Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu - Xem bói - Xem Tử Vi

Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu, Xem bói, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu, tu vi Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu, tu vi Xem bói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu

Vì quá lệ thuộc vào người yêu, Bảo Bình phải chịu nhiều thiệt thòi.

No3: Bảo Bình

Dường như không điều gì có thể làm khó một Bảo Bình hướng ngoại, năng động và tràn đầy sức sống. Bề ngoài kiên cường là vậy nhưng nội tâm Bảo Bình lại vô cùng yếu đuối.

Họ không giỏi trong việc xem bói bày tỏ tình cảm cũng như suy nghĩ của mình nên dễ bị lệ thuộc và “đầu hàng” đối phương vô điều kiện. Điều đó lý giải tại sao họ thường chịu thiệt thòi trong chuyện tình cảm đến như vậy.

No2: Song Tử

Phần lớn những người thuộc cung Song Tử đều hiếu thắng và không bao giờ cam tâm tình nguyện nhận mình thua cuộc, chuyện tình cảm cũng không ngoại lệ. Vì tự tin với sự lựa chọn của mình, Song Tử sẽ gánh vác mọi trọng trách về cả phương diện tài chính lẫn tình cảm và thường chuốc lấy phiền phức và áp lực vào người.

Dù biết bản thân chịu thiệt thòi, thậm chí phải hy sinh để mang lại niềm vui, hạnh phúc cho đối phương, Song Tử vẫn vui vẻ chấp nhận.

No1: Bò Cạp

Khi đã rơi vào lưới tình, Bò Cạp trao gửi niềm tin gần như tuyệt đối cho nửa kia của mình. Thậm chí, nếu nửa kia có đôi chút “say nắng ngoài luồng” nào đó, nhưng vẫn còn tình cảm chân thành, Bò Cạp sẵn sàng tha thứ.

Tuy nhiên, chòm sao này không lường trước được việc “ngựa quen đường cũ”, tự mình lừa dối chính mình vì không dám nhìn thẳng vào sự thật. Người chịu thua thiệt cuối cùng vẫn là Bò Cạp mà thôi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói chòm sao chịu thiệt thòi trong tình yêu - Xem bói - Xem Tử Vi

Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò

Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò. Một câu danh ngôn, một bài thơ hay về tinh cảm thầy trò trong tác phẩm báo tường sẽ góp phần làm phong phú
Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò. Một câu danh ngôn, một bài thơ hay về tinh cảm thầy trò trong tác phẩm báo tường sẽ góp phần làm phong phú và khiến bài báo tường của bạn có ý nghĩa hơn khi dâng tặng thầy cô trong dịp 20/11 này.

Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò

Những câu danh ngôn hay về tình thầy trò

1. Nghề giáo là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý

2. Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học- Comenxki

3. Một gánh sách không bằng một người thầy giỏi – Ngạn ngữ Trung Quốc

4. Trọng thầy mới được làm thầy – Ngạn ngữ Trung Quốc

5. Thầy giáo là đường tinh, học sinh là đường đã lọc – Ngạn ngữ Ba Tư

6. Đem việc làm mà dạy người thì người ta theo; chỉ đem lời nói mà dạy người thì người ta không phục – Đệ Ngũ luận

7. Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy – Tục ngữ Việt Nam

8. Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu kính thầy – Tục ngữ Việt Nam

9. Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác – Usinxki

10. Phải tôn kính thầy dạy mình, bởi lẽ nếu cha mẹ cho ta sự sống thì chính các thầy giáo cho ta phương cách sống đàng hoàng tử tế – Philoxêne De Cythêrê

Những bài thơ hay về tình thầy trò

Thưa thầy, bài học chiều nay
Con bỏ quên ngoài cửa lớp
Dưới gốc phượng già, nằm nghe chim hót
Con hóa mình thành bướm và hoa

Thưa thầy bài tập hôm qua
Con bỏ vào ngăn khóa kín
Mải lượn lờ theo từng vòng sóng
Cái ngã điệu đàng, sân trượt patin

Thưa thầy, bên ly cà phê đen
Con đốt thời gian bằng khói thuốc
Sống cho mình và không bao giờ mơ ước
Mình sẽ là ai ? Tôi sẽ là ai ?

Thưa thầy, qua ngõ nhà thầy khuya nay
Con vẫn thấy một vầng trăng ấm sáng
Thầy ngồi bên bàn phẳng lặng
Soạn bài trong tiếng ho khan

Thưa thầy, cho là nhận: điều giản đơn
Sao con học hoài không thuộc
Để bây giờ khi con hiểu được
Biết làm sao tạ lỗi cùng thầy
Tạ Nghi Lễ
Thầy và chuyến đò xưa

Lặng xuôi năm tháng êm trôi
Con đò kể chuyện một thời rất xưa
Rằng người chèo chống đón đưa
Mặc cho bụi phấn giữa trưa rơi nhiều

Bay lên tựa những cánh diều
Khách ngày xưa đó ít nhiều lãng quên
Rời xa bến nước quên tên
Giờ sông vắng lặng buồn tênh tiếng cười

Giọt sương rơi mặn bên đời
Tóc thầy bạc trắng giữa trời chiều đông
Mắt thầy mòn mỏi xa trông
Cây bơ vơ đứng giữa dòng thời gian…

Nguyễn Quốc Đạt

Xin lỗi các em
Tôi đâu phải người làm nông
Cày xong đánh giấc say nồng một hơi
Chuông reo tan buổi dạy rồi
Còn nghe ray rứt nỗi đời chưa yên.

Trách mình đứng trước các em
Dửng dưng cả tiếng hồn nhiên gọi: Thầy!
Rụng dần theo bụi phấn bay
Ước mơ một thuở căng đầy tuổi xanh

Dẫu là lời giảng của mình
Cơn ho chợt đến vô tình cắt ngang
Dẫu là tiết học vừa tan
Bước qua cửa lớp đôi lần hụt hơi!

Hiểu dùm tôi các em ơi
Giấu bao ám ảnh khôn nguôi từng giờ
Cảnh đời chộn rộn bán mua
Áo cơm nào dễ chi đùa với ai.

Vờ quên cuộc sống bên ngoài
Nhiều điều xa lạ nói hoài riết quen
Dở hay, yêu ghét, trắng đen
Còn bao sự thật đã nhìn thẳng đâu

Ai còn dằn vặt đêm sâu
Trong từng sợi tóc bạc màu truân chuyên
Thật lòng tạ lỗi các em
Hiểu ra khi đã lớn lên mai này!

Trần Ngọc Hưởng

Bụi phấn xa rồi

Ngẩn ngơ chiều khi nắng vàng phai
Thương nhớ ngày xưa chất ngất hồn
Một mình thơ thẩn đi tìm lại
Một thoáng hương xưa dưới mái trường

Cho dẫu xa rồi vẫn nhớ thương,
Nầy bàn ghế cũ, nầy hàng me
Bảng đen nằm nhớ người bạn trẻ
Bụi phấn xa rồi… gửi chút hương!

Bạn cũ bây giờ xa tôi lắm
Mỗi đứa một nơi cách biệt rồi!
Cuộc đời cũng tựa như trang sách
Thư viện mênh mông, nhớ mặt trời!!!

Nước mắt bây giờ để nhớ ai???
Buồn cho năm tháng hững hờ xa
Tìm đâu hình bóng còn vương lại?
Tôi nhớ thầy tôi, nhớ… xót xa!

Như còn đâu đây tiếng giảng bài
Từng trang giáo án vẫn còn nguyên
Cuộc đời cho dẫu về muôn nẻo
Vẫn nhớ thầy ơi! Chẳng thể quên!!!

Thái Mộng Trinh

THỜI ĐÃ XA
Trở lại sân trường
Nắng ngẩn ngơ nhìn ta xa lạ
Chùm phượng đỏ hôm nao
Giờ chỉ xanh màu lá
Vết chân xưa mưa nắng cũng nhoà!

Chỗ ngồi kia đâu phải của riêng ta
Còn đâu nữa những giờ học
Thả hồn theo gió
Lời mắng nhẹ nhàng của thầy
Giờ đây nghe xa quá!
Kỉ niệm tràn về thật ngân nga!

Thật ư
Thời học trò đã xa
Tuổi thơ cũng vụt qua
Ta lặng lẽ bước đi trong niềm nhớ
Thầy cô bạn bè ơi!
Biết vao giờ gặp lại
Thời gian thì trôi mãi
Trôi xa!!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói, bài thơ hay về tình thầy trò

Những kiểu ban công “tụ” tài lộc và sức khoẻ

Trong kiến trúc hiện đại, có một thành tố không thể thiếu góp phần cấu thành căn hộ đó là ban công và lô gia.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ban công và lô gia góp phần tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của mặt đứng công trình, đồng thời góp phần cung cấp thêm khoảng không gian mở, tạo điều kiện để con người tiếp xúc với thiên nhiên. Xét dưới góc nhìn phong thuỷ, nếu như nói phần diện tích trong nhà mang tính động thì lô gia và ban công như phần tĩnh giúp cân bằng âm dương trong tổng thể của căn nhà.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 1

Ban công đẹp nhưng nên tạo gờ để duy trì và lưu giữ dòng năng lượng trong căn hộ.

Giải phóng dòng năng lượng đã qua sử dụng

Xã hội hiện đại phát triển nhanh cùng lúc kéo theo việc hình thành các khu chung cư cao tầng. Trong các khu nhà này cửa nhà chính thường có xu hướng quay vào trong phần hành lang chung, trong khi chỉ có ban công mới được tiếp xúc trực tiếp với ngoại cảnh tự nhiên, tức là các yếu tố nắng, mưa, không khí, ánh sáng.

Bởi vậy trong ứng dụng phong thuỷ, có ai đó đặt vấn đề là nên dùng hướng ban công làm hướng chính để luận đoán phong thuỷ ngôi nhà vì có lẽ khí (trong Phong Thuỷ) ở đây được hiểu theo hướng là không khí, là ánh sáng. Phần cửa sổ thu nhận nhiều khí hơn cửa chính nên coi đó là yếu tố chính để luận đoán.

Quan điểm này nghe qua có vẻ đúng, nhưng nếu đặt vấn đề là thử bịt cửa chính của căn hộ đó thay vào đó chỉ dùng cửa sổ thì câu hỏi là liệu con người đó có sống nổi không, trong khi nếu chúng ta có chẳng may sống ở một căn hộ nào đó mà thiếu ban công, cửa sổ thì tất nhiên là cũng vẫn sinh hoạt được.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 2

Ban công đơn giản, kín đáo, tỷ lệ đẹp dễ tạo và lưu giữ nguồn năng lượng tích cực.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 3

Ban công bán nguyệt là một dạng thức tốt theo phong thuỷ.

Do vậy khi ứng dụng phong thuỷ thì yếu tố đại môn - tức là cửa ra vào - chính là hướng dùng để luận phong thuỷ. Tất nhiên là về lâu về dài thì thì một căn nhà chỉ có cửa mà không có ban công cũng sẽ không tốt, do hiện tượng bế khí theo phong thuỷ, còn nói theo khoa học thì là không có sự thông thoáng.

Chúng ta nên hiểu yếu tố khí được sinh ra là do tương tác, sự vận hành của dòng người đem năng lượng dương cho ngôi nhà. Nếu coi cửa chính như nơi nạp năng lượng cho căn hộ thì ban công hay cửa sổ góp phần điều tiết và làm giải phóng dòng năng lượng đã qua sử dụng tức là giải quyết vấn đề bế khí, nói theo ngôn ngữ Phong thuỷ.

Lưu trữ dòng năng lượng tốt, cân bằng cho ngôi nhà

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 4

Hình thức Ban công đan chữ X.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 5

Các hình thức phô trương kết cấu nếu thiết kế không khéo sẽ tạo nên hình tượng xấu trong phong thuỷ - Tượng “lộ cốt”

Chính vì thế, khi chọn vị trí của ban công trong tổng thể ngôi nhà cũng nên quán xét vị trí của ban công và hướng cửa chính.

Không nên bố trí ban công hay cửa sổ thẳng hướng với cửa chính ra vào. Điều này có thể gây nên hiện tượng gió xuyên phòng đột ngột, gây bất lợi đối với sức khoẻ con người. Mà nhất là trong các chung cư cao tầng, càng lên cao gió thổi càng mạnh, lại càng bất lợi. Ngoài ra, bố trí theo kiểu này thì lượng không khí trao đổi với bên ngoài không nhiều dễ hình thành các khu vực khí bị tù túng, tạo điều kiện phát sinh các loại vi khuẩn yếm khí, về lâu dài không lợi cho gia chủ.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 6

Điểm tĩnh tại giúp duy trì sự cân bằng năng lượng cho ngôi nhà. Ảnh:TL

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 7

Ban công có hình thức cac thanh nan sắt uốn lượn hữu tình ôm lấy ban công. Ảnh:TL

Trong thiết kế ban công nên lưu ý không nên chạy theo hình thức mà thiết kế quá cầu kì, tạo nên các hình thù phức tạp gây nên các dòng năng lượng tạp loạn không tốt.

Ngoài việc chú trọng về cân đối kích thước sao cho phù hợp với nhân trắc học cũng nên chú ý thiết kế các hình thức nhất quán về cấu trúc, thẩm mỹ và chất liệu sẽ dễ tạo môi trường tốt phát sinh những dòng năng lượng tích cực.

Trong phong thuỷ, tính hình tượng rất được chú trọng, do đó không nên tạo những hình tượng xấu cho ban công ví dụ như các hình tượng mang tính lộ kết cấu, hay các hình thức các thanh vắt chéo chữ X cũng không lợi về Phong thuỷ, biểu tượng này thường không đem lại may mắn cho gia chủ.

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 8

Ban công giúp cân bằng âm dương trong tổng thể căn nhà. Ảnh:TL

 nhung kieu ban cong “tu” tai loc va suc khoe - 9

Hình thức phức tạp dễ tạo thành các loại năng lượng xấu. Ảnh:TL

Nên tìm các hình thức hoặc là kín đáo, hoặc là dáng ôm vòng, những hình thức này vừa dễ đẹp vừa góp phần giúp lưu giữ những dòng năng lượng tích cực trong căn nhà bạn, tránh dòng năng lượng thất thoát  một cách đột ngột.

Khu vực ban công mang yếu tố tĩnh (âm) có thể càng tuyệt vời hơn nếu biến nó thành một khu vườn treo, giúp ta lấy lại cân bằng trong cuộc sống vốn đầy sôi động mang yếu tố dương. Tuy nhiên, việc bố trí trồng cây nên có sự tính toán sao cho hài hoà với cảnh quan và không gian sinh hoạt, không nên trồng  thái quá thì lại tạo thành nơi tích tụ nhiều năng lượng âm không tốt.

Một điểm đáng lưu ý khác là nên tạo cho ban công có gờ bao quanh, đấy chính là một yếu tố nhỏ, nhưng nó giúp lưu trữ dòng năng lượng lâu dài, giúp duy trì sự thịnh vượng và sức khoẻ cho căn nhà của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiểu ban công “tụ” tài lộc và sức khoẻ

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao sẽ quyết định cách họ tiếp cận và cư xử với những mối quan hệ tình cảm trong đời.
Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao sẽ quyết định cách họ tiếp cận và cư xử với những mối quan hệ tình cảm trong đời.


Khuynh huong tinh yeu cua 12 chom sao hinh anh
 
Bạch Dương

Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao đối với Bạch Dương là bốc lửa và quyết đoán. Trong tình yêu, họ nhiệt tình và nhiều ham muốn. Vì thế Bạch Dương rất chủ động trong các mối quan hệ.
 
Kim Ngưu

Gợi cảm và trìu mến là cách Kim Ngưu tiếp cận với tình yêu. Họ có những cử chỉ và cách tiếp xúc khiến người khác phái cảm thấy rất thân thiện và cuốn hút.
 
Song Tử

Tò mò và nói nhiều là khuynh hướng tình cảm đặc trưng của Song Tử. Mọi mối quan hệ với Song Tử đều bắt đầu bằng sự tò mò, muốn khám phá và tiếp diễn bằng những cuộc trò chuyện, chia sẻ. Kết nối tinh thần là một trong những yêu cầu tất yếu của Song Tử.
 
Cự Giải

Nuôi dưỡng và chu đáo, Cự Giải nuôi dưỡng tình yêu như một cái cây. Họ cố gắng, tỉ mỉ tận dụng từng cơ hội để chăm sóc cho tình cảm của mình. Một khi yêu ai họ hết lòng mong ngóng và làm hài lòng đối tác. Đấy là niềm hạnh phúc lớn lao của Giải Giải.
 
Sư Tử

Nổi bật và thú vị, Sư Tử có khuynh hướng tình yêu sôi nổi như tính cách của họ. Khi yêu, Sư Tử lan tỏa tình cảm và ánh mặt trời của mình tới mọi người xung quanh.
 
Xử Nữ

Xử Nữ có cách tiếp cận tình yêu thực tế và hoàn hảo. Mọi mối quan hệ đều trong tính toán và tầm kiểm soát của họ, để đảm bảo, tình yêu của Xử Nữ sẽ là đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất, đáng ngưỡng mộ nhất.
 
Thiên Bình

Hòa hợp và cân bằng, Thiên Bình thích tình yêu như vậy. Quan trong nhất trong một mối quan hệ là Bình nhi phải cảm thấy hòa quyện vào đối phương, tự nhiên và chân thật. Đó phải thực sụ là trao đổi tình cảm, cảm xúc và thương yêu.
 
Thiên Yết

Nóng bỏng và kín đáo, Thiên Yết có khuynh hướng tình cảm rất mạnh mẽ nhưng được giấu kĩ trong vẻ ngoài lạnh lùng. Họ làm thế để chắc chắn rằng tìm được đối tác phù hợp và thật lòng.
 
Nhân Mã

Phóng khoáng và quyến rũ, tình yêu của Nhân Mã như cơn gió mát lành. Họ thích cảm giác kích thích trong quá trình tìm kiếm các mối quan hệ, càng khó khăn càng thích, càng lãng mạn và phiêu lưu càng mê.
 
Ma Kết

Lý trí và ấm áp, tình cảm của Ma Kết đến từ sự chân thành bên trong và hành động cụ thể nên khuynh hướng tình yêu của họ cũng tuân thủ nguyên tắc này. Không cầu kì, phô trương, trực tiếp tiến thẳng tới trái tim đối phương.

Thủy Bình

Trí tuệ và vui nhộn là tiêu chí tình cảm của Thủy Bình. Phải là điều gì đó khác thường, hấp dẫn và vui vẻ mới thu hút được chòm sao này.
 
Song Ngư

Song Ngư có cách tìm kiếm tình yêu rất sáng tạo, chủ yếu thông qua cảm nhận và trực giác. Họ coi tình yêu là một loại hình nghệ thuật cao cấp, cần phải để hết tâm hồn vào.

► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu

Tâm Lan (Theo Huffingtonpost)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuynh hướng tình yêu của 12 chòm sao

Ý nghĩa sao Tử Vi - Thông minh, hiền hòa và đôn hậu

ý nghĩa sao tử vi, và vị trí ở các cung trong lá số. Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Tử Vi - Thông minh, hiền hòa và đôn hậu

Ý nghĩa sao Tử Vi - Thông minh, hiền hòa và đôn hậu

Phương Vị: Cả Nam lẫn Bắc Đẩu Tinh

Tính: Dương

Hành: Thổ

Loại: Đế Tinh

Đặc Tính: Quyền Uy, Phúc Đức, Tài Lộc

Tên gọi tắt thường gặp: Tử

Tử Vi là sao chủ của chòm sao Tử Vi gồm có sáu sao: Tử Vi, Liêm Trinh, Thiên Đồng, Vũ Khúc, Thái Dương, Thiên Cơ. Sao Tử Vi là một trong 14 chính tinh và còn là sao chính trong khoa tử vi nên còn gọi là đế tinh (sao vua) và được an đầu tiên trong lá số tử vi.

 Hai chòm sao Tử Vi và Thiên Phủ hợp lại để tạo thành 14 chính tinh (sao chính) trong lá số tử vi. Trường hợp một cung trên lá số không có chính tinh thì được gọi là cung Vô Chính Diệu tức là cung này không có sao chính tọa thủ.

 Sao Tử Vi được an theo cục và ngày sinh.

Vị Trí Ở Các Cung của sao tử vi:

Miếu địa (tốt nhất) ở các cung: Tỵ, Ngọ, Dần, Thân.

Vượng địa (tốt) ở các cung Thìn, Tuất.

Đắc địa (tốt vừa) ở các cung Sửu, Mùi.

Bình hòa (bình thường) ở các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Mệnh

Tướng Mạo:

Cung Mệnh có Tử Vi miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình cao lớn, hồng hào. Còn Tử Vi bình hòa thì thân hình vừa phải.

Tính Tình

Miếu địa: Thông minh, trung hậu, nghiêm cẩn, uy nghi, sáng tạo, lãnh đạo.

Vượng địa: Thông minh, đa mưu túc trí, bất nghĩa, có oai phong.

Đắc địa: Thông minh, thao lược, can đảm, liều lĩnh.

Bình hòa: Kém thông minh, nhân hậu.

Công Danh Tài Lộc:

Nếu Tử Vi ở các vị trí miếu, vượng hay đắc địa thì không cần các phụ tinh tốt khác đi kém theo cũng vẫn có sự phú quý và quyền uy. Tuy nhiên nếu được các sao sau đây đi kèm thì sự phú quý càng chắc chắn hơn.

 Có Thất Sát đồng cung: Thất Sát như lưỡi gươm báu, đi chung với Tử Vi càng làm cho Tử Vi có thêm uy lực hơn.

 Thiên Phủ đồng cung hay hội chiếu: Thiên Phủ là kho trời nên càng có ý nghĩa dồi dào về tài lộc khi đi kèm với Tử Vi.

 Thiên Tướng đồng cung: Thiên Tướng có nghĩa là tướng Trời, cho nên Tử Vi có Thiên Tướng đi kèm như vị vua có tướng tài bên cạnh phò tá nên càng thêm vững chắc trên đường lãnh đạo chỉ huy.

 Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt: Đây là các sao phụ như quần thần theo hộ giá cho vị Vua. Các sao này sẽ khiến cho Tử Vi bảo đảm thêm phần tài lộc, công danh. Sự hội tụ của các sao này chung quanh Tử Vi làm nổi bật khả năng lãnh đạo, chỉ huy của sao vua.

Ở vị trí bình hòa, Tử Vi cần phải có các sao tốt đi kèm mới bảo đảm được sự phú quý hưng vượng.

Sao Tử Vi gặp các sao xấu như Tuần, Triệt, Kình, Đà, Không, Kiếp thì diễn tả một tính nết xấu xa và thường gặp tai nạn trong cuộc đời. Nếu là nữ mệnh thì tính tình đê tiện, dâm đãng, khắc hại chồng con tuy là có tiền bạc khá giả.

 Phúc Thọ Tai Họa

Sao Tử Vi là một phúc tinh nên còn đem đến phúc đức cho cung tọa thủ. Đặc biệt Tử Vi chế giảm được hung tính của hai sao Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy nhiên năng lực cứu giải tai nạn của Tử Vi sẽ bị kém đi rất nhiều khi đóng tại các cung Hợi, Tý, Mão, Dậu. Thêm nữa nếu Tử Vi bị hai sao Tuần hoặc Triệt án ngữ hay sát tinh xâm phạm thì càng bất lợi hơn. Trường hợp này đương số sẽ gặp phải những nghịch cảnh trong cuộc đời như:

Sớm mồ côi cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh góa bụa, cô độc.

Khắc anh chị em hay khắc chồng con, hay vợ con.

Thường bệnh hoạn hay yểu tử.

Phải tha phương lập nghiệp.

Gặp nhiều cảnh hiểm nguy trong cuộc đời.

Nghèo khổ, xui xẻo.

Công danh trắc trở, khổ nhọc cả đời.

Nữ mệnh thì phải chịu cảnh muộn chồng hay vợ lẽ.

Riêng trường hợp Tử Vi ở cung Mão hoặc Dậu và đồng cung với Tham Lang thì Tử Vi tượng trưng cho sự bi quan, yếm thế, thường gặp nghịch cảnh và luôn có chí xuất trần. Nếu đương số đi tu thì sẽ đạt được sự thanh nhàn và phúc đức.

 Những Bộ Sao Tốt đi cùng sao tử vi:

Tử Vi, Thiên Phủ tọa thủ (ở ngay cung Mệnh) hay giáp Mệnh (ở hai bên cung Mệnh).

Tử Vi, Thiên Tướng.

Tử Vi, Thất Sát.

Tử Vi, Vũ Khúc

Tử, Phủ, Vũ, Tướng

Tử Vi và các sao tốt Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Quyền, Lộc, Long, Phượng, Quang, Quý, Đào, Hồng v.v...

Tử, Phủ, Kỵ, Quyền hay Tử, Sát, Quyền ở Tỵ hoặc Hợi.

Nhất là cách Tử Phủ Vũ Tướng có kèm các sao tốt kể trên. Đây là cách đế vương, báo hiệu một sự nghiệp lãnh đạo to lớn của một vị nguyên thủ quốc gia. Nếu không gặp sát tinh thì ngôi vị vững vàng, dễ tạo quyền bính trong thời bình. Ngược lại, nếu bị Kình, Đà, Không, Kiếp, Hỏa, Linh đắc địa đi kèm thì sẽ đắc vị trong thời ly loạn, chiến tranh hoặc đất nước gặp cảnh gay go thử thách cần phải có sự tranh đấu với nhiều khó khăn, trở ngại.

Những Bộ Sao Xấu đi cùng sao tử vi:

Tử Vi gặp Tuần hay Triệt thì trong đời thường gặp tai nạn, dù có chí lớn cũng không thể mưu thành đại sự được.

Tử Vi, Thất Sát gặp Tuần hay Triệt thì mưu sự bất thành, chỉ có hư danh và hay gặp tai nạn trong cuộc đời.

Tử Vi ở các cung Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) diễn tả một con người bất trung, bất nghĩa, bất hiếu vì khi Tử Vi đóng ở các vị trí này sẽ gặp Thiên La, Địa Võng (Thìn, Tuất) và có Phá Quân đi kèm. Nếu có được cát tinh đi kèm thì mới có uy quyền và danh tiếng. Tại các vị trí này, nếu Tử Vi gặp cả sao tốt lẫn sao xấu thì sẽ là người rất đặc biệt có nhiều mưu lược, và thủ đoạn, dám làm những việc bất nhân, bất nghĩa nhưng vẫn sử dụng được cả người tốt lẫn người xấu.

Nếu Tử Phá thiếu các sao tốt thì con người bất nhân, bất nghĩa, độc ác, khát máu, tham nhũng và thường bị thất bại nặng hoặc phải phá sản một lần trong đời.

Tử Vi có Tham Lang đồng cung biểu diễn một cuộc đời của một vị tu hành, xuất thế. Nhất là khi có hai sao Địa Không và Địa Kiếp thì điều này càng chắc chắn hơn nữa.

Tử Vi gặp Không, Kiếp, Đào, Hồng là sổ yểu tử, chết sớm.

Tử Vi gặp Kình, Đà, Quyền, Lộc là người có quyền lực danh vọng nhưng lòng dạ hung hiểm, độc ác, vô đạo, bất nhân.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phụ Mẫu:

Tử Vi ở các cung Ngọ, Tý, hay có thêm Thiên Phủ, hoặc Thất Sát đồng cung thì cha mẹ giàu sang, sống lâu, giúp đỡ được con cháu, và có di sản để lại cho con cái.

Riêng trường hợp Tử Sát hay Tử Tham tại cung Phụ Mẫu thì cha mẹ bất hòa với nhau hay cha mẹ bất hòa với con cái. Trường hợp cung Phụ Mẫu có Tử Vi và Phá Quân đồng cung thì người con khắc cha mẹ, hoặc phải chịu cảnh mồ côi, hoặc phải sống xa cha mẹ, hạnh phúc gia đình bị kém. Gặp trường hợp này cần phải xét thêm hai sao Thái Dương (cha) và Thái Âm (mẹ) để biết rõ thêm sự tốt xấu nghiêng về cha hay mẹ.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phúc Đức:

Những trường hợp tốt của sao Tử Vi với cung Phúc Đức là:

Ở Ngọ hay Tý. Tốt nhất là ở Ngọ.

Thiên Phủ hay Thiên Tướng đồng cung.

Thất Sát đồng cung. Nhưng trường hợp này vì gặp sát tinh nên phải xa họ hàng hay sống cuộc đời lưu lạc tha phương mới tốt.

Những trường hợp xấu cho cung Phúc Đức có sao Tử Vi là:

Tử Vi, Phá Quân đồng cung.

Tử Vi, Tham Lang đồng cung.

Tử Vi gặp các sao xấu, nhất là Không, Kiếp, Kình, Đà, Linh, Hỏa. Đây là trường hợp bất lợi nhất.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Điền Trạch:

Tương tự như cung Phúc Đức, nếu cung Điền Trạch có sao Tử Vi và ở vào các trường hợp đã ghi cho cung Phúc Đức thì đương số sẽ có nhà cửa rộng lớn, tài sản phát triển dồi dào, có thể do thừa hưởng gia tài hoặc tự tay tạo dựng sự nghiệp vẻ vang.

Nếu cung Điền Trạch có Tử Vi mà gặp phải các sao Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì không giữ được của dù có gia sản lớn lao, hoặc phải chịu cảnh sa sút dần và có thể đi đến phá sản khi có Phá Quân đồng cung. Đặc biệt nếu có thêm các hung tinh khác thì có thể đi đến khánh tận và chịu cảnh vô sản, nghèo khổ.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Quan Lộc:

Những bộ sao tốt và xấu cho sao Tử Vi ở cung Mệnh đều có thể áp dụng cho cung Quan Lộc. Tốt nhất là Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với ba chính tinh Thiên Phủ, Thiên Tướng và Thất Sát. Nếu cung Quan Lộc có Tử Vi đi với Thiên Tướng thì con người độc tài, hay tranh giành quyền lực. Tử Vi đi với Thất Sát thì có năng khiếu về võ nghiệp. Nếu đồng cung với Phá Quân và Tham Lang thì sẽ gặp sự thăng trầm, tai họa trong đường công danh, quan lộc, để cuối cùng phải chuyển qua doanh nghiệp, thương mại.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Thiên Di:

Các cách Tử Vi ở Ngọ, Tý hay Tử Phủ, Tử Tướng, Tử Sát đều tốt. Có nghĩa là đương số sẽ gặp hoàn cảnh xã hội thuận lợi tốt đẹp, cuộc sống luôn gặp môi trường thuận tiện. Đây là một con người sinh ra đã gặp mọi thời cơ thuận lợi, tốt đẹp, nhiều người giúp đỡ, thường giao tiếp với bậc quyền quý, cao sang, càng ra ngoài xã hội nhiều thì cuộc đời càng may mắn, luôn được nhiều người tín nhiệm giúp đỡ.

Trái lại nếu Tử Vi ở cung Thiên Di mà gặp các sao Phá, Tham hay các sát tinh khác thì thường gặp nhiều nghịch cảnh xã hội, thường bị người ngoài dèm pha, hãm hại, có thể chết tha phương hoặc bị ám sát.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tật Ách:

Tử Vi là sao vua và là phúc tinh nên đóng ở cung Tật Ách có năng lực giải trừ mọi tai nạn, bệnh tật, hiểm họa trong đời. Đây là sao cứu giải hoạn nạn mạnh nhất trong các sao và có hiệu lực cứu giải như Thiên Phủ, Thiên Lương. Trong trường hợp cung Tật Ách có sao Tử Vi và đồng cung với sao Phá Quân thì năng lực giải cứu của sao Tử Vi cũng không bị suy giảm.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tài Bạch:

Tử Vi cũng là một sao chủ về tài bạch cho nên Tử Vi đóng ở cung Tài Bạch mà được miếu địa hay vượng địa và không gặp Tuần hay Triệt án ngữ thì sẽ bảo đảm được một gia sản tiền bạc đồi dào.

Thêm nữa, nếu sao Tử Vi đi kèm với các sao chủ về tiền bạc, của cải như Thiên Phủ, Vũ Khúc thì càng thịnh vượng hơn nữa. Gặp những trường hợp này, đương số sẽ có trách nhiệm giữ về tiền bạc, kho lẫm như ngân hàng hay tài chánh. Nếu đồng cung với Thất Sát cũng sẽ làm giàu dễ dàng nhanh chóng. Nhưng nếu cung Tài Bạch ở Tý thì sẽ kém hơn các trường hợp trên. Nếu Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì trong đời sẽ trước nghèo sau giàu nhưng cũng có lần phá sản. Đồng cung với Tham Lang thì tài sản sư nghiệp tầm thường, dù có của cải gia sản thì cũng sẽ bị sa sút dần. Cuối cùng nếu Tử Vi ở cung Tài Bạch mà gặp các sát tinh nặng khác thì trong đời ít nhất cũng có một lần bị phá sản.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Tử Tức:

Tử Vi ở cung Tử Tức thì đương số sẽ có cả con trai lẫn gái. Nếu miếu địa, vượng địa hay đắc địa hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thiên Tướng thì nhiều con cái và con cái đều khá giả. Nếu Tử Vi đi với Thất Sát thì khó nuôi con, nhất là gặp thêm các sao xấu thì có thể ít con hoặc phải chịu cảnh hiếm muộn. Nếu cùng với Phá Quân hay Tham Lang thì ít con cái và con sẽ xung khắc với cha mẹ.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Phu Thê:

Tốt nhất là cung Phu Thê ở Ngọ và có Tử Vi đồng cung với Thiên Phủ. Trường hợp này diễn tả một gia đình vợ chồng tương đắc tâm đầu ý hợp, luôn có hòa khí và chung thủy trong đời sống vợ chồng.

Cung Phu Thê có Tử Vi và Thiên Tướng thì cả hai vợ chồng đều rất can trường cứng cỏi. Vì vậy vợ chồng có thể gặp cảnh xích mích, bất hòa nhưng cuộc sống gia đình vẫn tốt đẹp. Thông thường thì vợ hay chồng sẽ là người con trưởng trong gia đình, nếu không là con trưởng thì cũng sẽ đoạt trưởng, nghĩa là có quyền quyết định trong gia đình và được các anh chị em nể phục, kính trọng.

Nếu Tử Vi gặp Sát hay Tham thì muộn lập gia đình mới tốt. Nếu gặp Phá thì vợ chồng thường bị hình khắc chia ly. Nếu gặp Tham thì chỉ sự bất hòa vì Tham Lang là sao chỉ về sự ghen tuông, chiếm hữu.

Ý Nghĩa Tử Vi Ở Cung Huynh Đệ:

 Cung Huynh Đệ có sao Tử Vi thì đương số có anh cả hoặc chị cả vì sao Tử Vi chỉ về người đứng đầu trong anh chị em. Trường hợp cung Huynh Đệ có sao Tử Vi ở Ngọ hoặc đồng cung với Thiên Phủ hay Thất Sát thì gia đình có đông anh em, khá giả và hòa thuận. Nếu có Thiên Tướng đi kèm thì anh em tuy khá giả nhưng hay có sự bất hòa vì Thiên Tướng là sao chủ về sự cạnh tranh, cứng cõi, ương ngạnh. Trường hợp Tử Vi đồng cung với Phá Quân thì sẽ có anh em dị bào, cùng cha khác mẹ hay cùng mẹ khác cha và anh em ruột thường hay bất hòa. Nếu Tử Vi đi với Tham Lang thì anh em ly tán, nghèo khổ, vất vả và nếu gặp các sát tinh khác thì anh em có thể có người bị tử nạn, hao hụt lần lần hay trong anh chị em có người là phần tử xấu trong xã hội.

Tử Vi Khi Vào Các Hạn:

Sao Tử Vi là đế tinh, không có vị trí hãm địa nên khi vào các đại hạn, hay tiểu hạn tại các cung miếu, vượng hay đắc địa hoặc đồng cung với các sao Thiên Phủ, Thiên Tướng, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc thì rất tốt mọi việc đều may mắn, thuận lợi. Nếu gặp Khôi, Việt thì càng vẻ vang hơn. Riêng các vị trí bình hòa như Tý, Hợi, Mão, dậu thì năng lực sẽ kém tốt hơn, nhưng nếu gặp bất lợi thì khó tránh khỏi.

Sao Tử Vi gặp các sát tinh Không, Kiếp, Kỵ, Hình thì bị đau ốm, bệnh hoạn hoặc mất của hay bị kiện tụng. Gặp Kình, Đà, Kỵ thị bị đau ốm hay bị lừa gạt. Đặc biệt khi Tử Vi gặp Tuần và Triệt ở cả đại hạn lẫn tiểu hạn lại thêm Kình, Đà, Không, Kiếp (chưa kể các nguyệt hạn, nhật hạn và thời hạn) như một vị vua mà bị nhiều quân phiến loạn vây hãm thì tính mạnh có thể bị lâm nguy.



Năm sinhCan ChiSao Hạn NamSao Hạn NữXem chi tiết

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Tử Vi - Thông minh, hiền hòa và đôn hậu

Mơ thấy gót chân: Co ro cúm rúm trong công Việc –

Mơ thấy gót chân là biểu hiện của sự cẩn thận, dè dặt quá mức. Nếu mơ thấy gót chân của mình, nghĩa là bạn nhát gan như thỏ, sợ sệt khó khăn, làm việc gì cũng co ro cúm núm, không kiên cường mạnh mẽ. Nếu mơ thấy cảnh quay đầu lại nhìn gót chân khi đi
Mơ thấy gót chân: Co ro cúm rúm trong công Việc –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gót chân: Co ro cúm rúm trong công Việc –

Tướng các gò ở lòng bàn tay –

Theo “Triết tinh Ngũ Hành” trong lòng bàn tay được phân định thành năm gò theo năm sao Thủy, Kim, Hỏa, Mộc, Thổ. “Các tinh tú này tác động trực tiếp tới đời sông con người”. Vì vậy các tướng thuật gia phương Đông và các tướng thuật gia phương Tây đều
Tướng các gò ở lòng bàn tay –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng các gò ở lòng bàn tay –

Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Quẻ Quan Âm thứ 77 Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu đoán rằng nếu muốn có kết quả tốt, cầh phải nhờ quý nhân chỉ bảo và giúp đỡ.
Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là quẻ Quan Âm thứ 77 được xây dựng trên điển cố: Phụng bích quy Triệu hay đưa ngọc bích về Triệu.

Quẻ trung bình thuộc cung Ngọ. Hiện giờ chẳng khác gì nói mơ trong mộng, đừng nên chờ đợi hư ảo. Nếu muốn kết quả tốt đẹp, cần phải nhờ quý nhân chỉ bảo và tương trợ.

Thử quái mộng trung đắc bảo chi tượng. Phàm sự hư đa thiểu thực dã.

Điển cố quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Thời Chiến Quốc, vua nước Triệu có được một viên ngọc bích, gọi là Hòa thị bích. Vua nước Tần biết được, cậy nước mình có thế lực lớn mạnh, liền viết một bức thư, sai người gửi cho vua Triệu, nói rằng vua Tần muốn dùng mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viên ngọc Hòa thị bích.

Vua Triệu đọc thư xong, liền cùng các đại thần bàn bạc. Các đại thần cũng không nghĩ ra biện pháp gì hay. Đang trong lúc khẩn trương, bỗng một người tiến lên nói rằng, có người giỏi mưu tính tên là Lạn Tương Như (329 tr. CN – 259 tr. CN), rất thông minh dũng cảm. Vua Triệu sai người truyền gọi Lạn Tương Như vào gặp, hỏi anh ta nên xử lý sự việc này như thế nào. Lạn Tương Như nói: “Thưa đại vương, xin hãy cho tôi mang viên ngọc Hòa thị bích đi gặp vua Tần. Đến đó tôi sẽ tùy cơ hành sự, nếu như không chắc chắn vua Tần sẽ dùng mười lăm tòa thành trì để hoán đổi, tôi nhất định sẽ mang viên ngọc Hòa thị bích trở về một cách vẹn toàn”. Vua Triệu thấy Lạn Tương Như là người dũng cảm lại thông minh, liền đồng ý.

Lạn Tương Như đến nước Tần, vua Tần tiếp đón Tương Như ờ trong cung. Lạn Tương Như hai tay nâng viên ngọc Hòa thị bích dâng lên vua Tần. Vua Tần xem đi xem lại, vô cùng thích thú. Vua Tần xem xong, lại truyền cho các đại thần từng người một xem, sau đó lại truyền cho các phi tần ở hậu cung xem.

Lạn Tương Như đứng ở bên cạnh chờ đợi rất lâu, cũng không thấy vua Tần đề cập đến chuyện cắt mười lăm tòa thành trì để trao đối, biết rằng vua Tần vốn không có thành ý dùng thành trì để đổi lấy viên ngọc quý. Nhưng ngọc quý đã vào tay vua Tần rồi, làm thế nào để lấy lại được đây? Tương Như tiến lên, nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này thoạt nhìn tuy rất đẹp, nhưng vẫn có một khiếm khuyết nhỏ, xin để tôi chỉ cho đại vương xem!” Vua Tần vừa nghe thấy có khiếm khuyết, vội sai người đem viên ngọc từ hậu cung đến giao cho Lạn Tương Như.

Lạn Tương Như cầm viên ngọc Hòa thị bích, lùi lại mấy bước, tựa người vào cây cột, giận dữ nói với vua Tần rằng: “Khi trước đại vương sai người gửi thư cho vua Triệu, nói rằng sẽ đem mười lăm tòa thành trì để đổi lấy viêh ngọc Hòa thị bích. Các đại thần nước Triệu đều nói rằng, không nên tin lời dối trá của người nước Tần. Tôi đã phản bác rằng, đến thường dân còn coi trọng tín nghĩa, huống chi lại là đại vương của nước Tần! Vua Triệu nghe lời của tôi, mới sai tôi đem viên ngọc Hòa thị bích đến đây. Thế mà đại vương nhận lấy ngọc quý, tùy tiện giao cho kẻ dưới xem, lại không hề đề cập đến chuyện trao đổi mười lăm tòa thành trì. Có thể thấy rằng đại vương quả không có thực tâm muốn dùng thành trì để đối lấy ngọc quý. Nay ngọc đã ở trong tay tôi, nếu như đại vương nhất định muốn ép buộc, tôi sẽ đập viên ngọc lên cây cột này cho vỡ tan!” Nói xong, Lạn Tương Như nâng cao viên ngọc Hòa thị bích, ra vẻ như định đập vào cây cột.

Vua Tần thấy vậy, vội nói: “Đại phu chớ có nóng vội, lời ta đã nói sao có thế không giữ được!” Nói rồi sai người mang bức địa đò đến, giả bộ chỉ vào bức địa đò nói: “Từ đây đến đây, tống cộng mười lăm tòa thành, đều cắt cho nước Triệu!” Lạn Tương Như nghĩ thầm: “Vua Tần thường hay giở trò lừa bịp, chớ có mắc lừa ông ta lần nữa!” Bèn nói với vua Tần rằng: “Viên ngọc Hòa thị bích này là vật báu nổi tiếng trong thiên hạ, khi tôi mang nó đến nước Tần, vua Triệu đã phải trai giới năm ngày, lại tổ chức nghi thức tiễn đưa báu vật rất long trọng ờ triều đình. Nay đại vương muốn nhận viên ngọc quý này, cũng nên trai giới năm ngày, và tổ chức nghi thức nhận báu vật ở triều đình, tôi mới có thể dâng ngọc quý lên được! “Vua Tần nói: “Được! Ta sẽ làm theo như vậy!”

Lạn Tương Như mang viên ngọc đó đến công quán, cho một thuộc hạ cải trang thành người buôn bán, giấu viên ngọc ở trong người, lặng lẽ theo con đường nhỏ trở về nước Triệu. Cuối cùng ngọc bích đã trở về nước Triệu, vua Tần đành phải thả Lạn Tương Như về.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Âm: Phụng Bích Quy Triệu

Trăm năm mệnh lý què quặt

Một bài viết hay về mệnh lý theo môn Tử Bình. Mời các bạn cùng đọc.
Trăm năm mệnh lý què quặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác giả: Vương Khánh (Bạn Durobi dịch)

1. Tỉnh ngộ

Học mệnh 15 năm, nghi hoặc và tìm kiếm mất đủ 11 năm, khoảng thời gian sung sức nhất đời người thế là lãng phí mất. Tôi (VK) vẫn còn may, hãy còn chưa bị hói hết tóc thì thấy ánh sáng cuối đường hầm của mệnh học, không biết bao nhiêu dân nghiền bát tự còn đang mò mẫm trong đêm tối. Bát tự tức nhân sinh, mệnh học tức vũ trụ. Bát tự mệnh học quả là không đơn giản, may có những vị tiên sư trí tuệ phi phàm như Quỉ Cốc Tử, Từ Tử Bình đã đem môn huyền học cao thâm của vũ trụ này dùng công thức đơn giản để định cách, tức đã sáng lập nên hệ thống bát tự dự đoán học. Người đời sau như chúng ta chỉ cần vận dụng công thức đi dự đoán, trong đa số trường hợp có thể đoán rất chuẩn xác. Lý luận cao thâm, trình thức phức tạp không tương đồng với vận dụng khó khăn, như máy tính vậy, là kết tinh của trí tuệ khoa học, vận dụng nó thì cực đơn giản. Bát tự mệnh học cũng vậy, nếu không thì làm sao những vị thầy bói khiếm thị không biết lấy một chữ cũng lấy nó làm nghề mưu sinh được? Cái lý thì thế nhưng hình như trong thực tế không phải vậy, đại lục TQ kể từ khi thầy Thiệu Vỹ Hoa vào những năm 90 khởi xướng phổ cập môn Bát Tự đến nay đã hơn 20 năm rồi; Đài Cảng từ thời Dân Quốc đến nay cũng gần cả trăm năm; người học qua môn mệnh lý này đâu ít hơn số triệu, thế mà cho đến nay người thực sự được giới mệnh lý công nhận là cao thủ ít ơi là ít! Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

Bây giờ đi qua mới phát hiện, thứ mà đại lục và Đài Cảng cả trăm nay học là thứ “Mệnh lý què quặt”, mà lại què đúng cái chân nhẽ ra phải là chủ lực. Một bệnh nhân với cái chân tật nguyền như vậy nếu có cho anh ta thêm 100 năm nữa thì đi được bao xa?

2. Điểm chuyển biến của Tử Bình mệnh học

Phương pháp luận mệnh từ nhà Thanh về trước hầu hết dùng cách cục làm chính, kiêm cố thêm nhật chủ vượng suy, đi bằng hai chân cách cục pháp và vượng suy pháp. Điều này thể hiện rõ rành rành trong những kinh điển như “Uyên Hải Tử Bình”, “Tam Mệnh Thông Hội”, “Tích Thiên Tủy”. Nếu bạn lâu quá không đụng tới mấy cuốn ấy thử bỏ chút thời gian lật lại xem có phải vậy không. Đến thời nhà Thanh, phương hướng luận mệnh môn Tử Bình phát sinh chuyển biến, đem Tử Bình pháp phân làm Vượng Suy phái và Cách Cục phái. Nhân vật đại biểu cho Vượng Suy phái là nhà mệnh lý chuyên nghiệp – tiên hiền Nhậm Thiết Tiều sống khoảng niên hiệu Đạo Quang nhà Thanh, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tích Thiên Tủy Xiển Vi”

Nhân vật đại biểu cho Cách Cục phái là vị tiên hiền Tiến Sĩ đời Càn Long là Thẩm Hiếu Chiêm, tác phẩm tiêu biểu của ông là “Tử Bình Chân Thuyên” Từ đó về sau, Tử Bình mệnh học không còn hoàn chỉnh nữa, hễ dùng cách cục thì không nhắc tới nhật chủ vượng suy, hễ trọng thị vượng suy thì khinh thị cách cục thành bại. Cuộc cải cách này cả trăm năm lại đây rất được những kẻ sơ học ủng hộ. Phải thôi, học tập mệnh lý không còn bị ràng buộc bởi cách cục và vượng suy bên nào nặng bên nào nhẹ, sẽ không còn bị khó khăn làm thế nào dung hòa cách cục và vượng suy. Hai phương pháp luận mệnh sau khi cải cách, vô luận là cách cục pháp hay là vượng suy pháp, chủ tuyến rạch ròi, đường hướng suy luận rõ ràng, trình tự đơn giản, dễ nhập môn, chẳng tốn bao thời gian là có thể nhập đạo. Từ đó, mệnh học là môn huyền học có ít người nghiên cứu nay trở thành môn học đại chúng dễ dàng, người học tăng rất nhiều. Từ đó, môn Tử Bình mệnh học mà cách cục và vượng suy liên quan chặt chẽ đã diễn biến thành môn mệnh lý không khuyết chân phải thì què chân trái, và đó chính là mệnh lý đại chúng hiện đại.

3. Sự truyền thừa của mệnh học hiện đại

Sự phát triển của mệnh lý hiện đại công lao lớn nhất đương nhiên phải qui công cho ba đại gia: Viên Thụ San tiền bối, Từ Lạc Ngô tiền bối và Vi Thiên Lý tiền bối, đương thời gọi là Nam Viên, Bắc Vi, Đông lạc Ngô. Nếu không có ba vị tiền bối này dốc bao tâm huyết trước tác rất nhiều tác phẩm mệnh lý để lại cho hậu học thì chúng ta đâu dễ tiếp xúc môn mệnh lý huyền học này. Về học thuật tu dưỡng của ba vị tiền bối thì khỏi bàn cãi, đều là bậc bác lãm quần thư, tất cả mọi kinh điển Tử Bình mệnh học đương nhiên là tư liệu học tập chủ yếu của các ông. “Tam Mệnh Thông Hội”, “Uyên Hải Tử Bình” quá là bao la phức tạp, “Thần Phong Thông Khảo” thì hệ thống chưa đủ sự tinh luyện, chỉ có “Tích Thiên Tủy Xiển Vi” do Nhậm Thiết Tiều chú và “Tử Bình Chân Thuyên” của Thẩm Hiếu Chiêm là chủ đề rõ ràng, luận thuật tường tận, nên sự ảnh hưởng đến ba vị tiền bối là rất rõ. Nhậm Thiết Tiều dùng vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa đơn giản rõ ràng vừa dễ học dễ dùng, phù hợp tâm tính thích đi đường tắt của con người; cách cục pháp của Thẩm Hiếu Chiêm tuy hệ thống cũng khá là tường tận, có điều bên trong đặt quá nhiều cánh cửa, đọc rất hay nhưng rất khó áp dụng. Do như vậy nên ba ông đương nhiên ngả về vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều thôi. Đại sư cũng là phàm nhân, khi học tập đều theo thói thường, khuynh hướng ở tác phẩm chủ đề rõ ràng, lý luận rành mạch.

Sự khác biệt lớn của đại sư và người thường khi học Dịch là họ có độ nhạy cảm đối với Dịch học, thiên tính này của họ loáng thoáng cảm giác rằng cách cục pháp nhất định là thứ hay, chỉ có điều nhất thời chưa hiểu lắm, nên không thể bỏ qua. Cứ như vậy sau khi hấp thu vượng suy pháp của Nhậm Thiết Tiều xong thì cũng bảo lưu cách cục pháp, hình thành nên phương pháp luận mệnh lấy vượng suy chủ đạo cách cục. (cách cục pháp và vượng suy pháp là hai hệ thống luận mệnh khác nhau, lấy lý luận vượng suy pháp chỉ đạo cách cục đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho từ nhà Thanh về sau cách cục pháp hoàn toàn đi chệch hướng.)

Cách cục pháp trong hệ thống luận mệnh của ba ông kỳ thực chỉ là một thứ phụ thuộc, thường chỉ có tác dụng gọi tên cho bát tự, giống như tên người thì không liên quan cát hung vậy; cũng thường dùng như vũ khí để khỏa lấp lúc vượng suy pháp không cách nào giải thích được cát hung họa phúc của mệnh cục. Kỳ thực ai tinh ý sẽ thấy rõ, cách cục giống như “gân gà” của ba ông vậy, ăn thì dở mà bỏ thì tiếc, lấy làm vật bài trí cho rồi. Ba vị tiền bối tung hoành Dịch đàn mấy mươi năm, quyết định hướng đi của mệnh học từ thời Dân quốc đến nay, để lại nhiều tác phẩm ảnh hưởng sâu sắc. Thử hỏi, từ Dân quốc về sau người nào có chút văn hóa, có tâm cầu tiến, mấy ai không đọc sách của ba ông? Sách mệnh lý xuất bản hầu hết là của ba ông hoặc học giả hậu học trưởng thành đi theo sau ba ông biên soạn, thế thì làm sao không bị học thuật của ba ông ảnh hưởng? Nhất là Từ Lạc Ngô tiền bối, rất là dụng tâm lương khổ, muốn cho hậu học đều có thể đọc hiểu cổ thư nên bèn “các kinh ta chú thích hết”, vô luận sách mệnh lý phái nào sau khi ông chú xong cũng đóng lên cái dấu ấn vượng suy pháp, như cuốn “Tử bình Chân Thuyên” chuyên luận cách cục sau sự nỗ lực của ông đã bị biến thành phương pháp phụ thuộc của vượng suy pháp – vượng suy cách cục pháp. Kỳ thực con đường học tập mệnh lý rất hẹp, chủ yếu chỉ hai đường, manh phái và phái sáng mắt. Manh phái chỉ truyền người khiếm thị. Phái sáng mắt cơ bản là không có sư thừa, chủ yếu lấy sách làm thầy, hoặc có thể nói sư phụ của sư phụ chúng ta là sách. Hễ đọc sách thì không thể không đụng ba vị tiền bối này, nói trắng ra là sư phụ của hầu hết người sáng mắt chính là ba ông Viên, Vi, Từ.

Và như vậy vượng suy pháp đã trở thành chủ lưu, thậm chí là pháp môn có một không hai lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.

4. Giới thiệu đôi nét về vượng suy pháp và cách cục pháp

Chúng ta đã rất quen thuộc vượng suy pháp rồi, chính là lấy nhật chủ làm trung tâm, định ra sự vượng suy cường nhược của nhật chủ và thập thần, sau đó dùng phép tắc cân bằng định ra hỉ kỵ, đoán cát hung.

Bộ phận quan trọng nhất của vượng suy pháp là định vượng suy của nhật chủ chính là thân vượng thân nhược, sau đó xác định nhật chủ hỉ gì, kỵ gì. Thường thì thân vượng cần khắc, tiết, hao để cân bằng, hỉ Tài Quan Thực Thương; thân nhược cần sinh phù để cân bằng, hỉ Ấn Tỷ. Cường thì ức (chế), nhược thì bổ, thuận thế hóa tiết, thông quan điều hậu, là nguyên tắc chọn dụng thần tối cơ bản.

Cách cục pháp luận mệnh dùng chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm (thần nắm lệnh của tháng là chủ khí của trời, thập thần tích cực nổi trội nhất trong thiên can là chủ khí của đất), lập hướng, định cách cục, luận thành bại, thành cách thì quí, thành cục thì phú, không thành cách cục đều là người bình thường.

Làm thế nào để đoán định thành bại của cách cục, chủ yếu phải xem lập hướng điểm có thông qua được 3 cửa quan là hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không. Chỉ có 3 cửa quan đều thông qua thì mới tính cách cục được thành lập, không quí thì phú. 3 cửa chỉ cần 1 cửa không thông qua thì luận là không thành cách cục, án tình huống cụ thể phân làm 3 loại bán thành phẩm, thứ phẩm và phế phẩm, lấy tiêu chí này đoán định ngoài đại quí đại phú ra (đã thành cách cục) thì còn có các tầng thứ khác, hoặc tiểu phú quí, hoặc có thành tựu, hoặc bình phàm, hoặc là đồ bỏ đi, rõ ràng đâu ra đấy.

Cái gọi là 3 cửa quan: Hộ vệ, thật giả, thanh thuần, được biểu thuật như sau.

Hộ vệ: Tức là thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục) xung quanh có hình thành một cơ chế bảo vệ hoặc ức chế hoàn thiện hay không. Lấy nguyên tắc hộ vệ hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng để phán đoán thành bại. 4 hung thần: Sát, Thương, Kiêu, Kiếp cần chế cần hóa, như Thương Quan cần gặp Tài hoặc Ấn, Thất Sát cần gặp Thực hoặc Ấn hoặc Thương Nhận hợp Sát ; 4 cát thần: Tài, Quan, Ấn, Thực cần được sinh và hộ vệ, như Quan tinh cần gặp Tài hoặc Ấn, Ấn tinh cần gặp Quan hoặc Tỷ. Cát hung thần chỉ khi đã cụ bị cơ chế hộ vệ và ức chế này mới có thể kiện khang và thành tựu, và mới có thể là vật hữu dụng cho ta.

Lúc luận cách cục, hộ vệ là tối quan kiện, chúng ta chớ cho rằng thân vượng gặp Tài, Sát thì có thể thăng quan phát tài. Bạn đầu tiên phải tính: Tài này tự thân nó có an toàn, kiện khang hay không? Sát này có thể thuần phục làm vật hữu dụng cho ta không? Đơn lẻ chỉ mỗi thập thần thì nó chỉ là “nguyên liệu” mà thôi, chỉ khi qua sự tổ hợp hợp lý mới thành hình, tức biến thành “thành phẩm”, tức Tài là tài phú, Quan là địa vị.

Ví dụ 1: Càn tạo: Giáp Dần-Đinh Mão-Ất Sửu-Ất Dậu Đại vận: Tân Mùi Lưu niên: Kỷ Sửu Thân vượng Kiếp vượng, vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng địa chi Sát có Tài sinh có thể dùng được, nhưng trên thực tế vấn đề xảy ra ngay chỗ Sát này. Thất Sát là hung thần, không có chế hóa mà lại có nguồn; mà xung quanh nhật chủ không có Ấn tinh hộ vệ, Thực Thần thì yếu nên khó dùng, không hề có chút lực để kháng kích Thất Sát, điềm đại hung. Đại vận Tân Mùi Sát thấu, ứng kỳ đến, lưu niên Kỷ Sửu bị ung thư không chữa khỏi mà chết.

Ví dụ 2: Khôn tạo: Canh Tý-Quí Mùi-Canh Tý-Canh Thìn Vượng suy pháp nhất định sẽ cho rằng mệnh này thân vượng Thương Quan đắc dụng nên mệnh chủ rất thông minh. Dùng cách cục pháp mà nói, sau Tiểu Thử 4 ngày thì Đinh hỏa nắm lệnh, Quí thủy Thương Quan che đầu, mà Tý Thìn củng thủy, Thương Quan quá vượng. Thương Quan là thập thần lập cục. Thương Quan là hung thần, gặp Tài và Ấn mới tính là chế hóa thành công. Hiện ở thiên can chẳng những không có thần hộ vệ, còn có 2 Tỷ Kiên tương sinh, hung thần Thương Quan ngông nghênh, tất sẽ làm chuyện xấu. Khí nắm lệnh là Chính Quan bị Thương Quan khắc phá, dự báo đây là hung mệnh. Mệnh chủ bước vào vận thứ 2 là Nhâm Ngọ bị sốt đến độ hoại não, trở thành người thiểu trí. Chắc qua 2 ví dụ trên các bạn chắc đã nhận thức tầm quan trọng của hộ vệ.

Thật giả: Tức là vấn đề căn khí và lực của thập thần hộ vệ. Có căn gốc tức có lực, là thật; không có căn gốc thì vô lực, là giả.

Thanh thuần: Tức là vấn đề đơn nhất hay đa hiện của thập thần lập hướng (thập thần lập cách cục). Chỉ có một là thanh thuần, âm dương cùng hiện 2 bên hoặc âm âm, dương dương song hiện ở 2 bên là tạp trọc (năm tháng là một bên, giờ là một bên). Như Quan Sát hỗn tạp, Thực Thương cùng hiện, Ấn Ấn song thấu, đầu là tạp trọc.

Cách cục pháp luận mệnh, nói đơn giản thì rất đơn giản, chính là trước tiên phải tìm chủ khí lập hướng (lập cách cục), sau đó xem nó có thông qua 3 cửa quan hộ vệ, thật giả, thanh thuần hay không, thông qua thì thành cách cục đại phú đại quí, không qua thì thành người phổ thông

Trong các giai tầng xã hội. Phú quí bần tiện, cát hung họa phúc chỉ một chốc là rõ ngay. Mức độ khó của nó ở chỗ tìm đúng trung tâm điểm để luận mệnh, hoặc gọi là lập hướng điểm hoặc lập cách cục điểm. Trên lý luận nói dễ tìm, không phải thần nắm lệnh của tháng thì là thập thần nào hoạt động tích cực nhất trên hàng can, nhưng trên thực tế vận dụng có một số mệnh cục do nhân tố tổ hợp, chủ khí của lệnh tháng hoặc là bị phá hoại hoặc bị hợp hóa hoặc bị che lấp mất nên không dùng được; thập thần hoạt động tích cực nhất trên hàng can phải tính tới vượng suy, cát hung thần, thập thần ý hướng v.v…cho nên cũng không phải ngó sơ một cái mà xác định được. Ưu thế lớn nhất của vượng suy pháp ở chỗ trung tâm điểm là cố định khỏi cần tìm, nhật chủ chính là trung tâm điểm luận mệnh, đơn giản thế đấy, cho nên rất được người mới học ủng hộ.

Vượng suy pháp và cách cục pháp có 3 điểm lớn khu biệt với nhau:

A. Trung tâm điểm luận mệnh (thái cực điểm) không giống nhau.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm điểm luận mệnh, cách cục pháp lấy chủ khí của trời và đất làm trung tâm điểm luận mệnh. Trên thực tế là sự khác biệt cực lớn của 2 loại nhân sinh quan, nhân sinh lấy “ta” làm trung tâm, hay là lấy “tự nhiên trời đất” làm trung tâm.

B. Lối suy nghĩ luận nhân sinh thành bại không giống nhau. Vượng suy pháp lấy vượng suy cân bằng luận nhân sinh thành bại cát hung. Cách cục pháp lấy cách cục luận nhân sinh phú quí bần tiện.

C. Nhận thức đối với thập thần không giống nhau Vượng suy pháp đối với thập thần chỉ bàn hỉ kỵ, không luận cát hung. Phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là cát, chính là Sát, Kiêu. Thương, Kiếp cũng là là hỉ; không phù hợp nguyên tắc vượng suy cân bằng thì là hung, dù là Tài, Quan, Ấn, Thực cũng là kỵ với ta.

Cách cục pháp đối với thập thần có sự phân biệt cát hung rõ ràng, hơn nữa còn nghiêm ngặt án theo nguyên tắc thủ dụng hung thần thì nghịch dụng, cát thần thì thuận dụng

Cho nên vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 hệ thống luận mệnh hoàn toàn không giống nhau, tối kỵ dùng lẫn với nhau. Dùng lý niệm của vượng suy pháp đi bình cách cục thì thật nực cười. Cũng giống như vậy mà dùng tư tưởng của cách cục pháp đi luận vượng suy thì cũng tréo nghoe.

5. Tính cục hạn của vượng suy pháp, cách cục pháp nguyên nhân đi chệnh hướng của nó

Vượng suy pháp và cách cục pháp là 2 phương pháp luận mệnh độc lập, chúng có thể lưu truyền tới ngày nay, đặc biệt là vượng suy pháp trở thành chủ lưu của luận mệnh thì tất nhiên phải có chỗ độc đáo của nó. Đồng thời, 2 phương pháp này luôn bị người ta chất nghi và phê phán thì chắc chắn có tồn tại không ít khuyết điểm. Một phương pháp mà có thể lưu hành được đương nhiên là phải có sự hợp lý, một phương pháp hay bị phê phán thì cũng phải có nguyên nhân. Chúng ta tĩnh tâm lại tìm thử nguyên nhân ở đâu.

(A) Ưu điểm của vượng suy pháp.

Phương pháp vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm, khi luận đoán những phương diện như mệnh chủ tính cách, chủ quan năng động tính, phương thức của hành vi, tình hình sức khỏe, hôn nhân gia đình thì rất thiện nghệ, chẳng những dễ học mà tính chính xác rất cao; đối với phú quí bần tiện, cát hung họa phúc cũng có thể xem được đại khái.

Những ưu thế kể trên đủ để người mới học phục lăn, tự nhiên đối với vượng suy pháp nảy sinh cảm giác tin tưởng và tin phục, còn đối với những hạng mục như tầm mức của phú quí bần tiện và sự biến hóa của nó, sự lớn nhỏ của cát hung họa phúc và ứng kỳ của nó thì luôn cho rằng đấy là thứ cao cấp trong mệnh lý, theo sự nâng cao trình độ dần dần của mình thì nhất định sẽ có thể giải quyết, không hề nghi ngờ chút nào tính cục hạn của vượng suy pháp. Vượng suy pháp chỉ có ưu thế ở vài phương diện như nêu trên cũng đủ làm người học bình thuờng tự thấy vui rồi, dù gì mục đích học mệnh lý của đa số người không phải lấy nó làm nghề mà chỉ đơn thuần là sự ham thích.

(B) Khuyết điểm lớn nhất của vượng suy pháp

a. Lấy nhật nguyên làm trung tâm luận phú quí bần tiện, cát hung họa phúc.

Đặc điểm lớn nhất của vượng suy pháp luận mệnh là dùng nhật nguyên làm trung tâm tiến hành toàn diện luận mệnh, sự phú quí bần tiện, thọ yểu cát hung, biến hóa trồi sụt, tất tần tật đều lấy đó làm trung tâm. Chúng ta phải nhận thức rõ: Trong cuộc sống hiện thực, là “ta” ảnh hưởng, cải tạo tự nhiên và xã hội, hay là “ta” bị tự nhiên và xã hội ảnh hưởng, cải tạo. Nói đơn giản một chút, trong cuộc sống thực tế, “ta” là trung tâm của xã hội hay là xã hội là trung tâm của “ta”. Lý lẽ rõ là: Con người cực nhỏ bé trong thế giới tự nhiên, con người là một bộ phận nhỏ trong xã hội. Chúng ta thường bị tự nhiên xoay chuyển, thường bị trào lưu xã hội dắt mũi. Chúng vì cuộc sống mà hàng ngày xoay tròn quanh công việc, quanh sự nghiệp. Chúng ta có nhà có xe, nhưng phải làm để trả tiền nhà tiền xe. Chúng ta cả đời muốn thay đổi người khác, đến cuối cùng ngay đến con cái nó cũng chẳng thèm nghe ta. Chúng ta nỗ lực thay đổi mệnh vận, đến cuối cùng cũng phải tin là con người có mệnh. Chúng ta tin rằng “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”, đấu tranh kháng lại tự nhiên, kết cục cuối cùng là kính úy tự nhiên, nhận ra thuận theo tự nhiên, vận dụng tự nhiên thì nhân loại mới hòa hợp hòa hợp vạn thế, di dưỡng thiên niên.

Phương pháp luận mệnh vượng suy lấy nhật chủ làm trung tâm đi ngược với qui luật tự nhiên, không phù hợp hiện thực xã hội, đã sai ngay từ lập hướng điểm lúc ban đầu. Đây là chỗ sai lớn của vượng suy pháp. Nó chỉ có thể suy đoán những tượng thuộc tự nhả, như tính cách, hành vi, hôn nhân, sức khỏe, mà đối với chủ tượng của nhân sinh, chúng ta thường nói là mối quan hệ giữa con người và xã hội, cũng chính là phú quí bần tiện, cát hung họa phúc, thì không hề với tới.

b. Thập thần chỉ phân hỉ kỵ, không phân cát hung.

Thập thần trong bát tự là hình tượng miêu tả hoặc đại biểu cho các loại nhân vật sự kiện. Khí có âm dương, người có thiện ác, vật có đẹp xấu, thế thì thập thần đại biểu cho nhân vật và sự kiện làm sao không thể có sự phân biệt thiện ác? Đây phải là điều cơ bản của mệnh lý, nếu thập thần không phân chia thiện ác thì chỉ ngũ thần là đủ, cổ nhân khi xưa tiếc chữ như vàng cớ gì phải làm ra thêm 5 thần dư thừa như vậy?

Chỉ cần là người có dụng tâm học qua mệnh lý đều biết, Thương Quan, Thất Sát, Kiêu Thần, Kiếp Tài chỉ cần vượng mà không có chế hóa, không hợp trói thì dù cho có là dụng thần vượng suy cũng khó nên thành tựu gì, và chuyện rắc rối theo sau nó cũng không ít.

Thất Sát đoạt mệnh, Thương Quan thương thân gây chuyện, Kiếp Tài tranh danh đoạt lợi, Kiêu Thần chuyên giật chén cơm, có cái nào mà không phải châm đối sự kiện khang và phú quí của nhật chủ đâu, nếu không phân cát hung thì đời người đâu có nhiều hung tai hoành họa lắm thế.

Cử 2 ví dụ để đơn giản nói rõ.

Ví dụ 3: Càn tạo: Ất Hợi-Kỷ Sửu-Giáp Thìn-Ất Hợi

Bát tự này nhìn giống như thân Tài lưỡng đình, dùng vượng suy pháp xem thì mệnh này tốt. Dùng cách cục pháp xem, dùng Chính Tài cách luận thành bại, cát thần Chính Tài cần có Quan Sát hoặc Thực Thương hộ vệ, hiện thời thì không thấy dụng thần Quan Sát, Thực Thần nào cả, đã thế còn có 2 Kiếp Tài tọa vượng đến khắc, chẳng những không thành cách mà còn bị phá tổn nghiêm trọng. Phú quí thôi đừng mơ nữa, cát thần nắm lệnh bị phá, cách bị phá bởi hung thần Kiếp Tài không có chế hóa, tất là người có tai nạn lớn. Mệnh chủ là người cực kỳ nghèo, sau do sự cố trong lúc mưu sinh mà mất đôi cánh tay, phải đi làm ăn mày. Kiếp Tài là đệ nhị ác thần trong 4 hung thần, cực hung hãn, là cường đạo chuyên môn đoạt Tài, không có Tài thì đoạt mệnh.

Ví dụ 4: Càn tạo: Đinh Dậu-Quí Mão-Nhâm Ngọ-Canh Tuất

Đại vận: Mậu Tuất

Lưu niên: Mậu Tý

Mệnh này Thất Sát có nguồn ám tàng, trong kết cấu thì Thất sát không bị chế, Sát cơ trùng trùng, đại vận thấu Sát sẽ là ứng kỳ. Vận Mậu Tuất, năm Bính Tuất bị ung thư ruột, năm Mậu Tý không chữa khỏi mà chết. Thất Sát không bị chế, không hợp trói, chỉ cần có lực và có nguồn thì tất sẽ công thân. Thiên can chỉ hung tai hoành họa có tính bất thình lình, địa chi chủ ác tật tuyệt chứng, điều này ít khi không ứng nghiệm. Vượng suy pháp không phân thập thần cát hung, xem thì đơn giản, thực tế thì đã chặn mất nửa con đường dự đoán, càng đi càng hẹp.

c. Không phân âm dương, không quản đục trong.

Vượng suy pháp luận mệnh chỉ bàn sự cân bằng của lực lượng, không bàn hỗn tạp đục trong. Có lúc cũng ngờ rằng những người quá thiên về vượng suy có phải họ sống trong chân không? Hiện thực cuộc sống mỗi ngày cho chúng ta biết: Người mà trong cuộc sống, công việc, hành vi hỗn tạp vô trật tự sẽ không có thành công và hạnh phúc thực sự. Luận mệnh xem mức độ của phú quí bần tiện, đặc biệt phải chú ý thanh thuần, tạp đục. Một trong những biểu hiện của tạp đục là âm dương thập thần phân lập mệnh cục làm 2 bên, như Quan Sát, Thực Thương. Âm âm, dương dương cùng hiện cũng là một loại của tạp đục, có điều ảnh hưởng đến mức độ phú quí ít hơn. Hỗn tạp là sự tạp loạn vô trật tự của khí, không có ảnh hưởng phương hướng, càng không có lực lượng duy trì. Thể hiện trên tính cách là không có chủ kiến, do dự không quyết; thể hiện trên hành vi là không muốn làm gì cả, không muốn đi sâu thâm nhập cái gì; thể hiện trên tình cảm là bắt cá hai tay, tình cảm không chuyên nhất. Kết quả là nhất sự vô thành, còn hai bàn tay trắng.

Thường người ta hay nói: “Bá nghệ bá tri, vị chi bá láp”, chính là chỉ kết quả của Thực Thương hỗn tạp.

Phụ nữ mệnh có Quan Sát hỗn tạp thì ai cũng biết là hôn nhân trắc trở, một là đàn ông theo đếm không hết, hai là khó ở mãi với một ông chồng.

Mệnh nam giới mà Quan Sát hỗn tạp thì khó có nghề nghiệp ổn định đàng hoàng, thuộc giới tam giáo cửu lưu. Hỗn tạp không thanh (trong), cách cục pháp luận mệnh cho là không cát, ít ra cũng làm giảm tầm mức của cách cục. Vượng suy pháp luận mệnh chẳng những không kỵ hỗn tạp, khi thân vượng còn mừng Quan Sát hỗn tạp, bởi vì phù hợp yêu cầu cân bằng, nhưng trên thực tế lại hoàn toàn không phải vậy. Những ví dụ như vậy rất nhiều, lấy ngay bát tự của tôi và bát tự cùng năm tháng ngày nhưng khác giờ của bạn học của tôi làm một so sánh.

Ví dụ 5: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ- Đinh Dậu

Ví dụ 6: Càn tạo: Quí Sửu-Ất Mão-Bính Ngọ-Nhâm Thìn

Theo vượng suy pháp luận mệnh thì nhật chủ của hai người đều rất vượng, nhật chủ hỉ gặp Quan Sát cùng đến chế ngự. Vd (6) hiển nhiên ngon hơn vd (5) nhiều. Thực tế thì lại không phải như vậy. Cách cục pháp giải quyết mối nghi hoặc này khá dễ. Vd (6) Ấn cục dụng Quan, mà Quan Sát lại hỗn tạp, cục không thành. Cho nên mới khó chuyên tâm theo đuồi công việc tính chất Ấn và bị thất nghiệp, chỉ đi làm thuê. Vd (5) Ấn cục dụng Quan, Quan tinh thanh mà không tạp, thành cục. Có điều Quan tinh bị ám thương, cục có tì vết. May mà có thể chuyên tâm theo nghề nghiệp thuộc Ấn.

Khí phân trong đục thì mới hiện rõ sự trật tự và tạp loạn; tình cảm phân trong đục thì mới thấy chuyên nhất và lăng nhăng; người phân trong đục thì mới có phú quí và bần tiện. Thiên địa nhân nào có phải thứ khác, luận mệnh sao không thể phân trong đục?

d. Sử dụng thập thần, nhầm coi nguyên liệu là thành phẩm.

Vượng suy pháp luận mệnh, đem cá thể Tài, Quan, Ấn làm tượng trưng cho giàu có, địa vị, quyền lực. Tài tức tiền tài, vật chất, Quan tức quan chức, địa vị, Ấn tức phúc khí, chỗ dựa. Kiểu lý luận như vậy thường dẫn đến kết luận và hiện thực không khớp. Mệnh có thân vượng Tài vượng mà không giàu, thân vượng Quan vượng mà không quí rất nhiều. Kỳ thực đơn lẻ thập thần như Tài Quan Ấn đều chỉ là một loại nguyên liệu cho phú quí mà thôi, không phải thành phẩm của phú quí. Những nguyên liệu phú quí này có thể trở nên phú quí thật sự hay không, cũng tức là sự giàu có, địa vị, vinh dự, thế thì phải xem chúng có thể thành tài được không.

Thế nào gọi là thành tài? Chính là có một cơ chế bảo hộ hoàn thiện, như gặp Tài thì xem Quan, thấu Quan xem Ấn, gặp Ấn xem Quan, chỉ khi tự thân phối hợp hoàn thiện mới tính là thành tài, nếu nhật chủ thực sự có thể được như vậy mới tính là phú quí.

Ví dụ 7: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Kỷ Mùi

Ví dụ 8: Càn tạo: Quí Hợi-Quí Hợi-Mậu Thìn-Mậu Ngọ

Hai bát tự này chỉ khác mỗi giờ sinh, quĩ tích của nhân sinh cũng khá giống. Hai người đều thân vượng Tài vượng, vd (8) Thìn Ngọ giáp Tị, Tỉ Kiên cũng vượng, Mậu Quí hợp, thế đoạt Tài rất lớn. Bát tự như vậy có phải rất giàu không? Tài ở đây không thể xem là tài phú sau khi “thành tài”, bởi vì nó đã không có Quan Sát chế Tỉ Kiếp, cũng không có Thực Thương tiết Tỉ Kiếp để hộ vệ, Tài này tự thân nó cũng khó bảo toàn thì còn có thể xem là tài phú cho mình được chăng? Kiểu Tài không nguồn không hộ vệ này lúc nào cũng bị Tỉ Kiếp uy hiếp là tượng thương thân lao lực. Do đó cả hai người đều là người bình thường, vd (8) còn bị thương tai phá tài liên miên, ngón tay đã bị tàn tật.

© Nguyên nhân làm vượng suy pháp tẩu hỏa nhập ma

Cách luận mệnh vượng suy cân bằng lấy nhật chủ làm trung tâm quả thực có thể nhanh chóng suy đoán chính xác không ít chuyện, như tính cách, sức khỏe, hôn nhân như đã nói ở trên. Những thứ này đều là việc cá nhân, bản thân của nhật chủ, lúc luận đoán nhất định phải lấy nhật chủ làm trung tâm, vừa vặn phù hợp lý luận suy đoán lấy nhật chủ làm trung tâm của vượng suy pháp, cho nên tỷ lệ chính xác rất cao. Suy đoán chuyện quá khứ của bản thân hoặc việc bên ngoài bản thân như: giàu có, địa vị, vinh dự, công việc, sự nghiệp, v.v… thế thì không phải lấy nhật chủ làm trung tâm nữa, mà là lấy chủ khí trong mệnh cục làm trung tâm điểm, hoặc thần nắm lệnh hoặc thập thần tích cực nhất trên hàng can làm trung tâm.

Vượng suy pháp lấy nhật chủ làm trung tâm, do có ưu thế suy đoán việc trong nội bản thân nên bị ngộ nhận là suy đoán tất cả sự vật trong đời người đều có thể lấy nhật chủ làm trung tâm, phạm sai lầm lấy cái thiên lệch làm cái toàn bộ, hoặc tự ngã ý thức bành trướng đến không có điểm dừng. Loại sai lầm như vậy thực ra không ít vị dẫn dắt vượng suy pháp đã biết từ trước, chỉ có điều bởi lý do tự thân lợi ích hoặc là không tìm ra được một phương pháp luận mệnh tốt hơn nên chìm đắm vào nó không ra được, cứ như vậy càng lúc càng sa lầy, li khai Tử Bình mệnh học càng lúc càng xa.

(D) Cục hạn tính của cách cục pháp Cách cục pháp chủ yếu luận tầm mức của nhân sinh và sự biến hóa của thành bại được mất, còn về tính cách, sức khỏe, hôn nhân, lục thân, v.v… thì lại không phải sở trường. Tuy nhiên lúc dùng cách cục đoán mệnh, có lúc cũng có thể đoán trúng hơn nửa tình trạng sức khỏe, hôn nhân, nếu đóan trúng nhiều thì cũng là xảo hợp, không phải tất nhiên, cũng giống như vượng suy pháp cũng có lúc đoán trúng tầm mức phú quí cùa nhật chủ vậy.

Tử Bình mệnh học là môn học vấn chuyên bàn thiên đạo, địa đạo, nhân đạo, lấy cách, cục, tượng để thể hiện. Cách cục pháp chủ yếu luận thiên đạo và địa đạo, cũng chính là luận cách và cục. Cách, để xem quí tiện; cục, để xem giàu nghèo. Thành cách thành cục, phá cách phá cục chủ về sự biến hóa của cát hung, thành bại, được mất, các phuơng diện nhân sinh sự vật hình tượng khác thì không thuộc cách cục cai quản, nếu cứ muốn nhất định phải dùng lý luận cách cục pháp, có một số việc cũng giải thích được, có điều như vậy rất dễ phạm sai lầm giống như vượng suy pháp, hiện thời có không ít vị học cách cục pháp đã dính vô sai lầm tự ngã ý thức bành trướng rồi!

Tại sao phải học hết sở trường các pháp, chẳng qua bởi vì mỗi phương pháp tự thân nó đều có tính cục hạn. Thay vì tốn bao tinh lực đi bù vá khuyết hãm của mình, chi bằng sau khi làm mạnh ưu thế tự thân mình xong, dùng ít thời gian đi học thêm chỗ hay của người khác. Kiểu lấy dài đắp ngắn này vừa đỡ mất công sức vừa nhanh, đó mới là đường lối học tập đúng của chúng ta.

(E) Một sai lầm của cách cục pháp

Cách cục, là cái sườn, kết cấu tổ chức của bát tự. Nếu nói vượng suy pháp và tượng pháp là “da” thì cách cục phải xem là “xương”.

Hiện nay cách cục pháp không dễ học, nguyên nhân chủ yếu là do chỗ sai quá nhiều, đem những cách, cục, tượng rất đơn giản làm cho phức tạp lên, thậm chí còn gom cách, cục, tượng vô làm một, cũng chính là kiểu tự ngã bành trướng cách cục pháp là tất cả. Điểm sai lớn nhất của cách cục pháp là cho rằng cách cục và nhật chủ vượng suy là vô quan, cho rằng cách cục khẳng định sự phú quí và thành tựu, cơ bản là không dùng nhật chủ vượng suy. Trên thực tế luận mệnh nhất định không phải như vậy, cái khác không nói, tạm nói Tài cách vậy, Tài là cát thần, điều kiện thành cách của nó là phải gặp Thực Thương và Quan tinh đến hộ vệ, kị gặp Tỉ kiếp và Ấn tinh, chỉ khi Tài tinh song thấu làm đục cục mới cần Tỉ Kiếp khử đi. Thế nhưng khi bạn xem “Tử Bình Chân Thuyên” và một số sách cách cục, luận đến thủ dụng Tài cách, hễ thân nhược Tài vượng thì phần lớn lấy Ấn Tỉ làm dụng thần, thế là có những cách quái đản như Tài cách phối Ấn, Tài cách dụng Tỉ, tự mâu thuẫn với Tài cách luận thành bại luận đã nói ở trước.

Chẳng phải đã nói cách cục pháp không bàn nhật chủ vượng suy hay sao? Chẳng phải đã nói điều kiện Tài cách thành công là gặp Thực Thương và Quan tinh hay sao? Bây giờ tài tinh lại song thấu, thế tại sao phải lấy Tỉ Kiếp và Ấn tinh mới thành cách? Kỳ thực mục đích lấy Ấn tinh và Tỉ Kiếp không phải để hộ vệ Tài tinh mà là để sinh phù nhật chủ, để nhật chủ có năng lực gánh nổi Tài. Tử Bình mệnh học chân chính, nguyên bản chính là sự hài hòa thống nhất của cách cục pháp và vượng suy pháp, lấy cách cục làm chủ, vượng suy làm phụ, lấy nhật chủ làm thể, cách cục làm dụng, chẳng những phải tìm cách cục dụng thần mà còn phải xem thể dụng thần. Đàm luận cách cục, mục đích tối cùng không xa rời mối quan hệ giữa cách cục và nhật chủ, hà tất phải phủ nhận nhật chủ vượng suy?

6. Mệnh lý chỉ khi dùng hai chân mà đi thì mới đi được xa

Môn học âm dương, cho dù là phong thủy hay là tứ trụ, chỉ cần là cái học chân chính thì nhất định phải dùng 2 chân để đi, 1 chân cũng có thể đi nhưng cô âm thì không sinh, độc dương thì không trưởng, đi không được xa, được lâu là vậy. Võ học cái thế đều phân nội công và ngoại công, nội luyện hơi thở, ngoại luyện gân cốt bì, mục đích là để bản thân đạt cảnh giới thủy tạt không vô, đao thương bất nhập. Mệnh học cũng vậy, phân hai hệ thống thể và dụng, cách cục pháp lấy thiên địa chủ khí làm chủ và tượng pháp (bao gồm vượng suy) lấy nhật chủ làm trung tâm, chỉ cần hai pháp trên dung hợp mới có thể định được tầm mức nhân sinh, lại có thể đoán được chuyện lẻ tẻ trong đời người, thiên địa nhân, cách cục tượng, có hết ở trong ấy.

(Vương Khánh)

P/s: Đáng lưu ý nhất là câu này:

Mấy năm trước có vị tiền bối bên Kỳ Môn cảm thán rằng: “Đại lục không có một ai biết đoán mệnh cả!”

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trăm năm mệnh lý què quặt

Bóc mẽ việc giả thần giả quỷ của hiện tượng bóng đè

Trong cuộc sống, rất nhiều người gặp hiện tượng bóng đè. Hầu hết đều nghĩ đó là do ma quỷ trêu đùa nhưng các nhà nghiên cứu đã chứng minh, đây là một loại
Bóc mẽ việc giả thần giả quỷ của hiện tượng bóng đè

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong cuộc sống hàng ngày, rất nhiều người gặp hiện tượng bóng đè. Trước đây, hầu hết mọi người đều nghĩ đó là do ma quỷ trêu đùa hoặc dọa dẫm nhưng cùng với sự phát triển của khoa học, các nhà nghiên cứu đã chứng minh, đây là một loại bệnh.


Boc me viec gia than gia quy cua hien tuong bong de hinh anh 2
 
Bóng đè là hiện tượng khi đang ngủ đột nhiên tỉnh giấc, ý thức đã tỉnh táo nhưng thân thể không nhúc nhích được, mí mắt không thể mở, cảm giác như bị quỷ đè trên người. Thực chất, đây là một loại bệnh rối loạn giấc ngủ, thường xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên.
  Nguyên nhân dẫn tới bóng đè là do tư thế ngủ không chính xác. Ví dụ, khi ngủ đặt vật nặng ở ngực, ngủ nằm sấp. Tư thế đó khiến hô hấp không thông thuận, máu huyết thiếu tuần hoàn nên dẫn tới bệnh lý.   Mặt khác, hoàn cảnh khi ngủ không tốt cũng là nguyên nhân trọng yếu dẫn tới bóng đè. Một người nếu hoàn toàn thích ứng với hoàn cảnh cuộc sống của mình thì sẽ không phát sinh bóng đè nhưng nếu hoàn cảnh sống có thay đổi thì bóng đè rất dễ xuất hiện.   Khi gặp hiện tượng này, không nên hoảng hốt, cũng không nên quan trọng hóa vấn đề, cho đó là hiện tượng tâm linh đáng sợ. Bóng đè không nguy hiểm, chỉ cần khoảng thời gian ngắn là sẽ hết, không ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe. Thông thường, chỉ cần bên ngoài có ngoại lực tác động vào người hoặc gọi to người đang bị bóng đè thì người bệnh sẽ tỉnh táo lại ngay, hoạt động bình thường chứ không cần trị liệu đặc biệt gì. 
Boc me viec gia than gia quy cua hien tuong bong de hinh anh 2
 
Nếu thường xuyên bị bóng đè thì cần chú ý xây dựng thói quen làm việc và nghỉ ngơi lành mạnh, tránh làm việc quá sức, mệt nhọc quá độ, bảo trì tốt tâm trạng, tìm cách phát tiết cảm xúc, không nên giữ trong lòng. Chú ý giấc ngủ, thường xuyên thay đổi tư thế ngủ hoặc lựa chọn đồ ngủ thích hợp, nơi ngủ thoải mái, nâng cao chất lượng giấc ngủ. Ngủ cùng người khác thì nên để người đó nằm bên phải vì bên trái là tim, nếu đè vào thì dễ bị bóng đè.    Tâm tình sáng sửa, rèn luyện thể thao, khí huyết lưu thông thì tự khắc không gặp bóng đè, ma quỷ cũng biến hết, không cần lo lắng.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Giải mã bí ẩn hiện tượng bóng đè 5 quái vật bị người Nhật đổ tội oan Bí ẩn hiện tượng Bóng đè
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bóc mẽ việc giả thần giả quỷ của hiện tượng bóng đè

Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu AB

Người tuổi Mão thuộc nhóm máu AB luôn khao khát có tình yêu đẹp và một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(Ảnh chỉ mang tính minh họa)

Khi đã yêu, họ luôn hy vọng tình yêu của hai người sẽ mãi tươi đẹp như thuở ban đầu. Họ toàn tâm toàn ý vun đắp cho tình yêu đó và sẵn sàng hy sinh tất cả vì người yêu của mình.

Họ thích cảm giác được đối phương chinh phục. Tuy nhiên, nếu tìm được một người khác giới thật sự tâm đầu ý hợp thì ngay lập tức, họ sẽ chủ động tấn công.

Để có được cuộc hôn nhân hạnh phúc, nữ giới nên tìm những người bạn đời tính tình lạc quan, thẳng thắn. Nam giới tuổi này nên kết duyên với những phụ nữ chín chắn, độ lượng. Sự hòa hợp trong tính cách có thể đem lại cho họ nhiều niềm vui và hạnh phúc.

Cuộc sống hôn nhân sẽ mang lại cho người tuổi Mão thuộc nhóm máu này nhiều sự thay đổi thú vị. Cả nam giới và nữ giới đều trở nên điềm đạm và thực tế hơn. Những người phụ nữ thường trở thành những người vợ lý tưởng, những bà mẹ tuyệt vời. Nam giới sẽ là chỗ dựa vững chắc cho mọi thành viên trong gia đình.

(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Mão nhóm máu AB

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CHỮ SONG HỶ

Phong tục tập quán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CHỮ SONG HỶ

                                 Nguồn gốc và ý nghĩa chữ Song hỷ

Trong lễ ăn hỏi, đám cưới của người Việt Nam, do ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Quốc nên chữ Song Hỷ có màu đỏ xuất hiện rất nhiều, từ thiệp cưới, phông cưới đến vỏ hộp bánh cốm, chè, hạt sen, quả cau, lá trầu…Có khi chữ Song Hỷ còn được dán ở nhà, ngoài ngõ để thông báo cho mọi người về đám cưới.

Chữ này gắn chặt với một giai thoại đẹp, đầy yếu tố may mắn, trời định về tình duyên, thi cử của bậc danh sỹ nổi tiếng đời nhà Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia” – Vương An Thạch. Giai thoại về ông liên quan đến chữ Song hỷ như sau:

Thuở nhỏ Vương An Thạch học rất giỏi, năm 20 tuổi chàng lên kinh đô cách quê 200 dăm để dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng trù phú. Nhà Mã viên ngoại trong vùng đang kén chồng cho con gái. Vị viên ngoại này là người có học nên muốn kén rể là người giỏi giang uyên bác chứ không muốn kén chồng giàu có mà ít học cho con gái. Khi Vương An Thạch qua đó cũng là lúc viên ngoại đó mở tiệc mừng thọ. Trong nhà treo đèn kết hoa rực rỡ, khách khứa ra vào đông như hội. Bên ngoài cổng có treo một lồng đèn lớn, kẻ qua người lại xúm nhau xem xét, bàn tán. Vương An Thạch thấy lạ, ghé vào nhìn thấy trên đèn kéo quân có dán một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Nghĩa là: Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).

Vương An Thạch nghĩ mãi không đối được, nhưng vẫn nói cứng “Câu này dễ đối thôi”, rồi bỏ đi. Người nhà của Mã viên ngoại nghe được, chưa kịp trình với Mã viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường đến kinh đô.

Tại trường thi, Vương An Thạch làm bài thi xong, đem nộp bài trước tiên. Quan chủ khảo lật xem, tấm tắc khen tài, vấn đáp ông trả lời trôi chảy đã có ý lấy ông đỗ đầu. Nhà vua cho vời ông vào triều để biết mặt và thử tài thêm . Thấy ở sân rồng có một lá cờ trên có thêu một con hổ, vua ra cho ông một vế đối: “Phi kỳ hổ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân (Nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).

Vương An Thạch chợt nhớ tới vế đối trên đèn kéo quân trước nhà Mã viên ngoại và thấy âm, ý rất hay lại cân xứng, hoàn chỉnh với vế đối của vua liền ứng khẩu đọc ngay:

“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ”

Vua và quan chủ khảo thấy Vương có tài ứng đối mau lẹ, vế đối rất chỉnh, có ý nghĩa xuất sắc nên đã chấm Vương An Thạch đậu thủ khoa kỳ thi đó.

Trong khi chờ đăng tên lên bảng vàng, Vương An Thạch trở về quê nhà. Khi đi qua Mã gia trang, người nhà của Mã viên ngoại nhân ra Vương là người nói rằng vế đối trên đèn kéo quân dễ đối, nên mời Vương vào nhà trình với Mã viên ngoại. Mã viên ngoại yêu cầu Vương An Thạch đọc vế đối, Vương liền lấy câu của vua đọc lên thành: “ Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ/ Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân”.

Mã viên ngoại vô cùng mừng rỡ, thấy vế đồi rất chỉnh, rất khéo lại ẩn ý khoa tương lai nên nói với Vương An Thạch rằng: “Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối thế, nếu gặp ai đối được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái ra cho hai bên được giáp mặt”.

Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang.

                                        Nguồn gốc và ý nghĩa chữ Song hỷ

Xem bói tình duyên để biết vợ chồng có hợp nhau hay không?

Vương An Thạch cưới được vợ tài giỏi và giàu có, ở luôn lại Mã gia trang. Ngay liền trong ngày đó, triều đình đăng bảng, Vương An Thạch đậu Trạng nguyên, được triều đình gọi lên kinh đô để nhậm chức.

Thế là chàng họ Vương nhờ may mắn mà một lượt gặp hai điều vui mừng: Thi đậu trạng nguyên và cưới được vợ giàu có.

Vương An Thạch bèn hứng chí ngâm nga:

“Vận may đối đáp thành song hỷ

Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng”

Sau đó lấ giấy viết hai chữ “Hỷ” rất to trình lên nhạc gia và gửi về cho gia đình một bản. Thông báo lại hai việc vô cùng may mắn, tốt lành là đại đăng khoa (thi đõ) và tiểu đăng khoa (lấy vợ).

Vời việc viết hai chữ “Hỷ” liền nhau đọc là “song hỷ” vị trạng nguyên này đã sáng tạo ra một chữ mới, chữ “Song Hỷ”

                        Nguồn gốc và ý nghĩa chữ Song hỷ

Như vậy, nguồn gốc của chữ Song hỷ do điển tích vừa thi đỗ Trạng nguyên vừa cưới được vợ giỏi. Có người còn nói rằng, Song Hỷ là việc vui mừng song song, nhà trai cưới được vợ cho con trai, nhà gái gả được chồng cho con gái.

Trích Phong tục dân gian – Lý Kiến Thành

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CHỮ SONG HỶ

Mơ thấy người quen: Tìm được món tiền tưởng đã mất, hoặc tăng cường các hoạt động xã hội –

Gặp người quen trong mơ, dự báo sẽ tăng cường các hoạt động xã hội. Nếu mơ thấy hình ảnh một người quen, nghĩa là bạn sẽ tìm thấy được số tiền tưởng chừng đã mất. Nếu trong mơ gặp được một người bạn, dự báo sẽ gia tăng các hoạt động xã hội. Nếu mơ th
Mơ thấy người quen: Tìm được món tiền tưởng đã mất, hoặc tăng cường các hoạt động xã hội –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy người quen: Tìm được món tiền tưởng đã mất, hoặc tăng cường các hoạt động xã hội –

Làm sạch đá thạch anh trước khi mang vào nhà

Khi bạn mang các loại đá kích hoạt năng lượng Thổ vào nhà, gồm có đá quý và thạch anh với đủ loại hình dạng, bạn nên nhớ rằng chúng lưu trữ năng lượng rất mạnh, cả dương và âm.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vì vậy bạn nên làm sạch năng lượng âm còn bám vào chứng trước khi mang vào nhà. Có rất nhiều cách làm sạch loại đá quý này. Một trong những cách đó là để đá ngoài trời để hấp thụ mưa nắng, tăng cường sức mạnh của khí trời.

Ngoài ra bạn có thể áp dụng nghi thức tẩy sạch 7 ngày đơn giản như sau: Ngâm đá quý và thạch anh trong dung dịch muối biển và muối mỏ trong 7 ngày đêm. Muối rất có hiệu quả trong việc hóa giải tất cả dấu vết của năng tượng âm của quá khứ, xóa sạch tất cả những rung động trước đó còn bám vào đá.


Hỗn hợp muối bọt và muối hột có thể được sử dụng để làm sạch đá thạch anh phong thủy.

Một số người có kinh nghiệm về phong thủy còn mang hầu hết đá thạch anh ra bãi biển hoặc lên núi cao, bởi vì môi trường thiên nhiên rất trong sáng và tiềm ẩn năng lượng mãnh liệt. Khi bạn mang những viên đá này về nhà, chúng đã lưu trữ tất cả năng lượng mãnh liệt của thiên nhiên bên trong. Khi bạn chiếu ánh sáng vào thạch anh, loại năng lượng diệu kỳ này sẽ phát xạ vào nhà bạn. Nếu bạn muốn, bạn có thể thêm những biểu tượng huyền bí hoặc mật chú để giúp chúng có hiệu quả hơn trong việc hóa giải những năng lượng âm có hại trong gia đình và mang đến sự hòa hợp, vận may trong mối quan hệ của những thành viên trong nhà.

Đá thạch anh là một trong những đồ vật phong thủy thể hiện quyền năng của những biểu tượng thần mang lợi ích đến vùng không gian sống. Những viên đá quý có mang năng lượng trở thành nguồn khí chủ về các mối quan hệ, và mang lại những rung động tốt cho nhà cửa thúc đẩy các mối quan hệ của bạn, của các thành viên trong nhà bạn ngày càng trở nên hài hòa và tốt đẹp hơn.

(Theo 162 cách sắp xếp nhà ở theo phong thủy)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Làm sạch đá thạch anh trước khi mang vào nhà

Xem tướng giàu nghèo –

Thông thường bàn về việc giải đoán xem tướng số, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngô tuấn tú,tiếng nói vang dội,Tam đình bình ổn Ngũ quan cân xứng hoặc Ngũ nhạc triều cũng là vội vã cho ngay đó là loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt. Thực ra

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

, tuy các điều kể trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu gì kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc ( trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu ) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi tự mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với phần hình tướng).

nhan-tuong-hoc-ve-mui1

Ngược lại, xem tướng số ngũ quan, Ngũ nhạc không nẩy nở, mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thông thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn lộn nội dung của các loại tướng ( vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục ) kể trên phải đồng thời kiêm bị.

Ta hãy lấy ví dụ về tướng ngũ lộ. xem tướng số ngũ lộ là :

– Mắt lồi ( vốn là tướng chết yểu )

– Tai phản ( Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn )

– Lỗ mũi hếch lên ( tướng của người chết thảm )

– Môi cong lên ( Tướng của người chết thảm )

– Lộ hầu ( cùng ý nghĩa như môi cong )

Thoáng nhìn qua, tướng người như vậy, kẻ học tướng thông thường vội vã cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng người yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt. Thế mà, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng “ Ngũ lộ câu toàn “ tuy thường là tướng phát đạt đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt, vì chữ câu toàn *chỉ mới là hình thức chứ không không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ lộ mà :

– Mắt lộ nhưng không có thần quang

– Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ

– Mũi lộ mà chuẩn đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng

– Môi hếch mà răng sún hoặc khểnh

– Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ

thì đó lại là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn, chết non, vì chỉ đắc cách có phần hình thức mà không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt .

Xem tướng số có câu : Nhất lộ, nhi lô thì quẩn bách, bần yểu, ngũ lộ thì phát đạt. Câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không, còn tuỳ thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu tòan nhất nhị lộ nhiều khi là tướng của kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang và thu tàng thì nếu các bộ vị khác không khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ hội khá giả, mũi lộ ** mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi dầy và lỗ mũi không hếch lên ( tham khảo đoạn nói về các loại mũi điển hình ) thì tuy thiếu niên có bị khốn khổ nhưng nói về những vãn niên ắt phát đạt. Môi, tai, lông mày, yết hầu …cũng đều có thể suy diễn tương tự như trên để định xem “ lộ “ là tốt hay xấu chớ không thể vội vã võ đoán.

Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt ( nếu hội đủ cả hình lẫn chất ) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú …cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau .

Tóm lại, các tướng đặc biệt vừa kể, tướng pháp gọi đó là biến cách hay phi thường cách để phân biệt với loại tướng người bình thường, đều có thể phát đạt hay không tuỳ theo sự hội đủ được cả hình lẫn chất không. Hình thì như đã miêu tả trong quyển I, còn chất thì đó là những điểm độc đáo về nội dung đã nói ở chương nguyên lý về thanh trọc. Những loại tướng phát đạt đặc biệt chính là căn cứ vào nguyên tắc “ Trọc trung hữu thanh “, Thanh và trọc tương đối dễ phân biệt, nhưng “ thanh trung hữu trọc và trọc trung hữu thanh “ thì lại rất khó tìm ra. Trong chương nói về thanh trọc, soạn giả đã cố gắng tổng hợp các điều liên quan đến thanh trọc tản mát trong các sách vở về tướng, nhưng thực tế không phải chỉ có bấy nhiêu. Muốn thấu hiểu phải tường tận, phải chuyên tâm nghiên cứu và có năng khiếu đặc biệt bén nhạy. Bởi lẽ trên, chúng ta sẽ không thấy gì đáng ngạc nhiên khi trong các sách nói về tướng học, người ta thường nói “ Tâm lĩnh thần hội” nghĩa là những gì uyên thâm cao xa, thì có thể hiểu thấu đáo bằng lối tâm truyền chứ không thể bằng lối ngôn truyền được. Điển hình cho lề lối này là phần hình nhi thượng của nho giáo do Khổng Tử hấp thụ được chỉ còn lưu lại qua con người của Tử Tư rồi Tử Tư chỉ truyền được đến đời Mạnh Tử là mất chân truyền.

Tuy vậy, mặc lòng sự cố gắng liên tục vẫn là điều tối thiết yếu cho bất cứ ai muốn đạt đến một mức độ thành quả nào đó, còn năng khiếu đặc biệt về một ngành học càng huyền ảo, thì lại càng khó phát hiện nếu chưa nỗ lực tới mức tối đa. Vì vậy độc giả không nên thấy khó mà đã vội ngã lòng khi nghiên cứu và ứng dụng nguyên lý thanh trọc trong tướng học “ đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ” kia mà.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng giàu nghèo –

Đặc tính Thủy trong phong thủy –

Thủy là "Nhuận hạ", Nhuận là ẩm ướt; đi xuống đặc tính nhuận, hướng hạ, chìm lặn. Thủy chủ là Trí. Trong tứ trụ, Thủy vượng là người mặt đen có thần, đầu óc linh hoạt, ứng biến mạnh mẽ, ngôn ngữ trôi chảy. Chính vì vậy mà người Thủy vượng túc trí đa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thủy là “Nhuận hạ”, Nhuận là ẩm ướt; đi xuống đặc tính nhuận, hướng hạ, chìm lặn. Thủy chủ là Trí.

Trong tứ trụ, Thủy vượng là người mặt đen có thần, đầu óc linh hoạt, ứng biến mạnh mẽ, ngôn ngữ trôi chảy. Chính vì vậy mà người Thủy vượng túc trí đa mưu, tài tri hơn người: Xét theo Tứ trụ người có hành thủy thái quá (quá nhiều) là người tham lam vô độ, quỷ kế đa đoan, lời nói châm chọc, dễ chuốc thị phi; còn người có hành Thủy bất cập (quá ít) dáng người thấp nhỏ, sắc mặt đen xám, phản phúc bất thường, nhút nhát vô mưu, bụng dạ hẹp hòi.

qua-cau-phong-thuy-mau-xanh

Thủy chủ là Trí, tính thông minh, tình thiện, mặn, màu đen. Người Thủy vượng, mặt đen cớ sắc, ngôn ngữ rò ràng, biết suy nghĩ sâu xa, túc trí đa mưu, học thức hơn người. Người hành Thủy quá nhiều lại thích nói thị phi, phiêu diêu tham lam; Người hành thủy thiếu là ngựời thấp lùn, tính tình bất thường, nhút nhát, chủ kiến không rõ ràng, hành sự phản phúc.

Đặc tính của Ngũ hành trong dự đoán tứ trụ có vai trò vô cùng to lớn. Nhưng giới thiệu trên đây có liên quan đến sự suy đoán về tính cách con người, độc tính Ngũ hành đối với phán đoán bệnh tật của mệnh chủ cũng có những vai trò không thể coi nhẹ, điều này sẽ được trình bày trong phần chuyên để sau này. Vận dụng đặc tính Ngũ hành để phán đoán tính cách con người, ở đây chỉ đưa ra một bộ phận làm ví dụ để người đọc tham khảo. Người đọc có thể căn cứ vào mỗi đặc tính Ngũ hành để tiện liên tưởng từ một mà biết được ba, như vậy thì mới có thể mở rộng tư duy, khai thông trí tuệ. Người đọc nhất thiết không nên căn cứ vào đây mà ghi chép tròn bộ một cách máy móc.

Bắt đầu học thì cần từng bước căn cứ vào lý luận cơ sở mà tiến hành, tích cực tăng cường thực hành. Dần dần, sẽ tự nhiên thành công, lúc đó bạn sẽ tự nhiên hiểu được những lý thuyết mà chúng ta nói ra trên đây, ngoài ra còn tự suy đoán rộng hơn, mới hơn, chuẩn hơn so với trong sách vở. Xin nhớ rằng, từ bây giờ bạn phải động não nhiều hơn, ngoài những lý luận Ngũ hành Âm dương cơ bản ra không được dồn sức lực vào việc đoán biết những từ ngữ cứng nhắc hoặc những lý luận suy đoán vô căn cứ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính Thủy trong phong thủy –

Mua nhà nên lưu ý đến cổng hoa

Khi mua nhà cũng cần xem xét đến cổng. Khí nạp vào ở cổng cửa chia làm hai loại cát hung chủ quản vấn đề hoạ phúc của cả một gia trạch.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Cổng cửa quan trọng bởi lẽ nó quyết định đầu vào của khí, giống như sự hít thở hô hấp rất quan trọng của con người thông qua mũi miệng.


Phương pháp xem xét phải lấy phi tinh Huyền Không làm cơ bản cốt yếu, lấy khí sinh vượng của đương vận.

Ví dụ như vận 8 sao Bát Bạch vượng tinh, lấy khí của sao Bát Bạch hoặc Cửu Tử, Nhất Bạch thì khí được sinh vượng. Tránh khí suy tử, khí Ngũ Hoàng, Bệnh Phù Nhị Hắc tối độc.

Kết hợp phi tinh Huyền Không với Bát Trạch làm yếu tố bổ trợ. Cổng cửa ở  phương vị cát lành, tránh phương xấu như Tuyệt Mệnh, Ngũ Quỷ, Lục Sát, Hoạ Hại.

Nếu kết hợp một yếu tố xấu với một yếu tố tốt thì có thể bổ trợ tránh được phần nào hung hoạ. “Bảo chiếu kinh” nói :

“Thiên cơ diệu quyết bổn bất đồng, bát quái chích hữu nhất quái thông, kiền khôn cấn tốn triền hà vị, ất tân đinh quý lạc hà cung, giáp canh nhâm bính lai hà địa, tinh thần lưu chuyển yếu tương phùng, mạc bả thiên cương xưng diệu quyết, thác tương bát quái tác tiên tông”.

Cổng cửa ví như xương sống, đường đi ví như gân cốt, nếu xương tốt nhưng gân cốt không tốt thì không thể đem lại sự tốt lành cho ngôi nhà.


Đường đi dẫn khí phải tính toán sao cho việc dẫn khí đảm bảo tối đa hiệu quả, tránh những xung sát như cách xuyên tâm sát, liêm đao sát, thiên trảm sát.

Xét cổng cửa, đường đi theo cửu cung bát quái, lấy phương suy vượng, tránh phương suy tử, lấy việc bài trí Phong Thuỷ xem như việc dưỡng sinh cho một cơ thể khoẻ mạnh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mua nhà nên lưu ý đến cổng hoa

Cách bố trí cửa sổ phòng bếp –

Trong phòng bếp cũng cần có cửa sổ. Chúng sẽ giúp cho phòng bếp thêm thoáng đãng, sáng sủa nhờ có gió, ánh sáng trời và tạo cho ngườỉ nội trợ cảm giác thoải mái hơn. Khi thiết kế bếp, việc chọn hướng cửa sổ bếp quan trọng không kém với sắp đặt vị trí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phòng bếp cũng cần có cửa sổ. Chúng sẽ giúp cho phòng bếp thêm thoáng đãng, sáng sủa nhờ có gió, ánh sáng trời và tạo cho ngườỉ nội trợ cảm giác thoải mái hơn.

Khi thiết kế bếp, việc chọn hướng cửa sổ bếp quan trọng không kém với sắp đặt vị trí bếp nấu, máy hút khói… Nó ảnh hưởng lớn đến tuổi tác cung mệnh của chủ nhà.

Xét về góc độ khoa học, nó tạo ra những luồng khí trong lành cho bếp, giúp nơi này luôn thoáng đãng, dễ chịu.

av

Nếu trổ cửa chính là cửa sổ lấy ánh sáng ngoài trời nên chọn một hướng tốt với tuổi của gia chủ. Đồng thời, cần đảm bảo hướng cửa này ra không bị chướng ngại vật chắn ngang tầm nhìn như: nhà cửa, rác, thân cây to hay cống rãnh.

Hướng Tây Bắc nhiều gió chướng, không tốt cho sức khỏe.

Cửa hướng này nên xoay về hướng Đông để lấy ánh sáng trong lành buổi ban mai, tiếp thêm sức sống cho không gian bếp và làm dịu sức nóng khi nấu nướng. Bên cạnh đó, bạn cũng cần tránh hướng gió thổi mạnh lùa vào nhà qua cửa này.

Đây vừa là cửa sổ vừa là cửa ra vào thông ra không gian bên ngoài nên lượng gió lùa vào nhà sẽ rất mạnh. Hạn chế hướng Tây Bắc vì hướng này nhiều gió chướng, không tốt cho sức khỏe.

Của sổ cần cao từ bồn rửa bát trở lên.

Hình khối chữ nhật của khung cửa tạo ra cảm giác vuông vức, vững chãi rất tốt cho phong thủy. Phong thủy sẽ càng tốt hơn nếu kiểu cửa hình khối kết hợp thêm khung cửa bằng gỗ, thuộc cung mộc rất tốt.

Kích thước của cửa không quan trọng nhưng bạn cần chú ý đến vị trí đặt cửa. Thông thường, cửa phải cao từ bàn ăn trở lên hoặc ngang bồn rửa bát.

Nếu khung cửa bếp rộng, phải có khung chịu lực. Xét về mặt thẩm mỹ có thể không đẹp lắm nhưng chúng đem lại cảm giác chắc chắn và an toàn cho bếp.

Đối với kiểu cửa sổ này, bạn cần phối hợp với cửa chính vào bếp để tạo thành một trục liên thông cho luồng khí dương từ bên ngoài vào hay sức nóng từ bên trong tỏa ra được dễ dàng.

Với nhiều mẫu nhà hiện đại, các thiết kế bếp thường lấy ánh sáng tối đa bằng một hệ thống các cửa sổ rộng. Căn bếp rất khoáng đạt, phòng ăn cũng được tận hưởng ánh sáng này.

Khi trổ cửa sổ nhớ tránh hướng Tây vì nắng chiều sẽ làm cho không gian rất khó chịu. Thông thường, người ta chọn chất liệu kính để làm cửa sổ. Chất liệu kính tạo ra một hướng phong thủy tốt cho kiểu cửa này.

Để kết họp phong thủy, bạn nên dùng khung bằng nhôm hay sắt đã được sơn màu sáng. Chúng tạo ra cảm giác vừa nhẹ nhàng vừa sạch sẽ.

Khi thiết kế, cần chú ý ô cửa sổ sao cho thích hợp theo quy tắc sinh – lão – bệnh – tử, từ dưới lên. Để số ô cửa rơi vào cung tốt, bạn có thể thay đổi kích thước ô cửa to, nhỏ sao cho thích hợp và thẩm mỹ nhất.

Đa phần các thiết kế chọn ô dàn ngang nhưng trong những căn bếp nhỏ, bạn nên chọn dạng ô sắp theo chiều đứng. Cách này sẽ lấy được nhiều ánh sáng hơn, căn bếp trông cao và thoáng hơn.

Với kiểu ô đứng, không nên làm cửa lùa mà chọn cửa lá chóp để gió, mưa không lùa trực tiếp vào bếp. Chính điều này tạo cho căn bếp một luồng sinh khí phóng khoáng, dễ chịu khi bước vào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí cửa sổ phòng bếp –

Tụng Kinh Vu Lan, đền ơn đáp nghĩa đấng sinh thành

Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, tụng kinh Vu Lan để đền đáp....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, đối với những người đang trầm luân trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể tình cảm và bổn phận ấy bằng những việc làm cụ thể, nhân dịp  thưa hỏi của Ngài Mục kiền Liên.

tung-kinh-Vu-Lan

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương)

Cúng Hương

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)

Kỳ Nguyện

Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)

Tán Thán Phật

Ðấng Pháp Vương Vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.

(Xá 3 xá rồi xướng lạy)

Ðảnh Lễ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)
(Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):

Tán Lư Hương

Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)

Chú Ðại Bi

Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Khai Kinh Kệ

Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

Tâm Kinh

Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)

Bài Tán Thán Phật A Di Ðà

Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)

Sám Vu Lan

Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)

Sám Mục Liên

Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.

Hồi Hướng

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng

Chú thích:

 (1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng Kinh Vu Lan, đền ơn đáp nghĩa đấng sinh thành

Quý Tỵ mệnh gì –

Người sinh 1953, Quý Tỵ, có Ngũ hành năm sinh là trường Lưu Thuỷ, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 2, sao Nhị Hắc, Tây tứ mệnh (Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu Đỏ, Hồng, Tím để đ
Quý Tỵ mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quý Tỵ mệnh gì –

Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Ăn mặc những trang phục khác nhau nhằm thích nghi vởi môi trường khác nhau. Y phục trong mơ mang ý nghĩa thuận hòa. Mơ thấy trang phục sạch sẽ nghĩa là gia đình thuận hòa. Ngược lại, mơ thấy quần áo dơ bẩn, là điềm báo của bệnh tật. Nữ giới mơ thấy q
Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy quần áo: Gia đình thuận hòa yên ấm –

Người tuổi Hợi: Thiên hạ đệ nhất đa sầu đa cảm

Trong 12 con giáp thì người tuổi Hợi có tính cách khó đoán nhất, lúc thì mạnh mẽ, khi lại mềm yếu, người tuổi Hợi là thiên hạ đệ nhất đa sầu đa cảm.
Người tuổi Hợi: Thiên hạ đệ nhất đa sầu đa cảm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► Xem tử vi hàng tuần và tử vi ngày mai của bạn được cập nhật liên tục và chính xác nhất
  Người tuổi Hợi không dễ yêu người khác, nhưng một khi đã yêu thì rất khó từ bỏ. Khi họ đã yêu, thì luôn yêu rất đậm sâu, chỉ có một vài người bạn tri kỷ.
Nguoi tuoi Hoi Thien ha de nhat da sau da cam hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Người tuổi Hợi được trời ban cho sự nhạy cảm, giống như có giác quan thứ 6, có khả năng nhìn thấu nội tâm người khác.   Người tuổi Hợi tính cách rất kỳ quặc, có lúc nói rất nhiều, có lúc cả ngày không nói, lúc vui thì liều mình nói, không vui thì một lời cũng không nói.   Người tuổi Hợi không thích mang thù, nhưng ai tốt, ai xấu với họ thì họ nhớ rất kỹ.   Người tuổi Hợi chôn giấu con người thực của mình trong tiếng cười lúc nửa đêm.   Người tuổi Hợi chú trọng nhất chính là cảm giác an toàn. Hy vọng được bảo vệ, nhưng lại thường chỉ có một mình.
Người tuổi Hợi "khổ" lắm ai ơi, có sung sướng vui vẻ gì cho cam - nhưng cũng may...
  Người tuổi Hợi là một đứa trẻ thích làm nũng.   Người tuổi Hợi thích biển, thích than thân trách phận, thích tự xoa lên vết thương của mình.   Người tuổi Hợi trong tâm muốn gì không bao giờ nói ra, người khác cũng đoán không được.   Người tuổi Hợi khi không thèm để ý, là lúc đã tổn thương, ngọn lửa trong tim từ lâu đã dập tắt.   Người tuổi Hợi luôn rất thích hồi tưởng, hồi tưởng lại quá khứ, từng chút từng chút, nghĩ về những chuyện lớn nhỏ đã qua.   Người tuổi Hợi không biết dỗ ngon dỗ ngọt, khinh thường nịnh bợ a dua.   Người tuổi Hợi bài xích dối trá là bản năng.   Người tuổi Hợi sẽ không nổi giận thực sự, cho dù tức giận, cũng quên rất nhanh.
Nguoi tuoi Hoi Thien ha de nhat da sau da cam hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Người tuổi Hợi chỉ thể hiện ra tính sáng tạo của mình với những người thật sự hiểu họ.   Người tuổi Hợi nhìn bề ngoài có thể trông rất hung dữ, nhưng nội tâm luôn mềm mại nhu hòa.   Người tuổi Hợi nhìn có vẻ rất lạnh nhạt, nhưng đó chỉ là cách họ bảo vệ mình.   Người tuổi Hợi rất coi trọng tình bạn, nhưng một khi đã bị tổn thương thì tuyệt đối sẽ không thể thân mật lại nữa.   Người tuổi Hợi rất dễ bị cảm động, nhưng luôn lý trí.   Người tuổi Hợi thường tươi cười, bất luận vui vẻ hay đau khổ, thì đều tươi cười; tươi cười là vũ khí lợi hại nhất mà họ ngụy trang cho mình.   Người tuổi Hợi ngốc nghếch, đối với người mình yêu sâu đậm không biết cách biểu lộ tình cảm, sự quan tâm; mà chỉ biết lặng thầm chúc phúc ở trong tâm.   Người tuổi Hợi hay khóc, người khác không dễ gì nhìn thấy nước mắt của họ, họ giấu riêng cho bản thân mình. Ai biết được đằng sau dáng vẻ tươi cười ẩn dấu là nỗi đau hằn sâu, càng tươi cười vui vẻ thì nỗi đau càng đậm sâu.   Người tuổi Hợi sống “dối trá”, rõ ràng đau lòng đến mức không thể hít thở, nhưng trước mặt người mình yêu nhất vẫn giả bộ kiên cường; không dễ dàng để người khác đi vào thế giới nội tâm của mình.   Người tuổi Hợi không dễ dàng nói lời yêu hoặc thích, trừ phi họ thực sự thích đến cực điểm, còn nếu không muốn họ thổ lộ là chuyện không thể; nhưng một khi quyết tâm thổ lộ thì họ sẽ vận dụng hết trí não để thể hiện tình cảm cho dù họ biết có khi kết quả thu được chỉ là một sự tổn thương sâu đậm.   Người tuổi Hợi khi bị thương sẽ chỉ đứng tại góc đường một mình chịu đựng.   Đối với người tuổi Hợi:   – Yêu thương và chăm sóc gia đình là số 1.   – Hiếu thuận với gia đình là số 1.   – Đa sầu, đa cảm cũng đứng số 1 luôn!

ST.

Tử vi tháng 12 âm lịch của người tuổi Hợi Xem tình duyên năm 2017 của người tuổi Hợi Tử vi sức khỏe năm 2017 của người tuổi Hợi

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Hợi: Thiên hạ đệ nhất đa sầu đa cảm

Mẹo hay giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi

Sử dụng một cánh cửa khác thường xuyên hơn cửa chính, treo gương bát quái là những cách giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi hiệu quả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quan niệm phong thủy về hướng nhà, cửa chính của ngôi nhà hợp với tuổi của chủ nhân ngôi nhà sẽ mang đến nguồn năng lượng tốt nhất. Tuy nhiên, khi xây cất nhà cửa, đôi khi bất đắc dĩ mà hướng cửa này không thuận với tuổi của gia chủ.

Chuyên gia phong thủy Phạm Cương nhận định: "Đối với những căn nhà không hợp tuổi phong thủy với gia chủ có thể chỉnh sửa được 70 – 80%". Để khắc phục, mời bạn tham khảo một số cách đơn giản dưới đây, theo gợi ý của nhóm nhà nghiên cứu phong thủy Trần Đức Thịnh, Nguyễn Văn Trình:

Sử dụng một cửa khác thường xuyên hơn

Một cách đơn giản và điển hình để đối phó với hướng phong thủy xấu hoặc không thuận là làm suy yếu yếu tố phong thủy của nó. Nếu cửa chính là bạn có hướng phong thủy không may mắn, các kiến trúc sư thường đưa ra lời khuyên xây thêm một cửa phụ ở hướng khác.

Lúc này cửa chính chỉ mang tính chất tượng trưng, việc sử dụng cửa phụ thường xuyên hơn sẽ có tác dụng phong thủy ngăn nguồn năng lượng tiêu cực không có cơ hội lọt sâu vào nhà bạn. Giải pháp này không quá phức tạp và dễ thực hiện.

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi
 
Sử dụng vật phẩm phong thủy Vật phẩm phong thủy được xem là giải pháp để tạo ra nguồn năng lượng tích cực nhằm xua đi nguồn năng lượng tiêu cực xung quanh cửa ra vào của ngôi nhà. Bạn có thể dùng tranh, ảnh in hình Phật để treo trước cửa hoặc đặt các bức tượng, điêu khắc chất liệu thạch anh phù hợp trên kệ để đồ ngay lối ra vào.

Giải pháp phong thủy này hạn chế phần nào ảnh hưởng tiêu cực của hướng nhà xấu. Tuy nhiên, bạn vẫn phải tinh tế để khi đặt một vật phẩm phong thủy bất kỳ để không phá vỡ sự cân bằng giữa 5 yếu tố phong thủy cơ bản.

Làm thêm một cửa phụ bên trong ngôi nhà Nếu diện tích nhà bạn đủ lớn, bạn cũng có thể nghĩ đến phương án hóa giải bằng cách làm thêm một cửa phụ phía trong ngôi nhà. Điều này dễ dàng hơn việc thay đổi thiết kế của cửa chính. Bạn chỉ cần nghiên cứu kỹ hướng tốt và đặt thêm một cửa phụ ở đó.

Dùng gương bát quái

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi-Hinh-2
 
Ngoài tác dụng trừ tà ma, gương bát quái cũng phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh hướng cửa sai. Gương bát quái gồm 8 cạnh khắc các chữ: Càn, chấn, cấn, khảm, tốn, ly, khôn, đoài. Tùy theo mệnh của gia chủ mà treo chữ nào ở vị trí trên cùng. Tốt nhất bạn nên mời một thầy phong thủy đến khai quang giúp rồi mới treo thì mới linh nghiệm.

Thảm Thảm chùi chân đặt ngay dưới cửa ra vào, nơi mọi người phải bước qua mới vào được nhà nên có ảnh hưởng phong thủy không nhỏ trong việc hóa giải tà khí ở cửa chính. Để phát huy tác dụng của thảm chùi chân, cần đặt thảm phía trong nhà của cửa chính.

Màu sắc và hình dáng thảm sẽ giúp ích cho gia chủ trong việc biến đổi nguyên lý tương sinh tương khắc của ngũ hành, giúp hóa giải nguồn năng lượng xấu để phù hợp với quy luật phong thủy.

Meo hay giup hoa giai huong nha khong hop tuoi-Hinh-3
 
Ví dụ với cửa chính mở hướng Tây và Tây Bắc sẽ khắc với người mệnh Mộc, Hỏa, Thủy vì bắt gặp tà khí của Kim. Để khắc phục, người thuộc mệnh Thủy, Mộc cần trải thảm màu đen, xám, xanh hoặc lam để hóa giải, còn người mệnh Hỏa cần trải thảm màu đỏ, cam, hồng, tím.

Theo Em Đẹp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo hay giúp hóa giải hướng nhà không hợp tuổi

Top 3 con giáp hưởng phúc lớn sau tuổi 35

Sau đây sẽ là những con giáp từ sau tuổi 35 vận mệnh đã hưng vượng, cùng xem có mình trong đây không nhé.
Top 3 con giáp hưởng phúc lớn sau tuổi 35

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xưa đến nay chúng ta vẫn thấy đại đa số những người thành đạt thường là những người ở độ tuổi trung niên hoặc tuổi ngoài ngũ tuần. Bởi do phần lớn họ đều dành tuổi trẻ của mình để làm tốt công tác chuẩn bị, đến thời điểm chín muồi sẽ được cả tài lẫn danh. Nhưng cũng có những người mới đến độ tuổi trung niên là đã có thể hiên ngang ngẩng cao đầu, tài vận cực kỳ tốt đẹp. 

Hạng ba: Tuổi Hợi

Những người cầm tinh con lợn rất cần cù, trung thực, tính cách ôn hòa, biết cách đối nhân xử thế. Họ không chỉ là người thân thiện mà còn đầy uy nghiêm, năng lực tràn đầy, có tố chất của người lãnh đạo. Khi còn trẻ họ thường tỏ ra khác biệt so với những người khác, khi đã tích lũy được kinh nghiệm ngoài xã hội thì khoảng năm 35 tuổi họ có thể tự lập cơ nghiệp cho mình. Tài vận sau tuổi 35 cực kỳ suôn sẻ, tình cảm hạnh phúc viên mãn, người bạn đời của họ cũng chính là quý nhân mang đến vận phúc may mắn cho họ.

Hạng nhì: Tuổi Dần

Những người cầm tinh con hổ bẩm sinh đã thông minh, có chí tiến thủ, không chịu phục tùng, luôn muốn tạo dựng sự nghiệp của riêng mình. Họ là những người biết nhìn xa trông rộng, sớm đã bộc lộ tài năng và khí chất hơn người, vận mệnh thịnh vượng cả một đời, số hưởng thụ “cuộc sống của các vị hoàng đế”, sự nghiệp lên như diều gặp gió. Khoảng 35 tuổi ít nhiều họ đã có sự nghiệp của riêng mình, được thăng quan tiến chức, thu nhập tăng gấp bội và cũng gặp được ý trung nhân, hôn nhân viên mãn, hạnh phúc vẹn toàn.

Hạng nhất: Tuổi Thìn

Những người cầm tinh con Rồng sinh ra là để làm lãnh đạo, họ có khí chất hơn người, luôn khiến người khác phải nể phục. Tính cách của họ khá cương trực, thành thật và luôn thích giúp đỡ người khác. Lúc còn nhỏ tuổi họ luôn tỏ ra là người có năng lực xuất chúng, lớn hơn thì có ý chí phấn đấu. Sau năm 35 tuổi thì có được quyền cao chức trọng, tiền bạc cứ ào ạt chảy vào túi. Đồng thời hôn nhân cũng thuận buồm xuôi gió, gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận, hưởng phú quý vinh hoa cả một đời.

Theo Mai Nguyễn (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp hưởng phúc lớn sau tuổi 35

Ý nghĩa sao Phi Liêm - Là một sát tinh tính chất mau lẹ

Sao Phi Liêm nếu gặp nhiều sao tốt thì mang lại sự may mắn một cách nhanh chóng. Nếu gặp các sao xấu thì bất lợi cũng nhanh chóng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ý nghĩa sao Phi Liêm - Là một sát tinh tính chất mau lẹ

Ý nghĩa sao Phi Liêm - Là một sát tinh tính chất mau lẹ

Hành: Hỏa

Loại: Tùy Tinh

Đặc Tính: Mau lẹ, thịnh tiến

Là một phụ tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Bác Sĩ theo thứ tự: Bác Sĩ, Lực Sĩ, Thanh Long, Tiểu Hao, Tướng Quân, Tấu Thư, Phi Liêm, Hỷ Thần, Bệnh Phù, Đại Hao, Phục Binh, Quan Phủ.

Ý Nghĩa sao Phi Liêm Ở Cung Mệnh:

Tướng Mạo: Phi Liêm là tóc. Nếu Phi Liêm đi cùng Hồng Loan là tóc dài, đẹp.

Tính Tình: Vui vẻ, lanh lợi, nhanh nhẹn.

Ý Nghĩa sao Phi Liêm Với Những Sao Khác:

Phi Liêm nếu gặp nhiều sao tốt thì mang lại sự may mắn một cách nhanh chóng. Nếu gặp các sao xấu thì bất lợi cũng nhanh chóng.

Phi Liêm, Hổ: Gọi là Hổ mọc cánh, chỉ sự may mắn, gặp thời vận tốt, thành đạt (thi đậu, thăng quan, thương gia đắc lợi).

Phi Liêm Việt Hỏa Hình: Bị súng bắn, sét đánh. Người có cách này thường là không quân, khu trục hay trực thăng xạ kích.

 Có câu thuyết rằng: “Phi Liêm khẩu thiệt Hỉ Thần diên”. Vậy thì Phi Liêm chủ về cái vạ miệng. Bởi thế khi Phi Liêm gặp Thiên Hình dễ xảy ra kiện tụng. Sách Trung Quốc có hai sao Phi Liêm lận, mà cả hai đều chung một tính chất. Như vậy là thừa, một sao Phi Liêm là đủ.

Có nhiều sách Tử Vi Việt cho rằng Phi Liêm chủ sự vui vẻ, nhanh nhẹn, điều này sai. Rồi lại nói Phi Liêm gặp Bạch Hổ ví như cọp mọc cánh, gặp Long Phượng như rồng phụng lên cao càng sai nữa. Vì không phải chữ Phi mang nghĩa bay mà mang nghĩa loại côn trùng mối mọt.

Phi Liêm trước sau chỉ là cái họa nhỏ gây thành khẩu thiệt tranh tụng. Phi Liêm không nên gặp Hóa Kị Văn Khúc sinh lắm chuyện. Câu phú: Đào Hoa ngộ Phi Liêm Nguyễn Tịch Tấn triều vi túy khách thì Phi đây chính là con sâu rượu đấy. Phi Liêm thuộc Hỏa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa sao Phi Liêm - Là một sát tinh tính chất mau lẹ

Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đá mắt hổ là một thành viên quan trọng của gia tộc Thạch anh. Nó hàm chứa nhiều chất amiăng xếp thành những dãy song song, thành phần cấu tạo hóa học của đá mắt hổ (cọp) là Silicon dioxidie, trong đó có oxít sắt cho các dải màu vàng và nâu vàng, dễ phản ứng với ánh sáng, tạo nên những vệt sáng lấp lánh, tạo hiệu ứng mắt cọp, cho nên có tên gọi là đá mắt hổ (cọp). Từ trường của nó rất lớn và mạnh mẽ, phù hợp với nam giới.

Đá mắt hổ (cọp) có vẻ đẹp thu hút nhờ ánh vàng óng ánh, vân sáng rực rỡ khi đặt chúng ngoài ánh sáng mặt trời hoặc dưới ánh đèn huỳnh quang (nhờ các chất gây hiệu ứng ánh sáng).

Đá mắt hổ là một trong những loại thạch anh có cấu trúc độc đáo trong thiên nhiên, cấu trúc dạng sợi khiến đá có các ánh phản quang đẹp lung linh như mắt của loài mèo. Với những công dụng đặc biệt của nó trong đó có trừ tà, chữa bệnh… khiến cho loại đá này rất được ưa chuộng. Tuy nhiên rất nhiều người không biết loại đá mắt hổ nào kỵ tà nhất? loại đá nó có công hiệu nhất. Hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn về loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu để chúng ta có một sự lựa chọn hợp lý.

Nội dung

  • 1 Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu
    • 1.1 Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ
      • 1.1.1 Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên
      • 1.1.2 Mắt hổ tự nhiên có 3 màu
    • 1.2 Tác dụng khác của đá Mắt Hổ
      • 1.2.1 Về phong thủy
      • 1.2.2 Về mặt sinh lý
  • 2 Chú ý khi sử dụng

Loại đá mắt hổ kỵ tà hàng đầu

Mục đích chính khi sử dụng đá mắt hổ

Đá mắt hổ được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới với cùng một mục đích đó là trục trừ ma quỷ, không phải ngẫu nhiên khi loại đá này được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới với 1 mục đích chính như vậy.

Nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên

Những nơi sử dụng đá mắt hổ đầu tiên: Nam Phi, Trung Quốc, Brasil, Nam Mỹ đều sử dụng trong trang sức hoặc treo những mặt đá trong nhà ( có hoặc không điêu khắc) với mục đích xua đuổi tà ma và đem may mắn đến.

Đá mắt hổ là một loại thánh thạch ( đá thần) của người Ấn Độ, họ quan niệm đá mắt hổ đem lại sự tự kiểm soát, ý chí vượt qua mọi khó khăn đạt đến thành công, những ánh sáng lấp lánh của đá thần mang lại sinh lực thần thánh cho họ.

 

Ngoài ra thạch anh mắt hổ còn có tác dụng nâng cao khí chất và sự tự tin ở người sử dụng, do có ánh Kim (Kim sinh Thủy) nên có tác dụng khai mở trí tuệ và năng lực tự thân.

Mắt hổ tự nhiên có 3 màu

Mắt Hổ tự nhiên các bạn chú ý là chỉ có 3 màu chính: Vàng/ Xanh Đỏ( ít thấy hơn) mắt hổ nhiều màu như màu hồng, xanh lá mạ, tím vv tuyệt đại đa số là do sử dụng các công nghệ xử lý để đạt được hiệu quả màu sắc.

Tác dụng khác của đá Mắt Hổ

Về phong thủy

Về mặt Phong Thủy tác dụng đặc biệt của đá Mắt Hổ là khiến mọi việc diễn ra với tốc độ nhanh hơn, giúp chúng ta đạt được kết quả sớm hơn. Sử dụng đá mắt hổ hình tròn đeo bên mình để nhập Thiền có thể thực hiện điều này.

Về mặt sinh lý

Tác dụng sinh lý: màu xanh lam tác động đến Luân Xa cổ họng, Đỏ tác dụng đến luân xa vùng ngực, đen tác dụng luân xa tầng đáy biển ( bàng quang), vàng tác động đến luân xa vùng bụng.

Chú ý khi sử dụng

Khi đeo đá mắt hổ không sử dụng các hình tượng đeo trên người sau:
Không đeo Phật
Không đeo gương Bát Quái
Long Quy
Thần Tài
Ưng
Bắp Cải tài lộc
Tháp Văn Xương
Bồn tụ tài
Đá Thái Sơn

Do ngũ hành nên khi đeo đá mắt hổ tác dụng của các vật trang sức ở trên sẽ bị giảm đi đáng kể

Ngoài ra trong nhà không nên có Ngà Voi, răng hổ, da cá sấu, xương hổ, báo, sói, khỉ vv vì Thú Tính trong các vật trên một khi cảm nhiễm vào đá sẽ có tác dụng giảm đi.

Chúc các bạn sử dụng đá mắt hổ hiệu quả đem lại bình an và may mắn cho gia đình và bản thân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Loại đá mắt hổ kỵ tà khí hàng đầu –

Phong thủy cho nhà chung cư

Theo phong thủy, căn hộ tốt cần “tàng phong, tụ khí” tức là sự luân chuyển khí phải thuận lợi, tránh bị xung đối hoặc bị ngăn chặn.
Phong thủy cho nhà chung cư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hóa giải sự bất an

Căn hộ tốt cần "tàng phong tụ khí"

Do diện tích hạn chế nên cửa vào các căn hộ chung cư ở cùng hành lang. Các cửa căn hộ thường đối diện nhau, có cửa lại nằm ở góc cuối, hẹp. Người sống trong căn hộ này dễ gặp rủi ro hoặc mắc các bệnh liên quan đến tỳ vị, khí huyết.

Cách hóa giải:  Treo chuông gió bằng đồng ở cửa ra vào của căn hộ sẽ giúp khí luân chuyển tốt hơn. Căn hộ ở cuối hành lang thì nên treo cầu thủy tinh ngay gần cửa, giúp tán khí, tránh bị khí chiếu thẳng vào nhà.

Từ bên ngoài nhà thẳng với cửa vào căn hộ, có thể nhìn thấy toàn bộ gian phòng khách, thậm chí cả bếp và phòng ngủ. Theo phong thủy, điều này tối kỵ vì nó dễ gây hao tán về tài lộc và tâm lý bất an cho gia chủ.

Đặt tượng kỳ lân hóa giải sát khí và mang lại  may mắn

Cách hóa giải: Dùng bình phong ở cửa hoặc thiết kế tủ trang trí có các ngăn trống để khí được lưu thông. Đối với gian bếp, bạn có thể sử dụng quầy bar che chắn. Trên tủ và quầy bar nên bày tượng kỳ lân hoặc tượng Thái Sơn trấn trạch quay ra cửa để hóa giải sát khí, đem lại bình an và may mắn.

Xử lý những ô cửa

Một bất cập khác nữa là cửa sổ hoặc cửa ra ban công của các căn hộ thường bị áp sát cửa của một căn hộ khác. Cũng có khi bị những góc nhọn, mái nhọn của nhà hàng xóm xung chiếu vào hoặc được mở ở hướng kỵ với mệnh gia chủ.

Cách hóa giải: Dùng rèm che các cửa sổ, cửa ban công. Trong trường hợp nhà thiếu ánh sáng mà không muốn dùng rèm, hãy treo phù ngũ phúc bằng đồng ngoài cửa. Vật này thuộc hành hành Kim có tác dụng hóa giải sát khí chiếu đến.

Do diện tích nhà hạn chế nên nhà vệ sinh cũng được thiết kế khép kín trong phòng ngủ. Theo thuật phong thủy, cửa nhà vệ sinh chiếu vào giường ngủ sẽ gây tổn hại sức khỏe gia chủ, đặc biệt là người mệnh Hỏa.

Treo tiền cổ tạo không gian yên tĩnh

Cách hóa giải: Treo 6 đồng tiền cổ tại các cửa phòng gần kề hoặc xung đối. Pháp khí này giúp căn nhà yên tĩnh, tránh bị xáo trộn. Nếu khoảng cách giữa các cửa phòng đủ lớn thì đặt cây xanh hoặc bình hoa tươi. Đối với nhà vệ sinh trong phòng ngủ, bạn nên dùng quả cầu thủy tinh treo ở cửa ra vào.

Gia tăng dương khí

Đối với các khu chung cư cũ, vấn đề tồn tại là hệ thống chiếu sáng hạn chế, diện tích sử dụng quá chật hẹp, phát sinh âm khí lớn. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và tài lộc của gia chủ.

Cách hóa giải: Ngay trong phòng khách, bày quả cầu phong thủy bát mã. Vật khí này có công năng gia tăng dương khí, giúp cho khí trong nhà lưu thông tốt. Hàng ngày, bạn nên quay cầu này để kích hoạt khí.

(Theo Vietbao)

 
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho nhà chung cư

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd