Đà. Vua gì lăm lăm thanh kiếm, vua gì cầm cuốc xẻng xà beng của giai cấp công nông lên dốc. Kình Đà có vẻ là vũ khí trang bị của giai cấp bình dân như công nông binh lính, không phải thứ vũ khí hào hoa của giới thượng lưu.

Không Kiếp đi với Đồng là quần chúng cách mạng. Không Kiếp đi với Tướng là quân đội nhân dân. Không Kiếp đi với Phá Quân là tổ chức khủng bố. Không Kiếp đi với Tử Vi: đế ngộ hung đồ. Vì vua là ngôi chí tôn chính chủ, có bao giờ thích quần chúng cách mạng. Gặp phải lũ nữ tặc táo tợn thì thân trai còn đâu mảnh chip vắt hông. Lộc Tướng Ấn là ấn ngọc giáp vàng của hoàng thượng, cũng đời nào muốn lọt vào tay Không Kiếp thảo dân cho chúng bán đồ cổ làm món tiền như Đại Nam Quốc Ấn.

Có vũ khí rồi nhưng ta cần Lộc Quyền để sử dụng hiệu quả thành công món vũ khí đó.

Vậy công thức thành công là gì: thiểu sát + đa cát quý + cát hoá.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tập các bài viết của AlexPhong

Con giáp nào hóa giải vận xui cho người yêu

Yêu người tuổi Hợi, Thìn và Sửu, bạn sẽ tránh được nhiều xui xẻo không đáng có.
Con giáp nào hóa giải vận xui cho người yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No.1 Tuổi Hợi

Sự khéo léo, tài ăn nói và hiểu biết của người tuổi Hợi không chỉ mang lại cuộc sống có nhiều thuận lợi cho họ, mà còn cả sự may mắn cho người thân, đặc biệt là người yêu. Khi song hành với một cô nàng/anh chàng tuổi Hợi, bạn sẽ được đánh giá rất cao về cách nhìn nhận giá trị con người.

Hoi-7440-1426478098.jpg

Hơn nữa, kẻ xấu sẽ phải “kiêng nể” phần nào vì bên cạnh bạn luôn xuất hiện một quân sư tài ba, người tuổi Hợi. Họ có biệt tài xoay chuyển tình thế nhờ khả năng xử lý khéo léo các mối quan hệ. Nói một cách khác, tình yêu với người tuổi Hợi sẽ giúp sự nghiệp, tài vận của bạn thuận buồm xuôi gió hơn.

No2. Tuổi Thìn

Nụ cười hút hồn, đầy ma lực của người tuổi Thìn có thể đốn gục bất kỳ đối tượng giao tiếp nào. Do vậy, họ luôn lấy được nhiều thiện cảm tốt của những người xung quanh. Nếu thường xuyên rơi vào những hoàn cảnh trớ trêu, bạn nên song hành cùng với người tuổi Thìn.

Thin-2452-1426478106.jpg

Hơn nữa, đặc điểm tính cách của người tuổi Thìn rất thân thiện, hòa đồng và hết lòng với người mình yêu. Do vậy, trước những rắc rối của bạn, con giáp này sẽ dốc sức cùng giải quyết. Nhìn chung, khi kết đôi với chàng/nàng tuổi Thìn, bạn tránh được nhiều vận xui không đáng có.

No3. Tuổi Sửu

Người tuổi Sửu giản dị, suy nghĩ tích cực trước mọi khó khăn trong cuộc sống. Vậy nên, họ chính là cốc nước mát cho bạn khi lâm vào hoàn cảnh “nước sôi lửa bỏng”. Đặc biệt với những ai tính khí nóng nảy, hay phức tạp hóa vấn đề khiến cuộc sống luôn bế tắc, con giáp này chính là lựa chọn tuyệt vời.

Suu-5997-1426478115.jpg

Những vận xui vì lối tư duy rắc rối của bạn sẽ giảm dần theo thời gian mà bạn và người tuổi Sửu gắn bó với nhau. Hơn nữa, nhờ có sự giản dị của họ mà cuộc sống của bạn cũng “dễ thở” hơn về mặt tài chính. 

Mr.Bull (theo DYXZ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Con giáp nào hóa giải vận xui cho người yêu

Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Nhân sinh như mộng, đường đời có lúc gập ghềnh, có khi bằng phẳng, cách thức để thành công và hạnh phúc thực ra trong ngay mỗi chúng ta thôi.
Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhân sinh như mộng, đường đời có lúc gập ghềnh, có khi bằng phẳng, nhưng quan trọng vẫn là ở tâm thế của mỗi người. Cách thức để thành công và hạnh phúc thực ra trong ngay mỗi chúng ta thôi.

Mời các bạn nghe Radio





Tam lon duong tat rong, tam hep duong ghap ghenh hinh anh
 
Con người sống trên đời không ai chưa từng trải qua mất mát, bất hạnh, đau khổ và thất bại. Dù có bao nhiêu tiếc nuối, khóc bao nhiêu nước mắt thì cũng không thể tránh khỏi. Nên dù hạnh phúc hay khổ đau, là xứng đáng hay không xứng đáng, Phật dạy làm người, học một chữ “buông”. Đó chính là chìa khóa của hạnh phúc.   Buông không có nghĩa là quên, buông có nghĩa là chấp nhận. Chấp nhận đau khổ để chờ đón hạnh phúc, chấp nhận mất mát để mạnh mẽ hơn, chấp nhận thất bại để có ngày thành công. Sống mãi trong quá khứ không làm bạn bớt đau buồn, cũng không khiến bạn tốt hơn, chỉ có thanh thản, học cách đối diện và bỏ qua thì mới có thể an nhiên.   Quý trọng hôm nay hơn hôm qua, người bên cạnh hơn người của thời quá khứ mới đích thực là biết cách trân quý cuộc sống. Sinh mệnh vốn không dài, cuộc đời con người ngoảnh đi ngoảnh lại đã tới ngày trở về với cát bụi, nên nếu không tận dụng từng giây từng phút thì như hạt cát trôi qua kẽ tay, bay mất lúc nào không biết.    4 vật phẩm phong thủy trừ tà nên tặng làm quà cho phái nữ
Những vật phẩm phong thủy trừ tà cho nữ giới dưới đây có thể là món quà 8/3 vừa ý nghĩa, vừa thiết thực cho những người phụ nữ mà bạn yêu

