Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tham khảo mối liên quan giữa ngày sinh và em bé

Theo thống kê tháng năm sinh và ngoại hình, tính cách, bệnh tật, số phận...người ta đã tìm ra mối liên quan nhất định giữa ngày tháng sinh với số phận

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các nhà khoa học đã phát hiện rất nhiều điều liên quan đến tháng sinh như sự thừa cân, tính tình lạc quan hay bi quan, và thậm chí có bao nhiêu con... Căn cứ trên thống kê về tháng năm sinh và ngoại hình, tính cách, bệnh tật, số phận… người ta đã tìm ra những mối liên quan nhất định giữa ngày tháng sinh với số phận mỗi người, sướng-khổ mỗi người.

thang-sinh-va-be

Trong những tháng mang thai đầu tiên của một người mẹ, các yếu tố môi trường (thời tiết, thức ăn, nhiễm trùng theo mùa) có ảnh hưởng quan trọng tới thai nhi một cách khác nhau.

Tất nhiên, chẳng ai có thể nói tháng nào là tháng tốt nhất mà chỉ có thể biết rằng mỗi tháng đều có ưu và nhược điểm của nó, lợi về mặt này lại hại về mặt khác. Có điều là biết được những gì có thể xảy ra, bạn có thể điều chỉnh lại cách sống của mình và chủ động đối phó với những rắc rối.

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa đông

Hầu hết mọi người thuận tay trái được sinh ra trong những tháng lạnh nhất là tháng 12, tháng 1 và tháng 2 (và theo thời tiết, đó là những tháng có nhiệt độ thấp nhất nên người châu Âu quy định đó là mùa đông).

Trẻ em sinh mùa đông lớn lên thường có khuynh hướng mắc các bệnh tim mạch - theo các nhà nghiên cứu thuộc Trường đại học Bristol và Edinburgh (Anh Quốc). Nguy cơ mắc các bệnh tim mạch ở "trẻ em mùa đông" hơn trẻ em sinh ra trong các mùa khác là 24%.

Đồng thời vào mùa đông, các bà mẹ do phải chống rét nên chế độ ăn nhiều mỡ cũng tạo cho các bà mẹ có mỡ máu cao. Vì thế nếu sẽ phải sinh vào mùa đông, các bà mẹ nên chú ý đặc biệt đến chuyện ăn kiêng.

Theo các nhà tâm lý học, những người sinh vào mùa đông thường là những người thành đạt. Họ năng động, có tài và có ý chí. Họ biết cách làm việc, tự tin trong hành động, chủ động gạt bỏ những khó khăn trên đường đời và do vậy dễ thành công.

Tuy nhiên, trẻ em sinh trong mùa đông thường tự kiêu và cứng đầu. Từ khi còn nhỏ chúng hay cãi lại bố mẹ, không dễ dàng thừa nhận sai lầm, khó làm việc theo nhóm và thường xây dựng gia đình muộn.

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa xuân

Trẻ em sinh vào mùa xuân (tháng 3, tháng 4 và tháng 5) rất nhạy cảm với thời tiết, dễ bị cảm lạnh, dị ứng, hay ốm đau hơn trẻ em sinh ra trong những mùa khác. Bởi vậy các bậc che mẹ phải quan tâm đến chúng nhiều hơn. Hãy chú ý đến dự báo thời tiết hàng ngày để giúp chúng đối phó kịp thời.

Các nhà tâm lý học cho rằng những người sinh ra trong mùa xuân thường sống theo cảm tính, không quyết đoán, dễ bị thuyết phục và phụ thuộc vào người khác. Không ham làm lãnh đạo. Trẻ em sinh trong mùa xuân thường rất dễ bảo, biết vâng lời, có tính tỉ mỉ và biết lắng nghe.

Chúng thực ra có những ý kiến chính xác về nhiều vần đề nhưng không muốn nói ra và thực hiện ý định của mình, ngại tranh luận, dễ sống trong tập thể. Nhiệm vụ của các bậc cha mẹ sinh con trong mùa xuân là phải chú ý rèn luyện cho chúng lòng tự tin, chủ động, có ý chí và tham vọng, kiên nhẫn, dám làm dám chịu.

Những đứa trẻ sinh ra vào mùa hè

Trẻ sinh ra trong mùa hè (tháng 6, 7 và 8) lạc quan, may mắn và vui tính - điều này đã được các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Hertfordshire chứng minh.

Người sinh ra trong mùa hè thường tự đánh giá cao về mình, hài lòng với bản thân nên lạc quan, yêu đời, luôn thấy mình hạnh phúc. Các nhà tâm lý học cho rằng họ thuộc loại người nhạy cảm, tốt bụng, rộng rãi, bốc đồng, có thể nóng tính nhưng không thù dai hay thành kiến.

Họ sẵn sàng chấp nhận những rủi ro, mạo hiểm, ưa thích những chuyến đi xa. Cha mẹ của những đứa trẻ sinh vào mùa hè nên tạo điều kiện cho chúng tham gia vào công tác xã hội, các phong trào tình nguyện, khuyến khích chúng bênh vực những bè bạn cùng lớp yếu hơn mình.

Những đứa trẻ sinh vào mùa thu

Trẻ sinh ra trong mùa thu (tháng 9, tháng 10 và tháng 11) nói chung sẽ sống lâu hơn những bạn đồng trang lứa. Sau khi phân tích những số liệu thống kê về cuộc đời của hơn 1 triệu người từ Australia đến Na Uy, các nhà khoa học thấy họ đều có tuổi thọ cao.

Họ sống khoan dung, luôn luôn điềm tĩnh, thận trọng và tỉ mỉ trong công việc, giải quyết các vấn đề thường có lý có tình và luôn là người có uy tín trong xã hội.

Trẻ em sinh vào mùa thu siêng năng trong học tập, ít gây gổ cãi nhau với bạn bè, sớm hiểu được giá trị của đông tiền và biết vâng lời. Các bậc cha mẹ có con sinh ra trong mùa thu đã có một “nguyên liệu quý” để tạo ra những người công dân gương mẫu. Hãy cố gắng hướng cho chúng đi đúng hướng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tham khảo mối liên quan giữa ngày sinh và em bé

Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

Ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất: Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành.
Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức  khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành, số mệnh vinh hoa phú quý. 


► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 1
  Những người tuổi Tuất sinh ngày mùng 1 âm lịch có tính cách nhân hậu, tinh thần hiệp nghĩa, dễ cảm thông với những hoàn cảnh khó khăn. Người này có công danh sự nghiệp thành đạt, có thể vang danh thiên hạ, cuộc sống vinh hoa phú quý.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 2   Tính cách ôn hòa, điềm đạm, chân thành, làm việc theo những chuẩn mực đạo đức nhất định nên cuộc sống khá bình yên, không phải trải qua nhiều sóng gió. Người này số phải tự lập, không được dựa dẫm vào cha mẹ nên tiền vận vất vả. Trung vận chuyển biến tốt, hậu vận được hưởng phúc lộc từ con cháu.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 3   Người này sở hữu trí tuệ thông minh, lối sống tràn đầy nhiệt huyết, trọng nghĩa khinh tài nên được nhiều người yêu mến. Ngoài ra, tài vận của họ khá tốt, suốt đời không phải lo lắng về vấn đề tiền bạc.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 4   Tiền vận không tốt, cuộc sống vất vả, khó tụ tài. Tuy nhiên đến trung vận thì gặp quý nhân phù trợ, công danh sự nghiệp thành đạt, danh lợi song hành.

Xem ngay sinh dai cat cho nguoi tuoi Tuat P1 hinh anh
Ảnh minh họa
  Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 5   Tính tình nóng vội, dễ bỏ cuộc giữa chừng nếu gặp phải thất bại. Ngoài ra, người tuổi Tuất sinh ngày mùng 5 có sức khỏe kém, mắc nhiều bệnh tật. Nếu tu tâm dưỡng tính, chăm chỉ rèn luyện sức khỏe thì vận thế mới chuyển biến tốt đẹp.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 6   Người này thông minh, tốt bụng, công danh sự nghiệp phát đạt. Nam mệnh lấy được vợ hiền, có thể trợ giúp đắc lực cho sự nghiệp của chồng. Nữ mệnh được gả vào nhà quyền quý, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 7 âm lịch thường có sức  khỏe tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, tài lợi song hành, số mệnh vinh hoa phú quý. 
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 8   Người này có trí tuệ thông minh, lanh lợi, lúc nào cũng tràn đầy sức sống, làm việc có kế hoạch và sự tính toán rõ ràng nên có thể lập nên đại nghiệp. Ngoài ra, người này tính tình quyết đoán, có khả năng làm lãnh đạo nên thường giữ chức vụ cao trong tập thể.
Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 9   Tiền vận vất vả, tài lợi khó tụ nhưng trung vận chuyển biến tích cực, có thể đại phát, đời sống vật chất dư giả.   Người tuổi Tuất sinh ngày mùng 10   Người này thông minh nhanh nhẹn, có khả năng tùy cơ ứng biến khéo léo, lối sống phóng khoáng, tràn đầy nhiệt huyết nên được nhiều người yêu mến và dễ dàng gặt hái được thành công trong sự nghiệp và cuộc sống.   Người tuổi Tuất sinh ngày 11   Người tuổi Tuất sinh ngày 11 có tính cách thẳng thắn, ăn to nói lớn, một khi đã nói là nhất định sẽ làm cho bằng được. Tuy nhiên, người này dễ bị ngoại cảnh tác động, nếu không tỉnh táo sẽ bị kẻ xấu lợi dụng hoặc lừa gạt tiền bạc.    Người tuổi Tuất sinh ngày 12   Tiền vận không thuận lợi, trung vận khởi sắc và dần có xu thế ổn định. Sau khi lập gia đình, cuộc sống an nhàn và yên ổn hơn, con cái đầy nhà, sau này hưởng phúc lộc từ con cháu.   Người tuổi Tuất sinh ngày 13   Người này đa tài, có năng lực thực thụ nhưng lại không gặp may mắn trong cuộc sống. Số phải sống xa quê hương, bôn ba khắp nơi để cầu tài.   Người tuổi Tuất sinh ngày 14   Người này số không được gia đình hậu thuẫn, tiền vận vất vả, trung vận chuyển biến tích cực, có thể tay trắng lập nghiệp.   Người tuổi Tuất sinh ngày 15   Người tuổi Tuất sinh ngày 15 thông minh hiếu học và đa tài nhưng lại sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, không được cha mẹ hậu thuẫn mà phải tay trắng lập nghiệp.   Ngân Hà (Theo XZ360)  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem ngày sinh đại cát cho người tuổi Tuất (P1)

4 chòm sao không bao giờ chịu ngồi yên

Trong 12 cung hoàng đạo, những chòm sao thích di chuyển nhất là những người luôn hướng tới sự hoạt động và không bao giờ chịu ở yên một chỗ.
4 chòm sao không bao giờ chịu ngồi yên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 cung hoàng đạo, những chòm sao thích di chuyển nhất là những người luôn hướng tới sự hoạt động và không bao giờ chịu ở yên một chỗ.


4 chom sao khong bao gio chiu ngoi yen hinh anh
 
Nhân Mã  

Trong 12 cung hoàng đạo, Nhân Mã chính là chòm sao thích di chuyển nhất. Đố bạn có thể giữ chân cậu ấy ở một nơi, sống yên lặng trong một ngày đấy. Cậu ấy cũng là người của chủ nghĩa dịch chuyển nên luôn muốn đi xa, khám phá những miền đất lạ. Cuộc đời của Nhân Mã chính là những chuyến đi. Và càng đi, Nhân Mã càng thấy mình còn thiếu nhiều hiểu biết nên càng khoái di chuyển hơn nữa. Chỉ cần dừng lại một chút, cậu ấy đã thấy cuồng chân và luôn coi chuyện ngủ, nghỉ là điều vô vị, phí thời gian.
 
Bạch Dương

Mức độ di chuyển có thể “khiêm nhường” hơn Nhân Mã một chút nhưng Bạch Dương lại là chòm sao vận động không ngừng. Trong người của cậu ấy lúc nào cũng tràn trề năng lượng. Vì thế, nếu không được vận động để giải phóng chúng, Bạch Dương sẽ thấy ấm ức, cuồng chân, bức bối vô cùng. Con người này có thể ở nhà một mình nhưng không ai đảm bảo căn nhà ấy có thể gọn gàng, bình yên như ban đầu nữa. 
 
Song Tử 

Song Tử là chòm sao rất ham vui. Bạn có thể thấy cậu ấy ở bất cứ chỗ nào huyên náo, đông người. Và Song Tử luôn luôn là người nổi bật nhất trong đám ấy. Tuy không “sáng như một vì sao” nhưng cậu ấy lại là kẻ nói nhiều và to mồm nhất. Song Tử chuyên làm hoạt náo viên, chạy lăng xăng mọi chỗ khuấy động phong trào. Với một người năng nổ như thế, chuyện luôn thấy cuồng chân cũng là điều dễ hiểu thôi.
 
Thủy Bình 

Với Thủy Bình, chính xác phải gọi là người luôn thấy cuồng tay. Con người này có thể không hay đi nhưng tay chẳng thể để yên được một chỗ. Cậu ấy còn phải dùng nó để liên tục ghép, nối, sáng tạo các sản phẩm khoa học mà. Nếu chẳng có dụng cụ gì để làm nên món đồ công nghệ nào đó, Thủy Bình cũng giống Bạch Dương sẽ xông ngay vào bếp, bới tung tủ đồ rồi xào xào, nấu nấu món ăn với quyền tác giả thuộc về mình.
Theo Mật ngữ 12 chòm sao
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 chòm sao không bao giờ chịu ngồi yên

Những câu nói hay nhất về đạo đức con người

Những câu nói hay nhất về đạo đức con người. Tuyển tập những câu nói hay về đạo đức con người của nhiều tác giả. Cùng tham khảo bài viết nhé!
Những câu nói hay nhất về đạo đức con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu nói hay nhất về đạo đức con người. Tuyển tập những câu nói hay về đạo đức con người mà chúng tôi sưu tầm được từ các nhà thơ, nhà văn, nhà triết học nổi tiếng trên thế giới. Các bạn hãy cùng đọc, cảm nhận và suy ngẫm về những gì gửi gắm qua các câu nói hay về chuẩn mực đạo đức con người này nhé.

Những câu nói hay nhất về đạo đức con người

1. Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức.

——

2. Không bao giờ có một người thực sự vĩ đại mà lại không phải là một người thực sự đạo đức.

——-

3. Tri thức trong đầu và đạo đức trong tim, thời gian cống hiến để nghiên cứu và lao động thay vì hình thức và lạc thú, đó là cách để trở nên hữu dụng, và nhờ vậy, có được hạnh phúc.

——–

4. Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh.

——-

5. Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức.

6. Giáo dục là nghệ thuật biến con người thành có đạo đức.

7. Tôi phản đối mọi học thuyết tôn giáo không phù hợp với lý trí và xung đột với đạo đức.

8. Đạo đức là những hành động mà một người làm để hoàn thiện tính cách nội tâm của mình.

9. Một người chỉ thực sự có đạo đức khi anh ta phục tùng sự thôi thúc muốn giúp tất cả mọi sinh mệnh anh ta có thể giúp được và lùi lại không làm tổn thương tới bất cứ sinh linh nào.

10. Xuất thân và sự giàu sang kết hợp cùng nhau đã thắng thế đạo đức và tài năng trong mọi thời đại.

11. Sự khác biệt giữa người có đạo đức và người có danh dự là người sau hối tiếc hành động nhục nhã, ngay cả khi nó thành công và anh ta không bị bắt quả tang.

12. Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.

13. Có lẽ chẳng có hiện tượng nào chứa nhiều cảm xúc tiêu cực như sự phẫn nộ vì đạo đức, nó cho phép ghen tị được hoành hành dưới vỏ bọc của đức hạnh.

14. Con người cần ít đổ rắc rối của mình lên môi trường xung quanh, và học cách thể hiện ý chí – trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực niềm tin và đạo đức.

15. Người không có đạo đức giống như con thú hoang bị thả rông vào thế giới.

16. Chuẩn mực đạo đức tự biến đổi phù hợp với điều kiện môi trường.

17. Đừng làm việc trái đạo đức dưới cái cớ đạo đức.

18. Không có nhận thức nào về đạo đức lại không dẫn tới điều gì đó bất tiện.

19. Một người có danh dự nếu anh ta giữ mình kiên trì theo đuổi lý tưởng về đạo đức cho dù nó bất tiện, không đem lại lợi lộc hoặc thậm chí là nguy hiểm.

20. Mọi vấn đề đều liên quan tới một mặt là xúc cảm, và mặt khác là đạo đức. Trò chơi của tư duy là trước sự hiện diện của một trong hai mặt, phải tìm được mặt còn lại: được trao mặt trên, đi tìm mặt dưới.

21. Con người bình đẳng; không phải sự sinh ra mà là đức hạnh mới tạo nên sự khác biệt.

22. Nhận thức về cái đẹp mà một bài kiểm tra đạo đức.

23. Đức hạnh là cuộc chiến, và để sống trong nó, chúng ta luôn phải chiến đấu với bản thân mình.

24. Mức cao nhất có thể đạt được của văn hóa đạo đức là khi chúng ta nhận ra mình phải kiểm soát suy nghĩ của mình.

25. Khi luật pháp trở nên bạo ngược, đạo đức bị buông thả, và ngược lại.

26. Đạo đức là một sự xa xỉ riêng tư và tốn kém.

27. Tôi sẽ cho anh định nghĩa về đạo đức: Luôn tốt khi duy trì và nuôi dưỡng cuộc sống, luôn xấu khi gây thương tổn và phá hủy cuộc sống.

28. Đạo đức không gì hơn là lòng tôn kính cuộc sống.

29. Đạo đức ở tất cả mọi quốc gia là sản phẩm của pháp luật và chính quyền; chúng không phải Châu Phi, Châu Mỹ hay Châu Âu: chúng tốt hoặc xấu.

30. Thứ tốt vừa phải chẳng tốt được như người ta nghĩ. Biết kiềm chế tâm tính luôn là đức tốt; nhưng kiềm chế nguyên tắc đạo đức luôn là xấu xa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu nói hay nhất về đạo đức con người

Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Những cô gái có vầng trán cao, đôi mắt to, ngón tay dài... khá tài hoa, thông minh, thuận lợi và trong chuyện tình cảm. 1. Trán cao, rộng và đầy Nếu phái nữ có trán cao, nhẵn và rộng thì rất có thể sẽ được gả vào nhà giàu có. Người có trán cao rất tà
Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mạo phụ nữ thế nào thì sẽ gặp may mắn –

Không những học nói mà còn phải học cách ngừng nói

Cổ nhân xưa vẫn có câu dạy chúng ta rằng “Nên uốn lưỡi 7 lần trước khi nói”. Thế nên, học nói không những quan trọng mà ta nên biết nói sao cho chừng mực
Không những học nói mà còn phải học cách ngừng nói

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cổ nhân xưa vẫn có câu dạy chúng ta học nói rằng: “Nên uốn lưỡi 7 lần trước khi nói”. Quả thật, ngôn ngữ dùng để biểu đạt cảm xúc, là công cụ để biểu lộ suy nghĩ, thế nhưng nó cũng có thể tạo ra những lời nói không phù hợp, vô nghĩa hoặc không cần thiết, dẫn đến phiền não không đáng có.

Vương Dương Minh là một nhà tư tưởng học nổi tiếng vào thời Minh. Trong một lần cùng với các đệ tử ra ngoài dạo chơi, ông thấy trên đường có hai người đang cãi nhau, một người nói: “Ngươi thật không có đạo lý”; người kia phản bác: “Ngươi thì không có lương tâm!”

Một vị đệ tử liền quay ra nói với thầy rằng: “Thầy nghe xem, bọn họ đang giảng đạo”.

Vương Dương Minh nói: “Không phải, họ đang mạ lỵ người khác”.

Dùng thiên lý, lương tâm yêu cầu chính bản thân thì là giảng đạo, còn áp đặt yêu cầu lên người khác thì chính là đang mạ lỵ người ta. Khi giao tiếp với mọi người, lời chúng ta nói ra chính là một cách tu hành thâm nhập thực tế, những lời nói tốt đẹp chính là hành động thiện lành nhất. Vì thế người nói, người nghe hay người ngoài cuộc mà vô tâm khiêu khích cũng sẽ tạo ra một sự ác ý tuần hoàn. Vì vậy, có thể nói tin đồn sẽ dừng ở người khôn ngoan. Khi mọi người ở cùng với nhau, không nên vì những lời nói tức thời bộc phát mà làm mất đi thiện duyên khó có được này.

Ngôn ngữ dùng để biểu đạt cảm xúc, là công cụ để biểu lộ suy nghĩ, thế nhưng nó cũng có thể tạo ra những lời nói không phù hợp, vô nghĩa hoặc không cần thiết, dẫn đến phiền não không đáng có.

Socrates – một triết học gia người Hy Lạp cổ rất giỏi về diễn thuyết, ông thường hay dạy mọi người cách làm thế nào để trò chuyện. Một hôm, có một thanh niên đến và nhờ ông dạy những kỹ năng diễn thuyết, bàn về tính trọng yếu của diễn thuyết như thế nào.

Sau một thời gian dài chờ đợi chàng thanh niên nói xong, Socrates tỏ ý muốn thu tiền học phí của anh gấp đôi, anh ta hỏi nguyên nhân tại sao. Socrates trả lời:

Bởi vì, ngoài việc dạy anh diễn thuyết, tôi còn phải dạy thêm anh cách để ngừng nói”.

Cổ nhân xưa có câu: “Nhất ngôn chiết tận bình sinh phúc” – Cẩn trọng khi nói chính là điểm mấu chốt của tu thân.

Mục đích của lời nói là để diễn đạt những lời yêu thương dễ nghe cho nhau. Thế nhưng, trong những cuộc nói chuyện hàng ngày, có rất nhiều từ ngữ chúng ta cần thực sự phải chú ý, ví dụ:

“Là tôi bảo anh ta đến” – tại sao lại không nói: “Là tôi mời anh ta đến”?

“Hãy nghe tôi đi” – tại sao lại không nói là: “Chúng ta cùng bàn bạc nhé”.

“Bạn đừng có hối hận đấy” – tại sao lại không nói là: “Bạn có muốn suy nghĩ thêm không?”

“Bạn hãy cẩn thận cho tôi” – tại sao lại không nói là: “Có lẽ vẫn cứ nên cẩn thận một chút thì tốt hơn”…

Cùng là một hàm nghĩa nhưng tại sao cứ phải thêm vào những lời khó nghe? Như vậy, không những khiến cho đối phương cảm thấy không vui, mà còn dễ dẫn đến hiểu lầm, quả thực là không xứng với nét đẹp của những người có văn hóa.

Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm khi đăng ngôi Hoàng đế, muốn coi bói quẻ xem ngôi Hoàng đế này sẽ được truyền đến bao đời, kết quả là chỉ có một chữ “Nhất” (một). Vũ Đế rất không vui, quần thần đều sợ hãi mặt tái xanh, không ai dám nói câu gì. Đúng lúc đó, thị trung Bùi Khai đã tiến lên trước và nói: “Vi thần nghe nói, trời có một sẽ thanh minh, đất có một sẽ an bình, hầu vương có một sẽ có được sự ủng hộ trung thành của quần dân”. Chỉ một câu nói ngắn gọn như vậy đã khiến Vũ Đế từ lo lắng chuyển sang vui mừng, quần thần từ đáy lòng đều cảm phục Bùi Khai.

Bất cứ việc gì bạn nhìn thấy cũng có thể chỉ là vẻ bề ngoài chứ chưa phải là thực chất, không nhất định là đúng. Có thể nắm rõ những kỹ năng khi nói chuyện, vào những lúc thích hợp, bạn sẽ có thể biến nỗi buồn thành niềm vui, hoá thối nát thành thần kỳ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Không những học nói mà còn phải học cách ngừng nói

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, Tuổi ngọ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016, tu vi Tuổi ngọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016

Bạn đang là người độc thân và mong muốn sẽ cập bến tình yêu trong năm 2016. Cùng 12 điềm danh top những con giáp có số dễ kết hôn trong năm Bính Thân này nhé.

1. Người cầm tinh con Ngựa

Trong năm 2016 vận khí của người tuổi Ngọ rất hanh thông, việc gì cũng thuận buồm xuôi gió, đặc biệt là đường tình duyên lại khởi sắc mạnh mẽ.

Chỉ cần những chàng trai, cô gái tuổi Ngựa chịu thay đổi sở thích “xê dịch” của mình, dành nhiều thời gian quan tâm tới đối phương, tình yêu ắt thăng hoa tột độ, tỉ lệ kết hôn cao ngất ngưởng.

top-4-con-giap-de-ket-hon-trong-nam-2016

2. Người cầm tinh con Rắn

Trong danh sách con giáp kết hôn năm 2016, chắc chắn có người tuổi Tỵ. Tuổi tác và những điều kiện về công việc, kinh tế của những con Rắn rất phù hợp cho chuyện hôn nhân.

Theo tử vi năm 2016 , những ai đã có “gấu” cần thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ để tạo bước đột phá và hai bạn có thể hợp pháp hóa “về chung một nhà”.

Ngược lại, ai còn cô đơn lẻ bóng cần nắm bắt mọi cơ hội để tìm tình yêu đích thực cho mình. Chính bạn, người trong cuộc, cũng phải bất ngờ với tốc độ phát triển tình cảm đôi bên, thậm chí một đám cưới rình rang sẽ được diễn ra vào nửa cuối năm 2016.

3. Người cầm tinh con Hổ

Trong năm 2016 người tuổi Dần bước sang tuổi 30. Lúc này công danh sự nghiệp của người tuổi Dần cũng “hòm hòm”, có được những thành công bước đầu trong cuộc sống.

Vậy còn chần chừ gì nữa, hãy tính chuyện hôn nhân càng sớm càng tốt, kẻo “cái tuổi nó đuổi xuân đi”, bù đầu bù óc phấn đấu đến khi nhìn lại vẫn chỉ có một mình lẻ bóng.

4. Người cầm tinh con Dê

Đối với người tuổi Mùi có thể nói, họ vừa thoát khỏi áp lực trong năm tuổi. Bính Thân chính là năm mở màn cho những dự định lớn lao trong cả sự nghiệp và tình cảm của con giáp này.

Tới giờ, bạn đã đủ chín chắn để có thể chịu trách nhiệm về bản thân mình cũng như gánh vác cuộc sống cho một gia đình bé nhỏ. Tuy không phải vội vàng đưa ra quyết định hôn nhân đại sự, nhưng nếu tình cảm đã “chín muồi”, bạn cũng không nên do dự mà bỏ lỡ cơ hội được cùng người ấy đi tới tận đầu trời cuối đất.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp dễ kết hôn trong năm 2016 - Tuổi ngọ - Xem Tử Vi

Những điều cần chú ý khi trang trí nội thất ở Huyền quan –

Huyền quan phòng khách thiết kế tinh tế đẹp mắt sẽ khiến bạn cảm thấy vui vẻ và tinh thần sảng khoái hơn. Muôn tạo được một Huyền quan tốt, có thể phát huy được hết công dụng của nó thì phải chú ý đến các yếu tố kị và hợp tạo thành Huyền quan trong p

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

hong thuỷ. Khi trang trí nội thất ở Huyền quan cần chú ý:

–  Bài trí Huyền quan:

+ Màu sắc của trần ở Huyền quan phải thanh nhã, nhẹ nhõm, nên dùng gam màu nhạt như màu lam nhạt, xanh da trời, trắng sữa, xám nhạt, vàng nhạt… làm màu chủ đạo. Đôi xứng với tấm trần là mặt nền nhà cần phải mang màu đậm hơn một chút.

+ Phần lớn Huyền quan của nhà ở đều ít ánh sáng tự nhiên, vì vậy gạch hoa lát sàn và thảm nên có màu sắc sáng sủa, ngoài ra cần bô” trí hệ thông đèn chiếu sáng.

Các loại đèn ở khu vực huyền quan nên chọn những đèn có hình dạng tròn, hình vuông, rất kị đèn hình tam giác. Sự sắp xếp các đèn trang trí ở Huyền quan cũng nên lấy hình vuông hoặc hình tròn làm chủ đạo, không nên bô” trí thành hình tam giác Vì nếu sử dụng đèn hình tam giác hoặc xếp các đèn thành hình tam giác thì sẽ tạo thành bô” cục “Lộng xảo thành chuyết” (biến khéo thành vụng), không có lợi, không mang đến phúc lành cho người sống trong nhà. Tốt nhất là nên trang trí thành hình vuông hoặc hình tròn bởi hình tròn tượng trưng cho sự đoàn viên thuận hoà, hình vuông tượng trưng cho sự bằng phẳng, ổn định.

huyen-quan-2

+ Nên làm sàn cho khu Huyền quan bằng một tấm thuỷ tinh mờ có độ dày, nặng hoặc sàn gỗ có màu sắc sáng và không có hoa văn.

+ Huyền quan phải luôn giữ được sự ngăn lắp, sạch sẽ. Nếu Huyền quan đặt quá nhiều đồ vật rối rắm, phức tạp thì không những làm cho Huyền quan trở nên luộm thuộm mà còn ảnh hưởng đến phong thuỷ ngôi nhà.

+ Nếu dùng loại tấm thủy tinh mờ nửa thấu quang làm vật liệu ngăn cách thì vừa có tác dụng ngăn chia khoảng không gian lại vừa có tác dụng không hoàn toàn che khuất tầm nhìn, vẫn có cảm tưởng trước mặt là không gian mở như vậy vừa có tác dụng ngăn không cho khí từ ngoài cửa xộc thẳng vào phòng khách lại làm cho ta không có cảm giác Huyền quan quá chật hẹp.

–   Tường ngăn:

+ Tường ngăn phải đạt được các yêu cầu sau: Đối với những Huyền quan đôi diện với cửa chính, nửa dưới của tường thích hợp với sử dụng gạch ốp tường hoặc gỗ lát, nửa trên có thể dùng thuỷ tinh để trang trí, tạo ra độ trong mà lại không quá lộ.

+ Màu sắc tường phải đậm nhạt vừa phải. Các chất liệu ở Huyền quan bất kể là gỗ, gạch men sứ hay chất liệu đá đều phải có màu sáng, không quá đậm để tránh tạo sự nặng nề, không có sức sông.

Sự phối hợp tốt nhất ở Huyền quan là: Trần nhà ở trên đỉnh Huyền quan có màu nhạt nhất, khu vực sàn của Huyền quan có màu đậm nhất và màu sắc ở phần giữa nên là sự kết hợp hài hoà, trung tính giữa hai phần trên để tạo sự điều tiết hoà hợp giữa hai phần.

+ Huyền quan phải có sự bằng phẳng: Huyền quan là lối vào chính của ngôi nhà. Tường Huyền quan và sàn nhà không được tạo ra bất kỳ trở ngại nào cho sự lưu thông của khí. Do đó, ở Huyền quan tránh bài trí bất kì miếng đá nào có tính trồi lên, nổi nên phía trên.

–  Bố trí sàn nhà:

+ Sàn nhà ở khu vực Huyền quan thích hợp có độ bằng phẳng: Một sàn nhà bằng phẳng sẽ làm cho dương trạch được lưu thông dễ dàng, hơn nữa lại tránh vấp ngã cho bề mặt gồ ghề. Xét từ góc độ an toàn, sàn nhà bằng phẳng có thể tránh bị trượt chân ngã. Bởi thế, phần sàn nhà chỗ Huyền quan phải bằng phẳng, không nên phân tầng lớp. Đồng thời sàn nhà mà bằng phẵng cũng là một trong những điều kiện của thoáng khí trong ngôi nhà.

+ Màu sắc sàn nhà ở Huyền quan nên theo gam màu đậm, sẫm. Màu sẫm tượng trưng cho sự dày dặn, có chiều sâu. Màu sắc sàn đậm sẽ tượng trưng cho căn cơ của ngôi nhà bền vững, chắc chắn. Nếu muốn sáng hơn thì có thể sử dụng đá màu sẫm ốp xung quanh, còn ở giữa thì sử dụng đá màu nhạt hoặc đá có gam màu sáng hơn. Nếu sử dụng thảm trải sàn thì cũng theo nguyên lý trên để tiến hành.

+ Hoa văn trang trí sàn Huyền quan kị sử dụng hoạ tiết có hình dáng sắc nhọn đâm thẳng ra cửa. Hoa văn trang trí phòng có rất nhiều mẫu mã đa dạng phong phú, nhưng nên chọn hoạ tiết mang tính cát lành, tránh chọn những loại có quá nhiều cạnh sắc nhọn, đặc biệt tuyệt đôi tránh cho những cạnh này hướng thẳng ra cửa lớn.

+ Vân gỗ lát sàn không nên hướng ra cửa lớn. Gỗ lát sàn ở khu vực Huyền quan bất kể là loại gỗ nào thì khi sắp xếp nên hướng cho các đường vân gỗ hướng vào trong nhà với ý nghĩa nước chảy vào nhà. Nếu các đường vân gỗ hướng thẳng ra cửa thì không tạo ra cát lành.

+ Sàn nhà khu vực Huyền quan kị quá trơn, nhiều gia đình vì mục đích làm đẹp cho Huyền quan nên đã làm cho sàn nhà ở đây quá bóng, quá trơn. Điều này lại tạo ra tác dụng ngược lại, nếu chỉ nhìn từ góc độ an toàn đã thấy không có lợi vì nó gây ra sự trơn trượt, dễ ngã cho người sông trong nhà và cho khách khứa khi bước qua cửa.

+ Hệ thống đường nước cũng không nên đi qua khu vực cửa và khu Huyền quan vì nếu Huyền quan bị nhiễm bẩn sẽ rất bất lợi cho sức khoẻ của mọi người trong nhà.

–  Bài trí các tượng Thổ địa thần tài:

+ Biện pháp thích hợp nhất là bày tượng thần thánh riêng rẽ độc lập, đôi diện với cửa ra vào ở trên tủ Huyền quan. Tủ Huyền quan có thể sử dụng tủ đựng giày dép hoặc tủ đựng đồ, và có thể kết hợp với khung cảnh xung quanh thì màu sắc bên ngoài cửa tủ phải hài hoà với khung cảnh. Các tủ bày tượng thần thánh nên chọn tủ có màu đỏ.

Các tượng thần tài thường phân ra hai loại rõ ràng là tượng văn và tượng võ. Tượng võ như tượng thánh Quan Công hay tượng nguyên sư Triệu Công Minh đều thích hợp bày ở đây, còn các tượng quan văn như tượng Tam tinh Phúc, Lộc, Thọ, tượng Thái Thượng Tinh Quân nếu bày đốì diện cửa chính lại không thích hợp. Nếu bày các tượng quan văn hướng vào trong nhà thì nên cẩn thận không để cho các tượng này hướng trực tiếp vào nhà vệ sinh hay bể cá, vì như vậy sẽ tạo nhiều bất lợi cho ngôi nhà

–  Bố trí cây xanh, cây cảnh:

+ Những cây có hình dáng đẹp, xanh tốt, đặc biệt là những giò hoa lan rất thích hợp đặt ở Huyền quan. Nếu Huyền quan có hình dáng không đẹp, lôi đi nhỏ, chật hẹp thì bô” trí những cây nở hoa thông thường sẽ phù hợp hơn là chọn những cây có hình dáng đặc biệt. Ngoài ra, có thể trồng cùng một loại cây, hoa cho khu Huyền quan và phòng khách để tạo một mối liên hệ và hài hoà cho hai khu vực không gian này.

+ Sắp đặt cây xanh cho khu Huyền quan sẽ làm xanh hoá khung cảnh trong nhà, làm tăng thêm sinh khí nhưng phải chú ý chọn những cây có cành lá xanh tốt, quanh năm xanh tươi như cây tiết ngọc lan, cây phát tài, hoàng kim cát. Ngược lại những loại cây có cạnh sắc nhọn như xương rồng, hoa hồng, đỗ quyên đều không nên trồng, đặt ở Huyền quan, cần chú ý chăm sóc cho cây luôn giữ được trạng thái xanh tươi, đầy sức sông, nếu cây bị vàng úa, khô héo thì phải thay bằng cây khác ngay.

–   Chọn lựa các vật trang trí:

Nhiều gia đình cho rằng nên chọn các đồ vật có linh tính mạnh mẽ, tinh anh như sư tử, đại bàng để trấn giữ ở ngoài cửa và làm thần bảo hộ cho ngôi nhà. Điều này có thể được nếu chúng không xung khắc với sinh tiếu của chủ nhà. Bạn có thể chọn được con vật trang trí ưng ý mà không bị xung khắc thông qua bảng Các con vật khắc với 12 sinh tiếu dưới đây:

Tuổi của chủ nhà

Con vât ki, cần tránh

Ngựa

Sửu

Dần

Khỉ

Mão

Thìn

Chó

Tỵ

Lợn

Ngọ

Chuột

Mùi

Trâu

Thân

HỔ

Dâu

Mèo

Tuất

Rồng

Hơi

Rắn

 

–  Bố trí sắp đặt gương ở Huyền quan:

Thông thường, treo gương ở Huyền quan là để cho chủ nhà và khách sửa sang lại dung nhan, áo quần chỉnh tề trước khi ra ngoài hay vào nhà và cũng tạo cho Huyền quan cảm giác rộng rãi và sáng sủa hơn, nhưng nếu gương chiếu thẳng ra cửa chính thì sẽ không có lợi. Trần nhà của Huyền quan cũng không nên lát bằng gương, kính vì gương ở phía trên sẽ phản xạ lại và khi bước vào nhà chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh của bản thân bị đảo ngược, như vậy không tốt và không hợp với phong thuỷ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những điều cần chú ý khi trang trí nội thất ở Huyền quan –

Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Sao Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh, một trong những hung tinh của Huyền Không Phi tinh, nên cẩn trọng khi lập tinh bàn chọn đất xem nhà.
Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh, một trong những hung tinh của Huyền Không Phi tinh, nên cẩn trọng khi lập tinh bàn chọn đất xem nhà.


► ## giúp bạn tra cứu lá số tử vi trọn đời chuẩn xác

Luan cat, hung cua sao That Xich khi ket hop trong Cuu tinh hinh anh
 
Sao Thất Xích nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm. Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc.
 
Thất Xích là hung tinh vì vậy nên tĩnh mà không nên động. Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn. Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan đầu thì sẽ có các biểu hiện như:
 
- Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng cái kìm thì trong nhà có người làm thợ thủ công.
 
- Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch.
 
- Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp.
 
- Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng.
 
Thất Xích gặp Nhất Bạch là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì Thủy Kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản.
 
Sao Thất Xích gặp Nhị Hắc là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý. Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị.
 
Thất Xích gặp Tam Bích khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp. Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán. Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai.
 
Thất Xích gặp Tứ Lục khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yểu.
 
Thất Xích gặp Ngũ Hoàng là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa.
 
Thất Xích gặp Lục Bạch tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt.
 
Thất Xích gặp Thất Xích tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai.
 
Thất Xích gặp Bát Bạch là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật.
 
Sao Thất Xích gặp Cửu Tử là khắc nhập. Nếu vượng thì Hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn. Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càng nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn. Nếu Loan đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai.
ST
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận cát, hung của sao Thất Xích khi kết hợp trong Cửu tinh

Phong thủy nhà bếp: Nên và không nên

Theo quan niệm phong thủy của người xưa, bếp đóng một vai trò quyết định sự thịnh vượng, nguồn tài lộc của cả gia đình. Việc bày biện bếp ra sao, đặt bếp hướng nào thì hợp theo quan niệm phong thủy là việc không hề xưa cũ…

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nói đến phong thủy nhà bếp nhiều người coi đó là việc mê tín dị đoan. Thế nhưng, nếu chú ý kỹ sẽ thấy đây là điều rất có khoa học mà ông cha ta phải trải qua cả ngàn năm mới đúc kết được, nó thuộc về khoa học thống kê.


Việc bày biện căn bếp quyết định đến sự thịnh vượng và nguồn tài lộc của gia đình.

Việc đặt bếp theo phong thủy không quá khó, nếu bạn nắm được những bí quyết sau:

Theo đó, bạn không nên đặt bếp đối diện với cửa nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh là nơi có chứa nhiều vi trùng có hại rất dễ lây bệnh cho người qua đường ăn uống.

Hướng cho bếp phải hợp với cung bổn mạng, toạ hung mà hướng cát. Hoả môn (của bếp) cần đặt ở hướng lành vừa trấn áp được khí hung vừa hút được khí lành. Nó sẽ giúp cho tài lộc của gia chủ hưng vượng.

Bếp cũng không nên đặt hướng sát so với nhà. Bếp đặt ở hướng sát thường làm thận suy, mắt kém, bị bệnh huyết áp hay bị phong tà gây lở ngứa.


Không nên đặt bếp đối diện nhà vệ sinh.

Nếu nhà bạn ở hướng Đông thì sát ở cung Thân, nhà hướng Tây thì sát ở cung Tỵ, hướng Nam thì sát ở cung Hợi, hướng Bắc thì sát ở cung Thìn, hướng Đông-nam thì sát ở cung Dậu, Tây bắc thì sát ở cung ngọ…

Nên nhớ tránh đặt bếp gần phòng ngủ hoặc đối diện với phòng ngủ. Bếp là nơi nấu nướng, thường xuyên sinh nhiệt. Khi đun nấu, khói dầu mỡ sinh ra từ bếp rất độc hại, không tiện để gia chủ nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Cũng không nên đặt ở góc tường hoặc góc nhọn, ngoài trường hợp bất khả kháng.

Muốn thức ăn nấu ra luôn ngon thì bạn nên đặt bếp ở hướng Thiên y, tất nhiên là có phần đóng góp của tay nghề nấu nướng của các nội tướng. Đặc biệt, đặt bếp theo hướng này có lợi cho sản phụ.


Đặt bếp ở hướng Thiên y rất tốt cho sản phụ.

Bạn cũng cần tránh đặt bếp ngay dưới xà ngang. Bởi xà ngang áp trên bếp chủ hao tài tốn của. Vị trí gian bếp nên đảm bảo ánh sáng hài hoà, tránh bị quá ẩm thấp, tối tăm, phải có cửa thông gió, khử mùi để không khí lưu thông.

Theo phong thủy, thế bếp còn phải tránh gió, tránh những nơi có đường đi nếu không gia chủ sẽ gặp bất lợi về tài lộc. Bếp cần được đặt ở cung tương hợp và cung sơn chủ (mặt hậu của nhà) nên phải được đặt ở vị trí trong cùng của nhà. Cửa vào bếp phải tương hợp với nơi đặt bếp thì tài lộc của gia chủ sẽ phát, gia đình thịnh vượng.


Đặt bếp ở nơi có đường đi gây bất lợi về đường tài lộc cho gia chủ.

Màu sắc gian bếp phải hài hoà. Dưới bếp không nên để đọng nước. Bởi thủy hoả đạo tặc, nước để đọng dưới bếp khiến cho gia chủ dễ mắc bệnh thần kinh, khí huyết, bị rối loạn tâm lý, đặc biệt không tốt cho nhà có phụ nữ mang thai. Nếu bạn chưa có em bé thì đường con cái rất khó khăn dù cả hai không hề mắc bệnh gì về vấn đề sinh sản.


Nhà bếp không thông thoáng, động nước gây ra nhiều bệnh tật cho gia chủ.

Bếp cũng không nên đặt trên giếng nước, hầm rút. Đặt bếp ở những vị trí này gia chủ và người thân thường hay ốm đau, thường mất hoà khí trong nhà.

Trong những ngôi nhà hiện đại, bếp thường kết hợp cùng máy hút khói, bồn rửa chén. Bạn cần đặt máy hút khói ngay trên bếp. Còn bồn rửa chén thì không được cao hơn bếp, cách xa nơi đỏ lửa ít nhất 60 cm.

(Theo Eva)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà bếp: Nên và không nên

Kiêng kỵ bếp ga và bồn nước cạnh nhau hoặc đối nhau –

Hiện tượng: Bếp ga và bồn nước cạnh nhau hoặc cách nhau không đến 60cm, hoặc bếp ga và bồn nước chính đối nhau, về phong thủy mà nói, thủy hỏa tướng khắc, bất cát. Phương pháp hóa giải: Phương pháp hóa giải là điều chỉnh vị trí của bồn nước và bếp ga

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Bếp ga và bồn nước cạnh nhau hoặc cách nhau không đến 60cm, hoặc bếp ga và bồn nước chính đối nhau, về phong thủy mà nói, thủy hỏa tướng khắc, bất cát.

8-meo-lam-sach-nha-tam-hieu-qua-ma-tiet-kiem-4

Phương pháp hóa giải: Phương pháp hóa giải là điều chỉnh vị trí của bồn nước và bếp ga để chúng không đối nhau hoặc điều chỉnh chúng xa nhau chút nữa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ bếp ga và bồn nước cạnh nhau hoặc đối nhau –

Mơ thấy bị chó cắn –

Mơ thấy mình đánh chó, chửi chó vừa có thể chỉ sự tức giận, khó chịu với một ai đó, vừa có thể phản ánh cảm giác tự tin, thất vọng vì bản thân. Loài động vật quen thuộc này là một hình tượng có thể chỉ ra nhiều điều. Ý nghĩa của giấc mơ phụ thuộc và
Mơ thấy bị chó cắn –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bị chó cắn –

Những nguyên tắc cần biết khi trang trí nội thất

Trang trí nội thất là khâu quan trọng làm cho tổ ấm của bạn hoàn thiện hơn. Mời bạn tiếp tục tham khảo những lưu ý sau đây để tránh mắc lỗi khi trang trí nội thất.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chọn đồ không ăn nhập gì với nhau

Một trong những sai lầm lớn nhất mà mọi người hay mắc phải trong trang trí nội thất là không hiểu về tầm quan trọng của kích thước và tỉ lệ. Những vật dụng để trong phòng như bàn, ghế hay tủ nên có kích cỡ tương đồng với nhau. Nếu bạn chọn chiếc bàn to quá khổ so với ghế ngồi hay các thứ quá nhỏ so với không gian căn phòng thì sẽ khiến mọi thứ mất cân bằng.

Mất tiền để dùng giấy dán tường kín hết phòng

Mọi người thường nghĩ họ cần phải dùng giấy dán hết tường của căn phòng, nhưng thực tế, điều đó không những gây lãng phí mà còn khiến không gian căn phòng trở nên chật hẹp hơn vì những họa tiết của giấy dán tường. Tốt nhất bạn chỉ nên chọn nơi để dùng giấy dán tường sao cho nó trở thành điểm nhấn của căn phòng mà không gian trong đó vẫn tạo cảm giác thông thoáng.

Không để ý xem cảnh quan ngoài trời như thế nào

Một điều quan trọng nữa là cần phải trang trí căn phòng sao cho phù hợp với môi trường bên ngoài. Ví dụ, nếu nhà bạn ở vùng khí hậu nóng quanh năm thì đừng ngại ngần bỏ bớt một số đồ đạc không cần thiết để căn phòng thoáng mát hơn, hay nếu ngoài trời lạnh giá, hãy dùng tông màu nóng để mang lại cảm giác ấm áp cho ngôi nhà.

Cố gắng để mọi thứ "đồng bộ" với nhau

Đây cũng là một lỗi cơ bản khi mọi người suy nghĩ quá nhiều về việc chọn cái gì để "đồng bộ" với những đồ mình đã có sẵn. Hãy coi việc trang trí cho ngôi nhà giống như việc bạn lựa chọn bộ quần áo cho mình vậy. Tất cả cũng cần phải có sự kết hợp từ nhiều chất liệu, màu sắc khác nhau để tạo được điểm nhấn cho ngôi nhà. Làm vậy bạn cũng sẽ dễ dàng thay đổi phong cách hơn là khi diện cả "nguyên cây" đồng bộ.

Dùng những đồ đạc đã lỗi thời

Một ngôi nhà đẹp cần phải có nội thất hợp theo xu hướng. Nhưng không vì thế mà bạn phải thay tất cả đồ đạc trong nhà mỗi khi nghĩ đến chuyện trang hoàng lại. Chỉ cần thay chiếc chạn bếp hay tủ phòng khách cũng khiến căn phòng trở nên mới mẻ hơn rồi.

(Theo Đẹp Plus)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những nguyên tắc cần biết khi trang trí nội thất

3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

Con gái thường rất xem trọng vẻ ngoài, tuy nhiên phẩm chất lại là điều khiến bạn được yêu mến hơn. Cùng với đó thì vận may về nhân duyên cũng phần nào ảnh hưởng đến chuyện tình cảm của bạn.
3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cô nàng tuổi Thìn

Con gái tuổi Thìn tính tình nhã nhặn, cởi mở, giỏi kết thân với người khác, thường đem lại thiện cảm cho người tiếp xúc ngay từ lần đầu gặp gỡ. Mọi người thường thích gần gũi với nàng, gặp vấn đề phiền não cũng thích tìm nàng để chia sẻ. Đặc biệt là với người yêu thương, cô nàng tuổi Thìn luôn đóng vai trò lắng nghe và cho lời khuyên rất tốt. Với những phẩm chất đáng yêu này, nàng sẽ dễ dàng tìm thấy tình yêu đích thực nhờ sự hỗ trợ vận đào hoa thịnh vượng trong tháng cuối năm. Nàng có nhiều người theo đuổi và có nhiều lựa chọn lý tưởng, quan trọng là phải xác định rõ đâu là tình yêu thật sự để không bỏ lỡ nhân duyên.

3-con-giap-nu-van-dao-hoa-cuc-thinh-thang-12

Cô nàng tuổi Sửu

Trong tháng 12 này, thần tình yêu sẽ chiếu cố cô nàng tuổi Sửu, rất có thể những người bạn khác phái bên cạnh sẽ nhận ra ưu điểm của nàng và không ít tình huống nảy sinh tình cảm giữa đôi bên. Cô nàng tuổi này tính cách ổn định, xử sự lý trí và rất khéo trong đối nhân xử thế, là đại diện của mẫu người đoan trang, hiền thục, đảm đang và yêu cuộc sống gia đình. Những điểm đáng quý này sẽ được thể hiện trong mọi hoàn cảnh và giúp nàng ghi điểm trong mắt các chàng trai.

Cô nàng tuổi Mùi

Đây là kiểu con gái giống như tiểu thư trong gia đình, nàng thường đa sầu đa cảm, thiếu cảm giác an toàn nên đem lại cho người tiếp xúc một cảm giác nàng mong manh nhỏ bé và cần được bảo vệ. Khi bước vào tháng 12 năm nay, cô nàng sẽ nhận được ảnh hưởng không nhỏ từ vận đào hoa, sức hấp dẫn của bản thân tăng lên đáng kể. Với sự dịu dàng, dễ gần và đáng yêu, rất nhiều chàng trai sẽ để ý và lên chiến lược tấn công. Nếu tìm được tình yêu đích thực, họ sẽ có nhiều khả năng xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp, bền vững.

Khang Ninh (theo d1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

8 cách làm ấm nhà mà không tốn tiền điện vào ngày giá rét

Nhiều tỉnh miền Bắc đang chống chọi với những ngày giá buốt kỉ lục. Nếu không có sẵn các thiết bị làm nóng và sưởi ấm, chị em chỉ cần áp dụng một vài mẹo vặt giữ ấm nhà sau đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sử dụng rèm cửa nặng để ngăn chặn nhiệt thoát ra khỏi cửa sổ 

Khoảng 40% nhiệt từ trong nhà thoát ra vào mùa đông là từ cửa sổ. Một chiếc rèm nặng, che kín hết các phần khung cửa sẽ giảm bớt phần nhiệt ấm thoát ra bên ngoài và nhiệt lạnh tràn vào bên trong. Nếu không có sẵn rèm cửa mùa đông, bạn có thể tự treo thêm lớp rèm bằng chăn ga, quần áo.

 8 cach lam am nha ma khong ton tien dien vao ngay gia ret - 1

2. Dùng nilong có bóng khí giữ nhiệt cửa kính

Chiếc túi nilon có bóng khí hay được dùng để bảo vệ những món đồ dễ vỡ tránh bị va đập. Tuy nhiên, ít ai biết, vào mùa đông, chúng còn có thể được tận dụng làm vật cách nhiệt cửa sổ. Theo nghiên cứu, những ô cửa bằng kính dù kín tới đâu cũng ẩn chứa khả năng thoát nhiệt. Việc thoát nhiều nhiệt ra khỏi phòng làm người dùng hao tốn tiền nhiều hơn vào các vật dụng sưởi ấm hoặc điều hòa. Lớp không khí trong từng ô bong bóng sẽ là một rào cản, ngăn chặn sự mất nhiệt qua ô cửa. 

Xịt nước dạng sương lên trên bề mặt để làm ẩm ô cửa rồi dùng tay áp miếng túi bóng đã được cắt vừa vặn lên trên. Tuy trông hơi xấu xí nhưng gia đình sẽ tiết kiệm được lượng điện kha khá khi căn phòng sẽ trở nên giữ ấm vào mùa đông và mát mẻ hơn vào mùa hè.

 8 cach lam am nha ma khong ton tien dien vao ngay gia ret - 2

3. Bịt kín các khoảng trống và các vết nứt cho phép không khí lạnh ùa vào trong

Trong căn nhà có diện tích trung bình, nếu bạn không bịt kín các khe hở tương đương với việc bạn mở toang một khung cửa sổ rộng từ 1 - 1.5m trong suốt cả ngày. Chúng có thể chiếm từ 15-25% lượng nhiệt thất thoát. 

Một số khoảng trống rất dễ phát hiện như ở cửa, trên tường,...nhưng bạn cũng đừng quên các khu vực ít phát hiện hơn như nơi ống dẫn hoặc cáp đi vào tường, phía sau máy giặt , dưới tủ bếp, lỗ khóa, và xung quanh bồn rửa và bồn cầu. Bạn có thể bịt kím bằng giấy báo, túi nhựa, hoặc vớ cũ hay dùng băng dính dán chặt.

4. Đóng kín cửa thông giữa các phòng

 8 cach lam am nha ma khong ton tien dien vao ngay gia ret - 3

Một cách tuyệt vời để giữ cho nhiệt ấm ở nơi bạn muốn là giữ cho các cánh cửa đóng kín, các không gian sống không thông với nhau. Như vậy, nhiệt độ từ máy sưởi trong phòng ngủ không bị tràn sang các khu vực khác không có người sử dụng.

5. Dùng thảm trải sàn

Thảm trải sàn không chỉ là điểm nhấn cho căn phòng mà còn giúp giữ ấm cho đôi bàn chân nhỏ bé của bạn vào ngày đông. Hãy trải thảm lên trên sàn nhà bằng gạch, bằng gỗ để tránh thất thoát khoảng 10% nhiệt lượng trong nhà.

6. Treo tranh ảnh trên tường

Một lí do mà bạn cảm thấy lạnh là do bức xạ từ môi trường xung quanh. Đây là lý do tại sao nhà của bạn cảm thấy rất lạnh ngay cả khi vẫn bật máy sưởi. Mặc dù không khí nhanh chóng nóng lên, các bức tường mất nhiều thời gian để ấm dần và bạn vẫn cảm thấy rùng mình. Gạch hoặc tường đá cách nhiệt tốt hơn so với kính, nhưng chúng vẫn khá lạnh. Nếu đo nhiệt độ từng nơi trong nhà thì tường thường lạnh hơn so với không khí từ 3-4oC.

May mắn thay, bạn có thể làm giảm đáng kể thất thoát năng lượng bằng cách treo tranh ảnh hoặc gương. Ngay cả một poster đơn giản cũng có thể nâng cao nhiệt độ bề mặt khoảng 1oC và cắt giảm 1/4 năng lượng bị mất. Tranh ảnh được đóng khung hoặc gương tốt hơn, hoặc bạn cũng có thể treo các loại thảm trang trí.

7. Di chuyển đồ nội thất

Mặc dù nhiệt độ không khí như nhau nhưng vẫn có những góc trong phòng khiến bạn cảm giác ấm áp hơn. Các vị trí ở càng sâu phía bên trong nhà thì càng ấm vì cách xa với các bức tường lạnh phía bên ngoài. Vì vậy, hãy để giường, sopha, bàn làm việc,...ở vị trí cạnh một bức tường bên trong.

8. Sử dụng lò nướng, lò vi sóng

Vào những ngày lạnh, những món nướng, rán,...sẽ khiến ngôi nhà của bạn ấm áp hơn, đặc biệt là trong phòng bếp. Đừng ngại nướng thịt một con gà hay vài miếng bít tết vào ngày hôm nay. Bạn nên hạn chế các món ăn tạo ra nhiều hơi nước trong không khí như luộc, hấp,...Độ ẩm không khí càng cao thì bạn càng cảm thấy rét buốt.

 8 cach lam am nha ma khong ton tien dien vao ngay gia ret - 4


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 8 cách làm ấm nhà mà không tốn tiền điện vào ngày giá rét

Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P4) –

34. Thập Nhị Hoa Giáp Là biểu tượng của 12 con giáp. Có khi nó gồm đủ 12 con giáp, nhưng có 1 con lớn làm chủ đạo, các con kia xung quanh, khi đó sẽ là vật Áp Tuế, chuyên Hóa Giải cho những người bị hạn Thái Tuế, hay làm nhà mà phạm Hướng Thái Tuế Kh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

34. Thập Nhị Hoa Giáp

Là biểu tượng của 12 con giáp. Có khi nó gồm đủ 12 con giáp, nhưng có 1 con lớn làm chủ đạo, các con kia xung quanh, khi đó sẽ là vật Áp Tuế, chuyên Hóa Giải cho những người bị hạn Thái Tuế, hay làm nhà mà phạm Hướng Thái Tuế

12-con-giap-1

Khi đứng riêng rời thì nó dùng để kích hoạt cho những trường hợp Tam Hạp: Ví như người tuổi Thân Tý Thìn thì chọn các con vật trong bộ ba Thân (Khỉ) – Tý (Chuột) – Thìn (Rồng) đặt ở các vị trí tương ứng.

Trong các trường hợp các Vật Khí này được làm kèm với các thỏi vàng, đồng tiền vàng thì chuyên để kích hoạt Tài Lộc cho các tuổi trong bộ Tam Hạp.

Riêng với trường hợp con giáp là Hổ, thì hình tượng Hổ trong Vật Khí luôn là biểu tượng của sức mạnh, uy quyền, nên nó là vật dùng thích hợp nhất với các người lãnh đạo, người làm sếp trong các cơ quan, công ty trong các tuổi Dần – Ngọ – Giáp – Tân (nhưng không là Giáp Thân).

35. Kỳ Lân Tống Tử

Đây là do điển tích ngày xưa khi mẹ Khổng Tử trước khi mang thai Ngài, thì nằm mộng thấy 1 đứa bé cởi trên lưng con Kỳ Lân, sau đó thụ thai sinh ra Ngài, nên sau đó người ta xem như đây là biểu tượng tốt để báo hiệu có con, và dùng nó như 1 vật kích hoạt về đường Tử Tức. Thường là biểu tượng này bằng đồng, cũng có bằng tranh nhưng rất ít thấy.

36. Tháp Văn Xương

Đây là hình tượng tháp 7 tầng hay 9 tầng tại Hồng Kông, Bình Sơn nguyên lãng, chuyên dùng để kích hoạt cho việc học vấn, tri thức. Tháp Văn Xương có nhiều chất liệu, có loại bằng đồng, có loại bằng Thạch Anh, có loại bằng Pha Lê. Đúng ra trong Phong Thủy, Tháp Văn Xương không quan trọng việc chọn số tầng, bởi Tháp Văn Xương bên Hồng Kông có nơi làm 7 tầng, có nơi làm 9 tầng. Do đó, các bạn nào đã mua về nhà mà nghe mọi người kháo nhau phải đủ 9 tầng hay 7 tầng mới tốt thì cũng đừng lo ngại hay băn khoăn.

37. Pháp Trượng

Đây là biểu tượng tối cao tượng trưng cho quyền lực trong Tôn Giáo. Pháp Trượng có thể làm bằng nhiều chất liệu khác nhau: đồng sáng, gỗ quý, ngọc quý. Nó thường dùng cho những người có chức sắc trong các cơ quan nhà nước, các vị lãnh đạo công ty tượng trưng cho uy quyền, ngăn ngừa tiểu nhân, đem lại quyền lực.

38. Tam Đa

Hầu như ai cũng biết Tam Đa chính là: Phúc Lộc Thọ. Bộ Tam Đa có thể bằng gốm sứ, bằng đồng, bằng đá quý, bằng hình tượng Phong Thủy Luân, bằng tranh Phúc Lộc Thọ toàn đồ. Biểu tượng Tam Đa tượng trưng cho 3 vị Thần đem lại may mắn, sức khỏe, hạnh phúc cho mọi người, mọi nhà nên thường người ta hay trưng bày trong nhà.

39. Pha Lê

Pha Lê có 2 loại: thiên nhiên và nhân tạo. Loại thiên nhiên tốt hơn loại nhân tạo rất nhiều, nhưng cũng đắt hơn rất nhiều. Pha Lê tuy trong tiếng Hoa gọi là “shui jing” (Thủy Tinh) nhưng nó thực ra lại mang Hành Thổ, vì bản chất Thủy Tinh vốn dĩ là loại đá ở dưới biển sâu hàng trăm ngàn năm.

Trong Phong Thủy, Pha Lê có công dụng giải trừ vận rủi, đem lại may mắn cho người dùng nó, nên Pha Lê trở thành vật trang sức được nhiều người ưa chuộng (phần vì nó rất đẹp, ra ánh nắng nó tỏa đủ 7 màu như 7 sắc cầu vồng). Pha Lê ngoài việc làm đồ trang sức ra, nó còn được dùng làm Tháp Văn Xương, Kim Tự Tháp để kích hoạt, Hóa Giải trong Phong Thủy.

40. Tam Dương Khai Thái

Đây là biểu tượng 3 con dê đứng chung với nhau, thường được làm bằng đồng. Đó là lấy ý nghĩa từ trong Kinh Dịch mà ra:

* Kinh Dịch nói về quẻ Thái: Thái, tiểu vãng, đại lai, cát hanh. Hàm ý quẻ Thái tượng kẻ tiểu nhân lánh xa, người quân tử đến gần, tượng thông thuận, hanh thông, cát tường.
* Đại tượng truyện quẻ Địa Thiên Thái nói “Thiện Địa giao thái, hậu dĩ tài thành Thiên Địa chi đạo”. Ta thấy tượng của quẻ là Càn 3 vạch dương liền dưới quẻ Khôn 3 hào Âm đứt đoạn, 2 quẻ trên dưới mâu thuẫn nhau, tượng khí trời thì giáng xuống, khí đất từ dưới xông lên, 2 khí giao nhau nhờ đó mà vũ trụ giao hòa, các vật, sự việc đối nghịch nhau trở thành vuông tròn, thành tựu.

Quẻ Thái nói chung là biểu hiện điều tốt lành, cho nên mới có câu “hết cơn Bĩ cực tới hồi Thái lai” (Bĩ là quẻ Thiên Địa Bĩ, Thái tức là Thái của quẻ Địa Thiên Thái) để chỉ khi ta qua hết cơn khốn đốn đến vận hanh thông trở lại. Quẻ Thái tốt là nhờ sự nghịch đảo của quẻ Càn bên dưới, mà Càn có 3 hào Dương. Người ta lấy sự đồng âm trong Hán Ngữ mà chọn chữ Dương là dê, 3 hào Dương trở thành hình tượng 3 con dê là thế. Thay vì 3 hào Dương khai mở ra quẻ Thái lại trở thành 3 con dê đem lại quẻ Thái, đem lại sự thông thuận.

Tóm lại, người đang gặp vận rủi cần chuyển hóa thời vận thì nên đặt biểu tượng này, để cầu mong đem lại sự thông thuận như ý quẻ Thái.

41. Chiêu Tài Kim Tiền

cay kim tien_brca

Là các đồng tiền có khắc bốn chữ “Chiêu Tài Tiến Bảo” hoặc “Kim Ngọc Mãn Đường” xâu kết lại với nhau, chuyên dùng kích hoạt Tài Lộc. Có thể là 3 đồng tiền kết với nhau bằng dây ruy băng đỏ để treo trên tay nắm cửa hay bỏ trong bóp, hoặc dán trên bìa cuốn số ghi doanh thu để giúp tăng thu nhập. Có khi là xâu 8 đồng tượng trưng cho Bát Bạch Vượng khí của Vận Tám, mà chữ Bát cũng đồng âm như chữ Phát trong tiếng Hoa. Cũng có khi là một xâu gồm 10 đồng tiền, hàm ý Thập toàn Thập mỹ.

42. Bình An Kim Tiền

Là tiền đồng lớn có khắc bốn chữ “Xuất nhập bình an”. Nó có công dụng hoá giải Khai Khẩu Sát, hoặc ngăn ngừa đàn bà trong nhà lắm lời. Mặt khác, nếu dùng 2 đồng tiền này dưới gối sẽ giúp cho mối quan hệ vợ chồng được tốt đẹp hơn.

43. Tiên Nữ Hoa Đào

Thường gặp nhất là bằng tranh với hình vẽ Tiên nữ tay cầm cành hoa đào. Đôi khi hình tượng này cũng có trong các đĩa kiểu Hồng Kông, có giá để trưng bày. Đây là vật mang lại tài lộc, công danh và hỷ tín cho người nữ, nhưng phải là người nữ chưa có chồng mới dùng được (nam giới thì vô hiệu quả).

44. Phong Chuỷ Điểu

Đây là vật khí hoá sát dùng hình tượng một loài thú thượng cổ, thân như mình chuột, có mỏ như mỏ chim, ức dưới có vảy như vảy rồng, có 2 sừng trên đầu. Mỏ con thú này có ngậm một cái vòng tròn, hai bên có 2 cái giá để thắp đèn cầy đỏ (phải là màu đỏ mới được), bên trong chỗ cắm đèn cầy đó có 2 mảnh kim loại đính bên trong có biểu tượng ngọn lửa.

Đây là vật Chuyên Trị sao Tam Bích Si Vưu tinh gây chuyện thị phi, tiểu nhân, quan phi cực kỳ hay và hiệu quả.

45. Thập Bát Chiêu Tài

Đây là một hình thái hơi lạ của Cóc ba chân (thiềm thừ). Thường được làm bằng chất liệu đồng, có hình dáng một con cóc ba chân miệng ngậm đồng tiền, nhưng phía thân sau của nó gác lên trên một nải chuối có 18 quả, có sợi xích vòng quanh một quả chuối dính vào trên đầu cóc ba chân và nối với một miếng ngọc bội, một sợi xích khác dính liền dưới ức cóc ba chân nối với đồng tiền trong miệng nó, và một miếng ngọc bội.

Cóc ba chân là biểu tượng Chiêu Tài, Chuối (ba tiêu) cũng là Chiêu Tài, số 18 khi phát âm lên theo tiếng Hoa đồng âm với hai chữ Thật Phát. Nên khi đi chung với nhau, chúng là một biểu tượng Chiêu Tài rất mạnh. Vật khí này thích hợp nhất với sao Lục Bạch, đặc biệt khi Lục Bạch ở phương Bắc càng tuyệt vời.

46. Lăng Giác Bảo

Thường được làm bằng chất liệu gốm sứ, với các hoa văn xung quanh. Nó có hình dạng như một cái thố có nắp chụp bên trên, có ba chân đế bên dưới, hai bên tay cầm thì lại nhọn, màu vàng kim, và có hình dáng như hai cái sừng gọi là Hoàng kim giác. Các hoa văn xung quanh có hình hoa Mẫu đơn gọi là Phú Quý hoa. Trên nắp có biểu tượng Tam Đa (quả thạch lựu tượng trưng cho Đa Lộc, quả đào tiên tượng trưng cho Đa Thọ, quả Phật thủ tượng trưng cho Đa Phúc).

Cho nên, vật khí này là vật Chiêu Tài Nạp Phúc rất hay, rất thích hợp với sao Nhất Bạch, đặc biệt khi Nhất Bạch tại Trung Cung.

47. Đại Chú Tiệp

Có hình dáng là một bó những đoạn trúc ngắn. Vì chữ Chú và chữ Trúc đồng âm, bản thân cây trúc có rất nhiều Tiết (đốt, mắt), chữ Tiết lại đồng âm với chữ Tiệp, hàm ý thi cử đỗ đạt, công tác thành công. Xung quanh bó trúc, ở đoạn ống giửa hai đốt có ghi bốn chữ “Tiết tiết cao thăng” hàm ý chiêu Quý nhân đến. Cả bó trúc đó có rất nhiều đốt, gọi là “Đa tiết Văn Xương trúc”. Trên bó trúc là những thỏi vàng xếp thành bệ. Trên bệ là một con Đại ngao Ngư với đầu giống đầu Rồng, với hàm ý “Độc chiếm ngao đầu” – chiếm đầu bảng.

Vật khí này còn có tên là “Đại Văn Xương”, “Vạn ý tiết tiết cao thăng”. Nó là vật kích hoạt cho sao Văn Xương Tứ Lục rất hay, nhất là khi sao Tứ Lục đóng tại Cấn phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật phẩm phong thủy trừ tà, hóa sát (P4) –

Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Bí ẩn thiên cổ 72 ngôi mộ Tào Tháo đến nay vẫn chưa có lời giải. Hàng nghìn năm nay, kẻ đào trộm mồ mả có vô số, song chưa có ai đào được mộ thật
Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi trẻ, Tào Tháo đã có chí lớn. Từ những việc lúc còn nhỏ đã có thể nhìn, thấy sự xảo trá và quyền biến của ông.

Chân dung Tào Tháo

Nói đến cùng, đều là những suy diễn cụ thể từ câu nói “Thà ta phụ người đừng để người phụ ta”. Từ xưa đến nay, nhiều người đã lấy câu nói đó làm điểm xấu của Tào Tháo. Tào Tháo có thể thốt ra câu nói đó biểu hiện cái “trá” của ông; cái “trá” đó cũng có thể gọi là “trí”; chỉ có mưu trí cao mới có thể “trá”; “trá” đến mức khiến người ta bất tri bất giác, không hiểu nổi, ấy mới là “trí”.

Đối với công việc hậu sự của mình, Tào Tháo có quan niệm khác hẳn với đế vương các đời. Ông là vị vua đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đã đưa ra quan niệm “bạc táng” (chôn cất đơn giản).

Trong lịch sử, Tào Tháo tuy chưa xưng đế nhưng địa vị quyền lực không kém hoàng đế. Vì sao ông không những đề xướng “chôn cất đơn giản” mà còn đích thân thi hành.

Tương truyền, Tào Tháo suốt đời đề xướng tiết kiệm. Thời nhỏ, Tào Tháo từng câu kết với bọn đào trộm mồ mả, tận mắt thấy chúng lấy hết của cải tùy táng. Vì vậy, để đề phòng bản thân sau khi chết không rơi vào thảm cảnh ấy, ông đã nhiều lần yêu cầu “chôn cất đơn giản”.

Tào Tháo còn sử dụng biện pháp xây “mộ giả” để bọn đào trộm mộ không biết đâu là mộ thật. Việc xây mộ giả đương nhiên liên quan đến tính đa nghi của ông. Khi còn sống, ông vì đa nghi nên đã giết nhầm rất nhiều người. Ngày an táng Tào Tháo, có tới 72 cỗ quan tài từ 4 hướng Đông, Tây, Nam và Bắc cùng một lúc được khênh ra các cổng thành. Dân trong thành, thậm chí lính khênh cũng không biết quan tài nào là quan tài thật.

Trong 72 ngôi mộ này, ngôi mộ nào là thật? của Tào Tháo.

Tương truyền, trong những năm quân phiệt hỗn chiến, 1 nhà buôn đồ cổ của công ty Ấn Độ muốn tìm ngôi mộ thật của Tào Tháo đã thuê dân công đào mười mấy ngôi mộ giả. Ngoài một số đồ gốm đồ sứ ra không thu được cái gì khác.

Năm 1988, tờ Nhân dân Nhật báo đã đăng bài Bí ẩn 72 ngôi mộ giả của Tào Tháo bị khám phá. Bài báo nói: “Quần thể mộ cổ ở huyện Từ, tỉnh Hà Bắc nổi tiếng gần đây được Quốc vụ viện coi là đơn vị bảo hộ văn vật trọng điểm toàn quốc lớp thứ ba. Những ngôi mộ cổ này trong truyền thuyết dân gian xưa bị coi là “72 ngôi mộ giả của Tào Tháo” nay đã được coi là quần thể mộ cổ loại lớn thời Bắc Triều. Tuy nhiên, số lượng mộ không phải là 72 mà là 134”.

Hài cốt thực của Tào Tháo chôn ở đâu vẫn là một bí ẩn. Có người căn cứ vào “thơ mộ Tào Tháo” suy đoán mộ ông ở đáy sông Chương. Theo cuốn Chương Đức phủ chí, lăng Nguỵ Vũ Đế Tào Tháo ở thôn Linh Chi, cách đài Đồng Tước 5km về phía chính Nam. Theo khảo sát, điều này chỉ là giả thiết. Mộ Tào Tháo có thể ở đâu?

Có ý kiến cho rằng, mộ Tào Tháo ở “Cô Đôi Tào Gia” (Mộ phần họ Tào) thuộc huyện Tiều. Đây là quê hương của Tào Tháo.

Chương Văn Đế trong cuốn Nguỵ thư: “Năm Giáp Ngọ (năm 220) mở tiệc chiêu đãi quân lính và dân chúng ở Ấp Đông (Thuộc huyện Tiều)”. Sách Bột Châu chí chép: “Văn Đế đến huyện Tiều, thiết đãi lớn phụ lão ở đây. Lập đàn trước nhà lập bia được gọi là bia thết đãi lớn”.

Tào Tháo mất ngày 2 tháng Giêng năm Giáp Ngọ. Nếu chôn ở Thành Nghiệp, Nguỵ Văn Đế Tào Phi vì sao không đi thành Nghiệp mà lại quay về quê hương? Mục đích chuyến đi này của Tào Phi là để kỷ niệm ngày mất của Tào Tháo? Sách Nguỵ Thư còn nói: “Năm Bính Thân, (Tào Phi) đích thân đến tế ở lăng Tiều”.

Lăng Tiều chính là “Cô Đôi Tào Gia”, nằm cách Thành Đông 20km. Nơi này từng là nhà ở của Tào Tháo, cũng là nơi Tào Phi ra đời. Ngoài ra, sách còn chép: “Bột Châu có quần thể mộ thân tộc Tào Tháo. Trong đó có mộ ông nội, cha, con cái của Tào Tháo. Từ đó suy đoán, mộ Tào Tháo cũng chôn ở đó. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không có bằng chứng đáng tin.

(Theo Toquoc)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vì sao Tào Tháo xây 72 ngôi mộ?

Lựa chọn phòng lớn nhất làm phòng khách trong phong thủy

Phòng khách trong một ngôi nhà có vai trò rất quan trọng ,nó thể hiện bộ mặt của gia chủ với mọi người , về khía cạnh phong thủy phòng khách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng khách trong một ngôi nhà có vai trò rất quan trọng ,nó thể hiện bộ mặt của gia chủ với mọi người , về khía cạnh  phong thủy phòng khách còn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự nghiệp ,đời sống của chủ nhân gia đình nữa, Xem Tướng chấm net mời mọi người cùng đọc và tìm hiểu đôi nét về cách bài trí phong thủy trong phòng khách gia đình

1.Lựa chọn phòng lớn nhất làm phòng khách trong phong thủy 

Phòng khách là căn phòng rộng nhất trong nhà, đây không những là do công năng đặc thù của nó quyết định mà còn có lý do và căn cứ trong phong thủy.

Từ góc độ phong thủy nhà ở, phòng khách rộng lớn là biểu hiện tính cách phóng khoáng hào sảng của chủ nhân, có lợi cho sự hài hòa trong mối quan hệ giao tiếp.

Phòng khách rộng rãi sáng sủa biểu hiện chủ nhân sẽ được quý nhân giúp đõ, giúp cho sự nghiệp của bản thân được phát triển. Ngoài ra, trong phong thủy phòng khách đại biểu cho nam chủ nhân trong nhà. Nếu như nó tương đốỉ nhỏ có thể khiến tình cảm vợ chồng không hài hòa, con đường phát triển sự nghiệp của ngưòi đàn ông đó cũng sẽ gặp phải những cản trở nhất định. 

Nói chung cần phải chú trọng đến diện tích lớn, nhỏ của phòng khách. Nếu như muôn hỗ trợ cho sự nghiệp của bản thân phát triển thì bạn nên thiết kế phòng khách nhà mình rộng rãi, sáng sủa. 

2.Hình của phòng khách có yêu cầu gì trong phong thủy

Trong phong thủy, hình dạng tốt nhất của phòng khách, là hình vuông và hình chữ nhật. Nói chung, phòng khách hình chữ nhật đại biểu cho tài vận, còn hình vuông đại biểu cho quan vận. Phòng khách vuông vắn ngay ngắn hiển thị sự vững chắc, khí thế hiên ngang là biểu hiện cho vận thế của ngôi nhà bình ổn.

 Trong cuộc sống có những người thích sự mới lạ và độc đáo nên tự cho rằng phòng khách có hình dạng đặc biệt mói có thể hiển thị rõ cá tính của bản thân. Nhưng sự thực là những phòng khách có hình trạng không đúng quy tắc sẽ khồng phù hợp với yêu cầu của phong thủy.

Đầu tiên, hình trạng không theo quy tắc thưòng mang lại cảm giác bất an và trong thiết kế sẽ dần dần tồn tại chỗ không hợp lý. Tiếp theo, sống lâu trong căn phòng c hình trạng không      theo quy tắc sẽ ảnh hưởng nhất định đến tình cảm của con người.

Vì vậy, khi thiết kế phòng khách không thể chạy theo sở thích và thị hiếu của cá nhân mà ảnh hưởng đến vận thế của bản thân.

3.Hóa giải góc nhọn của phòng khách trong phong thủy

Trong cuộc sông hiện đại, rất nhiều ngôi nhà có tồn tại góc nhọn ỏ phòng khách. Đây có thể là do thiết kế kiến trúc tạo thành, cũng có thể có quan hệ nhất định đến việc bố trí phương vị của ngôi nhà. Góc nhọn của phòng khách sẽ đem đến cho thị giác của con người áp lực. Đồng thời, góc nhọn không tốt cho việc lưu thông không khí. Nó giống

như một chiếc xương cá mắc trong yết hầu làm ảnh hưỏng đến việc đưa thức ăn vào trong cơ thể. Do vậy có thể thấy góc nhọn ảnh hưởng rất lớn đối với phong thủy nhà ở.

Phương pháp hóa giải phong thủy: Bạn có thể nghĩ ra phương pháp san bằng góc nhọn, ví dụ như ở chỗ góc nhọn đặt một tủ gỗ để che lấp. Như vậy sẽ làm giảm hiệu quả không tốt có góc nhọn về mặt thị giác. Đồng thời còn có thể đem một chậu cây cao lớn đặt ỏ chỗ góc nhọn cũng có tác dụng hóa giải hung tai nhất định.

Vì ở trong phong thủy cây cối là vật phẩm hóa giải hung sát hữu hiệu, cho nên phương pháp này có thể tiêu trừ ở một mức nào đó ảnh hưởng không tốt mà góc nhọn đem đến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lựa chọn phòng lớn nhất làm phòng khách trong phong thủy

Vật phẩm phong thủy cầu tài lộc –

Ngoài Tỳ Hưu và Thiềm Thừ – hai linh vật phong thủy đứng đầu về khả năng chiêu tài khí, tạo may mắn về tài lộc trong kinh doanh, thì bên cạnh đó vẫn còn những vật phẩm phong thủy khác được cho là rất linh thiêng trong việc nâng cao vận khí về tài lộc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nội dung

  • 1 như sau:
  • 2 5. Cá chép – Mở rộng đường khoa bảng, công danh
  • 3 6. Ngựa – Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt
  • 4 7. Thuyền buồm – Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió
  • 5 8. Voi – Linh vật hút tài lộc số một

như sau:

5. Cá chép – Mở rộng đường khoa bảng, công danh

Truyền thuyết kể rằng: “Vào một năm nọ, nạn hạn hán hoành hành vì số Rồng quá ít, không đủ làm mưa điều hoà cho cả nhân gian. Ngọc Hoàng thượng đế liền tổ chức một cuộc “Thi Rồng” nhằm tuyển chọn các con vật đủ khả năng, phẩm chất làm Rồng cứu nhân độ thế. Khi chiếu Trời ban xuống, vua Thuỷ Tề loan báo cho tất cả các cư dân dưới nước tham gia vào cuộc thi. Cuộc thi có ba kì. Mỗi kì vượt qua một đợt sóng. Con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt được cả ba đợt thì mới được hóa Rồng.

20chepnhat

Trong một tháng trời, đại diện của bao nhiêu loài thuỷ tộc đến thi đều bị loại cả vì không con nào vượt được cả ba đợt sóng. Sau có cá Rô nhảy qua được một đợt nhưng cũng bị rơi ngay. Rồi đến Tôm nhảy qua được hai đợt, ruột, gan, vây, vẩy, râu, đuôi, đã gần hoá Rồng, nhưng đến lượt thứ ba vì sức đã đuối nên bị ngã xuống, khiến lưng còng lại đến tận ngày nay.

Đến lượt Cá Chép vào thi thì gió thổi ào ào, mây kéo ầm trời. Chép ta vượt luôn một hồi qua ba đợt sóng, và lọt vào cửa Vũ môn. Khi đó, Cá Chép được hoá thân, vẩy, đuôi, râu, sừng mọc ra, vóc dáng bỗng trở nên oai linh, giống hệt thần Rồng. Sau khi hoá Rồng, Chép phun nước làm gió táp, mưa sa, cứu độ muôn loài thoát khỏi hạn hán, sự sống hồi sinh”.

Vì vậy, Cá Chép được coi như một biểu tượng cực kỳ may mắn. Nên nếu nhà có trẻ nhỏ bắt đầu đi học, nên tìm mua một con Cá Chép phong thủy bằng ngọc hoặc đồng để cầu may mắn thuận lợi cho bé trong con đường học hành, thi cử.

Theo học thuyết Phong Thủy, sự kích hoạt cho dòng “Thủy” tại căn nhà nơi ta sinh sống là một trong những điều tối quan trọng. Trong khi đó, Cá Chép được cho là linh vật số 1 trong việc kích thích “nguồn Thủy” tại nơi nó trấn giữ.

Vì thế mà người đời cho rằng Cá Chép đem đến vận may, hoá giải sát khí, bệnh tật và tai hoạ. Cá Chép nếu để trong nhà sẽ mang lại sự may mắn, thịnh vượng, còn để ở bàn làm việc sẽ mang lại thành công sự nghiệp, thăng quan tiến chức.

6. Ngựa – Biểu tượng cho kinh doanh phát đạt

Ngựa là con vật rất trung thành, không những thế ngựa còn là hình ảnh của sự kiên nhẫn, bền bỉ, may mắn và thuận lợi. Người xưa cũng thường dùng ngựa để chúc tụng nhau trong hành sự hay làm ăn, ví dụ như: “Mã đáo thành công”.

Một trong những biểu tượng Ngựa Phong Thủy thường thấy là hình ảnh Ngựa phi nước đại (hay “Lộc Mã”). Biểu tượng này tượng trưng cho sự phát đạt trong kinh doanh, sự nhanh nhạy và tăng tiến trong tiền tài. Ngựa phi nước đại còn hàm ý về sự đi xa, nên rất thích hợp cho những người hay đi công tác lâu ngày hoặc bôn ba đây đó. Đây là một vật khí không thể thiếu cho những doanh nhân thường xuyên đi xa. Trong trường hợp này, nên đặt ngựa ở hướng Tây, Tây Bắc hoặc Đông Bắc để tăng cường cát khí cho các sao tốt ở các hướng này.

2_KYJG

Ngoài ra, chúng ta cũng thường nhìn thấy biểu tượng Ngựa kéo của cải. Với biểu tượng này, Ngựa sẽ đem của cải về nhà, tiền của vào như nước. Vì vậy, nên đặt Ngựa kéo của cải ở phòng khách, bàn làm việc và chú ý quay đầu ngựa vào phía trong nhà.

Nhiều người cũng quan niệm bày Ngựa Phong Thủy trên bàn làm việc, bàn học hoặc tại vị trí của huyệt tài vị trong nhà, hướng đầu ngựa ra cửa chính hoặc cửa sổ sẽ đem lại Đại Cát.

Đối với những ai thích dùng Ngựa Phong Thủy, xin được mách một vài điểm lưu ý như sau:

•Người tuổi Tý tránh dùng biểu tượng hay tranh ảnh ngựa.

•Không được đặt ngựa trong bếp, trong nhà tắm.

•Nếu đặt nhiều con ngựa, thì Tam mã – 3 con, sẽcó tác dụng phát huy Thổ khí trong “Vận Tám” nên còn có tác dụng bổ trợ phong thủy cho văn phòng. Lục mã – 6 con, thì rất tốt cho việc sinh tài lộc. Bát mã – 8 con phi nước đại tượng trưng cho sao Bát Bạch rất vượng khí, nên sẽ đem lại nguồn tài lộc dồi dào, vô tận cho gia chủ.

•Ngựa không được dùng trong việc hóa giải sát khí.

•Dùng Ngựa Phong Thủy khi bạn đang cầu mong tài lộc, phát đạt trong kinh doanh, tăng tiến về tiền tài, và các dự án được hoàn thành sớm trước dự kiến.

7. Thuyền buồm – Công việc làm ăn thuận buồm xuôi gió

Theo phong thủy, thuyền buồm được xem là biểu tượng của thành công trong kinh doanh. Bởi vì nó tượng trưng cho Gió (một trong hai yếu tố quan trọng nhất của Phong Thủy – gió, nước), mang lại nhiều cuộc giao dịch kinh doanh tốt đẹp và thu được nhiều lợi nhuận. Sau biểu tượng rồng, hình ảnh thuyền buồm là biểu tượng được giới doanh nhân Trung Quốc ưa chuộng nhất.

lbj1373274469

Để kích hoạt vận may trong kinh doanh, bạn hãy đặt một chiếc thuyền buồm trên bàn làm việc hay gần cửa ra vào sao cho chiếc thuyền di chuyển theo hướng đi vào bên trong văn phòng, công ty.

Không nên để thuyền buồm hướng ra ngoài cửa, vì như thế nó lại mang ý nghĩa là thuyền buồm mang tiền bạc ra khỏi nhà.

Trong phong thủy, thuyền buồm lộng gió chở đầy vàng đến cho bạn được xem là thuận lợi nhất. Do đó, bạn có thể mua thuyền buồm rồi chất đầy trong lòng thuyền những nén vàng và tiền xu cổ Trung Quốc, sau đó đặt vào những vị trí như đã nêu trên.

8. Voi – Linh vật hút tài lộc số một

Voi là con vật hay giúp đỡ con người. Ngay cả trong Phật giới cũng có thờ Thần Đầu Voi. Truyền thuyết cho rằng voi được sinh ra từ các mảnh vụng tan ra của sao Dao Quang. Vì thế, voi được coi là loài vật vô cùng linh thiêng. Mặt khác, voi là loài vật to lớn mạnh mẽ, nên bày voi trong nhà, thì vận nhà được bình ổn, người trong nhà làm ăn thuận lợi.

1363598483-voi-2

Với Voi đồng hoặc đá thì tác dụng chính của nó là Hút Tài Lộc, nhất là nhà mà mở cửa, cửa sổ nhìn thấy ao, hồ, sông, biển thì càng có hiệu quả cao.

Với Voi bằng gồm sứ, thường được dùng để hóa giải các cấu trúc nặng nề như dầm nhà , xà nhà đè xuống.

Thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng hoặc đá cỡ vừa trong nhà với dụng ý “hút Thủy” thì đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Còn nếu đặt ở nơi có tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc cát lâu bền.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cầu tài lộc –

Xem tướng về tai –

Tai là một trong ngũ quan trên gương mặt và cũng là bộ phận có vị trí rất quan trong Nhân tướng học. Thông qua việc quan sát vị trí, hình dạng và màu sắc của đôi tai, các nhà tướng số không những sẽ biết được vận thế khi còn nhỏ, hoàn cảnh gia đình,
Xem tướng về tai –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

trình độ học vấn, tính tình hay dở của một người mà còn biết được cả con đường sự nghiệp và hôn nhân, thậm chí là kết cục cuối cùng của cuộc đời. Vì vậy, có thể nói rằng, xem tướng tai chính là nhìn cuốn “nhật ký cuộc đời” trung thực nhất, ghi lại toàn bộ quá trình sống của một con người. Xem bói qua đôi tai cần phải quan sát tất cả: vị trí của tai, kích thước của tai, đường nét của tai và dái tai mới cho ra kết quả chính xác.Tuvikhoahoc.com

3-15

1. Xem tướng tai – Vị trí của tai

Vị trí của đôi tai chủ yếu được phán đoán căn cứ vào độ cao thấp so với đôi mắt, trong Nhân tướng học vị trí cao thấp của tai cũng có những tiêu chuẩn nhất định.

“Tai cao” tức điểm cao nhất trên vành tai cao hơn so với mắt.
Tương tự, “tai thấp” tức điểm cao nhất trên vành tai thấp hơn mắt.
Những người có đôi tai cao thường được đánh là học rộng, hiểu nhiều; sức học cũng như khả năng sáng tạo đều vượt trội. Hơn nữa, những người này ngay từ khi còn nhỏ đã được gia đình bồi dưỡng, giáo dục rất chu đáo, lại được nhiều quý nhân giúp đỡ nên thường sẽ thành công, thành danh từ rất sớm. Đồng thời, họ cũng sẽ dễ dàng có được địa vị xã hội và thanh danh tương xứng mà những người khác nếu muốn có được thì sẽ phải phấn đấu suốt cuộc đời.

Ngược lại, những người có đôi tai thấp thường ít hiểu biết, khả năng học tập kém, không nhận được sự bồi dưỡng, giáo dục chu đáo tù gia đình, không có quý nhân phù trợ; thiếu lý tưỏng, ít phấn đấu, chỉ thích an phận với những gì đã có. Đối với họ, làm việc chỉ đơn thuần là để có tiền nhằm đáp ứng nhu cầu cơm ăn, áo mặc và những hưởng thụ vật chất khác.

2. Xem dái tai đoán phúc lộc

Phúc lộc trong cuộc sống của mỗi người thường được thể hiện trên phần dái tai của người đó.

Những người không có dái tai thường không được hưởng phúc lộc, phải dựa hoàn toàn vào sức lực cũng như sự phấn đấu của mình để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ không có quý nhân phù trợ, không biết cách “đi đường tắt” và cũng không dễ dàng tiếp thu ý kiến góp ý của người khác nên thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Họ thường không biết cách giữ tiền nên cần lên kế hoạch cụ thể, chi tiêu cho cuộc sống trong tương lai nếu không muốn phải chịu cảnh nghèo khổ trong những năm cuối đời.

Ngược lại, những người có dái tai dày dặn lại được hưởng nhiều phúc lộc, tính tình của họ cũng rất trung hậu, thành thực, biết tiếp thu ý kiến đóng góp của mọi người xung quanh để sửa đổi, hoàn thiện bản thân. Hơn nữa, họ cũng được nhiều người giúp đỡ trong cuộc sống và sự nghiệp nên sẽ tránh được những rắc rối, phiền toái không đáng có. Những người này cũng không cần lo lắng nhiều đến chuyện tiền bạc, có thể ung dung an hưởng tuổi già.

3.Xem tướng tai – Coi đường nét của tai

Những ngưòi có đôi tai với đường nét rõ ràng thường rất thông minh, năng động, có khả năng phán đoán tốt mọi việc và cũng rất tỉnh táo, lý trí. Ngược lại, những người có đôi tai với đường nét mờ nhạt thường trì trệ, phản ứng chậm chạp, hay thay đổi, làm việc lề mề.

Những người sở hữu đôi tai có đường nét rõ ràng thường rất thông minh, năng động có khả năng phán đoán chính xác, rất lý trí, thông minh, không hành xử theo cảm tính. Ngược lại, những người có đôi tai với đường nét không rõ ràng lại khá trì trệ kém thông minh, dễ nổi cáu và cũng rất hay quên. Hay thay đổi chủ kiến, nên không được mọi người tín nhiệm. Tuy nhiên, ưu điểm của họ là rất thành thực, làm vệc kiên trì.

Những người có tai áp sát với đầu thường khá bảo thủ nhưng thành thực, luôn bằng lòng với những gì mình đang có chứ không có hoài bão, chí hướng vươn lên. Họ cũng không có khả năng tuỳ cơ ứng biến nên cần cố gắng rèn luyện nhiều hơn nữa để linh động, nhạy bén hơn.

Ngược lại, những người có đôi tai vểnh ra phía ngoài lại thường khá ngỗ nghịch, thích thách thức truyền thống, thích thoát khỏi những khuôn khổ ràng buộc để sáng tạo cái mới. Tuy nhiên, đôi khi, chính sự sáng tạo quá đà của họ lại khiến mọi người cảm thấy quái dị, khó chấp nhận. Đời sống tinh thần tình cảm của họ cũng không ổn định, thích thay đổi, có mới nới cũ, lúc nào cũng mong tìm đối tượng mới.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng về tai –

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

Vật phẩm phong thủy dùng để trấn trạch –

Trong thuật phong thủy, một công việc không kém phần quan trọng để đảm bảo cho căn nhà, cơ quan, công sở được vững vàng và những người sống trong căn nhà đó được an lành, thịnh vượng, đó là việc trấn trạch.## Các vật dụng sử dụng trong c

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong thuật phong thủy, một công việc không kém phần quan trọng để đảm bảo cho căn nhà, cơ quan, công sở được vững vàng và những người sống trong căn nhà đó được an lành, thịnh vượng, đó là việc trấn trạch.Tuvikhoahoc.com

Các vật dụng sử dụng trong công việc này là muôn hình vạn trạng, sau đây là những vật phẩm chú yếu thường hay được sử dụng trong phong thủy hiện đại.

Ếch

Ếch có sức sống tràn đầy nên được coi là biểu tượng của sức sống. Nhiều vật trang sức bằng ngọc được tạo dáng hình con ếch, gia chủ thường mua về cho trẻ nhỏ đeo, cầu mong sức khỏe.

– Dê

Do chữ “dương” nghĩa là dê có âm đọc trùng với chữ “dương” trong âm dương. Trong “kinh dịch” thì hai quẻ “thái” và “trùng” hợp nhất với nhau thành quẻ “Thiên địa thái”, trong đó ba nét gạch ở trên là nét hào dương, ba nét gạch ở dưới là nét hào âm, còn quẻ “thái” xuất xứ từ nét hào dương, nên tục gọi là “tam dương khởi thái”, do vậy nhiều vật trang sức được khắc họa thành hình đồng tiền có đầu dê lưng dê, với ý cầu mong thuận lợi và vượng tài.

Huyền vũ

Huyền vũ là tên gọi chung của chòm sao thứ 7, năm ở phương Bắc trong 28 chòm sao. Trong đạo giáo có một vị huyền thiên thượng đế, đó chính là huyền vũ, người trong đạo gọi là “trấn vũ đế”, hình tượng trấn vũ đế một chân đặt trên con rùa, một chân đạp lên con rắn. Vì thế một số ngọc khí chỉ khắc hai con vật rùa và rắn, để tượng trưng cho huyền vũ.

– Đỉnh

Sau khi Hoàng đế đánh bại hậu duệ của Viêm Đế là Thùy Long, liền đúc một chiếc đỉnh để kỷ niệm chiến thắng lẫy lừng này. Trong quá trình đúc chiếc đỉnh này đã được các loài vật như hổ, báo, chim chóc và thần linh quỷ quái từ bốn phương đến canh giữ, vì vậy chiếc đỉnh trở thành vật linh thiêng.

Ngoài ra Hoàng Đế còn cho đúc thêm ba chiếc đỉnh khác tượng trưng cho trời đất và con người. Còn Hạ Vũ thì cho đúc chính chiếc đỉnh biểu tượng cho chín châu để trấn giữ đất nước. Vì thế, đỉnh được coi là vật phẩm phụ trợ để thay đổi số phận. Nếu bày đỉnh trong văn phòng, thì có thể tăng cường quyền lực, dễ dàng chỉ huy thuộc hạ hơn.

Tám loại vật quý cát tường

Đó là tám đồ vật biểu tượng tốt lành trong phật gia, người ta gọi tắt là bát bảo cát tường, đó là: Pháp la, pháp luân, bảo tản, bạch cái, liên hoa, bảo bình, song ngư, như ý kết.

(Pháp hoa là loài ốc lớn màu vàng, có vân, sống trên biển Trung Quốc, Nhật Bản, Philippin, Srilanca, Đài Loan, Ấn Độ… tên khoa học là charonia tritionis. Pháp luân là bánh xe phật, Bảo tản là ô quý, bạch cái là nắp trắng, liên hoa là hoa sen, bảo bình là lọ quý, như ý là khánh như ý).

Rồng

Rồng được coi là con thú tốt lành, mình rồng dài, trên thân có nhiều vẩy, trên đầu có sừng như sừng hươu, chân có móng vuốt, rồng có nhiều tài như bay trên trời, bơi dưới nước.

1334201799-391109

Rồng gồm nhiều loại, dưới đây là một số loại chính:

Văn long: Là loại rồng trên thân có vẩy.

Ứng long: Là loại rồng có đôi cánh.

Cù long: Là loại rồng trên đầu có sừng.

Li long: Là loại rồng không có vẩy.

Phàn long: Là loại rồng chưa bay lên trời.

Tình long: Là loại rồng thích ở dưới nước.

Hỏa long: Là loại rồng thích lửa.

Minh long: Là loại rồng thích gầm thét.

Tích long: Là loại rồng thích đánh nhau.

Về chức năng của rồng thì chia làm bốn loại

1) Thiên long: Tượng trưng cho sức mạnh vô cùng vô tận của thiên nhiên.

2) Thần long: Phụ trách chuyện mưa gió của trời đất.

3) Địa long: Quản lý tất cả biển hồ sông suối trên mặt đất.

4) Hộ bảo tàng long: Chăm lo giữ gìn các đồ vật quý giá trên thế gian.

Trong ngành phong thủy hiện đại, rồng được giao chức năng từ bỏ tiểu nhân, nếu đặt rồng xanh ở hướng rồng của ngôi nhà thì bọn tiểu nhân không dám gây sự quấy nhiễu, cũng có thể do hước bạch hổ của ngôi nhà khí vận quá xấu, thì nên bày thụy long ở hướng rồng, để hóa giải tai ách do bạch hổ gây ra.

Tám vật quý này mang ý nghĩa cầu mong cuộc sống no đủ giàu sang, thỏa nguyện, trừ tai ách nghiệp chướng, không phải lo nghĩ, không bị sa đọa…


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy dùng để trấn trạch –

Đền Thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân - Phú Thọ

Đền thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng trong thời gian từ tháng 3 năm 2007 đến tháng 3 năm 2009, Đền tọa lạc tại xã Chu Hóa, thành phố Việt Trì
Đền Thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân - Phú Thọ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đền thờ Đức Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng trong thời gian từ tháng 3 năm 2007 đến tháng 3 năm 2009, Đền tọa lạc tại đồi Sim, xã Chu Hóa, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, nhằm quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh thời đại của các Vua Hùng và tưởng nhớ công lao dựng nước của các bậc Thủy tổ.

Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân nằm trên đồi Sim có hình thể giống như một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển, ở thế sơn chầu thủy tụ. Ngôi đền được tọa lạc trên lưng Rùa biểu hiện sự linh thiêng huyền diệu.

Đền thờ Quốc tổ Lạc Long Quân được khởi công xây dựng ngày 26-2-2007 (8-2 âm lịch) với tổng số vốn đầu tư 139 tỉ đồng trên nền diện tích 13,9 ha với các hạng mục: đền chính với kiến trúc chữ Đinh, cổng đền được chạm họa tiết hoa văn trên trống đồng cách điệu cả 4 mặt, trụ biểu, cổng biểu tượng, phương đình, nhà tả vũ, hữu vu, lầu hóa vàng, các công trình phụ trợ và hạ tầng kỹ thuật.

Chính giữa ngôi đền là pho tượng Đức Quốc tổ Lạc Long Quân được đúc bằng chất liệu đồng, nặng 1,5 tấn, cao 1,98m ở tư thế ngồi trên ngai, đặt trên bệ đá được gia công bằng đá khối có chạm khắc hoa văn theo mô típ văn hóa Đông Sơn. Hai bên là hai pho tượng tướng lĩnh hậu cần cao 1,80m ở tư thế đứng, mỗi pho tượng nặng 0,5 tấn. Các pho tượng do các nghệ nhân thuộc Công ty Mỹ thuật Trung ương (Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) phối hợp cùng các nghệ nhân của làng nghề đúc đồng Ý Yên – Nam Định thực hiện.

Cổng đền (nghi môn) cũng được xây dựng theo kiểu truyền thống, gồm có 4 cột, cổng chính rộng 4,2m, cổng phụ rộng khoảng 2m. Cổng được xây dựng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh chạm họa tiết hoa văn 4 mặt. Phía trước nghi môn là cổng biểu tượng cũng có kết cấu cột bê tông cốt thép ốp đá và chạm khắc. Hai bên sân đền là nhà tả vu, hữu vu xây dựng 5 gian, khung gỗ lim, lợp ngói mũi hài. Hai trụ biểu đối xứng nhau cũng bằng bê tông cốt thép, phía ngoài ốp đá xanh.

Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân được Nhà nước đầu tư xây dựng đồng bộ các hạng mục công trình kiến trúc, các họa tiết trang trí được mô phỏng theo hoa văn trên trống đồng Đông Sơn được cách điệu như: Hình ảnh người giã gạo, hình ảnh chim lạc… thể hiện sinh động, độc đáo mang nét kiến trúc đặc trưng riêng của ngôi đền tôn thêm sự uy nghiêm, linh thiêng.

Đến Đền Hùng ngày nay, du khách không chỉ thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng mà còn được thăm viếng đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ – một sự quy tụ các giá trị văn hóa tâm linh đầy ý nghĩa thể hiện tâm thức và đạo hiếu của con dân đất Việt.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đền Thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân - Phú Thọ

Tuổi Tý và tuổi Sửu có hợp nhau không? –

Chuột và Trâu là cặp đôi khá hấp dẫn theo kiểu “trái chiều hút nhau”. Chuột thông minh, sắc sảo và hài hước còn Trâu nhút nhát và nghiêm túc. Tuy vậy, giữa họ vẫn có sợi dây liên kết vô hình. Chuột mê Trâu ở sự duyên dáng nhưng ẩn chứa bên trong là s
Tuổi Tý và tuổi Sửu có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý và tuổi Sửu có hợp nhau không? –

Các lễ hội ngày 9 tháng 3 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

Các lễ hội diễn ra trong ngày 9 tháng 3 âm lịch gồm có Hội Đình Xốm, Hội Miếu Hai Thôn, Hội Trường Yên, Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 9 tháng 3 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

Các lễ hội ngày 9 tháng 3 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

1. Hội Đình Xốm

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày 11 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Hùng Lô, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Hùng Vương.

Nội dung: Lễ hội Đình Xốm, tên chữ là đền Hùng Lô, được tổ chức vào đúng dịp giỗ tổ Hùng Vương.

Sáng ngày mùng 9 làng làm đại lễ tại đình. Sau lễ tế thì diễn ra lê rước kiệu: đi đầu là đoàn hát chèo, đội múa lân, 300 nam áo quần trắng, thắt lưng màu hoa lý, nón chóp, chân quấn xà cạp, rước chấp kinh, bát bửu... đi trước và sau kiệu để làm nhiệm vụ bảo vệ. Dẹp đường cho kiệu là 12 ông coi cờ cưỡi ngựa, mội ông có 5 người phục dịch. Buổi tối đoàn rước tới chân đền Hùng, làm lễ hạ kiệu, nghỉ ngơi, xem hát. Sáng ngày mùng 10, rước kiệu lên đền thượng làm lễ các vua Hùng. Chiều rước kiệu về làng. Bên cạnh đó, trong mấy ngày hội còn có các hoạt động vui chơi thú vi thu hút đông đảo người xem tham gia.

2. Hội Miếu Hai Thôn

Thời gian: tổ chức vào ngày mủng 9 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn Bà Đỗ Thị Khượng (vợ của vua Lý Bí, là người có công dạy cho dân cấy lúa).

Nội dung:  Mở đầu hội miếu là một lễ tế, rước và dâng hương. Phần hội là hoạt động giao lưu, nam nữ thanh niên hát giao duyên với nhau.

3. Hội Trường Yên

Thời gian: tổ chức từ ngày mùng 9 tới ngày 11 tháng 3 âm lịch (chính hội vào ngày 10 tháng 3).

Địa điểm: xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.

Nội dung: Trong hội Trường Yên có hai lễ quan trọng là lễ rước nước và lễ tế. Đoàn rước nước, đi đầu là cờ quạt rồi đến phường bát âm, tiếp theo đến kiệu rồng, trên đặt một cái chéo để đến Sông Hoàng Long lấy nước.

Lễ rước thể hiện lòng mong ước của nhân dân được mưa thuận gió hòa cho mùa mang tươi tốt.

Phần hội ngoài các trò chơi như: thi vật, thi bởi trải, thi thổi cơm, múa lân, múa rồng, cồ người...còn có trò cờ lau tập trận diễn đàn tích quãng thời thơ ấu chăn trâu của Đinh Bộ Lĩnh trên đất Trường Yên và kéo chữ. Sau đó, đến trò kéo chữ Thái Bình, thể hiện niềm mong ước Thái Bình của dân chúng.

Khách trảy hội có thể tham dự các trò chơi vui: võ, vật, đua thuyền, đu bay, hát chầu văn, bình thơ, thi thơ, trò kéo chữ, múa gậy, múa rồng, múa lân hoặc chơi cờ người... Độc đáo nhất của hội Trường Yên là trò "Cờ lau tập trận".

4. Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

Thời gian: tổ chức vào ngày 9 và ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Địa điểm: xã Đảo Tân Hiệp, huyện Cù Lao Chàm, tỉnh Quảng Nam.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn tổ sư Tổ nghề yến.

Nội dung: Vào ngày lễ, người dân tổ chức lễ tế cầu mong biển trời phù hộ và tưởng niệm tri ân các bậc tiền bối đã có công trang đối với nghề khai thác yến sào. Ngày tế lễ diễn ra như ngày hội: Trước tiên là hoạt động tế tổ nghề yến, vui hội làng chài (đua ghe ngang, kéo co bằng thuyền trên biển, hội bài chòi, trò chơi bịt mắt đập nồi). Chợ ẩm thực món ngon Cù Lao Chàm (các đặc sản biển, rau rừng, bánh ít, tổ yến khô, yến trưng hột sen, rượu yến, rượu hải sâm - bào ngư...).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 9 tháng 3 Âm Lịch - Lễ Giỗ Tổ Nghề Yến

Tử vi vấn đáp

Một bài viết về Tử Vi vấn đáp trích ở phần phụ luc cuốn Tử Vi Chỉ Nam do Cam Vũ viết. Đây là bài viết rất hay giải đáp các câu hỏi mà người học tử vi thường hay thắc mắc, cần lời giải đáp.
Tử vi vấn đáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trích từ phần "Tử vi vấn đáp" của tác giả Cam Vũ, cuối bản điện tử cuốn Tử Vi Chỉ Nam tác giả Song An - Đỗ Văn Lưu

Dưới đây là một số các kinh nghiệm Tử Vi được góp nhặt từ các bậc tiền bối, được trình bày dưới hình thức Tử Vi vấn đáp.

1. Tôi thấy sách nói: Kình Dương Tý Ngọ, Mão, Dậu phi yểu triết tắc nhi hình thương hoặc Kình Dương cư Ngọ là mã đầu đời kiếm trấn ngư biên cương nhưng rồi cũng chết bất đắc kỳ tử, mà nay lại thấy có người phát công danh lại trường thọ, không chết ở hạn ấy nghĩa là sao? Trường hợp lá số Dương Nam Bính Dần tháng 12 giờ Hợi ngày 05?

Trong mọi trường hợp phải để ý đến ngũ hành và cát tinh phù trợ, ở trường hợp này người ấy phát công danh to ở đại hạn cung Ngọ mà bản mệnh vững vàng vì hạn đến tam hợp Thái Tuế, có Long Phương Cái Hổ, mệnh Hỏa có Liêm Trinh Hỏa đồng hành nhập hạn mà Mệnh Thân lại có tam hóa. Ðại hạn của Tử Phủ Vũ Tướng thì hỏi sao mà không phú quý, hành của mệnh và hành sao nhập hạn khắc KÌNH DƯƠNG hành Kim. Thiên Phủ ở Dần chiếu lên giải tính hung ác của Kình Ðà.

2. Thế nào là Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt?

Vượng, Tướng, Hưu, Tù, Tuyệt là 5 yếu tố thuộc về sinh trưởng thu tàn của ngũ hành.

Nguyên tắc: Khi ta xét đến 1 hành, nếu có nguyên nhân nào làm cho hành ấy Vượng, hành được sinh là Tướng, hành sinh ra hành chánh là Hưu, hành khắc hành chánh là Tù và hành bị khắc là Tuyệt, tóm lại bảng tóm tắt sau:

Bảng Vượng Tướng Hưu Tù Tuyệt của ngũ hành

Thí dụ: năm nay là Tân Dậu thuộc hành Mộc, thời Mộc Vượng, Hỏa Tướng, Thủy Hưu, Kim Tù, Thổ Tuyệt có lợi cho những ai hành Hỏa, Mộc, bất lợi cho 3 hành Thủy, Thổ, Kim.

Hay chi tiết hơn người ta xét đến khí của 4 mùa, mùa Xuân thuộc Mộc thời mộc vượng, mùa Hạ thuộc Hỏa thì hỏa vượng, mùa Thu thuộc Kim thì kim vượng, mùa Đông thuộc Thủy thì thủy vượng và giao mùa thuộc Thổ thì Thổ vượng. Năm yếu tố này được áp dụng trong Bốc Dịch và Y Học nhiều.

3. Sách xưa nói “sinh phùng bại đại phát đã hư hoa là sao”?

Ý muốn nói rằng Cung Mệnh, hay Thân cư ở nơi bại địa thì cuộc đời sẽ long đong vất vả, nếu có gặp được hạn tốt thì cũng chỉ phát như bông hoa bị vùi dập giông tố mà thôi. Khi mệnh lâm bại địa cần phải có cát tinh đắc địa hội chiếu hay Tuần Triệt án ngữ, nếu Ðại hạn lâm vào bại địa thì cũng một thời khốn khó. Căn cứ vào bảng dưới đây:

Bản mệnh Cung: mệnh, thân, hay cung hạn

Bảng: Sinh địa, Vượng địa, Bại địa, Tuyệt địa trong Tử Vi

Thí dụ: lá số Cụ Phạm Văn Toán (trang 33 sách Tử Vi Chỉ Nam của cụ Song An Đỗ Văn Lưu), tuổi Giáp Thìn là hỏa mệnh, cung mệnh là cung Dần là vượng địa, nên cuộc đời tuy có gặp khó khăn (tuần án ngữ) nhưng vẫn vượt qua được cả để tiến đến thành công.

4. Khi xem số Tử Vi làm thế nào để biết được người ấy bị lừa hay đi lừa người khác?

Tính chất cố hữu của Không, Kiếp là thị kỷ phi nhân (chỉ biết mình mà chẳng nghĩ tới người), tính điêu ngoa gian giảo tham lam của một số chính tim hãm địa như Tham Lang, Cự Môn, Vũ Khúc nếu đứng chung với thế Thiên Không đắc Tả Hữu thì thật là mẫu người bán dối của người bồ tát, của mình lạt buộc. Nếu đứng chung với thế Thái Tuế là người lầm lạc, nên có tài mà bị đời lãng quên, nếu đứng chung với thế Tang  Điếu, hay Trực phù - Thiếu âm - Long đức thì là người hay bị người khác qua mặt, lừa gạt, nếu ở hạn cũng luận như vậy.

5. Có người nói Mã ở Hợi là CÙNG ÐỒ MÃ, lại có sách xưa nói mã ở Hợi là Ô TRUY mã. Như vậy có mâu thuẫn không? Thế nào gọi là cùng đồ mã?

Gọi Thiên Mã ở Hợi là Ô Truy Mã là đúng, vì mã đó là Thủy Mã, rất tốt với người mệnh Thủy, đa tài mẫn cán, tháo vát và nghị lực rất mạnh. Còn gọi Mã ở Hợi là Cùng Đồ Mã thì cũng không sai, chỉ đúng 1 phần thôi. Chỉ khi nào có sao Tuyệt đồng cung với Thiên Mã ở Hợi, chỉ sự ngựa tuyệt lộ cùng đường chạy nên gọi là Cùng Đồ Mã, vì lấy cái lý sao Tuyệt là sao cuối của bộ Trường Sinh, Tuyệt lại hành Thổ khắc Mã Thủy.

6. Thế nào gọi là cách tuyệt sứ phùng sinh?

Khi Cung Mệnh an tại cung tuyệt địa, nhưng lại có chính tinh đắc địa cho hành của bản mệnh ví như người đang hấp hối lại được thần dược cứu sống.

7. Tại sao gọi là HẠN TAM TAI?

Hạn tam tai là hạn của 3 năm liên tiếp đến với mỗi tuổi, không phải cứ đến năm tam tai là có tai họa nhưng hễ cứ đến những năm tam tai thì sẽ gặp nhiều vất vả khó khăn xảy ra, nếu các yếu tố trong lá số thật tốt thì cũng làm giảm bớt, gây khó khăn bực mình, nếu trong hạn của lá số xấu thì sẽ bị xấu thêm, khó mà tránh được tai ương họa hại.

  • Tuổi Dần, Ngọ, Tuất thì 03 năm tam tai là Thân, Dậu, Tuất.
  • Tuổi Thân, Tý, Thìn, thì 03 năm tam tai là Dần, Mão, Thìn.
  • Tuổi Tỵ, Dậu Sửu thì 03 năm tam tai là Hợi, Tý, Sửu.
  • Tuổi Hợi, Mão, Mùi, thì 03 năm tam tai là Tỵ, Ngọ, Mùi.

8. Khi lấy số Tử Vi nếu gặp tháng nhuận thì tính thế nào?

Có người tính từ 15 tháng sau coi như tháng trước và 16 tháng sau (tháng nhuận) được coi như tháng sau, nhưng do bởi lý: nếu đã nhuận (giống nhau) tức là thời điểm không đổi thì 2 tháng nhuận đều tính giống nhau.
Thí dụ: sinh ngày 20 tháng 5 nhuận, ta vẫn cứ tính như ngày 20 tháng 5 thường mà thôi.

9. Người muốn giỏi về Tử Vi cần phải làm sao?

Muốn đoánTử Vi giỏi cần phải có 4 điều kiện sau:

  1. TRÍ NHỚ: Tử Vi là một môn toán học phức tạp nên rất cần trí nhớ.
  2. SUY LUẬN: phải thuộc tính chất để suy luận tính chế hóa thiện, hung của các sao, đặc biệt là sự chế hóa xung khắc, yếu tố tiêu trưởng của Âm Dương Ngũ Hành.
  3. TRỰC GIÁC: cần phải có trực giác bén nhậy để giúp ích cho sự suy luận.
  4. KINH NGHIỆM: cuối cùng là phải thực hành nhiều để đối chiếu phần thực nghiệm với lý thuyết và suy luận ra những nguyên tắc về giải đoán cho phong phú.

10. Thế nào gọi là hạn Trúc La?

Hạn Trúc La là hạn SÁT PHÁ LIÊM THAM ở cung Mão, cung Mão thuộc hành Mộc quẻ Chấn, là tượng cho sấm sét, nên còn gọi là Mộc áp lôi kinh, nếu có các sao Kình, Hư, Tuế, Khách nữa thì chết, số Hạng Võ sinh năm Ðinh Mão, tháng 8 ngày 12 giờ Mão có cách này.

13. Ảnh hưởng của Tuần, Triệt là như thế nào?

Khi đoán số Tử Vi, đến cung nào có Tuần, Triệt trấn đóng, án ngữ bản cung thì nên thận trọng vì tính chất phức tạp của Tuần, Triệt.

  • Triệt: còn gọi là Triệt lộ không vong, hay gọi tắt là Triệt không, thuộc hành Kim đới Thủy, có nghĩa là chém đứt phân lìa ra.
  • Tuần: còn gọi là Tuần trung không vong, thuộc Hỏa đới Mộc, gọi tắt là Tuần không, có nghĩa là bao lại, bao vây, không cho phát huy khả năng.

Do tính chất hoàn không nên Tuần không, Triệt không hợp với Thiên không, Ðịa không gọi là Tứ không sẽ làm mất hết hiệu lực của các tính đẩu nằm trong phạm vi của nó, nhưng không có nghĩa là ngược lại, nghĩa là Tuần Triệt chỉ có tính chất làm mất cái tốt hoặc tiêu tan sự hung ác của ác sát tinh chứ không thể biến tốt thành xấu hay biến xấu thành tốt được.

Vị trí đắc địa của Tuần Triệt là ở cung Kim và cung Hỏa, khi “Triệt đáo Kim cung, Tuần lâm Hỏa địa” hai hành Kim khi va chạm sẽ gây nên tiếng vang, hai hành Hỏa hợp lại sẽ bùng to lớn mãnh liệt, nên người mệnh vô chính diệu, có bản mệnh đồng hành với Triệt, Tuần mệnh cư ở Ngọ hay Dậu (thế cung Ngọ là ly chính Hỏa, cung Dậu là đoài chính Kim) thì được nổi tiếng lẫy lừng và phú quý.

Về đặc tính của Tuần, Triệt trên lá số, sách xưa có các câu phú:

  • Tam phương xung sát hạnh nhất triệt nhi khả bằng.
  • Tứ chính giao phù kỵ nhất không chi trực phá.
    nghĩa là khi bản cung và các cung hợp phương gặp ác sát chi tinh, các hung tinh thủ chiếu, nhưng chỉ cần 1 sao Triệt cũng đủ làm cho bình yên. Khi bản cung được các cát tinh bội chiếu nhưng nếu chỉ gập 1 sao Không (Tuần hay Triệt) cũng đủ để phá mất ý nghĩa tốt đẹp đi.
  • Không vong định yếu đắc dụng. Nhược phùng bại địa chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.

Tuần, Triệt cũng có chỗ đắc dụng khi nằm đúng vị trí thì lại thật là cần thiết vô cùng. Khi Mệnh ở cung Bại Ðịa hay Tuyệt Ðịa, thì Tuần Triệt ở đây lại phù trì cho các sao hãm địa lại trở nên vượng, bản mệnh từ mong manh lại trở nên vững vàng.

Trường hợp này đặc biệt hơn còn kỳ dư các cung khác, Tuần Triệt được ví như bộ thắng của chiếc xe vậy.

Về ảnh hưởng của Tuần, Triệt cụ Việt Viêm Tử có phổ biến định lý:

  • Dương hành tam thất: người Dương chịu ảnh hưởng cung dương 7 phần.
  • Âm qui nhị bát: người Âm chịu ảnh hưởng cung âm 8 phần.

Nhưng theo thiển nghĩ và kinh nghiệm áp dụng thì thấy rằng đối với Dương nam, Âm nữ là ở những tuổi thuận lý âm dương thì ảnh hưởng theo chiều thuận cho nên định lý Dương hành tam thất phải được dùng cho Dương nam Âm nữ.

Thí dụ: người Dương nam canh Dần, có Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nếu khởi theo chiều thuận thì đến cung Ngọ sẽ gặp Tuần, Triệt đương đầu, và ở cung Mùi thì Tuần, Triệt nằm sau lưng nên chỉ vuốt đuôi mà thôi. Ðối với tuổi Âm nam Dương Nữ, là ở những tuổi nghịch lý Âm Dương, nên chịu ảnh hưởng theo chiều nghịch cho nên định lý Âm qui nhị bát phải được áp dụng cho Âm nam Dương nữ.

Thí dụ: người Dương nữ canh Dần, Tuần Triệt cư Ngọ Mùi, nhưng vì là Dương Nữ cho nên ảnh hưởng theo chiều nghịch ( kim đồng hồ) vậy ở cung Mùi lại gặp Tuần Triệt đương đầu, mà với cung ngọ thì Tuần, Triệt lại chỉ là vuốt đuôi mà thôi.

  • Tam thập niên tiền quan Triệt.
  • Tam thập niên hậu khán Tuần.

Nghĩa là sao Triệt ảnh hưởng mạnh vào tuổi chưa lập thân (30 năm đầu)

Sao Tuần ảnh hưởng mạnh vào tuổi từ khi lập thân cho đến hết cuộc đời. Sở dĩ các cụ xưa dùng chữ tam thập niên tiền và tam thập niên hậu vì các cụ quan niệm là tuổi lập thân từ 30 trở ra, và cho đến 60 là hết vì nhân sinh thất thập cổ lai hi, đời người trung bình chỉ 60 thôi còn từ 70 trở ra là ngoại lệ.

14. Tại sao Triệt lại chỉ ảnh hưởng vào tiền vận 30 năm đầu, còn Tuần lại ảnh hưởng suốt cuộc đời?

Triệt Lộ Không Vọng được tính căn cứ vào Hang Thiên Can của năm sinh. Trở lại nguồn gốc vạn vật theo Hà Ðồ Lạc Thủ của Kinh Dịch, thì từ thuở hư không tức Thái Cực sinh trời rồi mới tới đất (Thiên nhất sinh thủy, Ðịa lục thành chi…) cho nên hàng can chính là cái cội rể của con người. Xét theo cuộc đời, thời gian thì hàng can phải là phần trước, có nửa đời trước thì mới có nửa đời sau, cái sau sinh ra bởi cái trước.

Tuần Trung Không Vong được tính theo can chi của năm sinh năm trong giáp nào tức là gồm cả thiên can và địa chi, thuộc giáp nào trong lục thập hoa giáp (Hội), mà can chi là 2 yếu tố căn bản để tạo nên tuổi của con người, nên Tuần sẽ ảnh hưởng suốt cuộc đời của con người.

15. Người có Tuần hay Triệt tại Mệnh, Thân thì sao?

  • Người có Tuần, Triệt án ngữ tại mệnh thì cuộc đời vất vả, làm việc gì cũng phải hai ba lần mới thành công, khi tai mệnh, thì thiếu niên tân khổ; nếu ở thân thì vất vả nhiều, chung thân bất như ý.
  • Nếu mệnh Tuần thân triệt hay ngược lại, thì cung mệnh hay thân lại rất cần vô chính diêu thì mới mong mát mặt với đời. Ðặc biệt khi mệnh hoặc thân có Tuần hoặc Triệt thì mọi sự lại hành thông.

16. Thế nào được gọi là lá số vô chính diệu?

Một lá số được gọi là vô chính diệu khi cung mệnh không có chính tinh chiếm đóng. Hoặc có chính tinh nhưng không được hưởng, nghĩa là chính tinh thủy mệnh không sinh hay đồng hành với bản mệnh.

Thí dụ: người tuổi Canh Tý là thổ mệnh, mệnh cư ở Hợi, có thiên đồng thủ mệnh, như thế là khắc với chính tinh, nên không hưởng mà không hưởng thì được coi như vô chính diệu.

Khi gặp lá số không có chính tinh thì phải lấy sao đồng hành với bản mệnh ở thế tam hợp cung mệnh phải khắc thắng được hành tam hợp của xung chiếu.

Thí dụ: mệnh cư ở cung Thân vô chính diệu, vậy phải tìm chính tinh đồng hành ở 2 cung tam hợp là Tỵ và Thìn, và lấy được ở cung Dần chiếu sang vì Thân, Tý, Thìn là Thủy khắc Dần, Ngọ, Tuất là hỏa cung trong trường hợp này nếu mệnh ở cung dần thì dùng được 2 cung tam hợp là Ngọ và Tuất. Còn các sao ở cung thân thì không hưởng được, trái lại còn nguy hại nữa là khác nếu có nhiều sao xấu.

17. Lá số vô chính hiệu thế nào thì tốt?

Gồm các trường hợp sau:

  1. Mệnh vô chính diêu đắc tam không nhi phú quý khá kỹ. Phải là mệnh Hỏa, được 1 không thủ và 2 không chiếu (các sao Không gồm có Tuần Không, Triệt Không Thiên Không, Ðịa Không), trường hợp này được côngthành danh toại.
  2. Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa: mệnh vô chính diệu có hung tính đắc địa đồng hành bản mệnh như Kình, Ðà, Linh, Hỏa, Khốc, Hư, Tang, Hổ nhưng phải mệnh Kim hay Hỏa Mới hợp. Trường hợp này phải xa lánh Tuần, Triệt.
  3. Trung tinh đắc cách hội chiếu: Khôi, Việt, Xương Khúc, Thai Tọa, Tam Hóa... nhưng cũng phải không gặp Tuần Triệt cản thì mới được phúc lộc. Còn kỳ dư tất cả các trường hợp khác đều là mộng ảo hoàng lương, phi yếu tắc bần, tất cả chỉ là phá cách, không tốt.

Nhưng bất cứ trường hợp nào thì ngừơi có lá số vô chính diệu vẫn là người thông minh, khôn ngoan và có đặc tính, trước một vấn đề cần giải quyết dứt khoát thì thường hay đắn đo, do dự.

18. Khi đoán hạn phải để ý đến yếu tố nào?

Khi giải đoán đến đại hạn hay tiểu hạn thì phải lưu ý đến những điểm sau:

  1. Phân biệt Nam đẩu tinh hay Bắc đẩu tinh để tìm ảnh hưởng vào nửa sau hay nửa trước của hạn, nếu gặp Tuần, Triệt thì ngược lại.
  2. Mệnh phải được cung nhập hạn sinh hay đồng hành với bản Mệnh.
  3. Chính tinh nhập hạn đồng hành hay sinh cho bản mệnh.
  4. Trường hợp cung hạn khắc bản mệnh thì cần phải có chính tinh sinh mệnh là cách tuyệt sứ phùng sinh.
  5. Xem hung tinh có đồng hành với bản mệnh hay với can của năm sinh hay không? Hung tinh không hại người đồng hành với nó, hay hành nó sinh. Thí dụ: Hỏa, Linh, không hại người mệnh Hỏa, hay Thổ mà chỉ hại ngưởi Thủy, Kim và Mộc.

Nếu được mệnh mà không đựơc can, hay ngược lại thì cũng lôi thôi. Thí dụ: tuổi Bính Dần đến hạn gặp Hỏa, Linh thì không việc gì Bính thuộc hỏa mà Bính Dần cũng thuộc Hỏa.

  • Người có cung nhập hạn khắc mệnh lại gặp Kình, Hình, Không, Kiếp, thì sẽ chết trong hạn đó.
  • Người mệnh Mộc hay có can Giáp, Ất, tối kỵ hạn gặp Kình, Hình.
  • Người có Mệnh Hỏa, hay có hàng can Bính, Ðinh tối kỵ hạn gặp Hỏa Ky.
  • Người có Mệnh Kim hay có hàng can Canh, Tân tối kỵ hạn gặp Hỏa, Linh.

Ba hành trên nếu gặp sao Kỵ khắc nhập hạn, sẽ gặp tai nạn, thương tổn lôi thôi.

19. Muốn xem nguyệt hạn thì phải làm sao?

Khi đoán đến nguyệt hạn tức là đoán đến chi tiết phải để ý đến nguyên tắc sau:

Cách cuộc của mệnh thân chi phối dài hạn (gia tăng hay xung phá, cách cuộc của đại hạn chi phối tiểu hạn, cách cuộc của tiểu hạn chi phối nguyệt hạn.

Ðặc biệt phải lưu ý đến can chi ngũ hành của nguyệt hạn, phối hợp với can chi và ngũ hành của bản mệnh và các sao cùng cung nhập hàm ra sao mà linh động chế hóa.

Có nhiều cách tính nguyệt hạn nhưng cách thông dụng nhất là khởi từ cung tiểu hạn là tháng 1 tính thuận đến tháng sinh rồi từ đó là giờ tý tính nghịch đến giờ sinh dừng lại cung nào thì đó là tháng 1 cứ thế theo chiều thuận mỗi cung 1 tháng cho đến tháng 12.

Cách tính can chi của tháng như sau:

  • Giáp, Kỷ Bính tác chủ
  • Ất, Canh, Mậu vi đấu
  • Bính, Tân, Canh dần khỏi.
  • Ðinh, Nhâm, Nhâm dần cầu
  • Mậu Quí tiên khởi Giáp.
  • Cung Dần nguyệt thuận lưu.

Nghĩa là: Năm thuộc can giáp hay can kỷ, thí dụ như năm kỷ mùi hay giáp thân thì tháng giêng là tháng bính dần, rồi đến tháng 2 là tháng đinh mão….cứ thế mà thuận đến tháng 12:

  • Năm thuộc can Ất, Canh, tháng giêng là mậu dần.
  • Năm thuộc can Bính, Tân tháng giêng là canh dần.
  • Năm thuộc can Ðinh, Nhâm tháng giêng là nhâm dần.
  • Năm thuộc can Mậu, Quí tháng giêng là giáp dần.

Nghĩa là bất cứ năm nào tháng giêng cũng là tháng dần, còn hàng can thì thay đổi theo hàng can của năm. Rồi cứ thế theo can chi mà luận xuống. Thí dụ năm nay là năm Tân Dậu. Vậy tháng 1 là tháng canh dần rồi tháng 2 là tân mão, tháng 3 là nhâm thìn tháng 4 là quí Tỵ, tháng 5 là giáp ngọ, tháng 6 là Ất Mão, tháng 7 là Bính Thân, tháng 8 là Ðinh Dậu, tháng 9 là Mậu Tuất, tháng 10 là Kỷ Hợi, tháng 11 là canh tý, tháng 12 là Tân Sửu.

Thí dụ: trong lá số Hoàng Ðế – trang 197 sách Tử Vi Chỉ Nam của Song An Đỗ Văn Lưu - năm 25 tuổi là năm Giáp Ngọ.

Bây giờ muốn tìm nguyệt hạn tháng 3 năm giáp ngọ xem ở cung nào.

  • Năm Giáp Ngọ tiểu hạn ở cung Thìn.
  • Kể từ cung Thìn là tháng giêng thuận đến tháng sinh (nếu sinh tháng 1 thì kể từ ở đó), rồi kể từ giờ tý nghichh đến giờ sinh là giờ thân, đến cung thân là cung nguyệt hạn.
  • Vì năm giáp cho nên tháng 1 là tháng bính dần, tháng 3 là Mậu Thìn.

Vậy lưu nguyệt hạn tháng 3 là tháng mậu thìn ở cung thân.

Khi giải đoán thì xem can chi nguyệt hạn có xung phá với can chi bản mệnh không? Ngũ hành của nguyệt hạn lại khắc hay sinh cho ngũ hành bản mệnh? Rồi xem đến các sao trong cung nguyệt hạn có hợp bộ, phò tá cho tiểu hạn không? Hay bị xung phá, thí dụ: tiểu hạn có Lộc tồn, đến nguyệt hạn gặp Phá Quân, Ðại Hao, hay Không Kiếp là bị phá vậy, cứ căn bản mà chế hóa cho tinh tường thì ra được đáp số.

Khi đoán tiểu hạn hàng năm, làm thế nào để biết sự việc sẽ xảy ra cho chính đường số hay cho các đối tượng liên hệ như cha mẹ, anh em, vợ con….?

  • Trước hết, khi tiểu hạn nhập cung nào thì cung ấy phải được lưu ý nhiều.
  • Cung xung chiếu được kể là quan trọng thứ nhì, nếu hành cung tiểu hạn khắc thắng được hành cung xung chiếu, thì sự việc xảy ra. (Tốt lành hay hung dữ tùy theo sao) đến 80% là đối tượng thuộc cung đối chiếu với cung tiểu hạn. Thí dụ: người canh dần, dương nam, mệnh lập tại dần, lưu hạn năm mùi ở cung dậu là cung ách, cung dậu (ách ) khắc cung phụ mẫu ở mão, vậy những việc quan trọng sẽ xảy ra cho phụ mẫu vào năm mùi hay năm nay tân dậu, lưu tiểu hạn ở cung Tử tức tại cung Hội, xung chiếu khắc cung điền ở tỵ, vậy sự việc xảy ra năm nay xảy đến là điền trạch nhiều hơn (đổi chỗ ở ) rồi đến năm 1982 là năm Tuất, tiểu hạn đến cung thê, xung chiếu khắc quan lộc, nên sự việc liên quan đến Công Danh.

Xin được nhắc lại khi đoán hạn phải lưu ý:

  • Nếu là đại hạn thì phải lưu ý đến hành tam hợp trước, rồi đến cung nhập hạn, rồi đến sao.
  • Nếu là tiểu hay nguyệt hạn phải lưu ý đến can chi và ngũ hành của năm nay tháng muốn xem rồi đến hành của cung hạn, rồi đến sao của cung hạn.
  • Dù bất cứ trường hợp nào cũng phải để ý đến hành của sao nhập hạn với hành của bản mệnh, xem sinh khắc thế nào, rồi đến vị trí miếu hãm của sao rồi cũng đi tìm xem hợp bộ hay xung phá, rồi căn cứ vào tính chất của sao để cho ra lời giải đáp.

21. Sao Thiên Mã có những tính chất gì?

Hành của thiên mã sẽ tùy theo cung, thiên mã ở cung nào sẽ mang hành ở cung đó. Thí dụ Mã ở thân là kim mã.

Dù ở bất cứ vị trí nào nếu thiên mã đồng hành hay sinh hành bản mệnh cũng rất tốt đa tài mẫn cán. Các cách tốt đẹp của thiên mã gồm có:

  1. Thiên mã đồng cung Lộc tồn: chủ phúc lộc.
  2. Thiên mã, Phượng các: cứu giải mọi tai nạn.
  3. Mã ngộ Khốc Khách: uy danh, oai vệ.
  4. Mã ngộ Lưu Hà: cứu giải tai nạn.
  5. Mã ngộ Trường sinh: thanh vân đắc lộ chủ về sự thăng tiến công danh.

Thiên Mã rất kỵ gặp các sao sau:

  1. Tuần, Triệt.
  2. Kình, Ðà
  3. Thiên Hình
  4. Không, Kiếp.

Nếu gặp chỉ gây ngăn trở công việc, nếu bản mệnh không vững thì thường tốn, tai nạn thương tật tay chân.

Riêng trường hợp thiên mã chỉ gặp 1 sao tuần, thì bên cạnh sau cái rủi sẽ có cái may, vì tuần chỉ như cái cầu ngăn cản để cho thiên mã phục rồi nhảy sang cung khác chứ không bị trảm như Triệt, Kình, Hình, Ðà. Mã còn là phương tiện di chuyển, mà cho phù hợp với lẽ biến dịch thì ngày nay chính là chiếc xe ta đang đi vậy. Như thế hành của bản mệnh và của thiên mã hay chiếc xe cũng nói lên ý nghĩa sau:

  1. Hành của Thiên mã đồng hành với bản mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng, xe màu vàng vì màu vàng thuộc thổ sẽ cảm thấy thoải mái với phương tiện di chuyển của mình.
  2. Hành của Thiên mã sinh hành của mệnh. Thí dụ: tuổi canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu đó vì màu đỏ thuộc hỏa sinh thổ, gây ích lợi cho bản mệnh.
  3. Hành của thiệp mã khắc hành của mệnh. Thí dụ: tuổi Canh Tý: thổ mệnh sử dụng xe màu xanh thuộc mộc khắc thổ, gây bất lợi cho bản mệnh.
  4. Hành của mệnh sinh hành Thiên mã. Thí dụ: tuổi canh Tý mệnh Thổ sử dụng xe màu trắng, vất vả vì xe cộ, có thể là dù xe mới, sửa cái nọ theo ý của mình, và có khi là cứ hay hư hỏng lung tung khiến mình nhọc sức với nó.
  5. Hành của mệnh khắc hành Thiên Mã. Thí dụ: canh Tý mệnh thổ sử dụng xe màu đen hay nâu thuộc thủy bị thổ khắc, dễ hư hỏng, dễ gây tai nạn, nhưng bản thân không việc gì.

22. Muốn biết tổng quát đặc tính một người qua chính tinh thì căn cứ vào đâu?

  • Bộ: Tử Phủ Vũ Tướng, Cơ Nguyệt Đồng Lương thì bản tính hiền và hiếu thảo.
  • Bộ: Nhật Nguyệt thì thông minh mà tình cảm lai láng.
  • Bộ: Sát Phá Tham thì nóng nảy mà dâm dục
  • Các Lục Sát Tình thì tính khí hỉ nộ bất thường, lúc vui lúc giận không định trước được.

23. Muốn xem số phái nữ khi nào bị tai nạn về "trinh tiết" khi căn cứ thế nào?

  1. Trước hết bất cứ là lá số phụ nữ nào khi cung quan lộc hay cung Thân có Tuần hay Triệt, bất luận về yếu sao, chắc chắn sẽ không còn là con gái trước khi về nhà chồng.
  2. Các lá số phụ nữ có các sao thuộc về dâm tinh thủ mệnh như Tham Lang, Thai, Ðào Riêu, Cự Ky. Xương, Khúc, Cái Mộc, thì trong trừơng hợp này không coi là 1 tai họa, mà còn được họ coi là tự nhiên, 1 nhu cầu hay 1 sở thích, không đặt vấn đề luân lý đạo đức.
  3. Trường hợp được coi là tai họa khi ở mệnh hay hạn có các sao: Thai, phục gặp Kiếp, Không, chỉ sự bạo hành, cưỡng bức. Kinh nghiêm cho thấy hầu hết các lá số bị tai nạn tập thể do hải tặc Thái Lan đều thấy có Ðào Hồng gặp Hình Riêu Không Kiếp, Cự Môn và Hóa Kỵ, hay Tham lang hóa Kỵ chủ sự tình ngang trái mà sự thiệt thòi về phần phái nữ. Thai, Hình, Tang, Hổ: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, nghĩa là người con gái sau khi bị bạo hành sẽ bị giết chết. Ý nghĩa của sao Thai khi đi chung với các sao dâm dục khác còn mang ý nghĩa có thai của phụ nữ.

24. Những sao nào không có lợi cho việc hôn nhân?

Khi tọa thư hoặc hội chiếu vào cung phu thê thì các sao ngăn trở làm cho gia đạo bất hòa gồm có:

  1. Hóa Kỵ: chỉ về cái lưỡi, khích bác chê bai.
  2. Cự Môn: chủ về cái mồm.
  3. Thiên Không: cuộc hôn nhân bất thành.
  4. Thiên Hình: gay go và hay gặp trở ngại bất ngờ.
  5. Khốc Hư Tang Hổ: chỉ cần gặp 1 trong 4 sao này cũng đã thấy có sự khó khăn.

Ngoài ra còn phải kể đến các sao như Thất Sát, Phá Quân, Cô Thần, Quả Tú, Tuần Triệt, nhất là cung thế có thiên mã gặp tuần, triệt là số vợ bỏ.

Tuần Triệt ngộ mã
Hành thê vi vợ bỏ
Chồng đào tỵ tha hương
.

25. Tại sao có lá số Mã ngộ Khốc khách mà lại nghèo, công danh thất bại?

Mã là Ngựa, Khốc Khách là tiếng nhạc ngựa đeo, khi ngựa chạy thì nhạc rung mà phát ra tiếng, như ng ngựa có no thì mới chạy được ví như xe của ta ngày nay phải có nhiên liệu cho xe ta phải cótiền, một chiếc xe hết xăng, mà trong túi ta lại không có lấy 1 xu, thì chiếc xe lúc ấy trở thành vô dụng.

Bởi vậy muốn được hưởng Mã ngộ khốc khách cho đúng cách thì tam hợp với khốc khách Mã phải có Lộc tồn, tùy theo ở mệnh hay ở hạn, mã sẽ được hưởng lâu dài hay ngắn hạn.

Mã Khốc Khách mà không có Lộc Tồn là tiếng rên của ngựa chết đói.

26. Muốn biết về hình thương bệnh tật của 1 người thì căn cứ vào yếu tố nào?

  1. Trước hết nên căn cứ vào mục các sao biểu tượng cho các phần trong cơ thể.
  2. Sau đó tùy ở cung mệnh, cung hạn, cung ách, phối hợp với các sao lục sát tinh Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp mà luận.

Thí dụ: một người ở cung ách có kình dương ngộ Riêu Y, Cô Quả, Ðào Hồng, Kình Dương chủ bộ phận sinh dục, Cô Quả chỉ một mình, Đào Riêu chỉ sự dâm dục, như thế là người ấy sẽ mắc tật dâm dục kín. Nếu cung mệnh không có những sao cứu giải như Nguyệt Đức, sao lý trí mạnh như Thiên Hình, Thái Tuế - thông thường theo kinh nghiệm thì:

  • Bộ Sát Phá Tham và bộ Lục Sát, Thiên Hình hay gây ra các tai nạn về ngoại thương.
  • Bộ Nhật Nguyệt gặp Hình, Kỵ, Đà, Kình, Hỏa, Linh gây các bệnh thuộc về mắt và hệ tim mạch, có Nhật, Nguyệt thủ mệnh thì ngoài các đặc tính tốt lành, nhưng bao giờ cũng bị yếu, thần kinh dễ nhạy bén, hay dễ căng thẳng.
  • Bộ Cự Kỵ Thái Tuế thì hay gây vạ miệng.
  • Bộ Từ Phủ Vũ Tướng và Cơ Nguyệt Ðồng Lương hay gây bệnh nội thương.
  • Hỏa Linh gặp Hao hay mệnh có Hao giáp Hỏa Linh thì bị nghiện, thường là ma túy.

27. Tại sao hầu hết các sách và kinh nghiệm cho thấy hạn Ðào Hồng Hỉ khi đắc tài danh có tình duyên, lợi cho thi cử mà khi người già hạn gặp đào hồng thì lại nguy đến tính mạng?

Nhớ lại cách xếp đặt của các tinh đẩu: Ðào hoa luôn luôn cứ ở tứ chính tức là 4 cung Tý, Ngọ, Mão, Dậu và phối hợp với Thiên Không, Lưu hà, Kiếp Sát, gọi là Thiên Hà Địa Sát.

Thí dụ: người tuổi canh Tý thì Ðào Hoa ở Dậu Thiên Không ở Sửu, Kiếp Sát ở Tỵ, một Kiếp Sát cũng đủ làm mưa làm gió; ở một số tuổi lại gặp cả Lưu Hà. Người còn trẻ thì các sao còn vượng với bản thân, Đào Hồng chính là trợ tinh cho các sao tốt nên công thành danh toại. Nhưng người già, sức tàn lực kém, ví như bông hoa đào tàn úa lung lay trước gió, thần lưỡi hái là kiếp sát chỉ ra tay nhẹ cũng đủ hồn qui tiên cảnh.

Lấy trường hợp điển hình:

a. Số cụ Phan Thanh Giản sinh năm Bính Thìn (1796) chết năm Ất Mão 1967. Lưu hạn năm Mão ở cung Dậu có Đào Hoa ở chính cung có Thiên Không, Kiếp Sát ở Tỵ.
b. Lá số Ngọc Hân công chúa sinh năm canh Dần 1770 chết năm 1803 ở cung Mùi có Đào Hoa, Thiên Không ở mão, Kiếp Sát ở hợi.

28. Tại sao ở trên đời thấy có nhiều cảnh, con người lại phải chết đang lúc công danh, tiền bạc, tình duyên lên, danh tiếng lẫy lừng?

Trong phú Tử Vi có câu: Hung tinh đắc địa phát dã như lôi. Cát tinh nhập miếu trầm trầm sự nghiệp.

Bản tính của các cát tinh cư nơi miếu địa đều chủ phúc lộc nhưng sự nghiệp cứ từng bước phát dần dần, còn tính chất của các hung, Sát Phá Liêm Tham và bộ lục sát Kình, Đà, Hỏa, Linh Không Kiếp, nếu đắc địa sẽ phát rất nhanh, những tính chất của hung tinh, là bạo phát cho nên thực tế, hầu hết giới nhà binh nhưng người được thăng cấp quá nhanh, các cấp chỉ huy quá trẻ đều được lên bàn thờ sớm.

29. Theo như kinh nghiệm cụ Thiên Lương cho biết, người nào đến hạn Thái Tuế thì nếu đang tai nạn cũng được khởi đều được công thành danh toại. Nhất là ở những người có mệnh ở thế tam hợp Thái Tuế, đáo đại hạn cũng vào cung tam hợp Thái Tuế, thì cũng có danh ở đời nhưng tôi, thấy có người đang ở hạn Thái Tuế mà lại chết là sao?

Có người đáo vận tam hợp tuổi (tam hợp Thái Tuế ) mà vẫn chết vì gặp quá nhiều sao hung ác, lại khắc hành bản mệnh nên phải chết.

Nhưng theo quy luật người ấy chưa hưởng hết hạn Thái Tuế mà đã phải chết nên dường như sự bù trừ vô hình đã dành cho họ được lưu danh với hậu thế, hầu hết cái chết của những người đang ở vào thời kỳ đại hạn nằm trong tam hợp tuổi đều có cái chết đặc biệt mà người đương thời và thời sau đều biết đến nhớ tiếc.

Thí dụ:

  • Ðức Khổng Tử tuổi Canh Tuất chết ở đại hạn cung Ngọ (73).
  • Hạng Võ tuổi Ðinh Mão chết ở đại hạn cung Mão (32).
Một số phần nội dung bài viết đã được lập trình vào trong Hệ Thống Giải Đoán Lá Số Tử vi Xem Tướng. Bạn đọc có thể truy cập vào: ## để lấy lá số (lưu ý nhập ngày tháng năm và giờ sinh là âm lịch) sau đó căn cứu vào lời gợi ý giải đoán để tự tìm hiểu bản thân và tìm ra một cách ứng xử phù hợp với cuộc đời.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tử vi vấn đáp

Mẹo phong thủy khiến chồng nghe lời răm rắp

Để các đức lang quân ngoan ngoãn nghe lời vô điều kiện, các bà vợ nên áp dụng một số mẹo phong thủy dưới đây.
Mẹo phong thủy khiến chồng nghe lời răm rắp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để các đức lang quân ngoan ngoãn nghe lời vô điều kiện, các bà vợ nên áp dụng một số mẹo phong thủy dưới đây.


Lấy được một người chồng giỏi giang, biết lo toan cho sự nghiệp lại không bỏ bê gia đình, luôn tôn trọng ý kiến của vợ là điều mà mọi phụ nữ đều mong muốn. Không ít người tỏ ra thắc mắc là tại sao người kia có ngoại hình không bằng mình nhưng lại được chồng hết mực yêu thương, chiều chuộng… hoặc  những thắc mắc tương tự.

Ngoài đặc trưng tính cách, cách cư xử khéo léo tạo ra sự khác biệt, yếu tố phong thủy cũng có sức ảnh hưởng không ít. Do đó, chỉ cần đôi chút thay đổi về phong thủy nhà ở, bạn có thể cải thiện tình trạng hôn nhân của mình. Bạn có thể áp dụng một số mẹo phong thủy dưới đây, đảm bảo ông xã sẽ nghe lời răm rắp.

1. Cách bố trí giường ngủ


Xét theo góc độ phong thủy, hai phía bên trái và phải của giường ngủ là Thanh Long và Bạch Hổ. Nếu tường phía bên phía trái (Thanh Long) dày hơn, cao hơn hoặc áp sát vào giường hơn là phía phải (Bạch Hổ) tạo ra cục diện nam quyền, tức nam giới nắm quyền hành, chồng bảo đâu vợ nghe đấy, lời nói của người vợ không được xem trọng trong gia đình.

Meo phong thuy khien chong nghe loi ram rap hinh anh
 
Do đó, nếu muốn bản thân được coi trọng, lời nói của mình có trọng lượng hơn thì cần bố trí tường phía bên phải phải dày hơn và có địa thế cao hơn bên trái. Như vậy người vợ mới đứng ở thế thượng phong, làm việc gì cũng được chồng bàn bạc kĩ càng và xem trọng lời nói.

Tuy nhiên, cần lưu ý chỗ kê giường ngủ càng bằng phẳng, vuông vắn thì việc nắm giữ quyền hành sẽ được chia đều cho cả hai. Nếu bên phía mà người vợ hay nằm cao hơn một chút sẽ xuất hiện tình trạng vợ có tính cách mạnh mẽ hơn chồng.

Lưu ý cách xác định hướng trái phải của giường ngủ: Bạn đứng ở giữa phòng, mặt hướng ra ngoài cửa và nhìn xem phía trái là Thanh Long, phía phải là Bạch Hổ.

2. Bài trí nhà bếp


Trong phong thủy, nhà bếp tượng trưng cho vận thế của người vợ. Do đó, các bà vợ có thể thay đổi vận thế của mình bằng cách tuân thủ những nguyên tắc dưới đây.

Meo phong thuy khien chong nghe loi ram rap hinh anh
 
Bàn ăn: Bạn nên chọn bàn ăn hình tròn mang ý nghĩa đoàn tụ, sum họp bên nhau. Nên tránh những bàn có nhiều góc nhọn, cạnh hoặc hình dáng kì dị để hạn chế những rắc rối hoặc mâu thuẫn không đáng có trong gia đình. Vị trí đặt bàn ăn lí tưởng nhất là ở góc khuất trong nhà, tránh đặt gần cửa ra vào sẽ rước họa thị phi.

Bếp nấu ăn: Không nên đặt bếp nấu ăn nhìn thẳng ra cửa chính hoặc gần phía cửa sổ vì nơi đây có gió thổi mạnh vừa khiến việc nấu ăn bị gián đoạn lại không an toàn cho mọi người trong nhà. Dù là phòng bếp nhưng cũng cần đảm bảo đủ ánh sáng. Bạn có thể dùng đèn tuýp hoặc đèn chùm để giữ cho gian bếp sáng sủa cũng như khiến tình cảm vợ chồng thêm hòa hợp.

Phòng bếp sạch, gọn: Một gian bếp sạch sẽ, gọn gàng, ấm cúng với nhiều món ăn hấp dẫn sẽ là động lực để các ông chồng quay trở về mái ấm gia đình dù công việc có bận rộn hay áp lực tới đâu. Điều đó cũng giúp gia đình thêm hạnh phúc, đầm ấm.

3. Kê đồ nội thất trong nhà

Meo phong thuy khien chong nghe loi ram rap hinh anh
 
Trong phong thủy nhà ở, phía Đông và bên trái đại diện cho người đàn ông còn phía Tây và bên phải đại diện cho phụ nữ trong ngôi nhà.

Nếu người vợ muốn nắm giữ quyền lực gia đình trong tay nên tập trung kê các đồ nội thất sang phía bên tay phải (xác định theo vị trí ở giữa phòng, mặt hướng về cửa chính) hoặc kê nhiều đồ ở phía Tây. Khi vị trí hoặc hướng này có “trọng lượng” hơn, quyền lực trong ngôi nhà sẽ nghiêng về phía bạn.

► Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ giúp vợ chồng hạnh phúc, yên ấm

Theo Khám phá

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mẹo phong thủy khiến chồng nghe lời răm rắp

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd