Soi dáng người đoán tính cách
Alexandra V (theo VV)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Alexandra V (theo VV)
Tử Vi Đẩu Số lấy các tổ hợp sao làm chủ, cho nên 14 chính diệu tổ hợp thành sáu mươi tinh hệ có tính chất khác nhau, sau đó thêm vào các sao phụ, tá, khiến cho tính chất của chúng xảy ra sự biến hoá, hình thành một tính chất khác cụ thể hơn. Về phương diện, tạp diệu cũng có tác dụng khá quan trọng. Dưới đây xin trình bày tính chất cơ bản của các tạp diệu.
Thiên Thương thuộc dương thuỷ, Thiên Sứ thuộc âm thuỷ, là các sao của Trung Thiên, tính chất thường là, Thiên Thương chủ về hư hao, Thiên Sứ chủ về nạn tai, bệnh tật.
Thiên Thương và Thiên Sứ luôn luôn giáp cung thiên di. Dương nam, âm nữ đi thuận, an Thiên Thương ở cung giao hữu, an Thiên Sứ ở cung tật ách; âm nam, dương nữ đi ngược, an Thiên Thương ở cung tật ách, an Thiên Sứ ở cung giao hữu.
(1) Cung vị Thiên Thương và Thiên Sứ giáp, nếu là chính diệu Hoá Kỵ, hoặc có tứ sát tinh cùng hội chiếu, bị các sao sát, kỵ của lưu niên xung khởi, sẽ chủ về tai nạn tật ách.
(2) Thiên Cơ hoặc Cự Môn, cũng không ưa Thiên Thương và Thiên Sứ giáp cung, chủ về nhiều bệnh; gặp các sao sát, kỵ thì càng đúng.
(3) Thiên Thương và Thiên Sứ giáp cung thiên di, ắt sẽ đồng thời hội chiếu cung huynh đệ và cung phụ mẫu, nếu trong đại vận gặp tiểu hạn rơi vào cung bị Thiên Thương và Thiên Sứ giáp (chú ý, là tiểu hạn, chứ không phải là cung mệnh của lưu niên), cần phải quan sát cung huynh đệ và cung phụ mẫu xem có tinh hệ "Thiên Cơ, Cự Môn" toạ thủ hay không; có tứ sát và Hoá Kỵ hay không. Nếu có, mà các sao sát, kỵ lại nặng, thì có thể anh em hoặc cha mẹ mắc bệnh tử vong. Nhưng vì dùng tiểu hạn để luận đoán, nên ứng nghiệm dễ bị sai lệch một hai năm.
(4) Thiên Thương và Thiên Sứ có phân biệt hoạ nhẹ và hoạ khẩn. Thiên Thương ưa kim cục (tức ba cung Tị, Dậu, Sửu), không ưa phương hoả (tức hai cung Ngọ, Mùi); Thiên Sứ ưa ba cung Tí, Ngọ, Mùi mà không ưa ba cung Thìn, dậu, Tuất.
(5) Người sinh năm dương không ưa Lưu Lộc đồng cung với Thiên Thương hay Thiên Sứ, chủ về bệnh hoạn.
Thiên Hình thuộc dương hoả, Thiên Diêu thuộc âm thuỷ, Thiên Hình chủ về tự kềm chế, Thiên Diêu chủ về phóng túng, là cặp sao đôi có bản chất trái ngược nhau.
Thiên Hình ưa Văn Xương, Văn Khúc kết thành đôi hội chiếu hoặc đồng độ, chủ về tự kềm chế mà không có sát khí. Nếu Thiên Hình ở các cung Dần, Mão, Dậu, Tuất là nhập miếu; gặp Văn Xương, Văn Khúc, cổ nhân gọi là "chấp chưởng biên cương", nhưng lại không phải là võ tướng, phần nhiều chủ về chức võ mà nghiệp văn, tương tự như hải quan ngày nay.
Thiên Hình hội hợp với "Thái Dương, Cự Môn" là sao chấp chưởng hình pháp.
Thiên Hình hội hợp với "Thái Dương, Thiên Lương", gặp thêm các sao sát, kỵ, lại chủ về phạm pháp kiện tụng, mà không chủ về chấp chưởng hình pháp, không giống trường hợp hội hợp với "Thái Dương, Cự Môn".
Tử Vi hội Tham Lang ở hai cung Tí hoặc Ngọ, hoặc đồng độ với Tham Lang ở hai cung Mão hoặc Dậu, ưa gặp Thiên Hình, không phải là "Đào hoa phạm chủ", mà chủ về có thể tự kềm chế.
"Vũ Khúc, Thất Sát" đồng độ với Kình Dương, lại có Thiên Hình cùng bay đến, cổ nhân nói là dùng dụng cụ sắc bén để kiếm tiền, như thợ cắt tóc, đồ tể, thời hiện đại cũng có thể là bác sĩ ngoại khoa, nha sĩ.
Thiên Hình ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có sắc thái "cô độc và hình khắc", bất lợi đối với lục thân, cần phải xem xét kỹ các cung lục thân mà định.
Cung tật ách có Thiên Hình, lại có các sao sát, kỵ xung hội, đề phòng tuổi trẻ tàn tật, hoặc sinh ra đã bị dị tật. Cung tật ách của lưu niên hoặc đại vận mà gặp Thiên Hình, bị Lưu Dương xung hội, chủ về phải phẫu thuật.
Thiên Diêu chủ về đào hoa, có duyên gặp gỡ, hoặc có tính chất "tiếng sét ái tình". Gặp thêm Hàm Trì, Đại Hao, Mộc Dục, có thể làm mạnh thêm bệnh của Thiên Diêu, như hiếu sắc, trùng hôn (tức cùng lúc kết hôn với hai người), bệnh về tính dục. Gặp thêm Hồng Loan, Thiên Hỉ thì có thể giảm nhẹ những bệnh này, có lúc chủ về có duyên với người khác giới, hay được người khác giới chào đón.
Thiên Diêu cũng không ưa thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, chủ về dễ quyến luyến chốn phong hoa tuyết nguyệt.
Văn Xương, Văn KHúc đồng độ với Thiên Diêu, ắt là người phong lưu, tự đánh giá mình cao.
Thiên Diêu đồng độ với Văn Xương, Văn Khúc và Thiên Hình thì có thể hành động một cách thiết thực.
Thiên Diêu hội các sao sát, kỵ, sẽ làm mạnh thêm tính chất vì sắc mà gây ra hoạ; cần phải xem xét kỹ tính chất của tổ hợp tinh hệ chính diệu, và xem ở cung nào mà định. Nếu ở cung tài bạch, chủ về vì tửu sắc mà phá tài, ở cung điền trạch, chủ về sản nghiệp của ông bà hay cha mẹ bị phá tán, ở cung phu thê, chủ về trùng hôn, tái hôn, ở cung phúc đức, chủ về tư tưởng dễ bị hỗn loạn.
Thiên Diêu thủ cung thiên di, có sao cát cùng bay đến, tổ hợp tinh hệ chính diệu cũng cát, chủ về đi xa, chuyển dời đến nơi khác sẽ gặp nhiều cơ hội, và được người ở tha hương trợ lực.
Cung Thiên Diêu toạ thủ, có Mộc Dục, Hàm trì, Đại Hao đồng độ, lưu niên mà gặp chúng, chủ về đau khổ mang tính chất đào hoa.
Thiên Khốc thuộc dương kim, chủ về hình khắc, buồn đau; Thiên Hư thuộc âm thổ, chủ về lo nghĩ, trống rỗng.
Thiên Khốc là sao tình cảm, chủ về đau khổ nội tâm, vì vậy không nên ở cung phúc đức.
Thiên Hư là sao có tính vật chất, chủ về thiếu thốn vật chất. Vì vậy Thiên Hư không nên ở cung tài bạch, cũng không ưa ở cung tật ách, chủ về thân thể hư nhược, hoặc bệnh tật có tính hao tổn.
"Thiên Khốc, Thiên Hư" đồng độ với Lộc Tồn hoặc Hoá Lộc, nếu ở hai cung Mão hoặc Thân, tinh hệ chính diệu có tài khí vượng, sẽ chủ về nhờ tiền bạc mà tăng tiếng tăm; hoặc dễ có tiền của, ắt sẽ làm cho người ngoài biết.
Tinh hệ Thiên Đồng thủ cung huynh đệ, có "Thiên Khốc, Thiên Hư" cùng bay đến, chủ về anh chị em bất hoà với người phối ngẫu.
Hồng Loan thuộc âm thuỷ, Thiên Hỉ thuộc dương thuỷ, Hồng Loan chủ về hôn nhân, Thiên Hỉ chủ về sinh con cái. Hai sao này vĩnh viễn đối nhau, cho nên tính chất của chúng ảnh hưởng lẫn nhau.
Nữ cung mệnh gặp Hồng Loan thì kiều diễm, gặp Thiên Hỉ thì có vẻ đẹp lạnh lùng.
Ở cung tử nữ gặp Hồng Loan hay Thiên Hỉ, chủ về nhiều con gái, ít con trai.
Tử Vi có Hồng Loan hay Thiên Hỉ đồng độ, lại gặp cát tinh, tuổi trẻ thì chủ về kết hôn, tuổi già thì chủ về được phong hàm danh.
Cung tài bạch có chính diệu cát, gặp Hồng Loan hay Thiên Hỉ, chủ về "hoan hỉ tài" (như tiền thắng cá cược hay ăn cờ bạc); cũng thích hợp với những nghề liên quan đến "hỉ khánh" (chuyện mừng).
Về luận đoán thời gian kết hôn và mang thai, có thể lấy cung mệnh hoặc cung phu thê của lưu niên có Hồng Loan, Thiên Hỉ bay đến làm ứng kỳ, nhưng cần phải có tinh hệ chính diệu cát lợi ổn định mới đúng, nếu không, nên trì hoãn một hai năm, chờ đến khi cung mệnh hoặc cung phu thê của lưu niên có tổ hợp tinh hệ cát lợi mới ứng nghiệm.
Hồng Loan hay Thiên Hỉ bay đến cung điền trạch của lưu niên, chủ về có thêm nhân khẩu (thời cổ đại là mua nô tì, sinh con cái), nếu gặp thêm Tả Phụ, Hữu Bật, là có khách đến tá túc.
Tam Thai thuộc dương thổ, Bát Toạ thuộc âm thổ, đều là sao "nghi trượng", cần phải kết thành đôi để hội chiếu, mới chủ về tăng cao địa vị.
Cho nên Tam Thai, Bát Toạ ưa hội hợp các chính diệu như Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, chủ về quý hiển, hội hợp Thiên Lương cũng thích hợp.
Nếu Tam Thai, Bát Toạ hội hợp cung phụ mẫu, gặp chính diệu cát, chủ về gia thế cao quý, xuất thân trâm anh thế phiệt. Nếu tinh hệ chính diệu không cát tường, lại gặp sao lẻ phụ tá, hoặc có các sao đào hoa cùng bay đến, chủ về cha mẹ "lưỡng trùng".
Tam Thai, Bát Toạ không ưa ở cung phu thê, nếu nguyên cục có các sao không cát tường, sẽ làm mạnh thêm tính chất bất lợi của chúng.
Long Trì thuộc dương thuỷ, Phượng Các thuộc dương thổ, đều là sao văn minh, nếu kết thành đôi hội nhập, chủ về tài nghệ.
Long Trì, Phượng Các hội hợp với Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, có thể làm tăng sức mạnh, lợi về thi cử, cạnh tranh.
Long Trì Phượng Các giáp cung tài bạch hoặc cung sự nghiệp, mà không có Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung, hoặc Văn Xương, Văn Khúc giáp cung, chủ về có danh tiếng trước rồi có tiền của sau, hoặc tiền của do danh tiếng mà có, hoặc nhờ tài nghệ mà có tiền của.
Long Trì, Phượng Các chủ về "thanh quý" (sang quý thanh cao) mà không phải là "phú quý" (giàu sang), cũng chủ về nghệ thuật, kiến trúc, xây dựng.
Long Trì, Phượng Các ưa giáp Thiên Phủ, Thiên Tướng, chủ về làm tăng phong thái văn nhã.
Thất Sát và Long Trì cùng ở cung mệnh hoặc cung tật ách, tuổi già chủ về tai điếc; Thất Sát đồng độ với Phượng Các, chủ về rối loạn khứu giác và vị giác. Cần phải có lưu sát tinh xung khởi mới đúng.
Cô Thần thuộc dương hoả, Quả Tú thuộc âm hoả, chủ về cô quả, không ưa bay đến cung phụ mẫu và cung phu thê.
Nếu tinh hệ chính diệu là tổ hợp Vũ Khúc, Thiên Lương, Thiên Cơ, Cự Môn, Thất sát, Phá Quân, thì có thể phát huy tính chất của Cô Thần, Quả Tú, chủ về sớm mồ côi hoặc vợ chồng hình khắc, rời xa quê hương, con cái phân ly. Vì vậy, cung phu thê mà gặp các tổ hợp kể trên, cần phải kết hôn muộn mới có thể tránh sinh ly tử biệt, hoặc bằng mặt mà không bằng lòng.
Nữ mệnh có cung phu thê là Vũ Khúc Hoá Kỵ, Cô Thần và Quả Tú hội hợp, chủ về không có đời sống vợ chồng.
Cung phúc đức gặp Cô Thần, Quả Tú, chủ về tinh thần trống rỗng; nhưng cũng chủ về tư tưởng độc lập, cần phải xem bản chất của tổ hợp tinh hệ chính diệu mà định.
Cung tài bạch gặp cát tinh, có Cô Thần, chủ về tuổi trẽ tự lập gia nghiệp.
Cung sự nghiệp gặp cát tinh, có Quả Tú, chủ về tuổi trẻ tự lập, không hưởng phúc ấm của cha anh.
Ân Quang thuộc dương hoả, Thiên Quý thuộc dương thổ; chủ về vinh dự đặc biệt, tước lộc, có tính chất được tưởng thưởng; không giống như Tam Thai, Bát Toạ thuần tuý chủ về địa vị, nhưng nhờ được tưởng thưởng mà địa vị tăng cao một cách tương ứng.
Ân Quang, Thiên Quý có thể mang lại lợi ích thực tế, như trợ giúp cạnh tranh đắc lợi, thi cử đỗ đạt.
Rất ưa hội hợp với Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Âm, Thái Dương hoặc giáp cung có các tinh hệ kể trên.
Hai sao Ân Quang, Thiên Quý giáp cung sự nghiệp, lại được Thiên Khôi, Thiên Việt cùng giáp cung, ở thời cổ đại là chủ về được thế tập chức tước của cha. Ở thời hiện đại thì lợi về phát triển chuyên môn, cũng lợi về chuyên nghiệp. Nếu giáp cung tài bạch, thì danh lợi song thu, hoặc nhờ có danh mà đạt được lợi.
Ân Quang, Thiên Quý hội chiếu cung phu thê, nếu có "Lộc trùng điệp", chủ về được tiền của là nhờ vợ.
Ân Quang, Thiên Quý giao hội với Văn Xương, Văn Khúc, lợi về thi cử.
(Nguồn: sưu tầm)
► Xem bói 2016 theo khoa học tử vi để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Ví tiền là một kho báu nho nhỏ của mỗi người, cũng như nhiều đồ vật khác, ví tiền nếu dùng đúng cách sẽ mang lại nhiều tài lộc hơn cho gia chủ, và một vài típ sau sẽ cải thiện phong thủy để giúp tiền vô bóp bạn nhiều hơn.
1. Dùng bóp tiền thẳng
Chúng ta thường có thói quen sử dụng bóp gấp để tiết kiệm chỗ và dễ đút vào túi mang theo bên mình. Nhưng việc này lại vô tình khiến tờ tiền bị gấp gãy kém thoải mái, từ đó cản trở việc thu hút tiền tài vào cho gia chủ. Vì thế, hãy đổi sang sử dụng bóp thẳng để mở đường tài vận đến bóp hơn bạn nhé.
2. Đặt tiền vào tất cả các ngăn
(Ảnh: Internet)
Đặt tiền vào tất cả các ngăn sẽ giúp cho chiếc ví của bạn luôn trong tình trạng đầy đủ, không rỗng ruột. Đừng chỉ đặt tiền vào 1 ngăn duy nhất và bỏ trống các ngăn còn lại, vì khi hết tiền đột ngột bạn chẳng còn ngăn nào của ngân khố để bù đắp đâu.
3. Tuyệt đối không để hóa đơn trong bóp
Theo quan niệm về phong thủy, giữ một vật tượng trưng cho khoản tài lộc đã mất đi chẳng khác nào kích thêm sự “hao tài”. Chính vì thế đừng bỏ hóa đơn vào bóp nếu muốn chặn đường tài lộc của mình bạn nhé.
4. Chọn màu ví phù hợp với mệnh
(Ảnh: Internet)
Hãy chọn màu ví bổ trợ theo thuyết ngũ hành kim-mộc-thủy-hỏa-thổ phù hợp với vận mệnh của chính mình để tăng thêm may mắn, hút kim tiền. Ngược lại, nếu màu ví khắc với cung mạng thì sẽ đem lại điềm vận không hay.
Cách chọn màu sắc bóp/ví hợp với mệnh để tiền luôn sinh sôi nảy nở:
Người mệnh Kim (kim loại): mệnh Kim nên sử dụng bóp/ví có tông màu sáng và những sắc ánh kim vì màu trắng là màu sở hữu của bản mệnh. Ngoài ra kết hợp với các tông màu nâu, màu vàng vì đây là những màu sắc sinh vượng (Hoàng Thổ sinh Kim). Những màu này luôn đem lại niềm vui, sự may mắn cho người sử dụng. Và tránh những màu sắc kiêng kỵ như màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng Hoả khắc Kim).
Người mệnh Mộc (cây cỏ): nên sử dụng bóp/ví tông màu xanh ngoài ra kết hợp với tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen sinh Mộc). Bên cạnh đó, nên tránh dùng những tông màu trắng và sắc ánh kim (Màu trắng bạch kim khắc Mộc).
Người mệnh Thuỷ (nước): nên sử dụng bóp/ví tông màu đen, màu xanh biển sẫm, ngoài ra kết hợp với các tông màu trắng và những sắc ánh kim (Màu trắng bạch kim sinh Thuỷ). Tránh dùng những màu sắc kiêng kỵ như màu vàng đất, màu nâu (Hoàng thổ khắc Thuỷ).
Người mệnh Hoả (lửa): nên sử dụng bóp/ví tông màu đỏ, màu hồng, màu tím ngoài ra kết hợp với các màu xanh (Thanh mộc sinh Hoả). Tránh dùng những tông màu đen, màu xanh biển sẫm (nước đen khắc Hoả).
Người mệnh Thổ (đất): nên sử dụng bóp/ví tông màu vàng đất, màu nâu, ngoài ra có thể kết hợp với màu hồng, màu đỏ, màu tím (Hồng hoả sinh Thổ). Màu xanh là màu sắc kiêng kỵ mà bạn nên tránh dùng (Thanh mộc khắc Thổ).
Một số lưu ý khác để làm giàu cho ví tiền:
- Không nên ôm đồm tất cả mọi thứ để vào ví tiền như điện thoại, móc khóa... bạn nên đầu tư 1 chiếc bóp nhỏ khác để các vật linh tinh này tránh cản tài lộc vào ví
- Giữ vệ sinh ví sạch sẽ, loại bỏ các giấy tờ đã cũ, không cần thiết ra khỏi ví để ví được thông thoáng hơn.
- Nếu mua ví làm quà tặng thì bạn nên để kèm thêm 1 vài tờ tiền mệnh giá nhỏ với mong muốn người nhận ví có nhiều may mắn, tài lộc với chiếc ví bạn tặng.
(Tổng hợp)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, những người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.
Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.
* Ý nghĩa của 3 Lạy và 3 Vái
Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.
Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.
* Ý nghĩa của 4 Lạy và 4 Vái
Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.
Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.
· Ý nghĩa của 5 Lạy và 5 Vái
Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.
Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.
Ý nghĩa hình xăm hổ:
Hình xăm hổ là biểu thị sức mạnh, sự liều lĩnh, xả thân. Nó là biểu tượng của đẳng cấp chiến binh. Tuy hổ là chúa tể rừng xanh, nhưng cũng chỉ là thú hoang trong rừng sâu. Hung tợn mà không nham hiểm, khỏe mạnh nhưng không có cơ mưu, những người xăm hổ thường là những kẻ hữu dũng vô mưu xếp hàng Trương Phi.
Canh Dần nam mạng xem vận trình tử vi của bản thân hàng năm ra sao. Cuộc sống, tình duyên, gia đạo, công danh, những tuổi hợp làm ăn, việc lựa chọn vợ chồng thế nào được trình bày chi tiết trong lá số tử vi trọn đời này.
Sanh năm: 1950, 2010 và 2070
Cung CẤN
Mạng TÒNG BÁ MỘC (cây tòng, cây bá)
Xương CON CỌP. Tướng tinh CON BEO
Phật Bà Quan Âm độ mạng
Canh Dần, cung Cấn số này,
Mạng Mộc, Tòng, Bá ấy là quý thay.
Đông Xuân thuận số lo chi,
Tuổi gặp sung sướng ít khi khổ nghèo.
Hạ Thu là lỗi số sanh,
Kẻ giàu mệt trí người nghèo khổ thân.
Thuận sanh sang trọng vô cùng,
Có người sai khiến có chồng vinh thân.
Lỗi sanh như thể nhện giăng,
Miệng thì nói chỉ tay phăng cẳng đ ùa.
Số này cũng lắm ly kỳ,
Có khi hưng thạnh có khi điêu tàn.
Ra ngoài kẻ đón người đưa,
Quý nhân giúp đỡ phước dư có thừa.
Tuổi Canh Dần có nhiều cay đắng về cuộc đời, nhứt là về vấn đề tình duyên. Sự thay đổi hay bi quan về cuộc sống không ngoài việc không chủ tâm được cuộc sống, mà trái lại có nhiều bi quan thành thử ra cuộc đời không nhiều may mắn lắm. Nhưng nếu có theo đuổi về con đường công danh thì trái lại có kết quả vẹn toàn. Cuộc đời vào tiền vận nhiều đau xót, trung vận lao đao vì cuộc sống, hậu vận mới an nhàn và sống trong cuộc đời hoa gấm.
Tóm lại: Tuổi Canh Dần tuổi nhỏ không được yên vui, tâm trí thường lo nghĩ, hay có tánh bi quan, tiền vận vất vả, trung vận lao đao, hậu vận mới được an nhàn sung túc.
Tuổi Canh Dần hưởng thọ trung bình từ 56 đến 65 tuổi là mức tối đa. Nhưng, nếu ăn ở hiền hòa thì sẽ được gia tăng niên kỷ, gian ác thì sẽ bị giảm kỷ.
Về vấn đề tình duyên, tuổi Canh Dần có nhiều đau xót, sống với chuỗi ngày bi quan và nhiều đau buồn. Trong cuộc sống đối với vấn đề tình duyên rất đỗi đau buồn. Tuy nhiên về cuộc sống đối với vấn đề tình duyên, tuổi Canh Dần có ba giai đoạn như sau:
Nếu bạn sanh vào những tháng nầy, cuộc đời bạn sẽ phải ba lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 7 và 12 Âm lịch. Nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc sống của bạn phải có hai lần thay đổi về vấn đề tình duyên, đó là bạn sanh vào những tháng 4, 5, 8 và 11 Âm lịch. Và nếu bạn sanh vào những tháng nầy thì cuộc đời bạn hoàn toàn được hạnh phúc. Cuộc đời sẽ không có thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, đó là bạn sanh vào những tháng: 1, 2, 6, 9 và 10 Âm lịch.
Trên đây là những diễn tiến của bạn về vấn đề tình duyên và hạnh phúc được nghiên cứu tỉ mỉ trong khoa tướng số riêng cho tuổi Canh Dần. Bạn nên nhớ lại mình sanh vào tháng nào, để hiểu biết cuộc đời và an tâm với số phận.
Phần gia đạo vào trung vận có nhiều rắc rối và khe khắt, nhưng vào hậu vận thì êm ấm và hưởng được hạnh phúc. Phần công danh nếu có thì lên cao vào khoảng 24 trở đi, tuổi Canh Dần có triển vọng về công danh, nên theo đuổi công danh thì tốt, nếu không theo đuổi công danh, thì tuổi Canh Dần thuận lợi về mua bán, có tài lộc và nhiều hay đẹp.
Cuộc đời tuy có lao đao, nhưng sẽ thành công về sự nghiệp vào năm 37 tuổi. Tiền bạc vào trung vận thì hay đẹp không có sự thiếu thốn mà trái lại vào trung vận hưởng được nhiều hay đẹp về vấn đề nầy. Con người hễ thiếu cái nầy, thì có việc khác an ủi, đó là định luật của tạo hóa.
Trong việc làm ăn, hay hợp tác làm ăn, bạn cần nên lựa chọn những tuổi hạp với tuổi mình thì việc tiền bạc và công danh mới có phần sung túc. Tóm lại trong cuộc đời muốn giao dịch hay bất cứ việc làm gì phải lựa những tuổi nầy thì không bao giờ sợ có thất bại. Đó là các tuổi: Nhâm Thìn, Ất Mùi và Mậu Tuất. Ba tuổi nầy rất hạp với tuổi Canh Dần trong mọi việc trong cuộc đời.
Trong việc lựa chọn hôn nhân, bạn nên cần lựa chọn cho cuộc đời có nhiều êm đẹp, cuộc sống tạo được sự giàu sang phú quý, cần lựa những tuổi hạp với tuổi mình thì mới có thể tạo được cuộc sống đầy đủ và sung túc cho cuộc đời, đó là tuổi Canh Dần hạp với những tuổi nầy: Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu. Những tuổi nầy kết hôn rất hạp, chẳng những hạp về đường lương duyên mà còn hạp về đường tài lộc.
Bạn kết hôn với tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi: Cuộc sống được đầy đủ và sung túc. Với tuổi Mậu Tuất và Kỷ Sửu: tạo nhiều điều kiện thành đạt về công danh lẫn sự nghiệp, đẩy mạnh cuộc đời đi đến chỗ giàu sang phú quý. Những tuổi trên con cái đủ nuôi.
Nếu bạn kết duyên với những tuổi nầy, thì đời sống của bạn chỉ tạo được một cuộc sống vừa phải, đủ ăn, đủ mặc mà thôi, đó là bạn kết hôn với các tuổi: Tân Mão, Đinh Dậu. Hai tuổi nầy chỉ có hạp về đường tình duyên mà không hạp về đường tài lộc, nên chỉ có thể tạo được một cuộc sống trung bình mà thôi.
Nếu bạn kết duyên với những tuổi nầy, thì có thể bạn sẽ không tạo được một cuộc sống đầy đủ, cuộc đời hoàn toàn nghèo khổ, không có phương tiện và cơ hội tạo được một sự sống khả dĩ bảo đảm cho cuộc đời. Đó là bạn kết duyên với các tuổi: Giáp Ngọ, Kỷ Hợi, Mậu Tý, Đinh Hợi. Những tuổi nầy không hạp với tuổi bạn về đường tình duyên và cả vấn đề tài lộc.
Có những năm bạn rất xung khắc tuổi, nếu bạn kết duyên sẽ phải gặp cảnh xa vắng triền miên, đó là những năm mà bạn ở vào số tuổi: 17, 23, 29, 35, 41, 47 và 53 tuổi. Những năm này định việc hôn nhân thì sẽ không thành hay nếu thành thì gặp cảnh xa vắng như đã nói ở trên.
Nếu trường hợp bạn sanh vào những tháng nầy, thì cuộc đời sẽ phải có nhiều lần thay đổi về vấn đề tình duyên và hạnh phúc, hay có nhiều chồng, đó là bạn sanh vào những tháng: 3, 4, 6, 11 và 12 Âm lịch. Bạn sanh vào những tháng nầy, đời bạn có thể sẽ có nhiều chồng, đó là số mạng của bạn, nếu bạn sanh đúng vào những tháng như trên thì số bạn phải chịu vậy.
Trong cuộc đời dù là việc làm ăn hay kết duyên, cộng tác hay hợp tác đều nên tránh những tuổi sau đây. Nếu không bạn sẽ bị tuyệt mạng hay lâm vào cảnh biệt ly vào giữa cuộc đời, vì những tuổi nầy đại kỵ và xung khắc với tuổi Canh Dần, đó là các tuổi: Canh Dần, Quý Tỵ, Bính Thân, Nhâm Dần, Ất Tỵ, Mậu Thân và Giáp Thân. Tốt hơn muốn cho cuộc đời đừng giẫm lên nhiều đau xót, thì nên tránh những tuổi trên.
Gặp tuổi kỵ về vấn đề tình duyên thì không nên làm lễ hôn nhân hay ra mắt bà con thân tộc. Trong việc làm ăn thì đừng giao dịch về tiền bạc. Về gia đình, thì phải cúng sao giải hạn cho cả hai tuổi thì sẽ được giải hạn và mới có thể ở gần nhau được.
NHỮNG NĂM KHÓ KHĂN NHẤT
Tuổi Canh Dần có những khó khăn nhứt trong cuộc đời, đó là những năm mà tuổi Canh Dần ở vào số tuổi: 23, 27 và 34 tuổi. Những năm nầy bạn làm ăn khó tạo được tiền bạc, gặp nhiều rối rắm trong cuộc đời; nên đề phòng những năm nầy vì sẽ xảy ra nhiều buồn bực, bệnh hoạn hay hao tài tốn của.
Tuổi Canh Dần có những ngày, giờ xuất hành hạp nhứt đó là ngày chẵn, tháng lẻ và giờ chẵn. Xuất hành làm ăn, giao dịch về tiền bạc trong những ngày giờ và tháng nói trên, sẽ thâu thập được nhiều thắng lợi và không bao giờ có sự thất bại. Ngày giờ trên áp dụng cho đến suốt đời.
Từ 17 đến 20 tuổi: Năm 17 tuổi không nên tính việc hôn nhân, năm nầy phần tình cảm vượng phát, công danh ở vào mức độ bình thường, tài lộc yếu kém. Năm 18 tuổi, năm khá tốt, năm nầy công danh có phần thắng lợi, tình cảm lên cao, tiền bạc bình thường. 19 tuổi, năm nầy tài lộc khá, phần công danh tiến triển, tình cảm hay đẹp, làm ăn buôn bán có lợi. Năm 20 tuổi, đầy đủ và sung túc trong mọi vấn đề, tình cảm, công danh lẫn tài lộc.
Từ 21 đến 25 tuổi: 21 tuổi khá tốt. Năm nầy thuận lợi vào những tháng 6, 8 và 12 Âm lịch, những tháng khác bình thường. 22 tuổi, năm nầy xấu, không nên đi xa, làm ăn không thâu hoạch nhiều hay đẹp, công danh có phần yếu ớt về khả năng cũng như về cuộc sống. 23 tuổi, năm nầy đề phòng về tai nạn cũng như về bịnh hoạn, việc công danh hay làm ăn có nhiều buồn bực, kỵ đi xa vào năm nầy. 24 tuổi, năm nầy công danh, sự nghiệp và cuộc đời có phần lên cao, tình cảm có nhiều xích mích hay nan giải, tháng 8 trở đi thì vui vẻ. 25 tuổi, năm nầy cũng khá tốt, phần tài lộc rất tốt. Năm nầy kết duyên gặp số tốt, bổn mạng vững.
Từ 26 đến 30 tuổi: Năm 26 tuổi, năm nầy kỵ vào những tháng 3, 6, 9 và 12 Âm lịch. Những năm nầy cẩn thận kẻo mang tai tiếng, phần tài lộc và công danh ở vào mức bình thường. 27 và 28, hai năm phần công danh lên cao, tài lộc điều hòa, tình cảm có vượng phát mạnh, nhứt là tháng 6 trở đi. Năm 29 và 30 tuổi; năm 29 tuổi không được tốt lắm, nhưng tài lộc và tình cảm được dễ dãi. Năm 30 tuổi khá hay, nên nhịn nhục vào những tháng 6, 7. Phần tình cảm, gia đình có chuyện buồn bực, ngoài ra những tháng khác trung bình.
Từ 31 đến 35 tuổi: Năm 31 tuổi, tài lộc lên cao, tiền bạc được dồi dào, công danh toại nguyện, tình cảm tốt đẹp. 32 tuổi, không được may mắn về vấn đề làm ăn và sự phát triển nghề nghiệp, năm nầy kỵ vào tháng 7. Năm 33 tuổi có đau bịnh, năm nầy không nên xuất ngoại, hay đi xa có hại. 34 tuổi được tốt, sự phát triển nghề nghiệp được tốt, tài lộc dồi dào, tiền bạc dư dả. 35 tuổi, năm mọi việc làm ăn đều ở vào mức độ trung bình mà thôi.
Từ 36 đến 40 tuổi: 36 tuổi, khá tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, những tháng đầu năm có lợi, cuối năm có nhiều hao hụt. 37 tuổi, không được khá lắm, nên cẩn thận về tiền bạc cũng như về việc làm và công danh, gia đạo. 38 tuổi, không nên phát triển sự nghiệp và cũng không nên giao dịch về tiền bạc, sẽ bị thất bại trong năm nầy nhứt là tháng 8 và 11. Năm 39 và 40 tuổi, hai năm nầy tình cảm vượng tốt, về tài lộc có phần yếu kém, vào tháng 8 và 10 có hao tài.
Từ 41 đến 45 tuổi: 41 tuổi bình thường, toàn năm không có gì xảy ra quan trọng cho cuộc sống. Gia đình êm ấm, tài lộc, tình cảm điều hòa. 42 tuổi, năm nầy nên đi xa, xuất ngoại, hay phát triển về việc làm ăn thì tốt. 43 tuổi, không được nhiều may mắn trong cuộc đời, có thể gặp nhiều trở ngại trong nghề nghiệp, làm ăn. 44 tuổi, năm mà mọi việc có thể thâu gọn được, không nên xuất phát tiền bạc cho người không được tin cậy, sẽ bị mất của. 45 tuổi, năm nầy tốt vào những tháng đầu năm, những tháng cuối năm xấu, giữa năm trung bình.
Từ 46 đến 50 tuổi: 46 tuổi, năm nầy phát triển mạnh mẽ về đường tài lộc lẫn tình cảm, thâu nhiều thắng lợi tốt đẹp. 47 và 48 tuổi, hai năm nầy có phần tốt đẹp về vấn đề tiền bạc, tình cảm bị sứt mẻ, công việc làm ăn có nhiều trở ngại; năm 47 kỵ tháng 6, năm 48 kỵ tháng 10, hai tháng nầy khó thoát được bịnh hoạn hay hao tài. 49 tuổi tài lộc và sự nghiệp vững chắc, toàn năm đều tốt. Năm 50 tuổi trung bình, việc làm ăn tiến triển bình thường, gia đạo, tình cảm êm dịu.
Từ 51 đến 55 tuổi: 51 tuổi, năm nầy nên cẩn thận về tài lộc, không được tốt về bổn mạng, vấn đề tài lộc có nhiều hao tốn. 52 và 53, hai năm nầy trung bình. Bổn mạng có phần vững chắc, tiền bạc và công danh ở vào mức độ tầm thường. 54 và 55 tuổi, hai năm nầy nên cẩn thận cho lắm, trong mọi sự giao dịch cũng như xuất hành, đề phòng bịnh tật.
Từ 56 đến 60 tuổi: Khoảng thời gian nầy có nhiều may mắn về đường tình cảm, về vấn đề tài lộc ở vào mức độ trung bình, phần con cái có nhiều phát triển về nghề nghiệp cũng như về cuộc đời. Con cái có hưởng nhiều phước lộc. Phần cá nhân nhiều sung túc.
Vận trình tử vi trọn đời 12 con giáp chi tiết
Xem bói tử vi tuổi Dần
Xem tử vi năm mới
Để yêu Ma Kết bạn cần một chút nỗ lực nhưng đổi lại bạn sẽ có được người yêu tận tâm, đầy đam mê và chung tình. Chỉ cần bạn hiểu hơn về tính cách của họ bạn sẽ thực sự chiếm trọn được tình cảm của Ma Kết.
Phong thủy phòng bếp có liên quan mật thiết tới vận thế của cả gia đình. Một phòng bếp có phong thủy tốt đem đến vận may, một phòng bếp phạm phải cấm kị sẽ gây ra tai họa. Trong phong thủy học, phòng bếp quan trọng là thế, nên từng chi tiết nhỏ như bàn bếp, bp và gương trong phòng bếp cũng cần được chú trọng.
Một phòng bếp đẹp không chỉ thể hiện ở mỹ quan mà còn thể hiện ở sự hài hòa trong phong thủy.
Dưới đây là những cấm kỵ trong việc xây dựng và bố trí phòng bếp.
Sau vị trí đặt bếp không được để trống
Sau bếp tốt nhất là một bức tường. Nếu như sau vị trí đặt bếp không có chỗ tựa, không những đem lại cảm giác hụt hẫng, mà còn ảnh hưởng tới tài vận của cả gia đình.
Bếp không được gần máng nước
Bếp và máng nước tốt nhất nên tách riêng. Bếp (Hỏa) và máng nước (Thủy) gần nhau sẽ khiến vận thế của gia đình tụt dốc, dễ gây ra thị phi, hao tài tốn của, chiêu gọi tiểu nhân.
Phòng bếp không nên treo gương
Phòng bếp tốt nhất không nên treo gương, càng không nên để gương chiếu đến lửa bếp, bởi vì hiện tượng này trong phong thủy gọi là “Thiên môn hỏa”, dễ khiến cả gia đình gặp tai họa.
Bếp không nên đặt dưới xà ngang
Khi sử dụng, bếp sẽ tỏa ra nhiệt, nếu phía trên bếp có xà ngàng, sẽ hình thành khí áp, gặp nhiệt lượng sẽ khiến cho từ trường của phòng bếp không ổn định, ảnh hưởng tới sức khỏe của cả gia đình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
► Xem phong thủy, ngũ hành và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn |
Vì lẽ đó, tôi mạo muội sưu tầm kinh văn của Ngọc Chiếu và bình chú lại sao cho phù hợp với nguyên lý ứng dụng của bát tự. Quá trình biên tập có chổ nào không phù hợp rất mong các bậc cao minh chỉ điểm thêm, cho tôi được tinh tấn trên con đường đam mê nghiên cứu mệnh lý học.
1. Kinh văn:
Quái Phùng Sanh Khí, Thiên Đức Hợp, Thế Thế Trường Niên.
_Chú vân : Tam hợp sanh phương giả vi sanh khí, tu yếu nhật thời giả.
_Hựu vân: Trường sanh diệc danh sanh khí. Giáp mộc đáo hợi, ất mộc đáo ngọ. Bính hỏa đáo dần, đinh hỏa đáo dậu. Mậu thổ đáo dần, kỷ thổ đáo dậu. Canh kim đáo tị, tân kim đáo tí. Nhâm thủy đáo thân, quí thủy đáo mão.
Thiên đức giả, chính đinh, nhị khôn, tam nhâm, tứ tân, ngũ càn, lục giáp, thất quí, bát cấn, cữu bính, thập ất, nhập nhất tốn, thập nhị canh.
Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp.
Bình chú:
_Mỗi trường hợp bát tự đều có mỗi bố cục riêng, thuật ngữ thường gọi là mệnh cục. Vậy kinh văn trên dùng đến từ “quái” là chỉ cho mệnh cục trong bát tự.
Đến đây có thể tạm dịch:
Mệnh cục gặp được sanh khí, cùng Thiên Đức Hợp thì mệnh tạo ấy hưởng được tuổi thọ và vinh hoa phú quí.
Thế nào là mệnh cục được sanh khí?
Có thuyết cho rằng tam hợp, bán hợp là sanh khí. Có thuyết cho rằng trường sanh nhật can là sanh khí.
Theo tôi khái niệm sanh khí trong bát tự, điều kiện cần thiết nhất là sự cân bằng âm dương và ngũ hành của nhật can. Thực tế khó có lá số bát tự nào tự động cân bằng trung dung về mặt âm dương ngũ hành, do đó cần đến hệ số điều chỉnh tức dụng thần của mệnh cục.
Vậy đoạn “tu yếu nhật thời giả” trong lời chú, nói lên quan trọng tại nơi nhật trụ(trụ ngày) và thời trụ (trụ giờ)
Nếu dụng thần trong bát tự xuất hiện tại nhật trụ, hay thời trụ điều đó nói lên rằng mệnh cục gặp được sanh khí tại khoảng thời điểm trung và hậu vận của đời người, thì mệnh số ấy sẻ được cao thọ và hưởng được nhiều lạc phúc.
Còn việc ứng dụng thêm thần sát là việc phụ trợ, được xem là công cụ nhấn mạnh phân tích luận giải mệnh lý. Nếu ứng dụng thần sát một cách tùy tiện thì không có giá trị phân tích luận giải mệnh lý.
_Nếu nhật can suy nhược, nhưng được trường sanh, quan đới hay lâm quan tại nguyệt lệnh cùng sự tam hợp hay bán hợp, lục hợp địa chi tại nhật trụ và thời trụ tương trợ nhật can, cũng được xem là mệnh cục gặp phương sanh khí.
Ví dụ càn tạo: Năm mậu thân, tháng mậu ngọ, ngày ất hợi, giờ kỹ mão.
Với ví dụ trên, nhật can ất mộc tuy bị lực thổ kim dày tương khắc làm cho thân mệnh suy nhược. Nhưng nhật can đuợc truờng sanh tại nguyệt lệnh ngọ hỏa, và được nhật chi là Thiên Đức Hợp tương sanh, đồng thời nhật chi hợi bán hợp mão mộc cuộc tương trợ nhật can ất mộc. Do đó mệnh cục này được xem là phùng sanh khí cùng Thiên Đức, chủ phát phúc hậu vận và được trường thọ vậy.
Câu: “Thiên đức hợp giả dữ bản mệnh can hợp, hoặc chi hợp đới thiên đức hợp”. Lấy ví dụ trên làm sáng tỏ.
2. Kinh Văn:
Thân Mệnh Phùng Hình, Phản Khắc Thời Tất Nhiên Yểu Tiện.
_Chú vân: chi dữ nạp âm dã. Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.
Giả lệnh Mậu thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.
Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.
Bình Chú:
Đoạn kinh văn trước dùng từ “quái” để nói lên tình hình của từng loại mệnh cục của bát tự, còn đoạn này dùng từ “thân mệnh ” để chỉ thẳng tình trạng của nhật can.
Ở đây tôi xin lưu ý đọc giả khi trên tay quí bạn đang có quyển Ngọc Chiếu Định Chân Kinh mới phát hành, phần nhiều lối hành văn dụng nghĩa của quyển này chập choạn, không có tính ứng dụng nghiệm lý mệnh vận.
Chính bản thân tôi phát hiện có nhiều chổ sai lệch không khế hợp với sách cổ của tôi đã có trong tay do lưu truyền.
Câu: “Phàm nhân thân mệnh nhật thời khắc phá giả, yểu tiện dã.” điểm nhấn mạnh ở đây là nhật can gặp phải hình xung khắc hại quá nhiều, khiến cho thân mệnh suy nhược thái quá, mệnh tạo rất dễ gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn hoặc yểu mệnh bất đắc kỳ tử, do đó từ “thời” ở đây không dùng chỉ đến thời trụ, dụng ý ở đây từ “ thời” nói lên nhật can ngộ phải, gặp phải thực trạng hình xung khắc hại quá nhiều, dẫn đến thân mệnh hoạn nạn hay yểu vong. Vậy lời chú đến đây đã thích trọn nghĩa cho kinh văn của Ngọc Chiếu, và ta có thể tạm dịch kinh văn như sau:
Nhật can gặp phải hình xung khắc hại, mệnh tạo rất dể yểu vong hay bần tiện nghèo hèn là điều tất yếu.
Câu: “ Giả lệnh Mậu Thìn niên, chính nguyệt, nhâm thân nhật, thời ất tị. Chính nguyệt hựu hình nhật thời chi, nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã.”
Ví dụ : Năm mậu thìn, Tháng giáp dần, ngày nhâm thân, giờ ất tị.
Câu : “chi dữ nạp âm dã” sẽ phân tích ở ví dụ này, ta thấy trụ ngày cùng với trụ năm cùng không vong tại càn tuất hợi, trong khi đó hợi tàng chứa nhân nguyên nhâm thủy, và con nhà giáp tí của trụ năm cùng trụ ngày vốn không có nạp âm hành thủy “nạp âm dã khuyết thủy” từ đó cho thấy nhâm thủy đã bị vô chơn, nay nguyệt trụ dần là đất suy bệnh của nhật can nhâm. Trong khi đó mệnh cục này lại xuất hiện thế tam hình dần tị thân tại nguyệt nhật thời chi, vậy mệnh tạo này phản ảnh số mệnh rất bần tiện, hoặc yểu vong, do đó lời chú mới viết “nạp âm dã khuyết thủy vô chơn, cố vi yểu tiện dã”.
Câu : “ Giả lệnh Canh ngọ, tứ nguyệt, thủy nhân nhâm ngọ phục hình nhật thời, cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại.”
Ví dụ: Năm Canh ngọ, Tháng canh thìn, Ngày Nhâm ngọ, Giờ Nhâm ngọ.
Nhật can nhâm thủy mộ địa tại nguyệt trụ đề cương của lệnh thìn thổ, nay nhâm thủy lấy hỏa làm tài, thổ làm quan. Trong mệnh cục này có 3 địa chi ngọ, nhân nguyên trong ngọ là kỷ quan, đinh tài, nhưng thân mệnh (nhật can) nhược do mộ địa tọa trên địa chi tài tự hình, cùng với nguyệt trụ thìn là tự hình do đó câu “cố phế quan lộc chi địa, tất đại bại". Nói lên mệnh tạo không thể làm quan chức được, trước sau gì cũng bị nạn quan trường tù hình, vì vậy gọi là đại bại.
By Thiện Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Trước khi muốn biết người mệnh Kim hợp với màu gì, chúng ta phải xác định xem người mệnh Kim sinh vào năm nào ?.
Theo Ngũ hành mạng gồm 5 yếu tố là Kim (kim loại), Mộc (cây cỏ), Thủy (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất), giữa các “hành” luôn có sự hỗ trợ hay kìm hãm lẫn nhau tạo quan hệ tương quan hay tương khắc.
Mỗi “hành” đều mang một màu sắc đặc trưng như: Kim-màu trắng, Mộc-màu xanh, Hỏa-màu đỏ…
Mỗi hành vừa thể hiện về tính chất, sự vận động biến đổi, vừa thể hiện vị trí trong không gian. Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào đó trong tự nhiên hay trong xã hội đều có thể quy về một hành nhất định và cũng đều chứa đựng yếu tố âm dương.
Theo nguyên lý ngũ hành thì môi trường gồm 5 yếu tố chính đó là Kim (Kim loại), Mộc (Cây cối), Thủy (Nước), Hỏa (Lửa), Thổ (Đất). Với mối quan hệ tương sinh các hành với nhau làm giúp cho hành kia được hình thành phát triển đó là Mộc sinh Hỏa (Cây cháy thì sinh ra lửa), Hỏa sinh Thổ (Lửa đốt cháy mọi vật thành tro và sau chuyển hóa thành đất – Màu đỏ). Thổ sinh Kim (Tức là kim loại hình thành từ trong lòng đất) – Màu vàng. Kim sinh Thủy (Tức là kim loại nung nóng chảy thành dạng lỏng) – Màu trắng. Thủy sinh Mộc (Nước dùng để nuôi cây) – Màu xanh dương, màu xanh da trời.
Mối quan hệ tương khắc trong ngũ hành đó là Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. Tức là nước thì có thể dập tắt được lửa, lửa có thể làm chảy kim loại, kim loại thì lại cắt được cây, cây thì hút chất màu của đất, đất thấm nước ngăn không cho nước chảy.
Mệnh Kim rất hợp với màu vàng. Vàng chính là màu của sự thuần khiết và trong sáng, là sự dung hòa của các màu khác nhau. Ngoài ra thì người mệnh Kim cũng hợp với màu xám nâu đất, màu sắc này tốt cho con cháu, quan lộc và có quý nhân phù trợ. Còn màu xám bạc tượng trưng cho sự tươi sáng, vẻ đẹp sạch sẽ, thanh cao. Màu sắc này cũng thể hiện rõ nét những đặc điểm tính cách nổi bật của người mệnh Kim như tinh tế, rõ nét và sâu sắc. Người mệnh Kim tốt nhất nên lựa chọn các đồ vật có gam màu sáng hay ánh kim vì đây chính là màu của bạn. Bạn cũng có thể kết hợp với màu nâu, màu vàng khi mua xe, sơn nhà,… bởi đây là những màu sắc sinh vượng.
Nếu lựa chọn màu sắc hợp với bản mệnh của mình sẽ giúp cho công việc của người mệnh Kim luôn được thuận lợi, tài lộc đến nhiều hơn, khi gặp khó khăn sẽ được quý nhân phù trợ. Không những vậy mà sức khỏe của bạn cũng sẽ tốt hơn, ít khi đau ốm và đường tình duyên cũng thuận lợi hơn, ít phải chịu cảnh chia ly, từ biệt.
► Lấy lá số tử vi và xem vận mệnh cuộc đời, công danh, tình duyên của bạn |
"Dù ai buôn đâu bán đâu,
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về,
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Mồng chín tháng tám thì về chọi trâu"
Lễ hội chọi trâu |
"chôn rau cắt rốn". Nơi có lễ hội truyền thống "độc nhất vô nhị" tại Việt Nam. Đó là lễ hội chọi trâu được tổ chức hàng năm tại quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.
Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn.
Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo họ thì điều quan trọng nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. Thông thường, sau Tết Nguyên Đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận Tuyên Quang, Bắc Cạn... mới tìm được con trâu vừa ý.
Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên (Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường "giật" giải nhiều hơn. Bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên lùng mua trâu.
Chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỷ mỉ. Trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng chống chịu được đòn của đối phương. Thông thường, những chú trâu da đồng, lông móc, một khoang 4 khoáy, hàm đen là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như 2 cánh cung, giữa 2 sừng có túm lông hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. Mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay.
Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu thường là những người có nhiều kinh nghiệm. Trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà, cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó.
Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét. Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu, mình trâu để cho trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo. Sau khi huấn luyện, trâu nào được chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là "ông trâu". Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn lên thành "cụ trâu".
Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi. Những người này được coi là nghệ nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của "ông trâu"…
Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thủy thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ.
Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi… Từ 2 phía của sới chọi, "ông trâu" được dẫn ra có người che lọng và múa cờ 2 bên. Khi 2 "ông trâu" cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút "sẹo" cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Đôi trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát... Cứ thế, đôi trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.
Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân Đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là lá cờ vóc hồng thêu 2 chữ "Thượng Đẳng" bằng kim tuyến và bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.
Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi, dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần... Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc…
Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một điểm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương đến với Hải Phòng. Chính vì vậy lễ hội chọi trâu đã được nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn nhất cả nước.
(Theo Baomoi)
Những câu nói bất hủ hài hước nhất về ước mơ giảm cân. Đã là con gái thì ai mà không muốn mình thật đẹp trong mắt người đối diện, ai mà không muốn mình có được một gương mặt xinh xắn, một vóc dáng hoàn hảo. Nhưng trớ trêu thay, con gái cũng là loài sinh vật… thích ăn và mê đồ ăn ngon nhất trên đời này. Thật là mâu thuẫn đúng không nào? Câu hỏi ăn hay không ăn luôn khiến cho các nàng xì chét chứ chả chơi đâu.
Hãy đến với bài viết Những câu nói bất hủ hài hước nhất về ước mơ giảm cân thần thánh của hội con gái không thể bỏ qua sau đây của xemboituong.com xem có thấy hình ảnh của chính mình trong đó không nhé!
– Thực tình tôi cũng muốn giảm béo, nhưng một người đã vừa thông minh, xinh đẹp như tôi nay lại còn thon thả, sẽ khiến các cô gái khác rất mặc cảm
– Mỗi ngày, tôi đều cầu Chúa giúp mình tăng chiều cao và giảm cân nặng, nhưng có vẻ ngài vẫn nhâm lẫn giữa hai thứ đó
– Bên trong tôi là một người con gái cân đối, gọn gàng đang gào thét đòi xé lớp mỡ để thoát ra. Mỗi lần như vậy, tôi lại nhét thức ăn vào để lấp cái miệng ầm ĩ của cô ta lại
– Tất cả những gì tôi mong muốn chỉ là vừa thoải mái ăn ngon, vừa nằm nhà xem phim, vừa được ngủ nướng mà không tăng cân thôi. Đâu cần gì nhiều…
Càng trưởng thành việc giảm cân lại càng khó, bởi lúc đó bạn và đống mỡ của mình đã quá quen và trở thành bạn thân của nhau mất rồi.
Giờ mới tin mang bầu theo style cổ tích là sự thật, tôi chỉ có ế với ăn mà tự dưng lại có chửa … bé Mỡ
Ngày thứ nhất của quá trình ăn kiếng sẽ rất khó khăn, nhưng ngày thứ hai sẽ dễ dàng hơn nhiều. Bởi lúc đấy bạn đã từ bỏ cái chế độ ăn dở hơi ấy rồi
Nếu ăn kiêng là người yêu tôi, có lẽ anh ấy cần một lời xin lỗi, vì tôi hay bỏ rơi và lừa dối anh ấy để đi gặp thằng đồ ăn.
Tôi rất yêu vòng eo con kiến của mình, vi vậy mới phải bảo vệ, giữ ấm cho nó bằng cách bao bọc trong một lớp mỡ thật là dày.
Giá mà đống mỡ cũng tụt nhanh như động lực giảm béo của tôi thì tốt biết mấy….
Thật lòng tôi không muốn ăn nhưng bộ não đần độn của tôi cứ nghĩ việc chán không có gì làm và cảm giác đói bụng là cùng một thứ…
Hồi bé lười ăn nên lùn. Lớn lên chăm chỉ ăn nên vừa lùn vừa béo… Đời sao mà éo le!
Làm sao giảm được cân khi chỉ ăn rau và hoa quá? Đám trâu bò toàn ăn cỏ mà con nào con nấy cũng béo quay béo cút
Cách nhanh nhất để hết tự ti về cân nặng, đó là nhồi cho đám bạn xing quanh đều béo giống mình!
Tôi tin rằng trừ lúc thái hành và thất tình, thì bàn cân là nơi phụ nữ rơi nước mắt nhiều nhất
Quá trình giảm cân của con gái là một vòng tròn luẩn quẩn không lôi 1thoat1: sợ béo, nhịn ăn, thấy đói, lại ăn, lại sợ béo…
Con gái ơi, hãy luôn nhớ là dù phải giữ cơ thể thật thon gọn để vừa mặc đồ đẹp, vừa khỏe mạnh, nhưng nhịn ăn quá lại có khi phản tác dụng (vì sẽ ăn bù nhiều hơn khi quá thèm) và còn ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống hằng ngày nữa. Chưa hết, sống mà không biết thưởng thức tinh hoa ẩm thực của nhân loại cũng là tội lỗi với cuộc đời mình đó nha! Hãy ăn vừa đủ phù hợp với thể trạng và nhu cầu cá nhân, kết hợp với việc chăm chỉ tập thể dục hoạt tham gia các hoạt động xã hội thì mọi việc sẽ trên cả tuyệt vời cho coi. Hy vọng bài viết Những câu nói bất hủ hài hước nhất về ước mơ giảm cân thần thánh của hội con gái không thể bỏ qua trên đây của ## mang lại những phúc giây thư giãn thoải mái và ý nghĩa dành cho bạn.
>> Năm mới 2016 sắp tới. Ai XÔNG ĐẤT nhà bạn phù hợp nhất mang lại tài lộc, may mắn cho bạn cả năm. Hãy XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất nhé!
“Cái răng cái tóc là gốc con người” . Từ xưa ông bà ta đã nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của mái tóc, nó nói lên được bản tính của cả một con người nên việc coi bói qua tóc có thể nhận ra được cá tính của một người vô cùng chính xác.
Theo nhân tướng học có ba đặc điểm của tóc thường được nhắc tới dưới đây:
1./ Hình dáng và tính chất của tóc (như tóc dài tóc ngắn, tóc cứng tóc mềm):
Phụ nữ có mái tóc mềm và đen nhánh với những sợi nhỏ buông thẳng xuống vai là tướng tóc quý, song tính tình của chủ nhân dáng tóc ấy lại hay hờn giận, thích dỗ dành, chiều chuộng. Nếu tóc dài ngang lưng với sắc đen mượt, mặt đầy đặn, mắt sáng, là người tính tình hiền hậu, đằm thắm. Song nếu tóc dài quá thân người, sẽ gặp khó khăn trên đường mưu sinh vào tuổi trung niên. Cô nào tóc quăn phủ xuống đằng trước thiên đình (trước trán) là người có tính hay ghen bóng, ghen gió, như các thầy xem tướng đúc kết: “Vợ đâu có vợ lạ đời – Quăn quăn tóc trán là người hay ghen”.
Đó là phái đẹp, còn đàn ông tóc đen rậm và dày kèm theo tướng đầu tròn và cao như đầu hổ (hổ đầu cô khởi) ắt là người sẽ tạo được thanh thế, địa vị trong xã hội nhờ phần lớn vào phúc báu từ mấy đời trước của mình tích tụ lại, khó có người sánh kịp (phúc lộc vô tỷ). Cũng dạng “hổ đầu cô khởi” song tóc không được dày, không được đen và sáng lắm, thì phần “phúc” vẫn không vơi (an vui thanh thản), song phần “lộc” lại không đầy (của nhà vừa đủ). Ngược lại người tóc bù xù, sợi tóc quấn vào nhau, trông thô và rối, sẽ không gặp may mắn lắm trên đường đời.
Cả đàn ông hoặc đàn bà nếu tóc mọc quá ngắn, cộng thêm đầu có hình nhọn, sẽ gặp nhiều điều bất như ý trong cuộc sống. Nếu tóc đen đậm, cộng thêm đầu to cao như đầu voi, là người tính tình phóng khoáng, phần đông có chức phận cao và sống thọ. Còn tóc cứng, màu không đen lắm, là người thiếu cả quyết, bỏ lỡ nhiều cơ hội và dịp may đáng tiếc trong đời vì do dự tính toán quá lâu. Đàn ông đầu nhỏ với tóc dài quá cỡ cũng không được tốt vì sẽ gặp lao đao, lo lắng, công việc sắp thành bỗng bị người khác chen vào gây trở ngại, ấy là đo tôi chướng đời trước xuôi khiến nên đừng buồn bã quá mức, mà hãy vui với câu: “đời này trả nợ ngày xưa vay người – đời sau đủ phước cám ơn người nhiều”.
*Người có mái tóc dày
Người có mái tóc dày thường hiền hòa, bình dị, rất trọng tình nghĩa, tính tình ôn hòa, cư xử trọng nghĩa cử, dễ được mọi người quí mến, kính trọng.
Là người thật thà, chất phát, có tính cách cởi mở, hoạt bát, tích cực, hiếu động, tuy bề ngoài họ tỏ ra mạnh mẽ, nhưng trong tính cách lại khá yếu mềm, dễ rung động.
Có tài lãnh đạo, nói đến đâu làm đến đó, có tài lãnh đạo, tuy khéo léo ra mệnh lệnh nhưng tính cách của họ cũng rất đằm thắm, ít lãng mạn mà thiên về hiện thực.
Rất nghiêm túc, cẩn thận, là hướng nội, nhưng trên thực tế lại rất mạnh mẽ. Khi mà họ đã cố ý cẩn thận thì cũng rất cố chấp. Tuy tính cách mạnh mẽ, nhưng lại có lòng độ lượng nghiêm túc, và chặt chẽ.
Yêu những người có mái tóc dày này chỉ số an toàn rất cao bởi khi tình cảm phai nhạt họ sẽ chủ động tìm cách làm mới tình yêu chứ không bao giờ ruồng rẫy để tìm một niềm vui mới.
Họ không chỉ đối tốt với bạn mà còn cư xử cởi mở thân thiện với bạn bè, gia đình bạn. Nên những người tóc dày thường rất hay chiếm được cảm tình của phụ huynh. Là người yêu của những người có mái tóc dày, bạn nên biết trân trọng tình cảm mà người ta dành cho bạn, đừng bao giờ đánh mất nhé.
*Người có mái tóc mỏng
Người có tóc mỏng về nhiều mặt thường có tính cách hai mặt. Họ không quen nói chuyện trước mặt người khác, hoặc không chủ động tiếp xúc, cũng không muốn người khác đi lại với mình.
Đối với bất cứ việc gì đều thiên về thái độ tiêu cực. Tuy bình thường là hướng nội, rất ít bộc lộ chân tướng của mình, nhưng một khi họ không thể kiềm nén nữa thì sự bộc phát đó không ai cản nổi.
Người có tóc mỏng cho dù là làm việc hay học tập đều thiếu sự bền bỉ, dẻo dai cần thiết. Mới đạt được một chút thành tích đã thỏa mãn.
Người tóc mỏng đối với các sự vật bên ngoài thường rất nhạy cảm, đặc biệt là về mặt tiền tài. Nói chung loại người này thường cầu an vô sự, ít tranh chấp. Họ dễ bị tổn thương và khó lành vết thương khi tình yêu tan vỡ hay bị lừa gạt, phản bội. Đặc biệt, những người có mái tóc mỏng thường rất nhạy cảm. Họ biết khi nào tình yêu thắm thiết, khi nào tình yêu báo động, thậm chí khi người yêu lạnh nhạt và có dấu hiệu ngoại tình.
Khi họ bị rơi vào thế lẻ loi, cô đơn họ rất dễ bị kích động và hành động liều lĩnh nguy hiểm đến tính mạng. Yêu những người này, bạn cần tránh làm họ tổn thương.
Tóc mỏng, đen
Những người có tóc mỏng, đen óng ả, sợi tóc mảnh mai thường có số mệnh khá sung sướng. Họ thường có cuộc sống nhàn nhã và thảnh thơi, hôn nhân của họ cũng rất hạnh phúc và tròn đầy. Hầu hết những cô gái này đều khá nữ tính và ít nói, song lại dễ kích động và nổi loạn.
Tóc mỏng, vàng tự nhiên
Những cô gái có mái tóc mỏng, màu hơi ngả vàng thường thuộc tuýp người đa tình. Họ thường không rõ ràng và dứt khoát trong các mối quan hệ, điều này gây ra cho họ nhiều rắc rối trong chuyện tình cảm.
*Người có mái tóc cứng
Tóc cứng là chỉ tóc cứng, thẳng. Là người thẳng thắng, cương trực, người có tóc cứng đối với công việc thường tỷ mỉ, không sợ khô, không sợ mất lòng, thái độ trước sau như một, có một số người rất bảo thủ, thiếu sự linh hoạt cần thiết.
Người có tóc cứng tính cách rất thoải mái, trái phải rõ ràng. Một khi họ đã thích việc gì hoặc vật gì thì nhiệt tình đến cùng. Nói chung người tóc cứng hay cố chấp, bảo thủ, tuy cầu an, vô sự, nhưng trong nội tâm không thỏa hiệp. Đặc biệt là khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn hay bước đường cùng thì tính cách đó lại càng trở nên mạnh mẽ.
Giàu lòng thông cảm, người có tóc cứng giàu lòng thông cảm, ôn hoà, chung họ thường nhiệt tình giúp đỡ người khác.
*Người có mái tóc xoăn
Người sở hữu mái tóc xoăn tự nhiên thường lanh lợi và tốt bụng. Tùy vào mức độ xoăn khác nhau mà sẽ có họ những biểu hiện khác nhau. Song, hầu hết người có tóc xoăn đều có tính cách khá mạnh mẽ, thường là người phải gánh vác những công việc nặng nhọc trong gia đình, thế nhưng họ không hề kêu ca hay phàn nàn gì.
Bên cạnh đó, họ còn là người nhiệt tình và sâu sắc. Người có tóc xoăn thường bướng bỉnh, dù trong công việc hay giao tiếp, họ đều khó làm vừa lòng người khác. Đặc biệt, độ xoăn càng cao thì mức độ bướng bỉnh càng tăng.
Ngoài ra, nếu bạn sở hữu mái tóc xoăn thô cứng và xơ rối thì bạn sẽ gặp nhiều phiền muộn trong cuộc sống. Tóc xoăn là chỉ tóc xoăn bẩm sinh. Nói chung người có tóc xoăn tính tình bướng bỉnh, cho dù trong công việc, học tập hay trong giao tiếp họ đều rất khó làm vui lòng người khác Tính cách của người tóc xoăn phụ thuộc vào mức độ xoăn khác nhau mà có biểu hiện khác nhau.
Người có tóc xoăn không hay lên mặt: rất ghét xuất đầu lộ diện, nhưng lại nhiệt tình, sâu sắc với bạn tri âm.
2./ Mùi tóc (tóc thơm, tóc hôi):
Nhân tướng học quan tâm đến cả mùi tóc nữa. Người có mùi tóc thơm thoang thoảng kèm theo vòm xương đầu nhỏ và tròn là người may mắn và được yêu thương. Người tóc nhiều mà bị hôi, ngồi gần thoang thoảng mùi khó chịu sẽ gặp trắc trở trong giao tiếp và đời sống tình cảm.
Có lẽ để gây cảm tình với người xung quanh, từ xưa những cô gái tóc dài thường dùng các loại thảo quả, bồ kết hoặc chanh tươi gội đầu để giữ mùi thơm trên tóc. Chính tóc thơm tự nhiên mới là đối tượng quan sát xem xét của nhân tướng học vì tóc ấy thường để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người nên có câu hát “làm sao quên mùi tóc”? Hoặc thường lan tỏa trong không gian khiến cả gió cũng “sẽ mừng vì tóc em bay”. Bên mùi thơm đặc trưng trên tóc của ai đó lại có thêm hàng lông mày thanh tú nữa cũng là tiêu chí và dấu hiệu để nhận ra con người dễ “gây thiện cảm” với chung quanh, nhưng cũng là người dễ “xiêu lòng” trước những mời gọi đa tình.
3./ Màu tóc (tóc đen, tóc đỏ, tóc vàng):
Ngày nay nhiều bạn thanh niên nhuộm tóc với đủ các màu khá đẹp, nhưng nhân tướng học chỉ lưu tâm nhận xét màu gốc của tóc khi chưa nhuộm, nhất là màu đen mượt mà của “suối tóc” Việt. Nếu một sớm một chiều tóc ấy chợt ngả sang màu đen lợt, dần dần trở vàng như màu lá sắp úa, là điềm sẽ gặp mâu thuẫn trong chuyện gia đạo. Bằng như tóc chuyển sang màu hơi đỏ như màu lá bàng sắp rơi cần phải đề phòng bệnh tật ập đến. Chưa tới tuổi trung niên đầu đã sớm bạc, cần lo tu dưỡng tâm tính, nhẫn nhịn, tránh cãi cọ và hạn chế bớt những công việc động não kéo dài. Còn như tóc ngả sang màu bạc bỗng trở lại xanh đen là điềm hiếm có và rất tốt, dự báo gia đạo yên vui, êm ấm lúc về già.
Vậy đó, mùi hương và cả màu của tóc đều được khoa nhân tướng học lưu tâm phân tích và quy nạp vào nhiều dự báo khác nhau, kể cả tóc mai. Có câu: “tóc mai sợi vắn sợi dài – lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm”. Đem hai câu ấy ngẫm nghĩ và đối chiếu với nhân tướng học, ta thấy người có tóc mai vừa khô, vừa không thẳng thớm, là người sẽ gặp trắc trở trong tình yêu.
Tóc mai nhiều và dày kéo xuống che khuất đuôi lông mày là người sẽ gặp chuyện buồn về hôn nhân. Nếu cạnh mang tai thiếu hẳn tóc mai là người thiếu trung thực.
Nhưng tóc mai dày lên lấp trước mang tai, đầu người ấy lại nhỏ, cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến đường sinh mệnh (đoản mệnh) - nếu được sống qua tuổi trung niên rất dễ lâm cảnh thiếu hụt, buồn tủi, nhưng có thể “chuyển nghiệp” để hậu vận tốt hơn bằng cách làm việc ích lợi nhân sinh (như góp công đắp đường, xây cầu) hoặc công quả nơi đình miếu, chùa chiền sẽ được an vui như lời dặn của pháp sư Tịnh Không: “tướng mạo có thể thay đổi do nghiệp lành được vun đắp ngay trong đời này”
>> Xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất!
>> Xem ngay VẬN HẠN 2016 mới nhất!
Hầu hết tên gọi hiện nay đều được đặt tên theo nghĩa Hán Việt, tuy nhiên không ít các bậc cha mẹ lại không hiểu hết nghĩa của tên con mình.
Nội dung
Ngày xưa, khi đặt tên con, các cụ thường đệm Văn cho con trai và Thị cho con gái giúp người khác phân biệt được giới tính của con người ngay trong cái tên gọi. Đây là một quan niệm từ thời phong kiến, rằng con trai lo việc văn chương đèn sách, con gái thì đảm đang việc chợ búa, nội trợ.
Ngày nay, các tên đệm như “Văn” dành cho nam và “Thị” dành cho nữ ngày càng ít dùng bởi có thể họ chưa hiểu hết ỹ nghĩa của những tên đệm đó. Mặt khác, ngày nay đã hình thành nhiều xu hướng đặt tên con mới nghe rất hay và lạ. Tuy nhiên, tùy theo quan điểm của mỗi người mà chọn tên khác nhau cho con. Miễn sao đừng ngược giới tính khiến trẻ sau này phải chịu nhiều phiền hà, rắc rối.
Những cái tên thời nay đã thể hiện rõ nét tính phóng khoáng trong cách đặt tên. Nhìn lại sự biến động của tên gọi người Việt từ trước đến nay, chúng ta nhận thấy một số cách đặt tên cũ gần như đã mất đi, thí dụ như cách đặt tên bằng những từ có âm thanh xa lạ, cách đặt tên bằng những từ chỉ các bộ phận cơ thể hay hoạt động sinh lý của con người, cách đặt tên bằng những từ chỉ dụng cụ sinh hoạt sản xuất hoặc các động vật… Duy chỉ có cách đặt tên vẫn còn duy trì được là đặt tên bằng từ Hán Việt có ý nghĩa tốt đẹp.
Những gia đình theo Hán học thường đặt tên theo các bộ chữ Hán. Tức là tên các thành viên trong gia đình đều có chung một bộ chữ.
Ví dụ:
– Bộ Thuỷ trong các tên: Giang, Hà, Hải, Khê, Trạch, Nhuận…
– Bộ Thảo trong các tên: Cúc, Lan, Huệ, Hoa, Nhị…
– Bộ Mộc trong các tên: Tùng, Bách, Đào, Lâm, Sâm…
– Bộ Kim trong các tên: Kính, Tích, Khanh, Chung, Điếu…
– Bộ Hoả trong các tên: Thước, Lô, Huân, Hoán, Luyện, Noãn…
– Bộ Thạch trong các tên: Châm, Nghiễn, Nham, Bích, Kiệt, Thạc…
– Bộ Ngọc trong các tên: Trân, Châu, Anh, Lạc, Lý, Nhị, Chân, Côn…
Nói chung, các bộ chữ có ý nghĩa tốt đẹp, giàu sang, hương thơm như Kim, Ngọc, Thảo, Thuỷ, Mộc, Thạch…đều thường được chuộng để đặt tên.
Ví dụ: Kim Khánh, Kim Thoa, Kim Hoàng, Kim Quang, Kim Cúc, Kim Ngân.
Hoặc hai từ Hán Việt có cùng tên, khác tên đệm:
Ví dụ: Nguyễn Xuân Tú Huyên, Nguyễn Xuân Bích Huyên.
Theo các thành ngữ mà tên cha là chữ đầu:
Ví dụ: Tên cha: Trâm
Tên các con: Anh, Thế, Phiệt
Tên cha: Đài
Tên các con: Các, Phong, Lưu.
Tên cha: Kim
Tên các con: Ngọc, Mãn, Đường.
Theo ý chí, tính tình riêng:
Ví dụ:
– Phạm Sư Mạnh: thể hiện ý chí ham học theo Mạnh Tử.
– Ngô Ái Liên: thể hiện tính thích hoa sen, lấy ý từ bài cổ văn : “Ái liên thuyết”.
– Trần Thiện Đạo: thể hiện tính hâm mộ về đạo hành thiện, làm việc lành.
Mạnh, Trọng, Quý: chỉ thứ tự ba tháng trong một mùa. Mạnh là tháng đầu, Trọng là tháng giữa, Quý là tháng cuối. Vì thế Mạnh, Trọng, Quý được bố dùng để đặt tên cho ba anh em. Khi nghe bố mẹ gọi tên, khách đến chơi nhà có thể phân biệt được đâu là cậu cả , cậu hai, cậu út.
Có thể dùng làm tên đệm phân biệt được thứ bậc anh em họ tộc (Mạnh – Trọng – Quý):
Ví dụ: Nguyễn Mạnh Trung
Nguyễn Trọng Minh
Nguyễn Quý Tấn
Vân: tên Vân thường gợi cảm giác nhẹ nhàng như đám mây trắng bồng bềnh trên trời. Trong một số tác phẩm văn học thường dùng là Vân khói – lấy Vân để hình dung ra một mỹ cảnh thiên nhiên nào đó: Vân Du (rong chơi trong mây, con của mẹ sau này sẽ có cuộc sống thảnh thơi, nhàn hạ),…
Anh: Những cái tên có yếu tố anh thường thể hiện sự thông minh, tinh anh: Thùy Anh (thùy mị, thông minh), Tú Anh (con sẽ xinh đẹp, tinh anh), Trung Anh (con trai mẹ là người thông minh, trung thực),…
Băng: Lệ Băng (một khối băng đẹp), Tuyết Băng (băng giá như tuyết), Hạ Băng (tuyết giữa mùa hè),…
Châu: Bảo Châu (viên ngọc quý), Minh Châu (viên ngọc sáng),…
Chi: Linh Chi (thảo dược quý hiếm), Liên Chi (cành sen), Mai Chi (cành mai), Quỳnh Chi (nhánh hoa quỳnh), Lan Chi (nhánh hoa lan, hoa lau),…
Nhi: Thảo Nhi (người con hiếu thảo), Tuệ Nhi (cô gái thông tuệ), Hiền Nhi (con ngoan của gia đình), Phượng Nhi (con chim phượng nhỏ), Yên Nhi (làn khói nhỏ mỏng manh), Gia Nhi (bé ngoan của gia đình),…
Một khác loại vốn là thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, bọn họ mặc dù cũng là tiêu hao thể lực, nhưng thu vào pha phong, có chút danh tinh tuổi thu vào thậm chí có thể thượng triệu nguyên. Nói chung, thể lực lấy tài tố công chi thần xác nhận tỉ kiên, kiếp tài cùng lộc thần, đương nhiên bất đồng đích nghề nghiệp bát tự không có cùng đích tổ hợp, hiệu suất cùng tố công phương thức đều có viện bất đồng.
Càn: Ất ất mậu ất
Sửu dậu dần mão
Cái này bát tự quan tinh không có chế hóa mà khắc thân, liền tri vốn là không có quan mệnh. Quan vô dụng, ngồi sát hữu dụng, vốn là tỏ vẻ chính mình đích công việc. Dần sửu ám hợp tố công, nhưng tố công hiệu suất rất thấp. Dụng kiếp tài sửu thổ hợp quan tinh tỏ vẻ rồi người này đích công việc tính chất vốn là vi thể lực lao động người; sửu vi ẩm thấp không ánh sáng chỗ, thêm vi vàng đá chi khố, loại tượng vi môi chỗ trú, cố hắn là một môi thợ mỏ người. Quý vận mậu hợp tài, quý đến từ sửu, này vận thải môi kiếm tiền. Mùi vận xung sửu, liền không hề hạ chỗ trú rồi.
Càn: Nhâm quý kỷ bính
Tử sửu dậu dần
Này tạo vốn là một khai sơn công nhân. Nhật chủ vô công xem nhật chi, nhật ngồi thực thần, dậu sửu bán hợp, hợp thành thực thần cục, nhưng chúng ta xem thực thần tại cục trung vô công, bát tự hàn ẩm ướt quá mức, viện muốn chính là thời thượng bính hỏa cùng dần mộc địch hàn, mà không phải thực thần. Dần sửu ám hợp, kiếp tài tố công vốn là vi thể lực lao động người, hiệu suất quá nhỏ, kiếm tiền không nhiều lắm, phi thường khổ cực. Chủ vị dần mộc ám hợp sửu thổ có thể coi là khai sơn.
Càn: Nhâm nhâm bính giáp
Tử tử thân ngọ
quý giáp ất bính đinh mậu
sửu dần mão thìn tị ngọ
Này tạo kim thủy thành xu thế, nhưng mộc hỏa tại chủ vị, mà có giáp mộc hóa thủy, không thể đi mộc hỏa mà chỉ có dụng mộc hỏa. Chỉ có thể dựa vào giáp mộc hóa sát vi công, bát tự hiệu suất phi thường thấp. Dụng kiếp tài thiên ấn, vốn là thân thể lực lao động đích. Thực tế vốn là một thợ mộc.
Nhàn chú: Hồng chữ bính giáp ngọ ngay cả thể, nhất định phải dụng, không thể bị phá hư! Giáp vi tử mộc, hóa thiên can chi nhâm thủy sát, tỉ kiếp ngọ xung tử thủy quan tinh, vi tố nhà đều đích, mộc công! Nơi này quan nhiều tài ít, tài thống quan, quan sát chế vô cùng cũng làm tài xem! Ta giác này bát tự hành vận không sai, đoạn đường phía nam vận!
Càn: Ất ất quý quý
Dậu dậu mùi hợi
Này tạo có kim thủy xu thế, ấn tinh vô công, duy nhất tố công chi thần vi hợi thủy, củng hợp mùi thổ khắc ngoài hỏa thổ. Chúng ta ở trên một chương trung nói qua, hợi mùi hợp chế thổ hiệu suất giác thấp, cho nên thuộc về tỉ kiếp tố công mà hiệu suất thấp đích bát tự, vốn là thể lực lao động người. Thực tế vốn là một chiều nào mà làm việc đích nông dân. Nhàn chú: Hợi vi trong nước ngậm mộc, mùi trung có gốc, vi trồng trọt chi tượng. Cũng có thể tố kiến trúc giúp công( Mùi)
Càn: Tân bính tân bính
Mão thân tị thân
Này tạo niên thượng tài tinh sinh chủ vị đích quan, tỏ vẻ có công việc, buôn bán tiền lương mà sống. Quan hợp kiếp tài vi chế kiếp tài, nhưng tương đối vu kiếp tài đến nói, quan tinh không đủ vượng, không có khí thế, chế kiếp chi hiệu suất rất thấp, tố công không lớn. Kiếp tài tham dự tố công, cho nên vốn là thể lực lao động người, thêm có công việc, cố vốn là một công nhân.
Khôn: Nhâm tân đinh ất
Tử hợi sửu tị
canh kỷ mậu đinh bính ất giáp
thú dậu thân mùi ngọ tị thìn
Này tạo cùng thượng tạo có tương tự chỗ, tài nhiều thân nhược, thêm thiên ấn cùng kiếp tài tinh tại chủ vị, không thể không dụng chi. Phú ốc bần người, thân thể lực sống duy sinh, thực tế vốn là một khách sạn người bán hàng. Nhàn chú: Đinh ất tị ngay cả thể nhất định phải dụng! Trung lúc tuổi già vận cũng không tệ lắm!
Thể dục vận động thành viên, sao ca nhạc, ảnh tinh, nghệ nhân, bọn họ mặc dù thuộc về thể lực lấy tài người, nhưng bọn hắn phần lớn có dưới đặc điểm:
1, những người này tỉ kiếp tố công hiệu suất cũng dường như cao.
2, một bực như nhau đều có thương thực tinh cũng phối hợp tố công, nguyên nhân thương thực tinh đại biểu kỹ thuật hoặc nghệ thuật.
3, rất nhiều nghệ nhân có thể nổi danh, còn có bính đinh hỏa tố công, hoặc thất sát hư thấu vu can tố công, này đó cũng tỏ vẻ danh khí.
Khôn: Giáp tân ất quý
Dần mùi hợi mùi
Này tạo tỉ kiếp đông đảo, lưỡng mùi thổ tài tinh củng đến chủ vị, nhưng củng thành lộc cục, lưỡng tài tướng củng, hiệu suất giác cao. Bát tự không gặp thương thực, chỉ có tỉ kiếp tố công, tỉ kiếp chủ cạnh tranh, cho nên vốn là một vận động thành viên, sau khi tố tennis huấn luyện viên.
Càn: Bính ất tân đinh
Thìn mùi mùi dậu
Này tạo tân kim nhật chủ, bính đinh hư thấu, quan sát hư dễ dàng thành danh người. Thìn thổ mộ mùi, mùi vốn là tài chi khố, nói rõ hắn thu vào rất cao. Thìn hợp lộc, lộc vi thân thể, hợp đến niên thượng có thể tỏ vẻ đủ, cho nên hắn là một bóng đá danh tinh, vì nước nhà đội dốc sức.
Càn: Nhâm bính ất mậu
Tử ngọ dậu dần
Này tạo vốn là Pháp quốc nổi tiếng bóng tinh tề đạt nội(zinedinezidane), chúng ta nhìn hắn vốn là như thế nào tố công đích. Mộc hỏa có xu thế, ý tại chế kim thủy, thời thượng kiếp tài khứ trường sinh thương quan, kiếp tài tỏ vẻ vốn là thể năng cạnh tranh, thương quan tỏ vẻ nghệ thuật, cho nên bóng đá vốn là rất cao đích thể năng cạnh tranh nghệ thuật, tại hắn mệnh trung biểu đạt đích hết sức rõ ràng. Nhàn chú: Ta xem mộc hỏa vượng rồi giữ thủy ấn tinh cấp chế rồi là thật, dậu kim có chế ý, nhưng chế bất hảo, làm tài xem! Niên thượng ấn vi thân thể cũng chủ cước, tỉ kiếp chế rồi năm ấn càng biểu cước rồi, cước có công, vốn là đá bóng đá đích rồi!
Khôn: Tân đinh canh nhâm
Dậu dậu tử ngọ
Này tạo vốn là một vị nữ tử võ thuật cả nước quán quân, chúng ta xem nàng có kim thủy đích xu thế, chế ngọ hỏa quan tinh, dương nhận thương quan tố công. Dương nhận chủ đao thương, thương quan chủ kỹ năng, quan chủ vinh dự, cục trung lưỡng dương nhận, cố võ thuật thiện khiến song kiếm,2000 năm tại võ thuật trận đấu trung đoạt quan, nhất cử thành danh. Nhàn chú: Kim thủy thành xu thế khứ quan, nguyệt lệnh quan tinh hư thấu, chủ danh khí, quốc nội danh khí. Dương nhận vi đao thương, sinh tử thủy chế ngọ!
Càn: Ất đinh bính mậu
Hợi hợi thìn tuất
Này tạo quan sát đông đảo, nhập vu chủ vị thìn mộ, vốn có thể làm quan; đã thấy bát tự nhật chủ hỏa cùng táo thổ thành đảng, thìn tuất xung, cùng sát khố không cùng, nói rõ chính mình không thể làm quan. Chế quan sát bất lực, quan sát làm tài phú xem, dụng thực thần cùng kiếp tài tố công. Thực thần người dựa vào khẩu tài cùng đầu óc, kiếp tài thêm tỏ vẻ thể lực, hợp cùng một chỗ, quyết định ngoài nghề nghiệp. Hắn là [một người/cái] nổi tiếng bình thư diễn viên, sở dĩ nổi danh, nguyên nhân bính đinh hỏa thấu can chi cố.
Khôn: Canh kỷ tân quý
Tử mão dậu tị
Này tạo nhật chủ ngồi lộc, kim thủy lược có khí thế, chế mộc hỏa có công, hiệu suất rất cao. Lộc thần cùng thực thần tố công, xác nhận một nghệ nhân. Thực tế vốn là một diễn viên, diễn qua rất nhiều ảnh thị kịch, thâm chịu người xem yêu thích.
Khôn: Bính quý tân quý
Dần tị dậu tị
nhâm tân canh kỷ mậu
thìn mão dần sửu tử
Nước Mỹ nổi tiếng diễn viên, tình cảm danh tinh mã lệ liên• mộng lộ, chúng ta xem cùng tiền tạo có tương tự chỗ: Tân kim nhật chủ ngồi chi lộc thần, thiên can thấu thực thần quý thủy chế quan, tố công chi thần cũng là lộc cùng thực thần, chỉ là nguyên nhân bát tự mộc hỏa xu thế đại cùng kim thủy xu thế, thế cho nên kim bị hỏa khắc, hành canh dần vận, kim lâm tuyệt mà hỏa chịu sinh trợ giúp, chết vào bỏ mạng. Nhàn chú: Ngay cả thể đồ vật không thể bị chế
Khôn: Bính bính giáp bính
Ngọ thân thìn dần
Này tạo mộc hỏa có xu thế, lộc cùng thực thần tố công, thực thần chế sát, còn có nhất định chức vụ. Bính hỏa tố công, danh khí rất lớn. Vốn là một nổi tiếng ca thủ, mà tại trong quân có giác cao đích quân hàm. Vì sao vốn là ca thủ, nguyên nhân kim chủ thanh âm, hỏa khắc kim, thanh âm hảo.
Càn: Giáp giáp đinh nhâm
Ngọ tuất dậu dần
Nổi tiếng kinh kịch biểu diễn nghệ thuật gia Mai lan phương tạo. Mộc hỏa có xu thế, đinh hỏa vì danh khí, cho nên vốn là danh nhân. Lộc thần hội vượng chế kim, công rất lớn. Hỏa khắc kim, táo tử hảo, lại nhìn nhật thời tướng hợp, nhâm thủy vi màu, tại môn hộ thượng, môn hộ chủ mặt, đinh nhâm hợp, trên mặt đồ màu, cho nên vốn là xướng làm trò đích.
Càn: Đinh tân tân tân
Hợi hợi sửu mão
Này tạo vi nhật vốn nổi tiếng sao ca nhạc sâm tiến một. Tỉ kiên đông đảo, sinh trợ giúp thương quan, đinh hợi tự hợp, thương quan hợp sát tố công. Sát tinh hư thấu chủ danh khí, thương quan chủ nghệ thuật, cho nên vốn là một danh nhân. Hành đinh mùi, bính ngọ vận, quan sát đến vị, hỏa thêm khắc kim, cho nên lấy diễn xướng nổi danh.
Chúng ta đích xã hội trung, công lương lấy tài đích người chiếm đại đa số, bọn họ có cố định đích công việc, thu vào ổn định, thu vào biến hóa nhỏ lại, cho nên dự trắc bọn họ đích tài vận, chỉ cần phân tích tài vận đích xu thế có thể rồi. Còn có chính là phân tích có thể hay không thất nghiệp, có không có tiền lương ngoại thu vào. Công lương lấy tài đích mệnh cục tố công loại hình đa số lấy thực thương tinh, ấn tinh, quan sát tinh, tài tinh tố công, nhưng ngoài hiệu suất phổ biến không tính cao. Nơi này thực thương tinh tỏ vẻ kỹ năng, ấn tinh tỏ vẻ đơn vị, quan sát tinh tỏ vẻ bị quản lý, tài tinh tỏ vẻ thu vào.
Khôn: Bính quý đinh mậu
Ngọ tị hợi thân
nhâm tân canh kỷ mậu đinh
thìn mão dần sửu tử hợi
Này tạo không một phương xu thế, kim thủy cùng hỏa thế tương đương. Lại nhìn có không có khác đích công: Nguyệt lệnh quý thủy sát tinh hư thấu, bị mậu thổ thương quan hợp chế, nơi này thương quan vi kỹ năng, sát tinh vi công việc hoặc chức vụ, tỏ vẻ nàng có kỹ thuật mà có công việc, vốn là một công lươngtộc. Mậu thổ lộc tại tị, tị vi kiếp tài tinh, tỏ vẻ nàng tại tố một loại có kỹ thuật đích thể lực lao động, thực tế người này vốn là y tá trường. Thân kim tài tinh vi tiền lương. Dần vận dần tị thân tam hình phá hư thân, nguyên đơn vị tiền lương rất thấp, từ chức. Kỷ sửu vận đổi lại [một người/cái] tân đơn vị, thu vào trung bình.
Nhàn chú: Kim thủy cùng hỏa thế tương đương, tị thân quý tị tự hợp, ngọ hợi ám hợp; mậu vi thương quan vi kỹ thuật, tại môn hộ vi vi cánh cửa mặt cầu tài! Mậu thân mang tượng, đều là tài. Tị= mậu cũng vi kiếp, tố nửa kỹ thuật nửa thể lực đích sống, vốn là y tá trường, hợp sát có điểm quyền! Tẩu dần vận, dần mặc tị, mà dần tị thân hình( Tam toàn bộ tài luận hình), hình phá hủy tị hỏa, mà quý tị tự hợp rồi, đổi lại tượng, quý vi công việc, đâu công tác! Dần vi ấn vi đơn vị, đơn vị phá sản rồi! Kỷ sửu vận chi kỷ vận, đã tới đinh đến đổi lại công việc đơn vị rồi! Nguyên cục thân hợi hại, hôn khẳng định bất hảo! Nhị hôn chi mệnh! Hợi vi đệ nhất phu, dần vận dần hợi hợp, ấn hợp rồi, làm kết hôn chứng, làm không được ly hôn chứng! Giáp thân năm bắt đầu cách,( Lão công hữu tình người, tị xung hợi) tị thân hợp dẫn động rồi tị hỏa, thân mặc hợi, tỉ kiếp xung phu cung! Bính thú năm làm ly hôn chứng( Lưu niên không có tài sinh hợi) đóng tài cánh cửa! Giáp thân năm nháo, bính thú năm cách, bởi vì thân dậu có tài sinh quan cách không được!
Càn: Nhâm đinh quý ất
Tử mùi hợi mão
mậu kỷ canh tân nhâm quý
thân dậu thú hợi tử sửu
Này tạo hợi mão mùi hợp thành thực thần cục, thủy mộc thành xu thế, chế cục trung mùi thổ vi công, nhưng loại này chế pháp hiệu suất giác thấp, chế quan chích tỏ vẻ có công việc, không nhắc tới kì làm quan. Thực thần tinh vi ngoài tiền lương thu vào, mà đinh hỏa tài tinh có thể tỏ vẻ tiền lương ngoại thu vào. Nhâm ngọ năm, đinh nhâm hợp, này năm được tiền lương ngoại thu vào hai vạn nguyên.
Khôn: Mậu quý quý nhâm
Thân hợi mùi tý
nhâm tân canh kỷ mậu đinh
tuất dậu thân mùi ngọ tị
Này tạo có kim thủy xu thế chế sát tinh mùi thổ, hợi mùi củng thực thần, vốn là thực thần cùng sát tinh tố công, nhưng tố công chi hiệu suất không cao, cho nên vốn là một công lươngtộc. Thân vận hại hợi, bất lợi hợi mùi chi củng, cho nên công việc không thuận trái tim, thu vào cũng không cao. Đến kỷ mùi vận, hợi mùi củng đến vị, có tiểu chức, thu vào chuyển biến tốt đẹp.
Khôn: Bính tân bính canh
Ngọ mão tuất tử
Đây là sơ cấp lớp học nói đích tử phụ lệ, này tạo ngồi chi thực thần( Kỹ năng) hợp ấn( Đơn vị), biểu có đơn vị, ấn tinh thượng thấu tài tinh, bính tân hợp, biểu tiền lương( Nguyên nhân vốn là in lại chi tài).( Chú: Quan thống tài rồi) thực thần vi kỹ năng hoặc ý nghĩ, ấn vi đơn vị, tài đó là tiền lương, cho nên vốn là [một người/cái] công lươngtộc. Bản thân đích thu vào lấy tân kim xem, thu vào bình thường. Bát tự có hỏa thổ xu thế, chế thời thượng tử thủy có công, hành đinh hợi vận, đinh hợi tự hợp, hợi làm tài xem, đinh đến từ ngọ, tuất vốn là chính mình ngồi xuống, lão công phát tài, trăm vạn phú ông. Hợi thủy xuất hiện bị chế hóa, này hợi thủy sát tinh làm tài xem, này vận giàu to rồi đại tài. Đinh vốn là tòng phu cung đi ra đích, cho nên vốn là phu giàu to rồi đại tài. Đinh hợi vận chế rồi cố phát tài, này vận chủ yếu là tượng hảo, ngọ hợi ám hợp, hợi sinh mão. Nguyên cục canh tử mang tượng, tử làm tài xem, tài rất lớn, thủy cũng làm tài nhìn, cho nên hợi cũng là tài, mậu tử vận, tử ngọ xung, quan xung lộc không được tài, phải nghĩ biện pháp hợp trụ, như thế tài xung lộc, thì có thể được tài, nguyên nhân tài là tới lui tới mê hoặc, ra vào đích.
Khôn: Canh kỷ ất canh
Thân mão dậu thìn
Này tạo chủ vị chiếm tài quan, ất canh hợp, hợp quan mang tài, quan vi công việc, tài vi tiền lương, cố vốn là một công lươngtộc. Hoặc hỏi, bát tự có thổ kim xu thế chế mão mộc, vì sao không phải đại phú quý chi mệnh? Nguyên nhân mão mộc lộc thần ở chỗ này vốn là phụ nữ đích thân thể, dụng này tố công đương nhiên không thể đại phú, nhưng này tạo tiền lương ngoại còn có khác thu vào, giáp thân năm, mão thân hợp đến vị, [một người/cái] nam đích thích nàng, cho hắn hai mươi vạn nguyên mua phòng.
( Hôn nhân bất hảo, mão lộc thêm xung thêm hợp. Nhật chủ hợp quan, bị quản lý, có đang lúc nghề nghiệp, quan hạ ngồi tài, tránh tiền lương. Mão lộc ngồi tài, có phạm nam nhân lấy tài chi nghĩa, giáp thân năm một nam tử thích nàng, cấp nàng20 vạn nguyên mua một bộ phòng ở, cái này nam tử cùng nàng hảo sau lúc, đáng nam tử đích lão bà sẽ chết rồi, mão thân hợp, thân làm nam nhân, mão làm nam nhân đích lão bà, nguyên nhân mão dậu vọt, cố nam tử đích thê tử đã chết. Nàng bản thân vốn là trường học đồ thư quản lý thành viên.) nhàn chú: Lộc không ngay cả không sợ chế! Lộc hợp tài quan thực thương đều là đào hoa! Giáp thân năm cùng nguyệt kỷ mão thiên địa hợp, mão vi chính mình thân thể cũng vi đào hoa tiền thê, vốn là năm đem nọ vậy lão bà cũng khắc đã chết, thân thể cũng cấp chơi! Hợp thời thượng quan ngồi ấn khố vi trường học thư viện!
Khôn: Mậu nhâm mậu nhâm
Thân tuất ngọ tuất
Này tạo có hỏa cùng táo thổ xu thế, chế cục trung thân kim thực thần, đáng tiếc chỉ là khắc chế mà thôi, khắc chế hiệu suất không cao. Thực thần chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, ý tứ vốn là chính mình đích kỹ năng chăn đơn vị viện trọng dụng, cho nên vốn là một công lươngtộc. Bây giờ hành mậu ngọ vận, công việc thu vào ổn định. Thiên can hư thấu tài tinh vô công, không có tiền lương ngoại thu vào.
( Thực chủ kỹ năng, ấn chủ đơn vị, hiệu suất rất thấp, chỉ có thể có đơn vị tránh tiền lương, mậu ngọ vận thu vào một bực như nhau, tuy có xu thế nhưng công quá nhỏ, lưỡng nhâm hư thấu vô dụng, chích biểu có thể nói hội nói.) ngồi phòng làm việc, xí nghiệp làm việc!
Khôn: Đinh nhâm canh nhâm
Mùi dần tử ngọ
quý giáp ất bính đinh mậu kỷ
mão thìn tị ngọ mùi thân dậu
Mới nhìn này tạo, vốn là hỏa không có xu thế chế cục trung thương thực, quan khứ thực thương. Vốn loại này chế đích năng lượng cùng hiệu suất cũng dường như cao, nhưng chúng ta phát hiện cái này tử thủy không phải bị hỏa thổ chế khứ đích, mà là bị dần mộc tiết rồi( Nhâm dần trụ tài mang thực thần tượng, cũng là tỏ vẻ thực thần sinh tài đích ý tứ), thành sinh dụng tố công, cho nên hiệu suất sẽ không tính cao rồi. Thực thương sinh tài, tài tinh nhập ấn mộ tại tân vị, vốn là thay người khác tố trí lực phục vụ đích, cho nên cũng là một công lươngtộc, chỉ là thu vào giác cao. Hành tị vận, hại ngã dần mộc, thu vào không cao, nguyên lai công việc đích đơn vị phá sản; hành bính ngọ vận, bị sính đến tư doanh xí nghiệp, thu vào rất cao.
( Kim thủy thương quan hỉ gặp quan. Quan chế rồi thương, hảo. Quan chủ đơn vị, thương chủ kỹ năng, đơn vị nhìn trúng ngươi đích kỹ năng, nhưng này tạo đích hiệu suất dường như cao, thu vào là tốt rồi. Ất tị vận, hại dần tài, đơn vị phá sản rồi, hại phản rồi. Bính ngọ vận bị sính đến tư xí tố đăng ký hội kế sư, tiền lương rất cao,4,5 ngàn nguyên. Thực sinh tài, tài nhập mộ, tố trướng đích.)
Càn: Nhâm canh nhâm đinh
Dần tuất ngọ mùi
tân nhâm quý giáp ất
hợi tử sửu dần mão
Này tạo hỏa thổ có xu thế, nhưng lại chỉ có xu thế mà không có công lớn, cho nên vốn là [một người/cái] bình thường bát tự. Cục trung mùi tuất hình, chế tuất trung tân kim ấn tinh có tiểu công. Tài tinh chế ấn, khắc ở nguyệt lệnh tỏ vẻ công việc đơn vị, canh ấn thấu can không có chế, nói rõ hắn đích công việc đơn vị không được tốt lắm. Hành quý sửu vận chi sửu vận, sửu mùi tuất tam hình phá hủy mùi tuất hình, ấn tinh không cách nào chế không thể làm công, cho nên đơn vị phá sản, chính mình hạ tốp. Đến giáp dần đại vận, hội khởi hỏa cục, chế ấn thành công, thêm bên ngoài vừa tìm được công việc, công lươngđộ nhật.
Khôn: Ất giáp đinh tân
Mão thân hợi hợi
đại vận: Ất bính đinh mậu kỷ
dậu tuất hợi tử sửu
Này tạo không có xu thế, ngồi chi quan tinh sinh ấn, ấn sinh thân, quan ấn có công, tỏ vẻ bản thân có công việc, quan đầu mang tài, vốn là công lươngtộc. Niên thượng chi ấn hợp quan, vốn là lúc ban đầu tại quốc có xí nghiệp công việc; nguyệt thượng chi ấn ngồi thân mặc quan tinh, tỏ vẻ cái này quốc có xí nghiệp đích công việc không thể lâu dài, nên đổi lại khác công việc, nhưng giáp ấn hư, thân thêm mặc chủ vị, nói rõ viện đổi lại đích công việc không yên định, không thể lâu dài. Trung niên vận hạn lại thấy quan tinh hợi thủy, nói rõ còn có thể tại [một người/cái] thu vào ổn định đích quốc có xí nghiệp công việc. Thực tế bính vận giáp tuất năm đến một nhà quốc có xí nghiệp, tuất vận, nguyên nhân tuất thổ hợp bán ấn, khắc phá hư quan tinh, quốc có xí nghiệp tiền lương quá ít, cho nên cách chức bên ngoài làm công, hàng năm đổi lại một lần công việc. Đến đinh hợi vận công việc ổn định, thu vào biến cao.
Khôn: Ất kỷ đinh canh
Mão sửu sửu tuất
Canh tân nhâm quý giáp ất
Dần mão thìn tị ngọ mùi
Này tạo niên can chi ấn tinh, tỏ vẻ công việc đơn vị, ất canh hợp, canh tài tỏ vẻ tiền lương. Canh kim hư thấu, tỏ vẻ đơn vị tiền lương không cao; ngồi chi thực thần sửu thổ vượng tướng, lâm phu cung mà vốn là tài khố, sửu lại bị hình khai, nói rõ trượng phu thu vào giác nhiều. Hành thìn vận hại ngã ấn tinh, nguyên nhân đơn vị tiền lương không cao mà từ chức, do lão công nuôi sống. Nàng bản thân xem ất mão, ấn chủ đơn vị, ấn xa, tài hư, hiệu suất thấp, kết hôn sau khi mão thìn một hại, không làm rồi, nguyên nhân tiền lương rất thấp mà từ chức.
1 – Ngũ hành đại diện cho các mùa
a - Mộc đại diện cho mùa Xuân
b - Hỏa đại diện cho mùa Hạ
c – Kim đại diện cho mùa Thu
d - Thủy đại diện cho mùa Đông
2 – Can chi đại diện cho các hành
Giáp, Ât, Dần, Mão đại diện cho hành Mộc
Bính, Đinh, Tị, Ngọ đại diện cho hành Hỏa
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi đại diện cho hành Thổ
Canh, Tân, Thân, Dậu đại diện cho hành Kim
Nhâm, Quý, Hợi, Tý đại diện cho hành Thủy
3 – Can chi đại diện cho mầu sắc
Giáp , Ât , Dần và Mão là Mộc đại diện cho mầu xanh.
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho mầu đỏ.
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho mầu vàng.
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho mầu trắng.
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho mầu đen
4 – Can chi đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người
Giáp, Ât, Dần, Mão (Mộc) đại diện cho các bộ phận trong cơ thể con người là gan, mật, thần kinh, đầu, vai, tay, ngón tay …….
Bính, Đinh, Tị, Ngọ (Hỏa) đại diện cho các bộ phận tim, máu, ruột non, trán, răng, lưỡi, mặt, yết hầu, mắt ……
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (Thổ) đại diện cho dạ dầy, lá lách, ruột già, gan, bụng, ngực, tỳ vị, sườn ……
Canh, Tân, Thân, Dậu (Kim) đại diện cho phổi, máu, ruột già, gân, bắp, ngực, khí quản ……...
Nhâm, Quý, Hợi, Tý (Thủy) đại diện cho thận, bàng quang, đầu, bắp chân, bàn chân, tiểu liệu, âm hộ, tử cung, hệ thống tiêu hóa, ……..
5 - Can chi và ngũ hành đại diện cho các phương.
Sơ đồ của các can, chi và ngũ hành đại diện cho các phương như sau:
Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho phương Đông.
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho phương Nam.
Mậu và Kỷ không ở phương nào cả mà đại diện cho trung tâm.
Thìn đại diện cho phương Đông Nam.
Tuất đại diện cho phương Tây Bắc.
Sửu đại diện cho phương Đông Bắc.
Mùi đại diện cho phương Tây Nam.
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho phương Tây.
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho phương Bắc.
6 – Can chi đại diện cho nghề nghiệp
Giáp, Ât, Dần và Mão là Mộc đại diện cho các nghề sơn lâm, chế biến gỗ, giấy, sách báo, làm vườn, trồng cây cảnh, phục trang, dệt, đóng thuyền ……
Bính, Đinh, Tị và Ngọ là Hỏa đại diện cho các nghề thuốc súng, nhiệt năng, quang học, đèn chiếu sáng, xăng dầu, cao su (xăm lốp ,dây đai ,nhựa cây), các sản phẩm đồ điện, vật tư hóa học, luyện kim, nhựa đường …..
Mậu, Kỷ, Thìn, Tuất, Sửu và Mùi là Thổ đại diện cho các nghề chăn nuôi , nông nghệp, khai khẩn đồi núi, giao dịch về đất đai, buôn bán địa ốc, phân bón, thức ăn gia súc, khoáng vật, đất đá, gạch ngói, xi măng, đồ gốm, đồ cổ, xây dựng, …..
Canh, Tân, Thân và Dậu là Kim đại diện cho các nghề vàng bạc, châu báu, khoáng sản, kim loại, máy móc, thiết bị nghiên cứu hóa học, thủy tinh, các công cụ giao thông …… .
Nhâm, Quý, Hợi và Tý là Thủy đại diện cho các nghề nước giải khát, hoa quả, đồ trang sức mỹ nghệ, hóa phẩm mỹ dụng, giao thông vận tải, vận chuyển hàng hóa, chăn nuôi thủy sản, mậu dịch, du lịch, khách sạn, buôn bán ,….
Người Trung Quốc từ xa xưa đã dùng lịch Can Chi để xác định các mốc thời gian trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó tại thời điểm của mỗi người khi sinh ra được xác định bởi bốn thông tin của lịch Can Chi. Đó chính là bốn tổ hợp can chi của năm, tháng, ngày và giờ sinh mà chúng được gọi là Tứ Trụ hay mệnh của người đó. Ví như một cái nhà được xây dựng lên bởi bốn cái cột, nếu bốn cái cột này đều nhau và vững chắc, nghĩa là các hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa và Thổ trong tứ trụ là tương đối bằng nhau thì người đó cả cuộc đời thường là thuận lợi, còn nếu bốn cột không điều nhau, tức ngũ hành quá thiên lệch, tất dễ đổ nhà - cuộc đời dễ gặp tai họa.
Cách đây ba bốn nghìn năm con người đã biết sử dụng lý thuyết này để phòng và chữa bệnh. Ví dụ những ai trong mệnh (tứ trụ) mà ngũ hành thiếu Mộc mà lại cần Mộc, thì đầu tiên cần đặt tên mang hành Mộc và nên sống ở về phía Đông so với nơi mình được sinh ra, vì đó là phương Mộc rất vượng (tức là Mộc nhiều). Sau khi trưởng thành cũng nên làm những nghề liên quan đến hành Mộc, thêm nữa nên mặc quần áo mang hành Mộc (xanh). Nếu làm như vậy thì sẽ có một phần Mộc được bổ xung cho tứ trụ. Còn khi bị bệnh do hành Mộc thiếu thì thầy thuốc sẽ căn cứ vào sự thiếu nhiều Mộc hay ít để bốc thuốc mang hành Mộc cho phù hợp với sự thiếu Mộc đó. Được như vậy cuộc đời người đó thường gặp thuận lợi rất nhiều hay dễ khỏi bệnh. Các hành khác cũng suy luận tương tự như vậy.
Nguồn: phuclaithanh.com
Tuổi Sửu
Sức lực của các bạn tuổi Sửu trong tháng 5 này chủ yếu tập trung vào học hành, công việc. Tuy bận rộn nhưng bạn vẫn dành nhiều thời gian và tâm huyết cho gia đình. Mọi nỗ lực và đóng góp của bạn giúp các thành viên trong nhà luôn cảm thấy hài lòng, bầu không khí ngập tràn niềm vui và sung túc.
Tuổi Mèo
Nhìn chung vận khí của các bạn tuổi Mèo trong năm nay luôn ổn định. Đặc biệt trong tháng 5 này, vận thế gia đình của bạn cực thịnh vượng. Do bản thân tuổi Mèo rất xem trọng gia đình, luôn cố gắng giữ gìn sự hòa thuận, hạnh phúc của những người thân. Bạn sẽ có một tháng thoải mái, không vướng bận lo âu.
Tuổi Tuất
Những gì các bạn tuổi Tuất dành cho gia đình thường không nhỏ, đặc biệt là bạn rất quan tâm đến không khí của các thành viên trong nhà, vì vậy luôn hết lòng vun đắp và nuôi dưỡng tình cảm. Tháng 5 này, vận thế gia đình của bạn rất tốt, nhiều tin vui tốt lành đến nhà.
Tuổi Tý
Các bạn tuổi Tý vốn đã có mệnh tốt, lại quý trọng cuộc sống gia đình, nên dù thỉnh thoảng có mâu thuẫn xung đột, bạn vẫn là người cố gắng hòa giải và duy trì sự hòa thuận trong nhà. Tháng 5 này sẽ là thời cơ để bạn củng cố sự gắn bó, êm ấm cho gia đình, cuộc sống tràn đầy hạnh phúc và khỏe mạnh.
Khang Ninh (theo QQ)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Ảnh minh họa |
A | B |
C | D |
Mộc Trà (theo Buzz)
Phương pháp tính toán nam mệnh và nữ mệnh có sự khác nhau, hiện nay theo thứ tự người ta liệt kê ra 100 năm của thế kỷ 20 , trong đó có quẻ nam, nữ mệnh của một năm phụ thuộc.
Năm 1901 – Tân Sửu, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1902 – Nhâm Dần, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1903 – Quý Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1904 – Giáp Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1905 – Ất Tị, nam thuộc khôn thổ, nừ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1906 – Bính Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1907 – Đinh Mùi, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1908 – Mậu Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1909 – Kỷ Dậu, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1910 – Canh Tuất, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1911 – Tân Hợi, nam thuộc cân thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1912 – Nhâm Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1913 – Quý Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1914 – Giáp Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1915 – Ất Mão, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1916 – Bính Thìn, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1917 – Đinh Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1918 – Mậu Ngọ, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1919 – Kỷ Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1920 – Canh thân, Nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1921 – Tân Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1922 – Nhâm Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1923 – Quý Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1924 – Giáp Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1925 – Ất Sửu, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1926 – Bính Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1927 – Đinh Mão, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1928 – Mậu Thìn, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1929 – Kỷ Tỵ, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1930 – Canh Ngọ, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc chân thổ.
Năm 1931 – Tân Mùi, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1932 – Nhâm Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1933 – Quý Dậu, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thố.
Năm 1934 – Giáp Tuất, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1935 – Ất Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1936 – Bính Tý, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cân thổ.
Năm 1937 – Đinh Sửu, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1938 – Mậu Dần, nam thuộc cân thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1939 – Kỷ Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1940 – Canh Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1941 – Tân Tỵ, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1942 – Nhâm Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1943 – Quý Mùi, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1944 – Giáp Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1945 – Ất Dậu, nam thuộc khẩm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1946 – Bính Tuất, nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Năm 1947 – Đinh Hợi, nam thuộc cấn thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1948 – Mậu Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1949 – Ký Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1950 – Canh Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1951 – Tân Mão, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1952 – Nhâm Thìn, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1953 – Quý Tỵ, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1954 – Giáp Ngọ, nam thuộc khảm thủy, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1955 – Ất Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1956 – Bính Thân, nam thuộc cấn thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1957 – Đinh Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1958 – Mậu Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1959 – Kỷ Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm mộc.
Năm I960 – Canh Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1961 – Tân Sửu, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1962 – Nhâm Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1963 – Quý Mão, nam thuộc khám mộc, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1964 – Giáp Thìn, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1965 – Ất Tỵ, nam thuộc câri thố, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1966 – Bính Ngọ, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1967 – Đinh Mùi, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1968 – Mậu Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1969 – Kỷ Dậu, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1970 – Canh Tuất, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1971 – Tân Hợi, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1972 – Nhâm Tý, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cân thổ.
Năm 1973 – Quý Sửu, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1974 – Giáp Dần, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1975 – Ất Mão, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1976 – Bính Thìn, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1977 – Đinh Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khám thuý.
Năm 1978 – Mậu Ngọ, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thố.
Năm 1979 – Kỷ Mùi, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chân mộc.
Năm 1980 – Canh Thân, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1981 – Tân Dậu, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thố.
Năm 1982 – Nhâm Tuất, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1983 – Quý Hợi, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1984 – Giáp Tý, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1985 – Ất Sửu, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1986 – Bính Dần, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc càn thuý.
Năm 1987 – Đinh Mão, nam thuộc tôn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1988 – Mậu Thìn, nam thuộc chân mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1989 – Kỷ Tỵ, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1990 – Canh Ngọ, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1991 – Tân Mùi, nam thuộc ly hoả, nữ thuộc càn kim.
Năm 1992 – Nhâm Thân, nam thuộc cấn thổ, nữ thuộc đoài kim.
Năm 1993 – Quý Dậu, nam thuộc đoài kim, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 1994 – Giáp Tuất, nam thuộc càn kim, nữ thuộc ly hoả.
Năm 1995 – Ất Hợi, nam thuộc khôn thổ, nữ thuộc khảm thuỷ.
Năm 1996 – Bính Tý, nam thuộc tốn mộc, nữ thuộc khôn thổ.
Năm 1997 – Đinh Sửu, nam thuộc chấn mộc, nữ thuộc chấn mộc.
Năm 1998 – Mậu Dần, nam thuộc khôn thố, nữ thuộc tốn mộc.
Năm 1999 – Kỷ Mão, nam thuộc khảm thuỷ, nữ thuộc cấn thổ.
Năm 2000 – Canh Thìn, Nam thuộc ly hoá, nữ thuộc càn kim.
Tý | Sửu | Dần | Mão |
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi |
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Mr.Bull (theo TX)
Hành: Thủy
Loại: Hung Tinh
Đặc Tính: Sự sa sút, yếu đuối
Là một phụ Tinh. Sao thứ 6 trong 12 sao thuộc vòng sao Trường Sinh theo thứ tự: Trường Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai, Dưỡng.
Tương ứng với tuổi 60, chỉ sự suy bại, như mặt trời giờ Mùi sắp nghiêng về phía Tây, là từ đỉnh cao rớt xuống. Kị nhập Cung Mệnh, Tật ách. Suy ở Mệnh: Ôn hòa, dễ thỏa hiệp, an phận, thích hợp hoạt động kỹ thuật. Nữ: Vợ hiền, đảm đang.
Mộc Dục – Suy – Tuyệt: Công việc bấp bênh, chưa vững chắc, thường có sự thay đổi, làm cho đương số lạc hướng, hay mất hướng đi.
Mệnh có Suy: Mưu lược tính toán, có tư tưởng cao đẹp xây dựng xã hội.
Dục Suy Tuyệt mà chính tinh hãm: Thường làm việc nguy hiểm như buôn lậu
Mệnh Sinh Vượng Mộ: Chết ở đại hạn Dục Suy Tuyệt.
Mệnh Đới Bệnh Thai chết ở đại hạn Dục Suy Tuyệt
Mệnh hay cục Kim -> Hạn đến cung tí -> hạn bị suy bại -. Sức khoẻ kém có thương tích.
Mệnh hay cục Thổ -> Hạn đến cung Mão Thìn Tị -> hạn suy nhược – đau ốm – nhiều bênh tật đáng sợ.
Dục – Suy thì càng thêm sức mạnh.
Mệnh Lâm Tử Dưỡng gặp gian nan ở đại hạn Dục Suy Tuyệt nhưng chết ở đại hạn Đới Bệnh Thai.