Những tổn thương theo năm tháng sẽ dần lành lại, dấu vết chỉ để nhớ và là kinh nghiệm cho bước đường dài phía trước. Phiền não thì sai lầm nối tiếp sai lầm, khổ đau kéo dài khổ đau. Lạc quan thì thành công thay thế sai lầm, hạnh phúc ươm mầm từ đau khổ. Bạn chọn con đường nào?
  Nếu tâm linh một chút, thì những gì chúng ta đang phải gánh chịu ngày hôm nay là quả báo chúng ta gieo từ trước đó. Nên chi bằng bình thản, mạnh mẽ, tự tin đối diện và nhận lấy trách nhiệm. Những gì ta làm hôm nay sẽ trở thành nhân lành cho tương lai dài rộng.  
Tam lon duong tat rong, tam hep duong ghap ghenh hinh anh
 
Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông xoay vòng nhưng sinh mệnh con người không thể luân hồi, ai cũng chỉ có một lần để sống. Nếu sống hoài, sống uổng trong nỗi dằn vạt và những hoài niệm thì liệu nhìn lại, bạn có thấy hài lòng? Nháy mắt hết một đời, nên “hôm nay có rượu hôm nay say”, hạnh phúc và niềm vui không chờ ai, cũng không từ chối ai cả.
  Không phiền não thì không là nhân sinh, không mạnh mẽ thì không biết được hạnh phúc. Dù bạn đang đau khổ vì thất tình, đang buồn bã vì thất bại, đang tuyệt vọng và bất hạnh đến cùng cực thì ngày hôm nay sẽ tươi sáng hơn hôm qua nếu ta biết thắp lửa lòng.
=> Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tâm lớn đường rộng, tâm hẹp đường ghập ghềnh

Bí ẩn về nốt ruồi son trên cơ thể –

Nốt ruồi đỏ hồng( hay là nốt ruồi son) là do những vi huyết quản phình lên mà có, là những chấm nhỏ màu đỏ, thường xuất hiện nhiều ở vùng ngực, trên da mặt. Giải mã bí ẩn nốt ruồi son trên cơ thể Những người mang trên mình nốt
Bí ẩn về nốt ruồi son trên cơ thể –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn về nốt ruồi son trên cơ thể –

Dâng sao giải hạn: Trăm triệu có giải được “vận đen“?

“Bỏ ra nhiều tiền, hàng trăm triệu để làm lễ là mê tín dị đoan, không đúng dâng sao giải hạn”, Nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn góp ý.
Dâng sao giải hạn: Trăm triệu có giải được “vận đen“?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

“Bỏ ra nhiều tiền, hàng trăm triệu để làm lễ là mê tín dị đoan, không đúng dâng sao giải hạn”, Nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn góp ý.

 
Xem sao hạn năm 2016 và cách hóa giải chuẩn phong thủy

Dang sao giai han Tram trieu co giai duoc van den hinh anh
 
Hiện nay, mỗi dịp đầu xuân, các chùa lại đông nghịt người đến cúng sao giải hạn.
  Theo nhà nghiên cứu văn hóa, TS. Trần Hữu Sơn, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian, nguồn gốc dâng sao giải hạn xuất phát từ quan niệm trong Đạo giáo của Trung Quốc. Theo đó, sẽ có 9 ngôi sao chiếu mệnh vào con người.   Trong đó có các sao xấu như: La Hầu, Thổ Tú, Kế Đô, Thái Bạch, Vân Hán. Các sao tốt như Thủy Diệu, Thái Dương, Thái Âm và Mộc Đức. Mỗi năm có một vì sao chiếu mạng vào một tuổi của từng người. Theo chu kỳ 9 năm, sẽ trở lại sao ban đầu.   Cũng theo quan niệm, người nào bị sao xấu chiếu mệnh sẽ gặp “vận hạn” trong cả năm đó. Muốn hết vận đen phải làm lễ cúng sao giải hạn.  
Dang sao giai han Tram trieu co giai duoc van den hinh anh 2
Bảng tính sao hạn 
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Hữu Sơn cho rằng, ngày càng có nhiều người đi dâng sao giải hạn, đặc biệt, phải kể đến giới doanh nhân, người làm ăn buôn bán...   Ông so sánh thời gian trước đây, khi xã hội còn thời kỳ bao cấp, người ta không mấy quan tâm đến dâng sao giải hạn. Nhưng hiện nay kinh tế thị trường, luôn cạnh tranh khốc liệt. Hôm nay làm ăn tốt, ngày mai vẫn có thể ra đường như thường.   “Do tâm lý bất an, sợ vận đen ập đến do sao chiếu mệnh nên nhiều người đi giải hạn đầu năm cho yên tâm”, ông Sơn nhận định.  
Dang sao giai han Tram trieu co giai duoc van den hinh anh 3
 
