Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Thần Phật vào nhà trước, mang nhiều điều bình an

Khi chuyển nhà, tượng Thần Phật phải được chuyển đi đầu tiên.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà, trên thực tế, không chỉ là không gian mà mọi người cùng chung sống, mà còn là nơi gửi gắm về mặt tinh thần của mọi người. Mọi người thường nói “thành gia lập nghiệp”, “thành gia” còn đứng trước “lập nghiệp”, cho thấy tầm quan trọng của nhà đối với mỗi người. Mà nói đến nhà, chuyển nhà là một vấn đề khó tránh trong cuộc đời một người. Vậy thì, năm 2015 có chú ý phong thủy gì khi chuyển nhà?

 Thần Phật vào nhà trước, mang nhiều điều bình an - 1

Chuyển nhà cần chú ý đến phong thủy

Trước khi chuyển nhà:

Trước khi chuyển nhà, tính trước con đường nào chuyển nhà thuận lợi nhất là việc làm cần thiết. Ngoài việc chọn con đường ngắn nhất để tiết kiệm thời gian và sức lực ra, còn phải chú ý tránh các nơi âm u như nhà thờ, từ đường, bệnh viện, bởi vì những nơi này rất có thể đem theo vận rủi cho ngôi nhà mới. Còn nếu như thật sự không có cách nào tránh, có thể đốt hương, rắc tiền giấy trên đường, những việc này mặc dù là những việc nhỏ, nhưng nếu làm tốt có thể tránh vận hạn bám theo một cách hiệu quả.

Trong khi chuyển nhà:

Khi chuyển nhà, tượng Thần Phật phải được chuyển đi đầu tiên. Nên chuyển tượng Thần Phật mà nhà thờ cúng vào nhà mới đầu tiên, cúng bái xong xuôi mới chuyển các vật khác vào. Điều này thể hiện sự tôn kính đối với Thần Phật, đồng thời cũng sẽ nhận được sự bảo hộ của Thần Phật, giúp đem đến vận may nhiều hơn cho nhà mới.

 Thần Phật vào nhà trước, mang nhiều điều bình an - 2

Tượng Thần Phật nên được chuyển đi đầu tiên

Sau khi chuyển nhà:

Buổi tối đầu tiên sau khi chuyển nhà, tốt nhất để cho đèn ở tất cả các phòng trong nhà thắp sáng. Điều này giúp giữ cho vượng khí trong nhà không ngừng nghỉ, có lợi cho vận thế của gia đình. Thậm chí có nơi còn để đèn sáng suốt 72 giờ để đạt hiệu quả trong việc giữ may mắn trong nhà.

 Thần Phật vào nhà trước, mang nhiều điều bình an - 3

Đêm đầu tiên khi chuyển đến nên để đèn sáng đến hôm sau

Ngoài ra, sau khi chuyển nhà, còn có thể đặt các đồ phong thủy giúp hóa giải sát khí, giữ bình an. Hơn nữa, dù trong nhà bày vật phong thủy gì cũng nên dựa vào mệnh tướng của chủ nhân. Ví dụ: người mệnh dương, tướng mộc thích hỏa, thổ, kim; hợp với hướng chính nam, tây nam, chính tây và tây bắc. Đặt những vật phong thủy đúng phương hướng sẽ tăng hiệu quả phong thủy cho ngôi nhà.

Theo Leo St (12ky) (Khám phá)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thần Phật vào nhà trước, mang nhiều điều bình an

Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Phòng ngủ là không gian ấm cúng dùng để nghỉ ngơi, phòng ngủ đặt cây xanh sẽ có tác dụng tô điểm, càng tăng thêm vẻ yên tĩnh, trang nhã cho căn phòng, làm tan
Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  biến mệt mỏi, có lợi cho sức khỏe. 

Khi bố trí phòng cần lựa chọn những loài thực vật có màu sắc hài hòa, thế đẹp, tươi tốt… Để tạo môi trường nghỉ ngơi thật nhẹ nhàng, yên tĩnh, thoải mái.

Do thời gian chiếu sáng của phòng ngủ ngắn, vì vậy nên lựa chọn những loại cây ưa bóng râm như sơn tra, đỗ quyên …, những loại cây dễ trồng. Đồng thời, những cây trong phòng ngủ cần có ý nghĩa biểu trưng khác với những cây ở phòng khách, chủ yếu là dùng những cây có thể làm tăng thêm tình cảm vợ chồng.

Những cây được dùng để trang trí trong phòng ngủ có thể căn cứ vào tuổi của chủ nhà để chọn lựa.

Những người tuổi Sửu, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Tuất, đặc biệt là những người sinh vào mùa đông, lạnh thì ưa hòa, có thể chọn nhiều loại cây thuộc mệnh Hỏa như lan quân tử, sơn trà, hoa hồng…

Bai tri cay canh trong phong ngu hop tuoi cua gia chu hinh anh
Lan quân tử hợp với người tuổi Sửu, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Tuất

Những người tuổi Dậu, tuổi Thân thuộc mệnh Kim có thể chọn hoa hồng vàng, văn hương ngọc, cây dành dành… 

Những người tuổi Hợi, tuổi Tý thì thích mệnh Thủy có thể trồng những cây thuộc mệnh Kim và Thủy như : Thủy tiên, lan trắng … 

Những người thuộc tuổi Dần, tuổi Mão có thể trồng những loại cây thuộc mệnh Mộc như vạn tuế, lan …

Theo Sách Thuận phong thuận thủy, sổ tay tham khảo bài trí cây cảnh.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Dương Trạch 30 nguyên tắc

Dương Trạch 30 nguyên tắc (theo Huyền Không Phi tinh)
Dương Trạch 30 nguyên tắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1/ Ở thôn quê không khí thông thoáng phép lập trạch phải thu cả sơn  lẩn thủy thì mới được tốt, Nơi thành thị khí tụ, tuy không có nước để thu  mà có nhà lân cận lồi lõm thấp cao, đường xá quanh co rộng hẹp, thấp lõm uốn khúc rộng là thủy, lồi cao thẳng hẹp là sơn .

 2/ Ai tinh, âm dương trạch ai tinh không khác, lấy nguyên vận thụ khí làm chủ, sơn hướng phi tinh với khách tinh gia lâm làm dụng, âm trạch trọng thủy, dương trạch trọng môn hướng, nhưng môn hướng sở dỉ nạp khí, như ngoài cửa có nước óng ánh, thì tốt hơn đường lộ, suy vượng do thủy, cân nhắc do lý của sao, cũng là không khác vậy).

 4/ Hoàn cảnh đường cục, phàm xem dương trạch, trước xem hình thế khí mạch của núi sông có hợp cục không, sau xem lộ đi và chu vi của ngoài 6 việc, nóc nhọn nhà lân cận cột cờ mồ mã chùa chiền cây cối các vật tọa lạc ở tinh cung nào, phân biện suy vượng để đoán cát hung.

 5/ Cửa cái mở xê bên ----, phàm dương trạch lấy đầu hướng cửa cái nạp khí mà đoán cát hung, cửa cái mở xê một bên, tức phải dùng hướng cửa và hướng nhà, hợp hai bàn mà xem, ngoại cát nội hung, khó tránh nầy nọ, nội cát ngoại hung, chỉ được khá giả.

 6/ Nhà lớn cửa nhỏ, phàm nhà với cửa lớn nhỏ phải tương xứng với nhau, nếu nhà lớn cửa nhỏ sẽ không tốt, nhưng hướng nhà hướng cửa sinh vượng thì không sao.

7/ Thừa vượng khai môn,--- phàm nhà cũ muốn mở cửa vượng, phải lấy thời gian từ ngày xây cất, phi tinh của vận đó mà suy luận, như vận nhất bạch lập nhâm sơn bính hướng, vượng tinh đáo tọa, không phải nhà tốt, đến vận tam bích mở cửa tại giáp, thì mới hấp thu được vượng khí, vì lúc xây cất hướng thượng phi tinh tam bích đáo chấn, giao vận tam thừa thời đắc lệnh, không phải là chấn tam của địa bàn, nếu khai môn tại Mão cũng phải kiêm giáp, mới được khí đồng nguyên của sơn hướng vậy,

 8/ Tân khai vượng môn, -- phàm nhà cũ mở vượng môn sau, phép đoán dùng hướng cửa khỏi dùng hướng nhà, đặt bếp lập phòng cũng dùng hướng cửa mà định vị, tức theo đó trước, là chỉ đại khai vượng môn, nếu như cửa cái bị che lấp, hoặc đóng kín, thì xét phương hướng âm dương thuận nghịch, mà thừa thời lập hướng, như mở cửa nhỏ để thông vượng khí, phải dùng đồng nguyên nhất khí, vẩn theo lúc khởi tạo lập cục hướng nhà mà luận đoán thì được .

 9/ Vượng Môn bế tắc,--- phàm sở khai vượng môn, trước mặt có nhà bế tắc, không thể trực đáo, thì mở thêm 1 cửa nhỏ kế bên để thông với vượng môn, tức cửa nhỏ kể như khí con đường thông qua vậy, khỏi cần đặt la bàn xem,

 10/ Vượng môn nền cao,--- ngoài cửa vượng môn có nước, vốn là đại cát, nhung nền cửa lại cao hơn nền nhà, tuy có vượng thủy nhưng không thu được, nền cửa cao hơn nội minh đường cũng vậy, như ngoài cửa lộ cao, thì luận cách khác.

Học Phong Thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dương Trạch 30 nguyên tắc

Những dấu hiệu chứng tỏ bạn sắp hao tài

Mũi bị thương, liên tiếp mơ thấy ác mộng là những dấu hiệu chứng tỏ tiền bạc có sự thay đổi theo chiều hướng xấu đi.
Những dấu hiệu chứng tỏ bạn sắp hao tài

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mũi bị thương

Theo tướng số, mũi là bộ phận liên quan đến tài vận. Mũi bị thương chứng tỏ phương diện tiền bạc có sự thay đổi, bạn sắp hao tài hoặc vỡ nợ, học hành, sự nghiệp không suôn sẻ, vận may biến mất.

Lời khuyên: Bạn không nên đi du lịch xa đề phòng bất trắc xảy ra.

nhung-dau-hieu-chung-to-ban-sap-hao-tai

2. Mơ thấy ác mộng liên tiếp

Nếu mơ thấy ác mộng liên tiếp, điều này dự báo may mắn của bạn không suôn sẻ, sắp hao tài đến nơi. Giấc mơ được xem là giác quan thứ 6 của con người, những điều thấy trong giấc mơ dự báo phần nào hiện thực sắp xảy đến.

Lời khuyên: Bạn nên điều chỉnh lại cảm xúc, tránh những suy nghĩ tiêu cực.

3. Liên tiếp làm vỡ đồ đạc

Nếu liên tiếp làm vỡ đồ đạc, hoặc những vật dụng thường ngày đột nhiên biến mất, vậy bạn cần hết sức lưu ý, điều này ám chỉ có chuyện không hay xảy ra.

Lời khuyên: Bạn nên suy xét và điều chỉnh lại mọi việc để tránh hao tài.

Tú Uyên (theo Eastday)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những dấu hiệu chứng tỏ bạn sắp hao tài

12 chòm sao ai đủ tự tin sống một mình?

Khả năng tự chăm lo của 12 chòm sao cao đến đâu? Có đủ để họ tự tin sống một mình không?
12 chòm sao ai đủ tự tin sống một mình?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khả năng tự chăm lo của 12 chòm sao cao đến đâu? Có đủ để họ tự tin sống một mình không?


12 chom sao ai du tu tin song mot minh hinh anh
 
Thủy Bình
 
Chòm sao tự chăm sóc bản thân tốt nhất không ai khác ngoài Thủy Bình. Họ tự tin, thoải mái, có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của bản thân và không cảm thấy buồn nếu sống một mình.
 
Xử Nữ
 
Xử Nữ là chòm sao chu đáo, cẩn thận, mọi việc đều có thể tự tay lo liệu, không cần ai săn sóc mà còn đi săn sóc người khác.
 
Thiên Yết
 
Bản lĩnh của Thiên Yết giúp họ có thể tự sắp xếp cuộc sống khá ổn, không phải dựa dẫm người khác.
 
Sư Tử
 
Sư Tử thích vui vẻ nên ở khoái ở cùng người khác, nhưng nếu phải sống một mình cũng chẳng sao, họ thừa sức xoay sở.
 
Thiên Bình
 
Thiên Bình thích được phục vụ nên nếu không bắt buộc thì không tự mình động tay động chân vào việc gì. Chỉ là không đến nỗi cần chăm sóc như một đứa trẻ mà thôi.
 
Kim Ngưu
 
Kim Ngưu bề ngoài có vẻ là chỗ dựa cho người khác nhưng lại khá ngây thơ, cần người khác để mắt tới một chút.
 
Ma Kết

Không có người chăm lo cho Ma Kết thì họ sẽ chẳng buồn ăn cơm, ngủ nghỉ gì đâu, chỉ cắm đầu vào công việc.
 
Song Ngư
 
Song Ngư lúc nào cũng cần một người để dựa dẫm, làm bình phong cho mình.
 
Song Tử
 
Không ai chăm sóc Song Tử họ sẽ buồn lắm, cảm thấy lúc nào cũng bận rộn, mệt mỏi.

Bạch Dương 

Bạch Dương chỉ là đứa trẻ to xác thôi, họ không biết những điều cơ bản để tự chăm sóc cho mình đâu.
 
Cự Giải
 
Cự Giải là chòm sao không thể ở một mình, ai sẽ an ủi và quan tâm đến họ khi có chuyện buồn đây?
 
Nhân Mã

Ở một mình? Nhân Mã ư? Không bao giờ, họ sẽ khiến cuộc sống trở nên cực kì bề bộn và vô tổ chức. Khả năng tự chăm sóc bản thân của Nhân Mã gần như bằng 0.

Trần Hồng (Theo Sohu)
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 chòm sao ai đủ tự tin sống một mình?

Văn Khấn Tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch)

Văn Khấn Tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch) hay còn gọi là Tết Bánh Trôi - Bánh Chay. Hàn thực có nghĩa là thức ăn nguội.
Văn Khấn Tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Văn Khấn Tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch) được dùng vào tiết Hàn Thực 3/3. Theo phong tục xưa của Trung Quốc, vào ngày này mọi người không nổi lửa mà chỉ ăn đồ nguội đã chuẩn bị sẵn từ hôm trước. Hàn thực có nghĩa là thức ăn nguội.

Ngày nay, người Việt Nam vào tiết Hàn Thực vẫn nổi lửa nấu nướng bình thường và thường làm bánh trôi – bánh chay để tượng trưng cho tết Hàn Thực. Chính vì vậy tết này còn được gọi là Tết Bánh Trôi – Bánh Chay.

Sắm lễ cúng tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch)

Mâm lễ cúng ngày Tết Hàn Thực gồm: Hương, hoa, trầu cau và 5 (hoặc 3 bát) bánh trôi, 5 (3 bát) bánh chay dâng lên bàn thờ.

Văn khấn tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch)

Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)

– Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.

– Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.

– Con kính lạy Cao Tằng Tổ khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Thúc Bá, Đệ Huynh, Cô Di, Tỷ Muội họ nội họ ngoại.

Tín chủ (chúng) con là:…………… Ngụ tại:…………

Hôm nay là ngày……………gặp tiết Hàn Thực, tín chủ chúng con cảm nghĩ thâm ân trời đất, chư vị Tôn thần, nhớ đức cù lao Tiên tổ, thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, đốt nén tâm hương, dâng lên trước án.

Chúng con kính mời ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long Mạch, Tài thần giáng lâm trước án chứng giám lòng thành thụ hưởng lễ vật.

Chúng con kính mời các cụ Tổ Khảo, Tổ Tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại họ………………… cúi xin thương xót con cháu giáng về linh chứng giám tâm thành thụ hưởng lễ vật.

Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh các vị Tiền chủ, Hậu chủ ngụ trong nhà này, đất này đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, phù hộ cho toàn gia chúng con luôn luôn mạnh khỏe, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận, trên bảo dưới nghe.

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Văn Khấn Tết Hàn Thực (mồng 3/3 Âm lịch)

Nhận biết tướng mắt xấu và tai họa khôn lường

Tướng mắt xấu: Nếu vùng quanh mắt xuất hiện khí sắc màu đen rõ ràng thì trong vòng 10 ngày có thể sẽ bị vướng vào họa khẩu thiệt thị phi.
Nhận biết tướng mắt xấu và tai họa khôn lường

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu vùng quanh mắt xuất hiện khí sắc màu đen rõ ràng thì trong vòng 10 ngày có thể sẽ bị vướng vào họa khẩu thiệt thị phi, khiến mọi người trong nhà không được yên ổn. 


► Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

1. Nốt ruồi đen quanh mắt

Trong Nhân tướng học, nếu xung quanh mắt có nốt ruồi đen là biểu hiện của người tham lam, hay trộm cắp vặt và dễ gây chuyện đắc tội với người khác.
 
Ngoài ra, nếu vùng quanh mắt xuất hiện khí sắc màu đen rõ ràng thì trong vòng 10 ngày có thể sẽ bị vướng vào họa khẩu thiệt thị phi, khiến mọi người trong nhà không được yên ổn. Nếu sắc đen mờ nhạt thì trong vòng 14 ngày cũng sẽ chịu điều tiếng thị phi. Đây là tướng mắt xấu của cả nam lẫn nữ.

Nhan biet tuong mat xau va tai hoa khon luong hinh anh
Ảnh minh họa

2. Mắt biến sắc xanh hoặc đỏ

 
Đột nhiên mắt biến sắc xanh là điềm báo xui xẻo về các mối quan hệ trong cuộc sống của chủ nhân. Nếu xuất  hiện màu đỏ thì người này sẽ gặp tai họa về quan trường hay tổn hao tài sản. Đặc biệt, nếu nữ giới có hiện tượng này thường gặp trục trặc về vấn đề sinh đẻ. Tướng mắt xấu này ở phụ nữ gây hiểm hoạ nghiêm trọng.
 
3. Hai mắt lộ sắc
 
Đặc điểm dễ nhận thấy của kiểu mắt này là mắt sắc, hai viền mắt có sắc đỏ hồng tựa như đám cháy bốc cao và hướng ra ngoài. Người có tướng mắt lộ sắc thường sống hẹp hòi, lòng dạ hiểm độc, gian xảo, cả đời làm chuyện hung ác.
 
Tuy nhiên, trong khoảng từ năm 30 đến 25 tuổi, người này dễ phát tài, nhưng từ năm 37 đến 40 tuổi lại gặp nhiều tai ương, nguy hiểm.
 
4. Mắt liếc xéo
 
Người có ánh mắt hay liếc xéo, nhìn ngang nhìn dọc thường tính tình nhỏ nhen, tham lam, hay làm những việc tổn hại đến người khác để mưu cầu danh lợi cho mình. Người này khẩu phật tâm xà nên bị mọi người xa lánh, ghét bỏ.
 
5. Mắt to nhưng lộ sắc hung
 
Người có đôi mắt to thường có tính cách trong sáng, được nhiều người yêu mến. Nhưng nếu mắt to kèm theo đặc điểm là lộ sắc hung tợn thường là người có tính cách hung bạo, cuộc đời gặp nhiều tai họa, có lúc phải chịu cảnh ngục tù, giam cầm.
 
Ngoài ra, người có tướng mắt xấu này cần đề phòng tai họa khôn lường vào từ năm 28 đến 39 tuổi. Nếu có thể tĩnh tâm đọc sách, tu nhân tích đức, tránh xa đám tiểu nhân hiểm ác thì tai qua nạn khỏi, gặp hung hóa cát.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận biết tướng mắt xấu và tai họa khôn lường

Xem tướng qua hoa tay –

Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé! Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm. Xem

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có tổng cộng bao nhiêu hoa tay? Tất cả được nằm trên một hay cả hai bàn tay? Hãy xem hoa tay nói gì về cuộc đời của bạn nhé!

Việc xem hoa tay, tướng số và đoán được phần nào cuộc sống mỗi con người cũng là điều được khá nhiều người quan tâm.

Nội dung

  • 1 Xem tướng bằng hoa tay
    • 1.1 Có 1 hoa tay
    • 1.2 Có 2 hoa tay
    • 1.3 Có 3 hoa tay
    • 1.4 Có 4 hoa tay
    • 1.5 Có 5 hoa tay
    • 1.6 Có 6 hoa tay
    • 1.7 Có 7 hoa tay
    • 1.8 Có 8 hoa tay
    • 1.9 Có 9 hoa tay
    • 1.10 Có 10 hoa tay
    • 1.11 Không có hoa tay nào

Xem tướng bằng hoa tay

Có 1 hoa tay

Tay trái: Kiên định, tố chất tâm lí tốt, là người làm việc lớn, nhưng có những lúc rất cố chấp, khăng khăng làm theo ý mình. Bạn dễ gặp phải trở ngại không vượt qua được, nhưng sau khi thất bại, bạn không nản chí mà đứng dậy đi tiếp. Bạn còn là người rất nồng nhiệt trong tình yêu.

Tay phải: Tính cách độc lập, có năng lực lãnh đạo, những lúc cá biệt có thể không từ một thủ đoạn nào, nên bạn nhất định sẽ là người thành công. Rất thu hút người khác giới.
Người 1 hoa tay thời vận không được tốt, phải dựa vào tự thân nỗ lực phấn đấu thì mới có được thành tựu.

Có 2 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Tính tình ôn hòa, quan hệ xã hội tốt. Đôi khi thiếu tầm nhìn xa. Những lúc khó khăn có quý nhân phù trợ.

Nằm trên cả 2 tay: Tính cách phóng khoáng, thường hiếu kì. Làm việc thường giục tốc bất đạt.
Người 2 hoa tay rất có duyên trong mắt người khác giới, nhưng rất khó tìm được người hợp ý với mình. Rất phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn nghệ, biểu diễn.

Có 3 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Là người thông minh, chịu khó, đa số là lãnh đạo tầm trung. Là mẫu người của gia đình, luôn đối xử tốt với vợ hoặc chồng, con cái, những người thân của mình.

Nằm trên cả 2 tay: Thuộc về mẫu người có tiềm chất toàn năng, chỉ cần có cơ hội và đủ thời gian là có thể đảm nhận mọi loại công việc. Cảm tính và lí trí đều vừa phải như nhau. Kiểu này rất ít gặp, vận mệnh tốt, là đối tượng hôn nhân lí tưởng.

Có 4 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Bên ngoài cởi mở, nội tâm cô đơn. Lấy mình làm trung tâm, là người theo chủ nghĩa toàn mĩ. Trắc trở trong tình yêu.

Nằm trên cả 2 tay (ít gặp): Là người thấu tình đạt lí, có tài, có tướng, rất được những người xung quanh ưa thích. Tình yêu thuận buồm xuôi gió. Phù hợp với những ngành nghề liên quan đến văn tự.

Có 5 hoa tay

Cùng trên 1 tay: Cá tính mạnh mẽ, không bao giờ hài lòng với hiện tại, nên có rất nhiều chuyện không như ý. Hợp tác với những người có 1 hoặc 2, 3, 4 hoa tay mới có thể vạn sự thuận lợi. Trong tình yêu không có yêu cầu cao.

Nằm trên cả 2 tay: Lương thiện, biết nghĩ cho người khác, hiền lành, ngoan ngoãn, sức chịu đựng tốt. Trung niên vận khí đi lên. Có xu hướng thần tượng người mình yêu.

Có 6 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Có dã tâm, thích nghĩ kì quái. Khi còn nhỏ lận đận, sau thời thanh niên vận khí dần tốt lên. Ở quê nhà phát triển sự nghiệp là tốt nhất. Yêu cầu đối với người khác giới rất mâu thuẫn, vừa thấp nhất, vừa cao nhất.

Tay trái ít hơn tay phải: Thường xử lí theo cảm tính, tự tin và tự ti đều mãnh liệt. Phải nhờ sự giúp đỡ thì bên ngoài mới có thể thành công. Tình yêu bình ổn, hạnh phúc cả đời.

Trái 3 phải 3: Có thể nói là người rộng rãi, thích tưởng tượng, nội tâm lo lắng, thiếu cảm giác an toàn. Trên thực tế, số mệnh người này tốt, chỉ là buồn lo vô cớ. Tình yêu không được như ý.

Có 7 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Là người sống nội tâm, tính tình hơi khó chịu, luôn kiên trì bền bỉ phấn đấu cho mục tiêu của mình, tương lai công thành danh toại. Nên quan tâm đến người yêu và gia đình nhiều hơn một chút.

Tay trái ít hơn tay phải: Là người mẫn cảm, rất nhiều chuyện có thể rõ như lòng bàn tay, chỉ là không biểu lộ ra. Rất hòa đồng, thân thiện với mọi người. Gặp người khác giới không hợp sẽ lập tức có mâu thuẫn ngay, phải tìm được người tâm đồng ý hợp thì mới bên nhau trọn đời được.

Có 8 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhìn có vẻ như hòa nhã, nhưng kì thực là rất xoi mói, lúc thì vui vẻ lúc thì u buồn. Vận khí giống như chờ đợi thì không đến, trong lúc vô tình lại đến rất nhiều. Tình cảm phong phú, thân thể khỏe mạnh. Trong tình yêu là người mơ mộng không thực tế.

Tay trái ít hơn tay phải: Lòng tự trọng lớn, có chí khí. Vận khí luôn luôn không tốt bằng những người xung quanh, nhưng chỉ cần nỗ lực, thành thích của bạn sẽ vượt qua những người có vận khí tốt hơn mình rất nhiều. Rất cố chấp và bảo thủ trong tình yêu.

Trái 4 phải 4: Lương thiện, trước thời trung niên vận khí không tốt, cần phải có sự giúp đỡ của người khác một hoa tay mới có thể biến vận xui thành vận may. Trong tình yêu thì tưởng tượng nhiều hơn là thực hiện.

Có 9 hoa tay

Tay trái nhiều hơn tay phải: Nhiệt tình, tích cực, có khả năng lí giải siêu cường, giỏi về ứng biến, có năng lực tổ chức hoạt động. Không thích chạy theo người khác, thích người khác theo mình.
Tay trái ít hơn tay phải: Lí tưởng rộng lớn, luôn đi trước thời đại. Nên chọn người này làm người yêu.

Có 10 hoa tay

Lương thiện, cố chấp, bên ngoài kiên cường, bên trong yếu đuối. Đa số là có được thành tích trong nghệ thuật. Từ trung niên trở đi vận khí bắt đầu đi lên cho đến già. Dày tình mỏng mệnh, là người si tình.

Không có hoa tay nào

Thẳng thắn, lương thiện, vùi đầu trong công việc, làm việc đến nơi đến chốn, là người hơi thô kệch. Vận khí vào thời trung niên là tốt nhất. Yêu ai thì rất yêu, hận cũng rất hận.

Duyên phận của người 10 hoa tay và người không có hoa tay giống như được trời định. Họ phải chịu mấy đời gặp trắc trở không thể gần nhau mới có thể đổi lấy một đời ở bên nhau.
Theo phân tích của khoa học: Tính cách của người 10 hoa tay và người không hoa tay là bổ khuyết cho nhau, một người cương một người nhu, một người chủ động một người bị động, ở với nhau là thập toàn thập mĩ.

Do tính cách của hai loại người này đều có chút cực đoan, vì thế nếu không ghép đôi với nhau thì sẽ chìm trong vòng luẩn quẩn của đau khổ. Nhưng một khi hai người ở bên nhau thì có thể nói là một sự tổ hợp làm thay đổi thế giới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng qua hoa tay –

Tử vi và luật tương quan, tương đối

Bài viết Tử Vi và luật tương quan, tương đối của tác giả Ân Quang. Đây là một bài viết rất hay thể hiện ý kiến riêng của tác giả!
Tử vi và luật tương quan, tương đối

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài của tác giả Ân Quang

Nhân đọc bài “Cái Mũi Khắc Thê” hay là “Hai Cuộc Đời, Một Lá Số” của cụ Quản Văn Chính, đăng trong Tuần Báo KHOA HỌC HUYỀN BÍ số 17, trong ấy cụ có nêu lên trường hợp hai người cùng một giờ sinh, mà một người thì vợ qua đời đã lâu, một người kia vợ hãy còn sống, chúng tôi xin có bài này góp ý kiến về giá trị và công dụng của Tử Vi.

Nếu quan niệm rằng Năm, Tháng, Ngày, Giờ sinh trong một lá số quy định chặt chẽ từng tiểu tiết, sinh hoạt vận hạn của một người, thì cuộc sống của nhân loại từ xưa đến nay ắt không có gì thay đổi, tiến hóa. Vì cứ hết một vòng hoa giáp 60 năm, thì lại trở lại những ngày, giờ sinh y hệt như 60 năm trước đó, hoặc 60 năm sau này.

Thế mà cuộc sống của nhân loại đã biến đổi thiên hình vạn trạng.

Cùng một lá số Tử Vi có cung Điền Trạch thật tốt, thế hệ trước có người có cả trăm mẫu ruộng, cò bay thẳng cánh. Ngày nay, luật cải cách Điền Địa ra đời, bất chấp các sao trong lá số Tử Vi trong cung Điền Trạch, không còn ai là chủ sở hữu một trăm mẫu ruộng.

Đến đây, chúng ta thấy rằng vận số của mỗi cá nhân chịu ảnh hưởng tương quan của vận nước. Như ở Trung Hoa đỏ hiện nay thì lá số Tử Vi nào có được riêng một mẫu ruộng?

Tôi có một người trong họ, quê ở Hà Đông, ruộng nương điền sản rất nhiều. Ông cụ cũng nghiên cứu Tử Vi, có nhiều sách Tử Vi bằng chữ Hán. Đến năm 1954, khi có phong trào di cư thì cụ đốt hết sách Tử Vi. Cụ ức vì bao nhiêu năm trời xem số cho mình mà không thấy rằng mình lại bị phá sản trầm trọng đến thế. Cụ chán nản, không muốn nói chuyện Tử Vi với ai và cũng không cho tôi biết ngày giờ sinh của cụ. Nhưng tôi ngẫm rằng chỉ vài năm sau khi vào Nam, con cháu lại cũng tạo được nhà cửa, bất động sản đẹp đẽ cho cụ.

Nhìn vào cung Điền Trạch, không thể đoán rằng đương số có mấy cái nhà, mấy mẫu ruộng, mấy ao cá.

Tử Vi là Lý Số chứ không phải là Toán học.

Năm 1949, các cụ tôi làm ăn khá giả, mua được một cái nhà ở Saigon. Nhân lúc nhàn rỗi, thảo luận với bạn bè Tử Vi, có một người quen hiện là thầy Tử Vi cũng khá ở Saigon, có bảo thế này:

- “Cung Điền của Bác có Tử Vi, Tả, Hữu, ắt là có hai cái nhà”.

Lúc trời cho ăn nên làm ra, thì cũng dễ nhìn vào đà tiến mà đoán việc tốt lắm. Vài năm sau, ông cụ tôi mua thêm một cái nhà ở Gia định. Thế là hai cái nhà thật!

Tả Phù, Hữu Bật là một đôi mà, đúng quá rồi còn gì nữa. Vài năm sau nữa, làm ăn khá mua thêm một căn nhà ở Khánh Hội. Thế là ba cái nhà!

À, té ra Tử Vi là một cái chính. Phụ Bật là hai cái phụ, tổng cộng là ba.

Người có khuynh hướng công thức, ắt sẽ luận như vậy.

Đến lúc về già làm ăn kém: thu hẹp lại còn độc một cái nhà!

Vậy Tử Vi không phải là Toán Học mà là Lý Số.

Chỉ có thể luận tương đối về phần lượng mà thôi.

Có một cái nhà gạch to, bán đi có thể đổi thành hai cái nhà nhỏ, hoặc làm được vài mươi cái nhà tôn.

Luận về phần lượng của sự giàu nghèo, tiền tài, nhà cửa, địa vị thì cũng cần so sánh lá số của đương số với các cung Phúc, Quan, Điền, Tài của cha mẹ để có thêm một hình ảnh về phần lượng vậy thôi.

Cha mẹ đã ở vào bực tỷ phú, người con có lá số trung cách, trung phú, thì sự giàu có của người con cũng có hạng lắm. Do ảnh hưởng tương quan giữa cung Phú, Tài trong hai lá số.

Cha mẹ, gia tộc đã nhiều đời bần hàn, mà đến đời đương số được trung cách, trung phú, thì sự giàu có ấy cũng chẳng khá mấy trong xã hội.

Luận cho những người ấy nghe rằng số của họ được phong lưu trung phú thì trong hai người ấy, người nào cũng cho là xuôi tai, có lý. Vì người nào cũng có cái cảm quan riêng về mức trung phú, theo những tập nhiễm của họ từ bé.

Quanh đi, quẩn lại, cũng chỉ có ngần ấy năm tháng ngày giờ sinh, mỗi người còn phải chịu chi phối bởi nhiều ảnh hưởng tương quan như hoàn cảnh gia đình, dòng dõi, xã hội, địa lý v.v…

Đã có lần, tôi xem số giúp cho một đứa bé, tuổi Mậu Tuất, Mệnh có Tham tại Mùi, có Xương Khúc, Khôi Việt, không gặp hung tinh nào đáng kể, tôi đoán ngay là cháu thông minh học giỏi lắm.

Người cha mừng rỡ gật đầu: “Vâng, cháu thông minh lắm, cháu học lớp nhất. Cô giáo lúc nào cũng khen cháu. Tháng nào cháu cũng đứng từ hạng nhất đến hạng ba”.

Tuổi Mậu Tuất, năm nay 15 tuổi ta, 14 tuổi tây, học lớp nhất nhì đã lấy gì làm thông minh xuất sắc cho lắm. Có đứng hạng nhất cũng là sự thường.

Thế nhưng đứa bé ấy quả có thông minh vượt bực trong cái hoàn cảnh gia tộc của nó, theo cảm quan của gia đình nó.

Biết bao đứa trẻ ra đời cùng ngày giờ sinh. Như Mệnh có Xương Khúc cho là thông minh, thì cũng chỉ thông minh học giỏi trong hoàn cảnh gia đình của nó thế thôi! Cũng có Văn tinh, đứa trẻ sinh ra trong một gia đình văn học, ắt lợi về sự học hơn vì ngay từ lúc bé, đã thấm nhuần bầu không khí văn chương chữ nghĩa.

Cùng có Văn Xương, Văn Khúc: nếu một đứa bé sinh ra trong một gia đình mà sáng, trưa, chiều tối có chuyện đánh nhau, cãi nhau, thì Văn Xương, Văn Khúc cũng bay đi đằng nào mất. Đứa bé cũng chỉ còn lại chút thông minh lanh lợi vặt, hoặc là ê a năm ba chữ. Nhưng gia đình đứa bé, theo cái cảm quan riêng của họ, vẫn hài lòng, cho rằng như thế là thông minh.

Chính vì biết bao yếu tố tương quan như âm phúc, địa lý, dòng dõi, hoàn cảnh gia đình mà xưa nay có biết bao người cùng ngày, giờ sinh với Khổng Minh, Trương Lương, Hàn Tín… mà không có cuộc đời giống Khổng Minh như khuôn đúc được.

Tử Vi chỉ nói lên tính cách của cuộc đời, của vận hạn, chứ nào có quy định phần lượng một cách tuyệt đối.

Nếu không xét đến luật tương quan tương đối, thì không đưa ra được một chiều hướng nghiên cứu Tử Vi theo đúng công dụng của môn Lý Học Đông Phương này.

Chúng tôi nghĩ rằng, các học giả Tử Vi không nên, hoặc là suy tôn Tử Vi, hoặc là phủ nhận giá trị của khoa này.

Chúng ta cần định rõ cái công dụng của Tử Vi, rồi mới có thể phê phán giá trị của khoa này.

Thí dụ như trước một lọ thuốc bổ, chúng ta cần hiều lọ thuốc ấy bổ về phương diện nào, bổ cho cơ quan, bộ phận nào rồi sau mới có thể phê phán công hiệu của nó. Như trước một lọ thuốc bổ gan, chúng ta không tìm hiểu xuất xứ, công dụng, cứ vội theo tập quán, hoặc theo lời quảng cáo, vội cho rằng thứ thuốc bá bổ, bổ tổng quát. Đến khi uống vào vẫn thấy nặng ngực, khó thở, chê là thuốc ấy không hay. Thuốc ấy có bổ phổi đâu!

Chúng tôi thấy rằng có khá nhiều học giả Tử Vi xưa nay chỉ làm hai công việc. Một suy tôn tử Vi lên hàng thần toán tuyệt đích, tính cả đến ngày giờ qua đời. Hai là hoài nghi giá trị Tử Vi.

Nói rằng cùng ngày giờ sinh mà số vận của hai người còn có thể sai biệt vì biết bao yếu tố tương quan như địa lý, âm phúc, dòng dõi đầu giờ, cuối giờ v.v… rồi lại mong dùng Tử Vi để tính đến ngày giờ qua đời, thì quả thực là người nghiên cứu đã mâu thuẫn với chính mình.

Sách Tử Vi xuất bản đã khá nhiều, nhưng chưa ai làm công việc “Trả lại cho César cái gì của César”. Tử Vi là Tử Vi Lý Số, một môn Lý học.

Một môn Lý học không thể làm công việc của một môn Toán học thuần túy cũng như chúng ta không thể dùng Y Lý Đông Phương để luận về chiều dài con vi trùng, nhằm thỏa mãn cái tinh thần khoa học phân tích của Tây phương.

Luận đoán thời vận không phải là cứu cánh của Tử Vi Lý Số. Đoáng thời vận chỉ là một khía cạnh tương đối của Tử Vi. Môn Lý học này còn có công dụng giúp học giả tổ chức nếp sống của mình thuận theo thiên lý, theo cái quan niệm “Thuận Thiên Giả Tồn” của Đông Phương.

Trở lại câu chuyện “Hai Cuộc Đời, Một Lá Số”, chúng tôi có nhớ các cụ tôi ngày xưa thường nói chuyện rằng cung Phu-Thê mà ngộ Triệt, Tuần, nên lấy vợ chồng cách sông, cách nước thì lợi hơn, đỡ sự hình khắc. Ngày xưa thì cách sông, cách nước, cách làng, cách tỉnh đã là quan trọng. Ngày nay có cách nhau vài quốc qua cũng không phải là chuyện lạ.

Đây là khía cạnh Lý học chứ không phải là Toán học của Tử Vi.

Tử Vi Lý Số nào có độc đoán rằng hễ đã có Triệt, Tuần tại cung Phu Thê, thì dù có tính toán thế nào cũng không thoát khỏi việc lấy vợ, chồng nhằm người cách sông, cách nước…

Lý học Tử Vi chỉ vạch ra một chiều hướng sống theo Thiên Lý rằng “” Có Triệt, Tuần tại cung Phu Thê, lấy vợ chồng cách sông, cách nước thì lợi hơn, đỡ hình khắc.”

Nhân câu chuyện cụ Quản Văn Chính, chúng tôi chỉ muốn làm sáng tỏ cái quan niệm Tử Vi là một môn Lý Học Đông Phương.

Lá số của người chồng không thể định đoạt sự sống chết của vợ con, mà chỉ trợ lực, ảnh hưởng thêm vào những điểm tốt, xấu trong vận số của người vợ.

Người chồng gặp vận hạn có tang tóc, lại gặp năm ấy bản mệnh của người vợ kém, thì vợ mới chết. Còn nếu nhẹ, thì người vợ chỉ có thể bị một tai nạn nào hú vía rồi lại qua được.

Không thể coi Tử Vi như một môn toán học thuần túy, chỉ cần coi vào lá số của người chồng để quyết đoán rằng đến cái năm nào đó người vợ phải lăn ra chết.

Hai người đàn ông cùng tuổi Mậu Ngọ, tháng 5, ngày 13, giờ Mão, nhưng họ không lấy vợ cùng một ngày, một giờ. Vợ của họ không có ngày…

Theo tạp chí Khoa Học Huyền Bí


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi và luật tương quan, tương đối

Tướng số phụ nữ giàu sang |

Phụ nữ chân to thường có phúc lớn, tiền bạc nhiều không đếm xuể còn phụ nữ có cổ dài lại là những người không biết tiết kiệm, nhưng kiếm tiền giỏi. 1. Đôi mắt linh hoạt Phái nữ tướng này thường nhạy cảm, trí nhớ tốt. 2. Mũi to Trong dân gian, mũi này
Tướng số phụ nữ giàu sang |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng số phụ nữ giàu sang |

Xem tướng bàn tay biết sở thích “yêu”

Bàn tay mỗi chúng ta nói lên rất nhiều điền, thường thì các thầy tướng số hay phán xét về đường công danh, tiền bạc hay phu thê, tử tức. Nay, xem vào bàn tay phụ nữ bạn có thể đoán biết sở thích “yêu" của họ thông qua độ dài các đốt của ngón cái, hình dạng đầu ngón tay…
Xem tướng bàn tay biết sở thích “yêu”

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Độ dài các đốt của ngón cái
Yếu tố đầu tiên cần quan sát là ngón cái. Cụ thể hơn là quan sát đốt trên và dưới của ngón cái. Đốt trên tượng trưng cho “ham muốn” và đốt dưới tượng trưng cho “lý trí”.

Nếu đốt trên dài hơn đốt dưới, đây là kiểu phụ nữ có ham muốn rất mạnh mẽ. Cô nàng này thích kiểm soát và quyết định mọi chuyện.

Tính cách này thoạt đầu có thể khiến “chuyện ấy” hấp dẫn hơn, tuy nhiên, về lâu dài sẽ khiến bạn cảm thấy khó chịu. Suy cho cùng, bạn phải ép bản thân mình chiều lòng nàng dù không muốn.

Trong khi đó, nếu đốt dưới dài hơn, trước mặt bạn là một người phụ nữ luôn hành động theo lý trí. Nhược điểm của cô nàng này là thiếu sự liều lĩnh. Điều mà bạn thấy hài hước và thú vị có thể sẽ bị nàng cho là phi lý hoặc ngớ ngẩn.

Đầu ngón tay
Sau khi đã khám phá “ham muốn” và “lý trí” của nàng, mục tiêu tiếp theo chính là hình dạng của đầu ngón tay. Có nhiều cách phân loại khác nhau nhưng nhìn chung, cách phân loại đơn giản nhất là đầu ngón tay nhọn và vuông.

Đầu ngón tay nhọn cho biết bạn đang gặp gỡ một cô nàng mơ mộng, luôn nhìn thế giới bằng màu hồng. Nàng biết thưởng thức cái đẹp và luôn giữ thái độ lạc quan với mọi chuyện. Kiểu phụ nữ này thường không có dự tính lâu dài cho tương lai và muốn tìm kiếm một người đàn ông có cùng tư tưởng sống với mình.

Ngược lại, đầu ngón tay vuông là một dấu hiệu rõ nét cho thấy nàng thuộc mẫu phụ nữ thực tế. Đừng cố chơi trò “mèo vờn chuột” với họ. Ngoài ra, những chiêu trò lãng mạn với nàng cũng chỉ là một sự nhạt nhẽo và lố bịch.

Đường chỉ tay
Đường trái tim (đường nằm ngang cao nhất) tiết lộ chiều sâu cảm xúc và ham muốn tình dục của một người. Phụ nữ với đường trái tim dài và đậm có xu hướng trải nghiệm những cung bậc cảm xúc cao nhất của “yêu” và “hận”, trong khi người có đường trái tim ngắn hoặc gãy lại biết cách kiểm soát cảm xúc của mình và kiềm chế tình cảm rất tốt.

Người với đường trái tim ngắn và thẳng có ham muốn tình dục cao và đặc biệt hứng thú với “tình một đêm”, thay vì gắn bó với một mối quan hệ lâu dài.

Cảm giác khi chạm vào bàn tay
Yếu tố cuối cùng cần để tâm chính là cảm giác khi chạm vào bàn tay của nàng. Có hai loại cảm giác chính là mềm mại và thô ráp.

Bàn tay mềm mại cho biết trước mặt bạn là một tín đồ của nghệ thuật. Nói đến đây chắc hẳn trong đầu bạn đang nghĩ có thể lấy lòng nàng bằng một bữa tối lãng mạn và một bộ phim tình cảm đằm thắm. Tuy nhiên, sự thật là cô nàng sẽ ấn tượng hơn với một chuyến đi tham quan quanh viện bảo tàng, nhất là những viện bảo tàng đẹp. Để chiều lòng mẫu phụ nữ này, đàn ông phải có tính sáng tạo cao.

Nếu bàn tay bạn đang chạm vào cho cảm giác thô ráp, bạn cần phải tiếp cận nàng một cách thận trọng. Đây là kiểu phụ nữ có cá tính hết sức mạnh mẽ. Khi yêu, họ sẽ yêu hết mình, yêu điên cuồng nhưng đến lúc tức giận cũng sẽ hết sức khủng khiếp.

Ngoài ra, bạn sẽ thấy cô nàng thiếu sự khéo léo, tinh tế trong cách cư xử, thậm chí khiến bạn suốt ngày phải lạy trời mong cô ấy đừng thẳng tính quá như vậy. Nhìn chung, sự thẳng thắn, trung thực của cô nàng sẽ khiến bạn choáng ngợp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng bàn tay biết sở thích “yêu”

Đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế

Tiền Ngũ Đế là một trong những vật phẩm phong thủy quen thuộc nhưng hiệu nghiệm, để sử dụng đúng cách, hãy tìm hiểu về đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế.
Đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiền Ngũ Đế là một trong những vật phẩm phong thủy quen thuộc nhưng hiệu nghiệm, có tác dụng hóa sát, tăng cường may mắn, tài lộc và trấn trạch. Để sử dụng đúng cách, hãy tìm hiểu về đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế.  

Muon hoa sat, tru ta, vuong tai - tim den tien Ngu De hinh anh
 

1. Tiền Ngũ Đế có tác dụng vượng tài trong phong thủy nhà ở

  Tiền Ngũ Đế có nguồn gốc từ Trung Hoa, là đồng tiền lưu hành qua 5 đời vua thời nhà Thanh là Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh. Bản thân tiền Ngũ đế là tiền mà thời nhà Thanh lại là thời kì cực thịnh, giàu có, sung túc nên sau này người ta coi đó là vật phẩm phong thủy vượng tài.   Muốn phát huy tối đa hiệu quả về đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế trong phong thủy nhà ở, cần lưu ý cách bố trí. Có 3 hình thái thiết kế cơ bản nhất, tuân theo trình tự Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh. Cụ thể như sau:   Theo trình tự Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh sắp xếp 5 đồng tiền từ trên xuống dưới hoặc từ trái sang phải theo hình chữ nhất, có ý nghĩa thời gian liên tục, không ngừng phát tài. Chủ nhân nên bày ở hành lang, huyền quan của nhà sẽ tạo ra thuận cảnh, đường tài lộc rộng mở.   Theo trình tự Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh , sắp xếp 5 đồng tiền theo hình tròn, chú ý bày đồng tiền Thuận Trị ở điểm cao nhất của vòng tròn, có ý nghĩa không gian tuần hoàn, không ngừng phát tài. Do phong thủy đều quan niệm vòng tròn là bầu trời rộng lớn, nên bày ở giữa nhà, cách mặt đất 1m trở lên, biểu hiện tiền tài từ trên trời rơi xuống.    Theo trình tự Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, sắp xếp đồng tiền Thuận Trị ở vị trí trung gian, 4 đồng tiền còn lại lần lượt ở phía Đông Nam Tây Bắc. Biểu đạt ý nghĩa "phương phương đại lợi", "bốn mùa phát tài", "ngũ cốc được mùa". Phong thủy cho rằng bên trong là đất, bày ở giữa nhà, cách mặt đất trong phạm vi 1m trở xuống thì rất tốt.  

2. Phương vị hỉ kị đề bày tiền Ngũ Đế

 
Muon hoa sat, tru ta, vuong tai - tim den tien Ngu De hinh anh
 
Phương vị bày tiền Ngũ Đế và trạch mệnh của gia chủ có liên quan mật thiết với nhau. Nếu tìm được vị trí tốt, phù hợp với mệnh cục thì tự nhiên hiệu quả rõ rệt bằng không khả năng làm nhiều hiệu quả ít là rất cao. Cụ thể như sau:   Người mệnh Kim thích hợp bày xâu tiền Ngũ Đế hình tròn ở phía Tây hoặc trung tâm nhà ở, hình thành thế Kim vượng hoặc Thổ sinh Kim – ngũ hành lưu thông. Ngoài ra nếu bày xâu tiền hình vuông ở phía Tây cũng hình thành thế Thổ sinh Kim, rất có lợi.    Người mệnh Thủy thích hợp bày xâu tiền hình tròn ở phía Bắc nhà, hình thành thế Kim sinh Thủy.   Người mệnh Mộc thích hợp nhất là bày xâu tiền hình tròn ở phía Đông nhà, hình thành thế Kim khắc Mộc.   Người mệnh Thổ thích hợp nhất là bày xâu tiền Ngũ Đế hình thẳng ở phía Bắc nhà, hình thành thế Thổ sinh Kim, Mộc khắc Thổ.   Ngoài ra, lưu ý rằng đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế thuộc tính ngũ hành là Kim, hình tròn là Kim, hình vuông là Thổ, hình thẳng là Mộc, phương Tây là Kim, trung tâm nhà là Thổ, phương Bắc là Thủy, phương Đông là Mộc.
Xem thêm bài viết Vũ khí phong thủy hóa sát mạnh nhất
 

3. Công dụng hóa sát của tiền Ngũ Đế

  Căn cứ vào mệnh cục, nếu mang theo tiền Ngũ Đế để ở ví tiền, túi xách thì có thể nâng cấp vận trình, đặc biệt là tài vận, đồng thời cũng có tác dụng trừ tà. Tiền Ngũ Đế không thể tách rời tài vận và chính khí.   Tiền Ngũ Đế hóa giải lỗi phong thủy cửa đối cửa, cửa đối đường vô cùng hiệu nghiệm. Căn cứ vào phương vị sát khí, hình thái tiền Ngũ Đế bày ra không giống nhau, nếu nắm được nguyên tắc mà bày cho phù hợp thì hiệu quả sẽ càng cao hơn. Đó chính là biện pháp lấy tiền tiêu tai.   Theo Cửu Cung Phi Tinh, Ngũ Hoàng Nhị Hắc là những sao Đại Sát đều thuộc ngũ hành Thổ nên dùng tiền Ngũ Đế để hóa giải là lựa chọn hàng đầu. Nguyên lý của phương pháp này là lấy Kim chế Thổ, sử dụng xâu tiền Ngũ Đế có hình thái và vị trí phù hợp nhất, hài hòa nhất với bố cục chung của ngôi nhà thì sẽ hạn chế được tính chất xấu của sao lưu niên.   Cách bày cây xanh ở ban công vượng tài vượng lộc, hóa sát bình an Long Quy hóa sát, trấn trạch, an gia Chiêu tài bằng tì hưu thế nào là chuẩn nhất? Gà trống trong phong thủy hóa sát, giải trừ tiểu nhân
Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính phong thủy của tiền Ngũ Đế

Mơ thấy trời mưa báo điềm gì –

Mưa là một hiện tượng thiên nhiên khá bình thường nên không có gì lạ khi chúng bất ngờ xảy đến trong giấc mơ của bạn. Mưa là thứ giúp xoa dịu mọi thứ mọi điều trong cuộc sống. Nhưng bạn lại vô cùng băn khoăn và không biết mơ thấy mưa mang đến điềm là
Mơ thấy trời mưa báo điềm gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy trời mưa báo điềm gì –

Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Mơ thấy cử chì hành vi yếu ớt, dù của bạn hay người khác, đều cho thấy bạn đã giẫm chân tại chỗ, không can đảm tiến bước bởi tính tự ti của mình; mơ thấy cử chỉ quá giữ kẽ gò bó, dự báo mưu mô của bạn sẽ khó thực hiện. Nếu mơ thấy quá cường điệu lễ n
Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cử chỉ yếu ớt: Dừng bước vì tự ti –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Bảng hợp, xung, hình, hại của các địa chi

Mối quan hệ hợp xung hình hại của các địa chi là một trong những yếu tố/căn cứ của mệnh lý học dùng để luận đoán vận mệnh con người. Thông thường thì gặp xun
Bảng hợp, xung, hình, hại của các địa chi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mối quan hệ hợp, xung, hình, hại của các địa chi là một trong những yếu tố/căn cứ của mệnh lý học dùng để luận đoán vận mệnh con người. Thông thường thì gặp xung, hình, hại thì mệnh cục trắc trở; tương hợp thì gặp hung hóa cát, mọi việc thuận lợi. 




BẢNG HỢP, XUNG, HÌNH, HẠI CỦA CÁC ĐỊA CHI

Địa chi Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi
  hợp   hình tam hợp   xung hại tam hợp      
Sửu hợp         tam hợp hại hình
xung
  tam hợp hình  
Dần           hình
hại
tam hợp   hình
xung
  tam hợp hợp
Mão hình       hại     tam hợp   xung hợp tam hợp
Thìn tam hợp     hại hình       tam hợp hợp xung  
Tỵ   tam hợp hình
hại
          hợp
hình
tam hợp   xung
Ngọ xung hại tam hợp       hình hợp     tam hợp  
Mùi hại hình
xung
  tam hợp     hợp       hình tam hợp
Thân tam hợp   hình
xung
  tam hợp hợp hình           hại
Dậu   tam hợp   xung hợp tam hợp       hình hại  
Tuất   hình tam hợp hợp xung   tam hợp hình   hại    
Hợi     hợp tam hợp   xung   tam hợp hại      

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:
Tam hợp là gì, Lục hợp là gì, nên hiểu sao cho đúng? Tứ hành xung là gì? Hiểu đúng để không còn bi kịch Hai tuổi tương khắc chỉ dựa vào tứ hành xung liệu có chính xác?

(Theo Dự đoán tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng hợp, xung, hình, hại của các địa chi

Nhìn tướng miệng biết ngay sang hèn, sướng khổ

Tướng miệng sang hèn: Cùng ## khám phá xem bạn thuộc tướng miệng nào dưới đây nhé!
Nhìn tướng miệng biết ngay sang hèn, sướng khổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cùng ## khám phá xem bạn thuộc tướng miệng nào dưới đây nhé!



1. Miệng lăng giác

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh
 
Đặc trưng dễ nhận thấy của tướng miệng lăng giác chính là các đường viền môi rõ ràng, khóe miệng hướng lên trên, nhìn trông khá góc cạnh. Đặc biệt, Nhân trung nhìn khá sâu, hai viền Nhân trung hơi lồi lên.

Chủ nhân của tướng miệng này có tính cách mạnh mẽ, tài ăn nói lưu loát, luôn ở thế chủ động. Theo đó, cuộc sống của người này khá bình yên, không phải trải qua nhiều sóng gió.

2. Miệng ngưỡng nguyệt


Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 2
 
Khóe miệng cong lên, sắc môi hồng hào là đặc điểm thường thấy của tướng miệng ngưỡng nguyệt (hay còn gọi là ngắm trăng hay miệng tiếu khẩu, trông lúc nào cũng như đang cười).

Người có kiểu miệng này thường rất lạc quan, suy nghĩ tích cực, các mối quan hệ hài hòa nên cuộc sống thuận buồm xuôi gió. Hơn thế, họ có năng khiếu về nghệ thuật, có tinh thần trách nhiệm trong cuộc sống, dễ dàng thành đạt và có hậu vận tốt đẹp.

3. Miệng phúc chu

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 3
 
Miệng phúc chu hay còn gọi là miệng thuyền, nó có hình dáng như chiếc thuyền úp, đối lập với tướng miệng ngưỡng nguyệt phía trên.

Chủ  nhân của kiểu miệng này thuộc tuýp hướng nội, suy nghĩ khá bi quan, dễ nói lời mà không giữ lời, số mệnh vất vả, cuộc sống gặp nhiều trở ngại.

4. Miệng chữ “Nhất”

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 4
 
Tướng miệng chữ “Nhất” (一) thường rất mỏng, khóe miệng nằm ngang, không hướng lên trên hay xuống dưới, trông như một đường thẳng.

Người có kiểu miệng này có tốc độ nói chuyện khá nhanh, ăn nói linh hoạt, sống lí tính, hiếm khi xử lí mọi việc theo cảm tính. Do đó, người này cũng dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp. Tuy nhiên, tình cảm lại trúc trắc, bất thuận.

5. Miệng vuông vức

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 5
 
Người có tướng miệng vuông vức thường làm việc cẩn thận, tính cách chân thành, dễ được mọi người tin tưởng. Họ làm việc gì cũng theo kế hoạch và chuẩn mực nhất định, hiếm khi thấy người này phá vỡ nguyên tắc của bản thân.

6. Miệng xuy hỏa

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 6
 
Miệng xuy hỏa hay còn gọi là thổi lửa. Trong trạng thái bình thường, hai môi không khép chặt vào nhau, thậm chí còn lộ răng là những đặc điểm thường thấy của miệng thổi lửa. Nhược điểm lớn nhất của người này là khó giữ bí mật, nói nhiều nên không thể kiểm soát được cảm xúc. Cuộc sống của họ khá vất vả, khó tụ tài, dù kiếm được tiền nhưng cũng tiêu tán.

7. Miệng nhăn nhúm

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 7
 
Người có tướng miệng nhăn nhúm, hai bên khóe miệng nhiều nếp nhăn thường có cuộc sống cô độc khi về già. Tài lộc của người này cũng kém, cuộc sống chật vật, gian khổ.

8. Miệng lệch (méo)

Nhin tuong mieng biet ngay sang hen, suong kho hinh anh 8
 
Tướng miệng này có đặc điểm môi bên trái và phải không đều nhau, nhìn bị lệch về một phía hoặc khi nói chuyện miệng bị méo. Chủ nhân của kiểu miệng này hay nói to, nói khoác, không đáng tin cậy. Nếu có thêm đặc điểm ánh mắt lờ đờ thì sức khỏe yếu kém khi về già, duyên con cái bạc.

► Xem nốt ruồi trên mặt nam giới, phụ nữ đoán tính cách chuẩn xác

Hoàng Lan (Theo XZ360)



                    
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng miệng biết ngay sang hèn, sướng khổ

10 loại cây có tác dụng thải khí độc trong nhà

Cùng tìm hiểu 10 loại cây cảnh không chỉ làm đẹp cho ngôi nhà mà còn làm tươi mới không khí trong phòng. Nhờ có tác dụng lọc bỏ những hơi độc hại như benzen, formaldehyde.
10 loại cây có tác dụng thải khí độc trong nhà

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Cùng tìm hiểu 10 loại cây cảnh không chỉ làm đẹp cho ngôi nhà mà còn làm tươi mới không khí trong phòng mang lại phong thủy tốt.  Nhờ có tác dụng lọc bỏ những hơi độc hại như benzen, formaldehyde.

1. Hoa cúc

Trong khi hầu hết các loại cây cảnh có tác dụng lọc sạch không khí không phải là cây có hoa, thì hoa cúc là một ngoại lệ. Chúng có tác dụng tốt nhất trong việc loại bỏ benzen - hóa chất dùng trong nhiều loại bột giặt, hồ dán, nhựa, sơn. Loài hoa này cần ánh mặt trời, vì thế hãy đặt chúng gần cửa sổ. Cũng vì là cây có hoa, nên nó không thể sống quanh năm như các loại cây cảnh trong nhà khác.

2. Hoa đồng tiền

Là biểu tượng của mùa xuân. Chúng cũng rất hữu ích trong việc lọc khí benzen - thường có mặt trong nhiều loại sơn. Vì thế, nếu bạn vừa sơn lại phòng, nên đặt một chậu hoa đồng tiền để loại bỏ các hạt benzen lơ lửng trong không khí.

3. Hoa đỗ quyên.

Trong khi hoa đồng tiền là lựa chọn cho mùa xuân, thì đỗ quyên có thể là lựa chọn tốt nhất cho mùa thu, vì chúng thích hợp với nhiệt độ mát mẻ. Chúng hấp thụ chủ yếu formaldehyde - tìm thấy trong nhiều loại vật liệu dán tường, lớp cách nhiệt. Vì thế, hoa đỗ quyên là lựa chọn tốt cho gian bếp.

4. Nha đam

Nha đam nổi tiếng nhất với khả năng làm lành vết thương. Gel trong lá cây này có thể làm dịu vết bỏng, vết cắt, vết côn trùng đốt và các dạng kích ứng da khác. Nhưng nó còn có tác dụng làm sạch không khí. Nha đam dễ dàng hấp thu benzen và formaldehyde. Cây mọc tốt khi có nắng, vì vậy hãy để nơi cửa sổ có nắng chiếu tới.

5. Cây nhện

Lá cây có khả năng hấp thu mạnh mẽ benzen, formaldehyde, CO và xylene - một hóa chất sử dụng nhiều trong công nghiệp da và cao su. Cây chịu được khắc nghiệt, thích hợp với bạn nào không có nhiều thời gian chăm sóc.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

6. Cây lưỡi hổ  

Cây lưỡi hổ rất quen thuộc, và thực sự sẽ gây ngộ độc nếu bạn ăn vào. Ngược lại, nó cũng có tác dụng giải độc, vì lọc được các khí như formaldehyde. Cây dễ sống, do vậy phù hợp với người ít có thời gian chăm sóc. Vì formaldehyde bay hơi chủ yếu từ các sản phẩm vệ sinh cá nhân, nên cây lưỡi hổ sẽ có hiệu quả nhất khi đặt trong nhà tắm.

7. Vạn niên thanh  

Cây không cần nhiều ánh sáng mặt trời, mà lá vẫn có thể xanh ngay cả khi bạn đặt trong bóng râm. Vì thế, cây phù hợp để đặt ở phòng không có nhiều ánh sáng. Nó hấp thụ formaldehyde rất tốt.

8. Cây thường xuân

Mặc dù loài cây này lọc được formaldehyde, nó cũng có thể làm sạch không khí có mùi xú uế. Cây cần ánh sáng, vì thế nên đặt ở cửa sổ của nhà tắm.

9. Cây cọ cảnh

Cây lọc được cả benzen và formaldehyde cũng như trichloroethylene - hóa chất dùng trong quá trình giặt khô. Vì thế, nó thích hợp để đặt trong phòng giặt khô, hoặc phòng có nhiều đồ có thể giải phóng formaldehyde, chẳng hạn phòng ngủ hoặc phòng khách.

10. Cây huệ bình (lan Ý)

Loài cây này đứng đầu bảng trong danh sách các loài cây lọc sạch không khí của cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA). Không chỉ hấp thụ formaldehyde, benzen và trichloroethylene, nó còn hấp thụ cả xylene và toluene - hóa chất tìm thấy trong dầu hỏa. Cây sống được trong bóng râm và chỉ cần tưới nước tuần một lần, vì thế là lựa chọn tốt cho những người không có thời gian. Vì hấp thụ được nhiều hóa chất, nên nó có thể đặt ở bất cứ đâu trong nhà. Vì các loài cây hấp thụ hóa chất từ đất, nên chúng sẽ làm việc tốt nhất khi các lá dưới cùng được xén bỏ, để lộ ra bầu đất.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 loại cây có tác dụng thải khí độc trong nhà

Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa –

Người Trung Hoa xưa quan niệm rằng, phương pháp sắp xếp, bố trí các vật dụng, đồ đạc ở phòng làm việc theo phong thủy văn phòng luôn phát ra một trường năng lượng và trường năng lượng này sẽ có tác động trực tiếp đến sức khỏe cũng như sự mi mẫn trong
Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

công việc của chúng ta.

Chính vì vậy, nắm rõ được những tác động của việc bài trí sẽ giúp chúng ta sắp xếp căn phòng làm việc của mình 1 cách hợp lý, cân đối và phù hợp với phong thủy, từ đó phát ra trường năng lượng tích cực làm cho cuộc sống và công việc của chúng ta được tốt hơn.

Bàn làm việc phù hợp

ban lam viec phu hop Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa

chon ban lam viec phu hop phong thuy van phong Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa

kich thuoc ban lam viec phai hop ly Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa

Không gian làm việc tốt

khong gian lam viec tot Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa

chon cho ngoi hop phong thuy van phong Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy văn phòng theo quan niệm của người Trung Hoa –

Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy

heo quan điểm phong thủy nhà ở, phía Tây Bắc của căn nhà đại diện cho người đàn ông, phía Tây Nam tượng trưng cho người phụ nữ.
Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Ngoài tình yêu, yếu tố phong thủy cũng ảnh hưởng khá nhiều tới cuộc sống hôn nhân gia đình. Chị em nắm được tuyệt chiêu phong thủy nhà ở dưới đây sẽ giúp ích rất nhiều trong đời sống, nhất là khiến anh xã thủy chung một lòng và nghe lời vợ răm rắp.

 Xem thêm 4 bí mật của đàn ông ngoại tình



1. Sắp xếp đồ vật theo nguyên tắc “Nam tả, nữ hữu”   Theo quan điểm phong thủy nhà ở, phía Tây Bắc của căn nhà đại diện cho người đàn ông, phía Tây Nam tượng trưng cho người phụ nữ. Khi bố trí quá nhiều đồ đạc thiên lệch về một hướng, ắt sẽ khiến quyền lực của một trong hai người bị lấn át.   Tốt nhất nên bài trí đồ đạc trong nhà sao cho cân đối, hài hòa, tránh tình trạng nhất bên trọng nhất bên khinh. Ngoài ra, nên tôn trọng quy luật “nam tả, nữ hữu” để sắp xếp đồ đạc trong phòng.  
Meo phong thuy hon nhan hinh anh
 
2. Đặt quần áo của chồng dưới gối   Quần áo của mỗi người ngoài thể hiện phong cách riêng, nó còn chứa đôi phần trường khí của người mặc. Nếu chị em đặt quần áo của chồng dưới gối sẽ giúp khí trường của hai người càng thêm hòa hợp. Về lâu dài, tình cảm vợ chồng ngày càng mặn nồng. Nhưng để làm được điều này, vợ phải giữ bí mật tối đa với chồng.
 
Ngay cả khi ông xã đi công tác, cũng nên chuẩn bị sẵn “đồ nghề” là chiếc gối riêng dành cho chồng dùng ở nhà nghỉ, khách sạn. Có như vậy, người chồng sẽ như bị “bỏ bùa” chỉ luôn mê đắm, thủy chung với vợ mà thôi.   3. Nhà bếp có chỗ dựa, tránh bị dầm xà chèn ép   Trong gia đình, bếp đại diện cho người phụ nữ. Do đó, nhà bếp cũng cần có chỗ dựa vững chãi, ngụ ý rằng người vợ đáng tin, có khả năng chỉ huy. Hơn nữa, tài lộc và vận khí của người phụ nữ trong gia đình chủ yếu tụ lại ở căn bếp.   Trong trường hợp nhà bếp có dầm, xà, cột đè ngang ở trên bếp nấu hay chỗ cửa phòng bếp đều gây bất lợi cho người phụ nữ trong nhà. Kinh tế của phái đẹp, bao gồm cả mẹ và con gái đều sẽ rất thiệt thòi, làm được nhiều mà chẳng để dành được bao nhiêu, tiền vừa vào túi này đã chui ra ở túi kia.
 
Hơn thế, cuộc sống hôn nhân của người phụ nữ sống trong căn nhà ấy ngày một ảm đạm, chỉ gặp toàn người lăng nhăng, tệ bạc. Nếu vợ chồng cưới nhau đã lâu mà bếp không có chỗ dựa hoặc dầm xà thì quan hệ ngày bị “ác hóa”, dẫn tới đổ vỡ.
 
Meo phong thuy hon nhan hinh anh
 
4. Tránh bố trí phòng ngủ đối diện với đường xe chạy   Thông thường, những gia đình có phòng ngủ ở tầng 1 rất dễ phạm phải đại kị phong thủy, tức bố trí đối diện với đường xe chạy. 
 
Sống trong ngôi nhà này lâu, người chồng thường xuyên đi ra khỏi nhà, dù cho không có việc gì làm. Điều đó khiến người vợ khó lòng mà quản lý được chồng mình.
 
Có thể hóa giải tình trạng này bằng cách đổi cửa, kê đặt bình phong, làm vách ngăn hoặc treo rèm và các đồ trang trí như hoa giả, chậu cây cảnh chắn tầm nhìn thẳng từ hướng đường xe chạy vào phòng ngủ.
 
Nhìn kệ giày dự đoán tình cảm vợ chồng Ác mộng đeo bám, lập tức thay đổi phong thủy phòng ngủ Kiểu phòng ngủ khiến bạn gặp ác mộng triền miên Thay đổi phong thủy nhà ở để sớm có người yêu
5. Đại kị phòng vệ sinh có hai cửa
  Không ít gia đình, vì mục đích sử dụng thuận tiện nên đã mở hai cửa cho nhà vệ sinh. Đây là một trong những đại kị phong thủy.    Như đã biết, phòng vệ sinh cần phải bí mật, nhưng khi xuất hiện 2 chiếc cửa sẽ khiến gia chủ thiếu cảm giác an toàn, cũng ngụ ý rằng người vợ khó kiểm soát chồng. 
 
Thêm nữa, càng nhiều cửa, xú uế trong nhà vệ sinh càng dễ thoát ra ngoài. Điều đó lại vô tình làm người bạn đời nảy sinh tà ý, suy nghĩ tiêu cực, muốn tìm người thứ ba để chia sẻ hơn là vợ của mình.  
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không

Ngân Hà
Giúp vợ chồng hiếm muộn cầu tự thành công với 4 mẹo phong thủy
Phong thủy phòng ngủ không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của chủ nhân mà còn quan hệ chặt chẽ với việc mang thai của người vợ. Sau đây là 4

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy hôn nhân giúp chồng luôn chung thủy

Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Toàn bộ lòng bàn tay chia thành 9 gò. Đặc điểm mỗi gò là một trong những yếu tố quan trọng khi coi bói chỉ tay bởi nó cũng cho biết phần nào lá số tử vi của
Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Toàn bộ lòng bàn tay chia thành 9 gò. Mỗi gò lòng bàn tay đại diện cho phương diện nhất định trong tính cách và cuộc đời con người.


Đặc điểm mỗi gò lòng bàn tay là một trong những yếu tố quan trọng khi coi bói chỉ tay, bởi qua đó hé lộ phần nào lá số tử vi của mỗi người.

Cac go long ban tay va la so tu vi hinh anh
9 gò lòng bàn tay

1. Gò Mộc tinh

Gò Mộc tinh nằm dưới ngón trỏ, đại diện cho uy tín và giá trị bản thân. Người tự tin với chính mình thường có gò Mộc tinh nhô cao. Ngoài ra, nếu phạm vi phần nhô lên rộng, có nghĩa là giỏi giao tiếp và khẳng khái. Nếu gò này nhô cao hơn hẳn so với những gò còn lại, chứng tỏ là người tham vọng, thích nắm quyền lực.
 
2. Gò Thổ tinh

Gò này nằm ở phía dưới ngón giữa, đại diện cho tinh thần trách nhiệm và tính nham hiểm. Nếu gò này không phát triển càng tốt. Gò Thổ Tinh lớn biểu thị cuộc sống cô đơn, chán ghét thực tại, không thích cho đi. Nếu gò này nhỏ biểu thị người có kiến thức phong phú, thích triết học.
 
3. Gò Hỏa tinh thứ nhất
 
Gò này nằm ở điểm gập của ngón tay cái, đại diện cho lòng dũng cảm, tinh lực, sức chiến đấu và bản năng tự vệ. Nếu gò này bằng phẳng thể hiện sự nhát gan, nhưng nếu quá phát triển lại có khuynh hướng thô bạo.
 
4. Gò Kim tinh

Gò Kim tinh nằm ở đốt xương thứ ba của ngón cái, nơi cơ thịt khá phát triển. Gò này là đại diện  cho sự nhiệt tình với cuộc sống. Mức độ phát triển của nó trực tiếp phản ánh tinh lực và sức sống của một người.

Sức khỏe, sức sống, tính dục, lạc thú trong cuộc sống đều do hình dạng và tính đàn hồi của gò Kim tinh quyết định. Nếu gò này nhô cao hon các gò khác, lại tròn đầy biểu thị tính dục rất mạnh, tính cách tương đối thô tục. Nếu gò này quá mờ nhạt lại biểu hiện một cơ thể suy nhược. Nếu phát triển vừa phải biểu thị tính tình hòa thuận, ấm áp.
 
5. Gò Địa
 
Gò Địa cùng với ngón tay giữa là hai nơi đại biểu cho ý thức và tiềm thức của con người. Độ nhô cao của gò này biểu thị năng lực quan sát sắc sảo, sức cuốn hút, hấp dẫn đối với người khác. Nếu gò này lõm xuống chứng tỏ đây là người thiếu sức phản kháng.
 
6. Gò Thái dương
 
Gò này nằm ở phía dưới ngón áp út, có liên quan đến sức sáng tạo, khả năng thưởng thức nghệ thuật và sự dao động tình cảm. Gò này tròn đầy là biểu hiện của người có nhân sinh quan rõ ràng, tính tình hoạt bát. Nếu gò này không phát triển cho thấy người đó không hứng thú với nghệ thuật hoặc nếu quá phát triển thì có nghĩa là luôn cho mình là giỏi giang.
 
7. Gò Thủy tinh
 
Gò Thủy tinh nằm ở phía dưới ngón út, đại diện cho khả năng giao tiếp. Người có gò Thủy tinh phát triển thường nhiệt tình, bao dung, độ lượng. Nếu gò này không phát triển lại là dấu hiệu của việc không quan tâm tới mọi người xung quanh nhưng phát triển mạnh nhất so với các gò khác lại là người nói nhiều.
 
8. Gò Hỏa tinh thứ hai
 
Gò này nằm ở vị trí rìa lòng bàn tay, giữa gò Thủy tinh và gò Nguyệt. Gò này đại biểu cho sự chính trực, đạo đức, biểu đạt dũng khí của niềm tin, cũng có thể biểu hiện lòng kiên nhẫn và nhẫn lại.
 
9. Gò Nguyệt  
 
Gò Nguyệt nằm ngay sát cổ tay, có liên quan đến sức tưởng tượng và tiềm thức, đại biểu cho cảm tính và trực giác, cũng có thể biểu hiện mức độ tài năng sáng tạo nghệ thuật. Nếu nó kéo dài xuống cổ tay tất là người có khuynh hướng tâm linh hoặc thích gần gũi với thế giới tự nhiên. Nếu gò này quá phát là người sống tình cảm, nếu gò này không phát là người nghèo sức tưởng tượng.   10. Vùng bình nguyên Hỏa tinh
 
Vùng bình nguyên Hỏa tinh hay còn gọi là đồng bằng Hỏa tinh, nằm ở vị trí trung gian giữa 9 gò trong bàn tay. Gò này đại diện cho khả năng kiểm soát tình cảm. Nếu vùng này rộng, dày, rõ ràng biểu thị tính cách nóng vội, dễ nổi giận, nhưng nếu vùng này mỏng, sâu, hõm thì biểu thị sự thiếu tự tin hoặc không có sức ảnh hưởng.
 
Theo Ngôn ngữ của bàn tay  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các gò lòng bàn tay và lá số tử vi

Đặt tủ giày nhầm chỗ 'đánh rơi' tài lộc

Phong thủy tủ đựng giày ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn và sức khỏe của chính căn nhà và gia chủ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày là một trong những đồ nội thất thiết yếu, chúng ta thường nhìn thấy khi đến chơi bất kỳ ngôi nhà nào. Nó có thể được đặt bên ngoài/bên trong nhà gần với cửa ra vào, hoặc giày dép được xếp thẳng hàng gần lối vào.

Giày dép là phụ kiện không thể thiếu của mỗi người, vì thế, bạn phải dành sự quan tâm đặc biệt đến những vấn đề phong thủy nên và không nên khi lưu trữ giày dép cũng như cách bố trí tủ đựng giày.

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 1

Phong thủy tủ đựng giày có liên quan chặt chẽ tới phong thủy cửa ra vào, ảnh hưởng tới tài lộc, sự may mắn của chính căn nhà và gia chủ. Cùng Nhà đẹp tìm hiểu kỹ lưỡng một số quy tắc chung liên quan đến phong thủy tủ đựng giày như sau:

1. Chiều cao lý tưởng

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 2

Dựa theo học thuyết phong thủy cổ đại, chiều cao của ngôi nhà được chia thành 3 phần bằng nhau. Phần đầu là Trời, phần giữa là Con người và phần cuối là Đất. Giày dép luôn bị bám nhiều đất cát, bụi bẩn. Tủ đựng giày lại chứa những đôi giày cũ kỹ, bẩn thỉu nên nó thuộc về phần Đất.

Chiều cao lý tưởng của tủ đựng giày không được vượt quá 1/3 chiều cao của ngôi nhà. Các bậc thầy phong thủy truyền thống tin tưởng rằng, tủ giày cao đến phần giữa ngôi nhà - phần thuộc về Con người, sức khỏe của các thành viên trong gia đình sẽ bị ảnh hưởng.

Nếu tủ giày hiện tại của bạn rơi vào trường hợp này, biện pháp khắc phục nhanh nhất là xếp giày dép mới ở các tầng trên cùng, đẩy những đôi đã cũ và đang đi dở xuống bên dưới.

2. Mẫu mã và số lượng tầng

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 3

So với kiểu dáng mở, tủ đựng giày khép kín, có cánh cửa được khuyến khích chọn mua nhiều hơn cả. Bởi vì, nó giữ giày dép khuất khỏi tầm nhìn và giữ cả các loại mùi hôi phát ra từ chúng. Khi đóng cửa lại, chiếc tủ sẽ "khóa chặt" toàn bộ năng lượng xấu và tạp khí. Nhưng cần lưu ý chọn loại tủ có lỗ thoát khí để đảm bảo không khí vẫn được lưu thông thay vì ứ đọng một chỗ.

Về số lượng tầng, 5 là con số lý tưởng nhất, đại diện cho Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) theo phong thủy. Số lượng tầng của tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày có thể làm ít hơn hoặc bằng 5 chứ không nên nhiều hơn. Đây cũng là một chỉ dẫn tốt giúp xác định chiều cao thích hợp cho tủ giày.

3. Không đặt linh vật phong thủy trên nóc tủ đựng giày

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 4

Nếu bạn đã rước bất kỳ linh vật phong thủy nào về nhà, ví dụ như Tỳ Hưu... luôn luôn ghi nhớ rằng không được bày chúng trên nóc tủ đựng giày để tiết kiệm không gian. Vì điều này sẽ gây ra tác động tiêu cực đến phong thủy của ngôi nhà.

4. Không đặt tủ giày trong phòng ngủ

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 5

Vì lý do tiện lợi, phụ nữ thích bố trí tủ đựng giày ngay trong phòng ngủ. Lúc này, năng lượng tiêu cực của giày dép đã đi tác động đáng kể tới phong thủy phòng ngủ và có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình trạng hôn nhân. Vì thế, hãy loại bỏ tủ giày ra khỏi phòng ngủ ngay lập tức.

5. Vị trí của giày dép

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 6

Giày dép lấm bẩn, có mùi hôi phải đặt xuống dưới cùng của tủ. Mũi giày nên quay vào trong để tránh hướng tạp khí trực tiếp vào người bạn mỗi khi đóng mở tủ. Điều này đặc biệt đúng với những mẫu giày mũi nhọn, đại diện cho yếu tố Hỏa. Để những đôi giày kiểu này chĩa vào người, lâu dần sẽ gây ra bệnh tật.

Đối với các tầng/giá/kệ thiết kế theo đường chéo, luôn đặt mũi giày hướng lên trên. Vì, mũi giày hướng xuống dưới thể hiện sự suy giảm về may mắn của chủ nhân.

6. Giữ gìn vệ sinh, ngăn nắp

 dat tu giay nham cho 'danh roi' tai loc - 7

Bạn nên giữ tủ (hoặc giá, kệ) đựng giày sạch sẽ và ngăn nắp. Vệ sinh tủ định kỳ để loại bỏ bụi bẩn, mùi hôi và phân loại những đôi giày cũ lâu không dùng đến.

Dù cho bạn vận dụng bao nhiêu biện pháp phong thủy tốt đẹp cho ngôi nhà, cho cửa ra vào với mong muốn thu hút may mắn và tài lộc, đừng quên chú ý đến tủ đựng giày dép. Tủ đựng giày thuận phong thủy chắc chắn mang đến những kết quả tuyệt vời về sức khỏe, may mắn và giàu có cho bạn và các thành viên trong gia đình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặt tủ giày nhầm chỗ 'đánh rơi' tài lộc

Thai Phụ Phong Cáo Thiên Quan Thiên Phúc

Thai Phụ Phong Cáo có tác dụng vào mệnh số giống như Tả Phụ, Hữu Bật. Có Tả Hữu còn thêm Thai Phong càng đắc lực. Nhưng chỉ Thai Phong thôi mà thiếu Tả Hữu thì Thai Phong là hư sức bề ngoài có khi còn thành dương dương tự đắc và vô dụng.
Thai Phụ Phong Cáo Thiên Quan Thiên Phúc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thai Phụ cũng hay khi gặp Khôi Việt, Xương Khúc, Hóa Khoa trợ lực cho chuyện thi cử, cũng hợp cả với Tử Vi, Thái Dương Thiên Lương.Thai Phụ gặp các sao thuộc phú cách thì đỡ giàu bẩn. Thai Phụ Phong Cáo đi với các đào hoa tinh tạo ảnh hưởng làm dáng làm điệu.

Sách Phi Tinh Đẩu Số viết: Thai Phụ thuộc dương thổ là sao đài các, Phong Cáo thuộc âm thổ là sao hư trương.

Hai sao này tuyệt đối phải dựa vào những sao khác, đứng chơ vơ là hết tồn tại. 

LUẬN VỀ THIÊN QUAN THIÊN PHÚC: Thiên Quan Thiên Phúc cộng với Thiên Tài Thiên Thọ gọi bằng “tứ thiện diệu” (bốn sao thiện). Tứ thiện diệu mang bốn tác dụng: Phúc, Lộc, Thọ và Tài Hoa. Thiên Quan là sao về quí nên cần hội với Tử Vi, Thái Dương, Thiên Lương nhất là Thiên Quan đứng gần các sao tiền tài, trước có tiền sau nên danh, kiểu giàu có rồi ứng cử dân biểu nghị sĩ chẳng hạn.

Thiên Quan gặp Xương Khúc, Hóa Khoa học giỏi nổi tiếng. Nói tóm lại Thiên Quan đóng vai phụ giúp cho những quí tinh đã sẵn sàng thành công.


Thiên Phúc chủ phúc cho nên đóng cung Phúc Đức tốt nhất khiến tinh thần thư thái, tâm ý hoan lạc, không quan hoài đến giàu nghèo, tiền bạc nhiều ít. Giàu mà đau ốm, giàu mà không vui không hạnh phúc kể như “phú ốc bần nhân” (nhà giàu người nghèo). Khi cung Phúc Đức gặp Thiên Phúc nhiều khó khăn trên tinh thần cuộc sống được giải cứu.

Thiên Phúc rất hợp với sao Thiên Đồng. Thiên Đồng bị Hóa Kị nhờ Thiên Phúc đỡ giảm nhẹ phiền não. Thiên Đồng cùng Thiên Phúc cuộc đời không tai nạn họa hại.

Thiên Phúc đứng với Tham Lang Hóa Lộc lại thành con người thiên về lối sống vật chất; đứng với Liêm Trinh Hóa Lộc thì nặng với sinh hoạt tình cảm. Thiên Phúc cùng Thiên Thọ đóng vào Mệnh, vào Phúc Đức hay Tật Ách đều tốt đẹp. Thiên Phúc tại Mệnh tinh thần thoải mái, tại Phúc Đức ít tai ách, tại Tật Ách không bị bệnh nặng hay cố tật, chết êm đềm. Mệnh có Thiên Phúc thủ từ tâm, mộ đạo.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thai Phụ Phong Cáo Thiên Quan Thiên Phúc

Các mẹo phong thủy đơn giản giúp tránh tiểu nhân

Tiểu nhân thường được cho là gây hại cho gia chủ, ảnh hưởng sự nghiệp, làm tiêu tài tốn của. Để tránh tiểu nhân, gia chủ cần có những mẹo phong thủy.
Các mẹo phong thủy đơn giản giúp tránh tiểu nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tiểu nhân thường được cho là gây hại cho gia chủ, ảnh hưởng sự nghiệp, làm tiêu tài tốn của. Để giải quyết hết tiểu nhân, gia chủ cần phải thực hiện theo các mẹo phong thủy dưới đây.


Cac meo phong thuy don gian giup tranh tieu nhan hinh anh
 
1. Chuẩn bị tâm thái
 
Thông thường bản thân gia chủ tự nhận định người nào đó có phải là tiểu nhân hay không, đó là do người đó có ác ý hoặc cố ý gây khó khăn cho bản thân, làm cho bản thân khó làm được việc như ý muốn. Vậy nên, điều chính tâm thái của bản thân là điều vô cùng quan trọng, coi điều đó là cơ hội để tôi luyện.
Giúp vợ chồng hiếm muộn cầu tự thành công với 4 mẹo phong thủy
Phong thủy phòng ngủ không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tài vận và sự nghiệp của chủ nhân mà còn quan hệ chặt chẽ với việc mang thai của người vợ. Sau đây là 4

2. Hành vi đoan chính, làm việc đúng đắn
Khi gia chủ không nghe ý kiến của người khác, tự nhiên tiểu nhân sẽ không ngừng kéo đến. Để tránh tiểu nhân, gia chủ nên có hành vi đoan chính, làm việc đúng đắn, học chắc mềm mỏng, "lấy nhu chế cương".   3. Sử dụng các biện pháp phong thủy
- Trên bàn làm việc hoặc ngăn kéo đặt giày phòng tiểu nhân và đá Tourmaline Nhờ công hiệu của đá Tourmaline để trừ tà, trị tiểu nhân, cùng với giày phòng tiểu nhân có ngụ ý "giẫm đạp tiểu nhân", đồng thời thường xuyên kiểm tra nhằm có tác dụng điều chỉnh tâm trạng bản thân, thay đổi cách nhìn của tiểu nhân, từ đó đẩy lui thị phi tiểu nhân đem lại.
Cac meo phong thuy don gian giup tranh tieu nhan hinh anh 2
 
- Đeo bên người đá đen hoặc thạch anh Ngoài các loại đá đen có công hiệu phòng tiểu nhân, thạch anh cũng là vật phẩm phong thủy có công hiệu. Nếu gia chủ kết hợp với nguyên tắc phong thủy thì hiệu quả càng được nâng cao.   - Tại lục sát phương trong nhà treo tranh hoa hướng dương Treo tranh hoa hướng dương tại huyền quan, phòng khách hoặc trạch vị trong nhà, lục sát phương chính là nơi tài vị không tốt, chịu thương tổn mà phá sản. Vậy nên, khi treo tranh hoa hướng dương nâng cao vận thế cho gia chủ, thu hút khách quý đến nhà, tránh tai nạn. 
Dự đoán hung cát dựa vào cách bói lúc tai phát nóng Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các mẹo phong thủy đơn giản giúp tránh tiểu nhân

Những vật phẩm phong thủy mang ý nghĩa Trường Thọ –

Người Trung Hoa tin rằng chẳng có sự may mắn nào tồn tại được nếu không có cuộc sống trường thọ. Gia tăng tuổi thọ và quãng đời của mọi thành viên trong gia đình bằng cách trưng những biểu tượng của tuổi thọ trong nhà và kích hoạt tác động của những

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

biểu tượng đó bằng cách đặt chúng ở những hướng phù hợp là một yếu tố quan trọng của thuật Phong Thủy. Để hiểu một cách củ thể thì chúng ta cùng đọc bài viết dưới đây để có thêm những thông tin củ thể về những vật phẩm mang ý nghĩa trường thọ.

OngTho2TanVecopy

Nội dung

  • 1 Rước ông Thọ vào nhà
    • 1.1 Ông thọ là gì?
    • 1.2 Ý nghĩa của ông thọ
    • 1.3 Vị trí đặt tượng ông thọ
  • 2 Con hạc với những đặc tính huyền thoại
    • 2.1 Truyền thuyết về con hạc huyền thoại
    • 2.2 Mỗi tư thế của chú hạc đều mang một ý nghĩa nhất định
      • 2.2.1 Thứ nhất
      • 2.2.2 Thứ hai
      • 2.2.3 Thứ ba
    • 2.3 Vị trí đặt con hạc

Rước ông Thọ vào nhà

Ông thọ là gì?

Ông Thọ là một trong ba vị tiên được biết đến rộng rãi nhất (cùng với các ông Phước và Lộc). Ông Thọ thường được vẽ trên tranh, làm hoa văn trang trí trên các sản phẩm gốm, sứ hoặc được chạm khắc thành tượng gỗ, ngà voi, đá. Ông Thọ với hình ảnh quen thuộc là một ông già hiền lành mặc áo choàng màu vàng, tay cầm cây gậy có treo một quả bầu thần, tượng trưng cho một cuộc sống khỏe mạnh, yên lành và lâu dài.

Ý nghĩa của ông thọ

Quả bầu cũng là một biểu tượng có ý nghĩa. Người ta nói rằng trong quả bầu ấy chứa đầy rượu tiên giúp con người bất tử. Ông Thọ cũng thường mang trên tay một quả đào và có lúc còn dẫn theo cả hạc, hươu. Trong một số trường hợp, người ta thường đặt xung quanh ông cây thông, nấm linh chi… để giúp tăng tuổi thọ. Tóm lại, người Hoa tin rằng khi thờ ông Thọ trong nhà cùng với những loại cây cỏ bổ dưỡng cho sức khỏe, duy trì tuổi thọ sẽ giúp cho những thành viên trong gia đình, đặc biệt là những người lớn tuổi, sống khỏe, sống thọ với con cháu.

Vị trí đặt tượng ông thọ

Vì đây là vị tiên đem lại tuổi thọ, sức khỏe cho mọi người nên nhất thiết phải được đặt ở mộjt nơi cao với tầm nhìn rộng rãi, đối diện với lối ra vào chính của căn phòng. Đặt tượng ông Thọ dựa lưng vào tường để tăng độ vững chãi chứ không nên đặt ông ngay phía trước cửa sổ hay trước căn bếp.

Con hạc với những đặc tính huyền thoại

Truyền thuyết về con hạc huyền thoại

Theo truyền thuyết, con hạc chính là “tộc trưởng” của tất cả các tạo vật trên Trái đất và chỉ xếp sau chim phượng hoàng trong số các loài chim đem lại sự may mắn vì tuổi thọ của nó rất dài. Nếu đặt hạc trong vườn nhà, nó sẽ mang tới cho gia đình bạn sự êm ấm và hạnh phúc.

vat-pham-phong-thuy-mang-tinh-truong-tho-2

Việc sử dụng hạc làm biểu tượng của sự may mắn và đặc biệt là biểu tượng của sự trường thọ bắt nguồn từ xa xưa, dưới thời của hoàng đế Phục Hy (Trung Hoa). Hình ảnh của những chú hạc dẫn đường cho các cuộc phiêu lưu của tám vị thần bất tử được trang trí trên những tác phẩm nghệ thuật và các tác phẩm thủ công dưới nhiều hình thức và tư thế khác nhau.

Mỗi tư thế của chú hạc đều mang một ý nghĩa nhất định

Thứ nhất

Một chú hạc đang bay vút lên lên trời tượng trưng cho một thế giới bên kia tốt đẹp, phiêu du, bởi vì khi ai đó chết đi, linh hồn của người ấy sẽ ngồi trên lưng hạc và được hạc chở lên thiên đường. Cũng bởi lý do đó, trong đám tang của người Hoa, con hạc thường được đặt ở giữa nắp áo quan.

Thứ hai

Hình ảnh một chú hạc thấp thoáng giữa những đám mây lại tượng trưng cho tuổi thọ, sự uyên bác, sáng suốt và cuộc sống vương giả. Hình ảnh ấy còn hàm ý chủ nhân đang vươn tới một vị trí cao, đầy quyền lực.

Thứ ba

Hình ảnh hạc đang nô đùa xung quanh những cây thông tượng trưng cho sức chịu đựng dẻo dai, kiên cường của gia chủ để có được một cuộc sống danh tiếng, giàu sang.

Một trong những món quà mừng tặng cho cha mẹ có thể là một tác phẩm nghệ thuật có hình hai chú hạc trắng nép mình vào nhau giữa nhánh cây thông. Hình ảnh thi vị đó như ước nguyện về một cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm, tượng trưng cho sự tiếp nối truyền thống các bậc tiền bối bảo vệ hạnh phúc gia đình. Con hạc trắng có lông đỏ trên đỉnh đầu được người Hoa cho là sẽ đem tới một sự hài hòa tuyệt vời cho gia đình và giúp cho mối quan hệ giữa các thành viên luôn bền vững.

Vị trí đặt con hạc

Bạn có thể đặt con hạc ở rất nhiều hướng khác nhau trong nhà và mỗi hướng sẽ có một tác dụng riêng. Tốt nhất là đặt con hạc ở hướng Nam, vì nó sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt. Hướng Tây sẽ đem lại sự may mắn cho con cái của bạn, trong khi hướng Tây Bắc là hướng nên chọn nếu gia đình bạn là tộc trưởng. Đặt hạc ở hướng Đông sẽ có lợi cho con trai và cháu trai. Những tấm bình phong với hoa văn có thêu hình con hạc là một vật trấn Phong Thủy khá tốt, giúp bạn chặn đứng những điều không may có thể lọt vào nhà. Những khu vực không nên trưng hạc là phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Bạn cũng có thể bày hạc ở phòng ngủ, phòng ăn và phòng khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy mang ý nghĩa Trường Thọ –

Xem tướng dáng ngồi đoán biết tính cách phái nữ –

Bạn là người nhút nhát hay mạnh mẽ, kiên quyết? Dáng ngồi sẽ tiết lộ ngay nhé! Một số dáng ngồi thường thấy ở các bạn nữ là: A. Ngồi khép chân, hai chân đặt thẳng vuông góc với mặt đất. Bạn hơi nhút nhát, hay căng thẳng, dễ mất bình tĩnh Bình thường,
Xem tướng dáng ngồi đoán biết tính cách phái nữ –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng dáng ngồi đoán biết tính cách phái nữ –

Hòa Minzy và Công Phượng - Mối nhân duyên mong manh

Theo quy luật của cung hoàng đạo thì có lẽ người hâm mộ cũng hiểu được phần nào về quyết định chia tay đột ngột của cặp đôi Hòa Minzy và Công Phượng.
Hòa Minzy và Công Phượng - Mối nhân duyên mong manh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo quy luật của cung hoàng đạo thì có lẽ người hâm mộ cũng hiểu được phần nào về quyết định chia tay đột ngột của cặp đôi Hòa Minzy và Công Phượng này. 


Người hâm mộ tỏ ra vô cùng tiếc nuối khi cặp đôi Hòa Minzy và Công Phượng bất ngờ chia tay. Vốn cùng nguyên tố Khí, Song Tử và Bảo Bình được biết đến là cặp đôi khá hòa hợp trên vòng tròn hoàng đạo. Vậy điều gì đã khiến cặp đôi trai tài gái sắc này quyết định đường ai nấy đi? Dưới góc nhìn hoàng đạo, có lẽ các 'fan' sẽ phần nào thông cảm hơn cho quyết định tưởng chừng như đột ngột này.
 
Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Hòa Minzy (31/05/1995) - Song Tử hoạt náo, đơn giản

  Sinh ra dưới chòm sao Song Tử, cộng thêm Mặt Trăng và sao Thủy cũng nằm trong cung hoàng đạo này, Hòa Minzy sở hữu tính cách đơn giản, vô tư, luôn vui vẻ, hoạt náo, luôn là nguồn vui của mọi người xung quanh.
 
Sao Kim Kim Ngưu mang lại cho cô ca sĩ trẻ gu thẩm mỹ và khiếu nghệ thuật từ sớm, kết hợp với nét kỹ tính trong công việc của sao Hỏa Xử Nữ, Hòa Minzy nhanh chóng có những bước tiến vững vàng trên con đường sự nghiệp của mình.   Cô nàng Song Tử Hòa Minzy thường bị hiểu lầm về tính cách
 
Vô tư, vui vẻ, hoạt náo đôi lúc có thể khiến Hòa Minzy dễ bị hiểu lầm là vô tâm, ham vui, ít quan tâm đến những người xung quanh; đôi khi quá tập trung vào công việc cũng như quá cố chấp với những mong muốn trong chuyện tình cảm, dễ gây áp lực tới đối phương. Công Phượng (21/01/1995) - Bảo Bình chín chắn, kỹ càng
 
Công Phượng là một chàng trai Bảo Bình đầy cá tính với hai nét tính cách rõ rệt của Bảo Bình (Mặt Trời, sao Thủy) và Xử Nữ (Mặt Trăng, sao Hỏa). Độc lập, suy nghĩ hiện đại và đòi hỏi khá cao về mọi mặt trong cuộc sống cũng như công việc, có vẻ đây là một chàng trai rất khó để chiều lòng, khó để đạt được đúng chuẩn mẫu hình anh đề ra.  
Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Chàng trai Bảo Bình theo đuổi chủ nghĩa cầu toàn
  Thêm vào đó, với sao Kim ở Nhân Mã, Công Phượng cũng là một anh chàng khá đào hoa, có nhiều mối quan hệ lấp lửng xung quanh cuộc sống tình cảm của mình. Đây cũng là một trong những mối nguy cơ tiềm ẩn trong chuyện tình yêu của chàng cầu thủ trẻ này.
 
Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Mối duyên mỏng giữa Song Tử và Bảo Bình
 
Do Mặt Trời và sao Thủy nằm ở góc hòa hợp với nhau nên cặp đôi trai tài gái sắc mắc cũng khá hợp nhau về tính cách cũng như cách nói chuyện. Sự hòa hợp của sao Thủy cũng làm cho cặp đôi có thể thấu hiểu tâm tư, suy nghĩ của nhau. Cùng có sao Hỏa ở cung Xử Nữ giúp cả hai chia sẻ được nhiều với nhau trong công việc.   Tuy nhiên, chuyện tình yêu giữa một cô gái đơn giản, không có nhiều suy nghĩ phức tạp với một chàng trai theo chủ nghĩa cầu toàn, để duy trì được, cần đến sự nỗ lực vô cùng lớn từ phía cả hai người.
 
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mối mâu thuẫn lớn nhất giữa cặp đôi Song Tử - Bảo Bình này. Một khi Song Tử không thể chịu nổi áp lực quá lớn và Bảo Bình không thể nhún nhường được thêm nữa, việc rời xa nhau chỉ là vấn đề sớm muộn.
 
Dù có đôi chút tiếc nuối, nhưng có lẽ đây cũng chính là lối thoát để cả hai có thể được tự do hơn về tâm lý, và về lâu dài cũng có thể quay lại làm bạn tốt của nhau.
 
Cùng xem lại một số hình ảnh của cặp đôi Công Phượng và Hòa Minzy:  
Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Bức ảnh khóa môi rộ lên tin đồn hẹn hò giữa Hòa Minzy và Công Phượng.


Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Cô nàng thường xuyên có mặt tại các trận đấu để cổ vũ cho người yêu và đội tuyển U23 Việt Nam.

Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Tuy không lên tiếng chính thức thừa nhận nhưng quá nhiều dữ liệu cho thấy họ đang là một cặp.
Hoa Minzy va Cong Phuong - Moi nhan duyen mong manh hinh anh goc
Hòa Minzy còn xăm tên của chàng cầu thủ trên ngực trái của mình.
    Tuy nhiên mới đây, Hòa Minzy đã lên tiếng chia sẻ về việc chấm dứt mối quan hệ Hòa Minzy và Công Phượng này: 'Đôi khi vẫn rất thương nhưng không thể ở bên cạnh nhau nữa'.

ST.
Noo Phước Thịnh - chàng trai Nhân Mã không tuổi 4 chòm sao nữ nghiện mua sắm khét tiếng vòng tròn hoàng đạo Chỉ điểm cách 12 chòm sao tiêu tiền tiết lộ giàu nghèo
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hòa Minzy và Công Phượng - Mối nhân duyên mong manh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd