Tuổi Tý và tuổi Thìn có hợp nhau không? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
tối kỵ.

Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà.
Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.
Nguyên nhân bởi cây xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.

Tuyệt đối không để xương rồng trong phòng tân hôn. Các loại thực vật có gai chủ yếu là hoa hồng, xương rồng… thường được trang trí trong phòng tân hôn. Tuy nhiên, theo phong thủy, những chiếc gai nhọn mang hàm ý đối đầu, ăn miếng trả miếng. Điều này khiến cho vợ chồng dễ gây tổn thương cho nhau (ở mức độ nhẹ), không bao dung, nhẫn nhịn và rất nhiều điều bất lợi khác liên quan đến cảm xúc.
Nếu bạn là một người yêu xương rồng thì chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.

Vì cây xương rồng là một cây có nhiều gai nhọn xung quanh khiến nó luôn được bao bọc bởi sát khí nên các nhà phong thủy đưa ra lời khuyên không nên đặt xương rồng trong phòng làm việc hoặc trong nhà mà chỉ nên trồng xương rồng vào những khu vực xấu hoặc để chống lại những sát khí chiếu vào nhà như để trấn lại góc nhọn hoặc các loại mũi tên sắt từ hàng rào của người hàng xóm…
Những lời Phật dạy về nhân quả không chỉ là lý thuyết, đó là quy luật tự nhiên của vũ trụ này, dù bạn tin hay không cũng nên sống hướng đạo để cuộc sống an yên.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Có một bộ tượng ba ông già gọi là Tam đa – Phúc Lộc Thọ, hình tướng khác nhau, áo quần mỗi ông một vẻ. Thường ba ông này được bày trong nhà để trang trí, làm cảnh cho vui. Sự tích về ba ông cũng rất lý thú.
Ông Phúc thường được đặt ở giữa tượng trưng cho sự may mắn, tốt lành. Tương truyền, Ông Phúc là một quan thanh liêm của triều đình. Theo quan niệm xưa, nhà đông con là nhà có phúc nên đôi khi còn thấy có một đứa trẻ đang nắm lấy áo Ông Phúc, hoặc nhiều đứa trẻ vây quanh ông hay là có hình ảnh con dơi bay xuống ông (dơi phát âm giống “phúc”).
Ông Phúc tên thật là Quách Tử Nghi, Thừa tướng đời Đường. Cụ xuất thân vốn là quý tộc, đồng ruộng bát ngát hàng trăm mẫu, nhưng suốt cuộc đời tham gia triều chính, cụ sống rất liêm khiết, thẳng ngay. Không vì vinh hoa, phú quý mà làm mất nhân cách con người.
Cụ bà và cụ ông bằng tuổi nhau. Người Việt có câu: “Cùng tuổi nằm duỗi mà ăn”. Còn theo người Hoa Hạ ở Trung Nguyên thì vợ chồng cùng tuổi là rất tốt. Họ có thể điều hòa sinh khí âm, khí dương cho nhau. Vì vậy, có thể bớt đi những bệnh tật hiểm nguy. Lại cùng tuổi nên dễ hiểu nhau, dễ thông cảm cho nhau, nên hai cụ rất tâm đầu, ý hợp. Hai cụ 83 tuổi đã có cháu ngũ đại. Lẽ dĩ diện phải là nam tử rồi. Cụ Phúc thường bế đứa trẻ trên tay là như vậy. Theo phong tục của người Hoa cổ đại, sống đến lúc có cháu ngũ đại giữ ấm chân nhang của tổ tiên là sung sướng lắm lắm! Phúc to, phúc dày lắm lắm! Bởi thế cụ mới bế thằng bé, cháu ngũ đại, đứng giữa đời, giữa trời, nói:
– Nhờ giời, nhờ phúc ấm tổ tiên, ta được thế này, còn mong gì hơn nữa.
Rồi cụ cười một hơi mà thác. Được thác như cụ mới thực sự được về cõi tiên cảnh nhàn du. Cụ bà ra ôm lấy thi thể cụ ông và chít nội than rằng:
– Tôi cùng tuổi với chồng tôi. Phúc cũng đủ đầy, dày sâu, sao giời chẳng cho đi cùng…
Ai có thể ngờ, nói dứt lời cụ bà cũng đi luôn về nơi chín suối. Hai cụ được con cháu hợp táng. Vậy là sống bên nhau, có nhau, chết cũng ở bên nhau, có nhau. Hỏi còn phúc nào bằng. Và cụ được người đời đặt tên là Phúc.
Ông Lộc hay Thần Tài tượng trưng cho sự giàu có, thịnh vượng. Theo truyền thuyết, Ông Lộc được sinh tại Giang Tây, sống trong thời Thục Hán của Trung Quốc, ông còn là một quan lớn của triều đình, có nhiều tiền của. Ông thường mặc áo màu xanh lục vì trong tiếng Hoa, “lộc” phát âm gần với lục”, tay cầm “cái như ý” hoặc thường có một con hươu đứng bên cạnh (hươu cũng được phát âm giống “lộc”).
Ông Lộc tên thật là Đậu Từ Quân, làm quan đến chức Thừa tướng nhà Tấn. Nhưng cụ Đậu Từ Quân là một quan tham. Tham lắm. Cụ hưởng không biết bao nhiêu vàng bạc, châu báu, là của đút lót của những kẻ nịnh thần, mua quan, bán tước, chạy tội cho chính mình, cho con, cho cháu, cho thân tộc. Trong nhà cụ, của chất cao như núi. Tưởng cụ Đậu Từ Quân được như thế đã là giàu sang, vinh quang đến tột đỉnh. Cụ chỉ hiềm một nỗi, năm cụ tám mươi tuổi vẫn chưa có đích tôn. Do vậy cụ lo nghĩ buồn rầu sinh bệnh mà chết. Cụ ốm lâu lắm. Lâu như kiểu bị tai biến mạch máu não bây giờ. Cụ nằm đến nát thịt, nát da, mùi hôi thối đến mức con cái cũng không dám đến gần. Đến khi chết, cụ cũng không nhắm được mắt. Cụ than rằng:
– Lộc ta để cho ai đây? Ai giữ ấm chân nhang cho tổ tiên, cho bản thân ta?
Ông Thọ tượng trưng cho sự sống lâu với hình ảnh là một ông già râu tóc bạc trắng, trán hói và dô cao, tay cầm quả đào, bên cạnh thường có thêm con hạc.
Ông Thọ tên là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng đời Hán. Triết lý làm quan của cụ Đông Phương Sóc là quan thì phải lấy lộc. Không lấy lộc thì làm quan để làm gì. Cụ coi buôn chính trị là buôn khó nhất, lãi to nhất. Nhưng cụ Đông Phương Sóc vẫn là quan liêm. Bởi cụ nhất định không nhận đút lót. Cụ chỉ thích lộc của vua ban thưởng. Được bao nhiêu tiền thưởng, cụ lại đem mua gái đẹp, gái trinh về làm thê thiếp. Người đương thời đồn rằng, trong dinh cụ, gái đẹp nhiều đến mức chẳng kém gì cung nữ ở cung vua. Cụ thọ đến 125 tuổi. Nên người đời mới gọi cụ là ông Thọ. Trước khi về chốn vĩnh hằng, cụ Thọ còn cưới một cô thôn nữ xinh đẹp mới mười bảy tuổi. Cụ Đông Phương Sóc bảo, cụ được thọ như vậy là nhờ cụ biết lấy âm để dưỡng dương.
Do cụ Đông Phương Sóc muốn có nhiều tiền để mua gái trẻ làm liều thuốc dưỡng dương, cho nên suốt cuộc đời của cụ, cụ chỉ tìm lời nói thật đẹp, thật hay để lấy lòng vua. Có người bạn thân khuyên cụ:
– Ông làm quan đầu triều mà không biết tìm lời phải, ý hay can gián nhà vua. Ông chỉ biết nịnh vua để lấy thưởng thì làm quan để làm gì.
Cụ Đông Phương Sóc vuốt chòm râu bạc, cười khà khà bảo:
– Làm quan không lấy thưởng thì tội gì mà làm quan. Can gián vua, nhỡ ra vua phật ý, tức giận, chém đầu cả ba họ thì sao?
Ông được phong tặng Đa Thọ vì sống đến 125 tuổi. Khi ông mất chỉ còn đứa chắt (đời thứ 4) làm ma chay vì vợ, con, cháu của ông đều đã chết hết cả.
Người Hoa Hạ đã khéo xếp 3 vị Thừa tướng, có 3 tính cách khác nhau, ở 3 triều đại khác nhau, thành một bộ không tách rời nhằm để răn đời. Đồng thời, biến những cái tốt, cái lợi có từ 3 ông thành mong ước ngàn đời của mọi người, đó là: Đa phúc, Đa lộc, Đa thọ.
Phúc Lộc Thọ là mong ước của tất cả mọi người, ai cũng muốn có nhiều lộc, lắm phúc và sống lâu. Nhưng quan niệm thế nào cho đúng còn phụ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử. Đặc biệt trong cuộc sống hiện nay.
Ngày xưa, các cụ quan niệm “nhiều con, lắm phúc”, “có con trai mới có phúc”. Còn ngày nay, có con gái hay con trai đều là phúc.
Nếu các con hiếu thảo, ngoan ngoãn, thông minh, thành đạt là có phúc. “Mỗi gia đình chỉ nên có 1- 2 con”, vì nhiều con đâu hẳn đã là phúc. Nhiều con mà không dạy dỗ, không cho ăn học, để chúng đói nghèo, ngu dốt, hư hỏng, thì không thể nói là có phúc được. Và không thể chắc rằng 3 đời sống chung nhà, hay 3 đời sống chung nhà, là mô hình để học tập và noi theo khi mà nhu cầu cuộc sống, sinh hoạt ngày nay thay đổi so với thời trước.
Làm quan mà chỉ lo vơ vét cho giàu có, để rồi chết cô đơn như Đậu Từ Quân, hay xu nịnh, hám sắc như Đông Phương Sóc thì lộc để làm chi, thọ để làm gì. Tiền của lắm, thọ lâu dài trong sự khinh bỉ của người đời thì liệu bạn có muốn chăng? Hay cứ tranh đua lợi lộc mà gây phương hại cho những người xung quanh thì liệu lộc của bạn có lâu bền ? Chi bằng cứ sống cho tốt, cho đúng đạo làm người thì lộc tự dưng sẽ đến.
Quan niệm về thọ ngày nay không chỉ là sống lâu, mà còn phải sống vui vẻ, lành mạnh, sống có ích, chứ lấy âm dưỡng dương như Đông Phương Sóc thì không an toàn cho sức khỏe của bản thân và gia đình.
Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc, vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất của đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là do mình tạo ra, hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
Tóm lại, Phúc Lộc Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người, vì thế mới tồn tại lời chúc Phúc – Lộc – Thọ và bộ Tam Đa từ xưa tới nay. Nếu đạt được hết thảy « đa phúc, đa lộc, đa thọ » thì còn gì bằng..
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Những câu nói hay và ý nghĩa về mùa thu. Mùa thu, mùa của hương cốm, mùa của những chiếc lá vàng, mùa khơi nguồn cho các thi ca sáng tác nên những bài thơ, những câu nói hay về mùa thu.
Mùa thu của hương ổi, mùa thu của hoa cúc vàng nở, mùa thu – mùa của màu vàng nên thơ và tươi sáng. Mùa thu còn là ngày bắt đầu của một năm học mới, các bạn trẻ nô nức tới trường. Không còn hòa phượng, hoa bằng lăng tím nơi góc sân trường, mùa thu là mùa của những chiếc lá vàng, mùa của sân trường đầy lá rụng.
Hãy cùng ## cảm nhận và khám phá những câu nói hay nhất về mùa thu, âm hưởng của mùa thu qua bài thơ: “Mùa thu”
MÙA THU
Tác giả: Khánh Trang
Lá vàng rơi rớt sân trường cũ
Báo hiệu mùa thu đã đến rồi
Mùa thu vàng lá vàng mong đợi
Mang cả ưu tư cả ngậm ngùi
Mùa thu năm cũ chốn quê xa
Theo bước chân cha đến trường nhà
Rồi theo năm tháng dần kỉ niệm
Chất cả trong tim những ánh tà
Mùa thu cho phượng hết trổ hoa
Cho tháng ngày xa bạn cũng qua
Cho ngày tựu lớp thầy cô cũ
Hớn hở vui mừng rộn tiếng ca
Mùa thu năm đó tôi mười bảy
Mười tám anh vừa mới bước qua
Tình cờ không hẹn mà chung bước
Tôi biết được anh ở gần nhà
Mùa thu sau anh vào đại học
Theo bạn bè đi đến miền xa
Còn tôi năm cuối cùng trung học
Ôm mối tình đầu dệt tiếng ca
Mùa thu đó lá vàng mơ mộng
Với trời xanh tôi bước đến trường
Áo tôi xanh ngát màu hy vọng
Anh đã nhìn tôi thật thiết tha
Mùa thu năm trước đã chia xa
Tôi bỗng ngồi đây với xót xa
Áo xanh còn đấy người đâu mất
Có thấu chăng lòng ta với ta
Mùa thu còn thấm đượm đâu đó, những nỗi buồn xa xăm của đôi trai gái, mùa thu gắn với chúng ta bao kỷ niệm nên thơ, với những chốn hẹn hò đầy ý nghĩa. Hãy cùng đọc và cảm nhận những câu nói hay nhất về mùa thu qua bài thơ “Mùa thu ơi”
MÙA THU ƠI
Tác giả: Vũ Kim Thanh
Ừ nhỉ…MùaThu rồi
Lá vàng tóc em tôi
Ngược dòng thơ năm ấy
Lòng xao xuyến bồi hồiMùa Thu qua hồn tôi
Như tình qua ngõ tối
Hơi thở nghe vồi vội
sầu dâng tím làn môiToà lâu đài xa xôi
Chưa hẳn là đã mất
Bao đắng cay chớp giật
Có thể bật thành ngườiTrái tim anh còn lửa
Và giông bão cuộc đời
Trong tay em còn sóng
Lùa dần về biển khơi…Mùa Thu ơi…chơi vơi …
LIỄU MÙA THU
Tác giả: Nguyên Đỗ
Liễu mùa thu mái tóc còn xanh mượt
Bên hồ trong mắt ươn ướt vì sao?
Gió mùa thu bên hồ vẫn dạt dào
Liễu xanh biếc chắc vì đôi mắt liếc?Mùa thu về, lá vàng khơi muôn việc
Quét sân nhà, tưởng tiếc tháng ngày qua
Buổi xuân thì em mặc áo hoàng hoa
Đứng cạnh gốc dựa thân phong mơ mộngCây phong lớn, lá cành càng cao rộng
Trải xuống sân hoa gấm với mộng mơ
Anh đứng đây, cầm chổi, mắt trông chờ
Em có đến nhìn xem anh quét láMỗi ngày xa, từng giờ thêm khác lạ
Những buổi chiều êm ả gió ra khơi
Lá lả lơi, buông thả xuống lưng đồi
Bay bốn hướng, về phương trời vô địnhMùa thu đến mùa thu đi yên tĩnh
Cõi bình yên gờn gợn sóng thu ba
Những mùa thu, những chiếc lá đậm đà
Còn nhung nhớ những thời xanh như ngọc
Mùa thu của bé, thật đơn giản, nhưng cũng không kém phần thơ mộng, có màu vàng của hoa cúc, có hương cốm mới, có hội trăng rằm và mùa thu khai trường. Hãy cùng ## chiêm nghiệm những câu nói hay về mùa thu qua giọng thơ quen thuộc của nhờ thơ Quang Huy với bài “Mùa thu của em”
MÙA THU CỦA EM
Tác giả: Quang Huy
Mùa thu của em
Là vàng hoa cúc
Như nghìn con mắt
Mở nhìn trời đêm.Mùa thu của em
Là xanh cốm mới
Mùi hương như gợi
Từ màu lá sen.Mùa thu của em
Rước đèn họp bạn
Hội rằm tháng tám
Chị Hằng xuống xem.Ngôi trường thân quen
Bạn thầy mong đợi
Lật trang vở mới
Em vào mùa thu.
Tác giả Xuân Diệu cũng đã góp cho đời không ít những bài thơ bất hủ, những câu nói hay về mùa thu. Các bạn có thể dễ dàng nhận ra giọng thơ say đắm và truyền cảm qua bài thơ “Đây mùa thu tới”
ĐÂY MÙA THU TỚI
Tác giả: Xuân Diệu
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rữa mầu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió…
Đã vắng người sang những chuyến đò…Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
Mùa thu nơi em còn chan chứa bao nỗi nhớ về anh, bao kỷ niệm đôi lứa vào những buổi chiều hoàng hôn mùa thu say đắm. Cảnh vẫn còn đó, nhưng người xưa đâu? Để em mòn mỏi ngóng trông. Hãy cùng đọc và cảm nhận những câu nói, ý thơ hay nhất mà tác giả Đỗ Ngọc khắc họa qua bài thơ “Mùa thu tóc rối”
MÙA THU TÓC RỐI
Tác giả: Đỗ Ngọc
Một mùa thu tóc rối
Còn hoài trên môi em
Khi anh đến cạnh bên
Nâng cằm rồi chạm khẽMột mùa thu thật nhẹ
Chim lượn cánh bên hồ
Hoàng hôn chẳng buồn nhô
Chiều nghiêng nghiêng tĩnh lặngMột mùa thu nhạt nắng
Lá đổ ngập con đường
Nhuộm khoảng trời yêu thương
Bằng màu vàng tinh khiếtMột mùa thu mải miết
Đuổi theo một mùa thu
Anh đi xa biền biệt
Giăng mắt thu mịt mùHồn thu nay ở lại
Trên năm nhánh tay thon
Đưa tình vào dĩ vãng
Thu chết trong mỏi mòn
Bao yêu thương cho tôi xin gửi vào từng nhịp đập, hơi thở của mùa thu
TRÁI TIM MÙA THU
Tác giả: Đào Công Điện
Bởi quả tim chia hai phần phải, trái
Em ở đâu mà tim nhói đau hoài
Trước mùa thu đành lựa lời nói dối
Những buổi chờ giọt gõ suốt trên vaiNên tim vốn chứa trăm nghìn kiểu đập
Người thoáng qua tim loạn nhịp mưa rơi
Dáng khuất nẻo tim gầy như áp thấp
Đến thu nào tim sẽ một lần ngơi?
Mùa thu nhớ ai? Mùa thu kỷ niệm, mùa thu làm tim em rộn ràng, ngơ ngác, thu về chông chênh giấc ngủ, nhớ người xưa. Hãy cùng ## chiêm nghiệm những câu nói hay về mùa thu qua bài thơ “Dịu dàng mùa thu”
DỊU DÀNG MÙA THU
Tác giả: Minh Tuấn
Mùa thu mãi vẫn còn
Dẫu dở dang chờ đợiNay gặp mùa thu mới
Tim em vẫn rộn ràng
Bởi trong ngập lối vàng
Ai làm ngơ con mắt.Dẫu mùa thu góp nhặt
Những kỷ niệm đầy vơi
Lệ em vẫn thầm rơi
Thương nhớ NGƯỜI THU cũ.Thu về chông chênh ngủ
Với trăng thu mơ màng
Gió thu cố mang sang
Muôn lời người xin lỗi.Ai biết tình yêu vội
Một thoáng để thu phai
Để thu sau nối dài
Đắng cay và ân hận.Thứ tha làm lẽ sống
Như mùa thu nhớ ai
Hay những câu nói hay về mùa thu, những vần thơ ý nghĩa, mang tính chân thực sâu sắc của anh chàng sinh viên mới ra trường viết nhân dịp sinh nhật của bạn gái.
SINH NHẬT MÙA THU
Tác giả: Khiếu Long
Không có gì tặng em ngày sinh nhật
Mấy tháng nay ta thất nghiệp lâu rồi
Túi áo trái chỉ còn toàn nỗi nhớ
Tặng em nha… em không chịu thì thôiChiều ở đây mùa thu vàng góc phố
Đi lang thang tìm kỷ niệm hôm nào
Áo ai bay chập chùng chiều lộng gió
Trái tim buồn từng nhịp đập xôn xaoHai bên đường những chùm hoa tím dại
Nở dịu dàng trên từng bước thu sang
Ta vẫn chờ với tháng ngày hiu quạnh
Em đi qua ….ta lặng đứng bên đàngCon tim ta chiều nay sao trống vắng
Sinh nhật em… nỗi nhớ gởi đi rồi
Em có nhận hay dù em không nhận
Tình yêu ta …tât cả chỉ thế thôiĐời sẽ buồn …nếu không còn nỗi nhớ
Nếu ghét nhiều thì nhớ trả lại ta
Cho tháng ngày dù buồn thiu tàn tạ
Ta vẫn yêu ….như thưở mới như là
Mùa hè qua đi với cơn mưa rào bất chợt, không còn tiếng ve, phai tàn màu hòa phương, nhường chỗ lại cho mùa thu xao xuyến, đầy suy tư.
GÓC PHỐ NHỎ MÙA THU
Tác giả: Dã Qùy
Góc phố nhỏ mùa thu
Sáng nay chợt tỉnh giấc
Bao cánh bướm học trò
Đang cười đùa náo nứcGóc phố nhỏ mùa thu
Lẳng lặng bên sách vở
Mùa hè cũ đi qua
Con phố nào thoáng nhớ ?Góc phố nhỏ mùa thu
Hương Ngọc Lan dìu dịu
Loang loáng nắng giao mùa
Bao ngọc ngà níu kéoGóc phố nhỏ mùa thu
Chợt như vừa mới lớn
Mắt liếc bỗng có đuôi
Mắc cỡ gì hoa bướm ?Góc phố nhỏ mùa thu
Ngập ngừng lời bỏ ngỏ
Đi chung một con đường
Trang thư còn nguyên đóGóc phố nhỏ mùa thu
Trinh nguyên tà áo trắng
Guốc mộc khua nhịp chân
Tóc ươm ngàn tia nắngGóc phố nhỏ mùa thu
Nón che nghiêng e lệ
Ướp mộng cho quê hương
Tình nồng nàn đến thếGóc phố nhỏ mùa thu
Vạn vật đang thay áo
Nai vàng hát ngu ngơ
Bướm hoa màu hư ảo
Có nắng, có gió, có cốm xanh, có mùa hoa sữa, có gốc sấu cổ thụ và còn cả bao kỷ niệm em và anh đất trời mùa thu Hà Nội. Hãy cùng ## cảm nhận những vẻ đẹp tuyệt vời của mùa thu Hà Nội cùng những góc yêu thương của đôi bạn trẻ qua những câu nói hay về mùa thu trong bài thơ “Mùa thu phương xa nhớ mùa thu Hà Nội”
MÙA THU PHƯƠNG XA NHỚ MÙA THU HÀ NỘI
Tác giả: A Phủ
Anh gửi về em một chút mùa thu
Có nắng gió với khí trời nơi anh sống
Có màu của cỏ cây không gian chuyển động
Gửi về em…anh đổi chút thu nhà.
Mùa thu bên anh!mùa thu phương xa
Cũng lá vàng rơi mặt trời tắt vội
Sao anh mãi nhớ mùa thu hà nội
Anh nắm tay em dạo bước hồ tây.
Vẫn con đường cũ ghế đá hàng cây
Đã quen thuộc với chúng mình quá đỗi
Bên gốc sấu già nhiều năm cằn cỗi
Ghi lại bao nhiêu câu chuyện tình yêu.
Mùa thu Hà Nội thêm đẹp trong chiều
Thêm lộng lẫy trong hoàng hôn nhuốm đỏ
Hương hoa sữa ngạt ngào bay trong gió
Để ai xa…thu đến…lại nhớ về.
Mùa thu bên anh!cháy bỏng đam mê
Có một chút hương mùa thu Hà Nội
Chút sắc màu nơi phồn hoa đô hội
Chút kỷ niệm xưa em sẽ gửi cho anh.
Đã mấy mùa thu lạnh lẽo vắng tanh
Không có em tay trong tay cùng bước
Anh thấy mùa thu nhạt màu hơn trước
Đi trên lối quen sao vẫn lạ xa.
Mùa thu bên anh!hình bóng quê nhà
Mùa thu phương xa!nhớ mùa thu Hà Nội
Và anh yêu em!càng thêm gấp bội
Lá vàng rơi…hay nỗi nhớ…đang rơi!
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
![]() |
| ► Khám phá: Tử vi trọn đời của bạn bằng công cụ xem bói tử vi chuẩn xác |
3 con giáp luân phiên đóng vai ông Tơ bà Nguyệt cực duyên
Mọi người đang ở những ngày đầu tháng 'cô hồn' theo quan niệm dân gian. Dân gian cũng cho rằng ngày rằm tháng 7 âm lịch là ngày xá tội vong nhân khi Diêm Vương mở cửa Quỷ Môn Quan. Theo đó, từ mùng 2.7, Diêm Vương cho mở Quỷ Môn Quan để ma quỷ tự do đi theo bốn hướng, thường là trở về tìm gặp bạn bè, gia đình mong được giúp đỡ để sớm siêu thoát. Đến sau 12 giờ đêm ngày 14.7 thì các ma quỷ phải quay trở về địa ngục. Do vậy, người Việt thường sắm cỗ cúng “cô hồn” để chúng không quấy phá.
Bên cạnh lễ cúng 'xá tội vong nhân', các chuyên gia phong thủy còn đưa ra nhiều mẹo để bảo vệ ngôi nhà trong tháng này.
Màu sắc tươi sáng
Thay đổi rèm cửa, khăn trải giường, và thậm chí cả đèn với màu đỏ và màu cam tươi sáng. Theo phong thủy, màu sắc tươi sáng mang lại những nguồn năng lượng tốt và tích cực. Đặc biệt, rèm cửa sổ khá quan trọng vì nó ngăn chặn những luồng tà khí trong tháng này xâm nhập vào nhà.
Treo đèn lồng đỏ
Đèn lồng đỏ mang nhiều dương tính. Từ ngày xưa, đèn lồng đỏ hay được treo trước cửa nhà để soi đường cho con người và ngăn chặn người âm. Treo lồng đèn đỏ ở gần cửa sổ và bên cạnh lối vào chính để ngăn cản những bóng ma đói cố gắng đi vào.
Đốt nhang thơm
Hương và nhang thơm giúp xoa dịu tinh thần những vong nhân. Các chuyên gia phong thủy khuyên bạn nên làm hàng ngày, ngay trước khi mặt trời lặn và bóng tối ập đến. Nhang hương nên được đốt ở ngoài trời, ngay bên ngoài cổng chính của ngôi nhà.
Nhưng đôi khi, những biện pháp phòng ngừa là không đủ. Nhiều người vẫn cảm thấy khó chịu, bất chấp những biện pháp phòng ngừa. Đây là lúc mà những vật phẩm phong thủy phát huy tác dụng.
Quan Công
Quan Công một trong những vị tướng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Sự mạnh mẽ và quyết liệt trong tính cách đã biến Quan Công thành một vị thần có sức mạnh chống lại những 'yêu ma quỷ quái'.
Rùa
Theo phong thủy, Rùa được xem là con vật thiêng liêng mang lại nhiều điềm lành và tài lộc. Loài rùa án ngữ trước cửa ngăn chặn đường đi của những vong nhân đang cố gắng vào nhà.
Kì lân
Kì lân được cho rằng mang lại điềm tốt, sự thành công, sống thọ và sự nổi tiếng. Nơi nào có kì lân, nơi đó sẽ thái bình, thịnh trị. Để một cặp kì lân trước cửa nhà không chỉ giúp bảo vệ cho cả ngôi nhà mà còn hút nhiều tài lộc.
Những câu nói thông dụng về thời tiết trong tiếng Anh. Bạn nào thường hay xem phim hay đọc báo chắc cũng biết người Anh đặc biệt thích nói chuyện về thời tiết! Người Anh thường bắt đầu một cuộc trò chuyện với người lạ và bạn bè bằng cách nói về thời tiết vì đó là một chủ đề thông thường và dễ nói.
Hãy tham khảo những câu nói thông dụng sau đây về thời tiết bạn nhé!
Lovely day, isn’t it! Một ngày thú vị đúng không!
—-
What a nice day! What a beautiful day! hôm nay đẹp trời thật!
—-
The weather’s fine trời đẹp
—-
The sun’s shining trời đang nắng
—-
There’s not a cloud in the sky trời không gợn bóng mây
It’s going to freeze tonight tối nay trời sẽ rất lạnh
Bit nippy today. Hôm nay hơi lạnh.
It’s below freezing. trời lạnh vô cùng
It doesn’t look like it’s going to stop raining today. Có vẻ hôm nay trời sẽ không ngừng mưa.
It’s forecast to rain dự báo trời sẽ mưa
The sky’s overcast trời u ám
It looks like rain trông như trời mưa
It looks like it’s going to rain trông như trời sắp mưa
We’re expecting a thunderstorm chắc là sắp có bão kèm theo sấm sét
It’s starting to rain trời bắt đầu mưa rồi
It’s pouring with rain trời đang mưa to lắm
It’s raining cats and dogs trời đang mưa như trút nước
It’s stopped raining trời tạnh mưa rồi
It’s clearing up trời đang quang dần
The sun’s come out mặt trời ló ra rồi
The sun’s just gone in mặt trời vừa bị che khuất
There’s a strong wind đang có gió mạnh
The wind’s dropped gió đã bớt mạnh rồi
That sounds like thunder nghe như là sấm
That’s lightning có chớp
What strange weather we’re having! Sao thời tiết lạ thế nhỉ!
It’s not a very nice day. hôm nay trời không đẹp lắm.
What a terrible day! hôm nay trời chán quá!
What miserable weather! thời tiết hôm nay tệ quá!
It’s supposed to clear up later trời chắc là sẽ quang đãng sau đó.
I think it’ll clear up later. Tôi nghĩ lúc sau trời sẽ quang đãng.
It’s going to rain by the looks of it. Trời có vẻ sắp mưa.
We’re in for frost tonight. Đêm nay chúng ta phải chịu một đợt sương giá.
They’re expecting snow in the north. Họ đang mong tuyết ở miền bắc.
I hear that showers are coming our way. Tôi nghe rằng sắp có mưa đá.
The sun’s trying to come out. Mặt trời đang dần ló dạng.
It’s been trying to rain all morning. Trời đang cố gắng để mưa cả buổi sáng.
It’s finally decided to rain. Cuối cùng trời cũng quyết định mưa.
We had a lot of heavy rain this morning sáng nay trời mưa to rất lâu
We haven’t had any rain for a fortnight cả nửa tháng rồi trời không hề mưa
– Nếu ai đó phàn nàn trời mưa quá nhiều, ta có thể nói:
Never mind – it’s good for the garden. Đừng lo – nó tốt cho khu vườn mà.
– Nếu ai đó phàn nàn trời quá nóng, ta có thể nói:
At least my tomatoes will be happy. Ít nhất cà chua của tôi sẽ tươi tốt.
– Nếu cuộc trò chuyện chỉ nói về thời tiết xấu nói chung, thì có lẽ ai đó sẽ nói rằng:
Well, I’ve heard it’s worse in the west. They’ve had terrible flooding. Vâng, tôi nghe trời xấu hơn ở đằng tây. Họ gặp lũ lụt khủng khiếp.
Theo ông bà ta xưa làm nhà là một trong những việc quan trọng nhất của một đời người. Để những người sống trong ngôi nhà mới xây cất được khỏe mạnh, gặp mọi sự may mắn tốt lành thì khi tiến hành làm nhà nhất thiết phải tuân thủ một số nghi thức quy định về mặt phong thuỷ, chọn ngày tốt (Hoàng đạo, Sinh khí, Lộc mã, Giải thần. …) tránh ngày xấu (ngày Hắc đạo, Sát chủ, Thổ cấm, Trùng tang, Hùng phục…..) và phải chọn giờ Hoàng Đạo để làm lễ động thổ (lễ cúng Thần Đất) để xin được làm nhà trên mảnh đất đó.
Trong lễ động thổ ngày xưa phải cúng tam sinh, ngày nay đơn giản hơn, nhưng phải là con gà, đĩa xôi, hương, hoa quả, vàng mã…
Sau khi làm lễ gia chủ là người cầm cuốc bổ những nhát đầu tiên, trình với Thổ thần xin được động thổ, tiếp sau đó, mới cho thợ đào. Trước khi khấn phải thắp nén nhang vái bốn phương, tám hướng rồi quay mặt vào mâm lễ mà khấn.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
- Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy Quan Đương niên.
- Con kính lạy các Tôn phần bản xứ.
Tín chủ (chúng) con là:................ Ngụ tại:……………
Hôm nay là ngày… tháng….năm….. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng:
Hôm nay tín chủ con khởi tạo…. (nếu cất nóc thì đọc là cất nóc, nếu xây cổng thì đọc là xây cổng, nếu chuyển nhà thị đọc là chuyển nhà) ngôi đương cơ trụ trạch để làm nơi cư ngụ cho gia đình con cháu.
Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được động thổ (hoặc cất nóc).
Tín chủ con lòng thành lễ vật dâng lên trước án thành tâm kính mời: ngài Kim Niên Đường Thái tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa Long Mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần linh cai quản trong khu vực này.
Cúi xin các Ngài giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con được vạn sự tốt lành, công việc hanh thông, Chủ thợ được bình an, ngày tháng hưởng phần lợi lạc, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh, cô hồn y thảo phụ mộc, phảng phất quanh khu vực này, xin mời các vị tới đây thụ hưởng vật, phù trì tín chủ, cũng như chủ thợ đôi bên khiến cho an lạc, công việc chóng thành, muôn sự như ý.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô A Di Đà Phật! (3 lần)
1. "Quan Kị nhập Phụ xung Tật" - người nhẫn tâm
"Quan Kị phi nhập", tức là cung Quan Lộc có thiên can mà khiến cho tinh đẩu ở 1 cung nào đó hóa Kị. Ví dụ như, Quan lộc cung có thiên can là Giáp mà Phụ Mẫu cung có Thái Dương tọa thủ, thì gọi là "Quan Kị nhập Phụ". Bởi vì Kị tinh xung vào cung xung đối, mà Phụ Mẫu chính là cung xung đối với Tật Ách, nên tạo thành thế "Quan Kị nhập Phụ xung Tật".
"Quan Kị nhập Phụ xung Tật", bị coi là hành vi (của người làm Quan / trong công việc đối xử với người khác) mai một lương tâm, nhẫn tâm (đây là cái tật). Là người khẩu độc, tâm cũng độc. Gặp việc thì né tránh, đùn đẩy, thậm chí còn thừa cơ hội để lấy cớ trách mắng, vặn vẹo luôn người khác.
Tất nhiên, điều này không nhất thiết có thể khẳng định (về toàn diện) con người đó là xảo quyệt, thâm hiểm, nhưng chắc chắn khẳng định (về cư xử trong công việc) thì đó là kẻ tồi (nguyên văn đoạn này dùng từ "ác nhân" nhưng Hai Chén sửa đi thành "kẻ tồi" cho phù hợp mức độ hành vi).
Trải qua kiểm chứng thực tế, quả nhiên là không sai. Khi thấy có cách "Quan Kị nhập Phụ xung Tật", nhìn xem có (tướng mạo) điển hình của ác nhân như vẻ ngoài hung dữ, thâm hiểm hay không, hoặc là nhìn "ngoài cứng trong mềm" tức là chỉ mạnh mồm nhưng nhát gan, thì phân biệt được ngay mức độ ác hiểm hay là tồi, kém cư xử.
2. "Thời cơ mua nhà lầu" - Tài Kị nhập Điền, Điền tự hóa Lộc.
Trên đã nói về cách dùng "Kị xung" rồi nói về xem cách "kẻ nhẫn tâm". Giờ ta thảo luận tới cách "Kị nhập" nhé.
Phi Kị, bản thân nó đại diện cho ý nghĩa là "thu hồi nợ, lấy lại, dẹp bỏ nợ, hoặc là được hưởng lợi tức, được hưởng lương, lĩnh lương, thu về, hấp thụ,..."
Cho nên, nếu bạn phát giác Lưu Niên (tiểu hạn) có "Tài Kị phi nhập Điền" và "Điền tự hóa Lộc" thì đó là lúc bạn có thể được lợi nhuận lớn từ việc mua bán, giao dịch nhà đất, bất động sản.
Bởi vì "Kị nhập" đại biểu cho sự hấp thu, thụ hưởng. Vì vậy mà Tài Bạch cung phi Kị nhập Điền Trạch, lại gặp được Điền Trạch tự hóa Lộc, thì Lộc xuất tiết ra tiền tài vừa vặn đúng lúc cho cung Tài Bạch hấp thụ được.
Thế nhưng, nhất thiết phải không được sai lầm về phương hướng đi: Có người thấy thân chủ có cách "Tài Lộc nhập Điền" liền kêu thân chủ bán nhà, còn giục: "Có Lộc nhập rồi! Không ngờ sự lại tốt đến thế! Mau bán nhà nhanh đi!".
(QNB chú: "thân chủ" ở đây có nghĩa là để chỉ đương số theo cách gọi của người được thuê tư vấn mệnh lý. Giống như kiểu ông luật sư gọi người mà ông ta được thuê để bảo vệ là "thân chủ").
Thật là không may, trùng hợp làm sao mà thân chủ ấy liền gặp cách "Điền Trạch tự hóa Kị". Lộc của Tài bị Kị của Điền như tượng nước nhỏ bị cuốn phăng đi, thiết nghĩ trường hợp này không mất tiền, phá tán, thì kể cũng hơi khó.
(QNB chú: ví dụ này là để bàn đến sự phân biệt về hướng phi nhập của Kị, của Lộc.
Như cách mà Tài Bạch cung có thiên can khiến cho tinh đẩu ở Điền Trạch cung hóa Kị, đồng thời thiên can của Điền Trạch cung lại tự khiến cho tinh đẩu ở trong cung của nó hóa Lộc - đây mới là cách hấp thụ được tiền tài, là thời điểm thu được lợi lộc, hoặc là buôn bán bất động sản.
Còn cách (ngược lại) mà Tài Bạch cung có thiên can khiến cho tinh đẩu ở Điền Trạch cung hóa Lộc, đồng thời thiên can của Điền Trạch cung tự khiến cho tinh đẩu bên trong nó hóa Kị - thì đây là cách phá tán tiền tài, như kiểu gió vào nhà trống, đem ví Kị như dòng lũ cuốn phăng, nuốt chửng Hóa Lộc vừa phi nhập).
3, Mệnh Kị nhập Hữu - chính là người có nghĩa khí (can Mệnh phi Kị và cung Nô, tức Giao Hữu cung).
Nhắc lại, "Phi Kị" hay "Kị nhập" mang ý nghĩa của sự hấp thu. Cho nên "Mệnh Kị phi nhập Hữu" có ý nghĩa là sự "quan tâm", "sốt sắng" của người có nghĩa khí đối với bạn bè vậy.
Thí dụ như, "Mệnh Kị nhập Hữu", biểu hiện là coi trọng nghĩa khí, lại thêm Huynh đệ cung mà ở Khố vị (QNB chú: hiểu nôm na là ở Mộ cung) lại xung với Khố đối diện là thể hiện ý nghĩa không tiếc tiền và sẵn sàng cho bạn vay tiền tài, giúp đỡ bạn trong lúc khó khăn.
Có thực là vĩ đại như thế không? Trên thực tế, phải xét xem các yếu tố khác nữa. Còn quan trọng xét thêm tính tình của đương số qua sao chủ Mệnh và cung Mệnh để xác quyết thêm độ chắc chắn.
4. "Tài Lộc nhập Hữu, Hữu tự hóa Kị" là vì bạn bè mà sẽ gặp xui xẻo, phá tài, mất của.
Trước đã từng thảo luận qua cách người nghĩa khí chắc chắn sẽ là người đặt tình nghĩa cao hơn tiền bạc (như thành ngữ "sơ tài trượng nghĩa", "trọng nghĩa khinh tài" ), nhưng suy cho cùng thì đó cũng chính là vì bạn bè mà tốn tiền, hoặc gặp khó khăn, xui xẻo. Vậy lại yêu cầu phải xem thêm các cung vị khác và lưu niên vận nữa rồi nhỉ.
Thiên can của cung Tài mà khiến cho Hóa Lộc bay vào cung Nô (cung Hữu, Giao Hữu), cung Nô lại tự hóa Kị, có ý nghĩa là liên tục muốn/đòi hỏi bạn bè chi trả tiền bạc. Bản thân hiện tượng này chẳng có gì gây hại lớn cả, nhưng nếu như không có đúng mệnh cách của "người có nghĩa khí" mà trên lưu bàn gặp cách nói trên (tức gặp cách Tài Lộc nhập Hữu, Hữu tự hóa Kị) thì đó chính là biểu hiện của việc vì bạn mà ta bị mất của, gặp xui xẻo, phá tài,... Vào lúc đó không nên tùy tiện mà bảo lãnh cưu mang bạn bè hoặc không có đủ kiện để cho bạn bè vay tiền.
5. "Giao Hữu trùng phùng Mệnh, Thiên, Tật, Quan, Tài" - người trọng nghĩa mà lại đa tai đa nạn.
(QNB chú: chữ Thiên này là để chỉ cung Di, Thiên Di)
Tại mục thứ 3 của phi tinh mạn đàm đã nói tới cách cục của "người trọng nghĩa khí", và vì loạt bài này chỉ là "mạn đàm", cho nên không có dự định nói quá sâu thêm, cho nên bài này làm một tổng kết nhỏ.
Nếu mà bản Mệnh có hiện tượng "người có nghĩa khí", như thế cần xem Mệnh với cung Nô (giao Hữu):
- Cùng đại hạn hay lưu niên của Mệnh cung mà trùng điệp, thì sẽ chuốc lấy phiền não trong mối quan hệ với người khác.
- Cùng đại hạn hay lưu niên của Thiên Di cung mà trùng điệp, thì sẽ có thị phi hoặc là sẽ bị người ta bán đứng.
- Cùng đại hạn hay lưu niên của Tật Ách cung, Quan Lộc cung mà trùng điệp thì sẽ này sinh ra vấn đề không hay trong nhân sự.
- Cùng đại hạn hay lưu niên của Tài Bạch cung trùng điệp, sẽ bị phá tài.
6 - "Hóa nhập tái chuyển Hóa" - phi tinh chuyển di
(còn gọi là "Hóa đến rồi Hóa đi")
Đây cũng chẳng phải là bí kíp võ lâm cái quái gì cả...
Ở những bài trước, chúng ta đã thảo luận về "phi Hóa" (cụ thể là nói về cách "Kị nhập") của 2 cung, và cũng nói đến "xung chiếu" (cụ thể là nói về cách "Kị xung"). Thế nhưng đó cũng mới chỉ là mối quan hệ đơn giản của phi tinh giữa 2 cung với nhau mà thôi.
Trường hợp mà can cung Mệnh khiến cho tinh đẩu ở cung Thiên Di hóa thành Hóa Kị thì gọi là "Mệnh Kị nhập Thiên", mang ý nghĩa nghĩa hình tượng cá nhân ở bên ngoài môi trường hoặc khi ta đi ra bên ngoài thường thể hiện là người cương trực, liêm khiết, ngay thẳng. Và trường hợp "Mệnh Kị nhập Tật" cũng mang ý nghĩa chỉ tính tình của người ngay thẳng, chính trực. Loại tình huống kiểu này cùng với nơi mà có Hóa Kị gốc theo can năm sinh cũng có điểm tương tự.
Vậy nếu như mà trường hợp "Mệnh Kị nhập Tật" đồng thời lại có can cung Tật phi Kị vào Thiên Di (tức là "Tật Kị nhập Thiên") thì sao? Cách này được gọi là "Mệnh Kị nhập Tật, tái chuyển nhập Thiên), loại này ngược lại (với cách đơn thuần ở trên), nó mang ý nghĩa là lừa thày phản bạn, bất tín, bất nghĩa.
Biểu diễn dưới dạng: Mệnh -- Kị --> Tật -- Kị --> Thiên (Di).
Kỳ thực khá dễ thấy. Xét vế cuối "Tật Kị nhập Thiên", cái tật (tức là tâm tính, ưu sự) theo thiên (bản năng thiên phú) mà hành sự, với đơn thuần 2 cung như vậy thì thật khó mà thấy được bản chất vấn đề tốt xấu, bởi vì cặp 2 cung chẳng qua là hướng tới sự hỗ động của hiện tượng thôi. Nhưng mà, khi có thêm vế đầu (tức "Mệnh Kị nhập Tật") là Mệnh phi Kị vào tổ hợp này, thì nhất định việc diễn ra theo việc, mà mang ý nghĩa như trên.
Một yếu tố thêm vào tổ hợp, khiến cho có sự thay đổi lớn như vậy đấy.
7. "Theo Mệnh can của mệnh gốc mà định can cung của đại hạn" sẽ dịch chuyển thiên can của cung.
Ban đầu viết tiêu đề là "phi tinh mạn đàm" chỉ là mong muốn rằng lấy cái thú vị của hình thức đối thoại nhàn nhã một chút để trình bày kinh nghiệm cá nhân của tôi, cho bản thân có thêm hứng thú nghiên cứu "Phi tinh tử vi đẩu số". Nào ngờ lại khiến Tử Vi phi tinh gây được hứng thú với các đại gia (QNB chú: "đại gia" ở đây là là chỉ các chuyên gia, học giả, bực thầy,...), thực sự là khiến cho người ta vui mừng đó mà. (Lúc đầu) Tôi còn tưởng rằng sẽ không có ai có hứng thú với thể loại học thuyết phiền toái này.
Vốn dĩ không muốn ở trong khuôn khổ của "Mạn đàm" mà lại đi thuyết trình quá nhiều về các lý luận cơ bản, bởi vì nó có thể sẽ gây nhàm chán. Thế nhưng mà, tôi nhận thấy rằng ở các mục "phi tinh mạn đàm 2." cùng "phi tinh mạn đàm 5." của tôi nói bên trên đã đề cập tới ứng dụng của "hoạt bàn", nếu như mà chính bản thân tôi mà lại không có căn bản về lý luận của hoạt bàn theo "phi tinh phái" thì cũng rất có thể tôi đã áp dụng sai lầm mất thôi. Cho nên, tôi lại phải dài dòng mà nói sơ qua một chút về các yếu tố cơ bản. Hy vọng là các đại gia đừng chấp mà sẽ đại xá cho vậy.
Trong một số mục đã nói, tôi cũng đã bàn về sự Phi Hóa của Mệnh bàn. Bởi vì Can cung Mệnh gốc là cố định trọn đời, lại cũng không cải biến được, cho nên khỏi cần phải phiền toái với vấn đề của Can cung dịch chuyển.
Can của cung Đại Hạn cũng là dùng kiểu giống như Can của cung Mệnh gốc, ví dụ như Mệnh đóng tại cung Nhâm Ngọ, người Dương nữ Âm nam thì Đại Hạn thứ 2 sẽ đi theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, cũng chính là 13-22 Tân Tị, như vậy là Mệnh cung của Đại Hạn thứ hai ở ngay tại Tị, có Can cung là Tân.
Theo đó thì, cung Huynh đệ của đại hạn sẽ ở Canh Thìn, cung Phu Thê của đại hạn sẽ ở Kỷ Mão,... cứ thế mà suy ra.
Lưu ý, chỉ là cung vị di động, chứ cung Can không biến đổi, cũng cùng giống như một dạng của Mệnh gốc.
(QNB chú: độc giả lưu ý, tác giả loạt bài viết này cũng dùng phép khởi đại hạn từ cung Mệnh, như ở ví dụ trên là cung Mệnh Nhâm Ngọ thì ứng đại hạn đầu tiên 3-12 của Mộc 3 Cục. Và khi xét về hạn thì họ coi cung nhập hạn chính là nơi mà Mệnh đi đến, nên mới gọi là "Mệnh cung của đại hạn", tức là họ cũng sử dụng luôn phép Lưu Cung, di cung, hay gọi như ta thường nói là cung Lưu Mệnh.
Sau đó, đối với hệ quy chiếu đại hạn thì họ coi đây là 1 tầng lá số thứ 2 với các cung vị Mệnh, Bào, Phu Thê,... đủ cả 12 cung dịch chuyển nhưng Thiên Can của các cung khi xét đại hạn thì không hề có sự biến đổi so với cung Mệnh gốc).
Cái này thì Tam Hợp Phái cũng thường đều dùng như là những lý luận cơ bản vậy. Và đại đa số các trình an lá số cũng lấy lý luận này mà coi như là cơ sở.
Thế nhưng, đối với Lưu niên, Tiểu hạn, Nguyệt hạn, Nhật hạn cùng Thời hạn thì khác, không chỉ có Cung vị biến hóa mà còn có cả sự biến hóa của Can cung nữa. Điều này thì các trình an lá số trên máy tính chưa thể hiển thị được, bởi vì chỉ có các phái Phi tinh mới đặc biệt lưu ý tới sự biến hóa của Can cung.
Sự biến đổi của Can cung (lúc đó cần) sử dụng đến phép "Ngũ Hổ độn" cùng "Ngũ Tý độn" đấy.
8. "Lưu niên Thái Tuế Can Chi định lưu niên Mệnh cung" - cần lưu ý theo phép "Ngũ hổ độn"
Mọi người đều biết rằng Mệnh cung của lưu niên thì dùng "Chi" của lưu niên mà quyết định. Tỷ dụ như Lưu niên tại Dậu thì Mệnh cung lưu niên năm nay ở ngay tại Dậu cung.
Vậy thì Can của cung ấy sẽ là gì? Có thể dùng Can của lưu niên thái tuế mà xác định. Năm nay là năm Ất Dậu, như vậy Mệnh cung ở tại cung Dậu, và Can cung là Ất. Cứ thế mà suy rộng ra, Phụ Mẫu cung là Bính Tuất, Phúc Đức cung là Đinh Hợi, Điền Trạch cung là Mậu Tý, Quan Lộc cung là Kỷ Sửu,...
Như thế thì cung Giao Hữu (QNB chú: tức cung Nô Bộc) có phải là Canh Dần không?
Không phải, theo cách sắp xếp Mệnh bàn gốc thì cùng một dạng, bời vì theo Ngũ Hổ độn thì đó chính là khởi điểm, cho nên ta đã từng lặp lại trước đó 2 Can rồi.
Cho nên theo đó mà cung Giao Hữu là Mậu Dần, Thiên Di cung là Kỷ Mão, Tật Ách cung là Canh Thìn, Tài Bạch cung là Tân Tị, Tử Tức cung là Nhâm Ngọ, Phu Thê cung là Quý Mùi, Huynh Đệ cung là Giáp Thân.
Cũng không đơn giản à nha. Cần lưu ý rằng lá số an theo trình an sao từ máy tính sẽ không cho ta kiểu Can cung dịch chuyển như thế được, bởi vì Tam Hợp phái chú trọng vào Lưu niên Mệnh cung cung Can tứ Hóa mà thôi, cho nên Can cung dịch chuyển của cung khác (đối với Tam Hợp phái mà nói thì) dẫu không dịch chuyển cũng chẳng ảnh hưởng gì. Thế nhưng dưới nhãn quan của phái Phi Tinh thì có quan hệ và ảnh hưởng lớn đấy nhé.
(Chúng ta) còn chưa chính thức sử dụng đến "Ngũ hổ độn quyết" cùng Ngũ Tý độn quyết" nhỉ. Mục dưới đây sẽ mở đầu giảng về sự biến hóa của Can trong Tiểu hạn, lưu nguyệt, lưu nhật, lưu thời hạn. Có khả năng là tương đối khó đấy, các đại gia hãy chuẩn bị tâm lý nhé.
(Người viết bài) chú: Trên thực tiễn "Phi tinh phái" có sử dụng Lưu niên Tuế can, cũng có sử dụng cả Lưu niên cung Can nữa. Cụ thể xin xem thêm ở mục "phi tinh mạn đàm 28." - cung Can độn quyết bổ chú.
Độc giả lưu ý:
Theo cách hành văn và thuật ngữ sử dụng của tác giả của loạt bài này thì "Phi tinh phái" sử dụng 2 cung để coi về vận hạn trong 1 năm. Đó là:
- Cung có Lưu Thái Tuế, được chỉ bởi cụm từ "Lưu niên" hoặc "Lưu niên Thái Tuế".
- Cung Tiểu Hạn, được chỉ bởi cụm từ "Tiểu Hạn". Cái này tương đồng ý nghĩa với "Lưu niên Tiểu Hạn" mà chúng ta vẫn thường dùng.
Ví dụ như, ở đề mục mạn đàm số 8., có nói về dùng Can-Chi của "Lưu niên Thái Tuế" để mà xác định Thiên Can của "Lưu niên Mệnh cung":
- Cụm từ "Lưu niên Mệnh cung" ở đây chính là chỉ cung Lưu Mệnh trong niên hạn 1 năm nào đó.
- Cách mà tác giả sử dụng là: lấy Địa Chi của niên hạn cần xét để mà xác định "cung nhập hạn", tức là lấy cung có "Lưu Thái Tuế" năm ấy đến đóng mà làm mốc, như xét năm Dậu thì Lưu Thái Tuế ở cung Dậu và người ta coi đây là "Lưu niên Mệnh cung" của năm Dậu. Tiếp đó, lấy ngay Thiên Can của năm đang xét mà làm Thiên Can của cung nhập hạn luôn, như đang xét năm Ất-Dậu thì lấy luôn Can Ất của năm này áp vào thành Can Ất cho cung Dậu trên lá số. Rồi từ cung Ất-Dậu ấy trên lá số, lần lượt xác định Thiên Can cho 11 cung còn lại, theo chiều thuận -> Bính Tuất -> Đinh Hợi -> Mậu Tý -> Kỷ Sửu --- đến đây phải dừng lại mà lưu ý đến quy tắc Ngũ Hổ độn, để không được chuyển liền từ Kỷ Sửu sang Canh Dần, bởi vì Dần cung luôn luôn phải được dùng làm điểm khởi đầu trong phép Ngũ Hổ Độn, cho nên phần sau đó tác giả mới giải thích về cung Dần mang Can là Mậu, rồi theo đó mà lần lượt thuận chiều Mậu Dần -> Kỷ Mão -> Canh Thìn -> Tân Tị -> Nhâm Ngọ -> Quý Mùi -> Giáp Thân -> (Ất-Dậu).
Chính vì thế cho nên tác giả cũng nói "chưa thực sự dùng đến phép Ngũ Hổ độn", mà tác giả mới nhắc nhở là khi xét Thiên Can cho cung Lưu Mệnh ở cung Lưu Thái Tuế thì đến chỗ cung Dần là cần phải lưu ý đến điểm khởi đầu trong phép Ngũ Hổ độn để mà đỡ có sai lầm thôi.
QNB lấy luôn trường hợp này làm ví dụ cho dễ hiểu:
Ví dụ, năm nay là Giáp Ngọ tại cung Ngọ là mệnh, sau đó Ất mùi = phụ mẫu.... chứ không tính can cung của đại vận đó? (Ngũ hổ độn).
Ta không cần quan tâm cung Mệnh gốc của đương số nằm ở đâu trên lá số, hễ cứ là xét hạn năm Ngọ theo Lưu niên Thái Tuế thì ta cứ lấy cung Ngọ (nơi có Lưu Thái Tuế của năm Ngọ đóng) làm "lưu niên Mệnh cung" - tức cung Lưu Mệnh.
Lại xét hạn năm nay là năm Giáp-Ngọ chứ gì, vậy thì cung Lưu Mệnh của đương số có Thiên Can là Giáp luôn.
Tức là lấy luôn Can-Chi của năm ấy mà ốp vào cung có Lưu Thái Tuế đóng.
Thế rồi lần lượt theo chiều thuận từ Lưu Mệnh là cung Giáp Ngọ -> (L. Phụ Mẫu) Ất Mùi -> (L.Phúc Đức) Bính Thân ->.... -> (L. Thiên Di) Canh Tý -> (L.Tật Ách) Tân Sửu --- tạm dừng lại nhớ đến điểm khởi đầu của Ngũ Hổ độn ---> (L.Tài Bạch) Canh Dần -> (L. Tử Tức) Tân Mão -> (L. Phu Thê) Nhâm Thìn -> (L. Huynh Đệ) Quý Tị -> (trở về Lưu Mệnh là cung Giáp Ngọ).
9. Can cung Đại Hạn gia thêm Ngũ Hổ độn quyết để xác định Can cung tiểu hạn.
Phần trước đã bàn qua về phép xác định của Can cung Đại Hạn cùng Can cung lưu niên. Còn đối với Tiểu hạn, lưu Nguyệt, cùng với lưu Nhật hạn sẽ cần dùng đến phép "Ngũ Hổ độn"; với lưu Thời hạn thì dùng đến phép "Ngũ Tý độn".
Phép khởi Tiểu Hạn, lấy Chi của năm làm chuẩn, không phân Âm Dương gì cả, cứ Nam thì thuận còn Nữ thì nghịch:
Thân Tý Thìn thì khởi tại Tuất
Hợi Mão Mùi thì khởi tại Sửu
Dần Ngọ Tuất thì khởi tại Thìn
Tị Dậu Sửu thì khởi tại Mùi.
Khi tìm được cung vị sở tại của Tiểu Hạn, cần tìm luôn Can cung nhé. Rất nhiều học thuyết đều dùng Can cung của Mệnh gốc mà tính Can cung của Tiểu Hạn, kỳ thực thì Can cung ấy lại phải dùng Can cung Mệnh bàn thông qua phép "Ngũ Hổ độn" mà xác định, chỉ có điều lần này dùng Can cung của nơi Đại hạn đóng.
Ngũ Hổ độn quyết:
Giáp Kỷ chi niên Bính Dần thủ
Ất Canh chi tuế Mậu Dần đầu
Bính Tân tiện do Canh Dần khởi
Đinh Nhâm hoàn tòng Nhâm Dần lưu
Duy hữu Mậu Quý hà phương lạc
Giáp Dần chi thượng hảo thôi cầu.
Mệnh bàn sau đây là ví dụ, năm Nhâm Tý lấy Tuất cung mà khởi Tiểu hạn đầu tiên, giả sử muốn tìm Tiểu Hạn của năm sau 34 tuổi, liền từ cung Tuất nghịch hành tới cung Sửu. Đồng thời Đại hạn 34 tuổi đang tại cung Bính Ngọ, có Can cung của Đại Hạn là Bính; với Ngũ Hổ độn quyết thì "Bính Tân tiện do Canh Dần khởi", cho nên từ cung Canh Dần khởi đếm thuận đến tận cung Sửu:
Canh Dần -> Tân Mão -> Nhâm Thìn ->... -> Kỷ Hợi -> Canh Tý -> Tân Sửu.
(Theo đó) Can-Chi của cung Tiểu Hạn năm 34 tuổi sẽ chính là Tân Sửu.
[QNB chú: độc giả lưu ý, tuy tác giả viết hơi vắn tắt nên có thể người đọc sẽ thấy lằng nhằng khó hiểu 1 chút, nhưng để ý kỹ theo suốt mạch văn thì sẽ thấy rất rõ ràng như sau:
Phía trên, ở mục 8., tác giả đang nói là "năm nay là năm Ất Dậu" thì ta hiểu rằng lúc tác giả viết loạt bài này chính là năm 2005 - Ất Dậu.
Rồi tác giả lấy ví dụ là một người sinh năm Nhâm Tý, và giả thiết muốn tìm Tiểu Hạn "năm sau" tức là Tiểu Hạn năm 2006 - Bính Tuất. Cái chữ "năm sau" là so với thời điểm tác giả đang viết bài. Và tính đến 2006 - Bính Tuất thì đương số Nhâm Tý (1972) được 34 tuổi (thực chất phải là 35 tuổi ta mới đúng).
Đương số Nhâm Tý này phải là Nữ nên Tiểu Hạn mới khởi từ cung Tuất - kể là Tý mà đi nghịch đến cung Sửu thì chính là cung Tiểu Hạn năm Tuất.
Con số tuổi 34 đưa ra chỉ là cái mốc liên quan đến Đại Hạn đang thuộc cung nào mà thôi, và tác giả cho biết Đại Hạn của đương số đang ở cung Bính Ngọ.
Sau đó, tác giả dùng ngay Can của cung Đại Hạn làm yếu tố để dùng Ngũ Hổ độn mà xác định Can của cung Tiểu Hạn năm Tuất vì cho rằng Tiểu Hạn năm 34 tuổi đó đang 1 năm thuộc về thời gian 10 năm của Đại Hạn trên cung Bính Ngọ (đẻ năm Nhâm nên cung Ngọ của lá số gốc có Can Bính).
Tóm lại, phương pháp của tác giả dùng là: Lấy Thiên Can của cung Đại Hạn (có chứa số tuổi tương ứng với năm Tiểu Hạn sẽ xét) mà dùng Ngũ Hổ độn để xác định Thiên Can của cung Tiểu Hạn năm đó].
(Tác giả) chú: Kỳ thực thì Can cung Dần Mão đồng dạng với Can cung Tý Sửu nên có thể đếm nghịch cũng tính ra được.
Nếu như mọi người còn chưa thấy chán thì dưới đây sẽ nói tiếp đến Lưu nguyệt hạn cùng với Lưu nhật hạn.
10. "Can cung Lưu niên gia thêm Ngũ Hổ độn để xác định Can cung Lưu nguyệt" - còn Lưu nhật thì sẽ xem theo Can cung lưu nguyệt.
Mấy bài trên đã từng đàm luận qua về cách xác định Can cung của Đại Hạn, rồi của Lưu Niên, cùng với của Tiểu Hạn ra sao, để lấy mà làm cơ sở cho Phi Tinh Phái có thể phi hóa trên hoạt bàn. Ngoại trừ Can cung Mệnh gốc với Can cung Đại Hạn ra thì các Can cung của Tiểu Hạn, Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, Lưu Thời đều không ngừng biến hóa. Như vậy, để vận dụng được Phi tinh thì cần phải đặc biệt chú ý đến điểm này.
Bây giờ sẽ tiếp tục nói đến Lưu Nguyệt và Lưu Nhật.
"Khởi Can cung của Lưu nguyệt hạn"
Từ "mệnh cung lưu niên" khởi nghịch đếm đến tháng sinh, lại từ cung ấy mà đếm thuận đến giờ sinh.
Dùng mệnh tạo sau đây để mà làm ví dụ, Lưu niên mệnh cung tại Dậu, can cung Thái Tuế là Ất (vừa khéo thế nào mà lại cùng với cung Mệnh gốc cùng 1 dạng Can là Ất) đếm nghịch đến tháng sinh là tháng 9 thì tới cung Sửu, lại từ cung Sửu kể là giờ Tý mà đếm thuận đến giờ sinh là giờ Hợi thì tới cung Tý. Cung Tý này chính là chỗ của Lưu niên đẩu quân của năm Ất Dậu, cũng chính là tháng đầu tiên của Lưu nguyệt hạn. Tháng thứ hai của Lưu nguyệt là ở cung Sửu, tháng thứ ba của Lưu nguyệt là ở cung Dần,... cứ thế mà suy rộng ra.
Lấy Can cung lưu niên là Ất để làm chuẩn, áp dụng Ngũ Hổ độn "Ất Canh chi niên Mậu Dần đầu", cho nên sự phân bố của 12 cung chính là từ cung Mậu Dần. Tại ví dụ này khá cá biệt, vừa khéo thế nào mà Can cung của cung Dần theo Mệnh gốc lại cũng là Mậu. Cho nên xem như là khá dễ dàng, Can cung của tháng 4 ở cung Mão chính là Kỷ.
"Khởi Can cung lưu nhật hạn"
Cung Lưu nhật thì ngày thứ nhất chính là ở tại cung vị của Lưu nguyệt, cứ thế mà thuận hành các ngày thứ 2, 3,... vân vân. Lấy hôm nay là ngày 20 làm ví dụ, do (lưu nguyệt hạn) tháng 4 từ Mão cung mà bắt đầu đếm thuận cho đến 20 thì sẽ đến cung Tuất.
Can cung lại dùng Ngũ Hổ độn để mà xác định, lần này thì ta dùng Can cung của cung lưu nguyệt mà làm chuẩn. (Vì) Cung Lưu nguyệt có Can là Kỷ, mà "Giáp Kỷ thì Bính Dần thủ" cho nên Dần cung sẽ mang Can là Bính, đếm thuận đến Tuất cung thì chính là can Giáp. Do đó mà hạn Lưu nhật của ngày 20 tháng 4 sẽ ở trên cung Giáp Tuất.
Còn như xác định "Lưu thời hạn" thì lại phải dùng đến "Ngũ Tý độn". Bài dưới đây sẽ tiếp tục nói đến.
11. Can cung Lưu nhật gia thêm Ngũ Tý độn để xác định Can cung Lưu thời.
Ngũ thử (Tý) độn quyết:
Giáp Kỷ chi nhật khởi Giáp Tý
Ất Canh chi nhật thành Bính Tý
Bính Tân chi nhật khởi Mậu Tý
Đinh Nhâm chi nhật khởi Canh Tý
Mậu Quý chi nhật khởi Nhâm Tý
Trước là phải tìm ra Can ngày rồi mới vận dụng Ngũ Tý độn quyết. Sử dụng luôn ví dụ Mệnh bàn ở ngay bên trên đây, đã biết là ngày 20 tháng 4 là Giáp Tuất, đếm thuận tới ngày 24 tháng 4 chính là: Giáp Tuất (20) -> Ất Hợi (21) -> Bính Tý (22) -> Đinh Sửu (23) -> Bính Dần (24 - khởi điểm của phép Ngũ Hổ độn, can Bính là trùng lặp lại).
(Vậy) ngày 24 tháng 4 là tại Dần cung, có Can cung là Bính.
Lấy "Ngũ Tý độn" mà khởi Can từ cung Tý, theo câu "Bính Tân chi nhật khởi Mậu Tý", cho nên giờ Tý của ngày 24 tháng 4 là ở tại cung Tý và Can cung là Mậu; giờ Sửu ở tại cung Sửu với Can cung là Kỷ,... cư thế mà suy ra.
Liền một mạch mà nói quá nhiều về các lý luận cơ bản thì khả năng sẽ làm cho mọi người khó mà tiêu hóa được, thành thực xin lỗi vậy. Nhưng để bắt đầu thảo luận về hoạt bàn phi tinh, thì những lý luận đó đúng là không thể không biết được.
Nếu như quý vị có lưu ý, thì ta chưa hề vận dụng "Ngũ hổ độn quyết" cùng "Ngũ thử độn quyết" của Phi Tinh phái để mà phân biệt ở tại Tiểu Hạn, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật cùng Lưu Thời.
Làm thế nào để biết thời cơ kiếm tiền? Các bài tiếp theo sẽ bàn tới ứng dụng phi tinh để biết thời cơ kiếm tiền.
(Nguồn: sưu tầm)

Nếu bạn là con trai, hãy để lộ vầng trán của mình; còn nếu bạn là con gái hãy mặc trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Cùng ## khám phá kiến thức phong thủy và tìm cách hóa giải nguy cơ nếu bạn có tình địch nhé!
1. Không được vội vàng, phải vững tâm lý
Theo ## thấy thì khi phát hiện ra nguy cơ có tình địch, trước tiên bạn phải bình tĩnh, không được vội vàng và xem lại bát tự của hai người. Có thể bạn sẽ phát hiện ra năm nay rất kỵ với tuổi của bạn hoặc người yêu, vận khí không được tốt nên xảy ra một số biến động cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên chỉ cần vượt qua được mấy tháng xấu trong năm, mọi chuyện sẽ tốt lên thôi.
2. Chặt một cành đào nhỏ đặt trong phòng ngủ
Cách này đồng nghĩa với việc bạn đã dùng dao cắm vào cành đào, mượn nó để loại trừ sự đào hoa (hoa đào tượng trưng cho sự đào hoa). Hoặc cành đào đó sẽ đánh bại tình định của bạn, đưa người ấy trở về bên bạn.
3. Để lộ trán nếu bạn là con trai
Trong phong thuỷ, tình yêu chính là sự giao thoa về khí giữa hai người khác giới. Trán của con người là cửa vào của khí. Nếu bạn để tóc che mất trán, có nghĩa bạn từ chối sự giao thoa khí với đối phương. Vì thế, nếu muốn toả ra hơi thở của tình yêu, đầu tiên bạn phải để lộ trán của mình. Muốn giữ lại người mình yêu, đánh bại tình địch, tốt nhất bạn nên để tóc ngắn, không được che mất trán.
4. Tỏ tình vào thời gian thích hợp nhất
## thấy việc nắm bắt được thời cơ cũng rất quan trọng. Theo phong thuỷ, 17-19 h là thời gian thích hợp nhất để tỏ tình. Trong phong thuỷ, khoảng thời gian này được gọi là giờ “đoái”, tượng trưng cho tình yêu. Ngoài ra, nó còn mang ý nghĩa vui vẻ, chờ đợi. Nếu qua mất giờ đẹp, đặc biệt là qua 23 h thì bản chất của tình yêu sẽ có những thay đổi to lớn. Từ 23 h đến 1 h sáng hôm sau là giờ “khảm”, là thời gian chức năng sinh lý dồi dào. Tỏ tình trong thời điểm này sẽ khiến tình yêu biến thành mối quan hệ của dục vọng. Vì thế bạn cần hết sức lưu ý.
5. Toả ra “sắc đào” nếu bạn là con gái
Không biết mọi người có để ý đến không nhưng có rất nhiều cô gái cứ nhìn thấy màu hồng là vui mừng khôn xiết, thậm chí còn có thể toả ra sức hấp dẫn vô hình. Màu sắc có rất nhiều tác dụng không thể bỏ qua, trong đó màu hồng phấn (gần giống màu của hoa đào) là màu tăng thêm sức hấp dẫn cho người con gái. Ở Trung Quốc, hoa đào tượng trưng cho tình yêu. Mùa xuân hoa đào nở, và cũng là mùa đẹp nhất để phát triển tình cảm. Vì thế, khi bạn có tình địch, hãy mặc những trang phục màu hồng hoặc thoa một chút son hồng… Điều này sẽ khiến cho bạn trai của bạn tăng thêm sự yêu thích đối với bạn. Tóm lại, hãy tận dụng những sắc hồng trong trang phục hay khi trang điểm để làm lu mờ cô nàng tình địch đáng ghét kia.
6. Mua đồ đôi may mắn
Bạn nên mua một đôi ngọc bội long phượng may mắn, đây là thứ các cặp đôi thường dùng. Ngọc bội màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và bền chặt của tình yêu. Hai bạn mỗi người đeo một nửa. Nó sẽ phù hộ cho cả hai mãi mãi thương yêu nhau. Đeo miếng ngọc bội này hàng ngày có thể đánh bại tình địch, khiến người bạn yêu quay về bên bạn.
Tác giả của "Thọ mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân (1690-1760) hiệu Thọ Mai người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, đậu Tiến sĩ năm 1721 (năm thứ 2 triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
Trong "Thọ mai gia lễ" có trích dẫn một phần của Hồ Thượng thư gia lễ. Hồ Thượng thư tức Hồ Sỹ Dương (1621-1681) cũng người làng Hoàn Hậu, đậu tiến sĩ năm 1652 tức năm thứ 4 triều Khánh Đức, Thượng thư bộ Hình, tước Duệ Quận công.
| ► Xem bói năm 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Chùa Nễ Châu – Một kiến trúc nghệ thuật đặc sắc tọa lạc tại đường Phố Hiến, xã Hồng Nam, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Chùa do Sư thầy Thích Đàm Phương trụ trì. Chùa Nễ Châu còn có tên chữ là Thụy Ứng Tự. Địa phận chùa Nễ Châu trước đây là khu vực chợ Nễ Châu, địa danh cuối cùng của Phố Hiến hạ – trung tâm thương cảng Phố Hiến thời kỳ phồn thịnh thế kỷ XVI – XVII.
Chùa được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ 10, gắn với truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh, vợ vua Lê Hoàn. Khi Lê Hoàn về đóng quân trấn ải ở đây chống quân xâm lược nhà Tống, đã lấy bà làm vợ. Bà giúp nghĩa quân cất giấu lương thảo, chăm lo hậu cần. Giặc tan, bà xin ở lại phụng dưỡng cha mẹ và đi tu tại chùa làng. Lê Hoàn cử Giới Quốc Công về xây dựng chùa. Khi bà mất, nhà vua cho lập đền thờ ngay phía trước cổng chùa.
Trải qua các triều đại, chùa Nễ Châu đều được trùng tu, tu sửa. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời Nguyễn, niên hiệu Bảo Đại nguyên niên (1926). Chùa có kiến trúc kiểu “Nội đinh ngoại quốc” bao gồm các hạng mục: tiền đường, thượng điện, nhà tổ và hai dãy hành lang.
Nổi bật về giá trị nghệ thuật điêu khắc chùa Nễ Châu là bộ tượng Tam Thế và tượng Tuyết Sơn có niên đại thế kỷ 18. Tượng được tạo tác cân đối, đường nét sống động thể hiện trình độ nghệ thuật tạo hình khá cao.
Đền thờ bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh nằm đối diện chùa Nễ Châu, cũng được trùng tu vào thời Nguyễn, kiến trúc kiểu chữ Đinh bao gồm 3 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đền có kết cấu kiến trúc kiểu con chồng đấu sen, chạm khắc hoa văn cách điệu, mang phong cách kiến trúc thời Nguyễn.
Hằng năm, chùa Nễ Châu thường tổ chức tế lễ vào các ngày 15 tháng giêng và ngày 15.8 âm lịch để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của bà Nguyễn Thị Ngọc Thanh. Ngày 10.9 (âm lịch) kỷ niệm ngày mất của Lê Long Kính. Ngoài ra, vào những ngày lễ lớn của nhà Phật như: ngày Phật Đản, lễ Vũ Lan… cũng được tổ chức long trọng tại chùa, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Chùa Nễ Châu đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1992, xứng danh là một trong những công trình điêu khắc nghệ thuật có giá trị thuộc Quần thể Di tích Phố Hiến.
Đền Tiên La là ngôi đền thờ Bát Nàn Tướng Quân (tướng quân phá nạn cho dân, có nơi gọi là “bát nạn” hay “bát não”) Vũ Thị Thục (sinh năm 17, mất năm 43)[1], một nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định. Ngôi đền là một nét kiến trúc đặc sắc tại tỉnh Thái Bình.
Ngôi đền tọa lạc trên một diện tích khoảng 4000m² tại thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Trải qua nhiều lần tu bổ, đến nay đền có quy mô to lớn, đẹp lộng lẫy cả về địa thế và vóc dáng , bao gồm nhiều công trình như hệ thống cổng đền, tòa tiền tế, tòa trung tế, thượng điện và hệ thống sân đền.
Tòa điện bái đường và thượng điện của đền được kiến trúc bằng vật liệu gỗ tứ thiết, nội thất được chạm trổ công phu với các nội dung có tích kinh điển như “Long – Lân – Quy – Phụng” đan xen với “Thông – Trúc – Cúc – Mai”.
Tòa điện trung tế là công trình kiến trúc đặc sắc được xây dựng theo kiểu phương đình, kiến trúc theo lối “chồng diêm cổ các”. Điều đặc biệt là toàn bộ vật liệu xây dựng ở tòa bái đường đều làm bằng đá như hệ thống cột, xà, kèo… Tất cả đều được chạm trổ công phu tạo nên cho nơi này toát lên vẻ đẹp hoàn mỹ hiếm nơi nào có được.
Ngoài ra, đền Tiên La còn lưu giữ được nhiều đồ tế khí quý giá có giá trị thẩm mỹ cao có niên đại từ thời Lê, các tài liệu như thần tích và sắc phong thần thời Lê đến thời Nguyễn, bia đá, minh chuông đều có giá trị lịch sử quý giá.
Lễ hội đền Tiên La để tưởng nhớ công ơn Bát Nạn Tướng Quân, được tổ chức vào các ngày 15 đến 17 tháng 3 âm lịch. Ngày nay để phục vụ đông đảo du khách về dự hội ban tổ chức lễ hội đã mở hội từ ngày 10 đến 20 tháng 3 âm lịch. Chính hội là ngày 17, trùng ngày hy sinh của bà tướng là ngày 17 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43). Hội có trò chọi gà, đấu vật, múa rồng, múa sư tử, đặc biệt là phần rước kiệu và một số trò chơi dân gian khác như đánh đáo, trọi gà, thổi sáo trúc.Ngoài ra, vào dịp lễ hội còn có nhiều đoàn văn hóa nghệ thuật của tỉnh Thái Bình và các tỉnh lân cận cũng đến biểu diễn các tiết mục văn hóa đặc sắc.
Đền Tiên La xứng đáng là một ngôi đền cổ với những nét đẹp riêng có vùng quê Thái Bình. Với những giá trị lịch sử và vị trí cũng như với lối kiến trúc độc đáo, đền Tiên La chắc chắn sẽ là một điểm dừng chân hấp dẫn với du khách trong và ngoài nước.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| => Xem Lịch vạn niên, lịch vạn sự chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
Nếu như bạn có phúc phận, dẫu ở những nơi phong thủy kém, phong thủy cũng sẽ theo bạn mà chuyển biến tốt lên. Nếu như bạn không có phúc phận, thì dù có ở nơi phong thủy tốt, phong thủy tốt cũng sẽ tự mình phá hủy mất. Kinh nghiệm đoán mệnh của một vị cao nhân, khiến cho rất nhiều người phải ngạc nhiên đến ngây cả người.
Cần phải tôn kính trời đất, nhật nguyệt, sông núi, cỏ cây, chim cá, đá cát, vạn vật, sách vở, bởi vì hết thảy những thứ này đều có linh tính cả. Bạn mà tôn trọng chúng, chúng sẽ thành tựu bạn, giúp đỡ bạn mọi lúc mọi nơi. Tình cảm này giống như tìm được tri kỷ của mình vậy.
Thử hỏi cảm giác chúng ta khi gặp được người bạn tri âm trong lòng như thế nào? Trạng thái tinh thần đó quả thật là vô cùng đặc biệt, nói dễ hiểu một chút chính là người già tám mươi cũng sẽ cảm thấy mình như mười tám vậy, những người thô kệch cũng có thể viết nên những áng văn thơ, đây chính là nét bút vẽ rồng thêm mắt, linh hồn sống lại, nó cũng là như vậy.
Vậy làm thế nào để bồi dưỡng phong thủy? Câu trả lời chính là hãy bồi dưỡng phúc đức của mình
Cái gọi là đất quý phong thủy, chính là những nơi có sinh khí hưng thịnh nhất. Sát sinh, sẽ khiến cho hết thảy sinh linh đều sợ hãi, đều chạy trốn không kịp. Hãy thử nghĩ xem, nơi nào không có sinh linh, chẳng phải sa mạc sao. Trên sa mạc, cái gì cũng đều không có, vậy thì còn chở tiền tài, phúc lộc thọ, an khang gì nữa.
Hiếu thuận với cha mẹ, không xích mích chống đối cha. Hiếu kính cha mẹ chính là một phương thuốc có thể thay đổi hết thảy vận mệnh trong cuộc sống. Phật Đà chẳng dạy rằng đã làm người cần phải biết phụng dưỡng cha mẹ.
Ở trong nhà nói với người thân cũng không được, bởi vì không phải nhà không người lạ thì chẳng ai nghe thấy. Thực tế Thần đều đang lắng nghe bạn, vạn vật đều đang nghe thấy cả, cho đến cả cái ly, cái đĩa, cái chén, cái đèn, bình phong, bàn ghế, v.v…. ở bên cạnh bạn đều cũng đang nghe.
Bạn nói xấu người khác, những thứ kia đều không phục bạn. Điều này cũng giống một tướng lĩnh, quân sĩ mà không phục tùng, thì bạn không có cách nào ra lệnh cho họ được, như vậy lòng quân sẽ tan rã. Chúng ở cùng với bạn lâu có thể còn sẽ bắt chước theo bạn, đúng với câu nói “vạn vật đều mang hình tượng của người chủ”.
Vậy nên có những người xem tướng một người, họ chỉ cần nhìn vào những vật mà người này từng dùng, liền biết ngay người này là như thế nào rồi, bản thân vật thể này biết nói chuyện. Vạn vật đều có linh tính, vạn vật đều là biết tự mình bộc lộ tâm sự vậy.
Biển cả dùng cái thiện ở nơi thấp của mình mà làm vua trăm sông. Địa thế của biển cả là thấp nhất nên trở thành vua. Chúng ta đặt bản thân mình ở vị trí thấp nhất để phúc đức trí huệ của trăm sông vạn vật cũng có thể hội tụ. Chúng ta nói đức dày chuyên chở vạn vật, muốn chở được vạn vật thì cần phải đặt bản thân mình ở dưới vạn vật, đặt mình ở vào vị trí thấp nhất.
Chúng sinh phúc mỏng, chính là vì sự tôn kính dành cho nhau càng ngày càng ít. “Cung kính trời thì có thể biết được đạo trời (thiên đạo); cung kính đất thì có thể biết được cái lý của đất (địa lý); cung kính các vì sao có thể biết được các tinh hệ; cung kính sông núi thì có thể liễu giải được sông núi; cung kính cỏ cây thì có thể liễu giải được cỏ cây; cung kính chim cá thì có thể hiểu được chim cá; cung kính đá cát thì có thể hiểu được đá cát”.
Bạn cung kính cái gì, thì cái đó liền nguyện ý giúp đỡ bạn, thành tựu bạn. Tỷ như cây cỏ lúc sống thì mềm yếu, chết rồi thì lại cứng khô. Thân thể người khi còn sống thì mềm yếu, chết rồi lại trở nên cứng đờ. Đây chính là nói rằng mềm yếu là một loại biểu hiện của sự sống, theo đây có thể suy luận rằng làm người cần phải mềm dẻo chứ đừng nên cố chấp, đây mới là nền tảng của phú quý phúc hậu.
Bất kể xem chỗ nào cũng đều phản ánh toàn bộ tướng số của người này, có thể thông qua cốt cách, có thể thông qua hình bóng sau lưng, có thể thông qua nét mặt, có thể thông qua nơi ở, có thể thông qua làn da của người ta, có thể thông qua nét chữ của người ta, có thể thông qua hộp đựng đồ dùng văn phòng mà nhìn.
Người xưa tại sao lại có thể bắt mạch, dựa vào mạch tượng của người ta để phán đoán phúc lộc của một người? Cái này là thật sự có thể. Một người và tất cả những sự vật bên cạnh của người ta, đều là tâm tướng được phóng đại phản ánh ra bên ngoài của người ta, chỉ cần cẩn thận quan sát những tín tức này, thì bản thân là có thể nhìn ra được.
Muốn định được phúc lộc của người ta, thì phải xem thử cách nói chuyện và làm việc của người này. Nói chuyện không có bắt bẻ lại người ta, làm việc thường hay giúp đỡ người khác đến khi thuận lợi mới thôi, dòng khí lưu chuyển của bản thân cũng sẽ do gợi ý của tâm lý này mà trở nên thông suốt.
Ví như nổi nóng oán hận thường xuyên sẽ nghẹt khí tắc khí, vậy nên cần phải khống chế oán hờn trong lòng, tựa như các khí bụi lắng xuống sẽ tạo thành mặt đất, từ đó mới có thể chuyên chở vạn vật. Cũng như thế đối với khuyết điểm và thiếu sót của người khác hãy bao dung, làm được vậy thì bản thân chư vị sẽ thấy mình có sức mạnh to lớn.
Của cải chính là đến từ các loại thu hoạch, các loại tài sản. Của cải chỉ có thể dùng đức dày để mà chuyên chở. Nếu không thì trái lại sẽ trở thành tai nạn.
Ví như nói, bây giờ cho bạn mười triệu, bạn cầm được mười triệu mà trong lòng nơm nớp lo sợ, sợ người ta đến giành, đến trộm, đến cướp. Mười triệu này, bạn lấy để làm gì? Bạn không có đức, thì sẽ dùng để phóng túng bản thân, suốt ngày ăn uống chơi bời, không biết phấn đấu, sau cùng tổn hại thân thể, tâm hồn, sức khỏe, đã hủy hoại chính bản thân mình rồi. Đây chính là đạo lý không dùng đức dày mà chuyên chở sự giàu có thì sẽ gặp phải tai ương.
Tiên minh cách cuộc
Thứ khán ác tinh
Yêu tri nhất thế chi vinh khô
Định khán ngũ hành chi cung vị
Đệ nhất thị khán thân mạng
Tài tam tế khảo thiên di
Phân đối cung chi thể dụng
ĐỊnh tam hợp chi nguyên lưu
Mạng vô chính diệu yểu chiết cô bần
Cát hữu hung tinh mỹ ngọc hà điếm
Ký đắc căn cơ kiên cố
Tu tri hợp cuộc tương sinh
Kiên cố tắc phú quý diên thọ
Tương sinh tắc tài quan chiêu trước
Mệnh hảo thân hảo hạn hảo đáo lão vinh xương
Mệnh suy thân suy hạn suy, chung thân khất cái
Giáp Quý giáp Lộc thiểu nhân tri
Giáp Quyền giáp Khoa thế sở nghi.
Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ
Giáp Xương giáp Khúc chủ quý hề
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
Giáp Kình giáp Đà vi khất cái
Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phú chi nhân
Thiên Lương Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách
Liêm Trinh hãm, hà tiện cô hàn
Thái Âm vượng, nhất sinh khoái lạc
Tiền bần hậu phú Vũ Tham đồng thân mạng chi cung
Tiền phú hậu bần chỉ vị vận hạn phùng Kiếp Sát
Xuất thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ tài quan chi vị
Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài Phúc chi hương
Văn Khúc Văn Xương vi nhân đa học đa năng
Tả Phụ Hữu Bật bình tính khắc khoan khắc hậu
Thiên Phủ Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần
Vi sĩ vi quan, định chủ hanh thông chi triệu
Miêu nhi bất tú, Khoa danh hãm ở hung thần
Phát bất chủ tài, Lộc chủ triền ư nhược địa (Tý Ngọ Thân Dậu là nhược địa của Hoá Lộc)
Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh xương
Tử Phủ đồng cung, chung thân phúc hậu
Tử Vi cư Ngọ vô sát tấu, vị chí công khanh
Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yêu kim ý tử
Khoa Quyền Lộc củng, danh dự chiêu chương
Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch
Khoa minh Lộc ám vị liệt tam thai
Nhật Nguyệt đồng lâm quan cư hầu bá
Nhật Nguyệt đồng lâm luận đối cung
Bính Tân nhân ngộ phúc hưng long
Cự Cơ đồng cung, công khanh chi vị
Tham Linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
Thiên Khôi Thiên Việt cái thế văn chương
Thiên Lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ
Tả Phụ Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ
Tham Lang Hoả tinh cư miếu vượng danh chấn chư bang
Cự Nhật đồng cung quan phong tam đại
Tử Phủ triều viên, thực lộc vạn chung
Khoa Quyền đối củng, dược tam cấp ư Vũ Môn (cá hoá rồng)
Nhật Nguyệt tịch minh, tá cửu trùng kim điện
Phủ Tứơng đồng lai hội mạng cung, toàn gia thực lộc
Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ổn bộ thiềm cung
Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại
Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân
Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí
Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công
Nhật Nguyệt Sửu Mùi mạng trung phùng
Tam phương vô cát phước nan hưng
Nhược hoàn cát hoá phương vi mỹ
Phương diện uy quyền phúc lộc tăng
Thiên Lương Thiêm Mã hãm, phiêu đãng vô nghi
Liêm Trinh, sát bất gia, uy danh viễn bá
NHật chiếu Lôi môn, phú quý vinh hoa
Nguyệt lãng Thiên môn tiến tước phong hầu
Dần phùng Phủ Tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh
Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quý
Lương cư Ngọ vị quan tư thanh hiển
Khúc ngộ Lương tinh vị chí đài cương
Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập tướng
Văn tinh ám củng, Giả Nghị doãn hỷ đăng khoa
Kình Dương Hoả Tinh, uy quyền xuất chúng
Đồng hành Tham Vũ uy áp biên di
Lý Quảng nan phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ
Nhan Hồi yểu chiết, Văn Xương hãm ư Thiên Thương
Tử Vũ tài năng, Cự tú, Đồng Lương xung thả hợp
Dần Thân tối hỷ Đồng Lương hội
Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cụ Môn
Lộc đảo Mã đảo, kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không
Vận suy hạn suy hỷ Tử Vi chi giải hung ác
Cô bần đa hữu thọ
Phú quý uc yểu vong
Điếu Khách Tang Môn Lục Châu hữu truy lâu chi ách
Quan Phù Thái Tuế, Công Dã hữu luy tiết chi ưu
Hạn chí Thiên La Địa Võng, Khuất Nguyên nịch thủy chi vong
Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không, Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm chỉ táng mạng yểu niên
Mạng Không, hạn Không vô cát tấu, công danh tắng đắng
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên chiết xứ
Mạng trung ngộ Kiếp cáp như lãng lý hành thuyền
Hạng Vũ anh hùng, hạn ngộ Thiên Không nhi táng quốc
Thạch Sùng cự phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia
Lữ Hậu chuyên quyền, lưỡng phùng Thiên Lộc, Thiên Mã
Dương Phi hảo sắc, tam hợp Văn Khúc Văn Xương
Thiên Lương ngộ Mã, nữ mạng tiện nhi thả dâm
Văn Khúc giáp Trì, nam mạng quý nhi thả hiền
Cực cư Mão Dậu, đa vi thoát tục chi tăng
Trinh cư Mão Dậu, định thị công tư tại bối
Tả Phủ đồng cung, tôn cư vạn thặng
Liêm Trinh Thất Sát, lưu đãng thiên nhai
Đặng Thông ngã tử, vận hành Đại Háo (Hao) chi hương
Phu Tử tuyệt lương hán đáo Thiên Thương chi nội
Linh Xương La Vũ, hạn chí đầu hà
Cự Hoả Kình Dương, chung thân ải tử
Mạng lý phùng Không, bất phiêu lưu tất chủ tất khổ
Mã đầu đới kiếm, phi yểu chiết tắc chủ hình thương
Tý Ngọ Phá Quân gia quan tiến lộc
Xương Tham cư mạng, phấn cốt thoái chi
Triều đẩu ngưỡng đẩu, tước lộc vinh hoa
Đan Trì Quế TRì tảo loại thanh vân chi chí
Hợp Lộc củng Lộc đôi kim ngọc
Tước lộc cao thiên ý cẩm bào
Âm Dương hội Xương Khúc xuất thế vinh hoa
Phụ Bật ngộ tài quan, y phi trước tử
Cự Lương tương hội Liêm Trinh tính
Hợp Lộc uyên ương nhất thế vinh
Vũ Khúc nhân cung đa xảo nghệ
Tham Lang hãm địa tác đồ nhân
Khôi tinh lâm mạng, vị liệt tam thai
Vũ Khúc cư Càn, Tuất Hợi thượng
Tối pha Thái Âm phùng Tham Lang
Hoá Lộc hoàn vị hảo
Hưu tướng mộ trung tàng
Tý Ngọ Cự Môn thạch trung ẩn ngọc
Minh Lộc Ám Lộc cẩm thượng thêu hoa
Toạ thủ là minh nhị hợp là ám
Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân
Phú nhi bất thật hữu hư danh
Xương Khúc Phá Quân phùng
Hình khắc đa lao lục
Tham Vũ mộ trung cư
Tam Thập tài phát phúc
(Tham Vũ bất phát thiếu niên nhân
Vận quá tam thập phương diên thọ)
Thiên Đồng Tuất cung vi phản bối
Đinh nhân hoá cát chủ đại quý
Cự Môn Thìn Tuất vi hãm địa
Tân nhân hoá cát lộc tranh vanh
Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối, nãi vị thất huy
Thân Mạng định yếu tinh cầu, khủng sai phân số
Âm chất diên niên tăng bách phúc
Chí ư hãm địa bất tao thương
Mạng thật, hạn kiên, cảo điền đắc vũ
Mạng suy, hạn nhược, nộn thảo tao sương
Luận mạng tất suy tính thiện ác
Cự Phá Kình Dương tính tất cương
Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo
Hoả Kiếp Không Tham tính bất thường
Xương Khúc Lộc Cơ thanh tú xảo
Âm Dương Tả Hữu tối từ tường
Vũ Phá Trinh Tham xung hợp, khúc toàn cố quý
Dương Đà Thất Sát tương tạp, hỗ kiến tắc thượng
Tham Lang Liêm Trinh Phá Quân ác
Thất Sát Kình Dương Đà La hung
Hoả Tinh Linh tinh chuyên tác hoạ
Kiếp Không Thương Sứ hoạ trùng trùng
Cự Môn Kỵ tinh giai bất cát
Vận thân, mạng, hạn kỵ tương phùng
Cánh kiêm Thái Tuế Quan Phù chí
Quan phi khẩu thiệt quyết bất không
Điếu Khách Tang Môn hựu tương ngộ
Quản giao tai bệnh nhi tương công
Thất Sát thủ thân chung thị yểu
Tham Lang nhập mạng tất vi xương
Tâm hảo Mệnh vi diệc chủ thọ
Tâm độc mạng hậu diệc yểu vương
Kim nhân mạng hữu thiên kim quý
Vận khứ chi thì khởi cửu trường
Số nội bao tàng đa thiểu lý
Học giả tu đương tử tế tường.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
1. Khi gặp được người mà bạn thật lòng yêu thương: Bằng mọi giá hãy làm cho người ấy yêu thương bạn và muốn ở bên bạn mãi mãi, bởi nếu người ấy ra đi, bạn sẽ vô cùng đau khổ.
2. Khi gặp một người bạn đáng tin cậy: Hãy giữ mối quan hệ tốt đẹp với người này vì trong cuộc đời rộng lớn này thì việc gặp được tri âm tri kỷ vô cùng khó.
3. Khi gặp người mà bạn mang ơn: Hãy có những hành động bày tỏ sự cảm kích với họ, tuyệt đối không nên làm tổn thương họ vì họ chính là ân nhân của bạn.
4. Gặp lại người yêu cũ: Nên nở nụ cười với họ, cảm ơn họ vì đã giúp bạn hiểu thêm về tình yêu.
5. Gặp người từng ghét cay ghét đắng bạn: Nên cười xã giao với họ vì họ làm bạn trở nên kiên cường, cứng rắn hơn.
6. Gặp người đã từng phản bội bạn, quay lưng với bạn: Hãy cứ vui vẻ bắt chuyện với họ vì nếu như không có sự phản bội của họ thì tầm hiểu biết của bạn về cuộc sống này vẫn vô cùng hạn hẹp.
7. Gặp người bạn đã từng yêu say đắm: Nên chúc phúc cho họ, bởi vì khi yêu là nhìn thấy người mình yêu hạnh phúc cũng là một điều hạnh phúc.
8. Gặp người tình cờ đi ngang qua bạn: Họ là người góp phần khiến cuộc sống của bạn lung linh hơn, màu sắc hơn, bạn nên cảm ơn họ.
9. Và hãy cảm ơn một nửa của bạn hiện nay bởi vì người ấy đã dành tình yêu cho bạn, vì bạn và người ấy đang hạnh phúc.
| ► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
S.T
hiệu quả làm thay đổi vận trfnh. Căn cứ vào ngũ hành Kim – Mộc – Thủy – Hoả – Thổ, pha lê lại có thể phân thành 5 loại.

Pha lê đỏ: Còn được gọi là pha lê lông thỏ đỏ, tên khác là “pha lê Verniser”, là những viên đá đỏ kim hình lưới, mượt mà mềm mại như những sợi to săn chắc, giống như những sợi tóc của mỹ nữ. Nó chính là một trong những loại quý hiếm trong họ nhà pha lê, số lượng rất ít và quý hiếm, cho nên những người biết vế chúng cùng không nhiều. Hiện nay người ta phải bán ra theo từng gam. Nhưng loại pha lê đỏ tự nhiên có tác dụng tâm linh, an tịnh tinh thần, kiêm thêm khả năng hàm chứa năng lượng đặc biệt, không những có tác dụng bào vệ sức khỏe, mà còn có cả chức năng cải mệnh trị bệnh, nên nó la một vật liệu quý. Pha lê đỏ trong Ngũ hành thuộc chủ Hỏa, cơ thể của người xem vốn thuộc Hải trung kim (vàng đáy biển), bên trong bị thất thoát, nên đeo bên mình một vòng pha lê để hoá giải hệ thống tuần hoàn bên trong, có tác dụng tốt đối với các bệnh phụ khoa. Pha lê đỏ có thể kích thích đấu trí, tăng thêm lòng tự tin cho con người.
Tác dụng của pha lê đỏ: Pha lê đổ tự nhiên có thể tác dụng bồ trợ tâm linh, an thần, tránh khí độc và những thứ không trong sạch quanh mình, có tác dụng như một vật hộ thần. Nếu nữ giới thường đeo bên người, da dẻ sẽ trắng trẻo, có tác dụng làm đẹp rất tốt.
Tác dụng của pha lê tím: Khai mở trí tuệ, bình ổn tình cảm, nâng cao khả năng trực giác, mở rộng quan hệ xã hội, có thể đem lại dũng khí và khả năng chống chọi mọi nguy hiểm phát sinh của những người đi du lịch. Nó đại diện cho tình cảm yêu đương kiên trinh cao thượng, thường được chọn làm đá đính ước của cắc đôi tình nhân. Pha lê tím đại biểu cho sự thuần khiết, hài hoà, tâm tình bình dị, có hiệu quả trấn an tinh thần, tăng cường trí nhớ, giảm bớt tính khí nóng này: khi ngủ đặt ở dưới gối có thể kích thích sự tư duy, trị bệnh mất ngủ. Tiếp xúc với pha lê tím có thể nâng cao được linh tính, tăng thêm trí tuệ. Đặt pha lê tím vào một nhóm, sẽ khiến cho lòng người cảm thấy vui vẻ và bớt đi sự cô quả… Người xưa cho rằng: Nó có khả năng thần kỳ là trừ tà, hộ thân, đem lại hạnh phúc và trường thọ, lại có thể giải độc và tránh bị thương tổn, là một vật hộ thân tốt.
Ở phương Tây, pha lê tím còn được gọi là “đá chân thành”, nó tượng trưng cho sự chân thành, chính trực và lương thiện, cũng tượng trưng cho sự ngây thơ và vui vẻ, thích hợp làm vật lưu niệm tặng cho những thế hệ sau chưa trưởng thành. Pha lê tím còn có thể nâng cao tình cảm, đại biểu cho tình hữu nghị, an định tình cảm, kích thích suy nghĩ, kết duyên, bình an cát tường, chiêu phúc chặn hung khí. Theo sự giải thích của người phương Tây, năng lượng của thủy tinh tím là nội giảm, nội hướng, những nhóm thủy tinh đều sinh trưởng hướng vào trung tâm, biểu hiện nó có khả năng ngưng tụ vô cùng lơn.
Chùa Quang Ân có diện tích trên 10.000m2, bên bờ Ngọc Thanh Đàm, thôn Trung, xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa được dựng vào năm 1694, là một am tranh vách đất. Đến năm 1704, Thiền sư Như Liên, trụ trì chùa Linh Tiên, cho xây lại chùa, đặt cột đá thạch trụ thiên đài trước chánh điện để kỷ niệm. Chùa xây đơn sơ, cạnh ngòi Đồng Đú, nên còn có tên là chùa Ngòi.
Năm 1747, Hòa thượng Tri Giác (1692 – 1769) về trụ trì chùa trong 22 năm đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa khang trang. Chùa tiếp tục được trùng tu năm 1832. Năm 1913, Thiền sư Thích Thanh Hanh – Tổ Vĩnh Nghiêm (1840 – 1939) là người bản xã, về tổ chức sửa chữa chùa. Ngài ủy thác đệ tử Thông Đạt chủ trì xây dựng, mở rộng quy mô chùa từ năm 1935 đến năm 1941.
Trong nhiều năm chiến tranh, chùa lại bị hư hỏng. Từ năm 1988 đến nay, chùa lại tổ chức trùng tu, sửa chữa thành ngôi cổ tự uy nghiêm. Chùa còn giữ được nhiều hiện vật cổ, như bia trùng tu (1694) và 7 tấm bia cổ khác, đại hồng chung (1826).
Chùa Quang Ân đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1995.
Hành: HỏaLoại: Bại TinhĐặc Tính: Bệnh Tật
Phụ Tinh. Sao thứ 7 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Ý Nghĩa Của Sao Bệnh
Sao Bệnh chỉ sự đau yếu, bệnh tật, buồn rầu vì bệnh tật. Đây là bệnh của người suy nhược toàn diện, kém ăn, kém ngủ, kém nghỉ ngơi, thiếu bồi dưỡng, thông thường thể hiện bằng sự dễ nhiễm lạnh, sổ mũi, nhức đầu,"nắng không ưa, mưa không chịu".
Mặt khác, vì là sao nhỏ, cho nên có thể bệnh hoạn không nặng lắm, tuy có thể kéo dài. Vì vậy, về mặt tướng mạo, sắc diện, da dẻ không hồng hào, xanh xao, vàng vọt. Về mặt tâm lý, tinh thần người có sao Bệnh không phấn chấn, tráng kiện, không thích hoạt động.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)