Tuy nhiên, ông Sơn cũng lưu ý rằng, “sao chiếu mệnh” chỉ là quan niệm về mặt lý thuyết, trên thực tế, chưa ai kiểm chứng được điều này đúng sai ra sao.   Theo ông Sơn, chưa chắc người giải hạn an toàn, người không giải hạn rủi ro. Có khi người giải hạn rồi có tâm lý chủ quan nên hỏng việc. Người không dâng sao giải hạn làm gì cũng cẩn thận nên dễ thành công.   “Bỏ ra nhiều tiền, hàng trăm triệu để làm lễ thì đó là mê tín dị đoan, không đúng dâng sao giải hạn”, TS. Trần Hữu Sơn góp ý.   Theo các nhà sư, đạo Phật có quan niệm về luật nhân – quả. Theo lời Phật dạy, không có ngôi sao nào chiếu vào con người mà nhờ đó gặp phúc lợi hay mang tai họa, tất cả do luật nhân quả - “gieo nhân nào thì gặp quả đó”.   Cúng giải hạn đầu năm chỉ là biện pháp tâm lý để mỗi người cảm thấy yên tâm hơn. Ở chùa, các thầy chỉ là người trợ giúp, còn việc tự răn mình cẩn trọng, an toàn... người dân phải tự ý thức lấy.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dâng sao giải hạn: Trăm triệu có giải được “vận đen“?

Những phong tục đón năm mới độc đáo nhất thế giới

Ăn 12 quả nho vào đầu năm mới tại Tây Ban NhaKhông phổ biến như phong tục hôn nhau vào đêm giao thừa tại Anh và Đức, nhưng phong tục ăn nho vào đầu năm mới tại Tây Ban Nha cũng là một trong những hoạt động khá thú vị được tôn vinh trong hơn 100 năm qua. Vào đêm giao thừa, nhiều người Tây Ban Nha sẽ ăn 12 quả nho trong mười hai giây cuối cùng của năm.
Những phong tục đón năm mới độc đáo nhất thế giới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Ăn 12 quả nho vào đầu năm mới tại Tây Ban Nha

Không phổ biến như phong tục hôn nhau vào đêm giao thừa tại Anh và Đức, nhưng phong tục ăn nho vào đầu năm mới tại Tây Ban Nha cũng là một trong những hoạt động khá thú vị được tôn vinh trong hơn 100 năm qua. Vào đêm giao thừa, nhiều người Tây Ban Nha sẽ ăn 12 quả nho trong mười hai giây cuối cùng của năm. Mỗi trái nho tượng trưng cho một tháng trong một năm. Người dân Tây Ban Nha thực hiện nghi thức này trong thời khắc thiêng liêng của năm mới với mong ước một năm mới bình an và một vụ mùa bội thu.

Ném bát, đĩa vỡ vào nhà hàng xóm tại Đan Mạch

Vào bất cứ thời điểm nào trong năm nếu bạn chẳng may làm vỡ bát, đĩa thì quả là điều không may mắn chút nào. Tuy nhiên, đối với người dân Đan Mạch, nếu điều đó xảy ra vào thời khắc thiêng liêng của năm mới thì thực sự là điều may mắn. Theo phong tục ở đây vào vài ngày cuối năm, một chiếc xe tải chở đầy bát đĩa vỡ đi qua các làng mạc, thành phố để trước nhà của người dân. Vào thời khắc giao thừa, người dân sẽ thi nhau ném bát đĩa vỡ sang nhà hàng xóm hay những người thân quen. Gia đình nào có khối lượng bát, cốc vỡ trước cửa nhà nhiều sẽ được cho là gặp nhiều may mắn trong năm mới, bởi điều này đồng nghĩa với việc họ có nhiều người bạn thân thiết, tri kỷ.

Hôn nhau vào đêm giao thừa tại Anh và Đức

Theo quan niệm của người Anh và người Đức, người đầu tiên bạn gặp trong năm mới và tính chất của cuộc gặp gỡ này sẽ quyết định của cuộc sống của bạn trong năm đó. Một nụ hôn - hành động cụ thể biểu hiện sự quan tâm, sẽ tăng cường mối quan hệ bạn muốn duy trì trong tương lai. Nếu cặp đôi không kịp dành thời gian để... hôn thì đấy sẽ là điềm không lành cho mối quan hệ tình yêu của họ. Còn đối với những người còn độc thân thì họ không nên hôn bất cứ ai vì như thế có thể làm cho năm mới của họ trở thành một năm cô đơn.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Thả bóng ước nguyện tại quảng trường Thời Đại, New York

Màn thả bóng ước nguyện tại thời khắc năm mới ở Quảng trường Thời Đại (Times Square), New York, có thể được xem là một trong những hoạt động chào đón năm mới hoành tráng nhất thế giới. Điều làm cho nó trở nên hoành tráng chính là tiết mục thả một quả cầu pha lê khổng lồ từ đỉnh tòa nhà One Times Square vào lúc 11:59 ngày 31/12. Quả cầu sẽ từ từ được hạ xuống trong vòng một phút. Khi quả cầu chạm xuống đất cũng là lúc người dân New York đón chào năm mới.

Tạo tiếng ồn để chào đón năm mới tại Phillipines

Người dân Phillipines có truyền thống chào đón năm mới bằng cách đốt pháo, nã đạn lên không trung, hay vỗ tay với niềm tin rằng: “tiếng ồn sẽ giúp xua đuổi các tà ma”. Các gia đình bắt đầu dự trữ pháo hoa vào dịp Giáng sinh và sử dụng chúng vài ngày trước đêm giao thừa.

Lễ rước đuốc mừng năm mới của người Scotland

Không giống như nhiều nơi trên thế giới, những người dân Scotland theo truyền thống lại đổ xuống đường diễu hành rước đuốc trong những bộ trang phục của người Viking cổ đại. Người dân háo hức khoác lên mình bộ trang phục đặc trưng của người Viking, cùng hòa mình vào đoàn diễu hành với hàng ngàn người khác, rước đuốc qua các con phố của thành phố Edinburgh để đánh dấu ngày cuối cùng của năm cũ, chào đón năm mới mà theo cách gọi của người Viking là Hogmanay.

Bên cạnh việc hát vang khúc ca giao thừa Auld Lang Syne, người dân Scotland còn cử hành nghi thức “bước chân đầu tiên” theo đúng truyền thống của người Hogmanay. Để đảm bảo một năm may mắn, người vinh hạnh được đặt bước chân đầu tiên vào nhà người Scotland buộc phải là người lạ cao to mang theo than, rượu whisky và bánh mì đen.

Brazin: Cúng tế nữ thần biển

Người dân Brazil có truyền thống ném cành hoa trắng xuống những con sóng bạc đầu để cúng tế nữ thần biển Yemanja. Hàng năm, có hàng nghìn người thực hiện truyền thống này với hi vọng nữ thần sẽ ban phúc lành cho họ vào năm mới. Ngoài ra, họ còn có thể ném những món đồ khác đặc trưng cho phái nữ như nước hoa, trang sức, son môi đặt trong những con thuyền gỗ nho nhỏ.

Italy: ném đồ đạc qua cửa sổ

Người Italy có tập tục ném những đồ đạc cũ qua cửa sổ để biểu thị rằng họ đã sẵn sàng chào đón năm mới và những thay đổi mới.

Tại thành phố Naples, người dân có thể ném bất kỳ món đồ nào như máy nướng cũ, tủ lạnh cũ ra ngoài ban công.

Dù vậy, người ta cũng không thích ném những món đồ có khả năng gây nguy hiểm vì nó sẽ không mang lại vận may mà chỉ ưu tiên những món đồ nhỏ, mềm mà thôi. Nếu muốn dạo chơi ngoài đường đêm giao thừa tại Ytaly, hãy nhớ cẩn thận những vật thể bay không xác định này.

Philippines: Mặc đồ chấm bi

Tại Philippines, hình tròn tượng trưng cho tài lộc, do vậy, đến đêm giao thừa, người dân sẽ mặc lên mình những món đồ có dạng tròn, bao gồm đồ có họa tiết chấm bi, chất đầy túi các loại tiền xu hoặc ăn những trái cây dạng tròn. Nếu muốn cầu tài lộc, hãy nhớ mang theo mình những loại quả tròn và mặc đồ có hình chấm bi dịp năm mới này.

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những phong tục đón năm mới độc đáo nhất thế giới

Người mệnh Hỏa hợp màu gì nhất?

Mệnh Hỏa hợp màu gì? Xem màu sắc hợp với người mệnh Hỏa theo phong thủy, ngũ hành, màu tương sinh, màu tương khắc. Mạng hỏa hợp màu gì?
Người mệnh Hỏa hợp màu gì nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Mệnh Hỏa hợp màu gì? Mỗi cung mệnh khác nhau lại hợp và xung với những màu sắc khác nhau. Hãy cùng tìm hiểu người mệnh Hỏa hợp màu gì nhất nhé!

1. Ngũ hành

  Mệnh Hỏa hợp màu gì? Trong phong thủy, ngũ hành gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cỏ cây), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất). Giữa những yếu tố này lại có quan hệ tương sinh, tương khắc khác nhau. Nhưng dù sinh hay khắc, nếu hài hòa và hợp lý đều tạo ra sự cân bằng trong phong thủy cũng như tác động tích cực tới đời sống con người.  
Nguoi menh Hoa hop mau gi nhat hinh anh
 
Quan hệ tương sinh là yếu tố ngũ hành này làm cơ sở cho yếu tố ngũ hành kia hình thành, phát triển như:   - Mộc sinh Hỏa (cây cháy sinh lửa) - Màu xanh lá cây.   - Hỏa sinh Thổ (lửa đốt mọi vật thành tro, thành đất) - Màu đỏ.   - Thổ sinh Kim (kim loại hình thành trong đất) - Màu vàng.   - Kim sinh Thủy (kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) - Màu trắng.   - Thủy sinh Mộc (nước nuôi cây) - Màu xanh dương, màu xanh da trời.   Quan hệ tương khắc là yếu tố ngũ hành này hạn chế, gây trở ngại cho yếu tố ngũ hành kia.   - Thủy khắc Hỏa (nước dập tắt lửa).   - Hỏa khắc Kim (lửa làm chảy kim loại).   - Kim khắc Mộc (kim loại cắt được cây).   - Mộc khắc Thổ (cây hút chất màu của đất).   - Thổ khắc Thủy (đất ngăn nước). Từ đó biết được mạng Hỏa hợp màu gì.

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Ngũ hành tương sinh tương khắc là gì để hiểu hơn. 
 
Nguoi menh Hoa hop mau gi nhat hinh anh 2
 

2. Người mệnh Hỏa hợp màu gì nhất?

  - Màu đặc trưng của hành Hỏa: màu đỏ, cam, hồng, tím.   - Màu tương sinh: Ngũ hành Mộc sinh Hỏa. Màu đặc trưng của hành Mộc là xanh lá cây. Vì thế, người mệnh Hỏa nên sử dụng những gam màu này trong ứng dụng cuộc sống hàng ngày để tạo ra sự cân bằng về mặt phong thủy.   - Màu tương khắc: Ngũ hành Thủy khắc Hỏa. Màu đen, xanh dương lại là màu đặc trưng của ngũ hành Thủy. Nếu bản mệnh thuộc Hỏa, bạn nên hạn chế hoặc tránh sử dụng nhiều gam màu này trong ứng dụng cuộc sống.   Kết luận: Mệnh Hỏa hợp màu gì? Màu sắc phù hợp với người mệnh Hỏa là xanh lá, đỏ, cam, hồng, tím. Trong trang trí nhà ở, văn phòng hay cách ăn vận hàng ngày, bạn nên sử dụng nhiều những gam màu này để tăng thêm vận khí, giúp tài lộc hanh thông, cuộc sống thêm thuận lợi.

Mời bạn đọc xem thêm các bài viết:
Cây hợp mệnh Hỏa giúp gia chủ giàu có, thịnh vượng Phong thủy cho người mệnh Hỏa: Bài trí phòng ngủ đón tài lộc Những mẫu sô pha sáng bừng phòng khách cho người mệnh Hỏa Người mệnh Hỏa làm sao để thu hút vận may?
  Hoàng Lam
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người mệnh Hỏa hợp màu gì nhất?

Những lời chúc giáng sinh và năm mới hay

Những lời chúc giáng sinh và năm mới 2017 hay và đầy ý nghĩa dành tặng bàn bè, người yêu, bố mẹ ông bà và người thân của mình ngay bạn nhé
Những lời chúc giáng sinh và năm mới hay

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc giáng sinh và năm mới 2017 hay và đầy ý nghĩa dành tặng bàn bè, người yêu, bố mẹ ông bà và người thân cũng như đối tác tuyệt hay được chọn lọc từ hàng nghìn lời chúc noel và năm mới bằng cả tiếng anh và tiếng việt.

Những lời chúc giáng sinh và năm mới 2017 hay và đầy ý nghĩa

Chúc em và gia đình giáng sinh an bình và năm mới hạnh phúc.

Merry Chrismast and Happy new years 2017!

——-

Chúc bạn và gia đình giáng sinh ấm áp và hạnh phúc. Chúc năm mới 2017 mọi sự tốt lành!

——-

Đêm nay giáng sinh là đêm rất lạnh, anh sẽ là chiếc lò sưởi để sưởi ấm cho em, anh xin làm chiếc khẩu trang chắn gió, anh mong được là chiếc khăn trên cổ, anh xin là chiếc mũ che đầu em và anh xin là người hầu cô gái nhỏ để đưa em đi suốt cuộc đời <3,

——–

Một giáng sinh đã đến một năm mới cũng tới chúc gia đình đón nhận được nhiều niềm vui, nhiều niềm hân hoan và hạnh phúc trong năm mới. Chúc công việc thuận buồm xuôi gió vươn tới mục tiêu.

Cầu mong Thiên Chúa ban đổ hồng ân, che chở cho gia đình trong giáng sinh này cũng như năm mới.

Giáng sinh đã về, năm mới sắp tới xin chúc gia đình mình một mùa giáng sinh an lành, hạnh phúc. Một năm thuận lợi trong công việc cũng như cuộc sống. Merry Christmas and Happy New year!

Noel đã đến! Chúc bạn một lời chúc một đêm Noel an lành, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc bên người thân của mình. Chúc cậu mạnh khoẻ và thành đạt trong cuộc sống

Chúc bạn giáng sinh an lành và ấp áp cũng như một năm mới an khang và thịnh Vượng Merry Christmas And Happy New Year!.

 Ấm áp không phải khi ngồi bên đống lửa, mà là bên cạnh người mà bạn thương yêu!

Wish you a Magical Christmas and Happy New Year!
Chúc bạn có một Giáng Sinh thần kỳ và chúc mừng năm mới.

Faith makes all things possible; Hope makes all things work and Love makes all things beautiful. May you have all the three for this Christmas. Merry Christmas!
Niềm tin làm mọi thứ trở nên khả thi; Hi vọng làm mọi thứ hoạt động và Tình yêu làm mọi thứ đẹp đẽ. Chúc bạn có cả 3 điều ấy trong mùa Giáng Sinh này.

May this Christmas be so special that you never ever feel lonely again and be surrounded by loved ones throughout!
Chúc cho Giáng Sinh này đặc biệt đến nỗi bạn sẽ không bao giờ còn cảm thấy cô đơn nữa và luôn có những người thương yêu bên cạnh.

You are special, you are unique! May your Christmas be also as special and unique as you are! Merry Christmas!
Bạn thật đặc biệt, Bạn thật tuyệt vời! Chúc Giáng Sinh của bạn cũng đặc biệt và tuyệt vời như bạn vậy.

Bringing your good wishes of happiness this Christmas and on the coming year.
Gửi đến bạn những lời chúc hạnh phúc trong ngày lễ Giáng Sinh và năm mới.

Everything starts a new with the new year coming. May your new year be filled with the happinest things and your days with the bringtest promise.
Mọi thứ lại bắt đầu khi năm mới đang đến. Chúc bạn có những ngày tháng hạnh phúc nhất, triển vọng nhất nhân dịp xuân về.

This is another good beginning. May you be richly blessed with a succesfull new year.
Mọi việc lại bắt đầu tốt đẹp. Chúc bạn thành công trong năm mới.

Wishing you health and happiness in the year to come.
Chúc bạn khỏe mạnh và hạnh phúc trong năm mới.

On occasion of New Year, wishing all your family happiness and lucky.
Nhân dịp năm mới, kính chúc toàn thể gia đình bạn gặp được nhiều may mắn và hạnh phúc.

I hope that the coming year bring you peace and prosperity.
Mong rằng năm mới sẽ mang sự bình yên và phát đạt đến cho bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lời chúc giáng sinh và năm mới hay

5 nét tướng dễ phát tài trong năm 2015

Trán hẹp, trán ngiêng, hay cằm dài... về hình thức thì không đẹp, nhưng về tài vận thì sẽ may mắn và dễ phát tài vào năm nay lắm đó nha.
5 nét tướng dễ phát tài trong năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trán hẹp, thần sắc tươi sáng

Trán hẹp là người cẩn thận, làm việc rụt rè, có phần thiếu can đảm, thường tuột mất cơ hội phát tài, bởi vậy tài lực không nhiều. Nhưng năm Ất Mùi, mệnh Mộc, Mộc sinh Hỏa, trán thuộc Ly Cung, Mộc Hỏa tương sinh, có mệnh phú quý, nên vận mệnh năm nay sẽ có khởi sắc, đặc biệt là người có trán hẹp nhưng sáng sủa, 2015 nhất định là năm phát tài của họ.

2. Cánh mũi mỏng

Tài vận của một người nhiều hay ít đầu tiên phải nhìn mũi, bởi mũi là cung Tài Bạch, mũi lớn nhiều thịt thì tài phú càng lớn. Cánh mũi mỏng theo thời gian dài thì tài vận không tốt. Nhưng có thể nói năm 2015 sẽ là năm tốt lành về tài chính với những người có tướng này hơn bình thường bởi mũi thuộc Thổ Tinh, năm 2015 tài bạch cung mạnh, vì vậy 2015 tài vận của người có cánh mũi mỏng sẽ mạnh hơn, dễ phát tài.

0-6601-1420603988.jpg

3. Trán nghiêng

Người có trán nghiêng lệch hoặc đầu méo, tài vận cũng cực kỳ tốt trong năm 2015, sự nghiệp của họ sẽ thuận lợi trăm bề, tiền vào như nước.

4. Cằm dài

Cằm đại diện cho đường tiền tài của một người. Cằm tròn nhiều thịt, đầy đặn là người có phúc khí; cằm nhọn ít thịt là người phúc mỏng, tài vận không nhiều. Cằm là cung Khảm, tính Thủy, năm Mùi tính Thổ khắc với Thủy, khiến vận mệnh tại Khảm bất đồng, mọi chuyện đều phải cố gắng mới trở nên tích cực hơn. Do đó mà những người cằm dài trong năm nay nếu nỗ lực sẽ đạt được thành công, thu về so với những năm trước lớn hơn rất nhiều.

5. Ấn đường khí sắc tươi sáng, hồng hào

Ấn đường hay còn gọi là cung Mệnh, nằm giữa hai lông mày. Ấn đường thể hiện vui buồn, tài vận, đại vị của một người. Người có ấn đường sáng sủa thì cầu được ước thấy, tài vận dồi dào. Khí sắc Ấn đường thể hiện vận sự trong một thời gian nhất định, nếu nó hồng hào, tím sáng hay vàng rực rỡ thì năm nay vận sự sẽ lên, có thể phát tài, hoàn thành được nhiều tâm niệm đã giữ trong lòng bao lâu.

Kunie (Theo Astro)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 nét tướng dễ phát tài trong năm 2015

Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Chữ Đạo thể hiện dạng chữ viết tiếng Hán: 道, có nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải ai cũng lĩnh hội hết. Dưới góc nhìn Phật giáo, Đạo là rất cao siêu.
Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Chữ Đạo (thể hiện dạng chữ viết tiếng Hán: 道), có nhiều ý nghĩa khác nhau, không phải ai cũng lĩnh hội hết. Dưới góc nhìn Phật giáo, Đạo là rất cao siêu, khó mà giải rõ nghĩa được vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.

 

 

1. Chữ Đạo dưới góc nhìn Phật giáo

  Nghĩa lý chữ Đạo ((道) rất cao siêu, khó mà giải rõ được, vì Đạo không có hình trạng như các sự vật ở thế gian.
 
Đức Thích Ca gọi Đạo là Chân Nhân, là Phật Tính, là Bồ Đề.
 
Đức Lão Tử gọi Đạo là Cốc Thần, là nguồn sinh ra Vũ Trụ vạn vật.
 
Đức Khổng Tử gọi Đạo là Thái Cực, là Thiên lý.
 
Danh từ tuy khác nhau, chớ tựu trung điều chỉ cái nguồn cội của Càn Khôn Vũ Trụ và Vạn Vật. Cái nguồn cội ấy khi còn bất động gọi là Đạo. Còn khi đã động mà chuyển hóa thì gọi là Đấng Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Trời vậy.
 
Đức Lão Tử lại nói:
 
“Đạo mà nói ra được thì chẳng phải Chân Đạo, Danh mà gọi là được thì không phải thật danh”.
 
Kinh Phật lại nói:
 
“Đạo khó mà nói ra. Học giả phải tự mình tỏ ngộ lấy”.
 
Tham nhuan chu Dao, phai co Duc moi tim thay Dao hinh anh
 
Ví dụ một người câm thấy cảnh chiêm bao như thế nào rồi mà mô tả lại cho người khác biết. Chúng ta muốn giải lý cho rõ cái Đạo thì chẳng khác nào người câm muốn giải rõ chuyện chiêm bao kia vậy.
 
Bởi vì Đạo là chân lý tuyệt đối, bổn tánh của Đạo là Hư-không lặng lẽ, xem chẳng thấy, lóng chẳng nghe, rờ không đụng, không lớn, không nhỏ, không trước, không sau, không thể dùng lời nói mà diễn tả được, hoặc đem ra mà so sánh. Đạo sinh ra Trời Đất vạn vật, lưu hành trong Vũ Trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo là tinh thần của Trời, Đất, Vạn vật mà Trời, Đất, Vạn vật là bản thể của Đạo.
 
Nhưng Đạo vốn vô hình, cho nên muốn trình bày cái Đạo ra, tất phải mượn hữu hình để phô bày cái “Dụng” mà thiệt hành cái “Thể”. Ví dụ ta có một tư tưởng nào, cái tư tưởng ấy vốn vô hình, mà muốn trình bày nó ra cho người ta biết, cần phải mượn văn chương là vật hữu tình.
 
Vì lẽ đó mới phát sinh nhiều tôn giáo là những cái “Dụng” của Đạo như Phật giáo, Tiên giáo, Nho giáo...
 
Các tôn giáo vốn một gốc mà ra vẫn tôn thờ Đấng Chúa Tể, Càn Khôn Thế giới, chỉ vì khác ngôn ngữ mà xưng tụng bằng danh hiệu khác nhau. Như Phật giáo gọi Đấng ấy là A Di Đà, Do Thái giáo gọi là Jéhovah, Hồi giáo gọi là Allah, Ấn Độ giáo gọi là Brahma, Ai Cập gọi là Osiris, Công giáo gọi là Đức Chúa Trời, người Việt Nam gọi là Thượng Đế (Ông Trời), ngày nay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Cao Đài.
 
Mặc dầu các tôn giáo khác nhau về cách tổ chức và Lễ nghi tế tự, nhưng vẫn giống nhau ở chỗ lấy từ bi bác ái mà dạy chúng sanh, lấy sự “Chuyển mê khải ngộ” làm tôn chỉ, lấy sự giải thoát luân hồi làm cứu cánh.  

2. Giải nghĩa chữ “Đạo”


Tham nhuan chu Dao, phai co Duc moi tim thay Dao hinh anh
 
 
 
Chữ “Đạo” (道) mà chúng ta bàn luận ở đây có ở trong từ “Đạo Đức”với nghĩa ban đầu là cái đường thẳng, là cái lẽ mà nhất định ai nấy đều phải tuân theo mới duy trì được tầng Pháp thấp nhất của vũ trụ này.   Đạo (道) còn là trường phái Đạo Gia đi theo Lão Tử, người đã rời khỏi thế gian này một cách bí hiểm và vội vàng để lại 5000 chữ trong cuốn ĐẠO ĐỨC KINH.
 
Hiểu đạo, ta không thể dùng các thứ lý luận thông thường, mà hãy tu luyện để “đạt Ngộ”. Những chân lý mà người đời vẫn còn thấy bí hiểm sẽ triển hiện xuất lai. Sự khác nhau giữa duy vật và duy tâm đã là câu chuyện hài về con gà mái và quả trứng. Sự khác nhau giữa một hệ quy chiếu mà chúng ta đang sống với ức tỷ các hệ quy chiếu khác rất uyên áo của đại khung vũ trụ mênh mang quả là không thể nghĩ bàn.   Chữ Đạo có cấu trúc do 2 chữ hợp lại:
 
1. Bên phải là chữ THỦ (首) 2. Bên trái là bộ SƯỚC (辶)
 
Bản thân chữ THỦ này ngoài cái nghĩa quan trọng, cần thiết, trí tuệ thì cấu trúc của nó còn ẩn giấu những nội hàm văn hóa Thần truyền.   Trên cùng có dấu huyền và dấu sắc. Nam tả, nữ hữu, biểu tượng cho âm dương tương sinh tương khắc, hóa diễn mà thành vũ trụ muôn loài; để có Sinh Lão Bệnh Tử ở trong cõi bể dâu, để có “Thành Trụ Hoại Diệt” ở những đại khung, vũ trụ to lớn hơn…   Chữ thứ 2 trên xuống là chữ NHẤT. Kết hợp lại là Âm Dương thống nhất, hòa hợp, viên dung.   Ký hiệu thứ ba là dấu phẩy. Nó nối toàn bộ khối tương sinh tương khắc, Âm Dương nhất thống ở trên với chữ MỤC (目) là con mắt ở dưới. Như vậy dùng con mắt duy nhất, con mắt Thiên Mục, con mắt thứ ba (cái mà người tu luyện thường gọi một cách trang nghiêm là Đệ Tam Nhãn) của mình để câu thông với bản nguyên của vũ trụ, của sinh mệnh thì đó là cái đầu của trí huệ, cái đầu được khai sáng không phụ thuộc vào những nhận thức hậu thiên sai lạc, mê lầm của con người.
 
Đạo gia và Phật gia gặp nhau ở chỗ khẳng định tròng mắt thịt và tư tưởng con người khi nhìn và tư duy về thế giới chỉ thấy được ở cái tầng thấp nhất của vũ trụ với những gì bề ngoài hời hợt, nông cạn nhất mà thôi. Vì vậy Phật Thích Ca Mâu Ni nói nhân loại sống trong mê. Tất cả những gì họ cảm thụ, nhận thức được chỉ là huyễn tưởng, không thật là vì vậy!   Chữ bên trái là SƯỚC, chỉ bước đi chậm rãi, chắc chắn, có lựa chọn khi chuyển dời cơ thể hay tư tưởng của mình từ không gian, thời gian này đến một hệ thời – không khác.
 
Tóm lại Đạo chính là đường để trở về. Và người hạnh phúc nhất chính là người đã tìm thấy Đạo. Hãy trao cho mọi người tình thương và sự từ bi. Đó là khuyến thiện để mọi người tích Đức, giữ Đức. Có Đức, chúng ta hãy lên đường đến với Đạo, Đạo chỉ có được khi ta tích đủ Đức.  
T.H
Học một điều thôi, có thể sinh trăm phúc, nghênh vạn lành
Trong cuộc sống, bất cứ ai cũng có lần nổi nóng, thô bạo, nổi cơn thịnh nộ. Có người mặt mũi hiền lành, lương thiện nhưng khi đụng chuyện lại mất kiểm soát,

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thấm nhuần chữ Đạo, phải có Đức mới tìm thấy Đạo

Vị trí đặt két bạc an toàn mà hút tiền vào như nước

Ví tiền, sổ tiết kiệm, két tiền bạc tốt nhất nên đặt đúng phương vị tài lộc theo từng năm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, két tiền là trung tâm lưu giữ tài lộc của gia đình - tiền bạc, sổ tiết kiệm, trang sức, giấy tờ nhà,....nên vị trí đặt két sắt rất quan trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng đến tài chính hiện tại mà chủ yếu là khả năng hút tài lộc trong tương lai.

 vi tri dat ket bac an toan ma hut tien vao nhu nuoc - 1

Khi đặt két tiền theo phong thủy, gia chủ cần chú ý đến vị trí và hướng mở cửa két sắt. Về vị trí, két sắt cần đặt ở nơi vượng khí hay đón được nhiều năng lượng nhất trong phòng. Thông thường đó là những vị trí chéo góc với cửa chính, tránh đặt thẳng hướng cửa sẽ khiến tiền tài trôi tuột ra ngoài. Ưu tiên đặt két tại các cung Đông Nam (tài lộc) hoặc những cung tốt hợp tuổi. Về hướng mở cửa két nên quay về hướng tốt so với tuổi của chủ nhà. Trước mặt két cần phải rộng rãi, sáng sủa không bị cản trở bởi đồ đạc trong phòng. 

 vi tri dat ket bac an toan ma hut tien vao nhu nuoc - 2

Bên trên két không nên đặt nhiều đồ đạc lộn xộn mà chỉ nên bày những vật phẩm phong thủy hút tài lộc như Tỳ Hưu, Thiềm Thừ hay 2 đồng tiền hoa mai. Cả ba bảo bối phong thủy đều có tác dụng lớn giúp thu hút tiền tài, thăng quan tiến chức và tránh phạm kẻ tiểu nhân. Nếu như tiền hoa mai cần để trong két sắt thì 2 linh vật là Tỳ Hưu và Thiềm Thừ hợp bày trên nóc tủ. Khi đặt lên két sắt, đầu linh vật phải hướng ra cửa chính, hoặc hướng ra cửa sổ để chiêu tài khí bốn phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vị trí đặt két bạc an toàn mà hút tiền vào như nước

Giải nghĩa khái niệm KIẾP trong Phật giáo

Phật giáo thường đề cập tới “kiếp”, kiếp có thể dài có thể ngắn, có thể vô tận, có thể chớp mắt. Hãy cùng tìm hiểu về khái niệm kiếp trong Phật giáo.
Giải nghĩa khái niệm KIẾP trong Phật giáo

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phật giáo thường đề cập tới “kiếp”, kiếp có thể dài có thể ngắn, có thể vô tận, có thể chớp mắt. Hãy cùng tìm hiểu về khái niệm kiếp trong Phật giáo để hiểu triết lý thời gian của tôn giáo này.



Giai nghia khai niem KIEP trong Phat giao hinh anh
 
Trong kinh Phật, kiếp chia thành 3 loại:
  1. Tiểu kiếp   Theo tính toán tuổi thọ, tám vạn bốn ngàn năm được coi là trường thọ, mỗi một trăm năm giảm thọ một tuổi, giảm tới mười tuổi thì xưng là giảm kiếp, từ mười tuổi,  mỗi một trăm năm lại gia tăng một tuổi tới tám vạn bốn ngàn năm, xưng là tăng kiếp. Như thế, quá trình một tăng một giảm gọi chung là tiểu kiếp.   2. Trung kiếp   Trải qua 20 cái tiểu kiếp là một cái trung kiếp. Bởi, theo kinh Phật, dựa vào vị trí của địa cầu thì phân thành 4 giai đoạn: thành, trụ, phá, không. Thời gian của mỗi giai đoạn là 20 cái tiểu kiếp. Chỉ có trong giai đoạn trụ thì nhân sinh mới có thể sinh tồn.    Giai đoạn thành là từ thể khí chuyển sang thể lỏng, từ lỏng mà đọng lại nên con người không chịu nổi. Sau giai đoạn trụ là đến phá, trải qua 49 thứ đại hỏa hoạn, 7 lần đại hồng thủy, 1 lần gió to, phá hỏng toàn bộ từ bên trong, địa cầu biến mất. Tiếp tới là giai đoạn không, trải qua 20 tiểu kiếp, dần hình thành một địa cầu mới, tiến vào giai đoạn thành. Phật giáo gọi 4 giai đoạn này là 4 trung kiếp. 

Giai nghia khai niem KIEP trong Phat giao hinh anh
 
3. Đại kiếp   Trải qua trung kiếp, tiếp đến là một đại kiếp nạn. Trong giai đoạn phá kiếp, dù hỏa hoạn, đại hồng thủy hay gió lớn thì cũng không thể phạm tới địa ngục nên tới đại nạn kiếp mới trừ bỏ tất cả, tất thảy phá đi làm lại, đổi mới, chuyển kiếp.   Sở dĩ kinh Phật chia thời gian thành các kiếp là để tự nhắc nhở về ý niệm thời gian. Sinh mệnh con người đối với địa cầu là ngắn ngủi, chỉ trong chớp mắt, nhất định sẽ trải qua sinh thành, phát triển rồi diệt vong. Con người không thể bất tử, như địa cầu có tám vạn bốn ngàn lần sinh chuyển, đại nạn chính là một bước thay đổi, chuyển mình, diệt vong cũng là phát triển, không thứ gì có thể trường tồn thiên trường địa cửu.

► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật?
36 thứ tội khi uống rượu say nhất định phải biết, nếu không sẽ bị quả báo Duyên nợ vợ chồng: Thiện duyên hay ác duyên? Đừng vì miếng ăn mà kết ác nghiệp Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải nghĩa khái niệm KIẾP trong Phật giáo

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd