Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những thắc mắc cách chọn màu sắc và bài trí nhà cửa

Những thắc mắc về phương hướng Bạn đừng quá lo lắng, nếu theo quái số hướng Đông Nam là hướng “mất mát và thất bại” của bạn. Khi bạn cung cấp năng lượng hoặc kích hoạt một góc nhà để tạo sự may mắn theo một hướng tốt nào đó thì nó sẽ mang lại may mắn cho tất cả mọi thành viên trong gia đình của bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Dù bạn không chọn được căn phòng ở hướng Đông Nam hoặc không ngồi hướng về phía Đông Nam, bạn vẫn được hưởng lợi ích. Điều này được giải thích rằng tất cả những phương pháp, những cách sắp xếp trong Phong Thủy đều bổ sung cho nhau. Nếu bạn là người làm vườn tinh tế, bạn sẽ nhận thấy tất cả cây cối trong vườn đều đem lại may mắn, tốt lành nếu như cây khỏe mạnh và đơm hoa kết trái. Trong Phong Thủy, đặc biệt hoa cúc, tre, hoa lan và mận là những loại cây tiêu biểu mang lại ý nghĩa điềm lành, hứa hẹn điều tốt đẹp.

Ý nghĩa đặt chậu cây trong nhà

Tránh đặt cây xương rồng trong văn phòng hoặc trong nhà vì dù cây xương rồng nở hoa rất đẹp, nhưng chúng vẫn không đủ năng lượng tốt để xua tan những năng lượng xấu do gai xương rồng tỏa ra. Nếu đặt trong nhà hoặc trong văn phòng (thường trên bệ cửa sổ và gờ tường), theo Phong Thủy, cây xương rồng có nhiều gai nhọn, sắc luôn tạo ra những mảng năng lượng xấu, gây bệnh tật, bất hạnh và mất mát.

Nếu bạn là người yêu thích loài cây xương rồng có sức sống mãnh liệt này, thì tốt nhất nên đặt chậu cây ở ngoài cửa nhà hoặc cửa văn phòng. Tại đây, cây xương rồng đóng vai trò như một người bảo vệ. Những gai nhọn của nó có thể xua tan những năng lượng xấu, đầy sát khí từ bên ngoài xâm nhập vào nhà.


Đặt chậu cây xương rồng trong vườn, chúng sẽ trở thành một người bảo vệ đắc lực cho ngôi nhà.

Chậu bonsai

Các loại cây bị kìm hãm sự phát triển để trở nên già cỗi thường không tốt về mặt Phong Thủy. Mặc dù hầu hết mọi người đều rất thích trưng bày chậu bonsai trong nhà, văn phòng vì chúng có giá trị cao về mặt thẩm mỹ, nhưng theo Phong Thủy, những cây này đem lại ý nghĩa không tốt vì chúng tượng trưng cho sự cản trở, chậm thăng tiến trong công việc.

Nếu bạn là người rất yêu thích cây cảnh, hãy đặt chậu cây ở hướng Bắc của căn nhà hoặc ngoài vườn, vì nơi đó chúng ít gây thiệt hại nhất. Chú ý tránh đặt ở hướng Đông, Đông Nam (góc Thổ).

Cách nuôi cá vàng hoặc cá chép

Trong Phong Thủy, cách tốt nhất để kích hoạt vận may trong gia đình là nuôi cá vàng. Thông thường, người ta nuôi chín con, trong đó tám con màu vàng hoặc đỏ và một con màu đen. Nếu cá chết, bạn không nên lo lắng quá. Hãy mua những con khác bổ sung vào cho đủ số. Nhiều người cho rằng khi một con cá chết thì nó đã hấp thụ vận rủi của một thành viên nào đó trong nhà.

Không nên nuôi cá vàng trong phòng ngủ, nhà vệ sinh hoặc nhà bếp. Đặc biệt, cá vàng mang lại nhiều vận rủi nhất khi để bể cá trong phòng ngủ (mất mát về mặt vật chất, hao hụt tiền bạc). Tốt nhất là đặt bể cá trong phòng khách hoặc ngoài sân.


Theo Phong Thủy, nuôi cá vàng mang lại nhiều may mắn cho gia đình bạn. Đặt bể cá trong phòng khách ở hướng tốt nhất và tổng số cá nuôi là số lẻ.

Vị trí tốt để đặt bể cá thường là hướng Đông, Đông Nam, Bắc hoặc Tây Bắc. Để xác định vị trí tốt nhất, bạn nên căn cứ vào hướng của cửa chính ngôi nhà hoặc một trong bốn hướng tốt mà quái số đã chọn cho bạn. Lưu ý rằng các thuộc tính của hành Thủy rất phức tạp. Nếu đặt hành Thủy đúng vị trí thì nó sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn, nhưng nếu đặt sai thì cũng rất nguy hiểm. Ngoài ra, bạn không nên đặt hành Thủy, đặc biệt là bể cá chép ở bên phải cửa chính (nhìn từ trong nhà) vì điều này có thể sẽ đem lại những bất lợi trong cuộc sống hôn nhân.

Nguồn: Tổng Hợp


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những thắc mắc cách chọn màu sắc và bài trí nhà cửa

Sức khỏe và hướng vận may của 12 con giáp tháng Một

Trong tháng này, người tuổi Mùi và tuổi Thân cần chú ý ăn uống để tránh tăng cân, bệnh tật.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý:

Tháng này không hợp để tuổi Tý đi du lịch, tốt nhất là không nên đi đặc biệt là vào giữa tháng trở ra. Người cao tuổi nên chú ý bệnh cũ tái phát và không nên đi một mình ra ngoài. Phụ nữ trung niên tuổi Tý cần chú ý các bệnh phụ khoa.

Màu sắc may mắn: màu Trắng.

Hướng vận may: hướng Tây.

Tuổi Sửu:

Tháng khai xuân này tổng thể gia trạch bình an, không có vận nạn nào lớn. Những người cao tuổi nên chú ý khống chế vấn đề ăn uống, không nên mang thêm phiền phưc đến cho gia đình mình. Những người trung tuổi thì cần quản lý tốt con cái, đề phòng những vấn đề xảy ra ngoài ý muốn.

Màu sắc may mắn: màu Xám.

Hướng vận may: Đông Bắc.

 suc khoe va huong van may cua 12 con giap thang mot - 1

Tuổi Dần:

Tháng đầu năm mới tuổi Dần có nhiều việc cần uống rượu bia nhiều, vậy nên cần chú ý chăm sóc tốt cho dạ dày của bạn. Thói quen hút thuốc tốt nhất là nên cho vào quy củ trong tháng đầu năm này. Giữa tháng thích hợp để làm phẫu thuật, động dao kéo, giảm cân…

Màu sắc may mắn: Vàng chanh.

Hướng vận may: Đông Bắc.

Tuổi Mão:

Tháng này cần chú ý khi ra ngoài, bất kể là “thiên tai” hay “họa do người” thì cũng cần đề phòng. Mặt khác, đề phòng trộm cắp, lưu manh. Nên chú ý tuân thủ những nguyên tắc, quy định để tránh rước thêm phiền phức cho bản thân.

Màu sắc may mắn: màu Vàng.

Hướng vận may: Tây Nam.

Tuổi Thìn:

Tháng này sức khỏe của người tuổi Thìn không có quá nhiều trở ngại, chỉ là tốt nhất không nên đi dạo ra ngoài quá nhiều, nên vận động với các môn thể thao trong nhà thì tốt hơn. Không khí bên ngoài không được tốt, những người có bệnh về đường hô hấp thì nên chú ý nhiều hơn. Người lớn tuổi có thể trồng cây xanh, trồng rau thêm trong vườn.

Màu sắc may mắn: màu Vàng.

Hướng vận may: Tây Nam.

 suc khoe va huong van may cua 12 con giap thang mot - 2

Tuổi Tỵ:

Sức khỏe tháng này cũng không có gì đáng lo ngại, khẩu vị có thể thay đổi chút ít, bạn thích ăn nhiều hơn hay thích ăn đồ cay. Vấn đề về da của tuổi Tỵ không được tốt, nên chú ý uống nhiều nước. Người lớn tuổi dễ bị chứng lạnh chân, lạnh tay.

Màu sắc may mắn: màu Xanh nhạt.

Hướng vận may: hướng Tây.

Tuổi Ngọ:

Tháng này tuổi Ngọ cảm thấy mệt mỏi hơn. Thói quen cá nhân có thể thay đổi chút ít ví như việc đi ngủ sớm và thức dậy sớm. Trước khi ngủ nên tắm nước nóng rồi tập vài động tác thể dục, một giấc ngủ ngon và sảng khoái sẽ mang đến cho bạn cả ngày tỉnh táo.

Màu sắc may mắn: màu Trắng.

Hướng vận may: Đông Bắc.

Tuổi Mùi:

Tháng đầu năm không phải lo lắng quá nhiều về sức khỏe, chỉ là nên khống chế thói quen ăn uống chút ít. Có nhiều lúc bạn suy nghĩ quá nhiều kết quả là khiến chính mình phiền não, nên học cách thư giãn, thả lỏng tinh thần. Khiêu vũ sẽ mang đến cho bạn tâm trạng cực kỳ tốt đấy.

Màu sắc may mắn: màu Vàng.

Hướng vận may: hướng Đông.

Tuổi Thân:

Tháng này khá mệt nhọc, kiến nghị không nên đi xa. Có thể thưởng thức những món ăn khác nhay nhưng nếu muốn hưởng thụ những bữa ăn thịnh soạn ví như đến nhà hàng thì hãy chú ý vấn đề sức khỏe nhé. Trong các cuộc vui hãy chọn rượu vang đỏ thay cho các loại rượu khác để giảm thiểu những kết quả “luật bất thành văn” như ta vẫn thường hay thấy.

Màu sắc may mắn: màu Đen.

Hướng vận may: hướng Tây.

 suc khoe va huong van may cua 12 con giap thang mot - 3

Tuổi Dậu:

Sức khỏe tháng này không có vấn đề gì nhiều, chỉ có điều đầu tháng do công việc quá bận rộn nên có thể xảy ra tình trạng mất ngủ. Khi tinh thần căng thẳng hãy tập vài động tác Yoga để thư giãn nhé.

Màu sắc may mắn: màu Tím.

Hướng vận may: Đông Bắc.

Tuổi Tuất:

Sức khỏe tuổi Tuất không được ổn định, việc chỉnh hình, giảm cân hay trị liệu là những việc có thể phát sinh trong tháng này. Ghi nhớ đạo lý: “làm việc xấu, khó sống tốt”, tốt nhất là giảm thiểu ra ngoài nhiều.

Màu sắc may mắn: màu Đỏ.

Hướng vận may: Tây Bắc.

Tuổi Hợi:

Sức khỏe tháng này không có vấn đề gì quá lớn, khẩu vị tốt. Cần chú ý không nên dùng thuốc một cách mù quáng, những loại thuốc liên quan đến làm đẹp hay dưỡng sinh thì cần giảm thiểu, uống càng ít cảng tốt. Đi ngủ sớm và thức dậy sớm tập thể dục là thói quen rất tốt cần duy trì.

Màu sắc may mắn: màu Trắng.

Hướng vận may: Tây Nam.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sức khỏe và hướng vận may của 12 con giáp tháng Một

Chọn tầng nhà chung cư –

Mỗi một nguyên tố của ngũ hành không tồn tại độc lập mà là nương tựa vào nhau và kiềm chế lẫn nhau. Đây chính là đạo lý tương sinh tương khắc ngũ hành, thứ tự tương sinh của nó là: hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh ho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ả.

chung-cu

Thứ tự tương khắc là: hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả. Khi chọn ở nhà tầng nên chú ý: ngũ hành của nhà có tác dụng tương sinh và tương trợ cho ngũ hành của mệnh người ở trong nhà là cát. Ngược lại, có tác dụng tương khắc thì là xung. Nếu như ngũ hành con số tầng nhà tương sinh và tương trợ cho mệnh của chủ nhà là cát, ngược lại là xung. Mà ngũ hành của mênh chủ khắc với ngũ hành của số tầng nhà là trung hoà.

Có thầy phong thủy cho rằng, bạn có thể căn cứ vào năm sinh của mình để xác định tầng số của nhà, nguyên tắc cụ thể như sau:

Phàm là những người sinh vào các năm thuộc lợn và chuột bao gồm 1923, 1924, 1935, 1936, 1947, 1948, 1959, 1960, 1971, 1972, 1983, 1984, 1995, 1996, 2007, 2008 chọn ở nhà tầng 1, 4, 6, 9 là khá thích hợp, bao gồm các tầng 11, 14, 16, 19, 21, 24, 26, 29 v.v… trên cơ sở này suy ra các số phù hợp khác.

Những người sinh vào các năm thuộc trâu, rồng, dê, chó, bao gồm 1925, 1928, 1931, 1934, 1937, 1940, 1943, 1946, 1949, 1952, 1955, 1958, 1961, 1964, 2067, 2070, 1973, 1976, 1979, 1982, 1985, 1988, 1991, 1994, 1997, 2000, 2003, 2006 chọn ở nhà tầng 2, 5, 7, 10 là khá thích hợp.

Những người sinh vào các năm thuộc hổ và mèo, bao gồm 1926, 1927, 1938, 1939, 1950, 1951, 1962, 1963, 1974, 1975, 1986, 1987, 1998, 1999 chọn ở nhà tầng 1, 3, 6, 8 là khá thích hợp.

Những người sinh vào các năm thuộc rắn và ngựa, bao gồm 1929, 1930, 1941, 1942, 1953, 1954, 1965, 1966, 1977, 1978, 1989, 1990, 2001, 2002 chọn ở nhà tầng 2, 3, 7, 8 là khá thích hợp;

Nhừng người sinh vào các năm thuộc khỉ và gà, bao gồm 1920, 1921, 1932, 1933, 1944, 1945, 1956, 1957, 1968, 1969, 1980, 1981, 1992,1993, 2004, 2005 chọn ở nhà tầng 4, 5, 9, 10 là khá thích hợp;

Nhưng nếu người trong cùng một nhà nhưng có tướng mệnh khác nhau thì nên lấy chủ hộ hoặc người nắm tay hòm chìa khoá làm chính.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tầng nhà chung cư –

Bày kỳ lân sai cách, linh vật cắn ngược lại chủ nhà

Kỳ lân, còn được gọi là 'nhân thú', tuy rất hiền hòa những cũng sẽ nổi xung nếu bài trí sai cách. Những bảo bối phong thủy như xâu tiền đồng, tượng gà đồng, tượng kỳ lân… đã trở thành những vật trang trí quen thuộc trong nhiều gia đình. Đặc biệt là tượng kỳ lân, rất nhiều người thích bày ở trong nhà để đem đến vận may và tiền tài cho mình và gia đình, để gặp may mắn trong sự nghiệp. Tuy nhiên, việc bày tượng kỳ lân có những cấm kỵ phong thủy cần phải lưu ý mà không phải ai cũng biết.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Không nên bày kỳ lân chưa được khai quang

Chú thích: Khai quang là 1 nghi lễ, sau khi hoàn thành tượng, chọn ngày lành dỡ bỏ miếng lụa đỏ trên đầu để bắt đầu thờ cúng.

 bay ky lan sai cach, linh vat can nguoc lai chu nha - 1

Kỳ lân nếu chưa khai quang sẽ không thể ngăn sát khí, xua đuổi tà mà ngược lại còn đem lại điềm xấu cho gia đình.

Kỳ lân dùng để ngăn sát khí, cho nên cần phải dùng kỳ lân đã khai quang. Nếu như kỳ lân chưa được khai quang sẽ không có tác dụng ngăn sát khí xua đuổi tà, có thể sẽ bị những vật không tốt lành chiếm giữ, từ đó đem đến điều xấu cho gia đình.

2. Không được đặt ngoài cửa sổ

Thời cổ đại, long, lân, quy, phụng được coi là  tứ linh vật. Nếu như đặt hoặc treo kỳ lân trên cửa sổ nghĩa là không tôn trọng, thậm chí là coi thường linh vật, sẽ gặp phản phệ mang điềm xấu cho gia đình.

3. Người hoặc ngành nghề bất lương không thích hợp bày kỳ lân

 bay ky lan sai cach, linh vat can nguoc lai chu nha - 2

Kỳ lân tuy là linh vật may mắn nhưng lại không thích hợp với những người hoặc ngành nghề bất lương.

Tương truyền kỳ lân thích nhất là giúp đỡ những người tốt, đặc biệt chú ý đến những người hiếu thảo và lương thiện, cho nên còn được gọi là “nhân thú” (loài thú có lòng nhân từ). Khi kỳ lân gặp người xấu sẽ đuổi theo người đó mà cắn, cho nên một số ngành nghề gian trá liên quan đến cờ bạc, thuốc phiện, buôn lậu… cho dù là công ty hay là trong nhà đều không nên đặt kỳ lân.

Vậy đặt kỳ lân như thế nào mới hợp phong thủy?

- Nếu như đặt ở công ty, kỳ lân nên đặt một đôi trên bàn làm việc, bên trái và bên phải mỗi bên một con, đầu hướng về phía cửa, đuôi hướng về phía mình để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.

 bay ky lan sai cach, linh vat can nguoc lai chu nha - 3

Đặt tượng kỳ lân trên bàn làm việc để nhanh chóng đạt được sự thăng tiến trong sự nghiệp.

-  Nếu như đặt ở trong nhà, kỳ lân có thể đặt nhiều vị trí tùy mục đích. Nếu như cầu quý tử có thể đặt trong phòng ngủ, mong muốn sự nghiệp học hành tấn tới có thể đặt một đôi trong phòng sách. Ngoài ra, kỳ lân có thể đặt trong phòng khách, thể hiện sự tôn sùng đối với linh vật, đem may mắn và bình an cho cả gia đình. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bày kỳ lân sai cách, linh vật cắn ngược lại chủ nhà

Ý nghĩa tục dựng cây nêu ngày Tết của dân tộc Việt Nam

Từ bao đời nay, đối với người Việt Nam, hình ảnh cây nêu được coi là biểu tượng thiêng liêng nhất của ngày Tết Nguyên đán ( Tết âm lịch). Nó gắn liền với một sự tích huyền thoại mang đậm tính nhân văn sâu sắc.
Ý nghĩa tục dựng cây nêu ngày Tết của dân tộc Việt Nam

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Tục dựng cây nêu ngày Tết

Từ bao đời nay, đối với người Việt Nam, hình ảnh cây nêu được coi là biểu tượng thiêng liêng nhất của ngày Tết Nguyên đán ( Tết âm lịch). Nó gắn liền với một sự tích huyền thoại mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Dựng cây Nêu ngày Tết đã trở thành một phong tục truyền thống của người dân Việt Nam.

Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 5–6 mét, được dựng trước sân nhà vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân chầu Trời. Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ (tùy từng địa phương) như cái túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ.

Khi có giỏ thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai. Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu…

Trong những ngày Tết cổ truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm chỉ đường cho tổ tiên biết đường về ăn Tết với con cháu. Trong đêm trừ tịch cũng như ngày mồng một Tết, ngày xưa khi chưa cấm đốt pháo, người dân còn treo bánh pháo tại cây nêu đốt đón mừng năm mới, mừng tổ tiên về với con cháu, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều bất hạnh của năm cũ, cầu mong một năm mới tốt lành.

Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.

Sự tích cây nêu

Xưa kia khi người và quỷ còn sống chung với nhau trên mặt đất, quỷ cậy mạnh chiếm hết ruộng đất, người phải thuê ruộng đất của quỷ để cày cấy. Cứ mỗi năm quỷ lại nâng cao tô ruộng. Rồi một hôm quỷ ra điều khoản "ăn ngọn cho gốc", mùa lúa năm đó, quỷ thu hết thóc góc, để cho người nông dân chơ mỗi gốc dạ. Nhân dân đói khổ vô cùng. Thấy cảnh người dân lầm than, Phật mách cho dân chuyển sang trồng khoai lang.

Vụ mùa tiếp theo, người dân chuyển sang trồng khoai lang, đến cuối vụ, người dân thu hoạch hết củ, để lại cho quỷ toàn lá. Quỷ bực tức, thay đổi điều khoản thành "ăn gốc cho ngọn". Phật lại mách người dân quay lại trồng lúa. Cuối vụ lúa thóc nườm nượp đổ về nhà dân, Quỷ chỉ còn chơ gốc dạ.

Bực tức vì 2 mùa liền không thu được gì, quỷ lại đổi điều khoản thành "ăn cả gốc lẫn ngọn", quỷ nghĩ rằng lần này người dân sẽ chẳng có cách gì chống lại, bao nhiêu nông sản sẽ về hết tay chúng. Phật thấy vậy liền ban cho người dân cây ngô, đến khi thu hoạch, trong nhà người dân ngô chất đầy bồ. Còn quỷ chẳng thu được gì.

Uất ức vì không thu được nông sản, quỷ không cho người dân thuê ruộng. Phật bảo người dân đến mua lại của quỷ một khoanh đất bằng bóng chiếc áo cà sa treo trên ngọn tre. Thấy bán được khoanh đất nhỏ với giá hời, quỷ cũng đồng ý. Khi người nông dân trồng cây tre xuống, cây tre vụt mọc cao lên tận trời, chiếc áo cà sao mở rộng như như biển, bóng áo cà sa che khắp mặt đất, che hết đất của quỷ.

Quỷ mất hết đất đai, phải lùi ra tận biển Đông. Uất hận, chúng tụ tập quân đội đánh chiếm lại ruộng đất. Biết được quỷ sợ vôi bột, lá dứa, máu chó, Phật bảo lại cho người dân, người dân sử dụng những thứ đó 3 lần đánh bại lũ quỷ. Quỷ bị đuổi ra tận biển Đông khóc than với Phật mỗi năm cho chúng vài ngày được về đất liền thăm phần mộ tổ tiên. Phật đồng ý mỗi năm vào dịp Tết Nguyên Đán cho quỷ về thăm phần mộ tổ tiên.

Từ đó trở đi, mỗi địp Tết đến, người dân lại dựng cây Nêu trước nhà, bên trên cây Nêu buốc 1 bó lá dứa, treo 1 chiếc niêu đất bỏ chút vôi bột bên trong, sau đó lấy vôi vẽ hình cánh cung hướng về phía đông để xua đuổi ma quỷ.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

Ý nghĩa sâu sắc cây nêu ngày Tết

Cây nêu trở thành biểu tượng của sự đấu tranh giữa cái thiện và ác, giữa thiên thần và quỷ dữ, nhằm bảo vệ cuộc sống bình yên cho con người. Ngày Tết thần linh về trời, con người cần có những "bửu bối" của thần nhằm đề phòng cảnh giác, chống lại sự xâm nhập của ác quỷ.

Trồng cây nêu đã trở thành tục lệ Tết phổ biến của các dân tộc Việt Nam: từ Kinh, Thái, Mường đến Ba Na, Gia Rai... Trên ngọn nêu, người ta thường treo một túm lá dứa, lông gà, cành đa, lá thiên tuế, những chiếc khánh và con cá bằng đất nung, cùng một tán tròn bằng tre nứa dán giấy đỏ.

Ngoài ra có nơi còn treo những chiếc đèn lồng, đèn xếp hoặc vài xấp tiền, vàng mã... Dù với dụng ý khác nhau, nhưng những vật treo đều tượng trưng cho mong muốn bảo vệ con người, tạo lập hạnh phúc cho con người. Ví như lá dứa để dọa ma quỷ (vì ma quỷ sợ gai), không cho chúng vào quấy phá.

Cái khánh đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình. Cành đa tượng trưng cho điều lành và tuổi thọ. Tiền vàng mã để cầu tài, cầu lộc. Lông gà là biểu tượng chim thần (một sức mạnh thiên nhiên giúp người).

Ngày xưa cây nêu được dựng với ý nghĩa trừ ma quỷ, nhưng ý nghĩa thực của cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam trải rộng hơn. Theo thời gian, cùng với sự phong phú của các lễ vật treo trên ngọn cây, cây nêu được coi là cây vũ trụ nối liền đất với trời, do tín ngưỡng thờ thần mặt trời của các dân tộc cổ sơ, hàm chứa ý thức về lãnh thổ của người Việt Nam.  Dựng nêu ngày Tết bao gồm trong nó cả các dụng ý để trừ ma, quỷ, thờ phụng thần linh và vong hồn tổ tiên, tảo trừ những điều xấu xa của năm cũ. 

Trong xã hội thị tộc, chiếm hữu nô lệ thì cây nêu biểu trưng cho một cộng đồng tộc người, khẳng định địa vực cư trú của cộng đồng đó. 

Trong các lễ hội, cây nêu là tiêu điểm tập trung, cố kết của tâm thức cộng đồng. Ðối với người nông dân, nông lịch luôn gắn bó với cuộc sống, định hình thời vụ sản xuất và sinh hoạt, lễ hội. Thời điểm cuối năm là lúc nông nhàn, chuẩn bị bước vào các hoạt động vui chơi. 

Khi cây nêu được dựng lên, tất cả mọi hoạt động khác đều dừng lại. Nó tạo nên thế cân bằng tuyệt đối trong sự vận hành thay đổi giữa năm cũ và năm mới. Con người yên tâm vui chơi, cả cộng đồng sinh hoạt vui vẻ, quên đi những vất vả, nhọc nhằn của năm cũ.

Đặc biệt, cây nêu còn được coi là cây vũ trụ - nối liền Đất với Trời. Tán tròn bằng giấy đỏ tượng trưng cho Mặt Trời và ngọn nêu là nơi chim thần (sứ giả của Mặt Trời) đậu. Cuối năm trồng cây nêu để đầu năm ngọn nêu vươn lên cao đón ánh nắng xuân, sức sống xuân, để cầu cho mọi người mãi mãi một mùa xuân…

Cây nêu của dân tộc Việt Nam còn mang triết lý âm dương, được biết qua hai chữ Càn (Trời) và Khôn (Đất) nằm trong hình ảnh cái nón và cây gậy của Chử Đồng Tử  và Tiên Dung. Nó bao hàm sự thống nhất và tương trợ giữa Âm và Dương hay sự không tách rời giữa Động và Tĩnh…

Cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam 

Ngày xưa, cây nêu là biểu tượng cho sự uy quyền, nhà nào có quyền thế nhất là nhà đó cây nêu cao nhất. Gần đây, phong tục trồng cây nêu ngày Tết đã dần mất đi trong cộng đồng người Việt Nam thời hiện đại, và được thay thế với tục chơi cành hoa đào, hoa mai ngày Tết. 

Cây nêu chỉ còn bắt gặp tại các chùa, đình, một số vùng quê. Hiện nay, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc dần dần được phục hồi, trong những năm gần đây cây nêu được dựng lên tại các chùa, đình, khu du lịch, các trung tâm văn hóa, công ty… thể hiện chủ quyền của nền văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam mãi mãi không bao giờ mất. 

Cây nêu trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam có đặc điểm khá đa dạng tùy thuộc địa phương, phong tục, dân tộc, giai cấp xã hội v.v. Có cây nêu mang tính nguyên sơ, không gắn liền với lễ hội mà hình thức cổ xưa nhất còn thấy ở cộng đồng người nông dân.  Với tục dùng cành tre dài cắm trên ruộng sau khi gặt, khi thấy dấu hiệu này, người ta biết là chủ ruộng giữ lại mầm lúa cho mùa năm sau, không thể tuỳ tiện thả trâu bò vào ăn.

Cây nêu ở vùng nông thôn

Riêng đối với dân tộc thiểu số, cây nêu loại này xuất hiện ở những vùng rẫy thuộc sở hữu cá nhân chưa khai hoang. Người chủ rẫy tìm bốn cây cao to, chặt đứt ngang thân, dựng ở bốn góc rẫy như bốn cái trụ và gọi đó là cây nêu.

Cây nêu của người dân tộc Cor

Cây nêu ở  các lễ hội

Những cây nêu gắn liền với các lễ hội như ngày Tết, hội làng, có hình thức cầu kỳ hơn. Cây nêu thường sử dụng một số loại cây họ tre như tre, bương, lồ ô, có độ cao khoảng 5-6 mét, chặt sạch các nhánh và lá tre, chỉ để lại trên ngọn tre có nhánh lá.Trên ngọn cây treo một vòng tròn nhỏ, vòng tròn này buộc nhiều thứ khác nhau (tùy phong tục địa phương) như: lá phướn, những chiếc khánh (chuông gió) để những khánh đó va đập nhau kêu leng keng trong gió. Chiếc khánh, đồng âm với “khánh” có nghĩa là “phúc”: năm mới đem lại hạnh phúc cho gia đình…

>>Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé!

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa tục dựng cây nêu ngày Tết của dân tộc Việt Nam

Hình thế tốt - xấu của nhà và đất

Việc chọn đất bao gồm hướng và thế đất là vô cùng quan trọng đối với việc mua nhà, xây nhà. Có rất nhiều yếu tố để xét tính cát - hung (tốt - xấu) của thế đất
Hình thế tốt - xấu của nhà và đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Việc chọn đất bao gồm hướng và thế đất là vô cùng quan trọng đối với việc mua nhà, xây nhà. Có rất nhiều yếu tố để xét tính cát - hung (tốt - xấu) của thế đất nhà mà bạn không nên bỏ qua. 

Tường rào kín kẽ, bốn vách rõ ràng, giếng trời sáng sủa, quy cách nhất quán là nhà phú quý.

Nhà nhỏ mà cao, trơ trọi một mình không có thế dựa, bốn xung quanh không có gì che chắn, là thế nhà đơn lạnh.

Nhà có thế đất bằng là thế tốt (Hình minh họa)

Nam bắc đều có nhà lớn, đông tây đổi hướng, thế như tranh giành lẫn nhau, bên trái bên phải đều cao lớn nguy nga là thế nhà phản nghịch.

Nhà nghiêng cửa vẹo mưa dột gió lùa, là thế nhà đau ốm. Nhà cửa tối tăm, quá rộng hoặc quá chật đều là thế nhà yêu quái. Nhà cửa nứt vỡ, vách tường sạt lở, đầu kèo hở hoác đó là thế đất đơn độc, khổ sở.

Dương trạch có nền móng vuông vắn, ngay ngắn, dễ xem phương hướng tốt. Nếu như quá cao, quá rộng, quá nhỏ hẹp hoặc méo vẹo, thò thụt, dễ khiến hao của mất người.

Nền đất quá cao, trước sâu sau lẹm, nước không tụ lại, lan man không tập trung, là thế nhà bần cùng. Nhà cao mà đất hẹp, tiền của và nhân đinh (con người) đều hao tổn. Nhà thấp mà đất rộng, trong vòng một đời sẽ giàu có.

Phòng ngủ và phòng khách cũng khác nhau. Phía trước phòng khách có thể để khoảng không rộng rãi, nhưng nếu không gian phía trước phòng ngủ quá rộng thì khí sẽ tản mát.

Với nhà ở thì giếng trời tượng trưng cho tài lộc. Căn nhà phía trước mặt sẽ là án sơn. Giếng trời có kích cỡ hợp lý sẽ tụ tài; căn nhà phía trước có chiều cao vừa phải, tương quan chủ - khách cân xứng sẽ được phúc.

Nhà phía trước nếu như quá cao là thế chủ bị ăn hiếp, nếu như quá thấp là thế khách không tương xứng, quá gần là thế bức bách, quá xa là thế trống trải. Mái nhà phía trước gần, nhà nên thấp, mái nhà phía trước xa, có thể cao nhỉnh lên một chút.

Sự cát hung của nhà ở đều dựa vào những điểm đó. Còn như đại sảnh phía ngoài cũng lại khác, giếng trời của đại sảnh là tiểu minh đường, mà tiền sảnh phía trong cổng là trung minh đường còn cổng là tầng án sơn thứ hai.

Nhà có tường bao quanh, thế đất vuông vắn là tốt (Hình minh họa)

Khoảng không phía trước cổng là đại minh đường, còn triền sơn (sa núi phía trước nhà) là tầng án sơn thứ ba. Tiểu minh đường cần phải kín và tập trung, trung minh đường nên rộng rãi hơn, hình dáng nên vuông vắn. Đại minh đường cần rộng rãi, nhưng cũng không nên trống trải quá.

Sách xưa có viết “nhà hẹp người đông, tức người khắc nhà là cát; nhà rộng người ít tức là nhà lấn người, là hung”.

Lại viết “nhà cũ bị kẹp giữa hai bên là nhà mới xây thì tuyệt đối không nên ở vào đấy. Nhà mới xây lại kẹp giữa hai bên là nhà cũ là thế phú quý hiển hách. Nhà ở nửa cũ nửa mới là thế bần hàn.

(Theo Dothi.net)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hình thế tốt - xấu của nhà và đất

Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có, được phúc đức bao bọc cả đời.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Đôi môi hồng hào, hàm răng trắng đều
 
Đa phần những cô nàng có nét tướng cách này đều được cánh mày râu săn đuổi nhiệt tình. Vì sao ư, vì tính cách họ dịu dàng, giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.
 
Hơn thế, người này có ưu điểm rất lớn chính là tính cách dung hòa, điềm tĩnh, lại rất chu đáo, sau này sẽ là người vợ hiền, mẹ đảm, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp. Đây chính là một trong những đặc điểm của tướng phụ nữ được phúc khí bao bọc.
 

Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
2. Tướng mũi cao và thẳng
 
Phụ nữ có sống mũi cao, thẳng, Sơn Căn rộng và đầy, cánh mũi nở to thường có mệnh phú quý, là mệnh phu nhân, được gả vào gia đình giàu có.
 
Người này thông minh lanh lợi, dù không thành công trên con đường học hành nhưng cũng giỏi ở ngành nghề đã chọn. 
 
Sau khi kết hôn, người này được nhờ chồng, đồng thời cũng phò tá tốt cho chồng. Vậy nên họ luôn được chồng yêu mến, cưng chiều.
 
3. Tướng cằm đầy đặn
 
Ưu điểm dễ nhận thấy ở người này là tính cách lạc quan, yêu đời, dễ hòa hợp, thân thiện với mọi người xung quanh.
 
Sách tướng cổ có ghi: “Phong hạm trọng di, vượng phu hưng gia”, nghĩa là phụ nữ có cằm đầy đặn, nhất là hai cằm là quý tướng, giúp hưng vượng nhà chồng.    Có được người vợ luôn được bao bọc bởi phúc khí này nâng khăn sửa túi, gia đình trong ấm ngoài êm, kinh tế ngày càng phát triển dồi dào.
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
4. Chất tóc mềm mại
 
Chủ nhân của chất tóc mềm mại thường có tính cách điềm đạm, dịu dàng, suy nghĩ tích cực, cuộc sống an bình, thư thái. 
 
Trong gia đình, người phụ nữ này đóng vai trò cân đối hài hòa các mối quan hệ, chu toàn mọi việc trong nhà, bề trên người dưới đều ưng thuận.
 
5. Nhân trung sâu, rõ ràng
 
Đa phần phụ nữ có Nhân trung (phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống) sâu, rõ ràng đều có khả năng sinh con tốt, con cháu đề huề. Hơn thế, chúng còn thông minh, nhiều phúc đức, có hiếu với cha mẹ. 
 
6. Phần dái tai to bản và dày dặn
 
Người có kiểu tai này nhất định được hưởng số mệnh tốt, phúc đức bao bọc cả đời. Bản thân họ khoan dung, độ lượng, hết mực quan tâm, chăm sóc người xung quanh, nhìn chung nhân duyên tốt đẹp. 
 
Phúc khí ở người phụ nữ này cực lớn, cả nhà bạn sẽ tiếp nhận được phúc khí của cô ấy, hưởng thụ cuộc sống an nhàn, dư dả về vật chất. 
 
Nhin ra tuong phu nu duoc phuc khi bao boc hinh anh 2
 
7. Khuôn mặt chữ “Điền”   Đặc điểm của khuôn mặt chữ “Điền” là trán hình vuông, khung xương quai hàm nhô ra, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu. 
 
Chủ nhân của tướng mặt này có tâm tính lương thiện, lối sống phóng khoáng, rộng lượng, đối xử tốt với bạn bè, sẵn lòng giúp đỡ người khác. Do đó, họ dễ lọt vào “mắt xanh” của những gia đình danh giá, được hưởng số mệnh phú quý.
 
8. Mắt to, ánh nhìn có thần sắc   Phụ nữ có kiểu mắt to, thần sắc tốt đều xinh đẹp, tâm  hồn ngây thơ, trong sáng, tính cách cởi mở, tốt bụng và rất lạc quan. Chính vì thế mà được phúc khí bao bọc, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Lấy được chồng giỏi giang, thương yêu hết mực cũng là một trong những điều may mắn ấy.  
Ngọc Điệp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nét tướng cách ở phụ nữ luôn được phúc khí bao bọc

Tài lộc của người tuổi Mão theo từng tháng (P2)

Vận thế trong tháng Thân của người tuổi Mão tương đối tốt đẹp. Những tranh chấp về nhân sự trong công việc lắng xuống, mọi việc dần đi vào ổn định.
Tài lộc của người tuổi Mão theo từng tháng (P2)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7

Tài lộc có nhiều khởi sắc rõ rệt, thu nhập từ bên ngoài tăng lên. Tuy nhiên, họ cũng cần chú ý chi tiêu hợp lý, quản lý tài chính cẩn thận kẻo gặp phải khó khăn về vốn. Trong tháng này, người tuổi Mão nên gác lại mọi vấn đề để tập trung vào công việc của bản thân, tránh để ý đến chuyện người khác kẻo tranh chấp xảy ra.

Tháng 8

Tháng Dậu, vận thế của người tuổi Mão có chiều hướng đi xuống. Người này gặp phải khá nhiều bất lợi trong kinh doanh, tình thế không mấy tốt đẹp. Họ cần phân biệt rõ người tốt, kẻ xấu, chớ nên chỉ nhìn vào vẻ bên ngoài kẻo phải chịu nhiều thiệt thòi. Tài lộc tháng này của người tuổi Mão lên xuống thất thường. Họ phải hết sức thận trọng quản lý tài chính, không được đầu tư vào những lĩnh vực mình chưa chắc chắn. Khi làm bất cứ việc gì, họ cũng cần đặt ra nguyên tắc "không biết không làm", nếu có khúc mắc thì hỏi ý kiến cấp trên.

Tháng 9

Vận thế trong tháng Tuất của người tuổi Mão có xu hướng tốt lên. Tuy nhiên, do có sao dữ chiếu mệnh nên tài lộc của người này cũng không được tốt lắm. Họ vẫn gặp phải những rắc rối trong công việc và cuộc sống hằng ngày, thậm chí có những chuyện liên quan đến tranh chấp. Song, nếu bình tĩnh xử lý mọi việc, người này sẽ vượt qua được mọi khó khăn, thử thách. Họ nên hành động theo những kế hoạch đã định sẵn để tránh rủi ro.

(Ảnh chỉ mang tính chất minh họa)

Tháng 10

Tháng Hợi, vận thế của người tuổi Mão thay đổi hoàn toàn so với những tháng trước. Do có sao tốt chiếu mệnh, tài lộc của họ phát triển mạnh. Mọi trở ngại bấy lâu được giải quyết ổn thỏa. Trong tháng này, người tuổi Mão nên giữ vững ý chí tiến thủ, làm việc có tinh thần trách nhiệm cao và luôn cố gắng hết mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ, mọi thành công sẽ đến với họ.

Tháng 11

Tháng Tý, tài lộc của người tuổi Mão lại có chiều hướng xấu đi, nhiều chuyện không như ý muốn diễn ra khiến họ luôn căng thẳng. Điều quan trọng cho họ thời gian này là phải hết sức bình tĩnh xử lý mọi việc, chớ nên nản lòng, thụ động kẻo khó khăn ngày càng ập đến nhiều hơn.

Tháng 12

Vận thế tuổi Mão trong tháng Sửu có chiều hướng tốt lên. Sự nghiệp cũng tiến triển tốt đẹp, công việc thuận lợi và có nhiều khởi sắc. Lúc này, họ cần nỗ lực hết mình trong mọi hoàn cảnh. Cho dù có trở ngại, họ nên gắng sức vượt qua để gặt hái được thành công nhất định. Họ đầu tư vào lĩnh vực nào cũng có hiệu quả, thu nhập dồi dào, mọi việc như ý.

(Theo Bách khoa toàn thư 12 con giáp)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tài lộc của người tuổi Mão theo từng tháng (P2)

Bệnh tim đập mạnh với bầy rắn điên nhảy múa trong giấc mơ –

Bệnh tim đập nhanh là do thiếu máu, khiến trong lòng lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi. Có một nữ sinh đại học ngoại ngữ Hoa Đông Trung Quôc nghỉ hè về quê ở vùng núi Trường Bạch, ngày đi chơi, tối về nằm mơ thấy nhiều chuyện khủng khiếp. Trong mơ cô thấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bệnh tim đập nhanh là do thiếu máu, khiến trong lòng lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi.

Có một nữ sinh đại học ngoại ngữ Hoa Đông Trung Quôc nghỉ hè về quê ở vùng núi Trường Bạch, ngày đi chơi, tối về nằm mơ thấy nhiều chuyện khủng khiếp. Trong mơ cô thấy mình là nhân viên công ty nhà đất công tác dã ngoại theo các đội xây dựng. Khi đến một công trường nọ, phát hiện trong đám cỏ rậm có một con rắn rất lớn, cô đã đánh chết con rắn. Nào ngờ cô gặp chuyện phiền phức. Đêm đó mặt đất có đến hàng trăm hàng nghìn con rắn vây quanh khu nhà ở của công nhân, mọi người đều kinh sợ, chạy cả vào phòng.

giấc mơ về rắn

Cô gái hoảng sợ nhảy lên giá cao, bầy rắn bắt đầu uốn éo một điệu nhạc hay, hấp dẫn. Theo tiếng nhạc, bầy rắn điên cuồng nhảy theo, náo loạn, mây đen phủ đầy trời. Tim cô đập thình thịch tưởng như nhảy ra khỏi lồng ngực. Quá sợ hãi, cô lấy tay bịt chặt mắt lại. Lúc đó ở bãi đất rộng, một con rắn to há miệng như cái bát bò ra giữa, dùng đầu đập xuống đất 3 cái như bái lạy, ngẩng đầu lên kêu 3 tiếng rồi nhảy múa. Lúc đó trên trời chớp lóe sáng, một trận cuồng phong nổi lên, cô không dám nhìn, chạy vội vào phòng, trùm chăn kín mắt. Sau đó có chớp lửa sáng, cô giật mình tỉnh giấc.

Sau đó cô gái bị đau tim, tim đập nhanh. Cô được đưa vào bệnh viện điều trị.

Trong thời gian ở bệnh viện, bác sĩ khuyên cô không nên coi những sự việc xảy ra trong giấc mơ là thực, giấc mơ chỉ là điềm báo bệnh cho người ta đề phòng. Về sau, thầy thuốc khuyên cô nên thay đổi hoàn cảnh sống. Khi đó nhịp đập của tim trở lại bình thường.

– Trong giấc mơ thấy rắn là biểu hiện của nhịp tim đập không theo quy tắc, đó cũng là biểu hiện của những hoạt động không ổn định. Việc giết rắn và đàn rắn quay xung quanh chỉ là ảo tưởng. Cảnh tượng bầy rắn và con rắn to nhảy múa biểu hiện tim đập mạnh. Trên thực tế nhịp tim của cô đã thể hiện rỗ điều này.

Nằm mơ thấy rắn hoặc rồng nhảy múa nói chung báo hiệu nhịp đập của tim có vấn đề.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bệnh tim đập mạnh với bầy rắn điên nhảy múa trong giấc mơ –

Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.
Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!

Đây là 5 chòm sao sẽ rất may mắn trong việc kiếm tiền vào năm mới tới nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài của các chòm sao này. Năm 2016 sẽ là 1 năm rủng rỉnh, không cần lo nghĩ về tiền bạc của 5 chòm sao này.

TOP 1 - Thiên Bình

Năm 2016, Thiên Bình sẽ là chòm sao tiền bạc rủng rỉnh nhất. Sao Mộc mang may mắn chiếu vào cung tài lộc, mang đến vận may tối cao cho Thiên Bình.
Nếu bạn cảm thấy thu nhập hiện giờ của mình không đủ chi tiêu hoặc lương không xứng với năng lực bản thân, hãy nhanh chóng hành động, thỏa thuận về việc tăng lương nhất định bạn sẽ được như ý muốn, còn muốn đầu tư hãy đầu tư… thời cơ tuyệt vời đang đến, đừng bỏ lỡ.

TOP 2 - Song Tử

Thu nhập của cung Song Tử tăng vọt trong năm 2016, nhờ Sao Mộc chiếu thẳng vào cung tiền tài. Ngoài lương thì Song Tử còn có những khoản thu nhập ngoài sức tưởng tượng như tiền thưởng cao, hoa hồng nhiều.

Chú ý, bạn đừng phô trương quá nhé. Và Song Tử phải thay đổi kế hoạch tích lũy tiền bạc năm 2016, có như vậy vận may tiền tài mới đầy đủ. Bạn hãy lên kế hoạch chi tiêu hợp li, hãy chi những khoản cần thiết và lên kế hoạc trước, đừng nên chi tiêu tiền theo cảm hứng không tài vận sẽ tiêu tan đấy

TOP 3 - Bọ Cạp

Vài năm qua, tình hình tài chính của Bọ Cạp khá bi quan. Nhưng từ giờ, tình trạng đó sẽ chấm dứt. Sự vận hành của Sao Thổ khiến cung Bọ Cạp phải tốn không ít tiền của, nhưng khi Sao Mộc mang theo những điều tốt lành đến, bạn sẽ được thở dài nhẹ nhõm, không phải đau đầu về vẫn đề tiền bạc trong năm nay. Bạn sẽ không phải lo những khoản tiền chi lặt vặt từ trên trời rơi xuống nữa. Năm nay bọ cạp có thuận lợi về công việc nên tình hình lương bổng của bạn sẽ được cải thiện, bạn cũng sẽ thường xuyên nhận được những khoản tiền thưởng.

Trong năm 2016 này, Nếu những Bọ Cạp có đầu óc kinh doanh hãy tận dung cơ hội đầu tư để sinh lời, vận may đang mỉm cười với bạn đấy. Nếu mạnh dạn đâu tư thời gian và vốn liếng thì lời thu về sẽ cực kì nhiều đấy. Vậy nên Bọ Cạp đừng tỏ ra e dè hay sợ điều gì nhé, năm nay là năm nay mắn cả về công việc lẫn tiền tài của bạn.

TOP 4 - Bạch Dương

Trong năm 2016, các chú dê sẽ bước vào thời kỳ đỉnh cao của tài chính. Giai đoạn này, nếu bán hàng hoặc hợp có đồng kinh doanh với ai đó, các Bạch Dương sẽ gặp được khách hàng tốt, nhận được hoa hồng hào phóng.

Nếu tự kinh doanh, bạn cũng có cơ hội kiếm được nhiều tiền. Năm nay Bạch Dương sẽ có thêm những mối quan hệ cực thuận lợi cho kinh doanh, bạn sẽ nhận được sự giúp đỡ, ủng hộ rất nhiệt tình từ bạn bè. Chính vì thế tình hình kinh doanh của bạn sẽ rất phát đạt. Nếu có ý tưởng kinh doanh nào đó, dù là lớn hay nhỏ thì Bạch Dương hãy bắt tay chuẩn bị thực hiện ngay đi nhé, đừng bỏ lỡ.

TOP 5 - Bảo Bình

Bảo Bình luôn là chòm sao khôn bao h phải lo lắng quá nhiều về tiền bạc. Đặc biệt cung giàu sang của Bảo Bình sẽ tiếp tục tăng mạnh năm 2016. Bảo Bình nên chăm chỉ làm việc để kiếm được nhiều tiền hơn - cơ hội đổi đời đã đến. Bạn có thể kiếm được nhiều hơn năm cũ nếu bạn thực sự chăm chỉ, bỏ thời gian và công sức. Bởi vì Bảo Bình có khả năng làm việc hiệu quả rất cao nên sẽ rất được trọng dụng.

Trong quá khứ, bạn có ý định đầu tư nhưng chưa thực hiện được? Vậy đây chính là thời cơ để bạn bắt tay hành động đấy. Tự mình bỏ vốn đầu tư và rủ thêm bạn bè cùng thực hiện cũng là 1 ý tưởng rất hay đấy.

>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!

>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 5 chòm sao sẽ trở thành ‘đại gia’ trong năm 2016

16 nét tướng mặt phụ nữ ảnh hưởng đến hôn nhân

Dưới đây là 16 nét tướng mặt tiêu biểu của người phụ nữ dễ có hôn nhân bất hạnh, nói chung có 1, 2 cái thì cũng không đáng lo. Nhưng nếu có từ 5 – 6 trở lên thì phải rất nỗ lực mới tránh khỏi bất hạnh. Còn từ 8 – 9 thì không cần nói bất hạnh là điều khó tránh.
16 nét tướng mặt phụ nữ ảnh hưởng đến hôn nhân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Trán cao và rộng

Người nữ có trán cao rộng thường mang hoài bão đi xa, có xu hướng hoạt động nhiều ở xã hội hơn là quan tâm đến gia đình, trán quá cao, mắt cũng cao trên đỉnh tai, lương duyên phải hai ba lần mới có.

Nếu sớm hôn nhân, tất dễ chia li. Tuy nhiên tướng này lại thường là nữ có sự thành công về sự nghiệp và tiền bạc. Nên lựa chọn các ngành nghề giao tiếp xã hội nhiều.

2. Hạ Bạch Nhãn

Hạ Bạch Nhãn tức là người nữ có mắt lòng đen đi lên làm lộ lòng trắng phía dưới, là người tâm tính lãng mạn ảo tưởng trong tình yêu, không mấy khi thực tế. Do vậy đường tình gặp nhiều cản trở.

3. Tóc thô, xơ

Người nữ có tóc thô cứng, tính cách ngang bướng, nóng nảy, bảo thủ, không nhu thuần. Thiếu sự hấp dẫn với nam giới, khó có bạn trai.

Kết hôn rồi gia đình cũng khó êm ấm vì tính khí ngang ngược của người phụ nữ này.

4. Môi miệng cong

Là người ít có tín ngôn, hay buôn chuyện, buôn từ chuyện phải tới chuyện trái, buôn từ chuyện nhà ra chuyện người, chuyện người ra chuyện mình.

5. Lông mày rậm

Tác phong thô kệch, không chịu khuất phục bao giờ, khiến người nam sợ hãi.

6. Mắt lộ hung quang

Những người phụ nữ lúc nào mắt cũng có sát khí, quắc lên là những người tính cách xung động, cấp bách thiếu nhẫn nại. Thường bị họa đầu tiên.

Gia đình cũng khó mà yên ổn với tính khí lúc nào cũng sẵn sàng cáu giận của người phụ nữ này.

7. Tiếng nói trầm, khàn

Thể chất không tốt, dễ đẻ non hoặc không có chửa.

8. Lưỡng quyền (2 gò má) nổi quá cao, lộ

Đây là người ngang bướng, cư xử thiếu tế nhị, hay xung khắc với chồng và con, cuộc sống gia đình không hạnh phúc.

Tính cách tấn công và phòng ngự đều cao. Tính tự tư tự lợi cao. Thu mười chỉ muốn chi 1.

Trong tướng số dân gian, tướng này là tướng sát phu, đương nhiên không tốt cho hôn nhân

9. Sống mũi có đốt gồ lên

Một tính cách cương cường đặc biệt, thường níu giữ khó buông. Tính chủ quan rất cao, thường cho mình là đúng. Luôn muốn làm chủ gia đình, không bao giờ chịu an phận thủ thường.

Nếu người chồng không phải người nhu mì nhẫn nhịn, tan vỡ hôn nhân là điều khó tránh.

10. Tai không có vành ngoài

Hay phản nghịch, không chịu khép mình vào khuôn khổ, cũng có câu nói “hai tai nhọn nhỏ nhiều trở ngại, khắc hại”

11. Giọng đàn ông

Người phạm vào điều cấm kỵ này thường xung khắc với chồng và con. Cuộc sống gia đình gặp nhiều trắc trở, cuộc đời cơ cực, dễ phải sống cảnh cô đơn, dễ gặp thất bại hơn là thành công.

12. Miệng có râu

Nếu quanh miệng có lông măng thô và đậm giống như có râu là người có tính cách mạnh mẽ, thích lấn át chồng. Họ có nhu cầu rất cao về đời sống tình dục và vì vậy quan hệ vợ chồng dễ có nguy cơ đổ vỡ.

13. Dáng đi uốn mông, lắc mình

Người có dáng đi uốn mông, lắc mình đầy khiêu gợi, thiếu tế nhị thường không chung thủy, dễ có các mối quan hệ tình cảm bất chính.

14. Dáng đi nhún nhảy

Dáng đi nhún nhảy như chim sẻ là dấu hiệu của người có sức khỏe kém, nóng tính. Khi gặp khó khăn, họ không biết bình tĩnh để tìm ra cách giải quyết hợp lý. Vận mệnh của người này thường không tốt.

15. Đào hoa diện

Ánh mắt đưa đẩy, thường hay cười tình, liếc ngang liếc dọc, sắc da mặt trắng hơi pha màu hồng, mày cong, mắt to là người không coi trọng trinh tiết.

16. Lộ hầu, lộ chân răng

Người có tướng này, cuộc đời gặp nhiều rủi ro, thất bại nhiều hơn thành công.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 16 nét tướng mặt phụ nữ ảnh hưởng đến hôn nhân

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

12 chòm sao trong tiết Thu Phân – tiết khí trong mát, sảng khoái và đẹp đẽ của mùa thu sẽ cần chú ý những điểm gì nhỉ.
Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

12 chòm sao trong tiết Thu Phân – tiết khí trong mát, sảng khoái và đẹp đẽ của mùa thu sẽ cần chú ý những điểm gì nhỉ.


► Xem thêm: Bí mật 12 cung hoàng đạo cùng những tin tức Horoscope được cập nhật mới nhất

Diem van 12 chom sao trong tiet Thu Phan hinh anh 2
 

Bạch Dương

  Theo 12 chòm sao trong tiết Thu Phân, nếu Bạch Dương còn tùy hứng như vậy thì sẽ sớm bị loại khỏi cuộc chơi đấy, cần có sự hợp tác uyển chuyển thì mới đưa tới kết quả hài lòng được. Bạn nhớ cân nhắc làm thế nào để đôi bên cùng thỏa mãn, đừng chỉ chăm chăm nghĩ làm thế nào để mình tốt nhất.  

Kim Ngưu

  Xã giao công việc khá nhiều, Kim Ngưu xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp, trở thành người thành công, được ngưỡng mộ. Đừng vì bận rộn mà quên đi sự giao lưu tình cảm với người nhà nhé, dẫu thế nào thì tình thân vẫn luôn là thứ vô cùng quý giá.  

Song Tử

  Người yêu đồng thời cũng có thể là bạn bè nhưng từ bạn bè trở thành người yêu thì lại là hai việc khác nhau. Giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn là cảm động, không phải tình yêu. Nếu cứ mãi mờ ám, không rõ ràng thì đôi bên sẽ rất mệt mỏi, Song Tử phải chú ý nhé.  

Cự Giải

  Cự Giải cảm thấy khá an toàn đối với việc quản lý gia đình, được gia đình chống đỡ giúp và có nhiều tin tức tốt đẹp. Hãy chú ý tới phong thủy nhà ở, điểm tô những đồ vật cát tường, sẽ mang vận may đến với Cự Giải.  

Sư Tử

  Tâm tình kích động khiến Sư Tử dễ đắc tội với người khác, dù là dũng cảm, quyết đoán nhưng cũng sẽ mang tới khá nhiều phiền phức, rắc rối. Cần học cách ôn hòa, bình tĩnh và sử dụng đầu óc hơn là chỉ chăm chăm nhảy dựng lên mỗi khi có vấn đề.  

Xử Nữ

  Những tính toán, phân tích vô cùng chu đáo của Xử Nữ bỗng trở nên bất thường, có tình huống đột ngột xen vào nên Xử Nữ cần mạo hiểm một chút. Thời gian này không nên đầu tư tiền bạc vào các dự án mới, bạn bè sẽ mang tới vận tài lộc cho Xử Nữ.
Diem van 12 chom sao trong tiet Thu Phan hinh anh 2
 

Thiên Bình

  Với 12 chòm sao trong tiết Thu Phân, đây là tháng của Thiên Bình nên lực hấp dẫn của chòm sao này tăng lên đáng kể, khiến cho người khác có cảm giác yêu mến. Mặc dù chưa thể mang tới nhân duyên tình yêu cho Thiên Bình nhưng bạn bè thì không thiếu.  

Hổ Cáp

  Nhất cử nhất động của Hổ Cáp đều bị mọi người soi mói, trở thành đề tài bàn tán sôi nổi. Vì thế, bạn cần hết sức cẩn thận, tránh ăn nói hồ đồ hoặc có những hành vị lạ thường. Nắm giữ bí mật của người khác thì Hổ Cáp càng phải kín mồm kín miệng.  

Nhân Mã

  Vận xã giao dồi dào, Nhân Mã cần phát huy năng lực hấp dẫn để kết thêm nhiều bạn mới. Gặp gỡ trên những chuyến đi, tình bạn thăng cấp, còn có một đoạn nhân duyên ngắn ngủi mà lãng mạn, đúng là rất đáng mong chờ phải không nào.  

Ma Kết

  Không nên dùng thủ đoạn lợi dụng người khác để đạt được lợi ích, Ma Kết sẽ gây thù chuốc oán và bị cô lập đấy. Hình tượng của Ma Kết trong tình yêu là khá chín chắn, nghiêm túc nhưng đôi khi vẫn nên cho đối phương nhìn thấy những phương diện khác ở bạn.  

Bảo Bình

  Trên đường phiêu du Bảo Bình sẽ tìm được ý trung nhân, phát sinh mối tình đẹp đẽ. Nếu thực sự xác định tình cảm rồi thì hãy tận dụng cơ hội bày tỏ, muôn lời muôn ngỏ trong lòng hãy chân thành mà nói ra, cho cả hai một cái bắt đầu.  

Song Ngư

  12 chòm sao trong tiết Thu Phân có Song Ngư là lo lắng nhiều nhất, lao lực mà không biết có được hồi đáp xứng đáng hay không. Mọi việc đều nhờ duyên, không thể quá gượng ép nên cứ bình tĩnh Song Ngư nhé. 
Khi nói dối, 12 chòm sao sẽ có biểu cảm như thế nào? Thổ lộ khuyết điểm khiến tình yêu tan vỡ của 12 chòm sao Nếu bị phản bội, 12 chòm sao sẽ phản ứng ra sao? Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điểm vận 12 chòm sao trong tiết Thu Phân

Bí quyết sống của Lão Tử qua 19 câu nói cho cuộc sống tươi đẹp

Bí quyết sống của Lão Tử qua 19 câu nói cho cuộc sống tươi đẹp. Lão Tử là bậc tu đạo hơn 3.000 năm trước, được cho là người đầu tiên thuyết về vũ trụ, ông để lại câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo” với ngụ ý Đạo nếu định nghĩa được thì không còn là Đạo, Lão tử không thể giảng rõ hơn được, vậy rốt cuộc Đạo là gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lão Tử là bậc tu đạo hơn 3.000 năm trước, được cho là người đầu tiên thuyết về vũ trụ, ông để lại câu: “Đạo khả Đạo phi thường Đạo” với ngụ ý Đạo nếu định nghĩa được thì không còn là Đạo, Lão tử không thể giảng rõ hơn được, vậy rốt cuộc Đạo là gì?

Phải chăng cái Đạo, chân lý mà ông muốn đề cập là điều to lớn, không ai có thể nói chính xác đó là gì, hay con người không xứng để nghe? Ông để lại nhiều câu khiến người đời và hậu thế phải nghiêng mình khâm phục, người đọc tùy hoàn cảnh mỗi lần xem lại đắc thêm ý mới, có tác dụng dẫn dắt con đường tâm linh, dẫn chứng cho ý ông nói, thế nhân ai muốn định nghĩa Đạo mà ông giảng, sau một thời gian nhìn lại cũng tự thấy mình “lạc hậu”, nên không thể định nghĩa được là vậy.

1. Lo thắng người thì loạn, lo thắng mình thì bình.

2. Nếu muốn được tất cả, phải từ bỏ tất cả.

3. Hiểu người là khôn, hiểu được mình mới là khôn thật sự.

4. Nếu biết vạn vật đều thay đổi, thì bản thân không nên cố nắm giữ điều chi.

5. Ai vội vàng tiến lên phía trước đều không thể đi xa.

6. Ai muốn hiển thị mình sẽ tự làm lu mờ bản thân.

7. Ai muốn chứng thực bản thân sẽ không tự biết bản thân mình là ai.

8. Ai muốn ước chế người khác thường không tự ước chế bản thân mình.

9. Không còn sự đối chọi, ma quỷ tự tiêu tan.

10. Nếu biết nhìn vào tâm mình, anh có thể tìm thấy tất cả các câu trả lời.

11. Nhu thắng cương, tĩnh thắng động.

12. Hãy để mọi chuyện tùy kỳ tự nhiên.

13. Nếu người muốn co lại, trước hết hãy cho phép nó duỗi ra. Nếu người muốn từ bỏ, hãy cho phép nó nhảy xuất ra. Nếu người muốn có điều gì, trước hết phải cho đi thứ đó.

14. Những khởi đầu tốt đẹp thường được ngụy trang thành một đoạn kết bi thảm.

15. Chú tâm đến sự công nhận của người khác rồi người sẽ trở thành tù nhân của chính họ.

16. Nếu một người có thể nhận ra mình không thiếu thứ gì, cả thiên hạ đã thuộc về người đó.

17. Vô hình vô tướng là niềm an lạc nhất.

18. Bậc trí tuệ là người biết những gì mình không biết.

19. Khi bạn hài lòng đơn giản là chính mình, không so sánh hay cạnh tranh với ai, tất cả mọi người sẽ tôn trọng bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí quyết sống của Lão Tử qua 19 câu nói cho cuộc sống tươi đẹp

Có vân mắt Phật trên ngón tay cái, cuộc đời an nhiên tự tại

Nếu sở hữu vân mắt Phật trên ngón tay cái, bạn thuộc tuýp người thông minh, nhạy bén, có thể truyền cảm hứng cho mọi người xung quanh nên cuộc sống an nhiên,
Có vân mắt Phật trên ngón tay cái, cuộc đời an nhiên tự tại

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Nếu sở hữu vân mắt Phật trên ngón tay cái, bạn thuộc tuýp người thông minh, nhạy bén, có thể truyền cảm hứng cho mọi người xung quanh, cuộc sống an nhiên, tự tại.


=> Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác


Vân mắt Phật hay còn có các tên gọi khác như vân Phật tâm, vân Khổng Tử, vân mắt phượng, vân Phu tử, khánh vân... Đây là đường vân nối giữa đốt thứ nhất và thứ hai của ngón tay cái.

Đa phần người có vân mắt Phật trên ngón tay cái thường có những đặc điểm về tính cách, đời sống nội tâm cũng như vận mệnh như sau.

Co van mat Phat tren ngon tay cai, cuoc doi an nhien tu tai hinh anh
 
1. Thông minh, lanh lợi


vân mắt Phật còn có tên gọi là vân Khổng Tử, ý chỉ người có đường vân đặc biệt này thông minh, lanh lợi, học hành chăm chỉ, giỏi giang, tiền độ xán lạn. Thông thường, người này xuất thân trong gia đình có điều kiện kinh tế tốt, hoặc có thể lập đại nghiệp bằng con đường thi cử, cuộc sống gặp nhiều may mắn, ít phải trải qua sóng gió.

Tuy nhiên, nếu đường vân này bị đứt đoạn, nhiều đường vân ngang dọc khác chạy qua thì lại cho thấy chủ nhân không có ý chí kiên cường, lười động não, không có chí tiến thủ, dễ thất bại. Bên cạnh đó, sức khỏe cũng không tốt, bệnh tật liên miên.

Co van mat Phat tren ngon tay cai, cuoc doi an nhien tu tai hinh anh 2
 
2. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc


Vân mắt Phật là một trong những biểu tượng cát tường. Nữ giới có đặc điểm này thường kết hôn với người ưu tú về mọi mặt hoặc có tiềm lực kinh tế rất mạnh. Nếu cả hai ngón tay cái ở hai bàn tay đều có vân này thì càng tốt, danh lợi song toàn.

Đặc điểm bàn chân mang lại tài khí tốt cho chủ nhân
– Bàn chân nhỏ nhắn nhưng đầy đặn là nét quý tướng. Người có kiểu chân này, đặc biệt là nữ giới, gặp khá nhiều may mắn trong cuộc sống vì đi
3. Cuộc sống an nhiên, tự tại


Chủ nhân sở hữu vân mắt Phật là người khá mạnh mẽ, thẳng thắn nhưng cũng không kém phần hài hước. Đi tới đâu bạn cũng truyền cảm hứng cho mọi người xung quanh nên rất được chào đón.

Bên cạnh đó, người này sở hữu tri giác nhạy bén, trí nhớ tốt, giác quan thứ sáu nhanh nhạy. Vì thế, chẳng mấy khi thấy bạn bị vướng vào những rắc rối trong cuộc sống. Trái lại, cuộc sống lúc nào cũng an nhiên, tự tại như thể được Đức Phật độ trì.

Ngọc Diệp


Những nét tướng đặc trưng của người gặp đại họa không chết
– Sở hữu một trong những nét quý tướng dưới đây, chủ nhân làm việc gì cũng hanh thông, gặp đại họa không chết, hóa hung thành cát, cuộc sống

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Có vân mắt Phật trên ngón tay cái, cuộc đời an nhiên tự tại

Valentine tặng quà gì cho bạn trai, chồng?

Việc tặng quà cho bạn trai luôn làm các bạn gái bối rối. Sau đây là các gợi ý tặng quà cho bạn trai nhân ngày Lễ tình nhân Valentine 14/2.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Món quà ngọt ngào

Món quà ngọt ngào có thể là một chiếc bánh chocolate handmade, một món ăn mà anh ấy yêu thích, chiếc khăn len do bạn tự đan, một album ảnh handmade.... Những món quà này tuy không đắt tiền nhưng lại gói ghém tất cả tình yêu và sự quan tâm của bạn dành cho chàng đó.

Áo sơ mi, cà vạt

Những chiếc áo sơ mi, cà vạt lịch lãm luôn luôn cần thiết với các chàng trai. Bạn có thể chọn mua những chiếc áo sơ mi để tặng cho bạn trai. Đặc biệt, bạn hãy quan tâm tìm hiểu số đo của bạn trai trước nhé.

Nước hoa

Nhiều bạn trai có thói quen sử dụng nước hoa. Vì vậy bạn có thể mua tặng anh ấy một loại nước hoa nam tính ở cửa hàng.

Giày

Bạn hãy quan sát trang phục mà anh ấy thường mặc để lựa chọn một đôi giày hợp lý, đúng kích cỡ.

Ví da, dây lưng

Ví da gắn liền với mong muốn thành đạt của các chàng trai. Bạn có thể mua một chiếc ví với màu sắc phù hợp để anh ấy luôn mang theo bên mình.

Nếu hai bạn đã gắn bó với nhau trong một thời gian dài thì có thể mua món quà tế nhị hơn là dây lưng để tặng chàng.

Chúc các bạn lựa chọn được món quà Valentine tặng bạn trai, chồng ưng ý!

Ngọc Khánh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Valentine tặng quà gì cho bạn trai, chồng?

Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mão

Xét về tổng thể, vận thế của người tuổi Mão năm nay khá tốt, gặp nhiều thuận lợi, may mắn trong công việc và chuyện tình duyên.
Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mão

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Van the nam At Mui cua nguoi tuoi Mao hinh anh
Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mão

Tổng quan
: Người tuổi Mão sinh vào năm 1939, 1951, 1963, 1975, 1987, 1999, 20111. Mão và Mùi thuộc mối quan hệ tam hợp, do đó, trong năm Ất Mùi này vận thế của người tuổi Mão thuận lợi. Công danh sự nghiệp và chuyện tình duyên của người tuổi Mão đều khởi sắc năm trước, nhất là vào nửa cuối năm. 
 
Tài vận: Trong năm nay, tài vận của người tuổi Mão khả quan, có nhiều khoản thu nhập bên ngoài hoặc phần thưởng phụ. Dù là người làm chủ kinh doanh hay làm công ăn lương, trong năm nay đều thuận lợi, thu nhiều nhưng chi cũng không ít. Người tuổi Mão có thể tiến hành đầu tư góp vốn, hợp tác làm ăn để gặt hái được số tiền khổng lồ vào dịp cuối năm. 
 
Sự nghiệp: Đường công danh sự nghiệp trong năm 2015 này của người tuổi Mão khởi sắc và nhiều thuận lợi. Bạn có khả  năng được thăng chức hoặc được cấp trên tin tưởng, giao phó trọng trách. Điều quan trọng là bạn phải biết nắm bắt cơ hội, nhất là vào mùa thu sẽ có những tiến triển vượt bậc. Nếu hợp tác tốt với đồng nghiệp thì mọi chuyện càng suôn sẻ và thành công hơn.
 
Sức khỏe: Về cơ bản sức khỏe của người tuổi Mão khá tốt và ổn định trong năm nay. Tuy nhiên, bạn cần cẩn thận vào tháng 2 và tháng 8, dễ bị ngã hoặc bị thương ở tay chân. Đó là những tổn thương nhẹ ngoài da, không đáng lo ngại cũng như không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống của bạn. Bạn nên tận dụng thời gian để tập luyện thể thao nâng cao sức khỏe. Tranh thủ ra ngoài hít thở không khí trong lành thay vì quá tập trung vào công việc. Làm việc và nghỉ ngơi phải đan xen nhau, có như vậy bạn mới hoàn thành khỏe mạnh để phấn đấu cho sự nghiệp.
 
Tình duyên: Năm Ất Mùi hứa hẹn chuyện tình duyên nở rộ ở người tuổi Mão. Nếu còn độc thân, chắc chắn bạn sẽ tìm được một nửa của mình. Nếu đã có gia đình, tình cảm vợ chồng thêm thắm thiết, hòa hợp và hạnh phúc. 
 
Cách hóa giải: Người tuổi Mão được sự phù hộ độ trì của Phật bản mệnh là Văn Thù Bồ tát. Do đó, có thể dùng tượng phật này bài trí trong nhà. Ngoài ra, có thể đeo thêm các món đồ trang sức màu sẫm đen như mã não đen, thạch anh đen…sẽ mang lại nhiều may mắn cho bạn.
 
ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận thế năm Ất Mùi của người tuổi Mão

Phong thủy phòng ăn xấu: Tài lộc tiêu tán

Phòng ăn phạm phong thủy gây mất mát tiền của, tài sản, sức khỏe suy giảm...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong thế giới hiện đại, thiết kế phòng ăn gia đình riêng biệt chắc chắn không phải là điều khác thường. Từng khu vực, từng vị trí trong phòng ăn đều đóng vai trò rất quan trọng. Về bản chất, phong thủy phòng ăn liên quan trực tiếp tới may mắn, tài lộc của gia đình và mối quan hệ vợ chồng.

Theo quan điểm phong thủy, có một số kiêng kỵ cần lưu ý đối với phòng ăn và những sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng tài sản tiêu tán, mất mát tiền của, hao tổn sức khỏe, phát sinh bệnh tật...

 phong thuy phong an xau: tai loc tieu tan - 1

Nếu có phòng ăn riêng, tốt nhất bạn nên xem xét kỹ lưỡng vị trí, không gian và màu sắc. Nhà đẹp xin chỉ ra 4 điều cần lưu tâm sau đây:

1. Tránh phòng ăn đối diện cửa nhà vệ sinh/phòng tắm

 phong thuy phong an xau: tai loc tieu tan - 2

Phòng ăn là nơi phục vụ hoạt động ăn uống cho cả gia đình, trong khi đó, nhà vệ sinh/phòng tắm lại là nơi chứa nguồn năng lượng bẩn thỉu, ô uế, hôi hám. Theo phong thủy, hai căn phòng này đối diện với nhau là cách bố trí sai lầm, rất xấu.

Trường hợp này có thể sinh ra bệnh tật cho người cư trú, đặc biệt là các bệnh phát sinh từ đường miệng nên phải tránh tuyệt đối.

2. Tránh kết hợp phòng ăn trong phòng bếp

 phong thuy phong an xau: tai loc tieu tan - 3

Tránh kết hợp phòng bếp và phòng ăn trong cùng một không gian. Bởi vì, khi nấu nướng, các loại khói bụi, mùi thức ăn... sẽ tích tụ lại, lâu dần sẽ ảnh hưởng đến vấn đề vệ sinh và từ đó gây hại tới sức khỏe của bạn và người thân.

Dân gian có câu "Mở cửa thấy bếp, tiền bạc tiêu tán", có nghĩa rằng nếu cửa ra vào (cửa chính) và phòng bếp tạo thành đường thẳng (bạn có thể nhìn thấy bếp trực tiếp từ cửa ra vào), nó có thể khiến của cải, tiền bạc thất thoát và sức khỏe suy giảm, nhất là đường tiêu hóa.

3 Tránh màu sắc tươi sáng trong phòng ăn

 phong thuy phong an xau: tai loc tieu tan - 4

Những gam màu trung tính như màu gỗ, màu cà phê và đen rất được khuyến khích sử dụng cho bàn ăn. Không chọn màu sắc quá rực rỡ và tươi sáng. Nếu đã sắm sửa 1 bộ bàn ăn đắt tiền nhưng lại có màu sắc quá chói sáng thì bạn cũng không cần bận tâm, lo lắng. Vấn đề này có thể được khắc phục dễ dàng bằng cách trải một lớp khăn trải bàn màu trung tính lên trên bề mặt bàn ăn là được.

4. Tránh thiết kế xà nhà trong phòng ăn

 phong thuy phong an xau: tai loc tieu tan - 5

Trần phòng ăn tốt hơn hết nên có hình dạng bằng phẳng và đơn giản, không thiết kế thêm xà nhà... Nếu thiết kế trần nhà nghiêng kèm theo những thanh xà nhà nặng nề, nó sẽ gây ra các vấn đề về sức khỏe cho các thành viên trong gia đình.

Có nhiều ảnh hưởng khác nhau và điều này phục thuộc vào vị trí của thanh xà nhà. Ví dụ, nếu thanh xà nhà ở trên bàn ăn, nó sẽ cản trở khả năng tiêu hóa của con người và theo thời gian, nó có thể dẫn đến bệnh tật về đường tiêu hóa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng ăn xấu: Tài lộc tiêu tán

Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tuất

GIÁP-TUẤT 20 TUỔI: (Sinh từ 10/2/1994 đến 30/1/1995). Mệnh:Sơn-Đầu-Hỏa (Lửa đầu ngon núi)
Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tuất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

NAM: Sao Thổ-Tú hạn Tam Kheo: Mẫu người thực dụng, có tham vọng, biết dùng kiến thức của mình để tạo quyền lực, tự tin gan lì bất khuất. Trong gia đình là con hiếu thảo thủy chung. Ai sinh tháng 1, 5, 12 có tài lãnh đạo, có óc chỉ huy. Nếu cố công sách đèn học tập là nhân tài lỗi lạc, lãnh đạo đất nước, tương lai rạng ngời. Sinh vào mùa Thu thì lúc nhỏ khó nuôi, sự nghiệp chỉ thành tựu trên gian nan tân khổ.

“Tánh người gánh vác đa đoan

Tài năng lãnh đạo lo toan hơn người

Khoa danh thi cử chờ thời

Công hầu khanh tướng tương lai rạng ngời”

Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội hoc hành cho đúng lúc, sẽ ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Cha mẹ không thể sống mãi để lo cho mình suốt đời. Giờ nào việc ấy. Đây là lúc phải chuyên cần học tập. Cánh cửa đại học đang mở rộng hứa hẹn một tương lai rạng ngời. Năm nay gia đình có người đau ốm bệnh hoạn hay tang chế bà con xa. Lái xe phải hết sức cẩn thận, đề phòng rủi ro và nằm đường. Xấu nhứt là tháng 4, tháng 8.

NỮ: Sao Vân-Hớn hạn Thiên Tinh: Nữ nhân nam tánh tài giỏi, đầy mưu trí, có tinh thần trách nhiệm tự tin hơn người,  sẵn sàng giúp người với lòng quảng đại vị tha, đầy chân thành. Trong gia đình, hiếu thảo, tề gia nội trợ, quán xuyến đảm đang. Tuy nhiên đừng yêu đương quá sớm có hại. Không nên tự biến mình thành con nai vàng ngơ ngác trước cạm bẩy tình yêu. Giờ nào việc ấy. Hãy trau dồi học vấn mới là tối quan trọng trong lúc này.

“ Cơm cha áo mẹ ơn thầy

Tuổi xuân học tập tháng ngày chăm lo

Tương lai vinh hiển ấm no

Yêu cuồng sống vội hẹn hò không nên.”

Ở đời có ba điều đáng tiếc: Một là việc làm được hôm nay lại bỏ qua. Hai là hiện tại đời này không lo học. Ba là thân này lở hư. Một người dù thông minh tài giỏi tới đâu mà không nắm lấy cơ hội học hành cho đúng lúc, sẽ ân hận suốt đời. Ngay cả thiên tài cũng chỉ là những cố gắng lâu dài mà thôi. Đây là lúc phải chuyên cần học tập. Cánh cửa đại học đang mở rộng với hoa thơm cỏ lạ đón mời. Chỉ cần học hành chăm chỉ 4 năm đại học, có thể thảnh thơi 40 năm sau này. Lái xe phải cẩn thận phòng rủi ro, nhất là vào đầu và cuối năm.

NHÂM-TUẤT 32 TUỔI: (Sinh từ 25/1/1982 đến 12/2/1983).

Mệnh: Đại Hải Thủy (Nước đại dương).

NAM: Cung Ly, sao Thái-Dương, hạn Tán-Tận: Mẫu người thiện ác phân minh với một tinh thần trách nhiệm. Tính tình nhẫn nhục, chịu khó và thường thành công về kỹ thuật. Tiền vận hay bị trắc trở về tình duyên, hôn nhân chậm trễ. Thành tựu trong cuộc đời nhờ trung tín cần cù, hăng say trong công việc. Người yêu hạp với những tuổi Nhâm-Tuất (1982), Qúi-Hợi (1983), Giáp-Tí (1984) và Ất-Sửu (1985), Canh-Thân ( 1980), và Nhâm-Thân ( 1992). Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Đông và chánh Bắc.

“ Làm người tín nghĩa cần cù

Lo đường học vấn công phu đạt thành

Trau dồi phẩm hạnh tinh anh

Một lòng hiếu thảo công danh dễ dàng”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Ngũ Thọ Tử” không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở kinh doanh. Tuy nhiên công việc làm ăn rất phát đạt thịnh vượng. Nhờ đó, tình trạng tài chánh được cải thiện vô cùng sung túc. Tốt nhứt trong mùa Đông. Muốn thay đổi công việc, chỗ ở hay đi xa xuất ngoại đều thực hiện được.

NỮ: Cung Càn, sao Thổ-Tú, hạn Hùynh-Tuyền: Bản chất thông minh, thích nghiên cứu học hỏi, chăm chỉ, tự tin. Nữ nhân mà nam tính, năng nỗ, tháo vác được người trên tín nhiệm, người dưới kính nể. Qúi bạn sinh mùa Thu, Đông sớm thành sự nghiệp. Rất trung thành và hơi bảo thủ. Tiền vận hay trắc trở về hôn nhân gia đạo. Nhưng khi thời cơ chín mùi thì trên sỏi đá khô cằn vẫn mọc lên những đóa hoa tươi thắm. Cưới hỏi nên chọn ngày giờ tốt trong  tháng 4, 5,10 và 11 âm lịch, bất luận năm nào.  Hôn nhân hạp với các tuổi Giáp-Tí (1984), Giáp-Dần (1974) , Nhâm-Tí (1972), Đinh-Tị ( 1977) và Nhâm-Tuất (1982). Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Bắc,Tây Nam và Tây Bắc.

“ Người hơi bảo thủ rất trung thành

Tính tình tháo vát dễ nên danh

Hôn nhân gia đạo còn trắc trở

Chú trọng học hành tiến đạt nhanh”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Ngũ Thọ Tử”, không  tốt cho việc xây cất hoặc chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở thương mãi. Tháng 4, tháng 8 trong gia đình có người đau yếu hay tang chế bà con. Nếu muốn sinh con, thì nên có thai sau tháng 6, để sinh con Giáp-Ngọ, có thể tốt cho cha mẹ 20 năm.

CANH-TUẤT 44 TUỔI: (Sinh từ 6/2/1970 đến 26/1/1971)

Mệnh: Thoa Xuyến Kim (Vàng làm đồ trang sức)

NAM: Cung Chấn, sao Thái-Am, hạn Diêm-Vương: Mẫu người sáng trí thông minh, hiếu động, cần cù nhẫn nại với một tinh thần trách nhiệm, nên cuối cùng cũng tạo được hai chữ công danh. Đôi khi cuộc đời trớ trêu hễ công danh thăng trầm thì tình duyên lại tốt đẹp, nhất là qúy ông sinh tháng 3, 4, và 8. Số hay xa gia đình, cách biệt người thân cha mẹ anh em. Phải chăng tại “ Canh cô Mồ quả”? Cưới vợ hợp với những tuổi Ất-Mão (1975),  Nhâm-Tí (1972) và Giáp-Tí (1984).  Hạp màu vàng, kỵ màu đỏ. Hướng nhà cửa hay làm ăn tốt nhất là chánh Nam và chánh Đông.

“ Mẫu người sáng trí thông minh

Tánh tình hiếu động vững tin cuộc đời

Trăm năm duyên nợ do Trời

Đức năng thắng số một đời bình yên”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu có ý định xây cất, chỉnh trang nhà cửa hoặc cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Nếu công việc làm ăn cần xử dụng nhiều về computer, nên chăm sóc cho mắt nhiều hơn. Mọi việc làm ăn nên giữ nguyên tình trạng cũ, không nên đầu tư thêm để khuếch trương, vì dễ lâm vào hoàn cảnh lớn thuyền, lớn sóng, tiếng có miếng không.

NỮ: Cung Chấn, sao Thái-Bạch, hạn Thiên-La: Mẫu người hoạt bát, nhanh nhẹn, trọng hình thức bên ngoài. Thích chủ động mọi việc với nhiều tham vọng. Qúi bà sinh mùa Thu dễ giàu có và chồng con hạnh phúc. Số ly hương tự lập, ít khi được gần gủi gia đình cha mẹ anh em. Lấy chồng không hợp tuổi tác cũng tan hợp bất thường. Cái khó nhất trong cuộc đời là yêu thương cuộc sống với những nỗi thống khổ của mình. Nếu còn độc thân, sẽ hợp với các tuổi Giáp-Dần (1974), Đinh-Mùi (1967), Mậu-Thân (1968), Giáp-Thìn (1964), Nhâm-Dần (1962) và Đinh-Dậu (1957). Hướng làm ăn tốt nhất là Nam và Đông.

“ Ly hương lập nghiệp là nên

Vợ chồng chung thủy vững bền do ta

Trăm năm duyên nợ thuận hòa

Sinh con qúi tử cửa nhà vui tươi”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm “Nhị Nghi” nếu muốn xây cất, chỉnh trang nhà cửa, kể cả cơ sở kinh doanh đều có thể thực hiện được. Gia đình có người ốm đau hao tài tốn của hay tang chế bà con trong tháng 5. Lái xe cũng phải hết sức cẩn thận đề phòng tai nạn xe cộ trong tháng nói trên.

MẬU-TUẤT 56 TUỔI: (Sinh từ 18/2/1958 đến 7/2/1959)

Mệnh: Bình Địa Mộc (Cây ở đồng bằng).

NAM: Cung Càn, sao Thổ-Tú, hạn Ngũ-Mộ: Tâm chất khoan hòa hiền lành, thích tự lập, biết tính toán khôn ngoan. Tiền vận lao đao thăng trầm. Ngoại trừ qúi ông sinh mùa Xuân, Đông thường có gia đình yên vững, tiền tài sung túc. Nếu là con út thì sớm bị mồ côi, thiếu niên tân khổ. Khi đã tri thiên mệnh, bạn là người thích triết, thích đạo lý và có tâm hồn hướng thượng, tu hành. ( Đức Phật Thích-Ca sinh năm Mậu-Tuất). Bà vợ là cánh tay phải đắc lực nếu nhằm vào các tuổi Bính-Ngọ (1966), Đinh-Mùi (1967), Mậu-Thân (1968), Canh-Tí (1960), Mậu-Tuất (1958) và Bính-Thân (1956). Nhà cửa hay làm ăn nên chọn hướng Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc.

“ Tâm hồn hướng thượng tu hành

Thích về đạo lý đạt thanh đạt hoà

Cuộc đời luôn được thăng hoa

Giữ tâm vui vẻ độ tha giúp đời”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Ngũ Thọ Tử”, không tốt cho việc xây cất, chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở kinh doanh. Tháng 4 tháng 8 trong gia đình có tang chế bà con hay đau ốm bệnh hoạn. Tuy nhiên công việc làm ăn sẽ phát đạt thịnh vượng. Tiền vào nhanh như ngựa chạy. Nếu muốn thay đổi chỗ ở, chỗ làm hay đi xa xuất ngoại đều thực hiện được.

NỮ: Cung Ly, sao Vân-Hớn, hạn Ngũ-Mộ: Tư chất hiền lành thẳng thắn. Đôi khi nguyên tắc, thiếu uyển chuyển, mềm mỏng nên khó thành công trên thương trường. Nếu bạn là con út trong gia đình thì sớm bị mồ côi, thiếu niên tân khổ. Khi đến tuổi tri thiên mệnh, bạn sẽ thích tôn giáo, đạo lý với một tâm hồn hướng thượng, tu hành. (Đức Phật Thích-Ca tuổi Mậu-Tuất). Lấy chồng hợp với tuổi Nhâm-Thìn (1952), Giáp-Thân (1944), Giáp-Ngọ (1954), Nhâm-Dần (1962), Đinh-Dậu (1957) và Mậu-Tuất (1958). Nếu lấy chồng không hợp tuổi, chẳng những hiếm muộn về con cái, mà hạnh phúc vợ chồng như bèo mây tan vỡ, nước chảy qua cầu mà thôi. Hướng làm ăn tốt nhất là chánh Đông và chánh Bắc.

“ Cuộc đời sáng lạng huy hoàng

Sống luôn hướng thượng chứa chan tâm hồn

Cầu cho hạnh phúc vuông tròn

Trau dồi đạo đức đâu còn phải lo”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm“Ngũ Thọ Tử”; không tốt cho việc xây cất hay chỉnh trang nhà cửa, cơ sở thương mại. Đầu năm không nên đầu tư chứng khoán. Cuối năm dễ bị ngộ nhận hiểu lầm gây miệng tiếng thị phi. Tuy nhiên đây là năm thành công như ý trên mọi lãnh vực: Đi buôn phát tài. Làm công chức sẽ được thăng quan tiến chức. Muốn thay đổi chỗ ơ, chỗ làm, hay đi xa xuất ngoại đều thực hiện được.

BÍNH-TUẤT 68 TUỔI: (Sinh từ 2/2/1946 đến 21/1/1947).

Mệnh: Ốc Thượng Thổ (Đất trên nóc nhà).

NAM: Cung Ly, sao Thái-Dương, hạn Thiên-La: Nếu qúi ông là con út trong gia đình thì thiếu niên tân khổ, gần mẹ xa cha hay gần cha xa mẹ. Ly hương mới dễ thành đạt. Đây là mẫu người thích triết, thích đạo lý với một tâm hồn hướng thượng, tu hành. Cũng có lúc muốn ẩn dật, nhưng phong ba bão táp đã qua rồi. Bình minh đang ló dạng. Thuyền tình đang lặng lẽ đi vào bến hạnh phúc. Hướng nhà cửa và làm ăn tốt nhất là chánh Đông, chánh Bắc.

“ Tu hành hướng thượng tiến nhanh

Ly hương thành đạt công danh vẹn toàn

Trải qua bão táp dập dồn

Thuyền tình lặng lẽ vuông tròn bến mơ”

Năm nay bàn tay Kim-Lâu nhằm“Nhị Nghi”: Nếu muốn xây xây cất chỉnh trang nhà cửa hay cơ sở kinh doanh, có thể thực hiện được. Đây là năm thành công như ý trên mọi lãnh vực: Đi buôn thì phát tài. Làm công chức, công vụ vẫn vững vàng. Cho nên không cần về hưu sớm. Tốt nhất trong mùa Hè và Đông. Gia đình có hỉ sự như có thêm cháu.

NỮ: Cung Càn, sao Thổ-Tú, hạn Diêm-Vương: Nếu qúy bà là con út trong gia đình thì thiếu niên tân khổ, gần mẹ xa cha, gần cha xa mẹ. Nữ nhân mà nam tính, rất thông minh, năng nỗ, hợp với những công tác xã hội. Có thể tin rằng  bão tố phong ba đã qua rồi. Bình minh đang lố dạng, hãy yên tâm mà đổ bến. Số ly hương dễ thành đạt. Có căn tu, thích triết, đạo lý với một tâm hồn hướng thượng. Hướng làm ăn tốt nhất là Đông Bắc, Tây Nam và Tây Bắc.

“ Nữ nhân nam tính rất thông minh

Phải sống phương xa cách gia đình

Nhờ tánh thiện lành tâm bác ái

Qua hồi giông bão tới bình minh”

Năm nay bàn tay Kim Lâu nhằm “Nhị Nghi”: nếu muốn xây cất nhà cửa hay chỉnh trang cơ sở thương mãi, có thể thực hiện được. Tháng 4, tháng 8 gia đình có người bệnh hoạn ốm đau hay tang chế bà con. Hạn chế tối đa việc đi xa xuất ngoại trong 2 tháng nói trên. Tuy nhiên gia đình có hỉ sự như có thêm cháu nội, ngoại.

Nguồn Vietstar

Xin Lưu ý: Đây chỉ là tài liệu tham khảo, nếu Quý khách hàng muốn có bài luận giải tử vi đúng của chính mình, xin vui lòng đóng phí ở dịch vụ Xem tử vi trọn đời để được chuyên gia gửi bài luận giải qua địa chỉ email.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận sơ lược Tử vi Tuổi Tuất

Đạo lý vận mệnh

I– Luận về lập mệnh 1. Khổng Tiên Sinh đoán rõ định mệnh.
Đạo lý vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy.

Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả.

Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế.

Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.

Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi.

Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy.

Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách.

II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh

1. Nguyên lý của việc cải tạo

Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa.

Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều cực ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì?

Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư?

Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được?

Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy.

Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm thì thật không hợp đạo lý mà chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Số mệnh đã định thì chẳng phải phí công phí sức, dù cầu hay không, tự nhiên rồi sẽ có. Ngược lại số không có, lại không biết phương pháp hướng nội tâm cầu thì dù có trăm phương ngàn kế mưu đồ cũng không được gì cả, chỉ mất công vô ích mà thôi, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất.

2. Phương pháp cải tạo vận mệnh

a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh

Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru!

Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá  mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượi nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết.

Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là số mệnh đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói cũng là do quả báo định vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn.

b)   Việc triệt để sửa lỗi

Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy.

Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao! Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được.

Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư?

Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu.

Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không?



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đạo lý vận mệnh

Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ. Trong Sách vấn - tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: "Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương". Có thể giải thí

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Y học phương Đông cho rằng, các loại giun cũng là một nguyên nhân tạo ra những giấc mơ.

Trong Sách vấn – tác phẩm Trung Hoa cổ đại có chép: “Đoản trùng nhiều sẽ nằm mơ nhiều, trường trùng nhiều thường nằm mơ thấy đánh nhau bị thương”.

1346893312171_image023

Có thể giải thích: Nếu cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại dài thì sẽ nằm mơ thấy đánh nhau bị thương; nếu trong cơ thể có nhiều ký sinh trùng loại ngắn thì sẽ mơ thấy tụ tập nhiều người.

Danh y Cao Sĩ Tông đời Thanh cho rằng: “Đoản trùng nhiều sẽ tụ tập thành bầy, cho nên nằm mơ thấy nhiều người tụ tập. Trường trùng nhiều chầu miệng vào nhau nên thấy đánh nhau bị thương”.

Ngày nay người ta xác định “đoản trùng” là sán.

Trong Thuyết văn giải tự có viết:

“Sán là loại trùng ngắn, sống trong bụng”.

Danh y Đào Nguyên Phương đời Tùy trong sách Thư bệnh nguyên hầu luận có viết:

“Sán là một trong chín loại ký sinh trùng sống trong ruột, hình nhỏ, như sán kim”.

Còn “trường trùng” chính là giun đũa.

Ngoài trường trùng và đoản trùng, các loại ký sinh trùng khác cũng có thể gây nên những giấc mơ.

Sách Thái Bình quảng ký có chép: “Đêm Tấn Dương ra lệnh cho Lưu Văn Tỉnh thủ mưu để lật Lý Thế Dân, Thế Dân nằm mơ thấy mình ngã vật ra giường, có nhiều con sâu đến đục khoét rất đau đớn”.

Lúc đó, thiền sư Tri Mãn ở chùa An Lạc, người Tây Hà, đã trai giới thanh tịnh nói: “Có thể mừng được”, người nằm trên giường sẽ làm hoàng đế. Ăn uống tập thể đó là biểu hiện tiệc ăn mừng, nhân dân ngưỡng mộ hoàng đế”.

Các số liên quan đến giấc mơ:

Giun: 11 – 94


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giun đũa với cảnh tượng trong mơ –

Trả lời mẫu 1

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI GIẢI QUẺ CHU DỊCH MẪU (1)
Trả lời mẫu 1

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

XEM MỘT SỐ CÂU TRẢ LỜI MẪU
(CHO PHẦN ĐẶT CÂU HỎI "Chu Dịch hỏi đáp")

Vì lí do riêng tư, nên Tên họ trong các bài viết dưới đây đã được Ban Quản Trị thay đổi.

Câu Hỏi 1: Tôi sẽ chuyển đổi cơ sở làm ăn của tôi sang một nơi khác vào tháng tới, tôi có nên làm như vậy không? và bao giờ tôi mới có thể mua thêm một cơ sở nữa như lòng tôi mong muốn. Thành thật cám ơn.

Trả lời:
Tiết (6) --> Di --> Trung Phu (6)
Tiết (2) Di --> Truân (2)
Vận khí năm Ất Dậu 2005:
Tuỵ (4) & Quán (6)
Vận khí năm Bính Tuất 2006:
Khôn (5) & Truân (1)

Giải:
Tiết chế mà không chuyển, không đi thì dù lý đúng tình dung thì vẫn ẩn tàng điều bất toàn ở phía trước. Nên chuyển ! Do việc di chuyển có quẻ Khảm (2) cho nên: Sau khi chuyển sang cơ sở mới xong chớ thực hiện ngay việc khuếch trương thanh thế. Hãy đợi 1 tháng sau.

Vận khí năm 2005 cho thấy chưa có cơ hội mua thêm cơ sở mới.
Vận khí năm 2006 & đầu năm 2007 có Thuần Khôn (5): Có cơ hội để mua thêm cơ sở mới. Trường hợp không thực hiện việc mua thêm vào năm 2006, phải đợi đến cơ hội lần sau vào năm 2012.

Câu hỏi 2: Tôi có nên bán căn nhà đang ở và mua căn nhà lớn hơn (sẽ bắt đầu xây) trong tháng 9 sắp tới hay không?

Lôi Phong Hằng (3) --> Quải --> Lôi Thủy Giải (3)
Lôi Phong Hằng (5) --> Quải --> Đại Quá (5)

Giải:
Căn nhà lớn hơn căn nhà hiện chị Kim Hồng đang trú ngụ có một khiếm khuyết nằm ngoài khả năng chỉnh sửa của chị, nơi đó nằm trong phạm vi địa bàn hoạt động của bọn trộm cướp.
Khi so sánh căn nhà nơi chị đang ở với ngôi nhà lớn hơn sẽ bắt đầu xây trong tháng 9 tới, quẻ cho thấy dù căn nhà chưa được ổn và tốt cho SINH KHÍ đàn ông, nhưng nó vẫn còn tốt hơn ngôi nhà lớn kia.
Như vậy, chị Kim Hồng không nên nghĩ đến việc mua bán, trao đổi với ngôi nhà lớn kia.

Câu hỏi 3: Ngày mai tôi sẽ đi thực tập tại một cơ sở mà tôi định sang lại từ một người bạn, mọi dự tính của tôi có được thuận bườm xuôi gió không và nếu có đến tháng nào tôi mới có thể sang lại đươc cơ sở đó?.

Trả lời :
Truân (2) --> Bóc --> Tiết (2)
Truân (2) --> Bóc --> Tuỳ (4)
Vận Khí năm 2005:
Trạch Địa Tuỵ (4) & Phong Địa Quán (6)
Giải:
Quyết định nhận sang cửa hàng này là hoàn toàn đúng. Mọi việc sẽ thuận buồm xuôi gió. Nếu có chuẩn bị được điều gì tốt nhất cho công cuộc kinh doanh, thì cô hãy thực thi với toàn bộ khả năng sẵn có hiện nay của mình. Vì sao như vậy ? Bởi năm sau, năm 2006, là năm “Hốt Bạc” cho vận khí của Cô.
Từ nay cho tới tháng 9 âm lịch, sẽ có vài lần cô nhận được sự gợi ý sang tiệm cụ thể là vào tháng 5, 7. Nếu có thể lần lữa được hãy nên nhận tiệm vào tháng 9 là tốt nhất.

Câu hỏi 4: Tôi đã vừa dứt khoát chia tay với người bạn trai, tôi muốn biết trong tương lai người đàn ông này có còn quấy rầy và liên lạc với tôi nữa không và tôi có thực sự đã hết cảm giác với người này? Xin thành thật cảm ơn.

Trả lời :
Truân (2) --> Bóc -->Tiết (2)
Truân (2) --> Bóc --> Tuỳ (4)
Giải:
Bạn có thể yên tâm về khả năng tỉnh táo ở người bạn trai. Trong mọi tình huống, sẽ không xảy đến điều gì bất lợi cho bạn.
Thật là khó khi quẻ có sự xuất hiện của Trạch Lôi Tuỳ để có thể cho rằng bạn sẽ mất hoàn toàn cảm giác với người này. Thật khó lắm !
Ngoài điều trên, trong quẻ Chu Dịch này còn cung cấp cho bạn một lời khuyên thật rõ ràng : “Nếu khi đi theo sự quyết tâm xoá bỏ toàn bộ cảm giác, sẽ xuất hiện tình trạng xấu. Điều xấu sẽ thể hiện theo chiều hướng cô độc, khô khan, tự cô lập bản thân.”

Câu hỏi 5: Tôi vớI cô bạn tên là Nguyễn Ngọc Nga (sinh vào ngày 31 tháng 12 năm 1987 vào lúc 6h00 sáng), tôi muốn hỏI xem tôi và cô bạn gái đó có đi đến vấn đề hôn nhân được không ? Hiện tạI thì cô ta đang có ngườI bạn trai mới.

Trả lời :
Minh Di (1) --> Giải --> Khiêm (1)
Minh Di (3) --> Giải --> Phục (3)
Vận Khí năm 2005, của bạn:
Đại Hữu (4) & Thái (6)
Vận Khí năm 2005, cô Nguyễn Ngọc Nga::
Hằng (1) & Qui Muội (3)

Bản mệnh của bạn:
Lữ (1) --> Đại Quá --> Ly (1)
Tiết (4) --> Di --> Đoài (4)
Bản mệnh, của cô Nguyễn Ngọc Nga::
Khốn (6) --> Gia Nhân --> Tụng (6)

Giải:
Căn cứ vào tính cách của cô Nguyễn Ngọc Nga được thể hiện qua Bản Mệnh Chu Dịch thấy rất rõ rằng cô Nguyễn Ngọc Nga là người dễ thu hút bởi phái mạnh, và dễ bị chinh phục bởi lời nói đôi khi chỉ cần một chút tình cảm.
Vận khí Chu Dịch cũng cho thấy trong năm nay có 2 người đàn ông cùng theo đuổi cô ấy, tuy nhiên, cái cách theo đuổi thật khác nhau. Người thứ nhất là bạn, người thứ hai là người hiện cô Nguyễn Ngọc Nga đang quan tâm đến, người ấy chỉ xem cô Nguyễn Ngọc Nga như một trong những bóng hồng lướt qua ... Tôi nói rằng cô Nguyễn Ngọc Nga đang “quan tâm đến” là đã sử dụng từ ngữ chính xác trong trường hợp này.

Vì sao lại xảy ra tình trạng này ? Vì bực bội ? Vì muốn thử lòng ? Hay ở điều gì khác ? Câu trả lời là: Cô Nguyễn Ngọc Nga bị lôi cuốn bởi lời nói ngọt ngào ở người đàn ông kia… Gia cảnh của cô Nguyễn Ngọc Nga không được thuận hoà, các mối quan hệ trong gia đình thường hay căng thẳng, đây chính là cái gốc của vấn đề vì sao cô Nguyễn Ngọc Nga thường dễ vướng vào sợi dây chằng chịt của tình cảm như vậy.
Bạn là người bạn trẻ có tâm tánh rất tốt, phải nói rằng quá tốt khi xem qua Bản Mệnh Chu Dịch! Người tốt thường hay gặp kiếp nạn. Điều này cũng đúng cho bạn trong những năm gần đây.
Bạn cùng cô Nguyễn Ngọc Nga sẽ đi đến hôn nhân sau sự cố này. Tuy nhiên, để giải quyết sự cố này cho tạm ổn cần phải hết năm nay.

Câu hỏi 6: Tôi muốn hỏi về chuyện tình cảm giữa tôi và ngườI tên Lery sanh năm 1964. Hiện giờ tôi và người đó đang giận nhau không biết rồI chuyện tình cảm của tôi và người đó sẽ như thế nào ? có thể hòa lạI hay là chia tay ? Tôi muốn biết là tình cảm giữa tôi vớI Lery dứt khóat hay tiếp tục ?


Nội Dung trả lời:
Hiện giờ tôi và người đó đang giận nhau không biết rồI chuyện tình cảm của tôi và người đó sẽ như thế nào ? có thể hòa lạI hay là chia tay ?
Tụng ra kết quả là Gia Nhân, Bỉ & Hoán
Vận khí: Hoả Thuỷ Vị Tế (2) & Lôi Địa Dự (6)

Giải nghĩa:
Lery hiện đang ở thế bế tắc của tự ái nơi người đàn ông.
Lery muốn rằng cô Ái Như phải là người đầu tiên giải quyết vấn đề đang bế tắc này.
Lery đang chờ đợi.
Về phần cô Ái Như, cô không thể chấp nhận được thế bế tắc như hiện nay.
Cô cần có 1 lối ra mà phần giải quyết hay lên tiếng phải là từ Lery.
Bế tắc là từ chỗ này: Suy nghĩ của 2 bên nghịch nhau.
Cô Ái Như sẵn sang chấp nhận cách giải quyết rằng không thể tiến tới thì vẫn duy trì ở mức độ tình thân bạn bè.
Đồng nghĩa với điều này là trái banh đang ở về phía cô Ái Như.
Hoà hay chia tay là ở nơi cô Ái Như.

Tôi muốn biết là tình cảm giữa tôi vớI Lery dứt khóat hay tiếp tục ?
Thuần Tốn ra kết quả Khuê, Hoán & Cổ (5)
Vào thời điểm này (15-08) Lery hiện mang tâm trạng gần như tan vỡ.
Với cô Ái Như, nếu tiếp tục mối quan hệ này ở mức độ tình cảm như trước đây hay mong muốn tiến xa hơn là rất khó khăn. Hoàn toàn không có lối ra.

Câu hỏi 7: Thời gian tới vợ chồng tôi muốn mở cửa hàng kinh doanh nhưng không biết phải chọn ngành nào để mang lại thành công và thuận lợi. Được biết chúng tôi có 1 số hướng như sau: mở cửa hàng ăn uống, cửa hàng kinh doanh quần áo trẻ em, cửa hàng điện thọai di động,…hoặc chúng tôi phải chuyển hướng kinh doanh mặt hàng khác, đó là mặt hàng gì ?

Nội Dung trả lời:
Hỏi: Chọn ngành hàng gì để mang lại thành công & thuận lợi ?

Trả lời:
Thời vận: quẻ Truân qua quẻ Tiết (2) & Tuỳ (4)
Vận Khí người chồng: quẻ Phệ Hạp qua quẻ Khuê (2) & Di (4)
Vận Khí người vợ: quẻ Tấn qua quẻ Dự (6) & Vị Tế (2)
Giải:
Việc chọn ngành hàng kinh doanh định ở quẻ Tiết & quẻ Tuỳ.
Hai quẻ này mang nội dung: ăn uống & phục vụ.

Vận khí người chồng có Di (4): Dạn dĩ kinh doanh & thực hiện việc kinh doanh gai góc được.
Thời vận cho thấy: Việc kinh doanh trong năm nay sẽ có cơ hội được thu hoạch rất tốt khi chọn ngành hàng: ăn uống & phục vụ.
Tuy vậy, trong vận khí người chồng & thời vận có tiềm ẩn mối nguy: “Mắt hổ nhìn đăm đăm” & “Có cơ nguy” khi phục vụ rốt ráo mang tính “Hương Xuân”.
Cơ nguy đến đâu? Ta xem vận khí người vợ.
Vận khí người vợ có Vị Tế (2): “Gắng sức trì kéo lại. Trì kéo được”. Như vậy, vận khí năm nay ở người vợ bổ sung & hỗ trợ tốt cho vận khí người chồng.

Kết luận:
Ngành hàng kinh doanh nên chọn:
Cửa hàng ăn uống có phục vụ bia rượu & có thêm 1 chút “Hương Xuân” ở độ vừa phải.
Cửa hàng quán café, giải khát có thêm 1 chút “Hương Xuân” ở độ vừa phải.

Câu hỏi 8: Quan Lộc (công danh sự nghiệp) từ năm 2004 trở lên?
Câu hỏi 9:Tiền tài (tài bạch) năm 2004 trở lên? (người này hỏi gồm 2 câu).

Nội Dung trả lời:

Giải đáp:
Đây là mẫu người có cá tính mạnh.
Sẽ nói về công danh sự nghiệp & tiền tài đến tuổi về hưu.
Câu hỏi 1: Công danh sự nghiệp từ năm 2004 trở lên?


Trả lời 1: Có 2 ý:

  • Ý thứ nhất: Tính từ năm 36 tuổi trở đi, công danh sự nghiệp khởi đi lên. Sự đi lên này có được là từ cá tính… Nói năng thẳng thắn, khẩu khí dạn dĩ phù hợp với vai trò quản lý, chỉ huy, lãnh đạo. Tuy nhiên, do “CÁCH” Tứ trụ của người này là Trung Bình, nên không thể làm lớn. Cụ thể, nếu làm cho công ty nhỏ thì quản lý cấp trưởng; cho công ty cỡ trung bình chỉ cấp Phó; ở công ty tầm cỡ lớn chỉ là nhân viên giỏi.
  • Ý thứ hai: Công danh sự nghiệp là ổn định cho đến tuổi về hưu.

Câu hỏI 2: Tiền tài năm 2004 trở lên?
Trả lời 2:  Có 2 ý:

  • Ý thứ nhất: Cung Tài Bạch gặp Tuần, vì thế, khả năng của bản thân không thể tạo nên của cải lớn. Cách ở Tứ Trụ, cho thấy giai đoạn trung niên bản thân làm ra tiền khá dồi dào (so với trước đó) cho đến trước 49t.
  • Ý thứ hai: Năm Giáp Thìn (2024) & năm Ất Tỵ (2025) Là vào năm 52t & 53t sẽ gặp Đại nạn khiến tinh thần suy sụp, nhưng không gây nguy hại đến tính mạng. Hai năm này, công việc bị trì trệ, tiền bạc phải tiêu tốn khá nhiều…

Kết luận:

Từ 2004 đến tuổi về hưu:
      • Công danh là đi lên. Tầm cỡ trung bình.
      • Tiền bạc do bản thân làm ra không dẫn đến giàu có, nhưng ổn định.

      Câu hỏi 10: Tôi dự định nghỉ việc làm hiện tại để mở một cơ sở thương mại (Tiệm giặt ủi). Vậy công việc làm ăn này có khả quan không ?, trong năm nay và trong tương lai (dài hạn)?

      Trả Lời:
      Xem xét 3 mặt: Đánh giá quyết định mở cơ sở, Vận khí của vợ chồng trong năm Giáp Thân (2004) & Bản mệnh vợ chồng có phù hợp với tiệm giặt ủi.

      Đánh giá quyết định mở tiệm:
      Quyết định này nằm trong Phong Địa Quán (3) &  Thuần Cấn (5)
      Quán cho rằng: Chuẩn bị chưa chu đáo. Chớ nên tiến.
      Cấn cho rằng: Đi tới phía trước sẽ không thấy người.
      Như vậy: Quyết định mở tiệm vào thời điểm này là chưa phù hợp do chuẩn bị chưa chu đáo. Và khách hàng sẽ đến rất ít so với dự kiến.

      Vận khí vợ chồng:
      Đức Sang:
      Vận khí năm Giáp Thân (2004) là Cách (3) & Tuỵ (1)
      Cách cho rằng: Tiến ngay vào thời điểm này là xấu.
      Tuỵ cho rằng: Tạo lập nhóm mới là tự phá hỏng.

      Như vậy: Người chồng mở cơ sở trong năm nay, thu nhập sẽ rất thấp không đủ trang trải chi phí vận hành cơ sở.
      Nguyễn Mai Thảo:
      Vận khí năm Giáp Thân (2004) là Tổn (3) & Tiểu Súc (5)
      Tổn cho rằng: Hao phí đấy, nhưng có thêm bạn.
      Tiểu Súc: Có khả năng điều tiết, cảm hoá được nhiều người.

      Như vậy: Người vợ mở cơ sở trong năm nay sẽ có thu nhập đủ trang trải chi phí & có tích luỹ.
      Bản mệnh vợ chồng có phù hợp với tiệm giặt ủi ?
      Đức Sang: Mang bản mệnh Trạch Lôi Tuỳ.
      Nguyễn Mai Thảo: Mang bản mệnh Sơn Thiên Đại Súc.
      Như vậy: Người chồng có bản mệnh phù hợp với các công việc của cơ sở giặt ủi. Người vợ do có Đại Súc nên công việc giao tiếp phải có sự tiếp sức của người chồng (Do có Tuỳ) mới có kết quả tốt.

      Kết luận:
      Người chồng có khả năng phù hợp với cơ sở thương mại giặt ủi, tuy nhiên, nếu chồng là người quản lý điều hành chính năm nay sẽ cho kết quả kinh doanh xấu, và đến năm 2006 sẽ phải thay đổi công việc.
      Người vợ là người quản lý điều hành chính sẽ cho kết quả kinh doanh tốt năm Giáp Thân (2004). Trong tương lai (lâu dài) một mình người vợ quản lý điều hành, kết quả kinh doanh sẽ rất khó khăn. Có sự giúp sức của chồng mới bền vững.

      Xem tiếp trả lời mẫu 2.

      Mời bạn tham gia dịch vụ ĐẶT CÂU HỎI CHU DỊCH.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Trả lời mẫu 1

Sao Cự Môn - Chỉ về lời ăn tiếng nói và ngôn ngữ thị phi

Tìm hiểu về ý nghĩa của sao cự môn, Cự Môn là một sao ám tinh chủ sự về ngôn ngữ thị phi. Nằm ở vị trí tốt thì có tài ăn nói, vui vẻ, nhân hậu.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sao Cự Môn - Chỉ về lời ăn tiếng nói và ngôn ngữ thị phi

Sao Cự Môn - Chỉ về lời ăn tiếng nói và ngôn ngữ thị phi

Sao Cự Môn thuộc chòm sao Bắc Đẩu Tinh, tên thường gọi là Cự (Thuộc tính Âm thủy).

Sao Cự Môn miếu địa tại cung Mão và Dậu.

Vượng địa tại cung Tý, Ngọ và Dần.

Đắc địa tại cung Thân và cung Hợi.

Và hãm địa tại cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và Tỵ.

Cung mệnh có sao Cự Môn tọa thủ là người có thân hình đẫy đà, thấp da trắng, mặt vuông, đầy đặn, mắt hơi lộ.

Cự Môn vượng địa tại cung Tý, Ngọ được ví như viên ngọc trai quý được cất giấu trong đá, cần gặp Hỏa, Lộc đồng cung hay tuần, triệt án ngữ để để tăng vẻ sáng suốt và tốt đẹp, cũng như đá đã được phá vỡ lộ viên ngọc quý ra ngoài.

Sao Cự Môn hãm địa gặp Khoa: chẳng đáng lo ngại những chuyện chẳng lành. Khoa giải trừ được tính hung hãn của sao Cự bị hãm địa.

Sao Cự Môn miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp Xương, Khúc, Khôi, Việt, Khoa, Tuế hội họp là người có văn tài lỗi lạc, khẩu thuyết hùng hồn, thích hoạt động chính trị thường chuyên về ngành tư pháp và ngoại giao.

Cự Môn miếu địa, vượng địa hay đắc địa gặp Hổ, Tuế, Phù hội họp là người biết nhiều luật pháp, hay lý luận thường làm quan tòa hay thầy kiện.

Sao Cự Môn vượng địa tại Tý Và Ngọ là một người học rộng tài cao, có đức độ. Nếu gặp Tuần triệt, án ngữ và hóa lộc đồng cung thì được hưởng phú quý tột bậc. Trái lại nếu không gặp hóa lộc và tuần, triệt án ngữ mà gặp lộc tồn đồng cung thì chẳng khác nào, ngọc chìm sâu dưới biển, cung mệnh có cách này là người đa học, đa năng nhưng không gặp thời.

Sao Cự Môn hãm địa tại cung Thìn và Tuất rất mờ ám và xấu xa nhưng đối với tuổi Qúy, Tân mà cung mệnh nằm ở đây lại là người thông minh và được hưởng giàu sang, trong cuộc đời những chuyện xấu xảy ra chẳng đáng lo ngại.

Cự Môn hãm địa tại cung Thìn và Tuất đối với tuổi Đinh, Canh lại càng mờ ám xấu xa, vì có sự khắc, hãm vậy cho nên tuổi Đinh và Canh  mà cung mệnh an tại đây thì khổ sở tới mức tột cùng.

 Sao Cự Môn hãm địa tại cung Sửu và Mùi rất mờ ám và xấu xa nhưng đối với tuổi Ất và Bính, Tân lại thành sáng sủa tốt đẹp, vì có sự ứng hợp. Vậy cho nên tuổi Ất, Bính, Tân mà có cung mệnh an tại Sửu và Mùi có sao Cự Môn tọa thủ là người thông minh, học rộng, trong cuộc đời có gặp tai ương bệnh tật cũng chẳng phải lo ngại.

 Cự hãm địa gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp như Xương, Khúc, Khôi, Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc là người hiểu biết sâu rộng có tài văn chương và ăn nói khôn ngoan và đanh thép thường người này sẽ làm về hoạt động chính trị, thầy giáo.

Sao Cự Môn hãm địa gặp sao Lộc, Tuế hội họp thì nên đi buôn.

Cự hãm địa gặp nhiều sao mờ ám xấu xa nhất là các sát tinh như Kỵ, Hình thì suốt đời túng quẩn, cô đơn phải lang thang phiêu bạt, gặp những bệnh tật khó chữa, Dễ xa vào xiềng xích và có thể bị yểu tử.

Dù Cự môn ở vị trí tốt mà gặp Hóa Kỵ đồng cung thì không thể tránh khỏi những tai nạn về sông nước hoặc xe cộ trong cuộc đời.

Cung mệnh có sao Cự Môn, Thái Dương tọa thủ và đồng cung tức từ đời ông cha đã có cuộc sống vinh hiển và liên tiếp ba đời đều danh giá.

Thân mệnh đồng cung có sao Cự Môn và Thái Dương tọa thủ đồng cung là người cũng khá giả, danh tài gồm đủ nhưng không được toàn mỹ, như trong trường hợp cung mệnh tại Dần có Cự, Nhật tọa thủ đồng cung.

Cung mệnh an tại Dần, Thân có sao Cự Môn và Thái Dương tọa thủ đồng cung rất tốt đẹp vì ở đây Thái Dương rất sáng sủa giống như mặt trời trên cao tỏa sáng xuống mặt đất, trong trường hợp này Cự, Nhật kị gặp sao Lộc Tồn đồng cung, cần gặp Hóa Quyền và Phượng các hội họp.

Cung mệnh an tại Mão, Dậu có Cự, Cơ đồng cung gặp nhiều sao sáng sủa tốt đẹp chắc chắn sẽ làm chức lớn. Nhưng thích chơi bời và ăn tiêu hoang phí.

Tuổi Âm nữ Ất, Tân mà cung mệnh an tại Mão và Dậu có Cơ, Cự tọa thủ và đồng cung là người vượng phu ích tử, trong trường hợp này nếu Cự, Cơ không gặp Tuần, triệt án ngữ xung chiếu lại là người tài giỏi, đảm đang, có tài thao lược.

Cung mệnh an tại Mão và Dậu có Cơ, Cự tọa thủ và đồng cung gặp song hao hội họp tất có uy quyền hiển hách, danh tiếng lẫy lừng.

Cung mệnh an tại tứ mộ (Tý, Ngọ, Mão, Dậu) có sao Cự Môn tọa thủ hoặc có Cự, Đồng tọa thủ đồng cung gặp sao Kình, Kỵ hội họp thật khó có thể đề phòng được tai nạn về sông nước nhưng tuổi Bính, Tân mà cung mệnh có cách này thì lại không lo ngại.

Cung mệnh an tại Thìn, Tuất có sao Cự Môn tọa thủ hay có Thiên Đồng tọa thủ đồng cung gặp Thiên La, Địa Võng hội họp, gặp Hóa Khoa đồng cung hoặc xung chiếu là người có tài du thuyết như lịch sử đời Hàn.

Tuổi Tân ứng hợp với Cự và cần có Cự Môn thủ ở mệnh vậy cho nên tuổi Tân mà cung mệnh an tại tứ mộ, có Cự tọa thủ tuy ở đây Cự Môn mờ ám những vẫn khá giả. Trong trường hợp này nếu Cự môn gặp Tả, Hữu hội họp,  lại thành một bộ sao cứu mệnh giải trừ được nhiều bệnh tật và tai họa xảy ra trong đời.

Cung mệnh có sao cự môn gặp Kình Đà và Hỏa Tinh hội họp thì rất mờ ám xấu xa có cách này thì suốt đời đau thương mắc nhiều bệnh tật và khó tránh khỏi nhiều tai họa dáng xuống.

Cung mệnh có sao Cự Môn tọa thủ và Đà La đồng cung tất trong mình có nốt ruồi kì lạ.

Cung mệnh hay cung thân có Cự Môn tọa thủ bị hãm địa gặp Kình, Đà đồng cung là người yếu đuối, mắc nhiều bệnh tật, sống khổ sở, nếu khỏe mạnh thì chỉ có thể là quân trộm cắp, ăn tàn phá hoại.

Cung mệnh có Cự tọa thủ gặp Hỏa, Kình, Đà hội họp tọa thủ cùng với những sao xấu xa mờ ám khác tất thắt cổ hoặc tự vẫn ở nơi sông nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Cự Môn - Chỉ về lời ăn tiếng nói và ngôn ngữ thị phi

Sử dụng âm thanh theo phong thủy

Theo phong thủy, âm thanh cũng có ảnh hưởng tới vấn đề cải thiện môi trường. Âm thanh tác động trực tiếp tới giác quan và đánh thức sự tiếp thu, cảm nhận của
Sử dụng âm thanh theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, âm thanh cũng có ảnh hưởng tới vấn đề cải thiện môi trường. Âm thanh tác động trực tiếp tới giác quan và đánh thức sự tiếp thu, cảm nhận của con người, vì thế nó có sức ảnh hưởng nhanh chóng.

Chuông gió tạo âm thanh cao

Âm thanh có thể chia làm 2 loại: âm thanh trầm như trống, phèng la hay các dụng cụ tương tự và âm thanh cao như chuông, chuông gió. Âm thanh trầm thường làm chấn động môi trường, do đó nó có gây ảnh hưởng không tốt đến nơi bị tác động. Tuy nhiên, đôi khi cũng cần dùng đến âm thanh trầm để làm tăng sinh khí. Âm thanh cao có khả năng xua tan ám khí nên nó được sử dụng phổ biến trong việc bài trí nhà ở theo phong thủy.

Chuông gió được sử dụng rộng rãi để xua tan khí xấu, làm tăng sinh khí cho không gian. Ngoài ra, nó còn đem lại may mắn cho gia chủ. Khi treo chuông gió, nên chú ý đến chất liệu chuông và hướng treo chuông. 

Âm thanh của chuông đồng to có tác dụng mạnh. Tuy nhiên, do kích thước của chuông quá lớn nên nó chỉ được sử dụng ở những không gian đặc thù như chùa chiền.

(Theo Nguoilanhdao)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sử dụng âm thanh theo phong thủy

Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Chùa Tứ Kỳ còn có tên gọi khác là Linh Tiên tự thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội
Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Tứ Kỳ còn có tên khác là Linh Tiên tự. Chùa thuộc thôn Tứ Kỳ, xã Hoàng Liệt (nay thuộc quận Hoàng Mai), huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội, cách trung tâm Thủ đô 8km về phía Nam theo quốc lộ 1A.

Chùa được xây dựng vào năm 1687, trên một khu đất cao ráo về phía Đông Bắc làng, phía ngoài là tam quan, tiếp đến nhà bia, tiền đường, thượng điện, nhà Tổ, nhà Mẫu và vườn tháp.

Tam quan xây 2 tầng nhìn ra quốc lộ 1A, qua khỏi tam quan đến 2 nhà bia kiểu phương đình chồng diêm, trong mỗi nhà có 1 tấm bia đá đặt trên lưng rùa. Tòa tiền đường 5 gian 2 dĩ đầu hồi bít đốc tay ngai, vì kèo kết cấu chồng rường giá chiêng, mái phân thượng tứ – hạ tứ. Thượng điện là ngôi nhà 1 gian, nối liền với toà tiền đường kết cấu hình chữ Đinh. Nhà Tổ được làm theo kiểu đầu hồi bít đốc, kiến trúc đơn giản bằng những vật liệu mới do tu sửa năm 1993. Nhà Mẫu gồm 5 gian. Việc bài trí tượng thờ so với các chùa khác đơn giản hơn vì thiếu bộ tượng Khuyến Thiện, Trừng Ác, Thập điện Diêm vương và tòa Cửu Long.

Sát tường hậu tiền đường, bên phải đặt tượng Thánh Hiền, bên trái là tượng Đức Ông, gần tượng Thánh Hiền là 1 quả chuông khá lớn có khắc chữ “Linh Tiên tự” đúc năm Thiệu Trị 1 (1841). Dọc gian giữa thượng điện là hệ thống bệ thờ xây gạch, bày các bộ tượng: Quan Âm Nam Hải ở giữa, hai bên là 2 vị Bồ Tát, sau đó là bộ tượng A Di Đà tam tôn, trong cùng phía trên cao nhất là bộ tượng Tam thế. Tường hậu là nhà thờ Mẫu, trên tòa thạch đống có tượng mà người ta đoán là Chánh vương Phủ Thị Nội Cung Tần họ Nguyễn, tên Diệu Tâm và các pho tượng Ngũ vị tôn ông, Quan Hoàng, Đức Thánh Trần. Tượng trong nhà Tổ đều thể hiện tư thế ngồi, khuôn mặt từ bi.

Trước đây, Chùa là nơi hoạt động bí mật của cán bộ Đảng, chính quyền huyện xã trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Sư cụ Đàm Dần trụ trì chùa đã được chính phủ tặng thưởng huy chương kháng chiến.

Chùa Tứ Kỳ là một ngôi chùa có cảnh đẹp ở phía tây nam thành phố nằm trong hệ thống di tích của Thủ đô. Nơi đây còn là một trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của một cộng đồng dân cư và là nguồn sử liệu quý giá mang giá trị lịch sử về sự tồn tại của làng cổ Tứ Kỳ. Đây cũng là nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử phát triển của đạo Phật phái thiền tông trên vùng đất phía Nam Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVIII – XIX. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa năm 1995.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Tứ Kỳ - Hà Nội

Bật mí những con giáp có chuyện tình đẹp như mơ trong tháng 3

Cùng xem ai sẽ sở hữu chuyện tình yêu khiến nhiều người ghen tỵ nhất tháng này nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1: Tuổi Dần

Tuổi Dần không chỉ may mắn và gặt hái được nhiều thành công vang dội trong công việc mà còn vô cùng đào hoa và còn bổ sung thêm hàng tá các "vệ tinh" vây quanh trong tháng này. Dù không trang điểm lộng lẫy hay bóng bẩy, không dùng những lời nói hoa mĩ và khoa trương nhưng bạn vẫn luôn vô cùng nổi bật khi đứng giữa đám đông. Bạn sẽ nhận được sự quan tâm vô cùng đặc biệt của mọi người xung quanh mình. Nhiều khả năng bạn sẽ trúng tiếng sét ái tình với một nhân vật khá bí ẩn và thú vị trong thời điểm giữa tháng, hãy sẵn sàng để đón nhận mối nhân duyên mà bạn mong đợi đã lâu này nhé.

bật mí những con giáp có chuyện tình đẹp như mơ trong tháng 3 - ảnh 1.

Top 2: Tuổi Tý

Chuyện tình yêu không có gì nổi bật trong tháng trước của tuổi Tý nay như được khoác thêm tấm áo mới vô cùng tươi sáng và rực rỡ. Bạn sẽ luôn được sống trong những phút giây lâng lâng hạnh phúc của tình yêu đôi lứa. Lời tỏ tình vào thời điểm không thể chính xác hơn giúp xóa nhòa khoảng cách vô hình mà hai bạn chưa đủ can đảm để bước qua lâu nay. Những phút giây đắm say, ngọt lịm sẽ khiến hai bạn cảm thấy không thể sống thiếu nhau và cũng khá nhiều luyến tiếc vì đã không ở bên nhau sớm hơn nữa đấy.

Top 3: Tuổi Ngọ

Cuộc sống của những bạn sinh nhằm tuổi ngựa sẽ luôn đầy ắp niềm vui và tiếng cười trong tháng 3 này. Chuyện tình đẹp tựa như cổ tích mà bạn sở hữu sẽ khiến bao chàng trai, cô gái thầm ngưỡng mộ và hướng tới. Những cử chỉ chan chứa yêu thương và quan tâm mà người ấy dành cho bạn sẽ là động lực để bạn cố gắng và phấn đấu nhiều hơn cho tương lai của hai người. Những hành động lãng mạn và vô cùng ngọt ngào của bạn cũng khiến đối phương bị "hạ gục" hoàn toàn và không thể nào rời xa bạn được. Hãy cùng nuôi dưỡng và vun đắp cho mối lương duyên này ngày càng tốt đẹp và sớm đơm hoa kết trái nhé tuổi Ngọ.



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bật mí những con giáp có chuyện tình đẹp như mơ trong tháng 3

Tướng phụ nữ đam mê tình dục |

Tình dục trong đời sống ai cũng có, song đối với một số phụ nữ, nhu cầu gần gũi này lớn tới độ trở nên ám ảnh. Chỉ cần nhìn một số nét trên gương mặt, sẽ đoán được đối tác của mình thuộc loại phụ nữ nào. Phụ nữ quá trọng nhục dục, thường biểu hiện ra
Tướng phụ nữ đam mê tình dục |

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng phụ nữ đam mê tình dục |

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd