Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những chú ý khi chuyển nhà nhập trạch đặt bát hương

Dương trạch có ảnh hưởng rất lớn tới vận mệnh, sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của tất cả mọi thành viên trong gia đình. Vì vậy, khi làm lễ nhập trạch cần phải chọn năm, tháng tốt. Những việc dựng cột, đổ móng thì chọn theo Nên-Kỵ của ngày. Về việc di chuyển trong nhà cũ, năm tháng thiếu thì phải chọn phương hướng tốt sau đó mới tới chọn năm tháng tốt.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Những điều lưu ý
 
- Khi chọn ngày để làm lễ nhập trạch, cần chọn ngày không xung với tuổi của gia chủ, không phạm Tam Sát, không phạm Ngũ Hoàng. 
 
- Về cách thức đặt bát hương thì có thể tham khảo thêm các sách như Ngọc Hạp Ký, Thông Thư…
 
- Khi chuyển nhà thì phải đích thân gia chủ chuyển đồ sang nhà mới, có thể nhờ người khác trợ giúp nhưng phải tự tay cầm bài vị, bát hương cúng gia thần, tổ tiên và các thành viên khác trong gia đình.
 
- Thời gian chuyển nhà tốt nhất là vào buổi sáng, không nên tiến hành vào buổi trưa hoặc lúc mặt trời sắp lặn, đặc biệt cấm kỵ việc chuyển nhà vào buổi tối.
 
- Khi nhập trạch phải đặt bát hương, bài vị tổ tiên trước khi sắp xếp các đồ dùng, vật dụng khác trong nhà.

Nhung chu y khi chuyen nha nhap trach dat bat huong hinh anh 2
Ảnh minh họa

2. Những điều cấm kỵ
 
- Những người phụ nữ có thai không nên dọn nhà, nếu không sẽ phạm phải tội “Thần thai”. Trong trường hợp bất khả kháng thì người ấy có thể dùng một cái chổi mới mua, chưa sử dụng để quét hết các đồ vật trong nhà trước khi chuyển chúng đi.
 
- Người tuổi Dần không nên tham gia vào việc dọn nhà.
 
- Ngày nhập trạch chủ yếu là để lấy ngày tốt, gia chủ chưa chính thức về ở ngay, nhất thiết phải ngủ qua đêm tại nhà mới.

3. Nghi lễ nhập trạch

Trước hết, gia chủ cần mang theo một chiếc chiếu đang dùng, một bếp lửa (không dùng bếp điện, bếp từ, bếp hồng ngoại… vì nó sinh nhiệt nhưng không có ngọn lửa), một cái chổi mới, lễ vật… để vào nhà mới. Những thành viên khác trong nhà đi theo sau và mang theo tiền của.
 
Sau đó, sắp lễ vật lên mâm theo hướng hợp với gia chủ. Đích thân gia chủ thắp tạm nén nhang, cắm nhang vào lư hương để xin nhập trạch và xin phép Thần linh rước vong linh Gia tiên về nơi ở mới để thờ phụng.
 
Kế đến, gia chủ sẽ châm bếp và đun nước với mục đích khai bếp và pha trà dâng thần linh, gia tiên.
 
Sau khi khấn thần linh xong, gia chủ làm lễ cáo yết gia tiên trước rồi mới được phép sắp xếp đồ đạc trong nhà.
 
Khi đã dọn xong đồ đạc, để gia trang được bình an, cả nhà phải tổ chức lễ bái tạ thần Phật, các vị thánh thần và tổ tiên…
 
T.H
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những chú ý khi chuyển nhà nhập trạch đặt bát hương

Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Trong khuôn mặt, mũi ở vị trí trung tâm bởi vậy nó có vai trò rất quan trọng với tài vận của chủ nhân.
Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lỗ mũi của đàn ông không thể quá to, nếu lỗ mũi quá to thì tài vận của họ cũng không tồi nhưng lại khó giữ tiền tài, không phải là họ thích tiêu hoang hay không biết tiết kiệm mà họ thường  gặp chuyện cần dùng đến tiền. Đặc biệt nếu cánh mũi quá mỏng thì tài vật thường mất nhiều hơn được, nếu không để ý cẩn thận thì rất khó bảo toàn tài sản.

1. Lỗ mũi to nhưng không hếch

Người có sống mũi cao, lỗ mũi to nhưng không hếch làm việc có trách nhiệm, biết cân nhắc việc nào nên làm việc nào không, tác phong thoải mái, không thích "nước đến chân mới nhảy". Họ nắm bắt thời cơ và hành sự quyết đoán, bởi vậy dễ thành công, làm nên nghiệp lớn, không thỏa hiệp với thất bại, có thể đứng dậy sau nỗi đau, đạt được vinh quang xứng đáng.

2-1653-1411181029.jpg

2. Lỗ mũi to, không hếch sống mũi thấp

Người sở hữu chiếc mũi không hếch, lỗ mũi to thường dũng cảm, bình thản đối mặt với biến cố, không dễ dàng bị hạ gục bởi khó khăn trở ngại. Tuy nhiên do sống mũi thấp nên họ dễ làm hỏng việc lớn, thất bại nhiều hơn thành công, khó bảo toàn sự nghiệp, thường hay bỏ lỡ thời cơ.

3. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt dài

Lỗ mũi lớn là người không cứng nhắc, không câu nệ tiểu tiết, nhưng khuôn mặt dài lại là người hay suy tư, chuyện gì cũng phải lên kế hoạch cẩn thận, không có sự chuẩn bị trước thì họ sẽ không làm. Nhìn chung, những người này thuộc tuýp thận trọng nhưng cũng rất to gan.

4. Lỗ mũi lớn, khuôn mặt ngắn

Lỗ mũi lớn thường là người tiêu tiền hào phóng, cho nên họ đi đến nơi nào cũng được hoan nghênh, nhưng khuôn mặt ngắn thì khi làm việc ít suy nghĩ, dễ để tình cảm ảnh hưởng đến công việc.

Nam giới và nữ giới có khác biệt rất lớn, nếu là nam giới có lỗ mũi to thì sẽ không có ảnh hưởng quá lớn nhưng nếu là phụ nữ có lỗ mũi to sẽ ảnh hưởng đến dung mạo, nữ thì nên có mũi nhỏ một chút, vận số mới tốt. Từ góc độ của xem tướng mặt mà nói, nữ có lỗ mũi to vận số rất xấu, cần phối hợp quan sát với hình dáng môi, nếu là XX có đôi môi dày, đỏ và lỗ mũi hơi hếch lên thì lỗ mũi to cũng không mang lại nhiều trở ngại, nhưng tính cách sẽ có phần hơi "nam tính", ví dụ: hào sảng, không chi ly tính toán, rất trọng tình nghĩa.

XX có lỗ mũi to nhưng môi mỏng, khóe môi rũ xuống thường tiêu hoang không biết tính toán, coi thường người khác, họ thấy vui vẻ khi dùng tiền hạ thấp người khác. Những người này nếu không biết thay đổi thì khi về già họ có thể rơi vào hoàn cảnh cô đơn không nơi nương tựa.

Kunie (theo lnka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lỗ mũi to nói gì về bạn?

Có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không? –

Sấu là cây rất quen thuộc với chúng ta, phân bố chủ yếu ở phía Bắc. Khi tới thăm khu rừng nguyên sinh ở Cúc Phương (Ninh Bình) hoặc lên thăm hồ Ba Bể (Bắc Kạn), ta có thể sẽ được ngắm nghía những cây sấu có tuổi tới cả 1.000 năm. Rất nhiều người đang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thắc mắc có nên trồng sấu không? trồng cây sấu ở đâu là hợp lý?có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không? Các bạn hãy đọc bài viết sau đây, chúng tôi đã giải đáp câu hỏi đó trong bài biết sau.

Nội dung

  • 1 Tổng quan về cây sấu
  • 2 Tác dụng của cây sấu
    • 2.1 Các món canh
    • 2.2 Sấu ngâm
    • 2.3 Ngâm muối
    • 2.4 Ngâm đường
    • 2.5 Ngâm mắm
    • 2.6 Ô mai sấu
    • 2.7 Bảo quản sấu lâu dài
    • 2.8 Về y học
  • 3 Hiệu quả của việc trồng cây sấu
  • 4 Có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không?

Tổng quan về cây sấu

Cây Sấu là loài cây gỗ lớn, sống lâu năm, có tán lá rộng và thường xanh. Cây Sấu là loài cây có biên độ sinh thái rộng, phù hợp với đất đai và khí hậu ở miền Bắc, có nhiều tác dụng, đặc biệt là khả năng phòng hộ bền vững, kỹ thuật trồng đơn giản. Cây Sấu mọc tốt trên đất có thành phần cơ giới từ cát pha đến thịt trung bình, thoát nước, các loại đất phù sa ven sông, ven suối, đất đồi núi còn có tính chất đất rừng mát, ẩm, có độ sâu >50cm, dốc khoảng 250, nơi có nhiệt độ bình quân năm từ 20 – 25oC, lượng mưa năm lớn hơn hoặc bằng 1500mm, độ ẩm không khí từ 86% trở lên và có mùa nóng, lạnh rõ rệt.

Sấu là cây có rễ cọc và bạnh vè. Bão tố không thể quật đổ nó được. Mặt khác, nó là cây xanh quanh năm (có nghĩa là nó là cây có lá rụng đều đều trong năm nên trên cây bao giờ cũng còn đầy lá).

Sấu là cây đa tác dụng. Nó vừa trồng để lấy gỗ, vừa cho chúng ta thu nhập từ quả. Ở các khu dân cư, nó là loại cây bóng mát tuyệt vời, cây thẳng, lá xanh thẫm, bóng rợp và không bị gẫy, đổ.

Vì vậy, càng ngày người ta càng trồng nhiều sấu ở các đường phố và trồng ở các trường học, bệnh viện, nhà máy, doanh trại quân đội… rất nên trồng sấu. Hiện nay cây Sấu được trồng rất phổ biến ở các công trình lớn bởi vừa có thể làm cây bóng mát rất tốt vì cây có mật độ lá rất dày, vừa làm cây ăn quả lại không ảnh hưởng đến nguốn nước và đặc biệt là cây khá dễ tính, cây Sấu phù hợp với hầu hết các loại đất trồng

Tác dụng của cây sấu

Sau khi ra quả khoảng hơn hai tháng thì trái sấu đạt đến độ già nhưng chưa chín. Đây là thời điểm thu hoạch sấu vì khi ấy quả sấu đủ già để có thể giữ được sấu lâu hơn và cũng là lúc sản phẩm sấu được sử dụng vào nhiều mục đích nhất. Mùa sấu thường kéo dài khoảng 2-3 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm).

Các món canh

Quả sấu xanh là nguyên liệu nấu canh chua phổ biến, dễ nấu, dễ ăn và tạo sự ngon miệng. Sau khi luộc rau muống xong, nếu có điều kiện, người ta thường thêm vào một vài quả sấu là được một món canh chua ngon và mát. Để tăng thêm hương vị, người ta lấy nước thịt luộc với quả sấu, thêm chút hành, ngổ cho dậy mùi. Khác với me, tai chua v.v vị chua của sấu rất riêng, đậm, mát và có mùi thơm. Sấu thường dùng trong những món ăn đơn giản, dế nấu, không đòi hỏi nhiều nguyên liệu phụ.

Quả sấu ấy có thể dùng nấu những nồi canh chua thịt nạc, có thể làm gia giảm cho bát nước rau muống luộc hoặc có thể với những bát canh cá hay món sườn nấu chua. Vị chua của quả sấu tạo cho những bát nước canh một vị chua mát.

Sấu ngâm

Một bình sấu nguyên quả ngâm nước mắm (tỏi, ớt) bên cạnh một bình sấu quả cắt khoanh ngâm nước đường (và gừng đập dập)

Ngâm muối

Một sản phẩm chế biến từ quả sấu được ưa thích trong mùa hè là sấu ngâm. Sấu ngâm được lựa chọn rất kỹ lưỡng và các giai đoạn để chế biến cũng rất công phu. Quả sấu được chọn là loại quả vừa đủ già tới, cùi dày, vỏ hơi sần chứ không láng bóng vì quả sấu da vẫn còn láng bóng là quả sấu non, khi làm sẽ bị ủng. Chọn từng quả một đủ tiêu chuẩn chất lượng và không bầm dập. Sau khi chọn được những quả tốt nhất, người ta lấy dao bổ quả sấu tách cùi và hạt ra rồi cho vào ngâm với nước vôi trong hoặc nước pha phèn chua.

Thời gian ngâm cũng phải hết sức chú ý, nếu ngâm không đủ thời gian thì quả sấu bị thâm và khi ngâm dễ bị ủng hoặc bị chát. Còn nếu ngâm quá lâu thì cùi sấu lại bị mềm. Ngâm vừa đủ tới thì cùi sấu trắng, dòn khi đem ngâm xong vẫn giữ được hương vị thơm và chua. Vớt ra rửa qua nước sạch, để khô ráo rồi đổ vào lọ. Cứ mỗi một lớp sấu lại rắc lên một lớp muối mỏng nhưng đủ che lấp các chỗ khuyết. Đổ đầy bình thì đậy kín nắp và đem cất. Sau khoảng nửa tháng là có thể đem ra dùng. Một cốc nước sấu có đủ vị ngọt của đường, vị mặn của muối, vị chua và thơm của sấu.

Ngâm đường

Chọn quả loại có chất lượng như ngâm muối, sau đó cạo vỏ, gọt dây (cắt khoanh, cắt chữ thập hoặc đập dập sơ tùy ý) rồi ngâm vào nước vôi trong (hoặc nước pha chút phèn chua) mục đích làm cho sấu giòn.

Có thể bỏ qua công đoạn ngâm nước vôi hay nước phèn này mà chỉ thực hiện ngâm nước muối loãng. Vớt sấu rửa sạch lại bằng nước đun sôi để nguội hoặc chần qua nước sôi sau đó vớt ra để ráo, cho vào lọ. Đun nước đường (theo tỷ lệ 1 lít nước với 0,8 kg đường), hoặc ngâm sấu trong đường qua đêm cho sấu chiết nước và đường tan ra thì vớt sấu ra, đun nước đường cho sôi lên.

Đập vài nhánh gừng vào nồi và đun 1-2 phút rồi nhấc xuống để nguội, sau đó đổ vào bình đựng sấu. Loại đường pha vào nước này nên chọn đường đỏ mới ngon, mới giữ được màu vàng khi ngâm sấu. Một vài nhánh gừng già được rửa sạch, đập giập rồi thả vào nồi nước đường để tạo vị thơm và cay của gừng.

Khác với sấu muối là vị ngọt thanh của sấu ngâm đường. Vị của nó thơm, ngọt và đặc biệt là có thêm mùi vị của những nhánh gừng xen lẫn. Một hũ sấu ngâm đường cũng tốn kém công sức và nhiều công đoạn hơn sấu muối.

Ngâm mắm

Một bát sấu quả ngâm mắm

Sấu có thể làm món ngâm nước mắm rất ngon và để được lâu. Sấu cạo sạch vỏ, ngâm sơ trong nước muối khoảng 10 phút cho không bị thâm và bớt chua. Vớt sấu ra chần qua nước sôi rồi để ráo. Nước mắm đun sôi lên rồi bắc nồi xuống để nguội. Xếp sấu vào lọ và thêm tỏi, ớt cắt lát, đổ nước mắm ngập sấu (có thể dùng dụng cụ gài cho sấu ngập dưới mực nước mắm). Để khoảng 1 tuần trở lên là ăn được

Ô mai sấu

Tại Hà Nội, Việt Nam rất thịnh hành các loại ô mai làm từ quả sấu, như ô mai sấu giòn, ô mai sấu xào gừng, sấu dầm v.v.

Bảo quản sấu lâu dài

Do sấu quả chỉ có một mùa vụ ngắn trong năm, người nội trợ thường mua sấu về (nên chọn loại quả bánh tẻ, không non quá và cũng không già quá) cạo sạch vỏ, ngâm sơ nước muối chừng 10 phút để sấu không bị thâm, vớt ra để thật ráo và đóng gói cất ngăn đá tủ lạnh, cấp đông để dùng dần quanh năm.

Về y học

Quả sấu được dùng chữa các chứng bệnh như nhiệt miệng khô khát, ngứa cổ, đau họng, ho, nôn do thai nghén, say rượu, nổi mẩn, sưng, lở ngứa. Liều dùng: 4-6 g cùi quả sấu, cách chế biến: sắc nước hay hãm với nước sôi hoặc dầm với muối hay đường rồi dùng.

Chữa nôn do thai nghén: Quả sấu xanh nấu với cá diếc hoặc thịt vịt rồi ăn.

Chữa ho: Cùi quả sấu 4-6 g, ngâm với ít muối, hoặc sắc nước, rồi thêm đường uống. Ngày 2-3 lần như vậy. Hoa sấu hấp với mật ong là thuốc chữa ho cho trẻ em.

Ở Vân Nam, Trung Quốc, người ta dùng quả giã nát để điều trị ngứa lở, ăn uống không tiêu; còn vỏ rễ được dùng trị sưng vú.

Hiệu quả của việc trồng cây sấu

Ở thành phố còn trồng được sấu thì làm sao ở nhà quê lại không trồng được. Mỗi nhà hãy ít nhất trồng lấy vài cây Sấu.

Đã bắt đầu vào mùa sấu. Ở Hà Nội, giá quả Sấu cao ngất ngưởng: 40.000 đồng/kg. Tôi nhớ, năm trước khi lên thăm Ba Vì, một bác nông dân cho tôi biết, cây sấu của bác thu được tới 6 tạ quả! Nếu chỉ tính giá 20.000 đồng/kg thì cây Sấu của bác cũng thu được tới 12 triệu đồng.

Thật là một con số hấp dẫn. Nếu có 10 cây sấu thì thu nhập ngang ngửa với một nông dân sản xuất giỏi. Thế còn, nếu như quả đổi của bác mà trồng tới 100 cây sấu thì… mua xe máy làm gì, mua hẳn ô tô mà đi cho sướng!

Sấu là cây rất quen thuộc với chúng ta, phân bố chủ yếu ở phía Bắc. Khi tới thăm khu rừng nguyên sinh ở Cúc Phương (Ninh Bình) hoặc lên thăm hồ Ba Bể (Bắc Kạn), ta có thể sẽ được ngắm nghía những cây sấu có tuổi tới cả 1.000 năm.

Chả đi đâu xa, khi tới Hà Nội, xin bạn hãy đi vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Chúng ta dễ dàng nhận ra những cây sấu được trồng từ thời Pháp vẫn còn đứng vững và tỏa mát quanh hồ. Sấu là cây có rễ cọc và bạnh vè. Bão tố không thể quật đổ nó được. Mặt khác, cây Sấu là cây xanh quanh năm (có nghĩa là nó là cây có lá rụng đều đều trong năm nên trên cây bao giờ cũng còn đầy lá). Vì vậy, càng ngày người ta càng trồng nhiều cây Sấu ở các đường phố.

Các trường học, bệnh viện, nhà máy, doanh trại quân đội… rất nên trồng nhiều cây Sấu. Tôi vào Nha Trang mới biết, có một sĩ quan người Bắc được gia đình gửi sấu chín vào làm quà. Anh ăn rồi gieo hạt ngay cửa nhà. Tới nay các cây Sấu đó đã mọc lên tươi tốt, quả đầy trên cành. Như vậy, sấu cũng có thể đưa dần vào phía Nam.
Sấu là cây đa tác dụng. Nó vừa trồng để lấy gỗ, vừa cho chúng ta thu nhập từ quả. Ở các khu dân cư, nó là loại cây bóng mát tuyệt vời, cây thẳng, lá xanh thẫm, bóng rợp và không bị gẫy, đổ.

Tôi sang Thái Lan thấy người ta trồng me ở khắp nơi. Có chỗ, họ trồng thành rừng. Me phủ kín 7 tỉnh phía Bắc. Họ trồng me để lấy quả. Từ quả me, họ chế biến ra hàng loạt sản phẩm bán khắp thế giới. Nước nào cũng có mứt me, kẹo me, bột me… của Thái Lan. Mình thấy chạnh lòng.
Me làm sao ngon được bằng sấu của ta! Vị của quả sấu rất đặc sắc. Nó vừa chua chua lại vừa thơm. Nước sấu quả ăn đứt các loại nước giải khát khác. Sấu còn được dùng làm ô mai… Tuy nhiên, cũng còn quá ít các sản phẩm được làm ra từ quả sấu.

Ta nên học tập Thái Lan để đầu tư nghiên cứu làm ra nhiều mặt hàng nữa từ quả sấu. Nếu có điều kiện, nhà nào cũng nên trồng sấu. Ta trồng quanh nhà, quanh vườn, trồng dọc các lối đi, men sườn đồi, sườn núi. Sấu là cây ưa sáng. Nếu có các khu đồi trống, rất nên trồng sấu vào đó. Cây Sấu chịu hạn rất tốt vì có bộ rễ rất khỏe, ăn sâu vào lòng đất để hút nước.

Có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không?

Mặc dù cây sấu có rất nhiều tác dụng nư chúng tôi có nói ở trên. Chúng ta nên trồng cây sấu trong vườn của nhà mình. Tuy nhiên chúng ta có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không thì đây lại là một lưu ý mà bạn cần tìm hiểu thật kĩ.

Chúng ta đều biết cây sấu có đặc điểm: Cây Sấu là loài cây gỗ lớn, sống lâu năm, có tán lá rộng và thường xanh. Từ xưa nay ông cha ta kiêng kị trồng cây gỗ lớn trước cửa nhà.

Nói chung, bạn không muốn một cái cây quá gần với ngôi nhà. Điều này không chỉ là một mối quan tâm phong thủy, mà còn là biểu hiện của cảm giác chung. Khi có đủ không gian cho cả ngôi nhà cũng như cái cây, bạn đang thúc đẩy năng lượng phong thủy tốt và một môi trường sống an toàn.

Nếu cái cây Sấu ở đúng vị trí phía trước cửa chính thì được coi là thách thức phong thủy. Bởi vì, cửa ra vào là nơi hấp thụ khí hoặc nguồn năng lượng nuôi dưỡng ngôi nhà. Có một vật cản phía trước cửa sẽ tạo ra sự tắc nghẽn, trì trệ của dòng chảy năng lượng bên trong ngôi nhà. Thậm chí, lâu ngày nó còn sinh ra các bệnh về đường hô hấp cho những người sống trong nhà.

Khi cây sấu nằm ở phía bên trái cửa chính (nhìn từ bên trong nhà ra), nó có thể giúp tạo ra năng lượng phong thủy rồng rất tốt, đặc biệt là những cây cao, xum xuê, tươi tốt và vững trãi.

Nếu cây sấu nằm ở phía bên phải cửa chính (nhìn từ bên trong nhà ra), và có sự khác biệt đáng kể về chiều cao so với bên trái thì điều này có thể tạo ra sự mất cân đối cho năng lượng bên trong ngôi nhà.

Năng lượng mất cân bằng trong trường hợp này nghĩa là ngôi nhà có nguồn năng lượng dương yếu hơn nguồn năng lượng âm. Cụ thể, người đàn ông sống trong những ngôi nhà như thế này sẽ thiếu đi nguồn năng lượng hỗ trợ.

Học qua bài viết trên các bạn đã biết mình có nên trồng sấu rồi đấy. Tuy nhiên khi trồng sấu chúng ta hãy lưu ý vị trí trồng cây sấu để có phong thủy tốt. Không những nó mang lại hiểu quả kinh tế cao mà còn tốt cho sức khỏe, hãy trồng cho gia đình mình vài cây sấu đi nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có nên trồng cây sấu trước cửa nhà không? –

Rồng và tác dụng gì trong phong thủy ? –

Từ thời xa xưa đến giờ,Rồng là linh vật thần thoại, tượng trưng Thiên mệnh cao cả và tối thượng, nhân vật cao cả và tối thượng như Vua, thời xưa Vua thường mặc áo có thêu hình con rồng(Long bào), kể cả giường ngũ và nơi làm việc của Vua cũng đều khắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chạm hình rồng…

rong-phong-thuy-03

Còn trong phong thủy, ”Long khí” là sinh lực của vũ trụ,nó ẩn hiện trong lòng đất,vận chuyển thành “Long mạch”, mà từ xưa các đại sư phong thủy đã dày công tìm kiếm…

Nguồn sinh khí vĩ đại ấy xuất phát từ hướng ĐÔNG, nên các đại sư phong thủy đã tìm nhiều cách vận dụng và kích thích sinh khí ở hướng này :

– Treo tranh rồng, hoặc tượng rồng ở hướng Đông.

– Rồng cực dương, không nên đặt trong phòng ngủ.

– Đặt tượng rồng xanh bằng đá trong khuôn viên vườn ở của nhà mình.

– Còn trong công việc làm ăn,ta không “sống ác” với ai, nhưng thường bị kẻ tiểu nhân ám hại, gây không biết bao nhiêu chuyện phiền toái…

Chuyện tưởng nhỏ, nhưng hậu quả… thì không nhỏ chút nào… Thế là “đau chân há miệng” ta lại tìm đến nơi này, nơi kia để tìm sự giúp đỡ, nhưng “tiền mất tật mang”, thế là nỗi khổ không biết tỏ cùng ai ?…

Vậy sao ta không vận dụng kinh nghiệm của các đại sư phong thủy vào cuộc sống, để thấy rằng con linh vật thần thoại nhưng đầy quyền năng này sẽ giúp cho ta trở lại vui vẻ và yên lành biết bao…

Trước tiên ta phải xác định được “hướng thanh long”:

Từ trong phòng khách của nhà ta đang ở, hoặc từ trong phòng làm việc của ta ở cơ quan, ta nhìn ra phía trước là cửa chính, thì phía trước cửa chính là CHU TƯỚC, phía bên tay phải là BẠCH HỔ, phía sau là HUYỀN VŨ, còn phía bên tay trái là THANH LONG.

Trên bờ tường bên trái phòng khách, và bờ tường bên trái phòng làm việc tại cơ quan, ta treo một bức tranh hình con rồng màu xanh hoặc đặt một tượng rồng màu xanh (Thanh long), đầu rồng quay ra cửa chính.

rong-phong-thuy-04

Còn trên bàn làm việc: Phía trước mặt ta là CHU TƯỚC, phía bên tay phải ta là BẠCH HỔ, sau lưng chổ ta ngồi là HUYỀN VŨ, phía tay trái trên bàn làm việc của ta là THANH LONG. Tại đây ta đặt một con rồng xanh bằng đá, hoặc bột đá, đầu rồng nhìn tới phía trước (CHU TƯỚC): Sẽ hóa giải được nạn tiểu nhân ám hại một cách hiệu quả !

Trong thực tế vận dụng, trên bờ tường bên trái treo hình một con rồng xanh chưa đủ sức tiêu trừ triệt để tiểu nhân ám hại, thì ta phải treo đến ba con, vì trong phi tinh, hướng ĐÔNG là con số ba.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Rồng và tác dụng gì trong phong thủy ? –

Sắp xếp đá sân vườn hợp phong thủy

Quan niệm trong phong thủy cho rằng, những viên đá có khả năng cân bằng tính âm dương trong khu vườn nhà bạn nếu như bạn biết cách sắp xếp hợp lý.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bên cạnh việc mang lại không khí trong lành, mát mẻ cho không gian sống, nước còn là nơi tích tụ năng lượng âm nhiều nhất. Chính vì vậy ở những nơi như ao, hồ,…bạn nên kết hợp vài viên đá xen kẽ.


Ngoài công dụng cân bằng tính âm dương, những viên đá còn phản ánh tính thẩm mỹ của bạn, khu vườn của bạn vì thế mà trở nên sinh động, phong phú hơn. Sự hiện diện của những viên đá bên cạnh nước trong ao, hồ phản ánh hình thể sông – núi ngoài thiên nhiên.

Để biến những viên đá tưởng chừng vô tri vô giác thành những viên đá có tính năng kỳ diệu, bạn nên chú ý vài nguyên tắc sau:

Nguyên tắc đầu tiên bạn cần chú ý đó là số lượng đá dùng để trang trí luôn phải là số lẻ. Hướng của những viên đá phải luôn theo chiều dựng đứng.

Tiếp theo bạn năng làm sạch những viên đá, trên bề mặt của đá tránh rêu mọc, tránh ẩm ướt. Năng lượng dương sẽ giảm đi nếu những viên đá bị vấy bẩn.


Nếu sắp xếp đá theo hàng, bạn không nên đặt viên đá góc cạnh, nhọn bên viên đá có kiểu mẫu tròn trịa. Vì theo quan niệm phong thủy, những viên đá có kích thước đối lập nhau nếu đặt bên cạnh nhau sẽ không mang lại điều tốt đẹp.


Ngoài ra, việc sắp xếp những viên đá thẳng hàng với nhau cũng được chú trọng; để tránh quanh co, tốt nhất bạn nên chọn một viên đá làm chuẩn trước khi tiến hành sắp xếp, sau đó cứ thế đặt những viên tiếp theo đúng với hướng của viên chuẩn này.

(Theo Xzone)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sắp xếp đá sân vườn hợp phong thủy

5 mẹo phong thủy thăng chức vù vù nhất định phải biết

Bạn làm việc rất chăm chỉ nhưng kết quả chưa như mong đợi? Bạn rất nỗ lực nhưng vị trí vẫn giậm chân tại chỗ? Vì chưa áp dụng những mẹo phong thủy thăng chức
5 mẹo phong thủy thăng chức vù vù nhất định phải biết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn làm việc rất chăm chỉ nhưng kết quả chưa như mong đợi? Bạn rất nỗ lực nhưng vị trí vẫn giậm chân tại chỗ? Ấy là vì bạn chưa áp dụng những mẹo phong thủy thăng chức dưới đây thôi.

 
5 meo phong thuy thang chuc vu vu nhat dinh phai biet hinh anh
 
Những mẹo phong thủy thăng chức không chỉ giúp bạn cải thiện vận thế mà còn thay đổi không gian làm việc, mang tới luồng gió mới cho sự nghiệp của bạn.  

1. Không khí lưu thông

  Yếu tố phong thủy đầu tiên giúp bạn có thể thăng chức chính là nơi làm việc phải có ánh sáng mặt trời soi chiếu, không khí lưu thông trôi chảy, vì thế cần ngồi gần cửa sổ. Nếu không có điều kiện ngồi gần cửa sổ thì đặt trên bàn làm việc một chiếc quạt nhỏ để thổi gió.   Mặt khác, các văn phòng hiện nay thường dùng hệ thống điều hòa tổng, nơi làm việc gần với điều hòa tổng thì khí lưu thông quá mạnh, sẽ xua hết tài vận đi nên nếu được, hãy chọn vị trí xa điều hòa trung tâm. 

2. Vị trí làm việc có chỗ dựa

  Chọn chỗ ngồi hợp phong thủy theo nguyên tắc tứ tượng. Phía sau chỗ ngồi làm việc là phương Huyền Vũ theo phong thủy truyền thống. Nếu phía sau thông thoáng, thường xuyên có người qua lại tức là “Huyền Vũ lạc hãm”, đại biểu cho việc không có chỗ dựa vững chắc, hiếm khi được lãnh đạo cất nhắc, càng không có cơ hội thăng chức.    Hiện nay, bố trí chỗ làm việc ở văn phòng đều theo nguyên tắc mặt đối mặt, phía sau là lối đi nhỏ. Để cải thiện phong thủy, khai thông vận trình sự nghiệp, bạn nên dùng ghế ngồi có chỗ tựa lưng cao, chắc chắn để có cảm giác an tâm, người qua lại phía sau cũng không thể ảnh hưởng tới công việc bạn đang làm.
 
Linh vật trang trí thúc đẩy sự nghiệp

3. Bàn làm việc kị xà ngang, đèn treo áp đỉnh

  Ngồi làm việc dưới xà ngang, đèn treo áp đỉnh sẽ ngăn chặn vận khí, đàn áp tài lộc, sự nghiệp không thể tiến triển. Tốt nhất là dời đi chỗ khác, bằng không thì dùng đồ trang trí che khuất xà nhà, đèn treo đi.

4. Bày giá sách, chậu cây chiêu quý nhân bên trái bàn làm việc

 
5 meo phong thuy thang chuc vu vu nhat dinh phai biet hinh anh
 
Bên trái bàn làm việc nên cao không nên thấp, cao tượng trưng cho sự nghiệp phất, nhân khí thịnh vượng, vì thế hãy bày giá sách, tủ tài liệu ở vị trí này. Ngoài ra còn có thể đặt một chậu cây tươi tốt ở đây để thư giãn tâm tình, tăng cường quý nhân vận, thúc đẩy cơ hội được thăng chức. Nhưng lưu ý, không chọn thực vật có hình nhọn. Ngoài ra, bạn cũng nên xem: Phong thủy bàn làm việc đuổi tiểu nhân, rước may mắn để tạo thêm cơ hội cho bản thân.  
 

5. Bên phải bàn làm việc phải sạch sẽ, kị vật nhọn

Bàn làm việc sạch sẽ, ngăn nắp thì sự nghiệp mới hanh thông, thuận lợi. Tuyệt đối không đặt vật nhọn ở bên phải bàn làm việc, sẽ ảnh hưởng tới công việc, dễ dàng gây hấn với đồng nghiệp, chặn đường thăng quan tiến chức.   Chiêu tài khai vận với cây kim tiền  Thay rèm cửa sáng màu để sự nghiệp phất cao
Trình Trình

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 mẹo phong thủy thăng chức vù vù nhất định phải biết

Kiêng kỵ dầm ngang ép bếp –

Hiện tượng: Phía trên bếp ga như bị dầm ngang ép xuống bất kể là dầm theo phía dọc hay phía ngang bếp ga đều không hợp với đạo phong thủy, như vậy cũng gây ra nhiều bất tiện cho dọn dẹp, thi công phòng bếp và sinh hoạt hàng ngày. Phương pháp hóa giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Phía trên bếp ga như bị dầm ngang ép xuống bất kể là dầm theo phía dọc hay phía ngang bếp ga đều không hợp với đạo phong thủy, như vậy cũng gây ra nhiều bất tiện cho dọn dẹp, thi công phòng bếp và sinh hoạt hàng ngày.

Nhung-dieu-kieng-ki-trong-nha-bep-1

Phương pháp hóa giải:

Đoạn dầm ngang phía trên bếp ga mỗi đầu treo một quả hồ lô và một con Kỳ lân dẫm Bát quái để hóa giải.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ dầm ngang ép bếp –

Vì sao ánh sáng đèn phòng ngủ chỉ để yếu không cần sáng? –

Phòng ngủ là nơi dùng để ngủ nghỉ, do vậy, ánh sáng phải dịu dàng, không gây chói mắt. Để có một giấc ngủ yên tĩnh, thể chất và tinh thần đều được ngủ nghỉ tốt, cơ thể khỏe mạnh thì khi lắp đèn trong phòng ngủ phải chú ý: - Khi lắp đèn ở đầu giường,

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng ngủ là nơi dùng để ngủ nghỉ, do vậy, ánh sáng phải dịu dàng, không gây chói mắt. Để có một giấc ngủ yên tĩnh, thể chất và tinh thần đều được ngủ nghỉ tốt, cơ thể khỏe mạnh thì khi lắp đèn trong phòng ngủ phải chú ý:

–  Khi lắp đèn ở đầu giường, ánh sáng phải dịu, cần phải lắp chao đèn, mà màu chao đèn tốt nhất là cùng với màu tường.

–  Làm tăng thêm không khí lãng mạn trong phòng ngủ, bạn có thể trang trí bằng đèn tường với ánh sáng mát dịu.

den-led-trang-tri

Nếu bố trí hệ thông đèn ở các phòng một cách khoa học, hài hòa đồng thời với mỹ quan còn có thể làm tăng thêm sinh khí, vui vẻ và ấm áp.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao ánh sáng đèn phòng ngủ chỉ để yếu không cần sáng? –

Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nữ mang chi tiết

Tân Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao, cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, lựa chọn vợ chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tân Sửu nữ mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.

Sanh năm: 1961, 2021 và 2081
Cung ĐOÀI
Mạng BÍCH THƯỢNG THỔ (đất trên vách)
Xương CON TRÂU. Tướng tinh CON ĐƯỜI ƯƠI

Bà Chúa Tiên độ mạng

Tân Sửu mạng Thổ cung Đoài,
Đất ở đầu vách ít ai cuốc đ ào.
Tháng giêng lỗi số biết bao,
Thu Đông cũng cực số sao hẫm hiêu.
Số này khắc mẹ khắc cha,
Gần nhau xích mích đi xa lại buồn.
Tánh người nòi dữ nói hung,
Khẩu xà tâm phật nói rồi bỏ qua.
Gái thì lập nghiệp phương xa,
Tình đầu luống chịu vu chiều buôn mai.
Cho hay trời đã an bày,
Tu nhơn tích đức để rày mai sau.
Trời Phật tin tưởng phụng thờ,
Cho nên hậu vận mới nhờ tấm thân.

xem bói tử vi tuổi Sửu

CUỘC SỐNG

Tuổi Tân Sửu cuộc đời có nhiều tốt đẹp về vấn đề tình cảm. Số tuổi nhỏ vào tiền vận có nhiều lao đao về cuộc sống, trung vận mới được vững vàng, nhưng về gia đình và sự nghiệp có sụp đổ đôi lần mới thành công được, hậu vận mới được an nhàn.

Tuổi Tân Sửu hưởng thọ trung bình từ 68 đến 76 tuổi là mức tối đa. Nếu gian ác thì có thể sẽ bị giảm kỷ, ăn ở hiền lành phúc đức thì sẽ gia tăng niên kỷ.

TÌNH DUYÊN

Về vấn đề tình duyên, tuổi Tân Sửu có chia ra làm ba giai đoạn như sau:

Nếu sanh vào những tháng sau đây sẽ có ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 4 và 9 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, cuộc đời bạn có hai lần thay đổi về tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 5, 8, 10 và 12 Âm lịch. Nhưng nếu bạn sanh vào những tháng sau đây, đời bạn hưởng được hạnh phúc toàn vẹn, không có thay đổi tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 6, 7 và 11 Âm lịch.

GIA ĐẠO, CÔNG DANH

Phần gia đạo, có nhiều tốt đẹp vào tiền vận và trung vận. Phần công danh có nhiều tốt đẹp vào tiền vận, nhưng trung vận và hậu vận không được tốt đẹp mấy về vấn đề nầy.

Sự nghiệp có nhiều tốt đẹp và có thể hoàn thành vào khoảng 32 tuổi sắp lên. Tiền bạc được tốt đẹp và đầy đủ vào trung vận.

NHỮNG TUỔI HẠP LÀM ĂN

Sau đây là những tuổi hạp cho sự làm ăn của bạn, nếu hùn hạp hay giao dịch tiền bạc sẽ có thể thâu được nhiều kết quả tốt đẹp, đó là các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu.

LỰA CHỌN VỢ, CHỒNG

Nếu kết hôn với nhưng tuổi sau đây, cuộc đời bạn có thể được sống trong sự cao sang quyền quý, đó là kết hôn với các tuổi: Quý Mão, Ất Tỵ, Kỷ Dậu, Canh Tý, Kỷ Hợi.

Những tuổi trên rất hạp với tuổi bạn về vấn đề tình duyên lẫn tài lộc, nên có thể sẽ tạo được một cuộc sống cao sang, giàu có.

Nếu bạn kết hôn với những tuổi nầy, đời sống của bạn chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Nhâm Dần, Mậu Thân. Những tuổi nầy chỉ hạp với tuổi bạn về đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc, nên chỉ tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.

Nếu kết duyên với những tuổi nầy, đời sống của bạn có thể bị nghèo khổ, đó là bạn kết duyên với các tuổi: Giáp Thìn, Bính Thìn. Những tuổi nầy không hạp với tuổi bạn về đường tình duyên và tài lộc, nên bạn khó mà tạo được một cuộc sống như ý muốn.

Những năm nầy bạn không nên kết hôn. Đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 18, 20, 26, 30, 32, 38 và 42 tuổi. Nếu kết hôn vào những năm trên, bạn có thể sẽ phải gặp cảnh xa vắng triền miên.

Sanh vào những tháng nầy, bạn có số đa phu hay nhiều chồng. Đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 4, và 5 Âm lịch.

NHỮNG TUỔI ĐẠI KỴ

Tuổi Tân Sửu có những năm khó khăn nhứt, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 24, 26 và 31 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng tai nạn hay bịnh tật, có hao tài vào những năm nầy.
NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT

Tuổi Tân Sửu có những năm khó khăn nhứt, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi 24, 26 và 31 tuổi. Những năm nầy nên đề phòng tai nạn hay bịnh tật, có hao tài vào những năm nầy.

NGÀY GIỜ XUẤT HÀNH HẠP NHẤT

Nếu bạn xuất hành, vào những ngày lẻ, tháng chẵn vò giờ chẵn thì hay nhứt, việc làm ăn sẽ gặp được nhiều kết quả tốt đẹp, nhiều thắng lợi trong cuộc đời, không sợ bị thất bại trong mọi trường hợp của đời sống bạn.

VẬN TRÌNH TỬ VI TỪNG NĂM

Từ 20 đến 25 tuổi: Thời gian nầy bạn có nhiều xui xẻo về tình duyên, có nhiều buồn rầu và đau khổ cho duyên số của bạn, tình cảm không được dồi dào cho lắm.

Từ 26 đến 30 tuổi: Thời gian nầy bạn sẽ có thắng lợi về vấn đề tình cảm, cuộc sống có phần êm đẹp, cuộc đời được hoàn toàn tốt đẹp về làm ăn, cũng như về vấn đề tài lộc trong những năm nầy.

Từ 31 đến 35 tuổi: Thời gian nầy việc làm ăn có phần bê bối. Vào tuổi 32 không nên đi xa, 33 tuổi có nhiều xui xẻo, nên cẩn thận về tiền bạc trong hai năm nầy. 34 và 35 tuổi, có lợi nhỏ, nên làm ăn hay giao dịch tiền bạc trong hai năm nầy được tốt.

Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi, việc làm ăn bình thường, gia đình hạnh phúc yên vui. 37 và 38 tuổi, nhiều triển vọng tốt đẹp cho nghề nghiệp và công danh, tài lộc sáng tỏ. 39 và 40 tuổi, hai năm nầy vượng phát về tài lộc, lẫn cả tình cảm.

Từ 41 đến 45 tuổi: Thời gian nầy có nhiều tốt đẹp cho cuộc sống, cuộc sống có phần sung túc nên cẩn thận việc làm ăn và giao dịch thì tốt.

Từ 46 đến 50 tuổi: Thời gian nầy có triển vọng hoàn thành sự nghiệp, tài lộc được dồi dào, việc làm ăn không gặp trở ngại, nên giao thương, buôn bán thì có nhiều tốt đẹp cho cuộc sống. Năm 47 tuổi, có đại kỵ vào tháng 2.

Từ 51 đến 55 tuổi: 51 tuổi trung bình. Những năm khác phần bổn mạng có yếu kém, việc làm ăn nên tránh những việc phải gây ra sự buồn lo cho gia đạo, có hao tài vào những năm nầy.

Từ 56 đến 60 tuổi: Thời gian nầy tình cảm, gia đình, tài lộc đều ở trong mức độ bình thường, nên đề phòng bệnh tật.

Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết

Xem bói tử vi tuổi Sửu

Xem tử vi năm mới


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận trình tử vi trọn đời Tân Sửu nữ mang chi tiết

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào? Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa của cửa hàng và lựa chọn địa chỉ cửa hàng có quan hệ như thế nào?

Hướng cửa của cửa hàng có quan hệ rất lớn đối với lựa chọn địa chỉ cửa hàng, nếu như lựa chọn địa chỉ cửa hàng là toạ Nam chiều Bắc, hoặc là toạ Tây chiếu Đông, mà điểm tụ tập của khách hàng cũng chính là hướng đặt của cửa hàng, như vậy thì cửa của cửa hàng không còn nghi ngờ gì nữa chỉ có hướng Bắc và hướng Đông là đẹp.

Nhưng nếu như vậy thì cửa hàng lại phạm vào điều kỵ húy là cửa không nên hướng Bắc, hướng Đông, trong mùa hạ thì cửa hàng chịu nắng chiếu trực tiếp mạnh mẽ, mùa đông thì phải chịu sự xâm nhập và tiến công của những cơn gió bắc. Trong tình hình đó, có thể vận dụng xử lý định luật tương sinh tương khắc của Âm dương Ngũ hành.

2415135468207019TTTMe60f57b5c112aae

Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào?

Nếu cửa hàng có tầng lầu, mà tầng hai sử dụng làm phòng làm việc, cửa của cửa hàng chiều hướng khách hàng, tiếng ồn ào từ phía cửa của cửa hàng có thể quấy nhiễu đến phòng làm việc của tầng hai. Để tránh điều đó, lối lên cầu thang không nên thiết kế đối diện với cửa chính của cửa hàng. Theo lý thuyết của phong thủy học, lối lên cầu thang mà đối với cửa lớn thì sẽ tích tụ sát khí ở cửa lớn (tiếng ồn ào) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những người đi lên tầng hai.

Cách giải quyết lý tưởng đó là, bố trí cầu thang ở mặt bên, lối lên cầu thang tránh mở ở cửa chính, theo lối sát bên tường mà lên lầu. Nếu có thể, tốt nhất là đặt ở giữa lối lên cầu thang và cửa lớn một tấm bình phong để ngăn tiếng ổn ào.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cửa của cửa hàng có tầng lầu thì nên thiết kế thế nào? –

Tham luận về tướng phá bại

Các dấu hiệu của sự phá bại Chữ phá bại dùng ở đây có nghĩa rộng rãi, bao gồm : - Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ - Tâm tính thấp hèn, ngu muội quá mức bình thường - Kết quả cuộc đời thường bi thảm : chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết thảm, đói rách, bị khinh rẻ … Đứng về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây :
Tham luận về tướng phá bại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


- Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa - Lông mày mọc thấp, lan xuống gần bờ mắt chủ về cùng khốn. Lông mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn …- Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu thêm mặt mập núng nính như mặt heo thì sẽ chết không toàn thây. - Mắt lớn, lồi và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hùng quang chủ về chết thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm - Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn. Thấp, hoặc có gân có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuống thất thường, chuẩn đầu má cao so với khuôn mặt và nhất là so với lưỡng quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại , quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.- Miệng nhỏ, môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch, lớn mà thường há hoác ra không khép kín lại đều chủ về cô đơn, nghèo hèn. Môi túm lại và nhô cao lên, khoé miệng trễ xuống, pháp lệnh ăn vào khoé miệng đều có ý nghĩa tương tự. Riêng pháp lệnh ăn vào khoé miệng gọi là “ Đằng xà nhập khẩu “ dù các bộ vị khác có tốt nhưng chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ.- Tai không có Luân, Quách rõ ràng minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về nghèo túng, đen đủi, thấp, lệch chủ về hèn mọn chết non.
Đại để những kẻ mà ngũ Quan đều vấp phải một trong các khuyết điểm của từng Quan kể trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng người phá bại.Ngoài tướng phá bại vì Ngũ Quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt sau đây cũng bị xếp loại vào tướng phá bại.
a) Lục cực: Đó là kẻ có một trong sáu dáng dấp cực đoan sau đây :
- Đầu lớn nhưng cổ nhỏ : chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số goá bụa, làm bé.- Mặt lớn, đầu nhỏ : chủ về nghèo và tính nết độc ác.- Thân thể phì nộm cao lớn mà tiếng nói quá nhỏ, không có âm lượng, chủ về vãn niên nghèo khổ, chết chờ tay người ngoài tống táng.- Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá lõm : chủ về hậu vận không ra gì- Vai lưng quá trơ xương so với toàn thể các phần khác của thể : chủ về nghèo hèn không con cái.- Chân cẳng khẳng khiu không tương xứng với thân mình : cùng một ý nghĩa như đệ ngũ cực kể trên.
b) Lục tiện: Xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong các khuyết điểm sau về đức hạnh cũng thuộc về tướng phá bại :- Không biết liêm sỉ, giữ gìn đạo lý.- Thường tự khoe mình (tự cao, tự đại)- Thích châm chích những khuyết điểm của người.- Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng.- Không biết lẽ tiến thoái trong khi giao thiệp hay làm việc- Lúc ăn hay nói chuyện huyên thuyên trên trời dưới đất (đây phải là một có tật bẩm sinh mới kể. Còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung quanh thì không kể)
c) Lục nại - Lông mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt chủ về hay bị hình phạm.- Ngay giữa Sơn căn có một lằn sâu chạy xuyên qua Aán đường lên tới giữa trán, Sống mũi cao gầy trơ xương : chủ về khổ sở, tai nạn.- Tròng mắt lồi cao rất tốt rõ : chủ về hình khắc.- Sống mũi có xương phát triển về chiều ngang và nổi cao lên chủ về trung niên phá tán, long đong vất vả.- Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.- Xương lộ, thịt xệ và thường gặp tai nạn, hung hiểm và có số cơ hàn.
d ) Lục ác- Đầu quá nhỏ, bần tiện, ngu độn.- Mắt dê : chết thảm hoặc đoản mệnh- Môi túm cong lên, răng lởm chởm : nghèo túng- Yết hầu lộ : khắc vợ, muộn con, hay gặp tai vạ.- Tam đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ, cô đơn lúc tuổi già.- Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi : long đong khốn quẫn.
e ) Thập sát - Mặt mày lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc.- Thần khí hôn ám thô bỉ- Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm.- Lỗ hếch hếch, sống mũi quá thấp gần như vào mặt phẳng của khuôn mặt.- Vô bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong miệng lúc nào cũng có đờm.- Chỉ có râu cằm mà môi trên không có ria- Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh và trong khi mọi người khác ở vào hoàn cảnh tương tự không có đổ mồ hôi.- Tự nói, tự cười với chính mình mà không cần người đối thoại.- Thanh âm khan lạnh giống như tiếng chó sói tru.- Bị bệnh hôi nách (ở đây phải hiểu là riêng nách có mùi hôi vì bệnh tật, còn các bộ phận khác không có mới kể vào thập sát. Nếu như vì không năng tắm gội mà toàn thân có mùi hôi hám thì không kể)
Bất kể phạm vào một trong thập ác nào thì cuộc đời cũng thường gặp hung hiểm, bất trắc ( hoặc về gia đạo, bạn bè, công danh, sự nghiệp v.v…). Càng gặp nhiều sát thì mức độ hung hiểm càng gia tăng và sự giải đoán càng thêm chính xác*.
Ngoài những nét tướng hình thể ở vị thế tĩnh hoặc bán tĩnh, bán động đề cập ở mục vừa kể liên quan đến phát đạt hay phá bại, ta còn phải kể đến những nét tướng về thần, khí sắc ( đặc biệt là khí, sắc ) ở từng bộ vị một. Những điểm này soạn giả đã trình bày khá tường tận ở chương “ Thần khí, sắc và khí phách” cho nên mục này không nhắc lại. Độc giả nên tham chiếu chương đó để việc giải đoán thêm phong phú.
* Trên đây là ý nghĩa thập sát của Phong Vân Tử, tác giả cuốn Giám nhân thuật Nghiễn Nông cư sĩ trong bộ Quan nhân ư vị (cuốn 4 trang 148) thì lại cho rằng “thập sát” là:
- 1 Dáng đi chậm chạm như người say - 2 Mũi khấp khúc - 3 Da mặt thô, đen đúa - 4 Mắt sần sùi như trái qua lâu (tên một loại dưa) - 5 Lông mày quá đậm - 6 Tiếng lanh lảnh như chó sói tru - 7 Giọng nói the thé - 8 Gian môn lõm và hãm - 9 Miệng quá rộng - 10 Mắt quá lớn.

1) Nhân tướng học & tiên liệu vận mạng
2) Ứng dụng Nhân tướng học vào việc xử thế
3) Tướng Phát  Đạt
4) Tướng Phá Bại
5) Thọ, Yểu qua tướng  người
6) Đoán tướng tiểu nhi
7) Phu Luân về tướng Phụ nữ
8) 36 tướng hình khắc
9) Những tướng cách phụ nữ
10) Nguyên lý Âm Dương Ngũ hành
11) Ứng dụng của Âm Dương trong Tướng Học
12) Tương quan giữa Sắc và con người
13) Ý niệm Sắc trong tướng học Á Đông
14) Bàn tay và tính tình
15) Quan điểm của  Phật giáo về vấn đề xem Tử Vi - Bói Toán

(Trích Lược Tử Vi : Tuổi Mùi,  năm nay số mệnh ra sao? 12 Con Giáp và những đặc tính)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tham luận về tướng phá bại

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P1)

Người tuổi Sửu sinh ngày mùng 2 âm lịch thường được mọi người tôn trọng, trung vận yên ổn, hậu vận vô ưu và sống khá thọ.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Sửu sinh ngày mùng 2 âm lịch thường được mọi người tôn trọng, trung vận yên ổn, hậu vận vô ưu và sống khá thọ.


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình
  Người tuổi Sửu sinh mùng 1   Người tuổi Sửu sinh mùng 1 đa phần thông minh lanh lợi, đối đãi chân thành với mọi người, có số li hương, càng đi xa thì sự nghiệp càng phát triển.   Người tuổi Sửu sinh mùng 2   Người tuổi Sửu sinh ngày mùng 2 âm lịch thường được mọi người tôn trọng, trung vận yên ổn, hậu vận vô ưu và sống khá thọ.
Người tuổi Sửu sinh mùng 3   Tài năng xuất chúng, hạnh phúc vô bờ, tiền vận trung bình, trung và hậu vận thành công rực rỡ về sự nghiệp, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.
Người tuổi Sửu sinh mùng 4   Cuộc đời người tuổi Sửu sinh mùng 4 lắm thăng trầm, bất ổn nhưng được sự trợ giúp của gia đình, anh chị em ruột thịt nên trung vận bình ổn. Ngày sinh này phù hợp với nữ giới hơn là nam giới.
Người tuổi Sửu sinh mùng 5   Ý chí kiên định, ham học hỏi, tiền vận trung bình, trung vận phát triển sự nghiệp vì có quý nhân trợ giúp, tuổi thọ cao.

Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Suu P1 hinh anh
Ảnh minh họa
  Người tuổi Sửu sinh mùng 6   Nhạy cảm, mưu sự đều thành, anh chị em hòa thuận, tiền vận khá vất vả nhưng trung vận chuyển tốt, hậu vận yên ổn.
Người tuổi Sửu sinh mùng 7   Ham học hỏi, sống có chừng mực lễ nghĩa, tài năng xuất chúng, tiền vận vất vả dựng cơ đồ, trung vận chuyển biến tốt đẹp, sự nghiệp thành công rực rỡ, gia đình hạnh phúc.
Người tuổi Sửu sinh mùng 8   Tiền vận bất ổn, trung vận gặp quý nhân nên vận thế hanh thông, sự nghiệp phát triển rực rỡ, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.   Người tuổi Sửu sinh mùng 9   Tâm địa lương thiện, cư xử hài hòa với mọi người, nhân duyên tốt. Nam mệnh giỏi giang, nữ mệnh thông minh xinh đẹp.
Người tuổi Sửu sinh mùng 10   Gia đình hòa thuận, sự nghiệp phát triển, tiền vận bình ổn, trung vận tài lợi đều hanh thông. Nam mệnh biết chăm lo cho gia đình, nữ mệnh vượng phu, trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp của chồng.   Người tuổi Sửu sinh ngày 11   Làm việc quyết đoán, dám làm dám chịu, tài vận đến khá muộn nhưng cũng có cuộc sống sung túc, đầy đủ.
Người tuổi Sửu sinh ngày 12   Đa phần người tuổi Sửu sinh ngày 12 âm lịch đều có tính cách ôn hòa, chăm chỉ, chịu khó chịu khổ để chinh phục mục tiêu. Người này có tiền vận bất thuận, trung vận chuyển biến tốt, phúc lộc song toàn, gia đình hạnh phúc.
Người tuổi Sửu sinh ngày 13   Người này có số hưởng phúc lộc trời ban, được mọi người tôn trọng, gặp nhiều quý nhân giúp đỡ, công thành danh toại, gia hưng, con cháu chu toàn, hiếu thuận, cuộc sống sung túc, đầy đủ.   Người tuổi Sửu sinh ngày 14   Nam mệnh trung hậu, chân thành, tính tình điềm đạm, tướng mạo ưa nhìn và có tài. Nữ mệnh thông minh giỏi giang, tuy nhiên tiền vận trung bình, trung vận mới phát đạt và hưởng phúc lộc dồi dào tới cuối đời.   Người tuổi Sửu sinh ngày 15   Cuộc đời vui buồn lẫn lộn, nhân duyên vợ chồng tốt nhưng con cái bất thuận, không hòa hợp, hay cãi nhau khiến cha mẹ lo lắng, chán nản.   An Khánh (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Sửu (P1)

Sao tốt: Âm Đức, U Vi Tinh, Kính Tâm, Tuế Hợp, Nguyệt Giải

Sao Âm Đức: tốt mọi việc. Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch): tháng 1: ngày Dậu; tháng 2: ngày Mùi; tháng 3: ngày Tỵ.
Sao tốt: Âm Đức, U Vi Tinh, Kính Tâm, Tuế Hợp, Nguyệt Giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Sao Âm Đức: tốt mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Dậu; tháng 2: ngày Mùi; tháng 3: ngày Tỵ; tháng 4: ngày Mão; tháng 5: ngày Sửu; tháng 6: ngày Hợi; tháng 7: ngày Dậu; tháng 8: ngày Mùi; tháng 9: ngày Tỵ; tháng 10: ngày Mão; tháng 11: ngày Sửu; tháng 12: Hợi.

Sao tot Am Duc, U Vi Tinh, Kinh Tam, Tue Hop, Nguyet Giai hinh anh
Tranh cát tường


2. Sao U Vi Tinh: tốt mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Hợi; tháng 2: ngày Thìn; tháng 3: ngày Sửu; tháng 4: ngày Ngọ; tháng 5: ngày Mão; tháng 6: ngày Thân; tháng 7: ngày Tỵ; tháng 8: ngày Tuất; tháng 9: ngày Mùi; tháng 10: ngày Tý; tháng 11: ngày Dậu; tháng 12: ngày Dần.

3. Sao Kính Tâm: tốt với việc tang tế

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Mùi; tháng 2: ngày Sửu; tháng 3: ngày Thân; tháng 4: ngày Dần; tháng 5: ngày Dậu; tháng 6: ngày Mão; tháng 7: ngày Tuất; tháng 8: ngày Thìn; tháng 9: ngày Hợi; tháng 10: ngày Tỵ; tháng 11: ngày Tý; tháng 12: ngày Ngọ.

4. Sao Tuế Hợp: tốt mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Sửu; tháng 2: ngày Tý; tháng 3: ngày Hợi; tháng 4: ngày Tuất; tháng 5: ngày Dậu; tháng 6: ngày Thân; tháng 7: ngày Mùi; tháng 8: ngày Ngọ; tháng 9: ngày Tỵ; tháng 10: ngày Thìn; tháng 11: ngày Mão; tháng 12: ngày Dần.

5. Sao Nguyệt Giải: tốt mọi việc

Ngày xuất hiện trong tháng (âm lịch):

Tháng 1: ngày Thân; tháng 2: ngày Thân; tháng 3: ngày Dậu; tháng 4: ngày Dậu; tháng 5: ngày Tuất; tháng 6: ngày Tuất; tháng 7: ngày Hợi; tháng 8: ngày Hợi; tháng 9: ngày Ngọ; tháng 10: ngày Ngọ; tháng 11: ngày Mùi; tháng 12: ngày Mùi.

Theo Bàn về lịch vạn niên

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao tốt: Âm Đức, U Vi Tinh, Kính Tâm, Tuế Hợp, Nguyệt Giải

Phong thủy tên con –

Phong Thủy Ngũ Hành là cơ sở hàng đầu để các bậc cha mẹ tham khảo đặt tên cho con cái của mình giúp các bé có được con đường đời thuận lợi trong tương lai. Đặt tên cho con theo ngũ hành chính là tuân theo quy luật tương sinh, tương khắc. Con người là

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

thuộc mệnh trời, do đó cái tên cũng phải hợp với mệnh trời. Âm dương ngũ hành chính là các hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Đặt tên cho con theo ngũ hành năm 2014: tên theo Hành Kim

Hành Kim chỉ về mùa Thu và sức mạnh. Đại diện cho thể rắn và khả năng chứa đựng. Mặt khác, Kim còn là vật dẫn. Khi tích cực, Kim là sự truyền đạt thông tin, ý tưởng sắc sảo và sự công minh. Khi tiêu cực, Kim có thể là sự hủy hoại, là hiểm họa và phiền muộn. Kim có thể là một món hàng xinh xắn và quý giá mà cũng có thể là đao kiếm.

Tích cực: Mạnh mẽ, có trực giác và lôi cuốn.
Tiêu cực: Cứng nhắc, sầu muộn và nghiêm nghị.

Danh sách tên cho con Thuộc Hành Kim bao gồm:

Đoan Ân Dạ Mỹ Ái
Nguyên Thắng Nhi Ngân Kính
Khanh Chung Điếu Nghĩa Câu
Xuyến Tiền Thiết Đĩnh Luyện
Hân Tâm Phong Vi Vân
Doãn Lục Phượng Thế Thăng
Nhâm Tâm Văn Kiến Hiện

dat-ten-con-theo-phong-thuy-2014

Đặt tên cho con theo ngũ hành: tên thuộc Hành Mộc

Mỗi bé có những ngày giờ và năm sinh khác nhau, do vậy khi đặt tên các bậc phụ huynh cũng phải cần lưu ý một số điều. Đối với những bé thuộc Hành Mộc. Bây giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này.

Mộc chỉ mùa xuân, sự tăng trưởng và đời sống cây cỏ.
Tích cực: Có bản tính nghệ sỹ, làm việc nhiệt thành.
Tiêu cực: Thiếu kiên nhẫn, dễ nổi giận, thường bỏ ngang công việc.
Ngũ hành Đặt tên thuộc Hành Mộc

Tổng hợp tên cho con thuộc Hành Mộc

Khôi Tùng Hương Kiện Trà Bản Đà Thư
Lê Cúc Lan Bách Lam Lý Trượng Sửu
Nguyễn Quỳnh Huệ Xuân Lâm Hạnh Kỷ Phương
Đỗ Tòng Nhị Quý Giá Thôn Thúc Phần
Mai Thảo Bách Quan Lâu Chu Can Nam
Đào Liễu Lâm Quảng Sài Vu Đông Tích
Trúc Nhân Sâm Cung Vị Tiêu Chử Nha
Đệ Ba Nhạ Kỳ Thị Bính Giao Phúc
Phước Sa Hộ Chi Bình

Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy hành Hỏa cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.

Đặt tên cho bé sinh năm 2014: tên thuộc hành Hỏa

Chúng ta sẽ tiếp tục đi tìm hiểu và lựa chọn những cái tên phù hợp cho các bé thuộc Hành Hỏa.

Khái niệm Hành Hỏa chỉ mùa hè, lửa và sức nóng. Hỏa có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự công bằng. Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính gây hấn và chiến tranh.

Tích cực: Người có óc canh tân, khôi hài và đam mê.
Tiêu cực: Nóng vội, lợi dụng người khác và không mấy quan tâm đến cảm xúc

Sau đây là các tên thuộc Hành Hỏa

Đan Thước Huy Đoạn Kim
Đài Lô Quang Dung Ly
Cẩm Huân Đăng Lưu Yên
Bội Hoán Hạ Cao Thiêu
Ánh Luyện Hồng Điểm Trần
Thanh Noãn Bính Tiết Hùng
Đức Ngọ Kháng Nhiên Hiệp
Thái Nhật Linh Nhiệt Huân
Dương Minh Huyền Chiếu Lãm
Thu Sáng Cẩn Nam Vĩ

Đặt tên cho con thuộc Hành Thủy

Con bạn sinh ra thuộc mệnh Hành Thủy? Bạn đang phân vân không biết lựa chọn cái tên nào sao cho phù hợp? Trước tiên để đặt tìm được một cái tên phù hợp cho con thì bạn cần biết Hành Thủy là gì?

Hành Thủy chỉ về mùa đông và nước nói chung, cơn mưa lất phất hay mưa bão. Chỉ bản ngã, nghệ thuật và vẻ đẹp. Thủy có liên quan đến mọi thứ. Khi tích cực, Thủy thể hiện tính nuôi dưỡng, hỗ trợ một cách hiểu biết. Khi tiêu cực, Thủy biểu hiện ở sự hao mòn và kiệt quệ. Kết hợp với cảm xúc, Thủy gợi cho thấy nỗi sợ hãi, sự lo lắng và stress.

Tên cho bé thuộc Hành Thủy

Tích cực: Có khuynh hướng nghệ thuật, thích kết bạn và biết cảm thông.
Tiêu cực: Nhạy cảm, mau thay đổi và gây phiền nhiễu.

Các tên hay cho bé thuộc Hành Thủy

Lệ Hồ Kiều Thương Quang Cương Đồng
Thủy Biển Tuyên Trọng Toàn Sáng Danh
Giang Trí Hoàn Luân Loan Khoáng Hậu
Hà Võ Giao Kiện Cung Vạn Lại
Sương Vũ Hợi Giới Hưng Hoa Lữ
Hải Bùi Dư Nhậm Quân Xá Lã
Khê Mãn Kháng Nhâm Băng Huyên Nga
Trạch Hàn Phục Triệu Quyết Tuyên Tín
Nhuận Thấp Phu Tiến Liệt Hợp Nhân
Băng Mặc Hội Tiên Lưu Hiệp Đoàn
Vu Di Vọng Uyên Nhung Khương Kỷ
Khuê Giáp Tự Đạo Hoàn Khanh Cấn
Tráng Như Tôn Khải Tịch Bách Quyết
Khoa Phi An Khánh Ngạn Bá Trinh

Cách đặt tên cho bé theo hành Thổ trong ngũ hành

Đặt tên con theo hành Thổ: Hành Thổ chỉ về môi trường ươm trồng, nuôi dưỡng và phát triển, nơi sinh ký tử quy của mọi sinh vật. Thổ nuôi dưỡng, hỗ trợ và tương tác với từng Hành khác. Khi tích cực, Thổ biểu thị lòng công bằng, trí khôn ngoan và bản năng; Khi tiêu cực, Thổ tạo ra sự ngột ngạt hoặc biểu thị tính hay lo về những khó khăn không tồn tại.

Tích cực: Trung thành, nhẫn nại và có thể tin cậy.
Tiêu cực: Có khuynh hướng thành kiến.

Sau đây là các tên thuộc hành thổ

Cát Kiệt Quân Kỳ Diệp Lập
Sơn Thạc Trung Cơ Đinh Thảo
Ngọc Trân Diệu Viên Vĩnh Huấn
Bảo Anh San Liệt Giáp Nghị
Châu Lạc Tự Kiên Thân Đặng
Châm Lý Địa Đại Bát Trưởng
Nghiễn Chân Nghiêm Bằng Bạch Long
Nham Côn Hoàng Công Thạch Độ
Bích Điền Thành Thông Hòa Khuê

Đặt tên theo ngũ hành cho con cũng không hẳn là một điều quá khó khăn đối với bạn. Tuy nhiên, các bạn cũng phải lưu ý sự linh hoạt khi đặt tên cho bé nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy tên con –

Bản nhạc chết chóc

Bản nhạc chết chóc là tên người ta gọi bản Gloomy Sunday (Ngày chủ nhật u buồn) của nhạc sĩ dương cầm Rezso Seress, bởi nó bị coi là khiến cho nhiều người tìm
Bản nhạc chết chóc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

đến cái chết.

Ban nhac chet choc hinh anh
 
Bản nhạc chết chóc thể hiện tâm trạng đau khổ, tuyệt vọng của một người đàn ông thất tình, đợi chờ khôn nguôi một  tình yêu đích thực. Các nhà sản xuất đĩa nhạc cho rằng bài hát nghe rất lạ và quá buồn thảm để trở thành một đĩa nhạc có giá trị vì “nghe nhạc và lời quá buồn thảm, rợn người”. Và kể từ khi được phát hành, bản nhạc ma quái bắt đầu gieo rắc tội ác, mang “lưỡi hái của Thần Chết” tới nhiều người.
 
Tại Budapest, một người đàn ông ngồi trong quán cafe đông đúc, yêu cầu nhạc công chơi bản “Gloomy Sunday”. Ông vừa nhấm nháp champagne, vừa thưởng thức. Bản nhạc chấm dứt, ông ta trả tiền, rời khỏi quán và vẫy một chiếc taxi. Đó cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông khi vừa bước lên xe, ông liền lôi ra một khẩu súng và tự kết liễu cuộc đời bằng một phát bắn chí mạng.
 
Một cô gái bán hàng trẻ đã treo cổ tự tử tại Berlin vài ngày sau đó. Khi phát hiện ra thi thể cô, người ta thấy bên dưới chân cô có tờ giấy in bản nhạc “Gloomy Sunday”. Tại New York, một cô thư kí xinh đẹp cũng tự tử bằng hơi gas trong căn hộ chung cư của mình. Tại hiện trường, người ta tìm thấy mẩu giấy nhỏ ghi lại tâm nguyện cuối đời của cô: mong muốn được chơi bản nhạc “Gloomy Sunday” trong lễ an táng cô.
 
Thời điểm đó, bản nhạc “Gloomy Sunday” đã bị coi là gây ra những cái chết lạ lùng cho một số người nghe nó, không phân biệt tuổi tác, tầng lớp. Một người đàn ông 80 tuổi tự kết liễu cuộc đời bằng cú nhảy từ cửa sổ tầng 7 xuống đất trong khi đang nghe bản nhạc này. Một cô bé 14 tuổi chết đuối khi trong tay còn đang cầm một bản copy của bản nhạc chết chóc này. Quái dị hơn một số người tại Italia kể lại, một cậu bé đang đi trên đường bỗng gặp một người đàn ông đang chơi bản nhạc “Gloomy Sunday”. Cậu đột ngột dừng lại, dốc sạch số tiền trong túi ra cho người ăn xin đó, rồi chẳng nói chẳng rằng đi tới một cây cầu, nhảy xuống tìm lấy cái chết.
 
Trên khắp thế giới, tin tức về những cái chết liên quan tới bản nhạc “Gloomy Sunday” ngày càng nhiều, chân thực có mà được thêu dệt dựa trên trí tưởng tượng của những gười kém bóng vía cũng không ít. 
 
Tại Anh, các công ty truyền thông đã phải cấm phát bản nhạc chết chóc này trong những buổi phát thanh thường lệ trên làn sóng của mình. Lệnh cấm lưu hành bài hát được nhiều nước đưa ra, nhưng càng cấm thì bài hát càng nổi tiếng, càng được nhiều người tò mò, cho rằng đó là chuyện tầm phào và tìm mua để nghe thử. Kết cục đến với họ là những cái chết không lí do. 
 
Khi người ta thống kê được số lượng khổng lồ những vụ tự tử trên khắp thế giới có liên quan đến bài hát chết chóc của Rezso thì ông bắt đầu hoảng sợ thực sự. Rezso cố gắng thu hồi lại bản nhạc “Gloomy Sunday”, nhưng mọi nỗ lực ấy không thành. Bài hát càng bị cấm, nó lại càng trở nên phổ biến hơn khi những bản copy lậu được bày bán tràn lan trên đường phố. 
 
Reszo Seress đã trở thành một người luôn bị ám ảnh bởi những cái chết do bài hát của ông ta gây nên. Có lẽ do quá ám ảnh bởi “Gloomy Sunday” nên đến năm 1968, Rezso cũng tự kết liễu cuộc đời mình bằng một sợi dây oan nghiệt.
► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật

ST

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bản nhạc chết chóc

Tin tức Tìm kiếm Nguyên tắc treo tranh ảnh hợp phong thủy

Theo phong thủy, việc xếp đặt các tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh hợp lý rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng đến hạnh phúc và tài lộc của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Tăng sự giàu có, thịnh vượng

Gia chủ có thể sử dụng tranh ảnh, tượng ở phía đông nam (chứa năng lượng Mộc) của ngôi nhà. Tránh việc sử dụng các yếu tố nước trong phòng ngủ, bởi nó sẽ tạo ra các nguồn năng lượng hỗn xung, khiến gia đình không có được giấc ngủ thư thái.

Bạn cũng có thể sử dụng tranh vẽ hoặc tranh thêu có hình cây tre, hoa sen hoặc các loài chim quý, đôi nai tình tứ hoặc ảnh miêu tả hồ nước.

Tranh ảnh hình hoa sen bổ trợ cho sự thịnh vượng của gia đình bạn. Ảnh: Aliexpress.

Phía Nam của ngôi nhà (năng lượng Hỏa) là khu vực của danh tiếng, kiến thức, lòng tự tôn và tiềm năng bản thân. Để giúp tăng cường năng lượng cho khu vực này, bạn nên treo các tác phẩm có hình rồng (màu nâu hoặc xanh lam), ngựa đang chạy trên vùng nước nông, con công đầy màu sắc và phượng hoàng đang vỗ cánh bay.

2. Tăng danh tiếng, danh vọng

Phía Nam của ngôi nhà (năng lượng Hỏa) là khu vực của danh tiếng, kiến thức, lòng tự tôn và tiềm năng bản thân. Để giúp tăng cường năng lượng cho khu vực này, bạn nên treo các tác phẩm có hình rồng (màu nâu hoặc xanh lam), ngựa đang chạy trên vùng nước nông, con công đầy màu sắc và phượng hoàng đang vỗ cánh bay.

3. Bổ trợ cho các mối quan hệ

Hãy tăng cường nguồn năng lượng phía tây nam (năng lượng Thổ) nếu bạn muốn có các mối quan hệ tốt đẹp trong công việc, tình yêu và hôn nhân. Đá thạch anh tím là lựa chọn hoàn hảo để thúc đẩy dưỡng khí tại khu vực này. Ngoài ra, bạn cũng có thể đặt cặp tượng rồng và phượng bằng đồng, treo biểu tượng song hỷ bằng cuộn giấy nhung, dập chữ vàng hay bức tranh có những trái đào hồng tươi.

4. Tăng cường hạnh phúc gia đình

Năng lượng bổ trợ sức khỏe và hạnh phúc gia đình nằm ở khu vực phía đông (năng lượng Mộc) của ngôi nhà. Bạn có thể treo tranh phong cảnh hoặc đàn sếu đầy màu sắc tươi tắn, đặt cặp tượng sếu bằng gỗ, treo bức ảnh lớn có hình quả đào, cây đào hoặc khung hình giỏ trái cây đa sắc.

5. Bổ trợ cho con cái, phát huy sáng tạo

Đại diện cho phía tây (năng lượng Kim) của ngôi nhà là hình ảnh con cháu và năng lượng sáng tạo trong cuộc sống. Khu vực này tượng trưng cho sự khởi phát của niềm vui của mọi thành viên. Vì thế, hãy trang trí những tác phẩm nghệ thuật có các hình ảnh phong phú, khơi gợi trí tưởng tượng cao.

Một bức tranh thêu hoặc tranh vẽ hoa cúc, hình chú cá heo thông minh hoặc phù điêu hình cây lựu hay khung kim loại tinh tế là những vật trang trí hợp phong thủy trong khu vực này. Đối với phòng bé, bạn nên đặt những tác phẩm nghệ thuật gợi cảm giác hạnh phúc, yêu đời, nguồn cảm hứng sáng tạo.

6. Nâng cao kiến thức, học vấn

Đó là những yếu tố thuộc khu vực phía đông bắc (năng lượng Thổ) của ngôi nhà. Bạn nên đặt tượng con rồng ngậm hạt ngọc trên đế bằng gỗ hoặc đôi cá chép vượt qua long môn hay đặt quả cầu pha lê, treo các bức tranh hình chùa chiền.

7. Bổ trợ sự nghiệp và đường đời

Để bổ trợ cho đường sự nghiệp và công danh (nằm ở phía bắc - năng lượng Thủy), bạn sử dụng tượng hình con voi bằng gốm sứ, gỗ. Bạn có thể treo một bức tranh lớn in hình gà trống, đặt tượng bằng kim loại có hình ảnh thuyền buồm hoặc tàu đẹp mắt, bố trí công trình nước nghệ thuật, treo chuông gió có những âm thanh sống động, nhẹ nhàng.

8. Mong cầu gặp quý nhân

Nằm ở phía tây bắc của ngôi nhà (năng lượng Kim), các yếu tố này sẽ được thúc đẩy, nếu gia chủ treo hình ảnh các vị thần phù trợ hoặc thiên thần như ba bức tượng Phúc Lộc Thọ bằng đồng hoặc gốm. Ngoài ra, có thể đặt tượng thần tài bằng đồng, treo đồng hồ, treo hình những thiên thần nhỏ đáng yêu.

Điều quan trọng trong sử dụng các hình ảnh, biểu tượng nghệ thuật phong thủy là các tác phẩm đó phải toát lên được nét hạnh phúc, vui tươi. Những tư vấn trên cũng có thể áp dụng cho văn phòng làm việc.

(Theo Vnexpress)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tin tức Tìm kiếm Nguyên tắc treo tranh ảnh hợp phong thủy

Bí mật phong thủy của nhà để xe

Tại sao lại cần quan tâm tới phong thủy nhà để xe, nó ảnh hưởng ra sao tới bạn. Nếu bị phạm phong thủy, cần làm những gì để hóa giải. Bài viết sau sẽ giải mã bí mật này

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn nên biết lý do tại sao cần quan tâm tới vị trí phong thủy của nhà để xe và biết cách chọn vị trí đậu xe phù hợp để giữ bình an

Mỗi ngày khi bạn lái xe về nhà, chiếc ô tô bạn lái cũng tiềm ẩn những yếu tố phong thủy. Một ngôi nhà khi được thiết kế đã được các chuyên gia Phong thủy tính toán cát hung tọa hướng của cửa chính để giúp người chủ hóa giải hung khí. Nhưng khi lái xe, căn bản chúng ta không hề sử dụng đến cửa chính của tòa nhà. Mỗi ngày bạn đều đi về từ cửa của bãi đỗ xe, cho nên bãi đỗ xe đã trở thành không gian phong thủy quan trọng của bạn. Nói một cách khác là có ảnh hưởng tốt xấu đến vận khí của bạn.

phong thủy của nhà để xe tránh hung gặp cát

Tốt nhất là bạn nên kiểm tra kỹ xem cửa ra vào của bãi đỗ xe nằm ở hướng nào. Nếu cửa ra vào bãi đỗ xe mà phạm phải Ngũ hoàng, Nhị hắc trong lưu niên thì bạn cần phải lưu ý tới vấn đề này. Trong trường hợp phạm phải 2 sao trên bạn nên đặt đồng tiền bằng đồng hoặc vật phong thủy vào vị trí này để hóa giải. Nhất định không được xem nhẹ cửa ra vào của bãi đỗ xe trong nhà, có khả năng lớn cửa của bãi đỗ xe mới chính là cửa khí thực sự trong ngôi nhà bạn (vì bạn sử dụng nó nhiều hơn cả!!! ).

Còn về vị trí đỗ xe trong nhà, xét về phong thủy cũng là vấn đề cần phải chú ý. Khi bạn đi ô tô thuộc mệnh Hỏa, nếu vị trí đỗ xe nằm ở góc Tây Bắc, nam chủ nhân cần Hỏa thì vị trí đỗ xe này có lợi cho anh ta. Nhưng nếu nam chủ nhân kỵ Hỏa, bãi đỗ xe nằm ở góc Tây Bắc, thì bát tự của nam chủ nhân này biến thành lửa lớn đốt cháy cơ thể tạo ra nhiều ảnh hưởng bất lợi. Cách hóa giải triệt để là không sử dụng bãi đổ xe này nữa và thay bằng bãi đỗ xe ở vị trí phù hợp (áp dụng khi bạn sử dụng bãi đỗ xe bên ngoài).

Giả sử nhất định phải đánh xe vào bãi đỗ xe này (thường là bãi đỗ xe riêng của nhà bạn) thì vị trí đỗ xe bạn nên cố gắng dùng màu trắng, bên cạnh đặt một xô nước đầy. Đây là cách thức dùng Kim làm suy giảm Hỏa và dùng Thủy để khắc chế Hỏa, mục đích là làm giảm thiểu khí Hỏa tại vị trí đỗ xe.

Một ví dụ khác, bản thân người nọ cần Hỏa, anh ta thường xuyên lái chiếc xe BMW màu đỏ dừng ở vị trí trước nhà mà không chịu lái xe vào bãi đỗ xe. Dùng la bàn kiểm tra, hướng đỗ xe chính là hướng Đông, mà anh này lại là con trưởng trong nhà, khi anh ta hành vận, một cách ngẫu nhiên anh ta luôn dừng xe trước cửa chính ở hướng Đông mà Hỏa may mắn lại là dụng thần của anh ta. 

Lựa chọn màu xe hợp với phong thủy và tuổi của bạn

Thường thì có hai cách lựa chọn màu xe theo tuổi. Cách thứ nhất là dựa vào niên mệnh năm sinh của bạn để xác định ngũ hành tương ứng. Cách thứ hai là phân tích Tứ Trụ để tìm ra ngũ hành của Dụng thần như đã nói trong ví dụ trên.

Cách 1: Ngũ hành theo niêm mệnh năm sinh

Ví dụ bạn sinh vào năm 1980, niêm mệnh là Canh Thân - Thạch Lựu Mộc thuộc hành Mộc. Bạn có thể sử dụng các màu thuộc hành Mộc hoặc hành Thủy (Thủy sinh Mộc) cho màu của chiếc xe như: màu xanh lá cây hoặc màu đen, màu xanh nước biển.

Ưu điểm của cách này là dễ dàng và mọi người đều có thể tự làm được. Khuyết điểm của nó là độ chính xác thấp, bởi chỉ quan tâm tới một mình yếu tố năm sinh cũng như bỏ qua sự tương tác xung khắc trong ngũ hành Bát tự. Trong nhiều trường hợp còn gây ra tác dụng ngược lại do màu sắc của bản mệnh lại làm mất sự cân bằng ngũ hành âm dương trong Bát tự.

Cách 2: Ngũ hành của Dụng thần trong Tứ Trụ

Ngày, giờ, tháng, năm là bốn yếu tố để xác định để xác định thời điểm con người sinh ra. Ngũ hành nội tại tàng ẩn trong con người phụ thuộc vào thời điểm đó. Tứ Trụ sử dụng nguyên lý phân tích ngũ hành trong Bát Tự (Thiên Can và Địa Chi của giờ phút, ngày, tháng, năm sinh) để phát hiện hành nào bị suy, hành nào quá vượng, từ đó đưa ra ngũ hành cần bổ khuyết (Dụng thần) nhằm đạt được yếu tố cân bằng ngũ hành.

Sử dụng tiện ích Màu xe hợp tuổi của Xem Tướng chấm net để phân tích Tứ Trụ của bạn và đưa ra màu sắc của xe hợp với Bát tự.

Kết luận

Từ ví dụ phong thủy này có thể khẳng định, một chiếc xe đỗ ở vị trí nào trong nhà, kỳ thực đều có thể tác động đến Ngũ hành vận khí của những thành viên sống ở đó. Việc đỗ xe như thế nào quyết định đến thế vận của thành viên trong ngôi nhà ấy.

Những người sống trong ngôi nhà gần bãi đỗ xe phải lưu ý, gần nhà bạn có nhiều yếu tố Hỏa, bạn cần phải xem xét Hỏa ở vị trí ấy cần hay không cần cho các thành viên gia đình sẽ quyết định đến cát hung cho phong thủy nhà bạn.

Ví dụ, hướng Bắc trong nhà là bãi đỗ xe, con trai thứ cần Hỏa thì bãi đỗ xe này có lợi cho người con trai thứ, nhưng nếu trai thứ kỵ Hỏa, mà bãi đỗ xe nằm ở hướng Bắc, vậy thì phong thủy bất lợi cho người con này, phải đặt vật phẩm phong thủy để hóa giải. Thông thường dùng Thổ để hóa giải, đặt vật thuộc Thổ vào vị trí dừng xe thì có thể hóa giải được Hỏa sát.

Nếu trong nhà có vườn hoa, có thể tìm một viên đá cuội lớn tròn nhẵn đặt vào hướng của bãi đỗ xe. Nếu trong nhà không có đủ không gian có thể đặt sỏi lên bậu cửa sổ, đặt tất cả 8 viên, xếp thành hàng là có thể hóa giải được Hỏa sát.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí mật phong thủy của nhà để xe

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống. Cuộc sống có như rủi ro những bất trắc luôn rình rập mà chúng ta không thể ngờ tới được

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống. Cuộc sống có như rủi ro những bất trắc luôn rình rập mà chúng ta không thể ngờ tới được. Lòng dạ con người rất khó đoán chỉ họ mới hiểu hết mình thôi còn những người xung quanh không bao giờ đoán được họ đang nghĩ gì.

Bài viết những câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống sẽ khắc họa rõ nét nhất về những gì xảy ra trong cuộc sống bạn cùng tham khảo nhé!

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Theo chỉ dẫn của người khác, mù quáng mà bước về phía trước, có thể bước tiếp theo bạn sẽ ngã xuống. Vậy bạn nên: Trở thành người chỉ dẫn, bạn phải là người khổng lồ để ra lệnh.

———-

Đằng sau mỗi một nụ cười, là điều gì ẩn giấu phía sau. Vậy bạn nên: Sống tốt, sống đẹp bởi vì nham hiểm và giả dối sẽ gặp giả dối và nham hiểm.

——-

Mỗi người đều có hàng trăm nghìn dáng vẻ, muốn nhìn thấu một con người, quả thực rất khó.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Rất nhiều người chỉ dựa vào khuôn mặt để sống, mà không biết rằng họ sớm đã sống tạm bợ vật vờ như cái xác chết khô. Vậy bạn nên: Bỏ qua định kiến chỉ đánh giá con người vội vàng qua bề ngoài.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Người phụ nữ luôn dựa vào đàn ông cuối cùng sẽ bị gục ngã, cho nên, dựa vào ai cũng không bằng dựa vào chính mình.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Một kẻ địch thành thực, còn hơn một người bạn giả dối. Vậy bạn nên: Nhìn trước nhìn sau, đừng kể lể dài dòng nếu chưa nhìn thấy người nghe đang có cái gì trong tay.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Nhân sinh như một vũ đài, chưa tới màn chào cảm tạ khán giả, bạn vĩnh viễn không biết được mình diễn hay tới đâu. Vậy bạn nên: Hiểu rõ từng chặng của hành trình và đích đến. Cố diễn tốt từng phần, tốt phần nào nhận hoa phần đó, nhưng đừng tự đắc ý, nụ cười cuối cùng mới là nụ cười chiến thắng.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Người gọt giũa các góc đi rất nhanh, và khi xuống dốc thì sẽ còn lăn được rất xa. Vậy bạn nên: Hiểu rõ rằng đừng làm việc nặng nhọc, hãy làm việc thông minh. Nhưng thông minh quá cũng sẽ lạc lõng và tách biệt.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Điều đáng sợ không phải là người thực sự xấu, mà là người tốt . Vậy bạn nên: Tránh những người đạo đức giả, bạn không thể lường rằng họ rót cho bạn cốc nước để đã khát nhưng thuốc độc còn nguy hiểm hơn.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Xuất phát điểm của mỗi một người là như nhau. Nhưng cuộc sống vốn dĩ không công bằng, ngay cả sự bình đẳng nếu có cũng chỉ tương đối. Đừng bon chen nếu không đủ nguồn lực.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Khi bạn đang tính kế với người khác, có thể cũng có ai đó đang tính kế với bạn. Vậy bạn nên: Tìm hiểu kỹ khi xác định chỗ ẩn nấp, chẳng có nơi ẩn nấp nào an toàn tuyệt đối. Tốt nhất là sống sao không cần ẩn nấp.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Khi xây dựng ánh sáng cho bản thân, bạn có thể tránh được sự hãm hại của người khác trong bóng tối không? Bạn phải tranh đấu nhưng đừng quá tham lam. Bạn không thể hưởng hết ánh sáng cũng không thể dồn hết bóng tối cho người khác. Hãy vừa đủ!

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Đừng kỳ vọng có bao nhiêu người đối xử tốt với bạn. Kỳ thực, nhiều lúc mọi người luôn lãnh đạm vô tình, họ coi các sự việc khác đều không liên quan tới mình. Vậy bạn nên: Biết cuộc sống này quá phức tạp, bạn hùa theo đám đông cũng có thể chết, bỏ đám đông cũng dễ chết. Vậy thì hãy có 1 nhóm vừa đủ với mình, như gia đình, như những người bạn thân thực sự, những người tri kỷ. Đừng hùa theo đám đông hết mình, cũng đừng đơn độc 1 mình.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Ai cũng mong đợi một tình yêu cân bằng và hạnh phúc. Bạn hãy trở lại mặt đất, nếu đã yêu phải chấp nhận cả những bất công trong tình yêu.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Có những lúc biểu hiện ẩn giấu dưới vẻ ngoài xinh đẹp đều là xấu xa và hiểm ác. Đừng quá thật thà!

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Hãy làm một người cha người mẹ biết lắng nghe và thấu hiểu, đừng áp đặt suy nghĩ của mình để rồi huyễn hoặc mình đang muốn tốt cho con.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Hãy chia sẻ với người thân, rằng bạn làm mọi việc đều vì họ để san sẻ gánh nặng. Và hãy trân trọng các công việc mà bạn đang làm.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Đằng sau một người đàn ông thành đạt, nhất định có một người phụ nữ đã âm thầm giúp đỡ cho anh ta mà không yêu cầu sự báo đáp; đằng sau một người phụ nữ buông thả, chắc chắn có 100 người đàn ông chiều chuộng cô ta.

Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Bạn bắt buộc phải đi về phía trước, bởi vì bạn đã không còn đường lùi nữa rồi! Vậy bạn nên: Bước về phía trước là tất nhiên, nhưng khéo léo nhé, vì nếu vội vàng và càng tạo ra sự rung chuyển thì sự đổ vỡ còn nhanh hơn tốc độ tiến bước của bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Câu nói và hình ảnh khiến bạn giật mình về cuộc sống

Cách hóa giải nhà vệ sinh giữa nhà –

Theo xu hướng thiết kế chung trong những năm gần đây, nhà vệ sinh trong các chung cư thường hay được đặt ở khu vực giữa cửa nhà hoặc khu vực gần cửa chính (khí khẩu) của căn hộ, có khi nhà vệ sinh có thiết kế cửa nằm đối diện với phòng ngủ chính. The

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

o nguyên tắc  phong thủy, nhà vệ sinh đặt ở khu vực này sẽ khiến ngôi nhà bị uế khí, gây ảnh hưởng đến vận khí, đặc biệt là sức khoẻ của gia đình.

Khu vực trung tâm của ngôi nhà được ví như lá phổi để điều quản không khí sinh hoạt chung của cả gia đình. Vì thế nếu đặt nhà vệ sinh ở khu vực trong phong thủy là điều cấm kỵ, gia chủ rất dễ đau ốm và dễ xảy ra cãi cọ…. Chưa nói đến việc bất tiện trong việc lắp đặt hệ thống cấp thoát nước sẽ buộc phải chạy vòng qua phía dưới các  khu sinh hoạt của nhà ở, vừa không tiện lại khó sửa chữa nếu như có sự cố gì. Ngoài ra, cửa phòng vệ sinh rất kỵ xung chiếu (đối diện) với bếp ăn, phòng ngủ và cửa chính.  Cửa chính được gọi là “khí khẩu”, là nơi tiếp thu vận khí từ bên ngoài vào trong nhà. Nếu cửa phòng vệ sinh hướng ra cửa chính, những khí tốt và tài lộc của gia chủ sẽ bị cản lại, không khí sinh hoạt gia đình sẽ không được hòa thuận, vui vẻ, dễ xảy ra xung đột, cãi lộn. Nếu đối diện với cửa nhà bếp hoặc chính diện với bếp ăn, sự hôi hám và luồng khí âm từ nhà vệ sinh sẽ “ám” vào thức ăn, gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của các thành viên trong gia đình, bệnh tật , đau ốm liên miên. Phòng vệ sinh mang biểu tượng của Thủy khí, nhà bếp mang biểu tượng của Hỏa khí. Hai phòng này nếu đối diện nhau sẽ gây nên sự xung khắc lớn, gây hao tốn tài của và mang bệnh tật đến cho gia chủ.

Có thể thấy, một bước sai lầm trong việc đặt vị trí của nhà vệ sinh sẽ kéo theo đó không ít tác hại. Nhịp sống mở,con người đã dần dần ý thức trong việc sử dụng nhà vệ sinh không chỉ là nơi dùng để tắm rửa, vệ sinh thông thường nữa, mà thay vào đó là sự trau chuốt , tỉ mỉ từ những chi tiết nhỏ nhất như họa tiết viên gạch lát nền hay đến hình thức của bàn cầu cũng được rất chú trọng, để biến nhà vệ sinh còn trở thành một nơi lý tưởng giúp hòa dịu áp lực cuộc sống, giải phóng thể xác cũng như tinh thần sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng nếu thiết kế  như ở trên thì vô hình chung đã biến nhà vệ sinh trở thành một nơi gieo “mầm họa”. Vậy khắc phục như thế nào, sửa chữa ra sao mới thuận?

thach-anh-bao-binh-thuy

Ắt hẳn việc gia cố lại nhà vệ sinh không phải là việc dễ dàng với mỗi gia đình. Với nhà đã hoàn thiện thì việc thay đổi thiết kế là việc tương đối khó, dễ phát sinh nhiều chi phí và phụ thuộc vào tiềm lực tài chính của gia chủ. Vậy trong trường hợp nguồn tài chính hạn hẹp, không thể đập đi xây mới lại căn nhà thì không lẽ phải chịu “sống chung với lũ”? Thạch anh bảo bình thủy hóa giải được điều này. Theo nghiên cứu, thạch anh bảo bình thủy được làm từ đá thạch anh dương khí rất mạnh, có tính chất hút âm khí trong nhà vệ sinh hóa giải một phần lớn khí xấu trong nhà vệ sinh giúp cải thiện sức khỏe, gia đạo và tài lộc. Khi sử dùng thạch anh bảo bình thủy nên có chứa nước bên trong để tăng uy lực. Khi khí đá trong bình chuyển màu vàng hoặc xám thì lấy nước sạch lau rửa rồi cho vào vị trí cũ. Chỉ với phương cách đơn giản này, có thể vừa khắc phục và giảm thiểu đáng kể những vận “xấu” do việc thiết kế nhà vệ sinh sai vị trí, đồng thời còn mang lại cho gia đạo thêm nhiều bình an và may mắn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải nhà vệ sinh giữa nhà –

Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon, Phong thủy phòng ngủ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon, tu vi Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon, tu vi Phong thủy phòng ngủ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon

Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon. Khoa học đã chứng minh rằng, vị trí kê giường có ảnh hưởng rất nhiều đến việc bạn có giấc ngủ ngon hay không. 1. Không kê giường ở nơi có rung động xấu Theo Alberto Aiguer, chuyên gia tâm lý, nhà phân tâm học người Pháp, kê đầu giường quay về hướng Bắc được cho là có tác dụng thúc đẩy giấc ngủ ngon. Điều này được rút ra dựa trên nghiên cứu từ nhiều vùng địa lý khác nhau.   giấc ngủ ngon 1

Tránh kê giường ở nơi mà dưới lòng đất có mạch nước ngầm để hạn chế những rụng động xấu.

 
Việc kê giường theo hướng Bắc – Nam giúp hạn chế tối đa những ảnh hưởng xấu do tác động của mạch nước ngầm – nơi lực từ rất mạnh, ảnh hướng đến giấc ngủ ngon của các thành viên trong gia đình bạn.  2. Kê giường cạnh hoặc đối diện nhà vệ sinh cũng không tốt theo phong thủy Một số vị trí không thích hợp để kê giường, như là cạnh bếp hoặc chiếu thẳng vào bếp; đối diện cửa sổ và cửa ra vào; đối diện hoặc cạnh nhà vệ sinh; quá gần với cầu dao điện;… Bên cạnh đó, những vật dụng không nên đặt cạnh giường bao gồm: gương, tủ kệ, đèn,…Bạn có thể xem chi tiết về các vị trí kê giường nên kiêng kỵ.   giấc ngủ ngon 2

Vị trí kế giường có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giấc ngủ, vì thế phong thủy phòng ngủ đang ngày càng được quan tâm.

3. Giường ngủ phải được đặt ở nơi yên tĩnh Giường ngủ phải được kê ở vị trí yên tĩnh nhất, kín đáo nhất, tránh những rung động xấu. Tuy nhiên, quan điểm của Yannick David là ngoài việc đảm bảo sự yên tĩnh cần thiết cho giấc ngủ thì vị trí kê giường còn phải quan sát được toàn bộ căn phòng.   giấc ngủ ngon 4

Phòng ngủ cần an toàn và yên tĩnh nếu không người ngủ dễ thao thức, không yên.

4. Tránh kê giường nơi quá nhiều ánh sáng Liên quan đến việc kê giường theo hướng Bắc – Nam, ngoài việc tránh bị tác động xấu bởi các nguồn lực của tự nhiên, việc kê giường theo hướng này còn giúp tránh ánh nắng mặt trời.   giấc ngủ ngon 5 Ánh sáng mặt trời rất tốt cho sức khỏe con người nhưng quá nhiều ánh sáng sẽ dễ phản tác dụng.   Mặc dù ánh nắng mặt trời sẽ giúp giường ngủ thoáng đãng và sạch sẽ hơn nhưng nó cũng chính là “thủ phạm” phá vỡ giấc ngủ vì nó liên quan mật thiết đến sự tỉnh táo của não bộ. Chưa kể, các tia tử ngoại từ nguồn sáng này gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người.   5. Những sai lầm thường gặp khi kê giường và cách khắc phục Kê giường vào góc tường vốn là cách kê rất quen thuộc với đại đa số các gia đình Việt. Tuy nhiên, cách kê này được khuyến cáo là không nên bởi người nằm phía sát tường sẽ bị bí khí và gặp khó khăn trong đời sống vợ chồng. Giường ngủ tốt nhất nên đặt ở giữa phòng, đầu giường tựa vào tường.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách kê giường hợp phong thủy để có giấc ngủ ngon - Phong thủy phòng ngủ - Xem Tử Vi

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Khách qua đường trong cuộc đời 12 chòm sao

Trong biển người mênh mông, chúng ta có duyên gặp gỡ để rồi lại lướt qua nhau như hai người xa lạ. Khách qua đường trong cuộc đời của 12 chòm sao là ai đây?
Khách qua đường trong cuộc đời 12 chòm sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong biển người mênh mông, chúng ta có duyên gặp gỡ để rồi lại lướt qua nhau như hai người xa lạ. Khách qua đường trong cuộc đời của 12 sao là ai đây?


► Xem thêm: Tử vi 12 cung hoàng đạo và Horoscope được cập nhật mới nhất

khach
 
Bạch Dương - Ma Kết
 
Bạch Dương bị Ma Kết cuốn hút, nhưng nói tới chuyện kết hôn là lập tức Kết Kết tuyên bố chờ sự nghiệp thành công. Mà tham vọng của người ấy quá lớn khiến Bạch Dương chẳng đủ kiên nhẫn để đợi chờ.
 
Kim Ngưu - Thủy Bình
 
Thủy Bình chỉ là khách qua đường trong cuộc đời của Kim Ngưu. Giữa một người quá nguyên tắc và một người vô nguyên tắc, liệu có thể có kết quả gì đây?
 
Cự Giải - Nhân Mã

Cự Giải muốn một mái ấm, Nhân Mã không thể cho, Cự Giải muốn sự an toàn, Nhân Mã không thể hồi đáp. Đôi bên sẽ sớm tự rời xa nhau mà thôi.
 
Thiên Bình - Song Tử
 
Song Tử rốt cuộc không phải “chân mệnh thiên tử” của Thiên Bình, hai người khác xa nhau về suy nghĩ, chỉ gặp nhau một lần rồi mãi mãi chia ly.
 
Thiên Yết - Xử Nữ
 
Chòm sao tỉ mỉ như Xử Nữ quá quan tâm, quá săn sóc khiến Thiên Yết cảm thấy bức bối không chịu nổi. Sự lạnh lùng, bí hiểm không thể phá vỡ của Thiên Yết lại làm trái tim Xử Nữ tổn thương.
 
Song Ngư - Sư Tử
 
Cuộc đời Song Ngư vốn tìm người làm chỗ dựa, nhưng chỗ dựa Sư Tử quả thật không thể tin dùng. Vừa kiêu ngạo, vừa gia trưởng, không thích hợp với tính cách mềm mỏng, ôn hòa của chú cá nhỏ.
Ngọc Bích (Theo Sohu)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khách qua đường trong cuộc đời 12 chòm sao

Xem vận hạn qua tướng mắt

Đôi mắt là nơi ẩn chứa những điều chân thật nhất về con người. Nhìn vào đôi mắt, ta biết được người này đang vui hay buồn. Xem ánh mắt, ta biết được người đó là tốt hay xấu. Xem thần khí của mắt, có thể đoán được họ đang gặp họa hay phúc. Thuật xem tướng mắt đã được những nhà tướng thuật tổng kết các kinh nghiệm quý báu giúp chúng ta có thể đoán được vận hạn của con người trong khoảng thời gian nhất định.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Các nhà xem bói tướng khi bàn về vấn đề vận hạn thường lấy 2 mắt chủ quản cho 6 năm vận hạn, tức là mắt trái quản 3 năm là 30, 31 và 32 tuổi; mắt phải quản 3 năm là 33, 34 và 35 tuổi.

1. Xem tướng mắt biết tai họa

Xung quanh mắt có nốt ruồi đen là người có tính tình tham lam, thường hay ăn trộm. Người sát dưới mắt có nốt ruồi đen tất sẽ gây ra họa hại đối với người khác. Mắt bỗng xuất hiện khí sắc màu đen, cho đến vùng quầng mắt xuất hiện màu đen rất rõ rệt, người như thế trong vòng 10 ngày có thể sẽ vì miệng lưỡi của phụ nữ truyền đến điều thị phi khiến trong nhà không được yên ổn. Nếu sắc đen tương đối mờ nhạt, như thế trong vòng 14 ngày cũng phải chịu điều thị phi mà không được yên ổn. Người có khí sắc mắt là màu hồng tất sẽ có hỏa hoạn giáng xuống.

Người mà có mắt là màu xanh sẽ gặp phải chuyện thị phi đồn đại mà bị liên lụy. Nếu xuất hiện màu đỏ sẽ gặp tai họa liên quan đến chuyện quan trường, nếu khí sắc ở mắt có xuất hiện màu đen thì tài sản bị mất mát. Nếu mắt có xuất hiện màu vàng là tướng tốt lành. Nếu nữ giới trên mắt xuất hiện màu xanh thường vận mệnh người chồng chẳng thể dài lâu. Nếu người nữ mà trên mắt có xuất hiện màu đỏ, chủ về khó khăn trong chuyện sinh nở. Nếu người con gái có khí sắc ở đuôi mắt trắng sáng chủ chồng được thăng quan phát tài.

2. Xem bói 2 mắt lộ sắc cả đời hung ác

Hai mắt lộ sắc tức là mắt tựa như đám lửa cháy, mắt sắc. 2 viền mắt tựa như phun lửa, tức là trên dưới mắt lộ sắc đỏ hồng, tựa như đám lửa cháy bốc cao hướng ra bên ngoài. Người có hình tướng như thế thường lòng lang hiểm độc, gian trá, cả đời hung ác. Trong khoảng 5 năm từ 30 đến 35 tuổi, người đó được phát tài, nhưng trong khoảng 4 năm từ 37 đến 40 tuổi có thể sẽ gặp nhiều hung họa, nguy hiểm. Hứa Phụ nói: Người mà trong mắt có lộ sắc đỏ tất gặp họa hình thương mà qua đời, mắt như thế được gọi là mắt đỏ như mắt rắn.

3. Xem bói mắt đen rạng rỡ, cả đời hưởng phúc

Trong sách xem bói tướng Quảng giám tập có chép: Trong 2 mắt có lộ sắc đen, tựa như điểm sơn, rất rõ ràng, ánh mắt rạng rỡ là tướng quý nhân, cả đời được hưởng phúc. Trong khoảng 6 năm từ năm 30 đến năm 35 tuổi sẽ thành công, nối danh thiên hạ. Trong Nguyệt Ba động trung ký chép: Người có mắt to, đoan trang ổn định, không lồi không lộ, trắng đen rõ ràng thường là người có trí tuệ hơn người, sự nghiệp thành công.

4. Người có mắt liếc xéo trong lòng không ngay thẳng

Người có ánh mắt hay liếc xéo thường là người có tính cách kiên cường, nhưng lại là người hay cò kè, nhỏ nhen, lời nói hành động thô tục, tương đối tham lam, thường làm những việc tổn hại đến người khác để mưu lợi cho mình. Người như thế, cho dù là có phú quý, tài hoa hơn người nhưng bản tính cò kè khó thay đổi được. Không chỉ như thế, họ thường có khẩu phật tâm xà, trong ngoài khác nhau.

Trong Quảng giám tập nói: Mắt là cửa sổ của tâm hồn, vì thế khi quan sát nhãn thần của một người có thể biết được trong tâm người đó nghĩ gì. Mạnh Tử từng nói rằng: Người có tâm ngay thẳng, ánh mắt rất rạng rỡ; ngược lại, người có tâm không ngay thẳng, mắt sẽ mờ tối không trong sáng. Một người có tâm bên trong ác độc, ánh mắt không thể che giấu được.

5. Thông qua nhãn thần có thể phán đoán thiện ác của một người.

Mắt nhìn ngay chính, thần khí thanh sảng, ánh mắt ổn định, người đó tâm địa lương thiện. Một người mắt hay liếc xéo, nhãn thần không ổn định, ánh mắt mờ tối, thường là người có tâm hiểm độc. Trong Thái thanh thần giám có nói: Ngưòi có nhãn thần không bình thường, trong tâm mưu mô ác độc. Tóm lại, nhãn thần lương thiện, tâm địa cũng tốt, người có nhãn thần độc ác, tâm địa cũng độc ác. Trong Đại thống phú có nói: Người có ánh mắt liếc xéo thường làm những việc ác độc tổn thương người khác, dù người đó rất giàu có, tâm địa cũng không được ngay thẳng, như thế cũng chỉ là đám tiểu nhân mà thôi.

22.jpg

6. Tướng mắt to lộ sắc hung, tai họa không ngừng

Thuật xem tướng cho rằng người mà mắt to tròn, đột xuất lộ sắc hung thường là người có tính cách hung bạo, cuộc đời thường gặp nhiều tai họa, có khi phải chịu ngục tù, giam cầm. Người như thế cả đời hung ác. Trong những năm từ 28 đến 35 tuổi họ thường gặp phải những chuyện không may. 37, 38, 39 tuổi là những năm mà vận hạn hung họa khó lường. Người này cho dù sinh ra trong gia đình phú quý nhưng cũng trở thành người tham lam, hiểm độc. Nhưng nếu có thể tĩnh tâm đọc sách, thường xuyên kết giao với những người quân tử có đức hạnh cao quý thì cũng có thể tạo được một khoảng cách nhất định, tránh xa được đám tiểu nhân hiểm ác và vì thế những tai họa giáng xuống cũng giảm đi được một nửa.

Trong Nguyệt Ba động trung kỷ có nói: Không nên kết hạn với người mắt lộ sắc hung nếu không sẽ gặp phiền phức, thậm chí tai họa giáng xuống. Lại nói: Người có mắt lộ rõ ra ngoài, tâm vì thế cũng khó giấu kín. Mắt gà mắt chuột, tham lam vô liêm Si. Người có mắt tựa như mắt gà là người thích chuyện tranh đấu với người khác, có tính phong lưu đa tình. Người có mắt tựa mắt rắn, thịt trên mắt dày thường là người có tâm hiểm độc. Người có mắt nhỏ như mắt chuột, hai bên mắt trái phải khác nhau, mắt trái nhỏ hơn mắt phải, người như thế có tâm trộm cướp, tham lam vô liêm sỉ. Người có tướng mắt được trình bày như những đặc điểm trên đây, dù được sông trong nhà giàu sang phú quý cũng là phường trộm cướp, gian dâm, bản tính thích tranh đấu khó thay đổi được.

7. Hay nhìn trộm người khác, có nhiều nghi ngờ

Nhìn trộm là chỉ khi nói chuyện với người khác, hoặc khi cùng tụ tập đông người, mắt thấp trầm ngâm, thường hay nhìn trộm người khác. Người có tướng mắt như vậy đa phần có tính tình không an định, sinh nhiều mốì nghi ngờ trong tâm. Chính vì như thế, gặp chuyện gì họ cũng chắng đưa ra được đối sách tốt.

8. Xem bói mắt như mất phượng, cả đời phú quý

Người có thần thanh sảng, thanh tú, nhãn thần sáng bóng tinh khiết, nhãn châu trắng đen rõ ràng, chính là nói ánh mắt như sao tỏa sáng ra bôn phía. Người có mắt dài như mắt phượng, tức là mắt nhỏ dài nhập vào gần tóc mai, độ dài của mắt quá 1 tấc 5 phân. Người có tướng mắt giống thế, bất luận là nam hay nữ đều là người phú quý. Quan Vân Trường thời Tam quốc, Phòng Huyền Linh thời Đường đều có tướng mắt này.

(theo Tử vi số mệnh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem vận hạn qua tướng mắt

Nguyên tắc chọn rèm cửa mang lại may mắn

Rèm cửa là vật trang trí cho cửa sổ, cửa ra vào thêm sinh động hay có tác dụng tránh nắng. Nhưng nếu am hiểu phong thủy, bạn có thể tận dụng màu sắc, chất liệu và kiểu dáng để biến vật trang trí này mang lại may mắn cho mình. Dưới đây là một số gợi ý hữu ích cho bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nguyên tắc đầu tiên với rèm cửa là chọn chất liệu và màu sắc phù hợp theo mùa, theo hướng cửa và mong muốn của chủ nhân trên một phương diện may mắn đặc biệt nào đó.

Nhà tọa Tây hướng Đông chọn rèm màu vàng nhạt (vàng gao rang, vàng kim nhũ, vàng chanh), xanh lơ; kiểu rèm buông rủ tự nhiên… Nhà tọa Nam hướng Bắc nên chọn rèm đỏ tía, tím than, nâu nhạt, lá cọ nhạt để giảm thủy khí quá mạnh; kiểu rèm treo có nhiều pli. Nhà tọa Bắc hướng Nam dùng rèm màu vàng đồng, trắng sữa, vàng chanh, vàng nghệ; kiểu rèm buông theo dạng khối vuông vức. Nhà tọa Đông mặt hướng phía Tây chọn rèm xanh lục đậm, xanh dương, vàng nghệ; kiểu rèm có dạng bèo hay thắt nơ.
 


Vào mùa hè, nên chọn rèm cửa màu sáng, chất liệu nhẹ nhàng nhưng tránh quá buông rủ. Mùa đông nên chọn màu ấm, vải nặng, dày để mang lại sự ấm áp. Màu sắc phù hợp với rèm của mùa xuân hè là các sắc rực rỡ nhưng dịu nhẹ như xanh lá, xanh da trời. Mùa thu đông nên chọn các màu trung tính như trắng, xám hay các sắc màu cho cảm giác mộc như vàng nâu, tím, xanh thẫm.
 


Rèm cửa nên mở vào buổi sáng để đón ánh nắng sớm, nguồn năng lượng dương tích cực vào nhà. Ban đêm, nên kéo rèm lại để nguồn năng lượng âm không ảnh hưởng đến gia chủ. Nếu cửa sổ/cửa chính đối diện với cửa kính của một tòa nhà cũng nên để rèm thường xuyên để tránh ánh phản chiếu (ánh gương) của nhà đối diện.
 


Luôn giữ rèm cửa sạch sẽ để thu hút khí trong lành. Dù rèm có chất liệu hay màu sắc gì cũng cần có kết cấu linh động, dễ dàng đóng mở, buộc lên hay buông rủ. Phần khung chốt nên làm bằng vật liệu tự nhiên, được xếp ngũ hành như: gỗ, sứ, kim loại. Mành sáo bằng lá nhôm có tác dụng chặn xung khí. Tránh sử dụng vật liệu nhựa ở rèm cửa vì nhanh chóng bị biến chất theo thời gian.  

(Theo TGĐA)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nguyên tắc chọn rèm cửa mang lại may mắn

Lễ Ban Công đồng

Lễ Ban Công đồng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


1. Ý nghĩa:

Theo tập tục văn hoá truyền thống, ở mỗi tỉnh thành, làng, xã Việt Nam đều có các Đình, Đến, Miếu, Phủ là nơi thờ tự Thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu.

Các vị thần linh, Thành Hoàng, Thánh Mẫu là các bậc tiền nhân đã có công với cộng đồng làng xã, dân tộc trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của người Việt Nam.

Ngày nay, theo nếp xưa người Việt Nam ở khắp mọi miền đất nước hàng năm vẫn đi lễ, đi trẩy Hội ở các Đình, Đền, Miếu, Phủ vào các ngày lễ, tết, tuần tiết, sóc, vọng và ngày Hội, để tỏ lòng tôn kinh, ngưỡng mộ biết ơn các bậc Tôn thần đã có công với đất nước.

Đình, Đền, Miếu, Phủ cùng với sự lưu truyền sự linh diệu của các thần trong nhiều trường hợp đã đi vào trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam góp phần không nhỏ vào việc duy trì tình cảm yêu nước. Nơi thờ tự Đình, Đền, Miếu, Phủ còn là những nơi sinh hoạt tâm linh, tín ngưỡng. Con người hy vọng rằng bằng những hành vi tín ngưỡng, có thể cầu viện đấng Thần linh phù hộ cho bản thân, cùng gia đình, cộng đồng được an khang, thành đạt và thịnh vượng, yên bình, biến hung thành cát, giải trừ tội lỗi…

2. Sắm lễ:

Theo phong tục cổ truyền khi đến Đình, Đền, Miếu, Phủ nên có lễ vật có thể to, nhỏ, nhiều, ít, sang, mọn tuỳ tâm. Mặc dù ở những nơi này thờ Thánh, Thần, Mẫu nhưng người ta vẫn có thể sắm các lễ chay như hương hoa quả, oản,… để dâng cũng được.

- Lễ Chay: Gồm hương hoa, trà, quả, phẩm oản… dùng để lễ ban Phật, Bồ Tát (nếu có).
Lễ chay cũng dùng để dâng ban Thánh Mẫu.

- Lễ Mặn: Nếu Quý vị có quan điểm phải dùng mặn thì chúng tôi khuyên mua đồ chay hình tướng gà, lợn, giò, chả.

- Lễ đồ sống: Tuyệt đối không dùng các đồ lễ sống gồm trứng, gạo, muối hoặc thịt tại các ban quan Ngũ Hổ, Bạch xà, Thanh xà đặt ở hạ ban Công Đồng Tứ phủ.

- Cỗ sơn trang: Gồm những đồ đặc sản chay Việt Nam: Không được dùng cua, ốc, lươn, ớt, chanh quả… Nếu có gạo nếp cẩm nấu xôi chè thì cũng thuộc vào lễ này.

- Lễ ban thờ cô, thờ cậu: Thường gồm oản, quả, hương hoa, gương, lược… Nghĩa là những đồ chơi mà người ta thường làm cho trẻ nhỏ. Nhưng lễ vật này cầu kỳ, nhỏ, đẹp và được bao trong những túi nhỏ xinh xắn, đẹp mắt.

- Lễ thần Thành Hoàng, Thư điền: Phải dùng chay mới có phúc và những lời cầu nguyện được linh ứng.

3. Hạ lễ

Sau khi kết thúc khấn, lễ ở các ban thờ, thì trong khi đợi hết một tuần nhang có thể viếng thăm phong cảnh nơi thừa tự, thờ tự.

Khi thắp hết một tuần nhang có thể thắp thêm một tuần nhang nữa. Thắp nhang xong, vái 3 vái trước mỗi ban thờ rồi hạ sớ đem ra nơi hoá vàng để hoá.

Hoá sớ xong mới hạ lễ dâng cúng khác. Khi hạ lễ thì hạ từ ban ngoài cùng vào đến ban chính. Riêng các đồ lễ ở bàn thờ Cô, thờ Cậu như gương, lược… thì để nguyên trên bàn thờ hoặc giả nơi đặt bàn thờ này có nơi để riêng thì nên gom vào đó mà không đem về.

4. Văn khấn

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!

- Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương

- Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế

- Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu

- Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh

- Con lạy Tứ phủ Khâm sai

- Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh

- Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng


- Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô

- Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu

- Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.

- Con lạy quan Chầu gia.

Hương tử con là:……………………

Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn

Ngụ tại:……………………………….

Hôm nay là ngày….. tháng….. năm Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lễ Ban Công đồng

2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Hiếu thuận với cha mẹ là là phúc báo mà Phật giáo khuyên nên làm nhất trên đời. Vậy, thế nào là hiếu thảo với cha mẹ?
2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiếu thuận với cha mẹ là nghiệp lành lớn nhất của đời người, là phúc báo mà Phật giáo khuyên nên làm nhất trên đời. Vậy, thế nào là hiếu thảo với cha mẹ? Có phải mang đồ ngon, đồ tốt tới cho cha mẹ đã là hiếu thảo?


=> Mời các bạn xem thêm: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm

2 dieu Phat day cach hieu thao voi me cha tuong de ma kho  hinh anh
 
Phật chỉ ra nhân duyên kiếp trước của 10 loại người
Phật giáo
luôn nhấn mạnh, chữ hiếu là hàng đầu, làm trăm điều thiện không bằng một chữ hiếu. Công ơn của cha mẹ đối với con cái là trời là bể. Con cái báo hiếu cha mẹ chỉ như muối bỏ bể mà thôi. Bất cứ ai cũng phải gắng tâm, gắng sức để hiếu thuận. 
  Nhà Phật đã chỉ ra 2 phương pháp hiếu thảo với cha mẹ, con cái nên lấy đó làm gương để tu dưỡng .
1. Anh em hòa thuận   Gia đình là chỗ dựa, cũng là tâm huyết cả đời của cha mẹ. Bậc làm cha làm mẹ nào cũng mong muốn anh em trong nhà vui vẻ, đầm ấm, xây dựng không khí tình thân. Chỉ cần người nhà đối với nhau thân tình, thuận hòa, bên nhau khi vui khi buồn, chia sẻ khó khăn, tương trợ hoạn nạn là cha mẹ đã cảm thấy yên lòng.   Con nào cũng là con, nếu xảy ra mâu thuẫn thì người cha người mẹ ở giữa khó phân xử, cũng cảm thấy lo lắng, muộn phiền. Vì ngoài cha mẹ ra, trên đời này, người gần gũi nhất, ruột thịt nhất chính là anh em trong nhà. Cha mẹ tuổi già, sức yếu thì anh em nương tựa lẫn nhau, ấy chính là niềm vui, niềm hạnh phúc, cũng là sự an tâm lớn nhất.   Nghe kinh niệm Phật là nhất đẳng hưởng thụ của đời người
2. Tu dưỡng bản thân
  Không cần đâu xa xôi, mang cơm ngon, quần áo đẹp tới cho cha mẹ, muốn tích nghiệp lành, muốn cầu chữ hiếu thì tu thân dưỡng tâm, trưởng thành và khỏe mạnh. Vì con cái là tài sản vô giá của cha mẹ, nên chỉ cần con cái bình an, hạnh phúc, tốt đẹp là đã đền đáp công ơn sinh dưỡng.
2 dieu Phat day cach hieu thao voi me cha tuong de ma kho  hinh anh
 
Phật giáo đã dạy, không để cha mẹ phiền lòng chính là đạo hiếu. Để cha mẹ lo buồn cho mình, chính là bất hiếu. Viên mãn nhất đời cha mẹ chính là sự thành công của con cái. Đức hạnh tốt, phẩm chất cao đẹp, thành người thiện lương, chỉ cần 3 điều đó thôi là đủ.   Bất cứ ai cũng là con của cha mẹ và rồi làm cha mẹ của con, cuộc đời xoay vòng trong chữ hiếu và đạo hiếu. Cha mẹ vì ta mà hi sinh, ta lại hi sinh cho những đứa con. Đó là gốc rễ, cội nguồn và là đạo lý chân chính nhất của cuộc đời này. Hãy luôn sống để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và nuôi dạy con cái theo đức hiếu sinh.    Phật dạy cách làm người con có hiếu Phật hướng dẫn 5 việc cần và 4 việc phải của cha mẹ
Tâm Lan

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2 điều Phật dạy cách hiếu thảo với mẹ cha tưởng dễ mà khó

Những trò chơi đại kỵ cấm chơi vào buổi tối

Buổi tối không nên chơi trốn tìm bởi khi chơi điều xui xẻo sẽ ập đến.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những trò cấm chơi buổi tối

Nhung tro choi dai ky cam choi vao buoi toi
Buổi tối, không chơi năm mười, hay còn gọi là cút bắt (trốn tìm) sau 10h, bởi khi chơi, xui xẻo sẽ bị ma dấu.

- Buổi tối, không chơi năm mười, hay còn gọi là cút bắt (trốn tìm) sau 10h, bởi khi chơi, xui xẻo sẽ bị ma dấu.
- Không chơi trò hù dọa người khác khiến họ giật mình “hồn bay phách lạc” dễ bị ma quỷ xâm nhập. - Không nên chơi xoay ô trong nhà, ô sẽ rủ vong hồn vào nhà bạn. - Không chơi trò gọi to tên nhau buổi tối, ma quỷ sẽ bắt mất hồn. - Không chụp ảnh vào ban đêm, bởi ma quỷ luôn lảng vảng chung quanh đó sẽ “vô hình” vào ảnh chung với người sống, đó là điều không tốt.

Những điều kiêng kỵ khác vào ban đêm nên tránh

1. Mua đinh Sau 7h tối, bạn ra cửa hàng mua đinh, chắc chắn không ai chịu bán cho bạn. Vì sao? Vì đinh dùng để đóng quan tài, bạn mua sau 7h tối, sẽ báo hiệu một đám tang tới với nhà bạn, hoặc nhà chủ bán hàng cho bạn.

2. Gội đầu chải tóc vào ban đêm Bạn đứng trước gương, 12h đêm, chải tóc liên tục,sau đó nhìn thẳng vào gương và gọi tên người bạn muốn gặp, thử xem.

3. Không để ghế trống Nếu phòng bạn có một cái ghế nào đó,trước khi đi ngủ, hãy đặt vật gì nên chiếc ghế. Hẳn bạn sẽ không muốn ai đó ngồi trên chiếc ghế đó và nhìn bạn cả đêm đâu.

4. Khi ngủ, đừng để những vật dụng gương kiếng gần mình hay đối diện với nơi mình nằm. Một câu chuyện có thật, đó là một cô gái đang ngủ, bèn giật mình mở mắt dậy. Cô nhìn vào cái gương đối diện với giường mình, và hoảng hốt khi thấy hình ảnh phản chiếu trong gương là một bóng không rõ mặt đang nằm cạnh mình.

5. Không được lóc xóc chùm chìa khóa sau 10h tối, bạn đang gọi hồn vào nhà đấy.

6. Lúc ngủ ko nên quay chân hoặc quay đầu ra cửa (tư thế dành cho người chết). Tuyệt đối không quay chân vào bàn thờ (bất kính với bề trên).

7. Khi lên giường ngủ không để mũi dép hướng về phía giường, nếu không ma quỷ nhìn thấy sẽ đoán rằng có người sống đang nằm trên giường và chúng sẽ lên giường ngủ chung với bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những trò chơi đại kỵ cấm chơi vào buổi tối
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd