Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB: Những người này luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức để chăm lo cho người thân và gia đình.
Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tý nhóm máu O luôn đầu tư nhiều thời gian và công sức để chăm lo cho người thân và gia đình.


 

tuoi ty (1)
 
Trong tình yêu, ngay từ những buổi hẹn họ đầu tiên, người tuổi Tý nhóm máu AB luôn chú ý quan sát đến sở thích, thói quen của đối phương để gây bất ngờ, tạo ấn tượng cho những lần gặp gỡ tiếp theo.

Nếu như đối phương cảm nhận được đồng thời đưa ra những tín hiệu phản hồi tốt đẹp thì tình cảm giữa họ sẽ tiến triển tốt đẹp. Nhưng nếu không thuận lợi như mong muốn, họ dễ rơi vào trạng thái thất vọng thậm chí dễ nổi cáu, nóng giận với người xung quanh và ngay cả đối tượng mà họ đang theo đuổi. Nếu "một nửa" của họ là người nóng nảy, vội vàng thì tình yêu của họ sẽ không tránh khỏi những xung đột, cãi vã. Bởi vậy, khi tìm được "một nửa" của mình, họ phải biết kiềm chế và kiên trì theo đuổi trong thời gian dài thì mới có hạnh phúc vẹn toàn như ý.

Cả nam giới và nữ giới tuổi này đều rất biết chia sẻ và gánh vác công việc nhà. Vì với họ, gia đình đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Để cuộc sống luôn được “cơm lành canh ngọt”, người tuổi Tý thuộc nhóm máu AB nên kết hôn với những người hiền lành, chu đáo và biết cảm thông. 

Các bài viết sau cùng chủ đề, có thể bạn quan tâm:

Người tuổi Tý nhóm máu AB: Hài hước, chủ động nhưng lại rất bảo thủ Giải mã số đào hoa của người tuổi Tý

 
(Theo 12 con giáp về tình yêu, hôn nhân)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Tý nhóm máu AB

Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ)
Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Download Lịch sử Tử Vi (Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ)

  1. Thư tịch về khoa Tử Vi
  2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
  3. Khoa Tử Vi đời Tống
  4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
  5. Tử Vi vào Việt Nam
  6. Khoa Tử Vi đời Trần
  7. Khoa Tử Vi đời sau
  8. Dị biệt chính, Nam phái
  9. Kết luận

    Trong thập niên 1960 trở lại đây, Việt Nam ở hoàn cảnh chiến tranh, biến cố diễn ra liên miên. Hôm nay thế này, ngày mai bừng mắt dậy đã khác, nên khiến con người muốn tìm hiểu số mệnh mình bằng các khoa học huyền bí. Trong các khoa học huyền bí, thì khoa Tử-vi được coi là có nhiều tính chất khoa học, giải đoán được mọi sự kiện của cuộc đời và mở rộng. Bởi vậy khoa Tử-vi được nghiên cứu rất nhiều. Từ những người cao niên, học thức uyên thâm, tới những sinh viên học sinh, thi nhau tìm hiểu khoa này. Cho đến năm 1973-1975, một bán nguyệt san được xuất bản với tên khoa học huyền bí do ông Nguyễn Thanh Hoàng sáng lập và làm chủ nhiệm. Tạp chí này mang tên Khoa học huyền bí nhưng gần như là nơi quy tụ những kết quả của các nhà nghiên cứu Tử vi. Người yêu khoa Tử vi thì nhiều, mà sách vở ấn hành không được là bao. Tựu trung có các bộ sau đây :

- Tử-vi đẩu số tân biên của Vân-Điền Thái-Thứ Lang.
- Tử-vi áo bí của Hà-Lạc Dã Phu.
- Tử-vi Hàm-số của Nguyễn Phát Lộc.
- Tử-vi đẩu số toàn thư của La Hồng Tiên do Vũ Tài Lục dịch nhưng chỉ có một phần ngắn.

    Trong bốn bộ sách Tử-vi trên thì từ tính chất các sao, đến cách an sao, giải đoán hầu như quá khác biệt nhau, khiến cho người nghiên cứu không biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là sự thật mà đi theo. Thậm chí có sách đi vào những chi tiết thần kỳ chí quái, hoang đường trái hẳn với khoa Tử-vi nguyên thủy, đó là bộ Tử-vi Áo-bí của Hà-lạc Dã Phu.

    Hiện (1977) khoa Tử-vi ở Việt-nam, bị coi là một khoa nhảm nhí bị cấm tuyệt, người coi Tử-vi bị kết tội ngang với những tội đại hình. Tuy nhiên trong dân chúng, vẫn nghiên cứu, và các thầy Tư-vi vẫn đông khách. Tại hải ngoại, người Việt lại tiếp tục nghiên cứu khoa này, số người nghiên cứu hầu như đông đảo hơn hồi 1975 về trước nữa.
Lý do, khi tiếp xúc với văn minh cơ giới Âu-Mỹ không giải quyết được lẽ huyền bí của con người với vũ trụ. Hơn nữa khoa Tử-vi nhiều tính chất khoa học hơn các khoa chiêm tinh khác. Lý do thứ ba khiến khoa Tử-vi được nhiều người nghiên cứu là, khi ra ngoại quốc, người Việt không ít thì nhiều đều tìm cách học thêm. Học nhiều thì kiến thức rộng. Kiến thức càng rộng thì việc nghiên cứu càng sâu rộng hơn. Một vài nơi như Pháp, Canada, Úc, Hoa-kỳ, họ đã thành lập những hội nghiên cứu Tử-vi, hơn nữa có nhiều bạn trẻ dùng vi tính lập lá số, giải đoán lá số; thực là một điều đáng khuyến khích.

     Tuy nhiên trong hoàn cảnh khó khăn hiện tại, lấy đâu ra sách vở tài liệu để họ nghiên cứu ? Sách vở căn bản không có, rất dễ dàng đi đến sai lạc, khiến cho khoa Tử-vi bị mất giá trị, mà mất luôn sự tin tưởng và mất luôn ngày giờ của người nghiên cứu.

    Bởi vậy chúng tôi mạo muội mở đầu cho phong trào, bằng một bài nghiên cứu về lịch sử khoa Tử-vi, để độc giả có một cái nhìn tổng quát, khiến nó không bị ngộ nhận là nhảm nhí và đồng hóa với những khoa huyền bí thiếu biện chứng khác.


Trở về đầu | Xem tiếp



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam

Tết nguyên đán, Tết cổ truyền, Tết ta, Tết âm lịch là gì ?

Tết Nguyên Đán, còn gọi Tết Ta, Tết Âm Lịch, Tết Cổ Truyển hay chỉ đơn giản Tết , là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa của người Việt Nam và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc khác.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Ngày tết đem lại một sự khởi đầu mới, là dịp rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua nên mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Lòng người nào cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.

Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương Lịch hay Tết Tây, thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch và nói chung kéo dài khoảng 5–6 ngày, tạo điều kiện cho những thành viên gia đình sinh sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê vui cảnh đoàn viên ít ngày. Nhưng ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó là dịp để người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên.


Tết Nguyên Đán, tết cổ truyền là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu kỳ vận hành của đất trời, vạn vật cỏ cây.
Tết Âm Lịch Việt Nam từ buổi “khai thiên lập địa” đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niêm “ơn trời mưa nắng phải thì” chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam…

Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng … Ông Táo hay thần bếp là người mục kích sự làm ăn của mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo phải thu xếp lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế nên, trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam đều làm mâm cơm đạm bạc tiễn đưa “ông Táo “. Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của Tết Nguyên đán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi trang trọng để chuẩn bị đón tết.

Cùng với tranh (tranh dân gian, câu đối), hoa quả là yếu tố tinh thần cao quý thanh khiết của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa Ðào, miền Nam có hoa Mai, hoa Ðào, hoa Mai tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam.



Ngoài cành Ðào, cành Mai, mấy ngày tết người ta còn “chơi” thêm cây Quất chi chít trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc… Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bành trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, quả bưởi, quả cam (hoặc quít), hồng, quất.

Còn ở miền Nam, mân ngũ quả là dừa xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao của con người vì sự đầy đủ, sung túc. Ngày Tết, dân tộc ta có nhiều phong tục hay, đáng được gọi là thuần phong như khai bút, khai canh, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ… Từ trẻ tới già ai ai cũng biết, sau đây là một vài phong tục đáng được duy trì phát triển.

Tống cựu nghênh tân: Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng xóm dọn dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Con cháu trong nhà từ phút giao thừa trở đi thường được nhắc nhở: Không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau, không nói tục chửi bậy… anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em, đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.

Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi ngày tết ta: Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng, mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ. Nhiều nhà tự đi hái lộc ở chốn đình chùa, nơi tôn nghiêm về nhà, tự xông nhà hay dặn trước người “nhẹ vía” mà mình thích đến xông nhà. Nhiều người không tin tục xông nhà nhưng cũng dè dặt, chưa dám đến nhà ai sớm, sợ trong năm mới gia đình người ta xảy ra chuyện gì không hay lại đổ tại mình “nặng vía”. Chính vì vậy, sáng mùng Một lại ít khách. Sau giao thừa có tục mừng tuổi chúc Tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ. Ông bà cũng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích.

Lời chúc tết thường là sức khoẻ, phát tài phát lộc, những người năm cũ gặp rủi ro thì động viên nhau “tai qua nạn khỏi”hay “của đi thay người”nghĩa là trong cái hoạ cũng tìm thấy cái phúc, hướng về sự tốt lành.



Nhưng nhìn chung trong những ngày đầu năm, người ta thường kiêng không nói tới điều rủi ro hoặc xấu xa. Phong tục ta ngày Tết việc biếu quà Tết, tỏ ân nghĩa tình cảm, học trò tết thầy giáo, bệnh nhân tết thầy thuốc, con rể tết bố mẹ vợ… quà biếu, quà tết không đánh giá theo giá thị trường. Nhưng cũng đừng nên gò bó câu nệ sẽ hạn chế tình cảm: không có quà ngại không đến…

Ở nước ta, vào dịp đầu xuân thường tổ chức mừng thọ lục tuần, thất tuần, bát tuần, cửu tuần… tính theo tuổi mụ. Ngày Tết ngày Xuân cũng là dịp mọi người đang rãnh rỗi, con cháu tụ tập đông vui. Cũng vào dịp đầu Xuân, người có chức tước khai ấn, học trò, sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, người buôn bán mở hàng lấy ngày. Sĩ, Nông, Công, Thương “Tứ dân bách nghệ” của dân tộc ta vốn cần cù, ai cũng muốn năm mới vận hội hành thông, làm ăn suôn sẻ. Sau ngày mùng Một, dù có mải vui tết cũng chọn ngày “Khai nghề”, “Làm lấy ngày”. Nếu như mùng Một tốt thì chiều mùng Một bắt đầu.

Riêng khai bút thì giao thừa xong, chọn giờ Hoàng đạo không kể mùng Một là ngày tốt hay xấu. Ngườu thợ thủ công nếu chưa ai thuê nướn đầu năm thì cũng tự làm cho gia đình một sản phẩm, một dụng cụ gì đó. Người buôn bán, vì ai cũng chọn ngày tốt nên phiên chợ đầu xuân vẫn đông, mặc dầu người bán chỉ bán lấy lệ, người đi chợ phần lớn là đi chơi xuân. Cờ bạc: Ngày xưa các gia đình có nề nếp quanh năm cấm đoán con cháu không được cờ bạc rượi chè nhưng trong dịp tết, nhất là tối 28, 29; gia đình quây quần bên nồi bánh chưng thì người bố cho phép vui chơi. Tam cúc, cờ gánh, cờ nhảy, cờ tướng, kiệu, chắn, tổ tôm… ai thích trò nào chơi trò ấy. Ðến lễ khai hạ, tiễn đưa gia tiên, coi như hết Tết thì xé bộ tam cúc, thu bàn cờ tướng, cất bộ tổ tôm hoặc đốt luôn hoá vàng.

Vì sao có tục kiêng hót rác đổ đi trong ba ngày Tết âm lịch: Trong “Sưu thần ký” có chuyện người lái buôn tên là Âu Minh đi qua hồ Thanh Thảo được thuỷ thần cho một con hầu tên là Như Nguyên, đem về nhà được vài năm thì giàu to. Một hôm, nhân ngày mùng Một Tết, Âu Minh đánh nó, nó chui vào đống rác mà biến mất, từ đó nhà Âu Minh lại nghèo đi. Kể từ đó kiêng không hót rác ngày Tết.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tết nguyên đán, Tết cổ truyền, Tết ta, Tết âm lịch là gì ?

Bộ sao CÔ THẦN -QUẢ TÚ

Cô Thần Cô có nghĩa là mồ côi (mồ côi cha sớm gọi là "cô") , còn có nghĩa là cô độc, (như "cô lập vô trợ" trơ trọi một mình không ai giúp), không cùng hòa hợp, đứng riêng một mình, trơ trọi Thần có nghĩa là bầy tôi, kẻ thuộc dưới quyền, đồng thời có nghĩa là thiên thần, thần thánh hoặc tinh thần, thần khí.
Bộ sao CÔ THẦN -QUẢ TÚ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quả Tú
Quả có nghĩa là góa chồng, hoặc phụ nữ năm mươi tuổi mà chưa có chồng cũng gọi là quả. Tú có nghĩa là ngôi sao.
Hai sao này đại đa số các sách cho là hành Thổ, nhưng Việt Viêm Tử cho là hành Hỏa, Cô Thần thì Dương Hỏa, Quả Tú thuộc Âm Hỏa. Cô Thần chỉ đóng ở Tứ Sinh (Dần Thân Tỵ Hợi) và Quả Tú chỉ đóng ỏ Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi).

Cô Quả có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nhưng cần xét kỹ vì Cô Quả cũng giống như Tả Hữu, là trợ tinh nhưng cường độ yếu hơn, gặp cát thì phù cát, gặp hung thì phù hung, theo hung tinh mà tác hại nhưng ảnh hưởng không mạnh mẽ. Đây là đặc điểm cần chú ý, chớ nên gặp Cô Quả thì cho là xấu, phải xét kỹ, nếu gặp nhiều hung tinh thì xấu thêm một chút, gặp nhiều cát tinh thì hóa cát thêm một chút vì cường độ chi phối không mạnh lắm và chỉ có ý nghĩa mạnh thiên về tinh thần khi ở Mệnh, Thân, Phối và Hạn, thiên về vật chất khi ở Điền Tài. Chú ý đặc tính của Cô Quả chỉ có nghĩa khi tọa thủ và đủ bộ (hai sao này luôn luôn tam hợp chiếu với nhau), còn hội chiếu, nhất là chỉ có một sao chiếu thì ý nghĩa bị giảm thiểu rất nhiều. Tính chất cô độc của Cô Quả tăng lên khi đồng cung với Đẩu Quân, Lộc Tồn, Vũ Khúc.

Cô Quả hội với nhiều quí tinh, văn tinh thì là bậc học thức uyên thâm, tính tình nghiêm trang, cẩn thận. Hội với phú tinh và quyền tinh gặp thêm nhiều sao tốt thì là bậc đứng đầu thiên hạ vì cô còn có nghĩa là trội lên hết tất cả. Ở cung Tài Điền và Quan Lộc sáng sủa là hợp cách nhất khiến cho công danh, tiền tài, điền sản được bền vững hơn.


Thủ tại Mệnh, Thân thì :
Khó tính, kỹ lưỡng, mình làm việc gì cho chính mình thì ưng ý, còn người khác làm thì không cảm thấy hài lòng. Có khả năng ăn uống khó tính, không thích thì không ăn. Sống nội tâm, thường có sở thích riêng nào đó. Không chia Sẻ tình cảm, không thổ lộ tình cảm, khó ai hiểu được tính ý của bản thân cho dù là người rất thân với mình như cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái. Bạn bè thì có thể có nhiều, và thông thường có nhiều bạn, nhưng bạn thân thì ít. Giao thiệp rộng rãi, nhưng chỉ là giao thiệp mà thôi, ít kết thân, kỹ lưỡng trong vấn đề chọn bạn (Cho dù có Tả, Hữu đồng cung cũng ít bạn thân). Nếu ai không hợp ý thì thông thường sẽ xa lánh không giao thiệp hoặc không thèm quan tâm đến. Lạnh lùng (rõ nét khi đồng cung với Vũ Khúc). Thường ít người thích do lạnh lùng, khó tính.


Trên vấn đề hôn nhân tình cảm thì thường chậm trễ bắt nguồn từ sự khó tánh của bản thân, sự kén chọn, nếu có Đào Hồng chiếu thì vẫn có người theo đuổi nhưng lại quá kén chọn bỏ qua nhiều dịp. Gặp thêm Vũ Khúc thì càng rõ nhưng cần phân biệt rằng Vũ Khúc ảnh hưởng mạnh hơn Cô Quả. Nữ nhân Vũ Khúc, Kình, Quả đồng cung thì dễ không chồng do quá khó tính. Nam nhân có Cô Thần, nữ nhân có Quả Tú thủ Mệnh, nếu không được cát tinh hóa giải, thì dễ đưa đến đơn độc, khắc cha mẹ, hoặc khắc vợ chồng, hoặc khắc anh em như không ở gần cha mẹ, vợ chồng anh em, ly cách với họ, hoặc không vợ không chồng không con, hoặc góa vợ, góa chồng (Nam kỵ Cô, Nữ kỵ Quả). Nếu Nam Quả nữ Cô thì đỡ xấu nhiều hơn, có con thường chỉ tối đa là hai người, thường là hoặc nam hoặc nữ và con cái không gần với cha mẹ. Đồng cung với Vũ Khúc thì gia tăng tính cô độc. Mọi cát tinh, nhất là hành Mộc, dều có thể hóa giải tính chất cô độc của Cô Quả, càng nhiều cát tinh thì càng hóa giải mạnh.


Các bộ sao kết hợp
Cô hay Quả gặp Vũ Khúc: nữ Mệnh gặp thì tối kỵ, lận đận về đường chồng con. Quả Tú Đào Hoa gặp Thiên Mã: nữ Mệnh thì tình duyên lận đận, số phận chìm nổi lênh đênh. Cô Thần, Thiếu Dương đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: sáng suốt, nhân hậu. Cô Thần gặp Hồng Loan, Thiên Không đồng cung tại Dần Thân Tỵ Hợi: từ thiện, đạo đức.


Cô Quả tại các cung:
Hai sao này ảnh hưởng đến tinh thần là chủ yếu khi đóng ở Bào, Phụ Mẫu, Tử Tức, Thiên Di, Phối, Nô, Phúc Đức. Vì có ý nghĩa cô độc, trơ trọi, lẻ loi, đơn chiếc, lạnh lẽo, hiếm hoi nên nếu không gặp cát tinh (chú ý điều này) thì có hại cho việc cầu hôn nhân, cưới hỏi, đoàn tụ, gây bất lợi cho cá nhân trong quan hệ ngoài xã hội, trong gia đình như trong tương quan giữa cá nhân với bạn bè, người giúp việc, người hôn phối, cha mẹ, con cái, anh em, họ hàng.


Cung Nô
Ít bạn thân cho dù thông thường có nhiều bạn bè, bạn bè thường không hiểu nhau. Nô tốt thì bạn bè nhiều nhưng không quan hệ lâu dài được phải xa cách bạn bè vì một lý do gì đó, bạn bè tụ rồi tan.


Huynh Đệ
Anh em mỗi người mỗi ý nhưng cũng không có nghĩa là xung khắc. Chủ giảm số lượng anh em, không có nghĩa là không có anh em, nhưng anh em dễ xa cách nhau. Không hay thổ lộ tình cảm với anh em hoặc anh em không hiểu tính mình. Huynh Đệ xấu hoặc không cát tinh thì hoặc hiếm anh em (hai người là nhiều, nhiều hơn thì không hợp tính, hoặc không ở gần nhau), không nhờ cậy được anh em, hoặc ở xa cách anh em, hoặc anh em bất hòa. Huynh đệ tốt thì cũng được anh em giúp đỡ, thông thường nhiều anh em nhưng anh em ly tán.


Phụ Mẫu
Thường con cái và cha mẹ mỗi người một ý nhưng chưa hẳn là khắc nhau. Phụ Mẫu xấu thì hoặc không hợp tính với cha mẹ, cha mẹ và con cái không hiểu tính nhau, hoặc không được cha mẹ giúp đỡ, hoặc có cha hoặc mẹ chết sớm (khi có hung sát tinh tại Phụ Mẫu). Phụ Mẫu tốt thì cha mẹ lại hay quan tâm đến con cái, được cha mẹ quan tâm nhưng thường sớm xa cách cha mẹ (Phụ Mẫu có Cô Quả Tuần hay Triệt án ngữ là một cách sớm ly hương hoặc xa cách cha mẹ một thời gian).


Phối Thông thường chậm hôn nhân, hoặc sống độc thân, hoặc vợ chồng không hiểu tính nhau, không hợp ý nhưng không có nghĩa là xung khắc.
Phối xấu thì bất hòa, chửi nhau, hoặc sống với chồng vợ cảm thấy lẻ loi, cô đơn, không chia xẻ tình cảm, nếu gặp hung sát tinh thì có thể đưa đến vợ chồng sinh ly hoặc tử biệt, hoặc vợ chồng phải xa cách một thời gian, hoặc vợ chồng ít khi gặp nhau, không ỏ gần nhau, lâu lâu mới gặp gỡ. Phối tốt thì cũng tốt nhưng vợ chồng thường ít chia sẻ tình cảm cho nhau, không hợp tính nhưng không xung khắc. Nếu vợ chồng sống hợp nhau thì thông thường lại không có con cái .Vũ Khúc gặp Cô Quả thì cho dù có rất nhiều sao tốt vợ chồng cũng không hợp tính.


Tử Tức
Giảm số con nhưng chưa hẳn là hiếm con hoặc khắc con. hông thường hay chăm sóc cho con cái. Tử Tức xấu thì hoặc ít con (thường chỉ hai con là nhiều), hoặc muộn con, hoặc con không gần cha mẹ, hoặc không hợp tính với con, hoặc xa con khi con còn nhỏ, hoặc con lớn lên không ở gần cha mẹ.
Tử tức tốt thì con cái cũng đông và tốt như thường,có nhiều quí tinh thì con đỗ đạt và rất chăm sóc con cái.

Phúc đức
Gây ra sự ngăn cách giữa bản thân và họ hàng, thông thuờng không hợp tính với họ hàng nhưng không có nghĩa là khắc. Họ hàng hoặc ít người, hoặc không gần gũi họ hàng. Phúc Đức tốt thì cũng không nhờ cậy họ hàng được cho dù họ hàng khá giả.


Thiên Di
Ra ngoài ít bạn thân nhưng thông thường có nhiều bạn, thông thường có quan hệ rông rãi, nhưng ít kết bạn thân, chọn lọc kỹ lưỡng. Di xấu thì ít được người giúp đỡ, thường phải tự lực là chủ yếu. Di tốt thì cũng được người giúp.


Tài và Điền
Là sao giữ của, tiền của không bị hao tán, điền sản bền vững nhưng không có nghĩa là bần tiện keo kiệt. Thông thường ăn tiêu dè xẻn. Tài và Điền sáng sủa thì của cải điền sản rất bền vững. Tài Điền xấu thì giảm xấu đi một chút.


Quan
Tùy theo tốt xấu mà gia giảm đi một chút.


Hạn
Đại Hạn có Cô Quả thì thông thường khó lập gia đình nhưng tiểu hạn có Sát Phá Tham gặp Đào Hồng Cô Quả Thiên Mã thì hết đơn côi, nghĩa là lập gia đình
Cô Quả thủ mà Hồng hoặc Đào chiếu thì được người theo để ý nhưng lại kén chọn, không ưng ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bộ sao CÔ THẦN -QUẢ TÚ

Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Thiên Cơ, Văn Khúc cùng trấn mệnh tại cung Dần hoặc Ngọ, hoặc sao Thiên Lương trấn mệnh tại cung Ngọ, có sao Văn Khúc tại cung Tý cùng chiếu.
Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ưu điểm: Quyền cao chức trọng, phúc thọ song toàn, giỏi tính toán, dự đoán, theo nghiệp võ sẽ hiển đạt.

Văn Khúc hoặc Văn Xương và Thiên Lương trấn mệnh tại Vượng địa, tại cung tam phương có các sao Lộc tồn, Hóa Khoa, Hóa quyền, Hóa Lộc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt gia hội là thuộc cách cục này. Nên theo nghiệp chính trị, nếu gặp nhiều cát tinh, chủ về cực hiển quý.

Ca quyết như sau:
Văn tinh cảnh trực ngộ Thiên Lương
Vị liệt hoàng môn điểu phủ hành
Cương kỷ triều trung công nghiệp kiến
Bức nhân thanh khí mãn càn khôn

Nghĩa là:
Sao văn chính trực gặp Thiên Lương
Quan tại triều đình chức đường đường
Chấn chỉnh kỷ cương sự nghiệp lớn
Thanh cao nức tiếng khắp xa gần

Kinh văn có câu: " Thiên lương, Văn Khúc nhập miếu vượng, làm quan lớn", "Thiên Lương miếu vượng, Tả, Hữu, Xương, Khúc, gia hội chức trọng, quyền cao".

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách cục Văn Lương chấn kỷ (Văn Lương giữ kỷ cương)

Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Trong đời bạn từng ao ước kiếm được thật nhiều tiền và trở thành tỷ phú? Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn. 1. Nằm sấp Bạn là người hơi bảo thủ và luôn coi mình là trung tâm, nhiều khi chỉ biết nghĩ đến bản thân. Bạn luôn hướng
Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng ngủ sẽ tiết lộ phần nào về tài lộc sau này của bạn –

Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

Người tuổi Sửu thờ Phật nào? 12 con giáp có 12 thủ hộ thần, trong đó Hư Không Tạng Bồ Tát bảo hộ cho người tuổi Sửu tránh khỏi tai ương khổ nạn.
Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 

1. Bản mệnh Phật của người tuổi Sửu

  Người tuổi Sửu tính cách chăm chỉ cần mẫn, nhẫn nhục chịu khó. Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ người không có tâm, điều này cực kì đúng với con giáp này. Chỉ cần có thể nỗ lực thì họ sẽ nỗ lực, chỉ cần có thể cố gắng thì họ sẽ cố gắng. Tính tình chân thật, bất luận là đối xử với ai đều hết mực chân thành song lại không giỏi nói chuyện.    Tuổi Sửu cũng có khó khăn là tuy muốn phát triển nhưng thường không gặp may mắn, nhiều khi hữu dũng vô mưu nên không thành việc lớn. Quật cường can đảm mà thiếu khéo léo, có nhiều tình huống xử lý chưa tốt dẫn tới thất bại.    Bản mệnh Phật của mỗi con giáp là thủ hộ thần có tác dụng bảo vệ và tăng cường vận trình, đi theo người đó suốt đời không thay đổi. Vị Phật nào độ mệnh cho người tuổi Sửu? Chính là Hư Không Tạng Bồ Tát, có thể bổ sung khuyết điểm, thúc đẩy năng lực giúp con giáp này tiến lên.
tuoi Suu tho Phat nao
 
Xem thêm bài viết Tìm hiểu về các vị Phật bản mệnh phù hộ độ trì cho 12 con giáp
 
Đeo Hư Không Tạng bản mệnh Phật còn giúp tuổi Sửu đả thông tư tưởng, thăng chức thuận lợi, khôn khéo nhã nhặn, rất có lợi với phát triển sự nghiệp, rộng đường tương lai.    Người tuổi Sửu sinh năm 1949, 1961, 1973, 1985, 1997, 2009 đều có thể thỉnh bản mệnh Phật về dùng, công hiệu như nhau, không có gì khác biệt. Bản mệnh Phật đi theo chủ nhân một đời một kiếp, bất kể phương diện nào, sự nghiệp hay tình cảm, tài vận đều sẽ có cầu tất ứng, trợ giúp tốt nhất.  

2. Tác dụng của bản mệnh Phật trong năm 2017

  Vận trình năm 2017 của người tuổi Sửu nhờ tam hợp với chi năm mà có nhiều điểm sáng, ít khó khăn.   Sự nghiệp tăng lên rõ rệt, quan hệ xã giao hài hòa, hiệu suất làm việc cao. Nhưng cây to đón gió lớn, cẩn thận tiểu nhân quấy phá, gây khó dễ khiến bản thân bị cấp trên phê bình.   Phương diện tình cảm khá ổn, người độc thân có khả năng tìm thấy nửa kia hợp ý. Tuy rằng đào hoa không nhiều nhưng gặp đúng người đúng thời điểm nên cơ hội vẫn sáng rõ như ban ngày.   Sức khỏe của người tuổi Sửu vững vàng, chú ý hạn chế hải sản tươi sống, một phần là do ăn kiêng để giảm nguy cơ bệnh tật, phần khác là đồ ăn chưa chín có thể gây ra các bệnh đau bụng, tả, nghiêm trọng hơn là ngộ độc cấp tính.   Tài vận năm nay khiến tuổi Sửu hài lòng, Chính Tài ổn định, Thiên Tài cũng không thiếu. Người này có năng lực quản lý tài sản rất mạnh nhưng lại quá mức tiết kiệm khiến bạn bè không thoải mái, nên chi tiêu hợp lý hơn, chỗ nào cần tiêu tiền thì hãy tiêu tiền.  

3. Những lưu ý khi đeo bản mệnh Phật

  Việc đáng lưu ý nhất khi thỉnh bản mệnh Phật về đeo là cần khai quang điểm nhãn cho vật phẩm phong thủy này để phát huy toàn diện linh lực, gia trì pháp lực. Khi chọn mua hãy chọn thật kĩ càng, ưu tiên vật phẩm được chế tác tỉ mỉ bằng các chất liệu tốt để sử dụng lâu dài.  
Xem thêm bài viết 7 lưu ý phải nhớ khi muốn thỉnh bản mệnh Phật bảo hộ bình an
 
Mang bản mệnh Phật Hư Không Tạng Bồ Tát bên mình phải có tâm thành kính, hướng thiện, làm nhiều việc thiện. Thỉnh Phật mà suy nghĩ đen tối, tư tưởng u ám, làm nhiều chuyện trái đạo đức pháp luật thì không Phật nào chứng cho.
Vi Phat nao do menh cho nguoi tuoi Suu
 
Thường ngày khi vận động mạnh hoặc trong trường hợp đặc biệt nên lấy bản mệnh Phật xuống, bảo quản ở nơi an toàn kín đáo, tránh va chạm, tránh để người khác đụng vào. Dây đeo bản mệnh Phật hỏng hóc hãy sớm thay thế, bản mệnh Phật càng đeo lâu linh lực càng mạnh, có sự tương thông với chủ nhân.    Tuổi Sửu thờ Phật nào? Hư Không Tạng Bồ Tát có thể hóa giải những khó khăn vất vả của tuổi Sửu, tăng cường nhân duyên, cải thiện khiếm khuyết về tính cách. Có thể chịu khó chịu khổ, chăm chỉ cần cù là nhân tố thành công nhưng nếu muốn trở thành người kiệt xuất, lãnh đạo thì càng cần nâng cao vận trình, thỉnh bản mệnh Phật tăng phúc tăng may về dùng. 
Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Dần Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Mão Vị Phật độ mệnh cho người tuổi Ngọ
  Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Sửu thờ Phật nào?

LUẬN BÀN Việc Lập Gia Đình Qua Các Sao

a. Những sao hỷ tín: Thông thường, các sao hay bộ sao may mắn nói chung đều có nghĩa hỷ tín khi đi chung với sao tình duyê...
LUẬN BÀN Việc Lập Gia Đình Qua Các Sao

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

a. Những sao hỷ tín: Thông thường, các sao hay bộ sao may mắn nói chung đều có nghĩa hỷ tín khi đi chung với sao tình duyên hay sao cưới hỏi, bao gồm: Thiên Hỷ-Hỷ Thần; Thanh Long-Lưu Hà; Thanh Long-Hóa Kỵ; Thiên Mã-Tràng Sinh; Thiên Mã-Điếu Khách-Thiên Khốc; Ân Quang-Thiên Quý; Thiên Quan-Thiên Phúc; Tả Phù-Hữu Bật; Tứ Đức nhất là Nguyệt Đức và Thiên Đức.
b. Những sao tình duyên: Hầu hết bao gồm các sao tình dục nếu kết hợp với sao hỷ tín thì dễ quyết đoán có hôn nhân, đặc biệt nhất là những sao dưới đây: Đào Hoa-Hồng Loan; Thiên Riêu-Thai; Mộc Dục-Hoa Cái; Liêm Trinh-Tham Lang.
c. Những sao cưới hỏi: bao gồm: Long Trì-Phượng Các, Thanh Long
d. Những sao hao tài: Đại Hao, Tiểu Hao

e. Những sao làm cho nhanh hay chậm: thông thường là các sao hành Hỏa và Bắc Đẩu là hai loại sao hối thúc, khiến hôn nhân sớm thành. Còn Nam Đẩu vì ăn về sao cho nên có ý nghĩa chậm hơn. Đặc biệt là những sao Phi Liêm, Hỏa Tinh, Linh tinh có tác dụng hối thúc. Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Không chỉ sự bất thần, đột ngột. Thiên Khôi, Thiên Việt chỉ sự vừa ý. Các Nam Đẩu vì hiệu lực về sau cho nên báo hiệu hôn nhân vào nửa năm sau. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: LUẬN BÀN Việc Lập Gia Đình Qua Các Sao

Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Theo phong thủy, nếu việc thờ cúng không tốt, vị trí bàn thờ, sắp xếp các đồ thờ không phù hợp sẽ ảnh hưởng xấu đến vận khí và sự may mắn của gia chủ...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trai bên trái, gái bên phải

Theo ông Luyện Văn Dũng – một người am hiểu về phong tục cúng giỗ ở Yên Mỹ, Hưng Yên, một bàn thờ thường đặt 3 bát hương trên đế Tam sơn. Ba bát hương này khi đứng từ ngoài nhìn vào thì ở giữa là bàn thờ thổ công, hội đồng gia tiên, còn hai bên thì đặt bát hương thờ bà tổ cô và bát hương thờ ông mãnh theo quan niệm “trai bên trái, gái bên phải”. Ảnh đặt cũng sắp xếp theo “trai bên trái, gái bên phải” và theo cấp bậc, mỗi bát hương để cách nhau khoảng 10cm. Trong đó bát hương thổ công bao giờ cũng to hơn 2 bát kia và đặt ở vị trí cao hơn. Nhiều nhà đặt quá nhiều bát hương trên bàn thờ là không đúng cách sẽ không tổ hợp được sức mạnh tâm linh. Ngoài ra, không thể để thờ hai họ nội và ngoại cùng bát hương bởi quan niệm trần sao âm vậy.

Tuy nhiên, theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trung tâm Nghiên cứu Lý học Đông phương (Hội Nghiên cứu Phát triển Khoa học Việt Nam - Đông Nam Á) tùy thuộc vào hoàn cảnh từng nhà mà đặt bàn thờ cũng như lập các bát hương, chứ không nên quá máy móc. “Điều quan trọng là cái tâm thành kính. Nhiều người cho rằng, không nên thờ chung họ nội và ngoại trong một bàn thờ nhưng theo tôi điều đó không sao cả bởi bàn thờ giống như một lịch sử của một dòng họ là để tưởng niệm, biết ơn với những người quá cố đã sinh thành, nuôi dưỡng mình. Hơn nữa, việc đặt vị trí bàn thờ là điều quan trọng rồi nhưng điều quan trọng hơn cả là bạn phải luôn giữ cho bàn thờ phải luôn sạch sẽ, thường xuyên thắp hương để tưởng nhớ về tổ tiên và người đã khuất, bàn thờ thần tài cầu may”, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh nói.

Về vị trí đặt bàn thờ, ông Luyện Văn Dũng cho biết, theo tập tục của dân gian thì ban thờ gia tiên thường được đặt giữa gian nhà hướng ra mặt tiền. Tuy nhiên, việc đặt bàn thờ có một nguyên tắc là hướng về cái đẹp và tùy theo tuổi của gia chủ. Mỗi gia đình tùy theo hoàn cảnh rộng, hẹp, nhiều tầng hay nhiều phòng mà chọn chỗ đặt bàn thờ cho thích hợp nhưng phải hướng về cái đẹp: Thiên y, Sinh khí, Phúc đức hoặc Phục vị, chứ không được đặt bàn thờ hướng về cái xấu: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Họa hại, Lục sát.


Bàn thờ cần phải đặt theo đúng hướng phù hợp với vận khí của gia chủ. Ảnh: T.L

Dù là nhà ở truyền thống hay hiện đại, bàn thờ cũng luôn phải đảm bảo được đặt tại vị trí cao, không bị các không gian sinh hoạt khác đè lên để khi cúng bái, con cháu trong nhà tỏ được sự ngưỡng vọng thành kính của mình với ông bà tổ tiên. Với một gia đình riêng có nhiều tầng thì tầng trên cùng của tòa nhà đặt phòng thờ là hợp lý nhất. Nó không chỉ mang đến sự trang nghiêm, kín đáo, tĩnh lặng mà còn thuận tiện cho việc cúng ngoài trời, hóa vàng mã trên sân thượng.

Nếu không có không gian làm phòng thờ riêng có thể bố trí trong phòng khách, không nên bố trí tại phòng ngủ, phòng ăn, phòng bếp. Việc đặt ban thờ ở tầng 1 cũng không sao, tuy nhiên cần tránh tầng trên không được kê giường ngủ, phòng vệ sinh… bởi nó sẽ làm giảm tính tôn nghiêm của không gian trang trọng này.

“Có phòng thờ riêng là tốt nhất bởi bàn thờ thuộc tĩnh không hợp với sự phô trương. Điều đó cũng sẽ tránh được việc đi từ ngoài cửa vào đã nhìn thấy bàn thờ tổ tiên, hình ảnh tổ tiên. Hơn nữa, bàn thờ ngay cửa chính sẽ đón nhận nhiều sát khí từ ngoài vào, dễ có gió thổi làm động bát hương”, ông Luyện Văn Dũng cho hay.

Đồng quan điểm về vấn đề này, chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng cho rằng, về mặt nghi lễ, bàn thờ cần đặt ở nơi cao ráo, trang trọng nhất; còn về phong thủy bàn thờ cần đảm bảo thêm yếu tố vượng khí tức cần thoáng khí, rộng rãi. Tốt nhất nên cân nhắc vị trí đặt bàn thờ ngay khi bắt đầu thiết kế xây nhà sao cho phù hợp. Với nhà chung cư, bàn thờ vẫn phải đảm bảo sự thông thoáng, nhưng kín đáo và thống nhất về hình thức sao cho tương ứng với không gian căn hộ.

Tượng Phật có được đặt cùng bàn thờ gia tiên?

Theo ông Luyện Văn Dũng, việc đặt bàn thờ Phật cũng cần lưu ý nếu không sẽ không mang lại may mắn cho gia chủ. Nơi đặt bàn thờ Phật cần tránh: Không hướng ra nhà vệ sinh, không hướng ra cửa phòng, không hướng ra bàn ăn bởi vì Phật ưa thanh tịnh, giới sát tinh. Cúng Phật chỉ dùng hoa quả tươi, không được cúng tam sinh (một con ngan, một thủ lợn, một con gà hoặc cá là những thứ chỉ nhà trình đồng mở phủ mới cúng) như gia thần và gia tiên. Vì vậy, bàn thờ Phật phải đặt riêng, có thể là trước bàn thờ gia tiên và cao hơn bàn thờ gia tiên. Tranh, tượng Phật chỉ để khi có bàn thờ Phật, không nên để cùng với gia tiên để thể hiện lòng tôn kính Tam bảo.

Khi lau rửa, có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước. Bởi người xưa quan niệm như vậy là bất kính.

Theo chuyên gia phong thủy Nguyễn Vũ Tuấn Anh, trên bàn thờ bắt buộc phải có bát hương, chân đèn, nước. Đồ bày trên bàn thờ quan trọng nhất là hương hoa, tức hương thắp, hoa quả tươi, nước sạch. Bàn thờ bé chỉ nên đặt một bình hoa, không nhất thiết là hoa gì nhưng thường là cúc biểu hiện dương khí, hoa sen, hoa hồng, loa kèn… Không nên để quá nhiều hoa nhựa, bởi theo quan niệm đó là sự giả dối. Bàn thờ phải thoáng sạch, bình hoa, đĩa quả, đèn/nến đặt hai bên, chính giữa đặt chén nước để bát hương thần linh thoáng. Nước của bình hoa cũng chú ý nên thay thường xuyên. Đồ thờ cúng xong rồi nên bỏ xuống để thụ lộc, tránh để từ tháng này qua tháng khác.

Giấy công đức không đặt lên bàn thờ

Trước quan niệm của nhiều người cho rằng, giấy công đức chùa khi về nên để lên bàn thờ để báo cáo tổ tiên, ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho hay, giấy công đức là ghi nhận sự đóng góp của người đã làm việc công đức cho chùa. Vì lẽ ấy mà nhà chùa ghi nhận việc cúng dường đó bằng một tờ giấy công đức. Không nên để lên bàn thờ vì nó là thứ không liên quan đến thờ cúng. Nếu nhiều quá thì hóa đi rồi bỏ cũng được. Quan trọng là tâm mình hoan hỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bát hương, di ảnh đặt sai sẽ ảnh hưởng xấu đến gia chủ?

Tướng người lông mày rậm –

Lông mày rậm tối kị thô mà thiếu nét trông như 1 quẹt mực đen lởm chởm tán loạn, khô cứng. Người mang loại lông mày này thuộc dân cướp trộm vừa ngu như heo, vừa dữ như hổ. Lông mày rậm phải có nét dáng lên xuống mềm mại đi đôi với đôi mắt sáng rất tố
Tướng người lông mày rậm –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người lông mày rậm –

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng. Trong cuộc sống này trước khi làm việc gì, bất kể nhỏ hay to, lớn hay bé thì hãy cân nhắc thật kỹ, những hậu quả mà nó mang lại cho chính ta và những người xung quanh ta.

Là một con người thì phải biết nghĩ, biết vận dụng trí óc và quyết định công việc đúng đắn. Chứ đừng làm xong rồi mới suy nghĩ, hối hận, lúc đó thì đã quá muộn.

Có những việc không cân nhắc kỹ mà đã làm rỗi thĩ khi đó hối hận cũng không còn có ích gì nữa. Có thể bạn hối hận cả đời người vẫn chưa thể bù đắp được. Và hãy rút kinh nghiệm và triết lý cho những việc làm sai trái trước đây của mình.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng sẽ là những câu danh ngôn hay cho bạn, cho tôi và cho tất cả chúng ta suy ngẫm.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

1. Người khăng khăng muốn thấy rõ mọi thứ trước khi quyết định sẽ chẳng bao giờ quyết định. Chấp nhận cuộc sống, và bạn phải chấp nhận sự hối hận.

2. Hối hận, quả trứng chết người mà lạc thú sản sinh.

3. Vinh quang xây trên nền ích kỷ là hối hận và xấu hổ.

4. Sự hối hận sau một cuộc chiến không cần thiết rất lớn.

5. Nhiệt tình là một tật bệnh thường mắc phải của tuổi trẻ. Bên trong nhỏ một ít thuốc hối hận, bên ngoài bôi một ít thuốc cao kinh nghiệm thì sẽ trị khỏi ngay.

6. Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều thêm hối hận, im lặng là nghệ thuật lớn lao của cuộc đàm thoại.

Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng
Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

7. Ai cũng có sai lầm, nhưng người ít khinh suất nhất là người mau hối lỗi nhất.

8. Đừng làm gì mình sẽ thấy hối tiếc.

9. Sự hối hận ngủ ngon trong thịnh vượng nhưng gọi dậy ý thức cay đắng trong khó khăn.

10. Một người chỉ có lý do để hối tiếc khi anh ta gieo hạt và không ai gặt.

Bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để rút ra những kinh nghiệm, triết lý sống cho mình nhé.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng hợp danh ngôn về sự hối hận muộn màng

Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Học thuyết âm dương trong triết học Trung Quốc cho rằng đàn bà thụ khí âm nhu của trời đất, đàn ông thụ khí dương cương của trời đất, cho nên nói đàn bà thuộc âm, đàn ông thuộc dương, âm và dương là hai mặt đối lập trong một thể thống nhất. Tư tưởng này phản ánh trong mệnh lý là, nam nữ không những hoàn toàn trái ngược nhau trong khỏi vận số tuổi và sắp xếp đại vận mà nó còn có những chỗ khác nhau rất rõ rệt.
Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những chương tiết phía trên của cuốn sách này, chúng ta đã biết, bát tự của nam giới lấy chính tài ta khắc hoặc thiên tài là vợ, nhưng chồng trong bát tứ của vợ, lại phải triệt để ngược lại, lấy quan (chính quan) sát (thiên quan) khắc ta là chồng. Cũng vậy, khi xem cho con cái, nam mệnh lấy thiên quan (thất sát) khắc ta là con trai, Chính quan là nữ, còn nữ mệnh thì lấy thực thần ta sinh là con trai, thương quan là con gái.

Do trong xã hội phong kiến, đàn bà mọi việc đều phải dựa vào chồng “chồng lợi thì vợ cũng lợi, chồng khổ thì vợ cũng khổ”, cho nên mệnh cho nữ xấu hay tốt, trước hết phải xem vị trí quan sát của chồng thịnh hay suy để định sang hèn. Tiếp đến phải xem sao của con, vì rằng nuôi con để dựa lúc về già, bởi vì người đàn bà bản thân không có thu nhập, do đó cuối đời vinh hay nhục, toàn dựa vào sao của con xấu hay tốt.

Trong tình hình chung, quan, sát, tài đắc địa, có lợi cho chồng, thực thần đắc địa, có lợi cho con. Chồng có lợi thì xuất thân giàu sang, cả đời hưởng phúc. Con có lợi thì cuối đời được nuôi dưỡng tốt. Do thực thần có thể sinh tài, lại có thể sinh quan. Ví dụ có người chồng can ngày bát tự Ất Mộc sinh ra là Đinh Hoả, sau đó lại do thực thần Đinh Hoả sinh Thổ, Mộc có thể khắc Thổ, cho nên Thổ là tài của Ất Mộc. Tiếp đó lại do Thổ sinh Kim, Kim là quan khắc Ất Mộc. Vì duyên cớ ấy cho nên nữ mệnh phần lớn lấy thực thần, tài, quan làm dụng thần của bát tự. Nếu như quan, sát, tài, thực trong bát tự sinh ra không đắc địa, lại không sinh vượng hoặc là khuyết hàm, khi hành vận lại không bổ sung được, thê thì suôt đời khốn khổ, chẳng nói làm gì.

Lễ giáo phong kiến lại tôn sùng phụ nữ trinh tiết, trưóc sau như một, cho nên trong bát tự nếu thấy quan thì không được sát, nếu thấy sát thì không được thấy quan, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ có một ngôi là tốt, nếu một khi trong bát tự có hai quan tinh, chỉ cần không có sát lẫn vào trong đó, hoặc trong tứ trụ thuần là sát, không có quan tinh lẫn vào, thì đều có thể gọi là con gái nhà lành.

Trong Tam mệnh thông hội của Dục Ngô Sơn nhân đòi Minh soạn, có nói rất kỹ về bát pháp, bát cách của nữ mệnh, xin dẫn giải như sau;

I. Bát pháp

1. Thuần: gọi là thuần có nghĩa là thuần nhất. Ví như quan tinh thuần nhất, sát tinh thuần nhất, có tài (tài có thể sinh quan) có ấn (ấn thụ hộ thân), lại không gặp hình xung như vậy là thuần. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh dưới đây.

Năm Quý Tỵ Tháng Mậu Ngọ

Ngày Tân Dậu Giờ Bính Thân

Tân Dậu trong bát tự là bản thân, mà Dậu với Tân mà nói, do ư chính ở lộc địa của lâm quan, cho nên bản thân sinh vượng. Ngưòi xưa nói: vượng không theo hoá theo Lý thì thiên can hợp cục, Bính Tân cần phải hoá Thuỷ, bây giờ bản thân duyên lộc, cũng phải hoá mà không hoá. Ở đây sao chồng Tân Kim là chính quan Bính Hoả khắc ta, liên hệ với mệnh này sinh vào tháng Mậu Ngọ đúng vào thời hoà vượng của tháng 5 nông lịch, cho nên sao chồng kiện vượng. Lại liên hệ với can năm Quý Thuỷ, rất khéo hình thành mỗi quan hệ chính quan vói Bính Hoả sao chồng. Trong dụng thần, chính quan là một cát tinh, cho nên rất có lợi cho chồng. Nếu lại liên hệ với can tháng Mậu Thổ lại là cát thần thực thần của sao chồng Bính Hoả, và Bính Hoả cũng Mậu Thổ cùng quy lộc (Lâm quan) đên địa chi Tỵ của trụ năm, có thể nói là khó có được.

Sau khi xem sao chồng lại đến sao con. Tân Kim sinh Nhâm Thuỷ là con, mà thân trong cung con ở chi giờ lại khéo hàm chứa Nhâm Thuỷ mà mối quan hệ của Nhâm Thuỷ với Thân trong 12 cung lại đúng ở vào đất trưòng sinh vạn vật hướng sinh. Hơn nữa thiên can Quý Mậu hợp hoà, Bính Tân hợp Thuỷ, Thuỷ Hoả có tượng ky tế, địa chi Tỵ, Ngọ, Dậu, Thân, Canh Kim trong kỷ, Canh Kim trong than, Tan Kim trong Dậu đều là tài khcí của Bính Hoả sao chồng và Đinh Hoả trong chi tháng Ngọ, cho nên tự nhiên lấy chồng được làm quan mà ăn lộc trời, thuộc về mệnh chồng vinh con sang.

2. Hoà: gọi là Hoà có nghĩa là điềm tĩnh. Ví như trong bát tự bản thân nhu nhược, chỉ có một ngôi sao chồng khắc ta mà tứ chi lại không có thần công phá xung kích, nó liễm được khí trung hoà nên “Hoà” vậy. Chúng ta hãy xem bát tự của một nữ mệnh.

Năm Nhâm Thìn Tháng Tân Hợi

Ngày Kỷ Mão Giờ Kỷ Tỵ

Thiên can Kỷ Thổ của trụ ngày trong mệnh là bản thân, Giáp Mộc trong trụ thang hội là sao chồng. Hợi đối với Giáp Mộc mà nói, ở chỗ đất trường sinh vạn vật hưởng vinh. Những điều nói trên gọi là chồng được quan tinh, con đường trường sinh, cho nên chồng vượng, con lợi, còn như Ất Mộc trong chi ngày Mão, tuy là thất sát của bản thân Kỷ Thổ nhưng có Canh Kim trong chi giờ tỵ chế ước, cho nên “lấy sát lưu quan”, là quý tượng trong nữ mệnh.

3. Thanh: gọi la “thanh” có nghĩa là thanh khiết. Trong nữ mệnh, hoặc chỉ có một quan, hoặc chỉ có một sao chồng đắc thời, trong trụ có tài có quan, có ấn trợ thân, không có khí hỗn đục, mới có thể đắc thanh quý. Lấy một ví dụ nữ mệnh như thế này:

Năm Kỷ Mùi Tháng Nhâm Thân

Ngày Ất Mùi Giờ Giáp Thân

Trụ ngày bản thân Ất Mộc, lấy chi ngày chi giờ trong đó thân chinh Canh Kim làm sao của chồng. Thân với Canh mà nói, ở vào lộc địa của lâm quan, cho nên sao chồng đắc thời mà Ất Mộc lấy thực thần Đinh Hoả ta sinh làm sao con, mà trong chi ngày Mùi bản thân lại hàm chứa Đinh Hoả, mà Mùi với Đinh mà nói lại cũng ở vào Vượng địa của lâm quan, cho nên sao con đắc địa. Ất Mộc lấy Nhâm Thuỷ làm chính ấn, mà trị tháng Nhâm Thuỷ lại toạ ở Trung Kim, nguồn thuỷ không thiếu, hơn nữa kỷ Thổ trong chi ngày Mùi lại là thiên

tài do Ất Mộc đưa đến. Như vậy tài vượng sinh quan, tứ trụ lại không có hình xung phá hại.

Thơ rằng:

Tài cung ấn thụ tam ban vật

Nữ mệnh phùng chi tất vượng phu

Cho nên người đàn bà có mệnh là phu nhân, được hai nước phong chức.

4. Quý : gọi là “Quý” là danh hiệu tôn vinh. Trong mệnh có quan tinh và được tài khí trợ sinh, trong tứ chi lại không có hình cung phá bại, đó gọi là nghiêu vũ trong nữ mệnh quý vậy. Sách nói: mệnh mà nhân không sát (thiên quan), quý được làm phu nhân. Lại nói: “nữ mệnh vô sát phùng nhị đức, khả nhị quốc chi phong”. Gọi là Nhị Đức, không chỉ riêng Thiên Đức, Nguyệt Đức, với nữ mệnh mà nói, tài cũng là Đức, quan cũng là Đức nếu lại có ấn thụ, thực thần, như vậy càng thêm tôn quý. Nêu một nữ mệnh dưới đây.

Năm Ất Dậu Tháng Bính Tuất

Ngày Quý Mão Giờ Quý Tỵ

Thiên can trụ ngày Tân Kim, không chỉ lấy can năm Ất Mộc ta khắc làm thiên tài, trước tiên được một đức và lấy Bính Hoả của Canh Kim khắc ta trong can tháng làm quan nhân, mà quan nhân này lại toạ ở một khố tàng vạn vật và Tỵ trong chỉ giờ lại kéo tháng đến làm lộc địa của lâm quan, cho nên lại được thêm một đức. Ngoài hai đức ra, can giờ Quý Thuỷ quý là quan của Bính Hoả chồng. Bản thân Tâm Kim sinh ra Quý Thuỷ là con, mà Thuỷ của con lại toạ ở Tỵ lâm quan, có thể nói “phu lộc đồng vị” hơn nữa can giờ Quý lai gặp chi ngày Mão, được gọi là Thiên Ất quý nhân. Như vậy vừa là quý nhân, lại là tài quan song mỹ, cho nên chồng và con đều phát, cả hai được phong.

5. Trọc: gọi là “trọc” tức là đục mà không trong. Bát tự nữ mệnh nếu xuất hiện ngũ hành mất vị trí, Thuỷ Thổ làm tổn thương nhau, bản thân rất nguy hiểm, ngôi sao đại biểu cho chồng không hiện ra, mà thiên quan lại rối tạp, trong tứ chi lại không có Tài, Quan, An, Thực, những người này phân lớn là kỹ nữ, tỳ thiếp, dâm đãng, ở đây xin nêu lên một nữ mệnh như thế này.

Năm Ất Hợi Tháng Ất Hợi

Ngày Quý Sửu Giờ Kỷ Mùi

Bản thân Quỷ Thuỷ sinh vào tháng 10 tháng Hợi, quá nhiều Thuỷ. Quý Thuỷ lấy Mậu Thổ làm chính quan xem ở chính quan không hiện rõ mà dẫn can giờ Kỷ Thổ làm Thiên phu nhưng mà trong chi ngày Sửu và chi giờ Mùi Kỷ Thổ đều có thiên phu ở hỗn tạp với nhau, hơn nữa trong trụ ngày không có tài, Ất Mộc vốn là thực thần của Quý Thuỷ nhưng Ất Mộc sinh ở can tháng rất khoẻ, Kỷ Thổ bị khắc, như vậy ngũ hành mất vị trí, khó tránh khỏi ma quỷ đến người, trước trong sau đục, không thể hưởng phúc.

6. Lạm: gọi là “lạm” có nghĩa là tham lam, tức là nói trong thiên can tứ trụ có nhiều phu tinh (sao chồng) trong địa chi lại ngầm có tài vượng đái sát. Như vậy khó tránh khỏi tửu sắc vô độ, tư túi đắc tài. Gặp phải mệnh này, nếu không khắc phu tái giá thì thân làm nô tì, vì rằng thái quá hoặc bất cập sẽ đi theo hướng phản diện. Ví dụ mệnh như thế này:

Năm Canh Dần Tháng Bính Tuất

Ngày Canh Thân Giờ Đinh Hợi

Bản thân Canh Kim sinh vào tháng thu, chi ngày lại gặp lâm quan lộc địa, bản thân tự vượng. Trong đó trụ tháng nặng hơn trụ giờ, đáng lẽ Bính Hoả là chồng nhưng chi năm Dần và chi tháng hội thành Hoả cục, ở can giờ lại thấu xuất Đinh Hoả, không tránh khỏi rất yêu Hỏa. Lại như bản thân Canh trong Kim lại ngầm khắc vói chi năm chi tháng Dần Hợi Mộc là tài mà Nhâm Thuỷ trong Hợi lại là cát thần thực thần của Canh Kim, thực thần có thể sinh tài. Vì vậy tuy nói người đàn bà này lớn lên xinh đẹp có phúc, nhưng lại không thiếu lạm dâm mà đắc tài.

7. Xướng: gọi là “xướng” tức là xướng ca vô loài Trong bát tự nếu xuất hiện thân vượng phu tuyệt, quan suy thực thịnh, hoặc trong tứ trụ không thấy quan sát, hoặc có mà bị coi là hung thần thương quan, thương tận, hoặc quan sát hỗn tạp mà thực thần thịnh vượng, những người này nếu không là mệnh kỹ nữ, cũng là ni cô tì thiếp, khắc phu dâm bổn, chỉ ở một mình. Xem mệnh như thê này:

Năm Đinh Hợi Tháng Canh Tuất

Ngày Mậu Thìn Giờ Canh Thân

Can ngày bản thân Mậu Thổ, lẽ ra là phu tinh (sao chồng) khắc ta Giáp Mộc trong chi năm Hợi, nhưng do Mộc này ở vào tháng 9 tháng tuất của mình thu, trong vượng tướng hưu tù tử, ở vào tử thất thời nguyên khí, giờ đây lại gặp can tháng Canh Kim giám lâm, cho nên rõ ràng là khắc tuyệt, lại xem Canh Kim trong chi giờ Thân, lẽ ra thuộc về thực thần của Mậu Thổ, nhưng Thân với Canh mà nói lại là lộc định của lâm quan, cho nên thực thần có lực, hơn nữa Mậu Thìn vốn thuộc sao khôi cương, có lợi cho đàn ông, không lợi cho đàn bà, giờ đây khôi cương chiếu lâm, lại có thể sinh thực, nêu lại kết hợp với Canh Kim của can tháng can giờ thì không tránh khỏi thực thần vượng quá mức. Tuy nói Ất Mộc trong Thìn cũng là sao chồng khắc ta nhưng toạ ở bên dưới Mậu Thổ, không thể thấu xuất, nên không thể lấy để dùng. Ngoài ra Nhâm Thuỷ trong chi năm Hợi, Quý Thuỷ trong chi ngày Thìn, Nhâm Thuỷ trong chi giờ Thân đều là tài của bản thân Mậu Thổ, Mậu Thìn vốn thuộc khôi ải, bản thân cường vượng, bây giờ phu tinh khắc ta đã tử tuyệt mà xung quanh lại đầy những thực thần sinh ta, cho nên gọi là Thân vượng phùng sinh, tham thực tham tài, là một ca nữ xinh đẹp không có chồng.

8. Dâm: gọi là dâm là dâm ô quá mức. Bát tự của loại người này, bản thân tuy nhiên đắc địa nhưng phu tinh (sao chồng) thái quá, tối sáng giao nhau, người mà can ngày thân vượng, trong tứ trụ đều là quan sát thì đúng như vậy. Phu tinh xuất hiện ỏ thiên can gọi là minh, xuất hiện ở địa chi gọi là ám. Ví dụ 1 Đinh 3 Nhâm, hoặc Đinh Hoả đồng thời gặp phải thiên can Nhâm Thuỷ, Quý Thuỷ trong địa chi thìn, Quý Thuỷ trong địa chi Thìn, Quý Thuỷ trong Tý đều là những điền hình về tứ trụ thái quá hoặc minh ám giao nhau. Loại đàn bà đối với đàn ông quả là không thể dung nạp được, nêu một ví dụ:

Năm Mậu Thìn Tháng Nhâm thìn

Ngày Nhâm Tuất Giờ Quý Hợi

Nhâm Tuất trong mệnh và Quý Hợi, một trụ ở vào lộc địa của lâm quan, một trụ ở vào trạng thái đế vượng vạn vật trưởng thành, có thể gọi là bản thân đắc địa. Nhưng ở phu tinh, minh có trụ năm Mậu Thể là chính phu, ám có 3 Mậu Thổ (gồm 2 Thìn một Mậu) thành ám phu của Mậu Thổ, như vậy phu tinh giao tập, dâm hết chỗ nói

II. Bát cách

1. An tỉnh giữ phận: gọi là an tỉnh giữ phận tức là mệnh nữ phụ tinh trong bát tự có khí, can ngày tự vượng. Tài thực được đất, không có hình xung. Hãy xem một mệnh này.

Năm Quý Tỵ Tháng quan Canh Thân

Ngày Ất Mão Lộc Giờ Đinh Hợi

Canh ngày bản thân Ất Mộc, toạ ở chi ngày Mão là lộc địa lâm quan của Ất Mộc mà chi giờ Hợi cũng chi ngày Mão lại phùng hợp cục, cho nên can ngày tự vượng. Lại xem phu tinh, At Mộc lấy Canh Kim khắc ta làm chính quan hay ở chỗ, chi tháng thân ở nơi phu tinh toạ lại thuộc lộc địa lâm quan của Canh Kim mà chi năm Tỵ lại là đất trường sinh của Canh Kim, hơn nữa Nhâm Thuỷ trong chi giờ Hợi là thực thần thiên trù của Canh Kim, nên gọi (chồng) ăn thiên lộc, quan tinh mỹ vượng. Như vậy bản thân, quan tinh đều hưởng vượng khí, hai bên không xâm lấn nhau, tứ trụ lại không có thất sát lẫn vào, vì thế có thể thấy đó là mệnh của một phu nhân an tĩnh giữa phần, hoà nhã lịch thiệp.

2. Phúc thọ đểu đủ: đây là một loại cách cục thân toạ đất vượng, thông với ngụyên khí, can chi phò nhau, tổ hợp hữu tinh, mà Tài Quan Ân thụ đều đắc vị, không làm thóat tài hoại Ân, Thương quan, quả là cách cục thuần tuý. Nếu thân vượng mà vận hành vào đất tài, thực, cũng thuộc mệnh phúc thọ đều đủ. Nêu một ví dụ về nữ mệnh này:

Năm Bính Ngọ Tháng Canh Tý

Ngày Tân Dậu Giờ Quý Tỵ

Can ngày Tân toạ đất Dậu, chuyên lộc tự vượng. Tân Kim lấy Bính Hoả làm quan, mà quan tinh quy lộc ở chi giờ Tỵ, phu tinh đắc địa. Tân Kim lấy Quý Thuỷ là con, can giờ thực thần Quý Thuỷ quy lộc ở can tháng Tý Thuỷ, cho nên tử tinh (sao con) cũng đắc địa. Hơn nữa can chi phò nhau, không làm hại nhau, lại sinh vào Quý thuỷ tháng 11 dương lệch, trở thành tượng Kim Bạch Thuỷ thanh. Như vậy mệnh chủ xinh đẹp đoan chính, phu vượng tử quý, cho nên có thể đoán là một mệnh phúc thọ đều đủ.

3. Vượng phu thương tử: xem nữ mệnh ở vượng phu thương tử, mấu chốt là phải xem trụ ngày, vì rằng giờ là đất quy súc lại. Cách xem: hai sao ca con, dần quy về giờ, phu tinh sinh vượng, tử tinh suy bại vậy lấy một nữ mệnh là ví dụ:

Năm Bính Tuất Tháng Bính Thân

Ngày Đinh Tỵ Giờ Tân Hợi

Ngày sinh Đinh Hoả, toạ ở đế vượng Tỵ, bản thân đắc địa. Đinh Hoả lấy Nhâm Thuỷ chế ta trong chi tháng thân làm quan tinh mà chi giờ Hợi là lộc địa lâm quan của quan tinh Nhâm Thuỷ, chi tháng Thân Kim lại là đất trường sinh của Nhâm Thuỷ. Hơn nữa tháng 7 Kim vượng , Canh Kim trong thân và Tân Kim can giờ cùng với hai thiên can Bính Hoả của can giờ, can tháng là ấn thụ, tài thần của Nhâm Thuỷ quan tinh, cho nên đoán biết ông chồng thông minh phú quý. Đinh Hoả lấy thực thần kỷ Thổ làm chỗ dựa cho con cái bản thân, bây giờ trong trụ kia thấy Kỷ Thổ, cho nên lấy quyền đem Mậu Thổ tàng trong chi là tử tinh. Nhưng đem Mậu Thổ tàng trong chi Quý dẫn về cung chi giờ Hợi, Giáp Mộc trong Hợi là thất sát khắc phạt Mậu Thổ, thế đem Mậu Thổ đặt vào tuyệt địa. Vì rằng tử tinh bị khắc, cho nên trong mệnh khó có con, hoặc có thì cũng khó nuôi.

4. Vượng tử thương phu: về mệnh vượng tử thương phu, có thể từ trụ tháng, trụ giờ mà đoán biết. Quan tinh có khí đắc thời, chồng có thể thanh quư phát phúc; nếu không đắc nguyệt khí, ở trụ giờ lại không có vượng khí, thế thì chồng có thể vì mất khí mất thời mà nguy đến tính mệnh. Lại như tử tinh quy dẫn về giờ, nếu gặp đất trường sinh, lâm quan, đế vượng mà không hình khắc, chứng tỏ tử tinh đắc địa mà sinh vượng, phần lớn có thể làm nên. Xin nêu một ví dụ.

Năm Kỷ Mão Tháng Giáp Tuất

Ngày Ất Mão Giờ Mậu Dần

Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm chính quan. Sinh vào tháng Tuất, Canh Kim phùng Tuất, ở vào đất suy của nguyên khí, lúc dẫn quy về giờ, chi giờ Dần lại là đất trường sinh của Bính Hoả, mà Thìn Tuát hội cục, đều thuộc Hoả, nên đoán tử tinh hưởng vượng.

5. Thương phu khắc tử: nữ mệnh này, quan tinh và tử tinh mất tháng mất giờ, lại bị khắc tiết, cho nên không đẹp. Xem một nữ mệnh.

Năm Bính Tý Tháng quan Canh Tý

Ngày Ất Hợi Giờ Bính Tý

Bản thân Ất Mộc, lấy Canh Kim làm quan tinh. Bây giờ tháng Tý Kim hàn Thuỷ Lạnh, thực là Tử địa của Canh Kim

khí, trong tứ trụ không có Thổ đến sinh Kim. Cho nên đức ông chồng không lâu bền. Ất Mộc lấy Bính Hoả làm con, dẫn đến Tý cung ở giờ, thuộc về Thuỷ Hoả xung kích, là đất thuỷ vượng Hoả diệt, tuy nhiên năm đến can giờ đều có hai Bính Hoả, làm thế nào chịu nổi Thuỷ ở địa chi tứ trụ tuôn ra, cho nên con cái khó lòng tránh khỏi nguy nan.

6. Thiếu niên chết yểu: sách đoán mệnh cho rằng trong nữ mệnh vốn có quan tinh bị thương, hành vận lại thông đến đất quan, hoặc vô quan kiến thương, hành vận lại lâm đất quan và thân nhược quan sát quá nặng, sát nặng khắc thân, như thế nếu không chết thì cũng dâm ồ làm tràn. Ngoài ra nếu mang theo nhận không bị chế, hành vận lại phù hợp ở đất nhận, cũng không phải điềm lành.

Ví dụ:

Năm Đinh Mão Tháng Quý Sửu

Ngày Canh Thìn Giờ Bính Tý

Bản thân Canh Kim, Đinh Hoả là quan, bây giờ địa chi Tý Thìn và Quý Thuỷ trong Sửu củng là thương quan của quan tỉnh bị khắc chế nên bị hại vì chết đuối.

Lại như:

Năm Ất Dậu Tháng Mậu Tý

Ngày Bính Dần Giờ Kỷ Hợi

Ngày sinh Bính Hoả toạ chi Dần là đất trường sinh của Bính Hoả, đáng tiếc sinh vào tháng Tý giờ Hợi, quan sát quá nặng, giống như vượng Hoả gieo vào Thuỷ Thịnh, cho nên lo lắng sẽ chết khi sinh đẻ Lại xem một bát tự

Năm Nhâm Tý Tháng Quý Mão

Ngày Giáp Tuất Giờ Đinh Mão

Bản thân Giáp Mộc, cho tháng Mão là Dương nhận, trụ Đinh Mão lại thương quan, Dương nhận, đồng thời địa chi Tý Mão dụng hình, Mão Tuất tương hợp, phu tinh. Tài tinh trong trụ yếu sức, vì vậy ngày Kỷ Mão, tháng Ất Sửu năm Quý Dậu phạm gian dâm mà chết.

7. Chính thiền tự xử: tam mệnh thông hội cũng rất thích thú về cách nói chính thiên tự xử. Sách nói: chính thiên tự xử là gì? là vợ chồng tương hợp, lại gặp Tỷ kiên phân tranh. Nếu một ngôi phù tinh có hai ngôi thể tinh tương hợp, gọi là tranh hợp. Nếu bản thân tự vượng, thân kia lại suy, tứ trụ không xung thì ta chính mà là thiên, nếu thân kia vượng mà ta suy, tứ trụ xung ta thì thân kia vượng mà ta thiên, nêu thân ta vượng hửu khí thì phu theo ta là chính, ta thân suy mà có ngôi vượng khác thì theo ngôi khác, ta ngược lại là thiên. Bảo rằng thân kia vượng, tranh đoạt chồng ta, ta đành phải là thiên, hoặc tự vượng thái quá, trụ không có phu tinh, cũng là thiên, hoặc quan sát hỗn tạp, hoặc thương quan quá nặng, cùng là thiên, càng dâm ô. Hãy xem:

Năm Nhâm Tý Tháng Bính Ngọ

Ngày Tân Dậu Giờ Tân Mão

Bản thân Tân Kim, lấy can tháng Bính là quan tinh. Nhưng Bính lại hợp với can giờ Tân, thì lấy đây là mệnh hai đàn bà tranh một chồng, hay ở bản thân toạ tại lộc địa lâm quan chi Dậu, thân vượng có lực, mà can giờ Tân Kim lại toạ ở tuyệt địa Mão, suy nhược không chịu nổi công kích. Vì vậy kết quả tranh giành ta làm chính thê, còn kẻ kia làm thiếp. Lại như:

Năm Quý Mùi Tháng Nhâm Tuất

Ngày Quý Tỵ Giờ Nhâm Tý

Bản thân Quý Thuỷ, Mậu Thổ là quan. Đáng tiếc Nhâm Tý dựa Thân Thuỷ vượng. Quý Thuỷ Thuỷ nhược, do nhược không thắng vượng, cho nên kê kia thắng ta suy, đành phải làm thứ phòng. Nhưng trụ giờ Nhâm Thuỷ nặng mà tràn trề, toạ chi Tý dưới Nhâm gặp chi năm Mùi, kèm theo đào hoa cho nên kê kia tuy là chính thất (vợ cả) nhưng lại khó tự xử.

8. Chiêu giá bất định: sao lại gọi ,là chiêu giá bất định? Nghĩa là: trong nguyệt lệnh có phu tinh thấu can, tương hợp với kỷ, bản thân Tỵ tòng phục, phu tinh lại là nguyên khí, giờ dần phu tinh, hoặc sát tinh lại thích hưởng vượng địa đê khắc bản thân kỷ, lại tòng phục thiên phu, nên gọi là chiêu giá bất định (gả cưới không khẳng định) nếu phu tinh không vượng, hoặc bị khắc chế, hẳn gã chồng chậm, hoặc lấy chồng không minh bạch, hoặc chồng chẳng giúp được gì, hoặc có ngoại tình. Lại như:

Năm Quý Dậu Tháng Giáp Tý

Ngày Kỷ Mùi Giờ Ất Hợi

Bản thân Kỷ Thổ, Giáp Mộc là quan, sinh vào tháng Tý mất thời không vượng. Nhưng chi giờ phùng hợi, hợi là đất trường sinh của Giáp Mộc, quan tinh đương vượng, nhưng can giờ Ất Mộc lại chế bản thân là sát, can ngày toạ Mùi, lại là đất thương khố (kho tàng) của ất Mộc, dẫn đến sát tinh cũng vượng. Như vậỵ, mệnh chủ ở vào trạng thái gả cho Giáp mà biến Ất, gả cho Ất mà biến Giáp, do dự không quyết nên gọi là “chiêu giá bất định”. Bát pháp, bát canh mà sách cổ nói ở trên, ý thức phong kiến nặng nề, mà còn có những lời nói chủ để mua vui, cho nên hy vọng độc giả có con mắt phê phán trong khi nghiên cứu phân tích.

9. Được phong nhất phẩm

Năm tài Đinh Tỵ tài quan ấn

Tháng quan Mậu Thân quan ấn kiếp

Giờ Thực ất mão thực

ơ mệnh này, quan tinh thực thần toạ lộc, ấn thụ đương lệnh phùng sinh, tài sinh quan vượng, không thương ấn thụ, ấn thụ đương lệnh, đủ để phù thân, thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, nhìn xem toàn cục ngũ hành dừng đều, an tường thuần thuý, biết là phu vinh tử quý, là phu nhân nhất phẩm hai đời.

10. Phu quý tử quý

Năm quan Kỷ Tỵ tài sát ấn

Tháng kiếp Quý Dậu ấn

Ngày Nhâm Thìn

Giờ thực Giáp Thìn thương sát kiếp

Thu thuỷ thông nguồn, ấn tinh thừa lệnh, quan sát tuy vượng, chê hoá hợp nghi, hay là giờ can thấu xuất Giáp Mộc, chết sát Thổ thú, một khí thuần tuý, cho nên nhân phẩm đoan trang, giỏi thi thử. Kết hợp hành vận không Hoả, cơ quan không trợ giúp, ấn không bị thương, nên có phu tinh hiển quý, con nối dõi giỏi giang, được vinh hạnh phong hàm nhị phẩm.

11. Nữ trung tài tử

Năm Canh Thìn Tháng Nhâm Ngọ

Ngày Ất Hợi Giờ Quý Mùi

Ất Mộc sinh vào tháng Ngọ, Hoả thế mạnh mà can năm Canh quan nhu nhược, tốt ở chỗ can tháng Nhâm Thuỷ, can giờ Quý Thuỷ thông căn chế Hoả, chi năm Thìn Thổ tiết Hoả sinh Kim, hơn nữa chi tháng Ngọ Hoả sinh chi năm Thìn Thổ, chi năm Thìn Thổ sinh can năm Canh Kim, can năm Canh Kim sinh can tháng Nhâm Thuỷ, Can tháng Nhâm Thuỷ sinh can ngày Ất Mộc, như vậy tiếp tục tương sinh, khiến Hoả trong trụ không mãnh liệt Thổ không táo, Thuỷ không cạn, Mộc không Thổ, cho nên thuần tuý trung hoà, là nữ trung tài tử.

12. Dĩ ân vĩ phu

Ví dụ

Năm Bính Dần Tháng Tân Mão

Ngày Quý Dậu Giờ Mậu Ngọ

Can ngày Quý Thuỷ sinh vào tháng Mão là tháng tiết khí, trong trụ tài quan đều vượng, can ngày nhu nhược, cho nên lấy Ấn tinh phù ta làm phù tinh. Nhìn thấy khắp toàn cục, phù tinh thanh mà đắc nguyệt nên hành vận đến sửu vận, mấy năm liền cung Kim tiết Hoả, sinh liền hai con, về sau vận hành đến Mậu Tý, vì Tý Thuỷ xùng đẫy Đinh Hoả trong chi giờ Ngọ khiến Dậu Kim không bị thương, chồng có tin mừng thi cử đỗ đạt. Nhưng một khi giao vào Đinh Hợi, tài tinh ngược đãi, nên buông tay mà chết. Phân tích mệnh này, bệnh ở tài khí quá vượng, lấy Bính Hoả can năm hợp với Tân Kim can tháng, lấy Đinh Hoả can giờ khắc phá chi ngày Dậu Kim, hơn nữa Dần, Mão dương quyền sinh Hoả, cho nên hành vận một khi đi vào Đinh Hợi, Hợi với chi năm Dần hợp hoá Mộc, giúp dựng lên vượng thần mà Đinh Hoả lại khắc Tân Kim nên không có lộc.

13. Dĩ tài vi tử

Ví dụ:

Năm Bính Thìn Tháng Quý Tỵ

Ngày Đinh Sửu Giờ Giáp Thìn

Đinh Hoả sinh vào tháng Tỵ, Quý Thuỷ phu tinh thanh thấu, Giáp Mộc ấn thụ đẹp đứng một mình, cho nên phẩm cách đoan trang, trinh khiết. Tiếc là Bính Hoả ở can năm chi tháng quá vượng, sinh trợ thiên quan, để bị phá vỡ. Nhưng may lớn trong không may là chi tháng Tỵ cùng chi ngày Sửu hợp thành Kim cục, tài t́nh đắc dụng. Người xưa có câu nói: “Thân vượng tài vi tử, thể suy ấn tác nhi” cho nên lấy tài làm con, dạy con thành danh, về sau do hai con đều quý, được phong tam phẩm.

14. Hình phu nan thủ

Ví dụ:

Năm Đinh Mùi Tháng Ất Tỵ

Ngày Giáp Ngọ Giờ Đinh Mão

Bản thân Giáp Mộc, sinh vào tháng Tỵ, chi thuộc nam phương, can thấu lưỡng Đinh, tương như hoà thế mãnh liệt, khiến cho Giáp Mộc tiết khí thái quá. Trong cục lại không ấn thụ sinh thân. Cho nên chỉ có thể lấy chi giờ Mão Mộc làm dụng thần. Kết hợp đại vận, lúc trẻ nhập Hoả địa. Cho nên chồng chết sớm. Do người này thông minh xinh đẹp, mà lại nông nổi khác thường, về sau một khi vận đến Mậu Thân, tranh chiến cùng Mộc Hoả, nên không thư tiết được.

15. Phu tử tự vằn

Ví dụ:

Năm Mậu Tuất Tháng Kỷ Mùi

Ngày Bính Thìn Giờ Mậu Tuất

Khắp cục thương quan, ngũ hành khuyết Mộc, ấn tinh không thấy, cách thành thuận cục. Người này thông minh xinh đẹp tiếc tứ trụ Kim Thuỷ ít quá, Thổ của thương quan quá khô và dày, mà phu tinh Tân Kim lại mộ ở Tuất, cho nên dâm loạn cực kỳ, chồng gặp hung tai mà chết, về sau theo người khác, không được 2-3 năm lại khắc, chờ đến Ất Mão Mộc vận, phạm vượng của Thổ, tự vẫn mà chết.

16. Khi phu dâm tiện

Ví dụ

Năm Mậu Ngọ Tháng Ất Sửu

Ngày Mậu Tuất Giờ Bính Thìn

Can ngày Mậu Thổ, sinh vào tháng Sửu Kim tàng Thổ vượng, khiến cho can tháng quan tinh Ất Mộc không thể dựa vào gốc, nếu lấy Ất Mộc thông vối chi giờ Thìn khố. Thì Ất Mộc trong Thìn lại gặp Tân Kim trong Mậu khắc phạt, hơn nữa chi năm, chi ngày, can giờ ấn thụ sinh thân, cho nên bản thân cường vượng, đủ để dối gian, đặt phu quân ra bên ngoài. Kết hợp ở tuổi trung niên hành nhập tây phương Kim vận, biết đó là loại đàn bà dâm tiện.

17. Thuỷ tính dương hoa

Ví dụ

Năm Đinh Mùi Tháng Quý Sửu

Ngày Cánh Tý Giờ Đinh Hợi

Hàn Kim hỉ Hoả, đáng tiếc địa chi Hợi Tý Sửu hội thành Thuỷ cục, can tháng Quý Thuỷ khắc can năm Đinh Hoả, Quý Thuỷ trong chi tháng Sửu xung diệt dư khí Đinh Hoả trong Mùi, mà can giờ Đinh Hoả lại do hư thoát vô căn nên không đủ để dùng, hơn nữa ngũ hành tứ trụ thiếu Mộc, cho nên Mùi đủ sức làm sống lại Đinh Hoả mà quản chế Canh Kim. Do vậy, ngày sinh Canh Kim tự hành sự một mình, không đếm xỉa bị Đinh Hoả quản thúc thuộc loại đàn bà thuỷ tính dương hoa.

18. Hợp đa dâm lạm

Ví dụ

Năm Đinh Sửu Tháng Nhâm Tý

Ngày Tân Tỵ Giờ Bính Thân

Mệnh này, can tháng Nhâm Thuỷ hợp với can năm Đinh sát, can giờ Bính Hỏa đắc lộc ở Tỵ cho nên thân gia đình dòng dõi, đẹp mà khéo, người ta đều gọi bà là “Thái Dương Phi”. Xem cả cuộc đời bà khi 4-5 tuổi xinh đẹp khác thường, cho đến 13-14 tuổi đẹp như người trong tranh, năm 18 tuổi kết vợ chồng với một thư sinh, anh chàng này bình thưòng chăm chỉ học hành nhưng sau khi kết hôn yêu đương đắm đuôi, một năm sau bỏ học, mà cuối cùng mắc bệnh lao mà chết. Sau khi chồng chết, người đàn bà này càng tự do phóng khoáng, cuối cùng thân bại danh liệt, không nơi nương tựa mà đi đến bước đường cùng tự vẫn. Phân tích nữ mệnh này, trong mệnh cục này thiên can địa chi hợp lại quá nhiều, cho nên Nhậm Thiết Tiêu nói: trong thập can của chồng, duy Bính Tân hợp dùng quan hoá thương quan, gọi là tham hợp vong Quan và Tỵ Thân hợp cũng hoá Thương quan, Đinh Nhâm hợp thì ngầm hoá tài tinh, ý là đem Bính Nhâm Hoả đặt ra ngoài muôn đứng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống hồ can chi đều hợp, nên không phải là ý trung nhân. Nhà mệnh lý học cận đại, Viên Thụ Sách là người nổi tiếng đã soạn ra cuốn mệnh lý tham nguyên. Trong quyển 7 bộ sách có ghi hai nữ mệnh mà ông đã đoán, có thể dùng để nghiên cứu nhằm phê phán.

19. Đoán cho bà X

Năm Ất Hợi Tháng Bính Tuất

Ngày Mậu Ngọ Giờ Nhâm Tuất

An mệnh Ất Mậu

5 Đinh Hợi 15 Mậu Tý

25 Kỷ Sửu 35 Canh Dần

45 Tân Mão 55 Nhâm Thìn

65 Quý Tỵ 75 Giáp Ngọ

Ngày sinh Mậu Thổ, lấy can năm Ất Mộc làm phù tinh, lây chi Tuất Canh Kim là Tử tinh. Đang vào mùa thu, Mộc rụng Kim tàng nên phu tinh không vượng, tử tinh không nhiều, nhưng được mệnh cung Ât Dậu trợ giúp cho hai tinh cha con, vẫn làm cho bố con cùng thịnh, huống hồ can giờ Nhâm Thuỷ lại sinh ra Ất Mộc sao? Nếu mệnh mà phu tinh phối với Thuỷ Mộc tương đối nhiều thì nhuần hoà, 3-4 con nối dõi, chỉ hiềm dương nhận hội hợp, không tránh được lao tâm vất vả. Trước 30 tuổi, bực dọc không yên. 10 năm gần đây, hỉ khí đầy nhà, con cái vây quanh. 41 tuổi giao Dần vận, tam hợp hóa Hoả, không thể không táo Thổ, huyết bệnh ở phế gan, cần phải đề phòng, về sau ngoài 44 tuổi Mậu Ngọ, 47 tuổi Tân Dậu bị tổn thương ra, đến 60 tuổi đều mạnh khoẻ như ý, thọ ngoài lục thập hoa giáp.

20. Đoán cho người đàn bà đẹp

Năm Đinh Sửu Tháng Tỵ Dậu

Ngày Mậu Tý Giờ Bính Thìn

An mệnh Giáp Thìn

9 Canh Tuất 19 Tân Hợi

29 Nhâm Tý 39 Quý Sửu

49 Giáp Dần 59 Ất Mão

69 Bính Thìn 79 Đinh Tỵ

Mậu Thổ lấy chi Thìn Ất Mộc làm phù tinh, lấy Tân Kim của Dậu làm tử tinh, giờ Mộc ở mộ địa mà đắc mệnh quan Giáp Thìn trợ giúp, Kim được hợp với năm sửu, tựa như phu vinh tử thịnh vây, nào biết Giáp ở mệnh cùng cũng Kỷ của can tháng hoá Thổ, Tỵ mất tác dụng của Mộc, Sửu Dậu hợp Kim, là kẻ thù của Mộc, không thể coi là con được. Vì vậy chồng khó thọ đến già, con khó thành đạt, trước 23 tuổi còn được, 24 tuổi được đại vận Tân Kim, lưu niên Canh Kim cùng đến đánh phá Giáp Ất, làm Mộc khô mục, chồng bị chết, con không ngăn mà đến. May là ngày sinh Thổ dày, thắng được Thuỷ vận, con người vững như vàng đá, chịu mọi phong sương. Đức hạnh được truyền tụng trong làng xóm, danh nêu trong ấp, đáng trọng đáng kính, thọ ngoài sáu mươi.

Khi xem nữ mệnh thì khác với nam, kẻ phú quý một đời quan tụ, kể thuần tuý tứ trụ hưu tù, nếu đục tràn ngũ hành xung vượng, kẻ mỵ dâm quan sát đan nhau, không quan đa hợp đó là bất lương. Các trụ sát nhiều, không là khắc chế. Ấn thụ nhiều thì già không con, thương quan vượng còn trẻ mất chồng, tứ trụ không thấy phu tinh, không là trinh khiết, ngũ hành nhiều gặp Tý chiếu (chỉ thực thần nhiều) khó tránh hoang dâm, thực thần một ngôi phùng sinh vượng, bảo con đến bái thánh minh, quan sát không tạp gặp ấn phù, lấy chồng sẽ gặp hội thanh vân. Giữ phòng lạnh mà trinh khiết, Kim Trư Mộc hổ (chỉ ngày Tân Hợi, Giáp Dần) tương phùng (hai ngày này tuy khắc phu mà thủ chính), nhà không ngủ một mình, Thổ hầu Hoả Xà (chỉ ngày Mậu Thân, Đinh Tỵ) gặp nhau (hai ngày này khắc phu bất chính). Tài vượng sinh quan, phù thực vô thương mà phu vinh tử quý, quan thực lộc vượng nhất ấn hữu trợ mà sau được sủng ái. Thương quan lặp lại không tài ấn, nhà bại hình phu, quan sát trùng phùng gặp tam hợp, hoang dâm vô sỉ. Hợp nhiều, quan nặng là người tham dâm hiếu sắc. Quan tạp khí suy, thê thiếp ham dục tội chồng. Thân vượng quan hung, không ni cô thì là con hát tôi đòi, thực thần biến đức, trước nghèo hèn mà sau vinh hoa, ngoài ra, lúc xem đoán mệnh còn có một cách nói khắc phu nhảm khí. Dầu tiên, phàm nữ mệnh, ngày sinh ở quan, quỷ, tử, mộ, tuyệt, chủ khắc phu, ví như nữ mệnh sinh ngày Bính Tuất, Canh Tý, tra thiên Ngũ hành Vượng, Tưóng, Hưu, Tù, Tử và 12 cung nói ở trên, Bính gặp Tuất ở trạng thái đúng vào chỗ cuối của đời người mà quy mộ, mà Canh gặp Tý lại ở vào trạng thái đúng vào lúc vạn vật chết, vì vậy đều có thể tìm chồng. Nhưng cũng có người cho rằng, nữ mệnh sinh ngày Tân Mão, tuy phùng tuyệt địa, thì lại đẹp nhiều xấu ít, như vậy khó lòng mà nói khái quát được.

Hơn nữa, nữ mệnh, năm sinh ngày sinh cùng một ngôi thì khắc phu. Năm sinh ngày sinh đái lục Giáp, gọi là đái Giáp, chủ khắc phu, ngày và tháng cùng đái Giáp cũng vậy. Lấy ví dụ nói, nếu nữ mệnh sinh vào năm Giáp Ngọ lại gặp ngày sinh cũng là Giáp Ngọ, thế thì không thể không khắc phu. Dĩ nhiên, đây đều là cách nói không có căn cứ, không đứng vững được, không cần tin.

Điều thú vị là, trong sách đoán mệnh còn có nhiêu ca quyết đoán phụ nữ mang thai, sinh con trai hoặc sinh con gái trong tam mệnh thông hội ghi.

Bảy bảy bốn chín hỏi cô ngày nào có

Trừ năm sinh của mẹ, lẻ là nam chẵn là nữ

Chẵn là nam không bình thường

Thọ mệnh chẳng lâu dài.

Căn cứ bài ca quyết này, lấy 49 làm cơ số, nếu tuổi mẹ là 31 (theo tuổi mụ), tháng mang thai theo âm lịch là tháng giêng, thế thì lúc tính 49+1 (tháng giêng) bằng 50-31 bằng 19, 19 thuộc số lẻ, cho nên con trai. Nếu tính ra số lẻ sinh con trai, số chẵn sinh con gái, nhưng kết quả sinh ra, số lẻ sinh con gái, số chẵn sinh con trai, như vậy trái ngược, thọ mệnh không dài mà chết yểu. Nhưng có điều làm người ta nghi hoặc không hiểu được là, có sách lại đem tuổi mẹ cộng với 19 thế thì ngược hẳn với cách tính mang thai của tam mệnh thông hội.

Nguồn: Quang Tuệ

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách xem mệnh nữ theo tứ trụ

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Sao Vũ Khúc đắc địa, miếu địa, vượng địa hay đắc địa là người thông minh và có chí lớn, có tài tổ chức và óc kinh doanh, quả quyết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Đặc tính của sao Vũ Khúc

Tìm hiểu về đặc tính của sao Vũ Khúc trong tử vi

Tên sao Đẩu phận Âm dương ngũ hành Hóa Chủ Tứ hóa
Vũ khúc Bắc đẩu (thứ 6) Âm kim Tài Tài bạch Giáp: Khoa - Kỉ: Lộc - Canh: Quyền - Nhâm: Kị

Thuộc tính ngũ hành của sao Vũ khúc là âm kim, là ngôi sao thứ sáu trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là tài chủ cung Tài bạch. Sao chính tài Vũ khúc nếu nhập đất tài (tức cung Tài bạch), chủ về vượng tiền tài, có tài quản lý tiền của. Nếu nằm đồng cung với Thiên đồng chủ về sống thọ.

Sao Vũ khúc đồng thời cũng là sao Quả Tú chủ về cô quả neo đơn, nếu nhập cung lục thân, dễ vô duyên với thân thích, trở nên cô độc lẻ loi.

Sao Vũ khúc ưa thích đồng cung với sáu Cát tinh, vì có thể tăng cường sức mạnh cho sao Vũ khúc. Sao Vũ khúc cũng ưa gặp các sao tam hóa Lộc Quyền Khoa để tăng cường độ sáng. Nếu Vũ khúc đồng cung với Hỏa tinh, Hóa Kị, Cô thần, Quả tú, thì tự nó sẽ có sự biến đổi rất lớn về tính chất.

Sao Vũ khúc ưa nằm đồng cung, hoặc ở vị trí xung chiếu với một trong ba sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, cùng 4 sao Hóa. Đó là bởi vì các sao Sát Phá Tham chủ về biến hóa, nếu có thêm sao Vũ khúc, cộng thêm sự nhạy cảm của sao Vũ khúc với 4 sao Hóa, sẽ đem lại sức mạnh đặc biệt không thể xem nhẹ.

Sao Vũ khúc ngũ hành thuộc âm kim, tại trời chủ về tuổi thọ, tại số chủ về tiền tài, kị bị khắc chế, kị nhập hãm địa, ưa thích gặp sao Lộc tồn để cùng cai trị, ưa gặp sao Thái dương để cùng nắm quyền, cầu gặp Thiên phủ, Tham lang để được trợ giúp. Các cung Tài bạch, Điền trạch là vị trí thích hợp của sao Vũ khúc.  

Nếu gặp ác sát hao kiếp tại cung Chấn (Mão địa) dễ bị cây đè sét đánh. Nếu gặp Phá quân, Tham lang tại cung Khảm (Tý địa) sẽ gặp họa chết đuối nhảy sông [ Vũ khúc đồng độ Thiên phủ cư Tý nhập Thiên bàn, Địa bàn có Phá quân hoặc Tham lang trấn thủ Khảm cung - kiểm ]. Nếu gặp Lộc Mã chủ về phát tài nơi tha hương. Nếu cùng đồng cung với Tham lang chủ về tuổi trẻ bất lợi, tức Vũ khúc thủ mệnh phúc phi khinh. Tham lang bất phát thiếu niên nhân (Vũ khúc tại mệnh phúc không nhỏ. Tham lang không phất kẻ thiếu niên). Nếu đồng cung với Đào hoa miếu vượng là kẻ ích kỷ hại nhân, bủn xỉn keo kiệt. Nếu đồng cung với Thất sát lại gặp thêm Hỏa tinh thì dễ bị cướp bóc tiền của. Nếu gặp Kình dương Đà la chủ về cô độc xung khắc. Gặp Phá quân khó hiển quý (của đến tay lại sạch không). Khi gặp hai hạn, chắc chắn sẽ gặp vạ thị phi.

Sao Vũ khúc nhập miếu thủ mệnh tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi mà năm sinh lại là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, sẽ hình thành cách Tướng tinh đắc địa nếu theo nghiệp võ sẽ có thành tựu xuất chúng (Vũ khúc nhập Sửu Mùi cũng là cách Tham Vũ đồng hành, người trẻ tuổi bất lợi, phát đạt muộn sẽ cát lợi). Sao Liêm trinh tọa mệnh, cung Quan lộc ắt sẽ có sao Vũ khúc, nếu lại có sao Văn xương, Văn khúc tại cung vị tam phương hội chiếu, sẽ hình thành cách Liêm trinh Văn Khúc chủ về văn võ song toàn. Cung mệnh đóng tại Tị Hợi, có sao Mệnh Mã tọa thủ, hai cung bên cạnh có Vũ khúc và Lộc tồn (Hóa Lộc) kèm mệnh, hình thành cách Tài Lộc giáp Mã, chủ về tiền của dồi dào, càng động càng sinh tài. Nếu sao Vũ khúc cung Mệnh Mã, Thiên tướng cùng trấn cung mệnh tại Dần Thân, sẽ thành cách Tài Ấn tọa Mã, chủ về danh lợi song toàn, giàu sang vẹn toàn.

Ca quyết:

Vũ khúc ti tài thọ; tối hỷ tài bạch cung

Bình hãm sân tai ách; Liêm Trinh hỏa tắc xung

Phá Quân nãi kì chế; Liêm Trinh Hỏa tắc cung

Kình Dương Đà đồng độ họa; Giáp kỉ diệc bất vinh

Thủ mệnh tam vô sát; Y túc thực phong long

Dữ cát cộng trị thê; nhân phụ thành phú ông.

Nghĩa là:

Vũ khúc quản tài lộc tuổi thọ; thích nhất ở cung tài bạch

Bình, hãm gặp tai ách; Kị gặp Sát, Kiếp, Không

Phá Quân kiềm chế nó; Liêm Trinh Hỏa hình xung

Gặp Kình, Đà có họa; Giáp kỉ cũng chẳng vinh

Thủ mệnh không gặp sát; y thực đầy đủ dư giả

Tại cung thê gặp cát; nhờ vợ thành phú ông


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Vũ Khúc

Bí ẩn bóng ma tóc dài chuyên rượt "ô tô" đi đêm ở Hà Nội

Vừa qua trên mạng xuất hiện clip “Rùng rợn clip gặp ma giữa đêm tại Hà Nội”, được ghi lại bằng camera hành trình của ô tô.
Bí ẩn bóng ma tóc dài chuyên rượt "ô tô" đi đêm ở Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bi an bong ma toc dai chuyen ruot o to di dem o Ha Noi hinh anh
 
Tầm 1h sáng, nhà báo P. đang trên đường chở vợ về nhà thì gặp một “bóng ma” đội mũ xanh, áo trắng, tóc xõa, ướt lút thút, phủ một lớp gì lòa xòa trên thân thể. “Bóng trắng bí ẩn” còn gào thét kinh hoàng và chạy theo xe cả một đoạn dài…

Bóng trắng bí ẩn đi vất vưởng trong đêm   Theo clip, một người đàn ông lái xe ô tô với tốc độ 60km/h trên khu vực đường vắng, giữa đêm khuya ở xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội bỗng… gặp “ma”.    Cụ thể, anh ta đang lái xe và rủ rỉ nói chuyện với một người phụ nữ, dường như có cả tiếng trẻ con trong xe (chắc là một gia đình), thì bỗng dưng có bóng dáng “hình như là người” xõa tóc, quần áo rộng và trắng toát… “Bóng trắng” đi chệnh choạng ngược chiều, đi như xiêu đổ vào mũi xe ô tô.    Tiếng người đàn ông lái xe thốt lên, người phụ nữ trong xe thì rú lên sợ hãi. Tiếp theo là tiếng trấn an của người đàn ông, ý rằng nếu để em lái xe và em rú lên thế thì gây tai nạn rồi. Clip trên vừa được “đẩy” lên mạng thì đã nhận được sự quan tâm rất lớn của dư luận.    Có nhiều người còn chia sẻ rằng họ cũng đã nhiều lần nhìn thấy bóng trắng tương tự, vất vưởng đi và nói lảm nhảm, có khi gào khóc ở khu vực đó.    Trước đó một ngày, nhà báo D.P, một người có 20 năm kinh nghiệm làm báo và đang là lãnh đạo một tờ báo ở Hà Nội cũng lái chiếc xe Ford Focus đưa vợ về nhà giữa lúc 1h sáng.    Dọc đường nhựa ven kênh xả khu vực Yên Sở vào xã Yên Mỹ, nhà báo P. cũng gặp “bóng ma” tương tự, cũng áo trắng. Nhưng lần này “bóng ma” còn gào thét kinh hoàng và chạy theo xe cả một đoạn dài. Anh P. cùng vợ đã rất hoảng hốt và vào trụ sở Công an xã Yên Mỹ để trình báo.    Công an sở tại đã xác nhận với PV chuyện này và kể rằng, họ còn cùng anh P. đi ra hiện trường.   Đâu là sự thật về “bóng ma” sinh động, rõ ràng, cụ thể với cả video kèm theo đó? Trên mạng có hai luồng dư luận: Có thể ai đó bịa ra để câu like (lượt thích)? Có thể là bóng ma thật sự hay một cái gì đó dễ làm người ta liên tưởng đến ma tà?    Nhiều trang mạng đặt vấn đề: Hay bóng trắng lay động lao về phía ô tô trong clip kia chỉ là một tấm bìa các-tông trắng mà ai đó vô tình dựng lên rồi “rơi vào tầm ghi hình của ô tô” lúc đêm khuya thanh vắng?    Việc này khó xảy ra, vì “bóng trắng” bước đi rất sinh động, lao vào đầu xe, phản ứng của người trong xe cũng rất thực tế, từng cung bậc, người lái xe rất bản lĩnh, không có chuyện “thần hồn nát thần tính”.    Liệu có việc bịa tạc của những người thích đùa? Không. Vì theo các thông tin trên mạng, người đàn ông lái xe và ghi hình ma bằng camera hành trình tên là T.X.Q. Anh Q. không lý giải clip của mình theo hướng ma tà, mà anh nhận định cái “bóng trắng” đi “thất tha thất thểu, quần áo trắng tinh, đi vất vưởng giữa đường” (từ ngữ nguyên văn) kia có thể là một người đang sống. Anh tỏ ra hoang mang rồi đoán rằng, nếu là người thì người này đầu óc không bình thường.    Còn anh P. thì là một nhà báo nghiêm túc, có uy tín trong xã hội, từng đoạt nhiều giải thưởng chữ nghĩa. Thậm chí “hồ sơ” về việc anh báo công an đã được Công an xã Yên Mỹ xác nhận với chúng tôi hẳn hoi. Danh sách cuộc gọi và các bức ảnh “ma” mà anh chụp vẫn còn đó.    Nhà báo P. còn kể thêm: Hôm ấy, “bóng ma” kia đội mũ xanh, áo trắng, tóc xõa, ướt lút thút, phủ một lớp gì lòa xòa trên thân thể (như cái áo mưa giấy rẻ tiền). “Bóng trắng bí ẩn” chạy theo xe ô tô gào khóc, anh P. còn kéo kính xe xuống nhìn và nghe rõ tiếng kêu thảm thiết.    Sau khi vợ anh sợ hãi “nằm bò” ra trụ sở xã khóc rồi run lẩy bẩy báo cáo tình hình “gặp ma”, anh đã gọi điện về cho người giúp việc vào lúc 1h sáng để hỏi tin tức các con nhỏ của mình. Anh không tin trên đời lại có ma, nhưng anh sợ “bóng trắng” ấy đến nhà mình thì các cháu sẽ sợ chết khiếp, bị ám ảnh suốt đời.   Thật bất ngờ, người giúp việc đã ở với nhà anh hơn 10 năm, qua điện thoại cũng kể rằng, “bóng trắng” như là ma tà cũng đến gõ cửa, ngồi dí dị ở cổng nhà anh P. trong mưa gió và rên rỉ.    Nhà báo P. chia sẻ: “Tôi vẫn không nghĩ họ là ma. Nhưng nếu họ là người thì quá nguy hiểm. Vì mưa gió, họ đi trên kênh mương nước đầy ắp thế kia. Họ xiêu vẹo khóc lóc thế kia. Nhỡ họ rơi xuống nước chết, nhỡ xe cộ tông chết, nhỡ họ là người tâm thần họ tự giết họ hoặc giết người khác thì sao?    Tôi đi báo công an vì muốn cứu con người tội nghiệp đó. Đấy là tôi phỏng đoán thế. Tôi cũng muốn cùng các đồng chí cán bộ đi làm rõ xem cái mà tôi đã chụp, đã nghe tận tai, nhìn tận mắt, và đã bỏ chạy vì tiếng vợ tôi ôm đầu rú lên kinh khiếp kia là… cái gì!”.
Bi an bong ma toc dai chuyen ruot o to di dem o Ha Noi hinh anh 2
 
  Sự thật buốt lòng về người đàn bà xõa tóc, mặc quần áo trắng   Qua nhiều nguồn xác minh, theo dõi tài liệu trên mạng, qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp, nhận thấy vấn đề có thể sẽ không phải là thứ ma tà gì, chúng tôi quyết định trở lại xã Yên Mỹ để tìm hiểu chỗ ngọn nguồn.   Thứ nhất, khu vực Tứ Hiệp mà như clip anh T.X.Q. tải lên, vào buổi tối rất vắng, đường ngoài thực địa trùng khớp với video thể hiện. Khu vực anh P. gặp “ma” còn vắng hơn, ban ngày cũng ít bóng người chứ đừng nói lúc 0 - 1h đầy mưa gió.    Thứ hai, bóng trắng mà họ miêu tả trùng khít về hình dáng và hành vi với nhau. Chỉ có điều anh P. bị “bóng trắng” đuổi theo và gào thét nhiều hơn. Như anh P. nói là:“Bóng trắng” gào nhiều đến mức tôi chột dạ. Hay họ đang khóc cho một người vừa chết, nói dại, có thể trong đêm mưa mịt mù con họ vừa bị xe nào đó tông chết thì sao? Họ chạy theo xe tôi để tố cáo thì sao? Vì thế, tôi đã vào mời trực ban công an quay lại hiện trường”.   Theo quan sát của chúng tôi, khu vực anh P. gặp “ma” ở ven sông, bên ngoài đê. Còn khu vực anh Q. gặp “bóng trắng” là phía trong đê, gần quốc lộ 1A cũ.    Ngày 31/5/2016, PV đã trao đổi với một đồng chí cán bộ công an xã Yên Mỹ, người trực tiếp cùng nhà báo P. đi xác minh về “bóng trắng sởn tóc gáy” kia.   Vị cán bộ này kể: “Chúng tôi đã ra đoạn đường vắng đó ngay trong đêm mưa. Hóa ra cái “bóng trắng” là một người phụ nữ mặc quần áo trắng. Vì người này đi trong đêm khuya với hình dáng đó nên nhiều người tưởng là “ma”.    Đêm ấy, ban công an chúng tôi cũng đã nhận tin báo về người này. Chúng tôi xác minh thì cô ấy là Nguyễn Thị Xuân Thương, 35 tuổi, con ông Nguyễn Đức Thạch (SN 1954) ở xóm 8, Yên Mỹ. Ông Thạch này vợ mất lâu rồi, ông có 3 người con, con trai cả cũng hơi chậm chạp, cô này là con thứ 2.    Nguyễn Thị Xuân Thương từng có chồng, sau vì có vấn đề về sức khỏe tâm thần nên cô ấy đã quay về nhà mình ở gần trạm xá xã Yên Mỹ sống. Khoảng 2-3 năm gần đây, cô ấy hay bỏ nhà đi lang thang, tóc dài để xõa, lại mặc quần áo trắng, khóc cười nhiều khi không kiểm soát được.    Cô ấy cũng hay ngồi ở cổng nhà khác “chơi”, khiến nhiều người tưởng ma đến nhà. Công an xã đã phải đến tận nơi, 'khuyên giải' bảo cô ấy đi về nhà”.   Đồng chí công an xã cũng xác nhận Nguyễn Thị Xuân Thương rất hay hét lên trong đêm, mặc quần áo trắng toát, tóc dài xõa ra nên khiến rất nhiều người sợ hãi.    “Sau hôm nhà báo P. báo công an, chúng tôi cũng có xem trên mạng cái clip xôn xao kia (ý nói clip mà ô tô của anh T.X.Q. đã ghi). Chúng tôi nhận ra, chính cô này là 'nhân vật ma' trong clip”, vị cán bộ nói.   Cũng trong ngày 31/5/2016, PV đã mua một gói quà nhỏ đến thăm hỏi gia đình ông Thạch, bố của người phụ nữ bị gọi là “bóng ma trong đêm Hà Nội”.    Và cuộc đời đau khổ cũng như hành trình “Xúy Vân ngây dại” trong đêm hoang vắng của Xuân Thương là cả một câu chuyện dài, xót xa.  
► Đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

(Còn nữa)
  Theo SKCD
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí ẩn bóng ma tóc dài chuyên rượt "ô tô" đi đêm ở Hà Nội

Những kiêng kỵ trong đám cưới của người Việt

Chẳng ai kiểm chứng hay dám khẳng định nếu không thực hiện sẽ mang lại điều rủi ro, nhưng trong quan niệm từ xưa đến nay của người Việt Nam và đặc biệt là người Miền Bắc thì những tập tục này đã đi sâu và tiềm thức. Các cụ nói "có thờ có thiêng, có kiêng có lành", vậy nên dù tin hay không thì mọi người ít nhiều cũng cố gắng thực hiện cho đúng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1, Kiêng ngày giờ xấu để đón dâu:

Trong lễ ăn hỏi, rước dâu, hay là chạm ngõ thì việc xem ngày, giờ tốt xấu là rất cần thiết. Người Việt rất kiêng kỵ việc chọn ngày và kén giờ. Nếu cưới hỏi mà vào những ngày có sao Cô thần, Quả Tú, Không phòng cô dâu sẽ cô quạnh suốt đời...Không những thế, sau khi đã chọn được ngày đẹp để đón dâu, còn phải chọn giờ Hoàng đạo để chú rể xuất phát. Sau đó đến nhà cô dâu lại cũng phải nằm trong giờ Hoàng Đạo mới được vào đón. Đón xong về đến nhà chú rể lại phải chờ giờ Hoàng Đạo mới được vào nhà.

2, Kiêng chuẩn bị bàn thờ gia tiên sơ sài:

Trước giờ đón dâu, cả gia đình nhà trai và nhà gái đều phải chuẩn bị một mâm cỗ cúng gia tiên bao gồm các vật phẩm tối thiểu như gà luộc, xôi, rượu, hoa quả, vàng mã đặt trên bàn thờ. Bàn thờ tổ tiên cũng chính là thể hiện sự chu đáo của gia đình mỗi nhà nên đa số các bậc phụ huynh đều riêng việc chuẩn bị sơ sài mà phải lo liệu chu đáo, để tới giờ đón dâu, cô dâu chú rể sẽ cùng bố mẹ hai bên cùng thắp hương trên bàn thờ báo cáo với tổ tiên.

 

3, Kiêng mẹ chồng đi đón con dâu:

Trong phong tục cưới miền Bắc, mẹ chồng không được góp mặt trong lễ đón dâu. Trước đó, mẹ chú rể chỉ được cùng một người họ hàng thân cận nhất tới nhà cô dâu, làm lễ xin dâu. Sau đó khi đoàn nhà trai tới đón dâu, mẹ chồng phải tránh mặt không được đi cùng. Người ta cho rằng để sau này mối quan hệ mẹ chồng con dâu không bị mâu thuẫn thì tốt nhất mẹ chồng không nên đi đón nàng dâu

4, Kiêng những người gia đình không hạnh phúc, những người không thuận trong cuộc sống đi đón dâu:

Những người gia đình chỉ còn vợ hoặc chồng( đã chết) hoặc những người lấy nhau xong những mãi không có con, con hiếm muộn. Hoặc những người gia đình không hạnh phúc, hay cãi vã đều không nên đi đón dâu. Người ta sợ dớp của những người này nên đều muốn kiêng kỵ những điều tốt nhất cho đôi trai gái.

5, Kiêng cô dâu khóc hoặc ngoái lại nhà mẹ đẻ:

Khi chú rể đã hoàn thành nghi lễ, đón cô dâu theo chồng về nhà trai, cô dâu phải hướng thẳng mặt, đi thẳng về phía trước, không được ngoái lại nhìn hay có thái độ quyến luyến, khóc lóc không muốn chia tay gia đình nhà mẹ đẻ. Rất nhiều gia đình kiêng việc này bởi họ cho rằng con dâu đã theo chồng mà còn vương vấn gia đình thì sau này sẽ sớm bỏ chồng về nhà mẹ đẻ hoặc không chu toàn với công việc nhà chồng

6, Kiêng để mẹ đẻ đưa con gái về nhà chồng

Thông thường, sau khi gia đình nhà trai làm lễ đón dâu, cô dâu mới sẽ theo chồng về nhà. Lúc này, mẹ đẻ không được đưa con gái về nhà chồng mà chỉ có bố cô dâu, cùng các bậc cao tuổi trong nhà đưa con gái lên đường về làm dâu.

7. Cô dâu không được xuất hiện cho đến khi chú rể vào đón:

Vào ngày đón dâu, tân nương sẽ phải ngồi trong phòng, đóng kín cửa và không được ló mặt ra ngoài cho tới khi chú rể bước vào, tặng hoa cưới và đón cô dâu ra chào họ hàng. Nhiều gia đình kiêng không để cô dâu xuất hiện sớm vì cho rằng nếu gia đình nhà trai thấy mặt cô dâu trước chú rể, tân nương sẽ mất duyên và không còn được coi trọng sau đám cưới.

8, Kiêng không để cô dâu có bầu đi vào nhà từ cửa chính

Cô dâu đang mang bầu thì khi về nhà chồng không được danh chính ngôn thuận đi vào từ cửa chính mà phải đi vòng ra cửa sau để vào. Trường hợp nhà không có cửa hậu, cô dâu sẽ phải bước qua một chiếc chậu bồ kết nướng với than hồng, hàm ý xua đi điều xui vẻ. Một số nơi giải thích rằng cô dâu có bầu mà đi về nhà chồng bừng cửa trước sẽ làm cho nhà trai sau này không ăn nên làm ra.

9, Mang theo tiền lẻ, gạo muối để rải dọc đường:

Khi đón dâu đi qua các cây cầu, ngã 3 ngã 5, ngã 7 cô dâu phải vứt gạo muối, tiền lẻ xuống. Phong tục này hàm ý, đoạn đường sắp tới của đôi uyên ương sẽ luôn suôn sẻ, giàu sang.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những kiêng kỵ trong đám cưới của người Việt

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 3)

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 3). thảo luận các sao, các cách tốt hóa giải vận hạn trong lá số tử vi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 3)

Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 3)

3. Họa cho nghề nghiệp:

a. Cách chức, thôi việc:

Tuần, Triệt ở cung Quan: trắc trở cho quan trường bằng nhiều hình thái: chậm công danh, công danh vất vả, thấp kém, không bền vững, thăng giáng thất thường. Sao Triệt báo hiệu sự gãy đổ ít nhất một lần trong sự nghiệp. Sao Tuần tác họa nhẹ hơn nhưng lâu dài hơn. Gặp cả Tuần, Triệt đồng cung thì tai họa nghề nghiệp vừa nặng, vừa nhiều. Tuy nhiên:

– Tuần, Triệt gặp Âm, Dương ở Sửu, Mùi thi không phá mà làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hãm tối hay bại tinh mờ ám cũng làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa thì bất lợi cho chức vụ rất nhiều như chậm quan, chóng tàn, gặp hung họa, thăng giáng thất thường. Nếu tám sao trên mà hãm địa thì khá hơn, tức là gặp khó khăn, thất thường trong việc thăng tiến nhưng tựu chung có chức vị khá lớn, nhất là về sau.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa cũng còn đỡ khổ, không đáng lo ngại về sự thăng giáng hay gãy đổ sự nghiệp. Nếu hãm địa thì lại đẹp: công danh bộc phát mạnh mẽ.

Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.

Thin Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.

Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.

Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa ...

Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương ...

Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.

b. Đè nén, đố kỵ

Phục Binh: điển hình cho sự hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, sự đố kỵ, ghen ghét giữa đồng nghiệp hay giữa mình với cấp chỉ huy. Phục Binh còn có nghĩa âm mưu, kết bè, kết phái để đào thải, loại trừ đối thủ, có khi tổ chức phục kích, ám sát, thanh toán hoặc gài đương sự vào chỗ chết, chỗ kẹt, chỗ bị án, bị tù, bị quy trách. Thông thường, Phục Binh hay sử dụng mánh lới, thủ đoạn bất chính và bí mật để phá hoại đồng nghiệp, có khi liên kết với tòng phạm, bè cánh, tổ chức. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật đi kèm thì nạn nhân phải chạm trán với cả một hệ thống chằng chịt bao gồm nhiều tay sai ở nhiều ngõ ngách, muốn khiếu nại cũng không được như ý, nhiều khi chẳng đi đến đâu.

Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.

Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.

Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.

Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.

Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.

Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.

Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.

c. Bất dụng, sai dụng, thiểu dụng:

Lực Sỹ, Kình Dương: tượng trưng cho sự bỏ quên, việc ngồi chơi xơi nước, việc nghỉ giả hạn. Lực Sỹ chỉ tài năng, sự tháo vát, linh hoạt, lanh lợi đồng thời cũng ám chỉ thành tích, công lao, chiến tích. Kình Dương chỉ sự ngăn cản, trở lực, trục trặc trong công danh. Cả hai hội ý chỉ sự thi thố không hết mức tài năng, sự đãi ngộ bất xứng với thành tích, sự thiểu dụng, từ đó nảy sinh sự bất mãn, bất đắc chí. Kình Lực không nhất thiết ngụ ý người có tài mà lắm khi ngụ ý người tự cho rằng mình có tài, vì bị bạc đãi nên bất mãn. Kình Lực đôi khi chỉ tham vọng, sự cậy tài, sự ỷ lại quá đáng làm cho quần chúng ghét bỏ, xa lánh.

Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải ...

Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.

Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.

Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội.

Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa ...


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách giải họa và các sao hóa giải (phần 3)

Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Ngày đưa lên mạng: 1-2-2003 Cử nhân Kinh tế: Dương Kiện Toàn (Saigon, Việt Nam) KINH DỊCH - KHẢ NĂNG PHÁT HIỆN Tác giả giữ bản quyền. Tout droits réservés. All rights reserved. Mọi trích dịch vui lòng ghi tên tác giả. Rất cám ơn !
Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ở bài này tôi sử dụng một số qui luật trong Chu Dịch để phát hiện sự tồn tại của 3 giác quan mà khoa học ngày nay vẫn chưa rõ.

Năng lực Ngoại Cảm chỉ những trường hợp xảy ra ở những cá nhân có khả năng cảm nhận sự việc, hiện tượng không bằng năng lực của 5 giác quan thông thường. Liệu ngoài các chức năng mà chúng ta đã biết rõ về 5 giác quan còn có chức năng nào khác chưa biết ? Hoặc có tồn tại giác quan khác ? Hiện nay, các ý kiến nghiêng về hướng thứ hai. Giác quan chưa biết ấy được gọi chung là giác quan thứ sáu. Được gọi chung là bởi cho đến nay vẫn chưa xác định được bao nhiêu giác quan chúng ta chưa biết đến…..Chúng là những giác quan nào ? Bao nhiêu giác quan ? Chúng mang những chức năng gì ? Cơ chế hoạt động ra sao ? Cơ quan của các giác quan này nằm ở đâu ?

Chu Dịch bằng lối đi riêng đã phát hiện cơ thể con người có 8 giác quan. Tôi trình bày như sau:
Chu Dịch có 8 quẻ ghi nhận 8 hình thái vận động thuần nhất: Thuần Chấn, Thuần Tốn, Thuần Ly, Thuần Khôn, Thuần Đoài, Thuần Càn, Thuần Khảm, Thuần Cấn.
Mỗi hình thái thuần nhất mang cấu trúc đặc biệt: Là 2 đồ hình cơ bản giống nhau và chồng lên nhau.
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _
_ _ ___ ___ _ _ _ _ ___ _ _ ___
_ _ ___ _ _ _ _ ___ ___ ___ _ _
___ _ _ ___ _ _ ___ ___ _ _ _ _


8 hình thái này là 8 hình thái thuần nhất của Chu Dịch.
Ta xét hình thái thuần nhất trong phạm trù giác quan. Có 8 hình thái thuần nhất thuần nhất tương ứng có 8 giác quan. Chu Dịch mô tả 5 giác quan đã biết & 3 giác quan chưa biết như sau :

5 giác quan đã biết :
1. Thuần Ly: Quẻ mô tả vật chất sáng. Để cảm nhận vật chất sáng có cơ quan thụ cảm vật chất sáng, Thị giác.
2. Thuần Chấn: Quẻ mô tả vật chất lan toả. Để cảm nhận vật chất lan toả có cơ quan thụ cảm vật chất lan toả, Khứu giác.
3. Thuần Tốn: Quẻ mô tả vật chất chuyển động. Để cảm nhận vật chất chuyển động có cơ quan thụ cảm vật chất chuyển động, Xúc giác.
4. Thuần Cấn: Quẻ mô tả vật chất ngưng tụ. Để cảm nhận vật chất ngưng tụ có cơ quan thụ cảm vật chất ngưng tụ, Vị giác.
5. Thuần Đoài: Quẻ mô tả vật chất gây tiếng động. Để cảm nhận vật chất gây tiếng động có cơ quan thụ cảm vật chất gây tiếng động, Thính giác
3 giác quan chưa biết :

6. Thuần Càn: Quẻ mô tả vật chất khởi sinh. Để cảm nhận vật chất khởi sinh có cơ quan thụ cảm sự khởi sinh. Tôi gọi tên Khởi giác.
7. Thuần Khôn: Quẻ mô tả vật chất sao chép. Để cảm nhận vật chất sao chép có cơ quan thụ cảm vật chất sao chép. Tôi gọi tên Tái tạo giác.
8. Thuần Khảm: Quẻ mô tả vật chất tối. Để cảm nhận vật chất tối có cơ quan thụ cảm vật chất tối. Tôi gọi tên Liễm giác

Tôi đã xác định tính thụ cảm Ý thức – Vô thức của ba giác quan 6,7,8 như thế nào ?

Xem xét qui luật vận động thụ cảm trong cặp phạm trù thụ cảm Ý thức – Vô thức:
* Thuần Ly, Thuần Tốn, Thuần Đoài, Thuần Cấn, Thuần Chấn các hào từ mô tả hình thái vận động có điểm chung là: Vận động thụ cảm bên ngoài, vận động bề nổi _ Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, các giác quan là hoạt động thụ cảm Ý thức.
* Thuần Khôn vận động thụ cảm sao chép kín đáo ngay ở hào 1 cho đến hào 5. Chỉ xuất hiện ở hào 6 & 7 dưới hình thức sử dụng. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Tái tạo giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Khảm vận động thụ cảm “Bị nhốt” từ hào 1 đến hào 6. Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Vô thức. Suy ra, giác quan Liễm giác hoạt động thụ cảm Vô thức.
* Thuần Càn vận động thụ cảm khởi động đi đầu từ hào 2 đến hào 7, chỉ có hào 1 là chìm bât bất động (Ở ẩn) Vậy ta có phạm trù tương ứng là thụ cảm Ý thức. Suy ra, giác quan Khởi giác hoạt động thụ cảm Ý thức.
Và xác định chức năng của 3 giác quan 6,7,8
Tôi xem xét chức năng các giác quan qua Thoán từ, Hào từ & mối liên hệ giữa các hình thái:
* Thuần Khôn là hình thái Sao chép. Nó vận động theo qui luật Sao chép các sự vật & hiện tượng. Tái tạo giác hoạt động theo qui luật vận động của hình thái Thuần Khôn, tức là, Tái tạo giác hoạt động thụ cảm sao chép các sự vật & hiện tượng.
* Thuần Càn là hình thái Đầu tiên. Nó vận động theo qui luật Đầu tiên của các sự vật & hiện tượng như sau:

Hào 1 : vận động tích luỹ.
Hào 2,3 & 4 : vận động tiếp thu.
Hào 5,6 : vận động phóng xuất.
Hào 7 : vận động thoát dương.

Khởi giác hoạt động thụ cảm theo qui luật vận động của hình thái Thuần Càn, tức là, Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất “Cái” đầu tiên của sự vật & hiện tượng. “Cái” đầu tiên ấy trong hoạt động trí não khi giao tiếp chính là suy nghĩ. Vậy: Khởi giác hoạt động thụ cảm tiếp nhận & phóng xuất suy nghĩ.
Vận động tích luỹ nằm trong hoạt động thụ cảm phóng xuất.
Còn Thoát dương ?
Hào thứ 7 được biểu thị: toàn bộ 6 hào dương biến sang 6 hào âm, nên tôi gọi đây là sự vận động thoát dương. Tức là sự vận động thoát dương của suy nghĩ. Thoát dương như thế nào?

Ta xem lời hào 7: “Đang ở một không gian khác. Trong không gian ấy, họ nhìn thấy ta, nhưng ta thì không nhìn thấy họ”
Vậy ta có: Khi hoạt động của giác quan này đạt đến độ thoát dương sẽ “Nhìn” thấy sự vật & hiện tượng ở một không gian khác.
* Thuần Khảm là hình thái “Nhốt” . Nó vận động theo qui luật “Nhốt” sự vật & hiện tượng. Để biết giác quan này nhốt cái gì ta xem xét mối liên hệ giữa 2 hình thái: Thuần Khảm & Thuần Ly.

Thuần Khảm là hình thái ngược của hình thái Thuần Ly. Thuần Ly mô tả sự vật & hiện tượng sáng, ngược lại, Thuần Khảm mô tả sự vật & hiện tượng tối.
Ta xem xét sự vật & hiện tượng trong cặp phạm trù: Năng lượng sáng & Năng lượng tối.

Thị giác (Thuần Ly) tiếp nhận & phản chiếu ánh sáng từ vật thể phát hoặc phản chiếu năng lượng sáng. Ngược lại, Liễm giác tiếp nhận rồi nhốt luôn năng lượng tối.
Vậy ta có: Liễm giác hoạt động thụ cảm bằng việc hấp thu năng lượng tối.

LỜI BÀN
1. Bằng Chu Dịch tôi xác định được sự tồn tại một dạng vật chất đặc biệt, vật chất tối cùng với nó là năng lượng tối. Ở thế kỷ trước, Einstein đã đưa ra giả thuyết về vật chất tối & năng lượng tối để giải thích cho các tính toán mà các phương trình vũ trụ phải được thoả mãn. Gần đây bằng các phương tiện đo đạc, giới khoa học đã xác nhận sự tồn tại của dạng vật chất này ở cấp độ thiên văn. Lổ đen mà tôi có giới thiệu trong bài Chu Dịch với thiên văn là một dạng vật chất tối…. Theo cái cách mô tả của Thuần Khảm thì qui trình hấp thụ thức ăn trong cơ thể con người chính là qui trình vận động “Tối” tạo ra năng lượng tối. Nếu sự phỏng định này là đúng thì cần phải xem xét lại các khái niệm về sinh hoá học cơ thể.

2. Chức năng của Khởi giác do Chu Dịch cung cấp đã cho ta một ý niệm về một không gian khác, khác với không gian mà loài người chúng ta đang tồn tại. Viện hàn lâm Quốc gia Mỹ đưa ra "11 câu hỏi cuối cùng" về vũ trụ, làm định hướng nghiên cứu trong thời gian tới. Các câu hỏi này được những nhà khoa học hàng đầu của ba trung tâm nghiên cứu lớn của Mỹ phác thảo ra: Cơ quan hàng không vũ trụ, Bộ Năng lượng và Quỹ khoa học Quốc gia. Ở câu hỏi thứ 9: “Có tồn tại một hệ không gian - thời gian khác không?” Câu hỏi này được đặt ra một cách nghiêm túc xuất phát từ những thực tế nghiên cứu trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực Trường Sinh Học, Cận Tâm Lý…. Có một số người có khả năng nói chuyện với những người đã chết không phải chỉ xảy ra ở Việt Nam chúng ta khi truy tìm hài cốt liệt sỹ, mà còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Và Chu Dịch còn cung cấp cho chúng ta 1 chi tiết khá lý thú: Họ, những người tồn tại trong 1 hệ không gian - thời gian khác nhìn thấy chúng ta tương đối rõ, chúng ta thì không. Đối với chúng ta, họ vô hình.

3. Có những hiện tượng được ghi nhận là khá kỳ lạ và rất khó lý giải như một bà lão người Thổ Nhĩ Kỳ sau cú vấp té chỉ nói tiếng Hy Lạp. Tuy nhiên, như những người thân và người trong làng cùng xác nhận rằng suốt đời bà ấy chưa hề bước chân ra khỏi làng để đi đâu xa, và bà ấy không hề có quan hệ bà con với ai là người Hy Lạp. Hay gần đây nhất một người đàn ông ở Đồng Tháp sau ca mổ đã dùng giọng chuần của người Hà Nội để nói chuyện với mọi người (!?) Trong khi anh ta và cha anh ấy chưa từng một lần ra Bắc (Tin VNexpress) Chỉ có cơ quan thụ cảm Tái Tạo giác do Chu Dịch cung cấp mới có thể giải thích được những trường hợp như thế.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chu Dịch với Khả năng Ngoại cảm (1)

Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Chùa Bồng Lai tọa lạc tại thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bồng Lai còn có tên gọi khác là Chùa Hà Thạch
Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Bồng Lai tọa lạc tại thôn Hà Thạch, xã Hà Thạch, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Chùa Bồng Lai còn có tên gọi khác là Chùa Hà Thạch. Chùa được xây dựng trên một quả đồi có hình dáng một con voi. Từ đây có thể nhìn bao quát bốn phía.

Chùa Bồng Lai quay hướng Tây Nam nhìn ra sông Hồng. Đến gần chùa Bồng Lai, ngay từ đê sông Hồng ta có thể chiêm ngưỡng một hòn đảo “Bồng Lai tiên cảnh” giữa đồng lúa xanh, gần đó là nhà thờ và những nếp nhà cổ kính thấp thoáng sau những đám lá cây cổ thụ, bồng bềnh ẩn hiện giữa nền trời xanh biếc.

Lịch Sử: Tương truyền, chùa Bồng Lai được làm vào đời Trần, do ông Đỗ Nguyên Cảnh tổ chức nhân dân xây dựng. Ông Đỗ Nguyên Cảnh, một vị tướng của Trịnh Doanh, là người Hà Thạch, thấy dân làng không hoà thuận lắm bèn đem quân về đóng ở Xuân Lũng, ông cho gọi các thợ cả đến bàn bạc rồi đêm đến mới điều quân về làng tựu xà xếp cột dựng chùa, chọn hướng Thao Giang để tránh việc làng tranh cãi. Ông ra lệnh mỗi đầu xà, đầu cột đều phải đệm vải tấm để việc dựng được nhanh chóng và bí mật. Vì vậy chỉ qua một đêm. Sáng ra dân làng bỗng thấy một ngôi chùa đồ sộ như có phép thần thông biến hóa. Từ đó chùa rất được sự ái mộ của tăng ni phật tử và dân trong vùng, họ đều cho rằng chùa do trời dựng.

Kiến Trúc Chùa Bồng Lai

Chùa Bồng Lai gồm 2 toà kiến trúc hình chữ Đinh 丁. Chùa có cổng tam quan, sân chùa lát bằng gạch đỏ, bên tả sân là ngôi nhà 3 gian mới xây, bên hữu dựng hàng bia đá. Tiền đường gồm 5 gian, kết cấu kiến trúc theo kiểu quá giang gối tường bố trụ. Toà thứ hai kiến trúc thượng điện 5 gian có kết cấu vì kèo câu đầu và trụ báng chống nóc.

Thượng điện chùa Bồng Lai còn lại tương đối nguyên vẹn các thành phần kiến trúc cũ. Tất cả có 20 cột gỗ lớn nhỏ, cột cái cao 3,6 m, chu vi 1,25 m, cột con cao 2,5 m, chu vi 1,0m, thân cột được sơn son và vẽ hình rồng cuốn. Đáng chú ý là còn hai vì kèo của thế kỷ 17, lần trùng tu lớn thời Chính Hòa.

Trong chùa còn nhiều tảng kê chân cột, chất lượng bằng đá xanh mịn hạt, hình vuông mỗi cạnh 0,4 m, trên mặt trạm khắc một bông sen hai lớp, mỗi lớp 18 cánh, vòng tròn trong cùng là nơi để tiếp xúc với chân cột. Đây là những hòn kê từ lần trùng tu lớn ở thế kỷ 17.

Chiếc bệ được làm bằng đất nung duy nhất còn lại trên đất Phú Thọ được coi là nghệ thuật trang trí Phật giáo thời đại Lý Trần. Bệ được thiết kế giật cấp 3 tầng. Kết cấu bệ gồm các viên đất nung có kích cỡ khác nhau được lắp vào nhau, mỗi mặt là một khối hình trang trí nổi, tạo thành một tác phẩm nghệ thuật bệ đất nung hoàn chỉnh. Các họa tiết trang trí gồm: Hoa cúc, hoa văn cánh sen, hoa hải đường và trang trí hình con ly đang trong tư thế vờn mây. Nhìn chung đây là chiếc bệ đất nung quí hiếm còn sót lại của chùa Bồng Lai.

Chùa bồng lai
Chùa Bồng Lai được công nhận là di tích lịch sử văn hóa

Chùa Bồng Lai có hơn 200 pho tượng tròn làm bằng chất liệu gỗ và đất, kỹ thuật tạo dáng đẹp, sơn thếp hài hòa, được bài trí ở 2 tòa trên các bệ xây giật cấp cao dần về phía trong.

Các pho tượng chùa Bồng Lai đều được các nghệ nhân tạc với kỹ thuật cao, tràn đầy tâm hồn dù chất lượng bằng gỗ hay đất cũng được phủ sơn nhiều lớp, bên ngoài thếp vàng, thếp bạc cẩn thận, xứng đáng là những pho tượng có tiếng là đẹp xưa nay.

Tượng được bài trí cân đối hài hòa từ tòa tiền đường vào thượng điện. Dáng tượng đẹp, đạt tới trình độ Phật tính cao bởi nghệ thuật tạo tượng còn khá nguyên vẹn của thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18.

Chùa Bồng Lai để lại một dấu tích khang trang với quy mô bề thế bên bờ sông Hồng, phong cảnh hữu tình, đã một thời là trung tâm sinh hoạt của cư dân trong vùng. Chùa Bồng Lai đã được Bộ văn hóa thông tin cấp “Bằng công nhận di tích lịch sử – văn hóa” cấp quốc gia.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Bồng Lai - Phú Thọ

Những điều cần lưu ý về bát hương –

Đối với văn hóa thờ cúng Việt thì bát hương là món đồ không thể thiếu trên mỗi ban thờ. Đặc biệt cách đặt bát hương ban thờ có ý nghĩa quan trọng đối với thế giới tâm linh cũng như vận may, tài lộc của gia chủ . Cách đặt bát hương bàn thờ Việc đặt bá

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đối với văn hóa thờ cúng Việt thì bát hương là món đồ không thể thiếu trên mỗi ban thờ. Đặc biệt cách đặt bát hương ban thờ có ý nghĩa quan trọng đối với thế giới tâm linh cũng như vận may, tài lộc của gia chủ

.

Cách đặt bát hương bàn thờ

Việc đặt bát hương đúng căn cứ vào từng vùng miền, địa phương khác nhau. Tuy nhiên vị trí đặt 3 bát hương cần phải tuân thủ theo nguyên tắc nhất định, theo đó cách bố trí sẽ như sau:

  •  Bát hương Thờ Thần đặt ở giữa và bao giờ cũng phải to và cao hơn hai bát hương còn lại.
  •  Hai bát còn lại, bát hương bên trái thờ bà cô tổ, ông mãnh. Bát hương bên phải thờ gia tiên.
  • Giữa các bát hương cách đều nhau và người dân đồng bằng thường đặt ba bát hương trên đế Tam Sơn cùng một ban thờ.

Hướng đặt bát hương hợp phong thủy một trong những yếu tố quan trọng trong cách đặt bát hương ban thờ là hướng đặt. Hướng đặt cần hợp phong thủy và phù hợp với từng vùng miền. Theo đó bát hương thường được đặt ngay phía trước đỉnh đồng, bộ tam sự, bộ ngũ sự và dễ nhìn thấy nhất trên bàn thờ. Nhìn từ phái trước ở vị trí cũng lễ thì bát hương bà cô tổ; ông mãnh nằm ở bên trái, bên phải là bát hương gia tiên và chính giữa là thần linh.

Những lưu ý về bát hương 

Để đảm bảo mang đến may mắn, tài lộc cho gia chủ thì việc lựa chọn bát hương cũng đóng vai trò quan trọng. Bát hương tốt nhất nên lựa chọn là bát hương đồng hoặc sứ. Tránh dùng các bát hương bằng đá, bởi nó chỉ phù hợp với các đền, miếu, chùa…

Kích thước bát hương thần linh có đường kính là 20, 22 hay 24 (cm), còn hai bát hương còn lại có đường kính 18 (cm) là đẹp

Bát hương sau khi được “an ngôi, chính vị” thì phải để nguyên, không được xê dịch hay chuyển sang bên trái hoặc bên phải bàn thờ. Theo quan niệm phong thủy điều này sẽ không tốt.

Với các gia đình cúng ngày 30 kèm theo việc rút chân hương thì người rút có thể là vợ hoặc chồng hoặc nhờ người khác nhưng phải đảm bảo tay sạch sẽ, thanh tịnh. Khi rút thì rút từ từ, tránh để vương vãi tro trong bát hương ra ngoài.

Để lại chân hương trong bát phải là số lẻ và các chân hương còn lại có thể mang ra sông, hồ hoặc hóa. Nếu kệ hoặc bát hương bị kênh thì phải dùng giấy tiền hoặc vàng mã để kê, không dùng các thứ khác.

Tuyệt đối không dùng cát để thay cho tro ở trong bát hương. Theo quan niệm, việc này sẽ khiến cho gia đình lục đục, gặp những điều không may mắn. Bát hương phải được bốc bằng tro sạch, được đốt từ rơm nếp hoặc rơm tẻ sạch, sàng, lọc kỹ để bỏ đi những tạp chất.

Các cụ từ xưa đã có câu “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Việc thờ phụng cốt ở cái Tâm, có lòng thành hướng tới Tổ Tiên, làm điều thiện sẽ được phù hộ, tâm can thanh thản. Ngoài ra, chúng ta cũng cần có hiểu biết nhất định về những kiêng kị, các quy tắc,… để tiến hành thờ cúng sao cho đúng cách, và linh ứng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần lưu ý về bát hương –

Sao Thiếu Âm

Hành: Thủy Loại: Thiện Tinh Đặc Tính: Nhân hậu, từ thiện, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ. Phụ tinh. Sao thứ 4 trong 12 sao thu...
Sao Thiếu Âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hành: ThủyLoại: Thiện TinhĐặc Tính: Nhân hậu, từ thiện, giải trừ được bệnh tật, tai nạn nhỏ.
Phụ tinh. Sao thứ 4 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù.

Vị Trí Đắc Địa Của Thiếu Âm

  • Sao Thiếu Âm đắc địa theo các vị trí đắc địa của Nhật, Nguyệt tức là: Từ Thân đến Tý. Chỉ khi nào đắc địa, sao này mới có ý nghĩa. Nếu ở hãm địa thì vô dụng.
  • Đặc biệt Thiếu Dương đắc địa và đồng cung với Nhật, Thiếu Âm đắc địa và đồng cung với Nguyệt, ý nghĩa càng rực rỡ hơn, ví như mặt trời, mặt trăng đều có đôi, cùng tỏa ánh sáng song song.
  • Nếu đắc địa mà không đồng cung với Nhật, Nguyệt, chỉ hội chiếu với Nhật, Nguyệt thì cũng sáng lạn, nhưng dĩ nhiên là không sáng sủa bằng vị trí đồng cung đắc địa.
Ý Nghĩa Của Thiếu Âm
Thiếu Âm là cát tinh, nên có ý nghĩa tốt nếu đắc địa.
  • Thông minh.
  • Vui vẻ, hòa nhã, nhu.
  • Nhân hậu, từ thiện. Ý nghĩa nhân hậu này tương tự như ý nghĩa của 4 sao Long Đức, Phúc Đức, Thiên Đức, Nguyệt Đức. Do đó, nếu đi kèm với các sao này, ý nghĩa nhân đức càng thịnh hơn.
  • Giải trừ được bệnh tật, tai họa nhỏ. Giá trị cứu giải của Thiếu Âm tương đương với giá trị cứu giải của Tứ Đức. Đặc biệt là khi hội họp với Hóa Khoa, hoặc đồng cung, hoặc xung chiếu, Thiếu Âm và Thiếu Dương kết hợp thành bộ sao gia tăng phúc thọ, cứu khốn phò nguy giải trừ nhiều bệnh tật, tai họa.
  • Thiếu Âm gặp sao tốt thì làm tốt thêm, gặp sao xấu thì vô dụng.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Thiếu Âm

Tuổi hạn-năm xung tháng hạn-cách hóa giải

1-Hỏi :Vì sao lại có quan niệm về “tuổi hạn”? (tuổi hạn chung cho mọi người) - Đáp : Theo từ điển Hán Việt thì Hạn là vùng đất nguy hiểm, ranh giới, phạm vi quy định, kỳ hạn quy định, ngưỡng cửa ...Từ xưa tới nay hễ nghe đến hạn là mọi người đều nghĩ tới những điều xấu không may mắn tới với mình, nhưng thực tế không phải Hạn nào cũng xấu.
Tuổi hạn-năm xung tháng hạn-cách hóa giải

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Thí dụ : đến Hạn lên lương, thăng quân hàm, nhận lãi tiết kiệm, kỳ phiếu, gia hạn vay vốn, CTTN hữu hạn....Thậm chí Hạn sao Mộc đức, Thái dương.v.v. lại rất tốt nhưng mọi người vẫn gọi là Hạn. Nên mới có chuyện đầu năm nhiều người vất vả nhờ Thầy cậy Thợ cắt giải hết cả sao Tốt đi thì con gì Phúc nữa. Sao xấu (hung tinh,ác tinh..) thì mới cắt giải, nhương tinh(nhượng) chuyển đổi đi, còn Cát tinh, sao tốt thì phải Nghênh tinh (đón rước về) thì mới tốt chứ.
Tóm lại Hạn là 1 cái Mốc, Ngưỡng (limited) ,đến khi đó ta sẽ gặp sự kiện xấu hoặc tốt đến với bản thân hoặc gia đình.

2-Hỏi : Những tuổi nào được cho là “hạn”, cùng với 49, 53? Dựa vào đâu để tính được những tuổi đó là “hạn”? (Cách tính cụ thể như thế nào ạ?)
-Đáp : Đây là cách tính Cửu diệu tinh quân rất nhanh và đơn giản nhưng chính xác. Lấy số tuổi (tuổi Mụ) cộng dồn lại trừ cho 9 còn lại : 1 nam La hầu Nữ Kế đô, 2 Nam Thổ tú, Nữ Hoả đức, 3 Nam Thuỷ diệu, Nữ Mộc đức.v.v.

Sao La hầu
Nam giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82
Nữ giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78-87

Sao Thổ tú
Nam giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83
Nữ giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77

Sao Thuỷ Diệu
Nam giới tuổi : 12-21-30-39-48-57-66-75-84
Nữ giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81

Sao Thái Bạch
Nam giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85
Nữ giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80

Sao Thái Dương
Nam giới tuổi : 05-14-23-32-41-50-59-68-77
Nữ giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79

Sao Hoả Đức
Nam giới tuổi : 06-15-24-33-42-51-60-69-78
Nữ giới tuổi : 11-20-29-38-47-56-65-74-83

Sao Kế đô
Nam giới tuổi : 07-16-25-34-43-52-61-70-79
Nữ giới tuổi : 10-19-28-37-46-55-64-73-82

Sao Thái âm
Nam giới tuổi : 08-17-26-35-44-53-62-71-80
Nữ giới tuổi : 04-13-22-31-40-49-58-67-76-85

Sao Mộc đức
Nam giới tuổi : 09-18-27-36-45-54-63-72-81
Nữ giới tuổi : 03-12-21-30-39-48-57-66-75-84

3-Hỏi :(Nếu có thì phân chia tuổi hạn và những việc làm tương ứng như thế nào?). Hay là đều không được làm việc lớn đó?
-Đáp : Khi gặp hạn sao xấu thì nên mua đất, xây nhà, sửa chữa nhà cửa, mua xe hoặc sắm tài sản có giá trị, thuyên chuyển công tác,xây dựng gia đình, sinh con v.v. Nhưng phải xem có sao Long đức, Phúc đức, Hồng loan thiên hỷ,Trạch : Phúc, Đức, Bảo, An và thời vận của các thành viên trong nhà. Lưu ý các hạn khác đi kèm và Hoang ốc, Kim lâu.

4-Hỏi : Có phải hai tuổi 49, 53 là gặp hạn nặng nhất? Nếu đúng thì vì sao? Con số 49, 53 có ý nghĩa gì?
- Đáp : Trong thực tế cho thấy bất cứ thời gian nào trong cuộc đời đều có thể gặp vận hạn xấu, nhưng tỷ lệ thấp hơn tuổi 49, 53.

-Lý do thứ nhất :

Cộng dồn số 49 và 53 ta thấy:
4+9=13 1+3= 4 Nam Thái bạch, Nữ Thái âm
5+3=8 Nữ Thái bạch, Nam Thái âm
Thái là quá, Bạch là trắng (chủ về tang chế, tai nạn, xương cốt).v..Âm là tối, đen nước, hiểm trở (chủ về ốm đau, dao kéo,xe cộ, sông nước) .v.v.

Thái âm vận xấu than ôi
Thái âm thái bạch đi đôi khác gì

Do đó tính chất của 2 sao như nhau, nhưng có 2 cách gọi.Giống như người thì gọi cái Bát, người gọi là cái Chén vậy thôi.

-Lý do thứ 2 :
Chòm sao Thái tuế quản 12 năm hàng Chi như sau: 1 tuổi Thái tuế, 2 tuổi Thiếu dương, 3 tuổi Tang môn, 4 tuổi Thiếu âm, 5 tuổi Quan phù, 6 tuổi Tử phù, 7 tuổi Tuế phá, 8 tuổi Long đức, 9 tuổi Bạch hổ, 10 tuổi Phúc đức, 11 tuổi Điếu khách, 12 tuổi Trực phù.
Do đó cứ vòng 12 năm là gặp sao Thái tuế (năm tuổi).

Cụ thể là những năm có số tuổi chia cho 12 dư 1 như: 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85.

Thái tuế chủ về quan sự, khẩu thiệt, hao tốn, ốm đau, tang chế.v.v.
Trước Thái tuế có Thiên không, Sau Thái tuế có Quán sách, đôi sao này thuộc hoả không lợi.
Đối diện sao Thái tuế là Tuế phá
Tuế phá là hạn dữ hung
Tự người mất của hãi hùng nhiều phen.

-Lý do thứ 3 :
Theo quy luật của tạo hoá thì từ khi thai nghén đã theo chu kỳ 7*7. Các mốc có số 7 như 7 giờ, 7 ngày, 7 tuần, 7 tháng, 7 năm.v.v đều đánh dấu sự thay đổi quan trọng .

Thí dụ :
7 năm thứ nhất phát triển chiều ngang
7 năm thứ hai phát triển chiều cao
7 năm thứ ba phát dục
7 năm thứ tư phát triển cơ bắp
7 năm thứ năm phát triển trí tuệ
7 năm thứ sáu phát triển toàn diện
7 năm thứ bảy dừng lại, ổn định, dần suy giảm.
7 * 7 = 49

Hết chu kỳ này sẽ là 49, 53.
Đó là sự sinh, còn sự tử thì sao ?
"Sự tử như sự sinh"

Khi con người mất đi cũng theo luật tạo hoá cái gì sinh trước sẽ mất trước, sinh sau mất sau. Nên người ta mới lễ Tứ Cửu (49 ngày), còn gọi là thất thất lai tuần (7*7=49).Cứ thứ tự hàng tuần(7 ngày) thì phần thể xác lại mai một đi 1 phần tương ứng với sự sinh. Cho đến ngày thứ 49 thì Bụng nổ, Đầu rơi, khi bụng nổ và đầu rơi khỏi thân mình (từ thời điểm này phần thân xác sẽ không còn cảm giác đau đớn nữa) thì phần hồn sẽ cư ngụ về Hoa Cái (Hộp sọ) để chờ tới 100 ngày (Bách nhật) thì hồn lìa khỏi xác, xuất ra khỏi Mộ đi khắp nơi.
Cũng theo quy luật đó thì hết vòng 49,53 thì mọi sự lại tốt đẹp, hồi xuân .

5- Hỏi :Thực tế, nhiều người gặp hạn nặng (bệnh tật nguy kịch, thậm chí bỏ mạng) ở tuổi hạn, nhất là lúc 49 hoặc 53 tuổi, nhưng cũng có những người chỉ bị nhẹ. Lý giải điều đó như thế nào? Có phải tất cả mọi người khi đến tuổi đó thì cũng bị hạn chung hay là còn phụ thuộc vào căn, bản mệnh… nữa? Cái gì là yếu tố quyết định người ta bị hạn nặng hay nhẹ khi vào tuổi hạn?
-Đáp : Cũng tuổi 49, 53 hoặc cùng tuổi hạn như nhau nhưng mức độ ảnh hưởng không giống nhau. Người thì nhẹ, người gặp nặng, người không sao, có người còn thành công nữa.
Bởi vì hạn có 2 cách ảnh hưởng :
Chiếu Bản Mệnh và chiếu Gia sự.
Nếu 1 người đau mắt đau răng thì chỉ bản thân họ đau thì gọi là chiếu Bản Mệnh.
Nếu cháy nhà, có tang ..v.v.. thì ảnh hưởng đến cả nhà thì gọi là chiếu Gia sự.
Khi xem gia sự thì cần quan tâm đến tuổi và vận hạn của chủ nhà.
Nếu các thành viên trong nhà cùng tuổi hạn nhiều thì xấu hơn. Nhưng nếu ngược lại thì thành ra tốt.
Ngoài tuổi hạn và 49,53 ra rồi cần phải xem những hạn khác có đi kèm không, Thí dụ:
Hạn Tam tai
Hạn Huỳnh tuyền, Tam kheo, Ngũ mộ, Thiên tinh, Toán tận,Thiên la, Địa võng, Diêm vương.
Hoang ốc
Kim lâu
Trạch : Bại, Hư, Khốc, Quỷ, Tử.
Vận khăn xám
Vận làm nhà
Vận sang cát .v.v.
Những yếu tố trên sẽ quyết định Hạn xấu tốt của con người .

6-Hỏi : Có cách nào để giảm mức độ của “hạn” không? Cúng bái giải hạn có phải là một việc cần làm và hiệu quả nhất?
Đáp : Bí quyết giải hạn tống ách trừ tai ,cải hung hoá cát, cải hoạ vi tường :
-Sống hoà nhập thiên nhiên, tuân thủ quy luật tạo hoá.
-Không tham, sân, si.
-Năng làm việc thiện, giúp đỡ người tàn tật, khó khăn.
-Sinh hoạt điều độ, không hút thuốc, uống rượu, cẩn thận khi tham gia giao thông.
-Lễ dâng sao giải hạn, cầu Quốc thái Dân an là việc tốt, nên làm.Riêng việc Nhương tinh giải hạn, Nghênh tinh tiếp phúc tuy không tốn kém nhưng phải đúng ngày giờ giáng hạ, chữ viết bài vị, đủ số đèn, đúng hình sao, đúng hướng, đọc đúng tên vị Thần quản sao, chọn lễ đúng màu, lễ trung thiên thì mới có giá trị . Nếu không lập đàn được như trên thì thành tâm lễ Chùa hoặc lễ Thần linh + Gia tiên trong nhà mình là đủ .

7. Chú có lời nhắn nhủ hay khuyên giải gì với những người bước vào tuổi hạn?
-Đáp : Phật dạy rằng : “Ở đời đừng cầu không khó khăn, vì không khó khăn dễ kiêu sa nổi dậy”
Thầy trò Đường tăng đi thỉnh kinh còn gặp 81 kiếp nạn.
Cũng chính con người từ thủa khai sinh đến nay đã vượt qua rất nhiều kiếp nạn để đạt được biết bao thành quả và công trình kỳ vỹ.
Thực ra những năm xung tháng hạn, 49, 53 chỉ là kỳ kiểm tra ( test) thông thường, Qua khó khăn con người sẽ trưởng thành, để rồi tới tuổi 70 ta muốn làm đều gì đều đúng, không sai quy củ.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi hạn-năm xung tháng hạn-cách hóa giải

Tụng Kinh Vu Lan, đền ơn đáp nghĩa đấng sinh thành

Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, tụng kinh Vu Lan để đền đáp....

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kinh Vu lan ghi lại những lời Đức Phật dạy chúng ta về lòng thương yêu, bổn phận của con cái đối với cha mẹ hiện tiền hay quá cố, đối với những người đang trầm luân trong những khổ cảnh, nghịch cảnh và cách thức thể tình cảm và bổn phận ấy bằng những việc làm cụ thể, nhân dịp  thưa hỏi của Ngài Mục kiền Liên.

tung-kinh-Vu-Lan

NGHI THỨC TỤNG KINH VU LAN VÀ BÁO HIẾU
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngay trán niệm lớn bài cúng hương)

Cúng Hương

Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phưởng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ Ðạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Ðề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)

Kỳ Nguyện

Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ kính thành, cúng dường trì tụng đem công đức này, nguyện khắp mười phương ba ngôi Tam bảo, Ðức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðức Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, cùng các vị Bồ tát, tịnh Ðức chúng Tăng, từ bi gia hộ, cho Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức vô cùng, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo (3 lần)
(Ðứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật)

Tán Thán Phật

Ðấng Pháp Vương Vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y trọn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Quán Tưởng
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng.
Ðạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng.
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện Quy y.

(Xá 3 xá rồi xướng lạy)

Ðảnh Lễ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, Thập phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Vương Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy)
(Ðứng hoặc ngồi, vô chuông mõ và đồng tụng):

Tán Lư Hương

Kim lư vừa bén chiên đàn,
Khắp xông Pháp giới đạo tràng mười phương.
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiền.
Pháp thân toàn thể hiện tiền,
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát. (3 lần)

Chú Ðại Bi

Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Khai Kinh Kệ

Vọi vọi không trên pháp thẩm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Nói Kinh Vu Lan Bồn
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung
Mục Liên mới đặng lục thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy hữu hầu bốc ăn
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm chưa đưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư phụ tầm phương giải nàn
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
Rằng mẹ ông gốc tội rất râu
Dầu ông thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể ai cầu đặng đâu
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên
Cùng là các bậc thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kiêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu Pháp ân cần thiết thi
Rằm tháng bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu
Lại phải sắm gường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng
Chư Ðại Ðức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Ðặng nhờ phước đức tiêu khiên ách nàn
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tựu hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người đặng lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên giác Thinh văn
Hoặc chư Bồ tát mười phương
Hiện hình làm Sãi ở gần chúng sanh
Ðều trì giới rất thanh rất tịnh
Ðạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bậc Thánh phàm
Ðồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Ðặng cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng đặng bá thiên thọ trường
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa thân về cõi thiên cung
Người thì tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Ðịnh tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc than sầu buồn
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không
Phật rằng: lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con vùng hỏi theo
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng quốc Vương, Thái tử, Ðại thần
Tam công, Tể tướng, bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thê tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Ðà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ chúng Tăng cúng dường
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thì
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên
Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật, chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Ðệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn
Vừa nghe dứt Pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

Tâm Kinh

Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)

Bài Tán Thán Phật A Di Ðà

Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)

Sám Vu Lan

Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)

Sám Mục Liên

Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.

Hồi Hướng

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng

Chú thích:

 (1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tụng Kinh Vu Lan, đền ơn đáp nghĩa đấng sinh thành

Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Theo quan niệm phong thuy nha o của người xưa, bếp đóng một vai trò quyết định sự thịnh vượng, nguồn tài lộc của cả gia đình.
Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nói đến phong thủy nhà bếp nhiều người coi đó là việc mê tín dị đoan. Thế nhưng, nếu chú ý kỹ sẽ thấy đây là điều rất có khoa học mà ông cha ta phải trải qua cả ngàn năm mới đúc kết được, nó thuộc về khoa học thống kê.

Việc đặt bếp theo phong thủy không quá khó, nếu bạn nắm được những bí quyết sau:

Theo tu vi 2015, bạn không nên đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh là nơi có chứa nhiều vi trùng có hại rất dễ lây bệnh cho người qua đường ăn uống.

Hướng cho bếp phải hợp với cung bổn mạng, toạ hung mà hướng cát. Hỏa môn (của bếp) cần đặt ở hướng lành vừa trấn áp được khí hung vừa hút được khí lành. Nó sẽ giúp cho tài lộc của gia chủ hưng vượng.

Bếp cũng không nên đặt hướng sát so với nhà. Bếp đặt ở hướng sát thường làm thận suy, mắt kém, bị bệnh huyết áp hay bị phong tà gây lở ngứa.

Nếu nhà bạn ở hướng Đông thì sát ở cung Thân, nhà hướng Tây thì sát ở cung Tỵ, hướng Nam thì sát ở cung Hợi, hướng Bắc thì sát ở cung Thìn, hướng Đông-nam thì sát ở cung Dậu, Tây bắc thì sát ở cung ngọ…

Nên nhớ tránh đặt bếp gần phòng ngủ hoặc đối diện với phòng ngủ. Bếp là nơi nấu nướng, thường xuyên sinh nhiệt. Khi đun nấu, khói dầu mỡ sinh ra từ bếp rất độc hại, không tiện để gia chủ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Cũng không nên đặt ở góc tường hoặc góc nhọn, ngoài trường hợp bất khả kháng.

Muốn thức ăn nấu ra luôn ngon thì bạn nên đặt bếp ở hướng Thiên y, tất nhiên là có phần đóng góp của tay nghề nấu nướng của các nội tướng. Đặc biệt, đặt bếp theo hướng này có lợi cho sản phụ.

Bạn cũng cần tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang. Bởi xà ngang áp trên bếp chủ hao tài tốn của. Vị trí gian bếp nên đảm bảo ánh sáng hài hoà, tránh bị quá ẩm thấp, tối tăm, phải có cửa thông gió, khử mùi hoặc đặt cay cảnh để điều hòa không khí lưu thông.

Theo phong thủy, thế bếp còn phải tránh gió, tránh những nơi có đường đi nếu không gia chủ sẽ gặp bất lợi về tài lộc. Bếp cần được đặt ở cung tương hợp và cung sơn chủ (mặt hậu của nhà) nên phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà. Cửa vào bếp phải tương hợp với nơi đặt bếp thì tài lộc của gia chủ sẽ phát, gia đình thịnh vượng.

Màu sắc gian bếp phải hài hoà. Dưới bếp không nên để đọng nước. Bởi thủy hoả đạo tặc, nước để đọng dưới bếp khiến cho gia chủ dễ mắc bệnh thần kinh, khí huyết, bị rối loạn tâm lý, đặc biệt không tốt cho nhà có phụ nữ mang thai. Nếu bạn chưa có em bé thì đường con cái rất khó khăn dù cả hai không hề mắc bệnh gì về vấn đề sinh sản.

Bếp cũng không nên đặt trên giếng nước, hầm rút. Đặt bếp ở những vị trí này gia chủ và người thân thường hay ốm đau, thường mất hoà khí trong nhà.

Trong những ngôi nhà hiện đại, bếp thường kết hợp cùng máy hút khói, bồn rửa chén. Bạn cần đặt máy hút khói ngay trên bếp. Còn bồn rửa chén thì không được cao hơn bếp, cách xa nơi đỏ lửa ít nhất 60 cm.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý trong phong thủy nhà bếp-Nên và không nên

Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Chùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày
Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Hoằng Pháp là một ngôi chùa ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa đã tồn tại hơn nửa thế kỷ. Cho đến nay, chùa Hoằng Pháp nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo ở Sài Gòn và các vùng lân cận đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Chùa Hoằng Pháp thuộc hệ phái Bắc tông.

Lịch Sử: Chùa Hoằng Pháp do cố Hòa thượng Ngộ Chân Tử sáng lập năm 1957 trên một cánh rừng chồi. Sau hai năm khai phá, năm 1959 ông mới bắt đầu xây dựng bằng gạch đinh, hai tầng mái ngói, mặt chùa xoay về hướng Tây Bắc. Năm 1965, chiến tranh tàn phá tại Đồng Xoài, Thuận Lợi làm nhiều người mất nhà cửa. Hòa thượng trụ trì đã đón nhận 60 gia đình gồm 261 nhân khẩu về chùa nuôi dưỡng trong 8 tháng, sau đó mua đất xây cất 55 căn nhà cho đồng bào định cư.

Năm 1968, hòa thượng lại thành lập viện Dục Anh ở đây, tiếp nhận 355 em từ 6 đến 8 tuổi tuổi về nuôi dạy. Nhờ những việc làm từ thiện mà từ đó Phật tử nhiều nơi tụ hội về ngày một đông. Năm 1971, để đủ chỗ lễ bái, giảng đạo, Ngộ Chân Tử xây nối thêm mặt tiền chánh điện dài 28m, tường xây bằng gạch block, mái lợp tole cement.

Năm 1974, với dự định mở làng cô nhi tiếp nhận thêm hàng ngàn trẻ thơ bất hạnh và thành lập đền thờ Quốc Tổ Hùng Vương, hòa hượng mua thêm 45 mẫu đất tại ấp Phú Đức, xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh. Công việc đang tiến hành thì xảy ra sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, số đất đó đã hiến lại cho Ban quản trị khu Kinh tế mới Lê Minh Xuân.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, số trẻ em được thân nhân nhận về, viện Dục Anh giải tán, chùa lại nhận nuôi dưỡng các cụ già neo đơn hoặc vì gia cảnh khó khăn. Năm 1988, Hòa thượng Ngộ Chân viên tịch. Đệ tử của ông là Thích Chân Tính lên thay. Ông thành lập một Ban Hộ tự tại địa phương và mười chúng ở các nơi với hơn 1.000 Phật tử.

Ngày 23 tháng 3 năm 1995, chùa xây lại khu chánh điện. Tháng 3 năm 1999, chùa tổ chức một khóa tu Phật thất 7 ngày đêm, với lượng người tham dự là 70 người. Từ đó đến nay đã tổ chức nhiều khóa tu tương tự, thu hút rất đông đảo Phật tử (mỗi khóa trên dưới 3000 ngừoi, có lúc lên tới 7000 người).

Năm 2005, chùa tổ chức khóa tu mùa hè dành cho học sinh và sinh viên. Năm đầu tiên có hơn 300 em. Năm thứ 2 là hớn 1600 em. Và cho đến nay, chùa đã đón nhận hàng năm gần 6000 em học sinh, sinh viên đến dự tu “Khóa tu mùa hè”. Đến nay,chùa Hoằng Pháp hiện tại được xem là trung tâm tu học Phật Pháp, trung tâm văn hóa Phật Giáo lớn nhất Việt Nam.

Chùa Hoằng Pháp nằm trên khu đất diện tích 6ha. Chùa Hoằng Pháp đã trải qua nhiều giai đoạn tái thiết, nâng cấp. Hiện nay có khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh năm.

640px-Tháp_Nhị_Nghiêm
Tháp Nhị Nghiêm

Chùa đã trải qua nhiều giai đoạn tái thiết, nâng cấp. Hiện nay có khuôn viên rộng lớn với nhiều cây cao bóng mát quanh năm. Từ ngoài nhìn vào cổng tam quan, cổng chính đề chữ “Chùa Hoằng Pháp”, hai cổng phụ bên trái đề chữ Từ bi, bên phải đề chữ Trí tuệ.

Kiến Trúc: Chánh điện chùa có chiều ngang 18m, chiều dài 42m, tổng diện tích xây dựng là 756m2, kiến trúc theo lối chữ “công”. Tuy hình thức có mới nhưng vẫn mang dáng vẻ cổ kính của chùa miền Bắc với góc đao cong vút, 02 tầng mái ngói màu đỏ. Toàn bộ nền móng, đà, cột, trần, mái đều đúc bê-tông kiên cố, tường xây gạch, mặt ngoài dán gạch men, mặt trong sơn nước. Nền lót gạch granite nhập từ Tây Ban Nha. Toàn bộ cánh cửa, bao lam, án thờ đề làm bằng gỗ quý, chạm trổ tinh vi.

Tiền điện thờ đức Thích Ca ngự trên tòa sen trong tư thế thiền định, chiều cao khoảng 4,50m. Phía trên chung quanh vách tường là 7 bức phù điêu bằng cement chạm khắc hình ảnh cuộc đời đức Phật từ lúc xuất gia cho đến khi nhập niết bàn. Phía trên và dưới bức phù điêu đối diện với tượng Phật là hai hàng chữ “Phật Nhật Tăng Huy – Pháp Luân Thường Chuyển”.

Trước án thờ là bao lam bằng gỗ điêu khắc hình “Cửu long chầu nguyệt”. Phía trên bao lam là ba cuốn thư cũng bằng gỗ khắc chữ Hán; cuốn ở giữa đề Thiên Nhơn Sư, hai cuốn hai bên đề chữ Từ bi và Trí tuệ. Hậu Tổ thờ cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử, Tổ khai sơn chùa Hoằng Pháp. Và trên tường là hai bức phù điêu miêu tả cuộc đời hành đạo của Ngài. Hai bên tả hữu là bàn thờ chư hương linh.

Đối diện với chánh điện là tượng Phật Thích Ca tọa thiền dưới gốc cây Bồ đề. Phía trước cây Bồ đề là cổng tam quan mới đựơc xây dựng vào tháng 6 năm 1999.

Bên trái chánh điện nhìn từ ngoài vào là tháp “Nhị Nghiêm”, nơi an trí nhục thân cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử. Cách một khoảng là tháp các vị Ni của chùa đã quá cố. Tiếp đến là nhà ăn rộng rãi, thoáng mát có hòn non bộ mới tạo. Song song là dãy nhà dưỡng lão nữ, gồm 10 phòng, mỗi phòng 04 người ở với đầy đủ tiện nghi. Sau cuối là nhà trù.

tam quan
Cổng tam quan chùa

Bên phải chánh điện nhìn từ ngoài vào là vườn cây với thảm cỏ xanh tươi. Sát bờ tre là một hòn non bộ cao hơn 10m rộng 20m nằm trên một hồ nước. Bên trong hồ ngay chính giữa tôn trí tượng đức Quan Thế Âm Bồ Tát bằng cẩm thạch trắng cao 5m. Tiếp đến là hòn non bộ nhỏ trong hồ tròn. Sau đó là tháp Phổ Độ, nơi để cốt của thập phương bá tánh. Phía sau chánh điện là Tăng đường, cũng dùng làm giảng đường có thể chứa khoảng trên 300 thính giả. Trước tăng đường là hai bãi cỏ xanh tươi với cây me cổ thụ.

Chùa Hoằng Pháp, nổi tiếng là nơi thu hút các tín đồ Phật giáo đến tham quan và tham gia các khóa tu Phật thất. Trong đó có khóa tu hè trong vòng 7 ngày, rất được giới trẻ hưởng ứng.

Hàng năm vào ngày 16 tháng 10 Âm lịch, chùa Hoằng Pháp tổ chức ngày húy kỵ cố Hòa Thượng Ngộ Chân Tử rất trọng thể.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Hoằng Pháp - Thành Phố Hồ Chí Minh

Điểm qua những tuyệt chiêu tăng tình cảm nhờ phong thủy

Phong thủy có tác dụng chính là tạo nên dòng khí êm đềm chảy qua không gian sống của bạn. Ngoài ra, những tuyệt chiêu tăng tình cảm nhờ phong thủy cũng khá hữu
Điểm qua những tuyệt chiêu tăng tình cảm nhờ phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tác dụng chính của phong thủy là tạo nên một dòng khí êm đềm chảy qua không gian sống của bạn. Ngoài ra, những tuyệt chiêu tăng tình cảm nhờ phong thủy cũng khá hữu ích.


- Giữ cho phòng ngủ sạch sẽ, ngăn nắp: Phòng bừa bộn là dấu hiệu cho thấy dòng khí đang bị nghẽn.

- Đừng tập thể dục trong phòng ngủ: Năng lượng của những động tác vắt mồ hôi sẽ phá hỏng không gian lãng mạn, tạo cảm giác tình yêu giống như một bài tập vất vả.

- Bỏ đi năng lượng của tình cũ: Nên dọn dẹp tất cả những gì gợi nhớ đến người xưa. Một món quà, tấm ảnh, bức thư... của người tình cũ đều là vật cản đối với dòng khí hạnh phúc hiện tại.

phong thuy cho tinh yeu
 
- Mở cửa cho tình yêu: Hãy chắc chắn cửa phòng ngủ có thể đóng mở dễ dàng. Cần sửa chữa ngay nếu cửa mắc kẹt hoặc chỉ mở được một phần. Cánh cửa lỏng lẻo cho thấy bạn đang gặp khó khăn trong việc nắm giữ tình yêu của mình.

- Mở đường cho dòng khí: Cần loại bỏ những đồ vật cản đường để dòng khí có thể đến được phòng ngủ của bạn dễ dàng và nuôi dưỡng đời sống tình yêu của bạn. Ngay cả những góc tối cũng cần được chiếu sáng.
 
- Đưa dòng không khí lãng mạn vào phòng: Trong phòng  ngủ, có 2 vị trí trọng yếu cần được bạn tô điểm bằng những hình ảnh lãng mạn. Thứ nhất là bức tường đối diện chân giường, thứ hai là nơi bạn nhìn thấy đầu tiên khi bước vào phòng.

- Chọn hướng đặt giường phù hợp: Hãy chú ý khi đặt giường ngủ. Tốt nhất là nên lựa chọn hướng tốt nhất đối với mệnh tuổi bạn.
  (Theo Phong Thủy Vietaa)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm qua những tuyệt chiêu tăng tình cảm nhờ phong thủy

Các lễ hội ngày 12 tháng 7 âm lịch - Hội Miếu Ba Thôn

Hội Miếu Ba Thôn được tổ chức vào ngày 12 tháng 7 âm lịch hàng năm tại xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 12 tháng 7 âm lịch - Hội Miếu Ba Thôn

Các lễ hội ngày 12 tháng 7 âm lịch - Hội Miếu Ba Thôn

Hội Miếu Ba Thôn

Thời gian: tổ chức vào ngày 12 tháng 7 âm lịch.

Địa điểm: xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Nguyễn Cang.

Nội dung: Hội miếu ba thôn hàng năm thường tổ chức lễ rước nước ở ngoài biển.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 12 tháng 7 âm lịch - Hội Miếu Ba Thôn

Lưu ý phong thủy 'chớ quên' cho căn hộ nhỏ

Tìm hiểu các giải pháp thiết kế và trang trí để phong thủy căn hộ nhỏ luôn tốt đẹp, thịnh vượng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phong thủy căn hộ nhỏ có thể là một thách thức, không dễ dàng thực hiện vì thông thường, có rất ít hoặc không có sự phân cách phòng khách, chỗ làm việc và không gian ngủ nghỉ của bạn. Nói cách khác, bạn sẽ làm thế nào để áp dụng phong thủy nếu phòng ngủ là một phần của phòng khách, và phòng bếp nằm ngay gần đó. Tất cả các khu vực đều không có tường để tách biệt các nguồn năng lượng khác nhau?

Mặc dù đây là một tình trạng phổ biến ở nhiều thành phố lớn, nó không có nghĩa rằng bạn không thể tạo ra phong thủy tốt trong một căn hộ nhỏ.

Có 2 kỹ năng chính bạn hoàn toàn có thể làm chủ nếu bạn muốn đạt được phong thủy tốt cho căn hộ của mình, đó là:

- Kỹ năng sắp xếp, tổ chức khoa học và loại bỏ sự lộn xộn, bừa bãi.

- Kỹ năng tinh tế của việc tạo ra sự phân chia hài hòa giữa các không gian mở khác nhau.

Loại bỏ sự xộn xộn với phong thủy, một khi bạn bắt đầu tập luyện, nó có thể trở thành một quá trình chữa trị và thực sự thú vị. Làm thế nào để biết cách tạo ra sự ngăn cách giữa các khu vực có chức năng khác nhau, sẽ không phải làm cho không gian trông thậm chí còn nhỏ bé hơn? Câu trả lời chắc chắn là có thể.

Nhưng bạn phải tiếp tục cố gắng cho đến khi tìm ra giải pháp hoàn hảo cho không gian sống nhỏ xinh của mình. Về cơ bản, bạn cần mở con đường năng lượng trong căn hộ và đảm bảo sự riêng tư nhiều nhất có thể cho phòng ngủ.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 1

Khi sắp xếp, trang trí nội thất không được quên "mở" đường cho năng lượng lưu thông.

Mỗi không gian sẽ yêu cầu những giải pháp cụ thể. Ví dụ, bạn có thể làm việc tại nhà, do đó, bạn sẽ cần đối phó với nhiều vách ngăn chia không gian hơn trong nhà. Một số loại vách ngăn phong thủy điển hình dành cho căn hộ nhỏ là bình phong, cây xanh cao lớn, giá sách hoặc một tấm rèm.

Để giúp bạn xác định loại vách ngăn tốt nhất để sử dụng, đầu tiên hãy tìm ra năng lượng phong thủy/yếu tố phong thủy cần thiết trong khu vực. Biết được yếu tố phong thủy cần thiết đem đến phong thủy tốt cho ngôi nhà sẽ giúp bạn đưa ra lựa chọn đúng đắn và phù hợp nhất.

Chẳng hạn, nếu bạn cần vách ngăn cho khu vực phong thủy phía Nam của căn hộ, một vài lựa chọn tốt đẹp sẽ là: cây xanh cao lớn, bình phong gỗ, giá sách gỗ hoặc rèm cửa màu đỏ. Tránh sử dụng màu xanh lá cây và đen, vách ngăn gương hoặc các vật liệu có khả năng phản chiếu hình ảnh.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 2

Mỗi không gian, mỗi khu vực phong thủy trong nhà lại có những "đòi hỏi" khác nhau.

Cùng Nhà đẹp tìm hiểu một vài lưu ý chủ đạo đối với phong thủy căn hộ nhỏ:

- Cửa chính và lối vào

Theo phong thủy, cửa chính được gọi là "miệng khí". Nếu căn hộ của bạn nhỏ, lối vào sạch sẽ và thoáng đãng là điều đặc biệt quan trọng, cho phép nhiều năng lượng đi vào nhà hơn và nuôi dưỡng không gian sống của bạn.

Các giải pháp tiết kiệm không gian, ánh sáng tốt, tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn, màu sắc rực rỡ hoặc nhã nhặn và những đồ vật đẹp đẽ có thể được đưa vào bất kỳ không gian nào phù hợp với kích thước của nó. Bởi vì căn hộ của bạn không lớn, nỗ lực duy trì lối vào càng sạch càng tốt. Không để giày dép, treo quần áo hoặc đồ dùng cá nhân xung quanh tầm mắt.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 3

Lối vào sạch sẽ, gọn gàng cho phép năng lượng tích cực "xâm nhập" thuận lợi hơn.

- Khu vực ngủ/Phòng ngủ

Khi sống trong căn hộ nhỏ, một trong những thách thức phong thủy lớn nhất là thiết kế một khu vực ngủ khiến bạn cảm thấy (và các chức năng) giống như một phòng ngủ thực thụ. Quan tâm đến việc hình thành đủ sự tách biệt giữa khu vực sinh hoạt và ngủ nghỉ.

Khôn ngoan nhất là tập trung vào nơi bạn nhìn thấy đầu tiên mỗi khi thức dậy và trước khi đi ngủ. Chắc chắn ở đó không có TV, máy tính hoặc giỏ đựng quần áo bẩn. Thay vào đó, hãy trưng bày thứ gì đó mang đến năng lượng dồi dào, truyền cảm hứng cho bạn mỗi buổi sáng.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 4

Ngay cả khi không có một phòng ngủ riêng, bạn phải làm mọi cách để chốn ngủ có đủ sự riêng tư và ấm cúng hoàn hảo.

- Sử dụng gương

Gương mở rộng không gian, thu hút nhiều ánh sáng hơn cũng như mang đến năng lượng phong thủy của yếu tố nước. Thật dễ hiểu vì sao gương được gọi là "thuốc aspirin của phong thủy"! Là một trong những phương pháp chữa trị tốt nhất dành cho phong thủy căn hộ nhỏ, gương chắc chắn giúp bạn mở rộng không gian một cách trực quan và làm cho bầu không khí dễ thở hơn.

Tốt nhất, bạn nên chọn gương khổ lớn nếu điều kiện cho phép và dùng nó để tăng ánh sáng hoặc phản chiếu thứ gì đó đẹp đẽ. Khu vực phong thủy lý tưởng đối với gương là phía Đông, Đông Nam và Bắc.

 luu y phong thuy 'cho quen' cho can ho nho - 5

Gương - phụ kiện "thần kỳ" có khả năng giãn rộng không gian.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lưu ý phong thủy 'chớ quên' cho căn hộ nhỏ

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd