Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Mơ thấy hồn ma –

Nhiều người hoảng sợ khi mơ thấy những bóng ma lởn vởn quanh mình. Giấc mơ "lạnh gáy" ấy ám chỉ điều gì? Một ngày nào đó, bạn mơ thấy những hồn ma cứ lởn vởn xung quanh khiến bạn hoảng sợ, tỉnh dậy và hét toáng lên, ngơ ngác tự hỏi không biết điều đó
Mơ thấy hồn ma –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy hồn ma –

Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Vị trí quán quân trong “lĩnh vực” này thuộc về tuổi Thìn. Theo sát nút là tuổi Tuất, tuổi Sửu, tuổi Ngọ và tuổi Dần.
Những con giáp dễ bị

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Quán quân: Tuổi Thìn

Nguyên nhân “đứt gánh giữa đường” trong tình yêu: Quá chú trọng đến bản thân mà không quan tâm đến cảm giác của đối phương.

Bản tính trời sinh của người tuổi Thìn là tự tin, thậm chí có đôi chút tự cao tự đại, dễ gây bất hòa với mọi người. Hơn thế họ còn khá nóng tính, không kiên trì và nhưng lại thích nắm quyền lực trong tay.

thin-6602-1399355378.jpg

Trong tình yêu, những tính cách này của người tuổi Thìn sẽ gây ra không ít phiền toái chẳng hạn như tranh cãi, gây mâu thuẫn hoặc gò ép đối phương phải nghe theo ý kiến của mình. Nếu không sửa đổi bản tính, tuổi Thìn chỉ có thể yêu nửa vời hoặc bị “đứt gánh giữa đường”.

Á quân: Tuổi Tuất

Nguyên nhân chủ yếu: Quá coi trọng sự nghiệp mà dành ít thời gian quan tâm tới nửa kia.

Tính cách kiên trì của người tuổi này sẽ khiến họ thực hiện tốt công việc được giao mà không có chuyện bỏ dở giữa chừng. Với họ, công việc là tất cả những gì tốt đẹp nhất trên cuộc đời này, nếu không làm việc, họ sẽ không thấy mình được sống.

tuat-1462-1399355379.jpg

Vì quá coi trọng sự nghiệp nên người tuổi Tuất có thể hy sinh cả tình yêu của mình nếu như phải chọn một trong hai điều này. Điều này khiến đối phương cảm thấy buồn tủi vì không dành được sự quan tâm nhiệt tình từ người yêu của mình. 

No3: Tuổi Sửu

Nguyên nhân chủ yếu: Tính cách bảo thủ, không biết cách tạo sự lãng mạn.

Tính cách cố chấp và có phần bảo thủ, không linh hoạt của người tuổi Sửu chính là rào cản khiến họ khó có được một tình yêu lãng mạn, tuyệt vời.

suu-5054-1399355379.jpg

Hơn thế, lòng tự trọng của người tuổi Sửu quá cao nên sẽ không có chuyện họ chủ động tỏ tình hay thổ lộ nỗi lòng, sự quan tâm của mình cho đối phương biết. Họ cứ âm thầm đợi chờ, không chủ động tạo sự lãng mạn nào cả, chờ cho đến khi đối phương tự gật đầu đồng ý là coi như xong. Thái độ nửa vời này của người tuổi Sửu sẽ khiến đối phương cảm thấy khó chịu và ức chế.

No4: Tuổi Ngọ

Nguyên nhân chủ yếu: Không quan tâm tới vẻ ngoài nên không biết cách làm đẹp.

Người tuổi này thường mong muốn có được cuộc sống bình yên và thoải mái. Tính tình thì cố chấp và không dễ thay đổi bản tính của tuổi Ngọ khiến họ khó tiếp thu những điều mới lạ mà cứ bảo thủ những gì mà mình cho là đúng.

ngo-1831-1399355379.jpg

Ngay trong chuyện ăn mặc cũng vậy. Họ cho rằng mặc sao cho thoải mái là được chứ không cần phải câu lệ chuyện xinh đẹp hay phô trương trước mặt người khác. Điều đó khiến họ “mất điểm” trong mắt đối phương. Đó cũng là một trong những lý do chủ yếu khiến mối tình của họ không đi đến tận đích cuối cùng.

No5: Tuổi Dần

Nguyên nhân chủ yếu: Tham vọng và tính chiếm hữu quá cao, khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt và khó nhẫn nhịn được.

Vốn ghen tuông vô đối, người tuổi Dần khó mà tin tưởng tuyệt đối vào người khác. Ngoài ra, vì quá yêu và yêu một cách chân thành, cuồng nhiệt đối phương nên tuổi Dần luôn muốn người ấy phải kè kè bên mình hoặc phải biết đích xác “tung tích” của nửa kia đang làm gì và ở đâu.

dan-4359-1399355379.jpg

Điều đó khiến đối phương cảm thấy ngột ngạt, khó chịu vì bị gò ép và không tin tưởng. Đôi lúc nửa kia sẽ cảm giác như không thể nhẫn nhịn được nữa mà nghĩ tới chuyện chia tay. Tình duyên của tuổi Dần theo đó mà sẽ bị đặt dấu chấm hết vô cùng bi thương.

Mr.Bull

5-1398737936-362x0-9564-1399355379.jpg

Thói quen trò chuyện của 4 nhóm máu

Nhóm máu cũng ảnh hưởng đến cách nói chuyện và tính cách của mỗi người đấy nhé, chúng mình cùng tìm hiểu thui. 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ bị 'đứt gánh' tình yêu

Xem nửa dưới đoán vận mệnh cuộc đời

Nhân tướng học không chỉ xem xét vận mệnh của một con người qua tướng mặt, tướng tay, hay nốt ruồi, mà còn xem cả bộ phận khác của cơ thể như mông, chân… Qua việc xem tướng nửa dưới cơ thể, bạn cũng có thể biết được vận mệnh cuộc đời của mình về sau ra sao.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Mông

Người gầy thì thường không có mông (mông lép), người béo thường có mông to. Nếu người gầy mà không có mông thì vận trình không bị ảnh hưởng lắm nhưng nếu người béo mà mông lại lép thì cả vận trình sức khỏe và vận trình sự nghiệp đều vô cùng xấu.    2. Chân dài và thẳng

Những người con gái mới lớn thường cho rằng phải gầy mới đẹp, nên luôn muốn mình gầy một chút. Theo nhân tướng học thì chân thon dài tất nhiên là đẹp nhưng nếu gầy quá mức thì không tốt, càng kiêng kỵ nếu “da bọc xương”, nhất là phần bụng chân.

Xem nua duoi doan van menh cuoc doi hinh anh
 
3. Đùi thon
Xét theo góc độ y tế thì đùi thon cho thấy cơ thể người phụ nữ đó bị thiếu chất dinh dưỡng, tâm trạng rất hay bồn chồn, lo lắng, dễ mắc các bệnh về đường tiêu hóa, mất ngủ, suy nhược thần kinh, thậm chí là trầm cảm và có cách sống hơi lập dị một chút. 
 
Những người sở hữu một cặp đùi thon thường rất khôn ngoan nhưng đôi khi lại quá nhạy bén, gần như lố bịch. Đối với tình yêu thì với người này có cũng được mà không thì cũng chẳng sao, nói chung là không quan tâm. Cho nên, đùi thon chưa hẳn đã là may mắn. 
 
4. Chân rắn chắc

Chân tròn và rắn chắc, nhất là phần bụng chân, với phụ nữ thì đây là kiểu chân “bắp chuối”, không đẹp cho lắm nhưng thực ra lại rất tốt. Những người phụ nữ có chân như vậy thường rất kiên định, đoan trang, điềm tĩnh, kiên nhẫn và sống rất tình cảm. Ngoài ra, những người này còn rất giỏi trong việc tề gia nội trợ, họ luôn có thái độ lạc quan, vô cùng chung thủy trong tình yêu, đây đích thị là người mẹ hiền, người vợ đảm. 
 
5. Lưng ngắn chân dài

Những người này thường nay đây mai đó, cả đời lao lực vất vả, cuộc sống gia đình không ổn định. Người phụ nữ có nhan sắc một chút thì cũng sẽ được hưởng nhiều tài lộc nhưng khả năng tích lũy được tiền bạc là rất thấp.   6. Lưng dài chân ngắn

Lưng dài chân ngắn là người có quyền lực, rất có phúc khí, phù hợp với các công việc quyền cao chức trọng, phúc lộc song toàn, cả đời an nhàn và tài vận cũng vô cùng hanh thông.    Phương Thùy (Theo 99166)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem nửa dưới đoán vận mệnh cuộc đời

Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Đôi mắt to hay bé và vị trí của nó có thể phản ánh rất rõ cá tính của một người. Mắt một mí Người mắt một mí thường trầm tính, chắc chắn, tỷ mỷ, luôn suy nghĩ tích cực. Họ không giỏi biểu đạt cảm nhận nội tâm, nhưng có nghị lực kiên cường, không dễ d
Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đoán tính cách qua đôi mắt (2) –

Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu

Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu có bắt nguồn như sau: Mục Liên tức là tôn giả Mục Kiền Liên, người thần thông nhất trong số các đệ tử của Phật Đà
Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đây là điển cố thứ Bốn hai trong quẻ Quan Thế Âm, mang tên Mục Liên Cứu Mẫu (còn gọi là Mục Liên Cứu Mẹ). Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu có bắt nguồn như sau:

Mục Liên tức là tôn giả Mục Kiền Liên, người thần thông nhất trong số các đệ tử của Phật Đà. ông là người hiếu thuận lại rất giàu lòng từ bi, từ nhỏ đã thành tâm hướng Phật, sau đó xuất gia làm hòa thượng, ông thành kính học Phật, tu hành ngày một cao siêu, thậm chí còn có năng lực thần thông.Vì tưởng nhớ đến người mẹ đã qua đời, ông dùng con mắt thần thông nhìn thấy nghiệp báo của mẹ, do lúc bà còn sống trên trần thế quá tham lam, nên sau khi chết bị sa xuống cối Quỷ đói, phải trải qua cuộc sống đói khố dày vò, chịu hình tội bị treo ngược trong địa ngục Quỷ đói.

Mục Liên liền vượt bao gian khố đến địa ngục, dùng thần lực của ông biến thành đồ ăn, dâng bát cơm đầy cho mẹ ăn đỡ đói. Nhưng mẹ của ông không thay đối được tính tham lam, nhìn thấy đò ăn đưa đến, rất sợ các ngã quỷ khác tranh ăn, lòng tham nối lên, nên khi đồ ăn vào đến trong miệng bà, lập tức biến thành than lửa, không có cách nào nuốt được.

Mục Liên tuy có phép thần thông, nhưng thân là con người, nên lại không cứu được mẹ. Trông thấy mẹ mình phải chịu thiêu đốt, trong lòng hết sức đau khổ, ông xin Phật tố chỉ dạy, làm thế nào để cứu được mẹ thoát khỏi biến khố. Phật Đà nói: “Mẹ ngươi khi còn sống đã tự gây điều nghiệt ngã, không làm việc thiện, tội trạng quá nặng, cho nên mới phải chịu báo ứng như thế. Muốn cứu bà ấy, không phải là việc mà sức lực của một mình ngươi có thể làm được. Ngày mười lăm tháng bảy, là ngày cuối cùng của kỳ kết hạ an cư (một trong những chế độ tu hành của Phật giáo.

Thời gian mưa vào mùa hạ ở Ấn Độ kéo dài suốt ba tháng, trong ba tháng này, những người xuất gia không được ra ngoài mà tập trung ở một chỗ, gắng sức tu hành, gọi là “an cư”. Nguyên nhân của việc này là chỉ sợ đi ra ngoài vào mùa mưa, sẽ dẫm chết các loài côn trùng và mầm non mới nhú của cây cỏ trên mặt đất, cho nên tập hợp lại để tu hành, tránh đi ra ngoài), pháp thiện đã tràn đầy, ngươi phải ở ngoài trời trong ngày mười lăm tháng bảy, chuẩn bị ngũ vị ngũ quả cho những người xuất gia cở các vùng, cung cấp cho họ. Như vậy, đã tập hợp được tăng lữ đang có và uy lực của các vị thần, không chỉ có thể cứu được mẹ của ngươi thoát khỏi biển khố, sớm được đầu thai, cũng có thể cứu được cha mẹ của người khác, khiến cho họ cũng thoát khỏi biến khố.” Phật đà còn niệm kinh Vu Lan Bồn (tiếng Phạn là Ullambana) cho ông, dặn dò ông vào ngày mười lăm tháng bảy sửa soạn lễ vật để tế mẹ mình.

Vì thế Mục Liên làm theo sự chỉ dạy của Phật Đà, tổ chức pháp hội (lễ hội nhà Phật), tụng kinh cúng đồ ăn, cuối cùng đã giải cứu được linh hồn của mẹ, lại phố độ được cho cha mẹ của mọi người.

Các đệ tử của Phật giáo sau này lấy ngày mười lăm tháng bảy làm tiết Vu lan, tố chức pháp hội, dâng hoa quả, nông sản để cúng tế tổ tiên. Sau khi Đạo giáp tiếp thu, thì gọi là “Trung nguyên tiết” (tết Trung nguyên), trong dân gian gọi là “Quỷ tiết” (tết Quỷ).
Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu là quẻ thẻ Thượng Cát trong quẻ thẻ quan âm, là quẻ số 42 !

Quẻ này là tượng trời ban ân huệ.
Những việc mong cầu sẽ rất tốt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Quẻ Quan Thế Âm Mục Liên Cứu Mẫu

Dùng phong thủy để lựa chọn nội thất trong nhà

Lựa chọn vật liệu cho những đồ trang trí trong nhà cũng là một điều quan trọng trong phong thủy. Tác dụng của từng loại vật liệu ấy như thế nào? Những thông tin dưới đây sẽ cho bạn biết cụ thể về điều đó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đồ trang trí bằng vải

Đồ vải trang trí trong nhà bao gồm rèm, đệm ghế, đệm dựa, khăn, gối chăn, gối sofa… Trang trí ngôi nhà bằng vải mất ít tiền lại tiện lợi.

Tùy từng người mà việc trang trí bằng với chất liệu này có thể tạo ra phong cách riêng, tạo cho ngôi nhà có một cảm giác ấm áp hoặc tươi mát hoặc trang nhã… vừa mang tính thẩm mỹ vừa mang tính thực dụng cao.

Đồ mây



 

Đồ mây được làm một cách tinh tế, kiểu dáng đa dạng với phong cách độc đáo, được nhiều người ưa thích. Đồ mây gia dụng bao gồm ghế mây, bàn mây, giường mây, sô pha, bình phong mây… Đồ mây trang trí bao gồm lẵng mây, lẵng hoa, giá hoa mây và đèn lồng.

Nguyên liệu của đồ mây gia dụng và đồ mây trang trí đến từ tự nhiên nên luôn tạo cho con người cảm giác thư thái, yên bình.

Đồ sắt

Đồ sắt trang trí giản dị, chú trọng sự kết hợp của hiện đại và cổ điển. Đồ sắt trang trí trong nhà gồm có ghế, giá hoa, tủ giày, tủ để đồ, cửa phòng chống trộm, lan can cầu thang và móc treo...

Những đồ sắt trang trí mang tính thực dụng và cả tính nghệ thuật. Trong nhà nếu có nhiều góc khuyết, góc chết đều có thể trang trí bằng đồ sắt, tạo ra một không gian phong phú.

Đá




 

Hiện nay, có nhiều loại đá được bài trí trong nhà, đá trở thành đồ trang trí tinh tế và cao quý. Đá thiên nhiên thường gặp nhiều nhất là pha lê, mã não. Pha lê có nhiều màu sắc khác nhau như tím, hồng, trắng… vừa có thể làm đồ trang sức vừa có thể gia công thành đồ dùng như cốc chén, đĩa bát, cầu pha lê hoặc các đồ vật khác.

Hoa khô


Hoa khô ngày càng được nhiều người ưa thích. Các loại lá, cành, hoa, quả, cỏ… thông qua xử lý công nghiệp như tẩy nước, sấy khô, nhuộm màu và phun thơm… không những vừa giữ được hình thái tự nhiên của hoa tươi vừa mang dáng vẻ, màu sắc, hương thơm đặc biệt. Nếu dùng trang trí trong nhà sẽ mang lại phong cách mới mẻ, hiện đại.

Cây màu xanh





 

So với các đồ trang trí khác thì cây xanh mang lại nhiều sinh khí hơn cho ngôi nhà của bạn. Tuy nhiên, khi trang trí không gian bằng cây cảnh phải chú ý đến màu của các loại cây, hoa và nhiều yếu tố khác.

(Theo Xzone)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dùng phong thủy để lựa chọn nội thất trong nhà

Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Bát tự của một người có ảnh hưởng tới vận mệnh của người đó. Cùng xem, trong bát tự có thiên can và địa chi tương xung thì cuộc đời sẽ hung cát như thế nào
Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bát tự của một người có ảnh hưởng tới vận mệnh của người đó. Cùng xem,  trong bát tự có thiên can và địa chi tương xung thì cuộc đời sẽ hung cát như thế nào nhé!


Luan giai la so tu vi co thien can dia chi tuong xung hinh anh
 
1. Thiên can và địa chi tương xung   Bát tự mà có thiên can và địa chi tương xung thì có cát có hung. Cát ở chỗ, lá số tử vi này biểu hiện cho biến chuyển, thoát khỏi ràng buộc, hạ quyết tâm thay đổi, bỏ thói quen xấu, là bước ngoặt của đời người. Người này sẽ có cơ hội được thăng chức, đi công tác, xuất ngoại, gây dựng sự nghiệp, thu hoạch, bỏ cũ đón mới, tu sửa bản thân.   Nhưng hung ở chỗ biểu hiện cho bước ngoặt, nghi kị hiểu lầm, tâm thần không yên, bất an, bị thương, chia rẽ, thị phi, xung đột, thù hận, va chạm, bị cướp bóc. 
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 1) Đặc điểm của lá số tử vi có tứ trụ thuần dương (phần 1) Kiến thức cơ bản về Thiên Can mà không nhiều người biết

2. Thiên can tương xung và địa chi tương xung
  Xung tức là ngũ hành của thiên can trong bát tự xung nhau và ngũ hành của địa chi trong bát tự xung nhau.    Thiên can xung gồm các trường hợp : Giáp Mộc – Canh Kim gây tổn hại vùng đầu, Ất Mộc – Tân Kim khiến tay chân đau đớn, gân cốt mỏi mệt, Nhâm Thủy – Bính Hỏa làm cho tim thận có vấn đề, Quý Thủy – Đinh Hỏa thì hôn nhân không thuận, tim và bàng quang yếu. Riêng Kỷ, Mậu Thổ là ở trung tâm ngũ hành nên không tương xung với thiên can nào cả.

Luan giai la so tu vi co thien can dia chi tuong xung hinh anh
 
Thiên can xung sẽ ảnh hưởng tới hoàn cảnh bên ngoài, địa vị xã hội và sức khỏe của lục thân (cha, mẹ, vợ/ chồng, anh, em, con) nên rất hung.
  Địa chi tương xung gồm các trường hợp: Tý Thủy – Ngọ Hỏa, Sửu Thổ – Mùi Thổ, Dần Hỏa – Thân Kim, Thìn Thổ – Tuất Thổ, Mão Mộc – Dậu Kim, Tỵ Hỏa - Hợi Thủy. Địa chi xung thưởng ảnh hưởng tới sự nghiệp, nơi ở và hôn nhân của bản mệnh. 
Những kiến thức cơ bản về địa chi trong tử vi (phần 2 Số mệnh đặc trưng của Lục Thập Hoa Giáp trong tử vi đẩu số (phần 4)
Trần Hồng


 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận giải lá số tử vi có thiên can địa chi tương xung

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Lễ Hội Đền Bà Chúa được tổ chức vào ngày 30 tháng 7 âm lịch tại xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Hội Đền Bà Chúa

Thời gian: tổ chức vào ngày 30 tháng 7 tới ngày 2 tháng 8 âm lịch.

Địa điểm: xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn công chúa Túc Trinh - người con thứ 4 của vua Trần Thánh Tông (là người có công khai hoang phục hóa, tạo dựng nên xóm làng).

Nội dung: Lễ hội được tổ chức trong 3 ngày và có sự tham gia của nhân dân hai làng An Hội và Cổ Nhuế.

Ngày 30/7:

Sáng quân kiệu nam bao sái kiệu và chuyển giá văn ở đình về đền, sau đó đội tế lễ mang lễ lên mộ chúa để làm lễ tế cáo Chúa tại đền. Chiều ban tế và đội dâng hương An Hội cúng tế chúa,  đến đêm các cụ trong đội tế làm lễ mở cửa đền.

Ngày 01/08:

Rạng sáng được bắt đầu với lễ mộc dục và cúng thức. Lễ mộc dục được một bô lão trong làng đảm nhiệm trong trang phục lễ hội truyền thống, đầu đội khăn xếp, quần trùng, áo dài, chân đi hài vân sảo, tất cả đều màu đỏ. Nước làm lễ mộc dục phải là nước mưa tinh khiết nấu với ngũ vị hương. Trước khi làm lễ, vị bô lão rửa tay gọi là quán tẩy, vẩy nước hoa vào người, xoa lên mặt, đầu và hai tay, gọi là tẩy uế. Sau khi làm lễ mộc dục cho Chúa Bà, các đồ mã cũ đem đốt, dâng đồ mới.

Lễ mộc dục xong là đến lễ cúng thức, ông chủ tế đọc chúc văn, nội dung ca ngợi công đức của công chúa Túc Trinh đối với dân làng Cổ Nhuế từ xưa tới nay, cầu xin hồng ân của trời đất, phật, thánh, Chúa Bà ban phúc lành cho quốc thái, dân an.

Khoảng 8h sáng sau khóa lễ cúng phật tại chùa Anh Linh đội tế về đền Chúa làm lễ tế khai quang, yên vị xin Chúa cúng giỗ. Ngày giỗ Chúa gọi là cúng đối kỵ, có dâng lục cúng: hương, hoa, trà, quả, đăng, thực. Lễ cúng thực gồm có: Cơm tẻ nấu bằng gạo lật, muối vừng, trám đen muối, giá luộc, tương, canh đậu xanh; sau nghi lễ cúng thực dâng chè kho, chè lam và kẹo lạc. Cỗ làm trong lễ hội là cỗ chay với những sản vật trong từng nhà sản xuất được đem dâng lễ tại đền như: mít, dừa, lựu, chuối, na, cam, mía, khoai luộc... Sau lễ khai quang là các đoàn của các làng xã lân cận và dân chúng thập phương vào dâng hương lễ Chúa đến tận xế chiều. (Ngày 02/08).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 30 tháng 7 âm lịch - Hội Đền Bà Chúa

Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu

Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu. Buổi sáng thường là lúc con người có được tinh thần thoải mái nhất sau một đêm dài
Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu. Buổi sáng thường là lúc con người có được tinh thần thoải mái nhất sau khi đã được nghỉ ngơi qua một đêm dài. Đây là lúc để bạn thu nạp năng lượng chuẩn bị cho một ngày học tập và làm việc phía trước.

Có một cách đơn giản để người ta thu nạp năng lượng và có một tinh thần sảng khoái, vui tươi nhất đó là đọc được những lời chúc buổi sáng lãng mạn. Tin nhắn gọi bạn thức giấc, cùng bạn đón ngày mới với ánh nắng chan hòa và giúp bạn mỉm cười vì biết rằng có ai đó đang nhớ đến bạn.

Hãy mượn những lời chúc buổi sáng ngọt ngào để gửi đến người ấy sự ngọt ngào, hạnh phúc và vui vẻ bạn nhé.

Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu

Nắng buổi sáng ấm áp và ông mặt trời đang mỉm cười! Em chúc anh buổi sáng tốt lành, một ngày thật tuyệt và làm việc hiệu quả nhé!

——–

Tặng em người con gái anh yêu món quà có tên “buổi sáng tốt lành” được gói bởi sự chân thành, buộc bằng sợi dây quan tâm và đính kèm một lời nguyện cầu cho em được bình an và hạnh phúc trọn ngày.

——–

Đêm lạnh đã qua và bắt đầu ngày mới ấm áp. Chúc em luôn mỉm cười như những vệt nắng lấp lánh lúc bình minh và một ngày thật tuyệt em nha.

Chúc em buổi sáng tốt lành, nhớ ăn sáng trước khi đi làm em nhé. Cả ngày phải nhớ là luôn vui vẻ và hạnh phúc nghen.

Sáng rồi kìa em, tạm chia tay giấc mơ hồng đêm qua, thức dậy và đánh răng đi nhé. Chúc em ngày mới tốt lành và một ngày vui vẻ.

Ê đồ lười! Dậy ăn sáng đi chứ. Chúc anh buổi sáng ấm áp và ngày mới thật tuyệt nha. Good morning!

Nếu như anh có một điều ước ngay lúc này, anh sẽ ước người yêu anh có một ngày vui vẻ và hạnh phúc. Buổi sáng tốt lành em nhé.

Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn em và hỏi: “Điều ước hôm nay của con là gì?”. Em trả lời: Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này!

Anh có nhờ một thiên thần đến đánh thức em dậy vào sớm nay, nhưng đáng tiếc thiên thần ấy cũng ngái ngủ giống em nên anh phải tự mình nhắn tin đánh thức em dậy. Dậy đi nhé, chúc em một buổi sáng tốt lành.

Đêm qua em ngủ ngon chứ? Anh nhắn tin để chúc em một ngày mới hạnh phúc và luôn mỉm cười nhé. Yêu em!

Anh gửi cho em tin nhắn này để chúc em một ngày tốt lành. Hy vọng

rằng mỗi ngày em sẽ luôn cười nhiều và hạnh phúc nhé.

Mỗi ngày khi anh thức dậy, điều anh ước trước tiên là mong người nhận được tin nhắn này sẽ luôn vui vẻ và đón ngày mới với nhiều may mắn!

Tặng em một món quà: Đây là lời bác sĩ khuyên: Ăn sáng đều đặn, nhiều nước, đừng quên ăn vitamin C và nhắn tin cho anh ít nhất 3 lần/ngày”. Chúc em một buổi sáng ấm áp nhé.

Anh biết em vẫn còn đang nằm lười, tay em cố gắng để cầm chiếc điện thoại và cặp mắt dễ thương kia chỉ mở được 1 nửa để đọc tin nhắn của anh thôi phải không. Đến lúc thức dậy rồi đấy… Good morning.

Chúc buổi sáng tốt lành. Chúc bạn có một ngày tràn ngập những khoảnh khắc hào hứng và tuyệt vời.

Trên thế giới này chỉ có 2 loại người hạnh phúc… thứ nhất là kẻ điên và thứ hai là trẻ con. Hãy bị điên để thực hiện điều mà bạn mong muốn và hãy trẻ con để tận hưởng những gì bạn có. Buổi sáng tốt lành nhé!

Có hai điều anh thích nhất đó chính là em và công việc. Và có một điều anh ghét nhất là có công việc mà không có em. Đi làm đi nhé, anh đợi em ở công ty.

Em à, quen biết em là điều anh thích nhất, yêu em là điều anh hạnh phúc nhất và mỗi sớm mai thức dậy anh lại có thêm động lực bởi người anh nghĩ đến đầu tiên là em.

Em này, em đừng để công việc bận rộn của mình cuốn em đi mất khỏi anh nhé! Mỗi ngày hãy dành cho anh mấy giây trong tâm trí em. Ngày mới tốt lành em nhé!

Anh đã dậy để đi làm chưa hay vẫn còn cuộn tròn trong chăn ấm thế, anh đừng nướng kỹ quá nhé, muộn giờ làm đấy. Chúc anh ngày mới vui vẻ và làm việc hiệu quả!

Nếu bạn vẫn đang loay hoay không biết gửi tin nhắn với nội dung như thế nào đến nửa kia của mình thì những lời chúc buổi sáng lãng mạn chính là những gợi ý tuyệt vời dành cho bạn. Tuy nhiên, đừng làm dụng quá nhiều một tin nhắn nhé.

Hãy tạo sự bất ngờ cho người ấy với những tin nhắn khác nhau cho những buổi sáng khác nhau sao cho phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng. Bạn cũng có thể biến tấu để tạo nên những tin nhắn mang dấu ấn của riêng bạn. Chắc chắn nửa kia của bạn sẽ yêu thương bạn nhiều hơn mỗi ngày. Chúc các bạn vui vẻ nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời chúc buổi sáng ngọt ngào dành cho người yêu

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, tu vi Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016?

Ai cũng muốn tìm được một người bạn đời tri kỷ hoàn hảo, người sẽ chia sẻ mọi ngọt bùi cay đắng cùng bạn suốt đời. Nhưng liệu người đàn ông bạn đang hẹn hò có phải là người đó hay không, liệu bạn đã yêu đúng người hay nhầm người đây?

Cùng 12 cung hoàng đạo điểm danh số đào hoa năm 2016 dưới đây nhé và hãy tận dụng cơ hội làm những việc đó ngay đi nhé.

Kim Ngưu

Sự chân thành, chung thủy và đáng tin cậy của chòm sao đào hoa năm 2016 – Kim Ngưu sẽ được đền đáp xứng đáng. Những đức tính tốt đẹp cộng với vận may giúp Ngưu chan đạt được bước tiến vững chắc về mặt tình cảm.

Người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường

Người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường

Bói tình yêu thấy người có tình yêu nhất định tiến tới lễ đường, người còn lẻ bóng khẳng định sẽ tìm thấy ý trung nhân. Nhân cơ hội này, hãy tích cực gặp gỡ bạn bè và thử chút phiêu lưu với những đối tượng mà trước nay chưa từng nghĩ tới đi Kim Ngưu nhé, biết đâu kết quả lại vượt ngoài mong đợi.

Song Ngư

Nội tâm của Song Ngư vốn cô đơn và nhạy cảm, luôn khao khát tình yêu chân thành, lãng mạn, cùng nhau vượt qua sóng gió để tới được bến bờ hạnh phúc. Coi ngày tốt năm 2016, thần tình yêu gõ cửa nhà Song Ngư, mang tới cho họ nhiều niềm vui hơn trong tình cảmn

 

Hải Vương tinh nhập cung tình yêu, là quý nhân của Song Ngư, thúc đẩy họ mạnh dạn hơn trong các mối quan hệ xã giao. Cũng chính quý nhân này là cầu nối, giới thiệu đối tượng tốt cho Ngư nhi.

Những chòm sao nhóm Nước là đối tượng hòa hợp nhất với Song Ngư trong năm 2016, gặp gỡ nhau nhất định sẽ hạnh phúc.

Cự Giải

Tình yêu của Cự Giải năm 2016 hứa hẹn sẽ rất rực rỡ, không chỉ tình cảm mặn nồng mà còn thấu hiểu, hòa hợp với nhau. Tới giữa năm, Cự Giải thay đổi theo hướng tích cực, cởi mở hơn, xuất hiện tự tin trước đám đông, trở thành tâm điểm chú ý, vạn người say mê.

 

Đây là thời điểm mấu chốt, đừng để sự rụt rè của mình thắng thế, mạnh dạn tiến lên nắm lấy hạnh phúc của bản thân Cự Giải nhé. Đôi khi chủ động một chút cũng có sức hấp dẫn lắm đấy.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chòm sao nào tìm được bạn đời tri kỉ năm 2016? - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Phong thủy phòng của gia chủ –

Phòng của gia chủ được xem như trái tim trong cơ thể con người. Nó rất được chú ý mọi thứ: - Vị trí đặt phòng - Cửa phòng - Hướng phòng - Cách bài trí - Giường ngủ. Mọi thứ phải thể hiện sự hoàn hảo về phong thủy và tính thuận tiện quán xuyến toàn g

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng của gia chủ được xem như trái tim trong cơ thể con người. Nó rất được chú ý mọi thứ:

30

– Vị trí đặt phòng
– Cửa phòng
– Hướng phòng
– Cách bài trí
– Giường ngủ.

Mọi thứ phải thể hiện sự hoàn hảo về phong thủy và tính thuận tiện quán xuyến toàn gia cư và an toàn.

1. Vị trí bố trí phòng gia chủ trong ngôi nhà cần

– Nơi đất tốt lành trong cả thửa đất; nơi đang hiện hữu “điểm bóng của trường khí tuế vận” (của nhà một tầng).

– Nơi trung tâm có thể bao quát được toàn bộ ngôi nhà nếu là nhà nhiều tầng.

– Nơi có tính an toàn cao kể cả nhà một tầng hay nhà có nhiều tầng.

2. Cửa phòng của chủ nhà cần đặt được ý nghĩa phong thủy cát tường

–    Kích thước lỗ ban ở cung phúc thọ hay sức khỏe.

–    Hình dạng cánh cửa có cạnh góc; không có dạng vòng cung; mở một cửa với một cách duy nhất.

Cửa vòng cung là dáng động không phù hợp với yêu cầu yên tĩnh của nơi nghỉ ngơi và ngủ của chủ nhân, là nơi đế lấy lại sức lực và suy nghĩ đến mọi việc của gia đình.

Cánh cửa mớ thuận chiều về phía tay phải, có một khóa chắc chắn, không dùng một cửa hai khóa.

Cửa được làm bằng vật liệu bền chắc; không làm cửa kính để đảm bảo an toàn và kín đáo.

3. Cửa sổ không mở thẳng với cửa phòng đế tránh buột khí, hoặc mở đối diện hướng khí để phản khí vào phòng.

– Ngoài cửa sổ không có cây to che chắn.

– Cửa sổ có thể mở cùng hướng khí để nạp sinh khi vào phòng khi phải đóng cửa ra vào.

– Cửa sổ có thể làm cửa kính có song sắt chắc chắn.

– Nếu trước cửa sổ có cây to (bất khả kháng) có thể treo ở cửa sổ một tua băng bằng vải đỏ.

4. Hướng phòng theo hướng chủ đạo của ngôi nhà

–    Hướng phòng có thể trùng hướng mở cứa phòng hay nhìn ra ban công theo hướng khí của chủ gia đình.

–    Hướng phòng cần được tôn trọng. Vì vậy không được có tường bị kín hướng này. Tránh mở thẳng với cửa buồng vệ sinh, phòng tắm.

5. Màu sắc tường phòng, sàn phòng và cửa phòng.

Màu sắc đóng góp vào sự yên tĩnh của người ở trong phòng. Vì vậy, màu sắc trần phòng trắng, tường bao quanh màu mơ chín nhạt hay xanh lơ nhạt hồng tránh các màu tối.

Nền phòng lát gạch, gỗ hay thâm có màu cà phê, mầu gỗ tự nhiên sẽ tạo sự ấm áp, vững chãi, tránh màu trắng, đỏ chói, đen, xanh.

6. Giường ngủ cần tuân thủ phép an toàn phong thúy cát tường:

– Giường kê chéo góc với cửa ra vào phòng.

– Giường không kê dưới xà, dầm để tránh sự hình bóng đè người.

– Giường kê cách tường các phía ít nhất 25 cm. Trừ phía đầu giường đế tránh “lỗ không”. Mục đích tạo thuận lợi cho sinh khí vận hành quanh giường ngủ.

– Giường không nên làm bằng kim khí sử dụng lâu dài. Giường kim khí thuộc khí âm, trong khi người nằm ngủ cần ấm áp của khí dương.

– Giường cần chắc chắn vững vàng, không phát ra âm thanh khi nằm, để tĩnh, để đảm bảo an toàn cho tính mạng.

– Giường có màu sắc ấm, tránh màu lạnh, buồn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng của gia chủ –

Bệnh tim đập mạnh với bầy rắn điên nhảy múa trong giấc mơ –

Bệnh tim đập nhanh là do thiếu máu, khiến trong lòng lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi. Có một nữ sinh đại học ngoại ngữ Hoa Đông Trung Quôc nghỉ hè về quê ở vùng núi Trường Bạch, ngày đi chơi, tối về nằm mơ thấy nhiều chuyện khủng khiếp. Trong mơ cô thấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bệnh tim đập nhanh là do thiếu máu, khiến trong lòng lúc nào cũng cảm thấy sợ hãi.

Có một nữ sinh đại học ngoại ngữ Hoa Đông Trung Quôc nghỉ hè về quê ở vùng núi Trường Bạch, ngày đi chơi, tối về nằm mơ thấy nhiều chuyện khủng khiếp. Trong mơ cô thấy mình là nhân viên công ty nhà đất công tác dã ngoại theo các đội xây dựng. Khi đến một công trường nọ, phát hiện trong đám cỏ rậm có một con rắn rất lớn, cô đã đánh chết con rắn. Nào ngờ cô gặp chuyện phiền phức. Đêm đó mặt đất có đến hàng trăm hàng nghìn con rắn vây quanh khu nhà ở của công nhân, mọi người đều kinh sợ, chạy cả vào phòng.

giấc mơ về rắn

Cô gái hoảng sợ nhảy lên giá cao, bầy rắn bắt đầu uốn éo một điệu nhạc hay, hấp dẫn. Theo tiếng nhạc, bầy rắn điên cuồng nhảy theo, náo loạn, mây đen phủ đầy trời. Tim cô đập thình thịch tưởng như nhảy ra khỏi lồng ngực. Quá sợ hãi, cô lấy tay bịt chặt mắt lại. Lúc đó ở bãi đất rộng, một con rắn to há miệng như cái bát bò ra giữa, dùng đầu đập xuống đất 3 cái như bái lạy, ngẩng đầu lên kêu 3 tiếng rồi nhảy múa. Lúc đó trên trời chớp lóe sáng, một trận cuồng phong nổi lên, cô không dám nhìn, chạy vội vào phòng, trùm chăn kín mắt. Sau đó có chớp lửa sáng, cô giật mình tỉnh giấc.

Sau đó cô gái bị đau tim, tim đập nhanh. Cô được đưa vào bệnh viện điều trị.

Trong thời gian ở bệnh viện, bác sĩ khuyên cô không nên coi những sự việc xảy ra trong giấc mơ là thực, giấc mơ chỉ là điềm báo bệnh cho người ta đề phòng. Về sau, thầy thuốc khuyên cô nên thay đổi hoàn cảnh sống. Khi đó nhịp đập của tim trở lại bình thường.

– Trong giấc mơ thấy rắn là biểu hiện của nhịp tim đập không theo quy tắc, đó cũng là biểu hiện của những hoạt động không ổn định. Việc giết rắn và đàn rắn quay xung quanh chỉ là ảo tưởng. Cảnh tượng bầy rắn và con rắn to nhảy múa biểu hiện tim đập mạnh. Trên thực tế nhịp tim của cô đã thể hiện rỗ điều này.

Nằm mơ thấy rắn hoặc rồng nhảy múa nói chung báo hiệu nhịp đập của tim có vấn đề.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bệnh tim đập mạnh với bầy rắn điên nhảy múa trong giấc mơ –

Hướng kê giường hợp người sinh năm 1964 Giáp Thìn –

Hướng kê giường tuổi Giáp Thìn 1964 - Năm sinh dương lịch: 1964 - Năm sinh âm lịch: Giáp Thìn - Quẻ mệnh: Ly Hoả - Ngũ hành: Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to) - Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh - Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh K

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng kê giường tuổi Giáp Thìn 1964

– Năm sinh dương lịch: 1964

– Năm sinh âm lịch: Giáp Thìn

– Quẻ mệnh: Ly Hoả

– Ngũ hành: Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn to)

– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạchh

– Hướng tốt: Bắc (Diên Niên); Đông (Sinh Khí); Đông Nam (Thiên Y); Nam (Phục Vị);

– Hướng xấu: Tây Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông Bắc (Hoạ Hại); Tây Nam (Lục Sát); Tây (Ngũ Quỷ);

1405331294-1383125393-7

Phòng ngủ:

Con người luôn giành 30% cuộc đời mình cho việc ngủ, nên phòng ngủ chiếm một vai trò đặc biệt quan trọng.

Vị trí phòng ngủ trong nhà và vị trí giường ngủ trong phòng ngủ nên ưu tiên ở hướng tốt (các hướng Sinh Khí, Thiên Y, Diên Niên, Phục Vị)

Gia chủ mang mệnh Hỏa, Mộc sinh Hỏa, nên hướng giường nên quay về hướng thuộc Mộc, là hướng Đông; Đông Nam;

Nếu tính cho các phòng ngủ của các thành viên khác trong gia đình, thì cần tính hành ứng với mỗi thành viên.

Màu sơn trong phòng ngủ, màu sắc rèm cửa nên sử dụng màu Xanh lá, đây là màu đại diện cho hành Mộc, rất tốt cho người hành Hỏa.

Tủ quần áo nên kê tại các góc xấu trong phòng để trấn được cái xấu, là các góc Ngũ Quỷ, Hoạ Hại, Lục Sát, Tuyệt Mệnh.

Giường ngủ cần tránh kê dưới dầm, xà ngang, đầu giường tránh thẳng với hướng cửa mở vào, thẳng với hướng gương soi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng kê giường hợp người sinh năm 1964 Giáp Thìn –

Tướng đường chỉ tay sao thủy –

Đường này chạy từ lòng bàn tay lên ngón út chủ yếu chỉ sự hoạt bát, hăng hái, trí tuệ nhạy bén. Nó xuất hiện trong bàn tay chỉ khả năng quan sát, óc phân tích giúp cho sự thành công trong cuộc sống của cá nhân. Vì vậy nó được xếp vào một trong năm đư
Tướng đường chỉ tay sao thủy –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng đường chỉ tay sao thủy –

Bắt bài hôn nhân thông qua tử vi năm sinh (phần 1)

Thiên can năm sinh ẩn chứa nhiều điều, có thể dựa vào đó để xem tử vi hôn nhân. Muốn biết nhân duyên cuộc đời như thế nào, hãy theo dõi bài viết dưới đây.
Bắt bài hôn nhân thông qua tử vi năm sinh (phần 1)

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên can năm sinh ẩn chứa nhiều điều, có thể dựa vào đó để xem tử vi hôn nhân. Muốn biết nhân duyên cuộc đời của bạn như thế nào, hãy theo dõi ngay bài viết dưới đây.


Bat bai hon nhan thong qua tu vi nam sinh phan 1 hinh anh
 
1. Năm Tân (năm có đuôi là số 1): Vũ Khúc hóa kị
  Vũ Khúc tinh bình thường đều xưng là tài tinh, cũng có chứa tính cô khắc, Vũ Khúc hóa kị thì là người năng lực quản lý tài sản kém lại yêu tiền, hơn nữa ý nghĩ ngoan cố, dễ dàng làm tài vụ phức tạp, có thể thường xuyên xuất nhập bất minh hoặc ham món lợi nhỏ mà nảy sinh rắc rối lớn. Coi tử vi của người sinh năm Nhâm có thể đoán biết, dễ cùng bạn đời bất đồng trong quan niệm quản lý tài sản mà sinh ra cảm tình không hòa thuận. Người này suy nghĩ có thể dùng tiền tài đổi lấy tình yêu, để giành được cảm tình không tiếc hao tổn tiền bạc nên thường xuyên bị lừa, lâm vào cảnh chia ly cô độc.   2. Năm Nhâm (năm có đuôi là số 2): Tham Lang hóa kị   Tham Lang tinh là hoa đào tinh cũng là cơ hội tinh, một khi hóa kị thì tạo thành cục diện phức tạp. Xem tử vi hôn nhân của người sinh năm Quý, dễ gặp nạn đào hoa, trở thành người thứ ba trong tình cảm. Hoặc là nhân duyên kém, gặp người không tốt, phóng túng bản thân trong tình dục, không thể kiềm chế, tình mê ý loạn, sai lầm nối tiếp, hoặc bạc nghĩa bội tình, cuối cùng bị chúng bạn xa lánh, thân thể rã rời.
Chị em “dàn trận phong thủy” để anh xã luôn thủy chung 5 mẹo phong thủy vượng phu khiến chồng càng ngày càng yêu Những nàng giáp có số vượng phu, quý ông lấy ngay kẻo muộn

3. Năm Quý (năm có đuôi là số 3): Thái Dương hóa kị
  Phàm là người sinh năm Giáp thì đều thông minh, tự cao, phong cách hành sự hay thay đổi, đa tình nên cả đời khó tránh vì sự nghiệp mà tất bật, bản thân không thể tự quyết định, vì nhiệt tình mà giao lưu với nhầm người, rất có thể bị người khác lừa gạt. Tử vi hôn nhân của người này vì coi trọng công tác, đi sớm về khuya nên bạn đời oán trách, không có thời gian bồi dưỡng tình cảm.   4. Năm Giáp (năm có số đuôi là 4): Thái Âm hóa kị   Thái Âm là đại biểu gia đình, tình cảm tinh diệu, nếu hóa kị thì cảm tính, đa tình lại chấp nhất, dễ dàng xúc động, theo đuổi chủ nghĩa hoàn mỹ quá mức lại thích để tâm vào chuyện vụn vặt, thường xuyên xoi mói làm cho người khác chịu không nổi. Hơn nữa dễ dàng lưu luyến xa hoa truỵ, khiến đối phương không có cảm giác an toàn, là vết thương trí mệnh của hôn nhân.
Bat bai hon nhan thong qua tu vi nam sinh phan 1 hinh anh
 
5. Năm Ất (năm có số đuôi là 5): Liêm Trinh hóa kị
  Liêm Trinh tinh thông minh lại tự phụ, cảm tính mà đa tình, một khi hóa kị liền khó tránh khỏi vì tình mà mua dây buộc mình. Liêm Trinh tinh trời sinh dục vọng mạnh, hóa kị thì tính cách cương liệt, dễ dàng suy nghĩ luẩn quẩn trong lòng mà đi tới cực đoan, làm ra những việc ngốc nghếch. Người này có tính ghen tuông rất mạnh, ảnh hưởng tới hôn nhân không ít.   Tướng mặt ông chồng mang lại hạnh phúc mĩ mãn cho vợ Vợ chồng mệnh gì kết hợp với nhau thì đại cát đại lợi? Bát tự hòa hợp, hôn nhân như ý
► ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự

Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bắt bài hôn nhân thông qua tử vi năm sinh (phần 1)

Canh Thân mệnh gì –

Người sinh 1980, Canh Thân, có Ngũ hành năm sinh là Thạch Lựu Mộc, nhưng Mệnh Cung của Nam và Nữ khác nhau: 1. Nam Cung KHÔN, hành THỔ, hướng Tây Nam, quái số 2, sao Nhị Hắc, Tây tứ mệnh (Đông bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam). Đeo đá màu Đỏ, Hồng, Tím để
Canh Thân mệnh gì –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Canh Thân mệnh gì –

Cách hóa giải phản quang sát –

Bạn có lo lắng người nhà gặp tai họa bất ngờ không? Bạn có biết gây nên những tai họa này là do sát khí phong thủy trong nhà không? Bây giờ hãy đối chiếu xem ngôi nhà bạn có phải bị sát khí phong thủy. - Xung sát: Ngôi nhà thường là cao đến chục tầ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn có lo lắng người nhà gặp tai họa bất ngờ không? Bạn có biết gây nên những tai họa này là do sát khí phong thủy trong nhà không? Bây giờ hãy đối chiếu xem ngôi nhà bạn có phải bị sát khí phong thủy.

–   Xung sát: Ngôi nhà thường là cao đến chục tầng, theo quan niệm của phong thủy, ở dưới tầng năm, dễ bị xung sát, bởi ngôi nhà hay bị cột đèn, cây che khuất, như thế người nhà dễ bị nhiễm bệnh.

   Cách hóa giải: Dùng thép pha lê, đồng tiền ngũ đế để hóa giải. Nếu nhà nằm hướng sát lại gặp sao xấu tại hướng đấy thì phải theo tính chất ngôi sao này, kết hợp những công cụ hóa giải khác, như rèm hạt, bình phong …

–   Thương sát: Loại sát này là một loại sát khí vô hình, một con đường cũng giống như một khẩu súng, nếu trước nhà có một hành lang thẳng và dài thì là thương sát, ngoài ra cửa sổ bên ngoài có cột phơi quần áo cũng thuộc thương sát. Nếu có một con đường đâm thẳng vào nhà hoặc có sông giống như đâm thẳng vào nhà thì cũng thuộc thương sát. Thương sát điềm tai họa huyết quang và bệnh tật …

1

Cách hóa giải: Một là treo rèm hạt chu hoặc bài trí bình phong; hai là tại chỗ cửa sổ bài trí kim nguyên báu hoặc một đôi kỳ lân, có thể hóa giải và giúp sự nghiệp phát triển.

–   Dao liềm sát: Những đường hình cong hoặc cầu vượt hướng cong đều thuộc dao liềm sát, có thể thu hút tai hoạc huyết quang. Phối hợp hung cát của huyền không phi tinh, thì có thể hóa giải được hung tinh của dao liềm sát.

   Cách hóa giải: Bài trí một đôi đồng ngựa và đồng tiền ngũ đế tại hướng cát thì có thể hóa giải loại sát này.

–   Cô phong sát: Có nghĩa là, xung quang ngôi nhà đều thấp, không có dựa, nếu gặp căn nhà như thế sẽ không có bạn bè giúp, con cái bất hiếu và xa nhà.

   Cách hóa giải: Bài trí đồng hồ lô tại hướng cát hoặc hướng có khí vượng thì có thể hóa giải.

–   Cát cước sát: Có nghĩa là ngôi nhà gần với mặt nước, tình huống này trong trung tâm thành phố ít gặp. Khi nước gần với ngôi nhà, người may mắn thì phải lợi dụng thời gian này làm việc, thì sẽ được phát tài hơn, nhưng thời gian không lâu. Đặc điểm loại sát này là khiến vận khí người khác thường, lúc may mắn thì phát tài, lúc không may mắn thì chẳng còn gì hết.

   Cách hóa giải: Tại hướng có khí vượng bài trí ngọc bát trạch hoặc loại công cụ khác có tác dụng thượng vượng.

–   Bạch hổ xuất thổ: Trong phong thủy nói “trái Thanh Long, phải Bạch Hổ” có nghĩa là bên phải của ngôi nhà, nhà mới xây hoặc phá đi sẽ xúc phạm bạch hổ. Gặp tình hình như thế thì người sống trong nhà sẽ bị đau ốm nhiều, nặng thì người bị mất.

   Cách hóa giải: Tại chỗ sát bài trí một đôi kỳ lân.

–   Có đường xuyên qua nhà: Có rất nhiều nhà xây trên đường hầm, có nhiều xe ở dưới nhà đi qua, hình sát này có ảnh hưởng lớn với những tầng nhà gần đường hầm, khiến vận khí trong nhà khác thường, vận tài kém, người sống trong nhà sức khỏe kém, dễ gặp tai họa huyết quang.

   Cách hóa giải: Bài tró hồ lô, đồng tiền ngũ đế và một đôi tháp Văn Xương tại chỗ khí vượng và hướng cát. Bài trí đồng hồ lô và tiền ngũ đế có thể hóa giải vận khí khác thường do đường xuyên qua dưới nhà; có đường xuyên qua trong nhà thì có thể bài trí ngọc tám cạnh, đồng tiền ngũ đễ và một đôi tháp Văn Xương để hóa giải.

–   Liêm trinh sát: Nếu sau lưng nhà có núi dựa, là phù hợp nguyên tắc phong thủy nhưng nếu sau lưng núi không mọc cây cỏ nào, lại nhiều đá có hình lạ, trong phong thủy gọi là liêm trinh sát. “Núi dựa” đại diện sếp và người lớn hơn mình, núi xấu có nghĩa là thị trong công việc sếp hoặc người lớn hơn mình hay làm khó mình, mà người thuộc mình quản lý đa số là những người nịnh bợ.

Cách hóa giải: Thường xuyên thả rèm xuống; tại hướng sát treo hồ lô, nếu sát nặng quá thì bài  trí 4 đôi Bỉ Hưu để hóa giải.

–   Thiên cầu sát: Một cầu vượt từ cao xuống dưới, cầu được hình dung là nước, cầu xuống thì nước chảy, là hiện tượng tài khí bị chảy đi, gọi là thiên cầu sát. Nếu cầu này thấp xuống hình cong ôm ngôi nhà là tốt, ngược lại là xấu.

   Cách hóa giải: Tại chỗ đối diện với cầu thấp xuống, bài trí voi đồng đã nhập thần hoặc bài trí một đôi kỳ lân đồng.

–   Khai khẩu sát: Cửa chính đối diện với thang máy gọi là “khai khẩu sát”. Khi bạn mở cửa nhà ra nhìn thấy cửa thang máy đóng và mở thì khí vận của nhà bạn bị thang máy mang đi, sẽ khiến nhà không  có tiền, nghèo, người sống trong nhà bị đau ốm, cùng lúc dễ bị tai họa.

   Cách hóa giải: Treo biển đồng trấn nhà, dưới ngưỡng cửa để một xuyên đồng tiền ngũ đế là hiệu quả tốt nhất; hoặc bài trí con sư tử hàm kiếm và cùng thêm một túi gấm có đồng tiền bạc; hoặc bài trí một đôi sư tử làm bằng đồng hoặc bài trí thiên thú hàn kiếm.

–   Phản quang sát: Do bị ánh sáng của ánh nắng, mặt nước, kính chiếu gọi là phản quang sát. “Phản quang sát” trong truyền thống là ngôi nhà gần biển, ánh nắng do mặt nước phản quang chiếu vào trong nhà, sẽ khiến người phản ứng lờ đờ, tinh thần không tập trung được; “Phản quang sát” trong hiện đại là nhà gần trung tâm thương mại, ánh nắng do kính phản quang chiếu vào trong nhà, sẽ khiến người gặp tai họa lớn và bị thương chảy máu.

   Cách hóa giải: Thông thường gặp phản quang sát, có thể dán giấy trên kính, sau đó treo hai xuyên hồ lô tại hai bên cửa sổ, nếu thêm một hồ lô gỗ nữa thì có thể hóa giải, nếu loại sát này nhẹ thì không cần đến hồ lô gỗ, nếu rất nặng thì phải treo hai xuyên đồng tiền ngũ đế; hoặc dùng kính lồi bát quái hoặc trên kính bát quái có kỳ lân để hóa giải.

–   Tam giác sát: Xung quanh ngôi nhà có góc nhọn, như góc nhọn của tòa nhà giống như một con dao đâm ngay vào mặt, người sống dưới tầng bị ảnh hưởng lớn nhất, khi gặp hình sát này, người nhà dễ bị thương, sức khỏe yếu, với những bệnh mãn tính, nhất là những bệnh bị đau và chảy máu thì hay bị tái phát lại.

   Cách hóa giải: Tại chỗ cửa sổ bài trí sư tử hàn kiếm

–   Đỉnh tâm sát: Đối diện nhà cửa có cột điện gọi là đỉnh tâm sát, như thế khiến chủ nhà tính cách nóng nảy, khó tính, tổn thương thị giác và gặp tai họa huyết quang.

   Cách hóa giải: Bài trí ngọc trắng và đồng tiền ngũ đế là được

–   Bích dao sát: Nếu đối diện nhà mình có một nhà rất to, một bên tường của nhà đấy giống như một con dao cắt nghiêng nhà mình gọi là bích dao sát. Loại sát này có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của chủ nhà, nhất là gặp tai nạn bất ngờ.

Cách hóa giải: Treo một kính lồi đối diện với tường nhà đối diện thì sẽ được hóa giải. Nếu “dao này” rất dài thì cần phải sử dụng bùa sơn hải trấn để hóa giải. Kể là kính lồi hay là bùa sơn hải trấn đều giống như một thuẫn hóa giải sát khí của nó.

–   Phản cung sát: Phản cung sát có nghĩa là phía trước nhà có đường, song hoặc kiến trúc hình phản cung. Phản cung sát có thể khiến người sống trong nhà bị gặp tai họa và phá tài.

   Cách hóa giải: Có thể bài trí hồ lô và đồng tiền ngũ đế hoặc một đôi kỳ lân đối diện với chỗ sát.

–   Dao nhẫn sát: Có những nhà phía dưới có bãi đỗ xe và phía trên đỗ xe có lều, nếu lều là hình dáng sóng nước thì sẽ thành dao nhẫn sát cho nhà đối diện, khiến người sống trong nhà gặp tai nạn bất ngờ, phần đầu dễ bị thương …

 Cách hóa giải: Có thể theo cách hóa giải truyền thống “bài trí rồng rùa”. Bài trí một con rồng rùa trên cửa sổ đối diện với lều, trong đó có nghĩa là dùng vỏ cứng của con rùa coi là thuẫn để đỡ lưới dao.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải phản quang sát –

Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Người tuổi Mùi thường được coi là người may mắn, có nhiều phúc khí, người tuổi Mùi dễ tự mình làm nên sự nghiệp.
Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 
 

Mùi là con giáp đứng thứ 8 trong 12 con  giáp, bởi vậy, Mùi được coi là con giáp may mắn. Trong quan niệm của người Á Đông thì số 8  là con số của phát lộc, phát tài, tượng trưng cho triển vọng thịnh vượng.
Ly giai vi sao nguoi tuoi Mui thuong gap may man hinh anh 2
Ảnh minh họa
Ngoài ra, giờ Mùi kéo dài từ 13-15h, là thời gian mở đầu của buổi chiều, con người vừa ăn trưa xong, đang thanh thản nghỉ ngơi và sung mãn bước vào buổi lao động mới. Vì vậy, quan niệm dân gian thường cho rằng người sinh năm Mùi có số hưởng an nhàn.   Người tuổi Mùi nhìn chung phóng khoáng, rộng rãi, công bằng, tử tế và dễ động lòng trắc ẩn trước những bất hạnh của người khác. Tuổi này cũng luôn vui cười, sống chân thực và thân thiện với mọi người.   Trong 12 con giáp, Mùi được xem là biểu tượng của tính ôn hòa, thuần hậu. Trẻ em tuổi Mùi thường hiền lành, ngoan ngoãn, dễ bảo, đôi khi còn có sự nhút nhát, bẽn lẽn đáng yêu, dễ tạo thiện cảm. Những nét tính cách này có thể theo cả tới khi đã trưởng thành bởi đây dường như là đặc trưng bản chất của người tuổi Mùi.   Nếu đường đời được thuận lợi, người tuổi Mùi dễ có được vẻ phong nhã, thanh nhàn, nhưng nếu cuộc sống không được như ý, gặp nhiều vất vả, gian truân, thất bại, người tuổi Mùi lại trở nên rất bi lụy, ủy mị, chán chường.   Người tuổi Mùi thường gặp nhiều may mắn?
Người tuổi Mùi thường được kính trọng và nhận được nhiều sự ngưỡng mộ thì cách hành xử, đối nhân xử thế chân thành, ấm áp, thanh nhã. Họ luôn sống theo nguyên tắc tự do, phóng khoáng và đối xử với người khác bằng sự nhân hậu, khoan dung.
  Là người giỏi quán xuyến việc lớn nhỏ trong nhà, người tuổi Mùi bản tính lại rất yêu trẻ con và vật nuôi, nên rất phù hợp với đời sống gia đình. Dù tuổi Mùi có tính cách ưa sự nhẹ nhàng, hòa hảo, không thích tranh cãi, xung đột, nhưng họ không bao giờ khuất phục trước bất cứ một sự đè nén, chèn ép nào, không bao giờ có thể ép buộc người tuổi Mùi làm điều họ không muốn.   Trong sáng và nhân hậu là nét tính cách cao quý của tuổi này, họ thường sẵn sàng giúp đỡ những người đang trong cơn hoạn nạn. Trong cuộc đời, người tuổi Mùi hiếm khi phải lo lắng về 3 điều thiết yếu trong đời sống, gồm cái ăn, cái mặc, nơi ở. Dù đi bất cứ đâu, người tuổi Mùi cũng dễ dàng kết bạn vì họ luôn đối xử với người xung quanh rất chân thành, trung thực.   Những người sinh năm Mùi được cho là dễ có đời sống hôn nhân mãn nguyện, họ không chỉ được bạn đời yêu thương mà còn được họ hàng quý mến.   Dân gian cho rằng tuổi Mùi sinh vào các mùa đều tốt, riêng mùa đông là vất vả hơn vì mùa đông ít có cỏ để ăn. Tuy vậy, thực tế là dù hoàn cảnh xung quanh có như thế nào, người tuổi Mùi cũng không cần quá lo bởi vận số tuổi này may mắn, dễ được quý nhân phù trợ, nhận được sự chủ động giúp đỡ từ những người xung quanh.   Dù trong cảnh khốn cùng, người tuổi Mùi vẫn có thể xoay xở vượt qua nhờ vào sự giúp đỡ từ cha mẹ, họ hàng, bạn bè, xã hội… Nhìn chung, người sinh năm Mùi dễ dàng vượt khó khăn và thất bại bởi xung quanh họ luôn có sự trợ giúp từ những người thân quý.   Tuổi Mùi chỉ thích làm những việc mà họ thực sự hứng thú, họ nhanh chóng nhận ra điều mình muốn theo đuổi trong cuộc đời một cách rất tự nhiên. Khi phải đối diện với những việc không muốn làm, người tuổi Mùi chẳng ngại ngần từ chối, nhưng họ không phải những con người sỗ sàng, thẳng tuột, mà ngược lại rất lịch sự, kiên nhẫn, dịu dàng để việc diễn ra vừa thuận lợi cho mình, vừa đẹp lòng cho người.   Người tuổi Mùi không muốn để lộ suy nghĩ của mình ra ngoài cho người khác hiểu nên khó ai có thể hiểu hết những cảm xúc đang diễn ra trong nội tâm của họ. Thực tế tuổi Mùi rất giỏi dàn xếp tranh cãi, bất hòa và dễ tạo được không khí hòa thuận xung quanh. Người tuổi Mùi rất thích giao tiếp, những ai có thiện ý với họ đều được đối đãi tử tế.   Người tuổi Mùi cũng không thích nói thẳng, vì vậy, đôi khi cách hành xử của họ có phần không thẳng thắn, trực diện, khiến người khác cảm thấy lòng vòng, rắc rối, bực mình. Nhưng đó là bản tính của tuổi này, đừng hy vọng họ xô bồ trong thái độ, cử chỉ và đặc biệt là ngôn từ.   Những gì họ nói ra chỉ là một phần nhỏ của những gì họ nghĩ. Những ai muốn thực sự hiểu thấu người tuổi Mùi, cần phải kiên trì dành thời gian để hiểu từng chút một. Để khuyến khích người tuổi Mùi nói nhiều hơn nữa, người nghe hãy từ tốn gật đầu trong suốt cuộc trò chuyện để thể hiện sự đồng tình.   Để biết được hết những suy nghĩ, cảm nhận của người tuổi Mùi có thể mất khá nhiều thời gian. Nhưng sâu xa đằng sau sự “lòng vòng”, không thích thẳng thắn, trực diện này, chính là vì người tuổi Mùi luôn biết chừa cho mình một đường lui.   Vì tính cách mềm mỏng, hơi thiếu quả quyết nên người tuổi Mùi cần hợp tác với những người có tính cách mạnh mẽ, bởi chỉ có “kỷ luật thép”, người tuổi Mùi mới bớt sự thong dong, nhàn tản để bắt đầu tận dụng hết những khả năng của mình và làm việc thực sự chăm chỉ, hiệu quả.
Ly giai vi sao nguoi tuoi Mui thuong gap may man hinh anh 2
Ảnh minh họa
Tuổi Mùi ưa sống trong môi trường quen thuộc, gắn bó rất mật thiết với gia đình, người tuổi Mùi quan trọng đồ ăn hợp khẩu vị, ngày sinh nhật và những dịp lễ Tết, kỷ niệm… Họ thường kỷ niệm những ngày trọng đại đối với đời sống cá nhân một cách khá rình rang, theo kiểu “thích thể hiện”, bởi thực sự họ rất quan trọng những dịp này. Họ có thể sẽ cảm thấy vô cùng thất vọng nếu người mà họ coi trọng lại quên mất ngày sinh nhật của họ.   Dường như người tuổi Mùi mang trong mình nỗi buồn và sự đa cảm từ trong bản chất. Họ luôn nhìn thế giới một cách khá tiêu cực, vì vậy, họ cũng luôn mong những người xung quanh sẽ vực tinh thần họ dậy. Người tuổi này dễ bị lạc đường, dễ buồn bã, dễ đưa ra những lựa chọn sai khi đi mua sắm.   Phụ nữ trẻ tuổi Mùi đặc biệt thích xuất hiện ấn tượng trong mắt mọi người. Họ có niềm ham thích đặc biệt với thời trang. Mỗi ngày họ sẵn sàng dành nhiều giờ để làm đẹp. Họ luôn hành xử duyên dáng và nền nếp, thích trang trí nhà cửa với hoa tươi. Phụ nữ trung niên tuổi Mùi lại rất quan tâm tới vệ sinh cá nhân, luôn gọn gàng và ăn vận đẹp mắt.   Phụ nữ trẻ tuổi Mùi cũng thích thể hiện tình yêu một cách không che giấu. Họ rất tin tưởng vào người mình yêu và luôn muốn ở bên người đó từng giây từng phút. Đối với những người theo đuổi mà họ không hề có hứng thú, người tuổi Mùi sẽ chẳng mảy may bận tâm đến.   Người tuổi Mùi cũng khá mâu thuẫn, đôi khi “nói không là có, nói có là không”. Tuổi này giỏi che đậy điểm yếu bằng sự lanh trí, biết đạt được điều mình muốn đôi khi bằng những “tiểu xảo”. Khi cần thiết, người tuổi Mùi rất giỏi nhõng nhẽo, quấy rầy, cốt để đạt được thứ mình muốn. Với bản tính chân thành và điềm tĩnh, thêm vào đó là vẻ ngoài biết tỏ ra đáng thương khi cần, họ luôn biết cách thuyết phục người khác rất hiệu quả.   Người tuổi Mùi không bao giờ làm tổn thương bạn bè. Đôi khi họ có thể từ bỏ một mối quan hệ để tránh khỏi những cãi vã, xung đột đang nhen nhúm xảy ra. Người tuổi Mùi nhạy cảm và đôi khi thích tìm niềm vui trong những mơ màng, ảo tưởng hơn là những cuộc vui thực sự.   Tuổi Mùi cũng thích thu hút sự chú ý của người khác và nhận được sự tán tụng đối với năng lực bản thân. Người tuổi này rất khôn ngoan khi lựa chọn công việc để có thể tận dụng tối đa thế mạnh của họ.   Nếu không sinh trong những giờ như Thìn, Tị, Dần, người tuổi Mùi sẽ khó lòng phù hợp với những công việc đòi hỏi trách nhiệm và sự nhạy bén cao, thay vào đó, sẽ phù hợp với những công việc cho phép được làm theo ý mình, được tự do tự tại.

ST.
Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúc Giải mã quan hệ tam hình Dần Thân Tị Vì sao mẹ dặn không yêu người tuổi Dần?

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người tuổi Mùi thường gặp may mắn

Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Nhân dịp Tết Quý Tỵ, giới chiêm tinh Trung Hoa dự báo một năm con rắn nhiều xáo trộn: xung đột Nhật Bản – Trung Quốc trên biển, thị trường tài chính thế giới chao đảo như rắn uốn mình. Tuy nhiên cũng như rắn lột da, Quý Tỵ cũng hứa hẹn nhiều thay đổi sâu rộng. Năm Rắn bắt đầu kể từ 10/02/2013 tốt hay xấu ?
Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


ể “trả lời” câu hỏi này, trong bài tường thuật 07/02/2013 từ Hồng Kông nhân dịp năm rồng sắp qua, năm rắn sắp đến, AFP tóm lược dự báo của một số chiêm tinh gia Trung hoa về tương lai trong năm Quý Tỵ. Theo hãng tin có tiếng nghiêm túc này thì “giới chiêm tinh Á châu tiên đoán con rắn năm nay là con rắn độc, hành thủy, sẽ mang lại những tai họa lớn và chuyển đổi quan trọng.

Trong quá khứ, năm Tỵ 2001 nổ ra vụ Al Qaida khủng bố tòa tháp đôi New York, năm Tỵ 1989 xảy ra phong trào Dân chủ Thiên An Môn và cuộc đàn áo đẫm máu đêm mùng 3 rạng mùng 4 tháng 6, năm rắn 1941 không quân Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng. Một chiêm tinh gia họ Châu dự báo vào tháng 5, xác xuất Nhật Trung đụng độ tại biển Hoa Đông rất cao.

Trên các mạng xã hội tại Việt Nam cũng có nhiều dự báo và ước vọng trong năm Quý Tỵ. Tại Pháp, nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Nguyễn Dư không tin vào bình luận của giới chiêm tinh nhưng quan tâm nhiều hơn về giai thoại “rắn” trong dân gian, trong thi ca.

Trong bài “Rồng rắn lên mây”, giáo sư Nguyễn Dư đưa đến độc giả những nghi vấn rất lý thú về bài thơ “Rắn đầu biếng học”, về những giai thoại trong vụ án “Lệ Chi Viên”…về một số “chi tiết” đáng ngờ của các nhà nghiên cứu Tây phương về Nguyễn Trãi.

Theo tác giả, dân gian Việt Nam hay Trung Hoa thì con rắn được xem là biểu tượng của cái “xấu” nhưng dù có “độc” đến đâu vẫn không đáng sợ bằng chế độ chính trị hà khắc (Liễu Tôn Nguyên). Trước thềm năm Quý Tỵ, xin gởi đến quý thính giả bài phỏng vấn giáo sư Nguyễn Dư sau đây. 

 ***

Bài viết tham khảo : Rồng rắn lên mây của giáo sư Nguyễn Dư

Nước ta nhiều núi rừng, sông lạch. Lắm thuồng luồng, rắn rết. Rắn bò vào điện thờ, chui vào sách vở, nấp trong quán ăn. Trẻ con mới tập tễnh cắp sách đến trường đã phải rùng mình làm quen với họ hàng nhà rắn :

Chẳng phải liu điu, vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học lẽ không tha.
Thẹn đèn, hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm, rát cổ cha,
Ráo mép chỉ quen lời lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba.
Từ nay Châu, Lỗ, xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
(Rắn đầu biếng học, Quốc văn giáo khoa thư)

Rắn đầu biếng học, có bản chép là Trách mình biếng học, tục truyền là của Lê Quý Đôn. Bài thơ ghép được nhiều tên rắn như vậy thì ngoài thần đồng Lê Quý Đôn ra ai mà làm được, phải vậy không thưa các cụ? Lãng Nhân (Giai thoại làng Nho), Bùi Hạnh Cẩn (Lê Quý Đôn), Tạ Quang Phát (Vân đài loại ngữ) và nhiều học giả khác kể rằng :

Năm lên tám, một hôm Lê Quý Đôn bị bố mắng là đồ rắn đầu rắn cổ (hay rắn đầu biếng học), bèn xuất khẩu « phun » ra bài thơ!

Rằng hay thì thật là hay, nhưng nghe không ổn, hôm nay xin bàn! Bàn về Rắn và Rắn. Rắn luồn lách và rắn cứng đờ. Rắn (con rắn) thì cả nước ta ai cũng biết. Tất cả các tự điển tiếng Việt từ xưa đến nay đều có từ Rắn này. Khỏi cần bàn thêm.

Rắn (cứng) mới… có vấn đề. Từ điển Alexandre de Rhodes (1651) có từ Rắn (cứng). Có cả Rắn gan và Rắn mày rắn mặt. Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của không có Rắn (cứng). Chỉ có Cứng (cứng lòng, cứng cổ, cứng đầu). Tự điển Génibrel (1898) có Rắn (raide), Rắn mắt (têtu) và Rắn gan, rắn dạ (audacieux).

Việt Nam tự điển (1931) của hội Khai Trí Tiến Đức không có Rắn (cứng) nhưng lại có Dắn (cứng, trái với nát). Ngược lại, Cứng nghĩa là Dắn (không bẻ được, trái với mềm). Tìm trong tất cả các tự điển xưa không đâu có rắn đầu và rắn đầu rắn cổ.

Thực tế thì người miền Bắc thường mắng con là đồ Cứng đầu cứng cổ hay Rắn mày rắn mặt. Người đàng ngoài không nói rắn đầu hay rắn đầu rắn cổ. Khuyên con chăm học chứ không khuyên siêng học. Đọc truyện Đông Chu liệt quốc, kính phục cụ Phan Chu Trinh. Châu, Lỗ hơi xa lạ với họ.

Lê Quý Đôn sinh năm 1726 tại Diên Hà (Thái Bình). Mười bốn tuổi mới rời quê, theo cha lên kinh đô Thăng Long… Rắn đầu biếng học và Châu, Lỗ xin siêng học, chắc chắn không phải là khẩu khí của cậu bé Lê Quý Đôn.

Bố Lê Quý Đôn mắng con rắn đầu rắn cổ (Lãng Nhân, Bùi Hạnh Cẩn) là… mắng bậy!
Rắn của Quốc văn giáo khoa thư bò lung tung như vậy nhưng vẫn còn kỉ luật hơn rắn của nhà nho rất nhiều.

Sách Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề (thế kỉ 18) có truyện Quan Phục Hầu Nguyễn Trãi :
« Quốc triều Quan Phục hầu Ức Trai tiên sinh người xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc. Trong khi Thái Tổ Cao Hoàng Đế bình định thiên hạ, các hiệu lệnh văn thư đều do tay ông thảo cả. Trong bài Bình Ngô đại cáo của ông có câu rằng :

Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm.
Nghĩa là : Đến nỗi đứa trẻ con giảo quyệt như Tuyên Đức nhàm võ không chán.

Ông làm câu ấy, là vì ông oán ghét người Minh nhiễu hại nước ta, nên xỉ vả thẳng đến vua của họ. Người Trung Quốc xem bài Bình Ngô đại cáo phê rằng : « Người nào làm bài này, con cháu sẽ không được toàn vẹn ». Về sau vì việc Thị Lộ ông bị giết chết. Người ta cho lời phê của người Trung Quốc là linh nghiệm.

Ông lấy Nguyễn Thị Lộ làm vợ lẽ. Tục truyền Thị Lộ là yêu tinh rắn hoá thành (…). Sau ông vì nàng mà bị tội » (1).

Vũ Phương Đề là người đầu tiên đem « sấm » Tàu và « yêu tinh rắn » vào thêu dệt cái chết của Nguyễn Trãi. Vũ Phương Đề đã mở đường cho phong trào viết… « lẫn lộn thực hư ». Cái chết bi đát của Nguyễn Trãi, một sự kiện lịch sử có thật, bắt đầu được tô vẽ, thêm bớt.

Đầu thế kỷ 19, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án soạn sách Tang thương ngẫu lục, chép truyện Ông Lê Trãi. Thực thực hư hư. Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi được thần báo mộng, được Tiên Dung mách bảo vào Lam Sơn phò Lê Lợi ...

Trước khi hiển đạt, Nguyễn Trãi mở trường dạy học ở làng Nhị Khê. Một hôm ông sai học trò dọn sạch một cái gò để dựng nhà học. Đêm hôm ấy ông nằm mộng thấy một người đàn bà đến xin ông cho ngừng chặt phá, làm cỏ trong 3 ngày để mẹ con bà kịp rời đi nơi khác. Tỉnh dậy, ông ra thăm thì thấy học trò đã làm cỏ xong cái gò. Chúng khoe có đánh cụt đuôi một con rắn và bắt được hai quả trứng.

« Ông cầm hai quả trứng về nuôi giữ. Đêm hôm ấy giong đèn đọc sách, ông thấy một con rắn trắng leo trên xà nhà, rỏ giọt máu xuống sách, ướt chữ « đại » (là đời), vết máu thấm xuống ba tờ giấy. Ông tự hiểu mà rằng :
- Nó sẽ báo oán ta đến ba đời sau.
Trứng rắn nở ra được hai con, một dài một ngắn, ông sai đem thả xuống sông Tô Lịch ở làng bên, nay những rắn ấy làm thần sông.

Khi ông hiển đạt, thường mỗi ngày ở triều đình về, qua phố hàng Chiếu, gặp một người con gái nhan sắc rất đẹp. Hai bên dùng thơ đùa cợt, rồi ông yêu mến, lấy về làm thiếp. Trong năm Thiệu Bình, người ấy thường đi lại vào trong cung cấm, vua Thái Tông cho làm chức Nữ học sĩ. Đến khi vua thăng hà, Triều đình đem nàng ra tra hỏi. Nàng nói là do ông xúi. Vì thế nên ông phải tội. Khi bị hành hình người con gái ấy hoá làm con rắn, bò xuống mặt nước mất.

Ông có một người thiếp chạy trốn xuống vùng Sơn Nam, ẩn ở nhà người, rồi sinh ra được một người con trai là Anh Võ (…). Nhớn lên, Anh Võ làm quan ở Đài sảnh, rồi phụng mệnh đi sứ Tàu. Khi qua hồ Động Đình, thấy trên mặt nước xuất hiện một con rắn, rồi sóng gió nổi lên dữ dội, ông khấn xin cho đi xong việc nước, sóng gió mới im. Sau khi đi chầu vua Tàu về, đến hồ Động Đình, thuyền bị úp sấp mà chết đuối, được truy tặng Thái Sư Sùng Quốc Công » (2).

Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được dàn dựng công phu, có nhiều tình tiết hấp dẫn. Truyện được nhiều tác giả đời sau, trong đó có cả người Pháp, tiếp tục thêm mắm thêm muối, « xào xáo » lại.

Năm 1886, Landes kể truyện Ông Nguyễn Trại (Nguyễn Trãi được Tây gọi là Nguyễn Trại). Xin tạm dịch : « Nguyễn Trại là ông tổ thứ nhất của Gia Long. Ông làm quan kiểm lâm thời Lê. Một hôm ông dẫn lính vào rừng đốn cây, gặp một tổ rắn, đến đêm nằm mộng thấy một người đàn bà (…).

Sau khi bọn lính giết con rắn cái, trên đường về ông gặp một cô bé rất xinh đang đứng khóc. Cô bé lúc này đã bị hồn con rắn cái yêu tinh kia nhập vào. Nguyễn Trại động lòng mang cô bé về nuôi. Lớn lên cô được tuyển vào cung vua.

Có lần Hoàng thái hậu bị đau mắt, không lang y nào chữa nổi. Cô gái xin chữa. Cô chỉ liếm nhẹ vào mí mắt, Hoàng thái hậu bèn khỏi.

Một hôm nhà vua bị đau lưỡi, cho vời cô gái vào chữa. Cô gái xin nhà vua lè lưỡi cho cô xem. Vua lè lưỡi. Cô gái bỗng nhe răng cắn lưỡi vua. Vua chết tức khắc. Đình thần ra lệnh giết cô gái. Nguyễn Trại và người lính hầu của ông bị xử tội phải chôn sống.

Vợ người lính biết tin, lên đường đi thăm chồng. Nhưng, lúc bà đến được cửa ngục thì chồng đã bị hành quyết. Nguyễn Trại nói với vợ người lính : « Chồng nàng chết vì ta. Ta bị oan, cũng sẽ chết. Chuyện đã rồi ! Nàng hãy chìa tay ra để ta lưu dấu tích lại cho hậu thế ». Người đàn bà chìa tay ra, Nguyễn Trại liền nhổ nước bọt vào lòng bàn tay.

Trở về nhà, người đàn bà mang thai. Bà sinh được một đứa con trai nối dõi dòng họ Nguyễn Trại ». Landes chú thích : Có người kể rằng Nguyễn Trại từ chối những lời dụ dỗ của con yêu tinh nhập vào cô bé. Thậm chí ông còn đánh cô bé. Con yêu tinh trả thù bằng cách nhập vào con gái của ông. Lớn lên, con gái của Nguyễn Trại được tuyển vào cung vua, trở thành hoàng hậu. Về sau, hoàng hậu phạm tội giết vua. Dòng họ Nguyễn Trại bị giết hết. Lúc sắp chết Nguyễn Trại được vợ một người lính xin được tiếp tục lưu truyền dòng dõi của ông » (3).
Năm 1898, Nordemann kể Sự tích ông Nguyễn Trãi bằng chữ quốc ngữ. Nordemann cũng nói tên Trại bị trại thành Trãi !

« Đời vua Thái Tổ, nhà Hậu Lê, ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Nội, có một người tên là Nguyễn Trại (tục gọi là Nguyễn Trãi)… Nguyễn Trại nằm mộng thấy một người đàn bà xin cứu cho « mười ba mẹ con tôi ». Sau đó, người nhà dọn vườn chém con rắn chửa mười hai trứng v.v.

Truyện của Nordemann đại khái cũng giống truyện của Landes. Nhưng Nordemann đưa ra một chi tiết cần được kiểm chứng : « Nghe có người nói rằng ông Nguyễn Hữu Độ, làm kinh lược Bắc Kỳ, tước là Vĩnh Lại Quận Công, mới mất năm Đồng Khánh thứ ba, cũng là dòng dõi ông (Nguyễn Trại) ấy » (4).

Năm 1908, Dumoutier lại đưa thêm vài điều mới vào truyện Vua Lê Lợi và con rắn hồ Động Đình. Xin dịch tóm tắt :
« Ông Phi Khanh dọn vườn sửa soạn đất làm nhà. Ông nằm mộng thấy một người đàn bà xin ông tha chết cho ba mẹ con v.v. Phi Khanh đọc sách, bị con rắn trên xà ngang nhỏ một giọt máu xuống sách, thấm ướt 3 tờ giấy…
Con trai Nguyễn Trãi tên là Nguyen Dam được vua Lê Thánh Tôn cử đi sứ sang Tàu. Thuyền đang đi trong hồ Động Đình thì một con rắn rất lớn nổi lên vùng vẫy gây sóng gió. Nguyen Dam xin được đi bình yên, lúc trở về sẽ nộp mình.

Đi sứ xong, lúc trở về Nguyen Dam lại gặp rắn. Ông viết 2 bức thư gửi vua Tàu và vua ta để giãi bày hoàn cảnh, rồi nhảy xuống sông. Con rắn cắn ông, lôi xuống đáy hồ. Vua Tàu được tin, bèn sai phù thuỷ dùng bùa bắt con rắn. Mổ bụng moi xác Nguyen Dam, đem chôn cất. Thân rắn bị chặt làm 3 đoạn, vứt xuống hồ. Trong hồ bèn nổi lên 3 hòn đảo. Vua Tàu phong Nguyen Dam làm thần hồ Động Đình » (5).

Dumoutier mời Bố của Nguyễn Trãi nhập cuộc. Nguyen Dam (không biết tên Việt là gì) có liên hệ gì với Anh Võ (hay Anh Vũ) không ?

Ba tác giả Pháp đưa ra nhiều tên mới lạ, không hiểu nhằm mục đích gì ?
Tại sao Nguyễn Trãi bị đổi thành Nguyễn Trại ?
Trường hợp dấu ngã đổi thành dấu nặng chúng ta còn thấy trong một văn bản khác. Địa danh Vỹ Dã, Tổng Dã Lê, xã Dã Lê thượng, Dã Lê hạ của thời Lê Quý Đôn (6) đã trở thành thôn Vỹ Dạ, làng Dạ Lê không biết từ lúc nào.

Rất có thể mấy ông Tây đã được mấy ông thông ngôn trọ trẹ chữ quốc ngữ « gà » cho chăng ?
Truyện Ông Lê Trãi của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án được Phan Kế Bính đổi tên thành Nguyễn Trãi, đưa vào sách Nam Hải dị nhân.

Phan Kế Bính cho biết « vua Thái Tôn nhân đi chơi qua tỉnh Bắc, vào chơi trại Tiêu viên, Nguyễn Trãi đi vắng, có nàng hầu là Thị Lộ, ở nhà pha chè hầu vua, chiều hôm ấy vua mất… » (7).

Ngô Sĩ Liên chép là vua về đến Lệ chi viên (vườn Vải). Phan Kế Bính chép là trại Tiêu viên (vườn Chuối). Bao giờ thì đến lượt vườn Chà Là, vườn Sa Bô Chê ?

Nguyễn Đổng Chi đổi hẳn tên truyện thành Rắn báo oán. Ông ngờ rằng Rắn báo oán của ta chịu ảnh hưởng truyện Phương Chính Học và truyện Ngô Trân của Tàu.

« (Rắn báo oán) là câu chuyện do tầng lớp nho sĩ gần gũi giai cấp thống trị bịa đặt ra nhằm huyền thoại hoá tấn thảm kịch của người anh hùng Nguyễn Trãi, xoá mờ sự thật về tấn thảm kịch ấy, hòng gỡ tội cho những kẻ đã gây ra cái chết oan khốc của ông và cả họ ông » (8).

Thưa cụ Nguyễn Trãi, vàng thau lẫn lộn của thời xưa chưa phiền bằng « vàng ta pha vàng tây » của đời sau đâu ạ! Cụ sống khôn thác thiêng, xin cụ… xí xoá cho !
Thuở bé tôi thích nghe chuyện thần thánh, ma quỷ. Cho đến ngày bị thầy mắng Nói có sách, mách có chứng, bị cụ Mạnh bắt gặm cục xương Tận tín thư bất như vô thư mới tỉnh người. Từ đó hết thích truyện « vớ vẩn ».

Dân ta có truyền thống kính trọng các vị anh hùng dân tộc. Thần thánh, ma quỷ chỉ nên kính nhi viễn chi, xin các sử gia đừng nhập nhằng đưa vào sử.

Vẽ rắn thêm chân nên giao cho nghệ nhân dân gian, những người như Thạch Sanh.
Thạch Sanh mồ côi cha mẹ, kết nghĩa với Lý Thông. Trong vùng có con yêu tinh :
Nó là rắn lớn hiện hình,
Nhờ hơi nhật nguyệt thành tinh hại người

Nhà vua treo giải thưởng tìm người giết con Xà tinh. Thạch Sanh vác búa đi giết được Xà tinh. Nhưng bị Lý Thông lập mưu cướp công. Một hôm, công chúa bị Mãng Xà Vương « tam đầu cửu vĩ (ba đầu chín đuôi) ai nào chẳng ghê » hoá thành Đại Bàng bắt mang về hang. Thạch Sanh giết Mãng Xà vương, cứu được công chúa. Nhưng lại bị Lý Thông cướp công, lấp cửa nhốt dưới hang (…). Thạch Sanh còn gặp nhiều lận đận. Còn phải giết Trăn Tinh, đánh hồ tinh. Cuối cùng, Lý Thông cũng bị trừng trị. Thạch Sanh dẹp được giặc, được vua gả công chúa, truyền ngôi.

Xà của Tàu là rắn của ta. Mãng là con trăn, một giống rắn lớn. Trăn tinh không biết có họ hàng gì với Chằn tinh không ? Chằn cũng là yêu quái (Huỳnh Tịnh Của). Bên cạnh mấy con rắn có chân làm trò mua vui, vô thưởng vô phạt, ta còn có mấy con rắn giúp các ông đồng bà cốt, pháp sư phù thuỷ kiếm ra tiền.

« Phụ thần Bạch Xà thì dùng một con rắn bằng rơm rồi phù phép vào con rắn để con rắn bò quanh nhà diệt tà ma. Con rắn thường bò được là nhờ trong ruột có bộ phận cử động bằng máy, nhưng những người quá tin cho là thầy phù thuỷ cao tay có phép lạ » (9)

« Tại các điện thờ chư vị, nhất là điện thờ các ông Hoàng, bà Chúa Thượng Ngàn, ta thường thấy ở hai bên hàng sà kèo có cặp rắn trắng rất lớn mào đỏ, mà các đệ tử gọi là ngựa ngài, tức là cặp rắn là cặp ngựa để ngài cưỡi.

Các đệ tử con hương thường thuật lại tại các đền thờ ông Hoàng bà Chúa ở đường rừng, hay có những cặp rắn có mào thật bò ra quấn lấy kèo lấy cột ở trong đền, khác hẳn với các đền, điện miền xuôi, cặp rắn chỉ là đồ mã ».

« Nói về rắn, phải kể tới loại rắn biển, tức là con đẻn cũng được dân ta ở ven miền duyên hải kính sợ tôn thờ và gọi bằng Ông (...). Cũng là đẻn, phải kể đến bà Lạch tức là bà Chằng lạch và bà Mộc, được gọi là Mộc trụ thần xà » (10).
« Đẻn là loại rắn biển có nhiều sắc, nó cắn nhằm ai thì bắt ngủ mê mà chết. Đẻn cườm là đẻn có hoa lúm đúm, chính là đẻn độc hơn.
Thành ngữ Xông khói đẻn nghĩa là đốt đẻn khô làm cho chủ nhà mắc khói nó mà ngủ mê, ấy là nghề kẻ trộm ». (Huỳnh Tịnh Của).

Có âm thì phải có dương. Có bà thì phải có ông.

« Cấu trúc không gian trong các điện thờ Mẫu, vị trí chư vị thần thánh được bài trí sắp xếp theo ba tầng : tầng trên không, tầng ngang trên ban, bệ thờ và tầng trệt. Đây là một điều rất riêng vì không có tôn giáo tín ngưỡng nào bài trí như vậy. Ở tầng không là sự hiện diện của đôi mãng xà (còn gọi là Ông Lốt) tượng trưng cho quan lớn Tuần Tranh. Một con màu trắng, một con màu sẫm quấn trên xà ngang phía trái, bên trên ban thờ » (11).

Quan lớn tuần Tranh là ai ?

« Ở huyện Vĩnh Lại (Hải Dương), về đời Trần có hai vợ chồng nghèo, không con cái. Một hôm người chồng làm vườn bắt được hai quả trứng. Trứng nở ra hai con rắn. Người vợ muốn giết. Người chồng bảo để nuôi. Rắn một ngày một lớn. Vợ chồng phải đem ném xuống sông. Nước sông bỗng xoáy lại thành vực.

Một hôm có nàng công chúa qua sông, bị nước xoáy không đi được. Người vợ ném cơm xuống sông, khấn vái. Sông lặng sóng ngay. Dân sở tại lập miếu thờ thần Thuồng Luồng của sông. Đến đời Trần Minh Tôn, có vợ quan phủ Ninh Giang Trịnh Thường Quân là Dương Thị bị mất tích. Thường Quân phải nhờ Bạch Long Hầu dắt xuống Thuỷ Cung tìm vợ. Vợ chồng gặp lại nhau. Dương Thị kể cho chồng nghe chuyện bị hoàng tử thứ năm của Thuỷ Thần Long Vương bắt về làm vợ. Thường Quân đem chuyện khiếu nại với Thuỷ Thần. Thuỷ Thần xử cho vợ chồng Trịnh Thường Quân được đoàn tụ. Phạt hoàng tử thứ năm, đày ra sông Tranh cho được đới công chuộc tội.

Thuỷ thần vừa tuyên án xong thì trên trần gian miếu thần Thuồng Luồng bị đổ nát. Người ta thấy một con rắn dài hơn mười trượng, vảy biếc mào đỏ nổi trên mặt nước đi về phía sông Tranh, hơn trăm rắn nhỏ theo sau. Hoàng tử thứ năm hiển linh tại sông Tranh. Dân gian lập đền thờ, gọi là đền thờ Quan lớn tuần Tranh. Hàng năm mở hội. Các bà các cô lên đồng, hầu bóng rất đông » (12).

Ông Lốt là… cái gì ?

Lốt nghĩa rộng là vị thần đội lốt rắn thường gọi là ông Lốt. Nghĩa bóng là mượn bóng mượn tiếng đi doạ nạt lừa đảo. Thí dụ : đội lốt sư đi khuyến giáo. (Từ điển Khai Trí Tiến Đức).
Lốt là con rắn huyền thoại, một loài rắn nước mà người ta thường mô tả là có 3 cái đầu người và 9 tấm vẩy ở cuối đuôi. Nó dùng để cho thuỷ thần cưỡi, theo đạo đồng cốt (Nordemann).
Ông Lốt là « ngựa » của ông Hoàng ba, hoàng tử thứ năm, quan lớn tuần Tranh. Lốt sống dưới Thuỷ phủ. Lốt cũng có ba đầu chín đuôi, giống Mãng Xà Vương của truyện Thạch Sanh.
Nhìn sang vườn nhà hàng xóm cũng thấy rắn. Rắn thật !

Liễu Tôn Nguyên kể truyện người bắt rắn :
« Ở Vĩnh Châu có giống rắn lạ, thân đen, vằn trắng chạm vào cây cỏ, thì cây cỏ chết, cắn phải người, thì không thuốc gì chữa nổi. Song mà bắt được giống rắn ấy dùng làm thuốc để chữa những bệnh như bệnh trúng phong, bệnh co quắp chân tay, lại sát được cả trùng.
Cho nên nhà vua có lệ bắt dân gian mỗi năm phải hiến hai con rắn ấy để dành. Ai bắt được rắn thì được trừ thuế ruộng.

Người châu Vĩnh tranh nhau mà làm nghề bắt rắn. Có nhà họ Tương cũng làm nghề ấy đã được ba đời. Hỏi ra thì nhà họ Tương nói :
- Ông tôi chết về nghề bắt rắn, cha tôi cũng chết về nghề bắt rắn. Tôi nối nghề ông cha tôi mới có mười hai năm, cũng đã mấy lần suýt chết.
Người ấy nói, vẻ mặt rất buồn rầu.
Ta thương và hỏi rằng :
- Nhà ngươi có thật cho nghề bắt rắn là khổ không ? Ta sẽ nói với quan trên cho nhà ngươi bỏ nghề ấy mà cứ nộp thuế ruộng như thường. Nhà ngươi tính thế nào ?
Người họ Tương vừa khóc, vừa nói :
- Ông thương tôi, muốn cho tôi sống, thì ông để cho tôi làm nghề bắt rắn còn hơn. Nếu tôi không làm nghề này thì tôi khốn khổ đã lâu rồi. Nhà tôi ba đời ở làng kể đã hơn sáu mươi năm, cách sinh nhai trong làng mỗi ngày một quẫn bách. Người làng phải rút hết cả lợi hoa màu, vét hết cả của cải trong nhà để mà nộp thuế hết, thậm chí bỏ làng, bỏ xóm, đói khát, trôi giạt, chết đường, chết chợ kể bao nhiêu người. Những người vào chạc tuổi ông tôi mười nhà không còn một. Những người vào chạc tuổi cha tôi, mười nhà còn độ hai, ba. Những người vào chạc tuổi tôi mười nhà còn độ bốn, năm. Không chết chóc thì lưu lạc cả…

Tôi nhờ nghề bắt rắn mà còn đến bây giờ. Những quan lại tàn ác về làm thuế làng tôi, xúc hết đầu làng, cuối xóm vơ vét đến cả con gà, con chó, dân gian phải hãi hùng kinh sợ. Những lúc ấy, về phần tôi, tôi được yên lặng, trông trong giỏ con rắn vẫn còn là tôi được ăn no, ngủ yên. Tôi làm nghề bắt rắn một năm sợ chết chỉ có hai lần, ngoài ra là vui vẻ, không phải lo thuế má, không đến nỗi như người làng xóm tôi hết ngày này, sang tháng khác khốn khổ về quan lại tàn ác. Giá tôi có chết về nghề bắt rắn, ví với người làng xóm tôi cũng đã là chậm, đâu dám cho là rắn độc mà xin thôi.

Ta nghe câu chuyện, lại càng thương lắm. Xưa Đức Khổng nói : « Chính sách hà khắc độc hơn hổ dữ » ta vẫn ngờ, bây giờ xem chuyện họ Tương mới cho là thật. Than ôi ! cái độc quan lại tàn ác làm thuế ở dân gian dữ hơn con rắn độc, cho nên nói ra đây để người xem xét phong tục thấu được tình cảnh đau khổ của dân ! » (13).
Kinh Thi có câu : « Duy huỷ duy xà nữ tử chi tường ; duy hùng duy bi nam tử chi tường » (Mộng thấy rắn là điềm sinh con gái, mộng thấy gấu là điềm sinh con trai).
Điềm lành hùng huỷ hiện thân
Kể đã ba đời sinh được phu nhân (Thiên Nam ngữ lục) (14).
Tục truyền là bà ngoại Khổng Tử một hôm nằm mộng thấy một con rắn be bé xinh xinh bò vào giường, chui xuống dưới chăn. Mẹ Khổng Tử nằm mộng thấy một con gấu trúc to tướng vén màn leo vào giường. Người Tàu cho rằng đó là điềm thánh nhân sắp ra đời !
Nói chung, loài người không thích rắn. Thậm chí sợ rắn.
Sợ từ ngày bà E-Và bị Rắn dụ dỗ ăn trái cấm. Bà mời ông A-Dong cùng ăn. Thượng đế hay tin bèn nổi giận, đuổi ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng. Phạt ông bà và con cháu đời sau phải sống… như chúng ta bây giờ !

Rắn trở thành kẻ thù của loài người từ ngày đó.

Người phương Tây gọi những kẻ hay nói xấu, chụp mũ người khác là bọn rắn độc (langue de serpent, langue de vipère). Cứu giúp kẻ vô ơn, sẵn sàng quay lại hại chính mình là ấp rắn trong ngực (Réchauffer un serpent dans son sein). Ta gọi bọn khua môi múa mép là nói rắn trong lỗ bò ra. Dân ta căm thù, nguyền rủa bọn cõng rắn về cắn gà nhà. Nói đúng hơn là bọn bắt rắn về cắn gà nhà (Léopold Cadière).

Tuy nhiên, rắn phương Tây cũng có khi được cưng. Ngày nay chúng ta thấy nhan nhản rắn trên bảng hiệu của bác sĩ, tiệm thuốc tây. Ồ, lạ nhỉ ? Vì sao vậy ?
Thần thoại Hi Lạp suy tôn Asclépios là ông thần đứng đầu ngành y. Ông có tài chữa lành cho người mù, người tàn tật. Ông cải tử hoàn sinh cho Glaucos, Tyndare, Hippolyte. Tâm nguyện của Asclépios là cứu nhân độ thế… hoàn toàn miễn phí.

Không ngờ, việc làm của Asclépios đã gây bất mãn cho vị thần cai quản Địa ngục Hadès. Hadès lo ngại… thiếu dân để hành hạ. Hadès khiếu nại với Zeus. Zeus mủi lòng trước cảnh đất rộng người thưa của Địa ngục, bèn tung sét đánh chết Asclépios.
Sinh thời, Asclépios rất thích rắn vì rắn là con vật biết thay da đổi thịt, biết đổi mới hàng năm. Rắn lột xác giống như bệnh tật được chữa khỏi, sức khoẻ được phục hồi.
Lúc đi hành nghề, Asclépios bao giờ cũng mang theo chiếc gậy có chạm trổ một con rắn. Vì vậy mà các bác sĩ, dược sĩ đã chọn Rắn quấn gậy làm biểu tượng của ngành nghề và mời rắn bò lên bảng hiệu.

Rắn của người lớn rắc rối quá.

Rốt cuộc chỉ có Rồng rắn của trẻ con là dễ thương nhất !
Lũ trẻ thật là… rắn gan (de Rhodes, Génibrel). Dám để cho rắn chơi trèo với rồng. Chúng mày cho dân đen được dòm mặt vua à? Không coi tôn ti trật tự ra cái quái gì.
Trò chơi Rồng rắn chia làm hai phe. Ít đứa chơi (chuyện khó tin!) thì chọn một đứa làm thầy thuốc, đám còn lại ôm nhau làm rồng rắn. Thầy thuốc phải đuổi bắt cái đuôi rồng rắn. Nếu có nhiều đứa chơi thì chia làm hai phe, mỗi phe là một rồng rắn. Đứa đứng đầu vừa phải bảo vệ, che chắn cho cái đuôi khỏi bị đối phương bắt, vừa phải tìm cách bắt cái đuôi của đối phương. Vào trò, rồng rắn uốn éo hát :
Rồng rắn lên mây
Có cây núc nác
Có nhà điểm binh
- Thầy thuốc có nhà không?
- Thầy thuốc không có nhà
(…)
- Xin khúc đuôi
- Tha hồ mà đuổi.

Thế là tha hồ đuổi bắt nhau. Vui nhộn, ồn ào. Người lớn bực mình thì mặc kệ người lớn !
Gần đây bên Âu Tây nảy sinh mốt chơi rắn cảnh. Đẹp… dễ sợ ! Nhưng chưa đáng sợ bằng mốt ẩm thực đầy « tâm huyết » của đại gia nước ta. Hôm nay mời ông món lạ. Ít hiệu có.
Khách chuyện trò mới hết nửa đĩa lạc rang thì từ nhà bếp một « thích khách » mặt lạnh như tiền bước ra. Tay cầm dao, nách kẹp chiếc gậy nhỏ. Một thằng tiểu đồng xách giỏ rắn theo sau. Thầy trò đến trước mặt khách ẩm thực chờ lệnh. Ông khách quen của hiệu liếc nhìn giỏ rắn rồi hất hàm, chỉ tay. « Thích khách » liền thò chiếc gậy gắn móc sắt vào giỏ, khoắng một vòng, lôi con rắn được chọn ra ngoài. Tay còn lại múa một đường, cổ rắn bị kẹp chặt. Dao loè sáng. Tiết rắn phọt ra. Tiểu đồng nhanh tay giơ tách hứng. Không một giọt rơi xuống mặt bàn. Thêm một đường dao. Tim rắn bị móc ra, thả vào tách. Tiểu đồng mở chai Quốc Lủi, rót đầy tách, đặt trước mặt khách.

Khách mỉm cười, gật đầu ra hiệu cho « thích khách » biểu diễn thêm một lần nữa…
Tâm, huyết đã sẵn sàng. Hồ trường ! Hồ trường ! Ta biết rót về đâu ?(Nguyễn Bá Trác). Rót vào họng chứ còn rót vào đâu nữa? Định rót vào túi à? Lộc trời cho, ta cứ nốc. Làng Lệ Mật « có hàng trăm hộ nuôi rắn, hàng chục nhà hàng đặc sản rắn và có nhiều hoạt động văn hoá nghệ thuật về rắn được tổ chức rầm rộ hàng năm. Lệ Mật được đánh giá là trung tâm giao dịch về rắn của toàn miền Bắc, đồng thời là làng rắn nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế giới » (15). Lại thêm một thành tích nổi… da gà!

Rắn được giới ẩm thực khen là loài có tâm, huyết. Bổ thận, cường dương. Bảy món khề khà. Ngộ độc, chết có người chôn, lo gì !
Nguyễn Dư
(Lyon, Tết Con Rắn 2013)

1- Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, bản dịch của Đoàn Thăng, Văn Học, 2001, tr. 275.
2- Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Tang thương ngẫu lục, bản dịch của Đạm Nguyên, 1962, Đại Nam tái bản, tr. 112-128.
3- A. Landes, Contes et Légendes annamites, Imprimerie Coloniale, 1886, tr. 63.
4- Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (1898), Nguyễn Bá Mão biên dịch và chú thích bổ sung, Hội Nhà Văn, 2006, tr. 26-28.
5- Gustave Dumoutier, Essais sur les Tonkinois, IDEO, 1908, tr. 300-304.
6- Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bản dịch của nhóm Đỗ Mộng Khương, Đào Duy Anh
hiệu đính, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 79.
7- Phan Kế Bính, Nam Hải dị nhân liệt truyện (1912), Mặc Lâm tái bản, 1969, tr.33-39.
8- Nguyễn Đổng Chi, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, Khoa Học Xã Hội, 1975,
tr. 451-461.
9- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Nam Chi tùng thư, 1965, Xuân Thu
tái bản, tr. 211.
10- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, tr. 260 -261.
11- Bùi Xuân Mỹ, Tục thờ cúng của người Việt, Văn Hoá Thông Tin, 2001, tr. 181.
12- Nguyên Tử Năng, Thần thoại Việt Nam, 1966, Zieleks tái bản 1980, tr. 96-104.
13- Nguyễn Văn Ngọc, Trần Lê Nhân, Cổ học tinh hoa, quyển 2, Thọ Xuân, 1962,
tr. 133-135.
14- Đinh Gia Khánh chủ biên, Điển cố văn học, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 193.
15- Quốc Văn, Làng nghề Hà Nội, Thanh Niên, 2010, tr. 127.


Trích từ: www.viet.rfi.fr
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm Tỵ nói chuyện rắn trong dân gian

Ngón chân bất ngờ tiết lộ những bí mật của bạn và người ấy

Sẽ vô cùng thú vị khi ngón chân có thể cho bạn biết những bí mật về cuộc sống của hai người.
Ngón chân bất ngờ tiết lộ những bí mật của bạn và người ấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Xem chân" là gì?

Thuật xem chân đã được thực hiện ở Trung Quốc và Ấn Độ trong hơn 6.000 năm qua, và đã được nhắc đến khá nhiều trong các bài thơ thần thoại cổ xưa nhất của Ấn Độ.

Thuật xem chân trở lại trong những năm gần đây, khi ngày càng nhiều người muốn khám phá nguồn gốc huyền bí của nó. Bàn chân của bạn chứa hàng nghìn phản xạ liên quan đến hầu hết các bộ phận khác trên cơ thể.

 ngon chan bat ngo tiet lo nhung bi mat cua ban va nguoi ay hinh anh 1

Người có bàn chân cong là người không những bảo thủ mà còn đầy tham vọng (Ảnh minh họa).

Một số nhà nghiên cứu cho biết, trí óc và cơ thể của bạn liên kết chặt chẽ với nhau và trạng thái thể chất của bạn sẽ ảnh hưởng đến các khía cạnh của cảm xúc con người.

Hãy thử khám phá xem sao nhé!

Ngón cái

Nếu ngón chân cái của bạn dài hơn người khác, bạn là người sáng tạo và có một trí tưởng tượng tuyệt vời. Bạn không bao giờ thiếu ý tưởng và sự nhiệt huyết khi thảo luận về các kế hoạch mới. Tuy nhiên, việc thực hiện những điều bạn nói và những gì trong suy nghĩ lại là một vấn đề khác.

Một ngón chân nhỏ cho thấy một người thực tế, nhạy cảm và luôn thực hiện những gì mình nói. Họ vẫn đạt được mục tiêu của mình, nhưng lại thấy rất khó hình dung.

Nếu ngón chân cái của bạn trai hay bạn gái của bạn tách xa các ngón còn lại thì điều này cho thấy người ấy vẫn cần thời gian để chia sẻ những ý nghĩ và cảm xúc nội tâm với thế giới bên ngoài và không thích cảm giác bị cuốn vào việc đưa ra những tuyên bố tình cảm.

Ngón thứ hai

Quan sát ngón chân thứ hai của bạn và người yêu. Nếu anh/cô ấy có ngón chân thứ hai khá dài thì chắc hẳn người yêu bạn là người luôn thích cảm giác ở trong tầm kiểm soát.

Nếu ngón chân thứ hai của đối phương uốn cong về phía ngón chân cái, điều đó có nghĩa là người ấy vẫn còn vấn vương quá khứ - có thể chỉ là vô thức.

Ngón giữa

Nếu ngón chân giữa của người ấy quay về phía ngón chân cái, họ có tính cách thành thật và thẳng thắn. Chàng/nàng luôn cần được lắng nghe và ghét bị lờ đi.

Nếu ngón chân của họ quay hướng ngược lại, rất có thể đó là những người hay đòi hỏi về tình cảm nhưng lại có xu hướng che giấu điều này.

Ngón áp út

Ngón áp út có liên hệ nhiều nhất với các mối quan hệ của bạn. Nếu bạn yêu cầu người yêu kể về một người có ý nghĩa đối với anh/cô ấy, ngón chân này có thể sẽ co giật bất ngờ, vô cùng hữu ích nếu bạn muốn biết liệu người ấy có còn cảm giác với người yêu cũ hay không.

Ngón út

Hãy thử căng các ngón bàn chân ra nào, người không thể tách rời ngón út ra chính là những người tuyêt đối trung thành, ổn định và thận trọng.

Nếu ngón út của bạn bị vắt ngay dưới các ngón chân bên cạnh, bạn là người rất khó tin tưởng người khác và sẵn sàng buông bỏ. Nhưng nếu ngón chân của bạn hơi lệch về phía bàn chân, bạn là người cực kỳ nổi loạn và bất thường đấy.

Bàn chân rộng

Những người bận rộn thường có đôi chân rộng. Nếu bạn và người yêu bạn cùng có bàn chân rộng, hai bạn có thể sẽ tập trung nhiều hơn vào những gì có thể đạt được cùng nhau hơn là tập trung vào cảm xúc của mỗi người.

 ngon chan bat ngo tiet lo nhung bi mat cua ban va nguoi ay hinh anh 2

Những người bận rộn thường có đôi chân rộng (Ảnh minh họa)

Bàn chân hẹp

Nếu cả hai đều có bàn chân hẹp, bạn là người thích suy nghĩ hơn là bắt tay vào làm bất kỳ công việc nào. Những người có bàn chân hẹp thường có khiếu thẩm mỹ tuyệt vời. Những cặp đôi vợ chồng sau này có đôi chân hẹp thường có những ngôi nhà đẹp và có sở thích đam mê nghệ thuật.

Nếu một trong hai có bàn chân rộng còn người kia có bàn chân hẹp, hai bạn có thể có những sở thích rất khác nhau, nhưng hai bạn luôn thực sự cần có nhau.

Bàn chân vuông

Nếu chiều dài của các ngón chân của bạn khá giống nhau, bạn sở hữu một bàn chân vuông (các ngón nằm trên một đường thẳng). Đây là kiểu người luôn gặp khó khăn trong việc ra quyết định và không ngừng suy nghĩ hoặc lo lắng về những điều dù là nhỏ nhặt nhất.

Nếu người ấy của bạn có bàn chân vuông, anh/cô ấy sẽ luôn đánh giá cao những người có tính cách mạnh mẽ và quyết đoán.

Bàn chân nhỏ và bàn chân lớn

Nếu người bạn đời của bạn có bàn chân nhỏ thì chắc chắn anh ấy hay cô ấy đều là người rất cởi mở, sôi nổi và vui vẻ. Những người có bàn chân nhỏ dễ bị thương, nhưng sẽ nhanh chóng hồi phục.

Những người có kiểu bàn chân lớn rất giỏi kiếm tiền và có kinh nghiệm trong kinh doanh. Anh chàng có bàn chân nhỏ và cô bạn gái có bàn chân lớn hay ngược lại có thể hay cãi nhau nhưng tuyệt đối không bao giờ có bất kỳ suy nghĩ ác ý nào cả.

Bàn chân cong

Nếu người yêu của bạn có bàn chân cong, anh ấy/cô ấy là người không những bảo thủ mà còn đầy tham vọng. Chàng/nàng ta có thể đồng ý với bạn để duy trì hòa bình, thế nhưng bên trong thì lại hoàn toàn ngược lại.

Dân Việt


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngón chân bất ngờ tiết lộ những bí mật của bạn và người ấy

Top 3 con giáp có lòng bao dung vô bờ bến

Điển hình nhất là người tuổi Thìn với tấm lòng đồng cảm lớn cũng như luôn ý thức được trách nhiệm sâu sắc trong mọi việc.
Top 3 con giáp có lòng bao dung vô bờ bến

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Top 1. Tuổi Thìn

1-3972-1408414438.jpg

Người tuổi Thìn thông minh linh hoạt, gan dạ hơn người. Họ tràn trề sức sống, không chịu khuất phục, có tấm lòng đồng cảm lớn cũng như luôn ý thức được trách nhiệm sâu sắc với mọi việc. Họ nhiệt tình, phóng khoáng, có quan hệ tốt với mọi người. Nếu quen biết lâu với người tuổi Thìn bạn sẽ biết họ thích náo nhiệt, không thích gây bất hòa, xích mích hay phân chia rạch ròi, biết đối nhân xử thế, giải quyết mọi việc đều hào phóng, tuyệt đối sẽ không để bụng vì những chuyện nhỏ nhặt. Người khác có sai sót thì họ cũng chỉ nói đạo lý mà thôi.

Top 2. Tuổi Tuất

2-3944-1408414439.jpg

Người tuổi Tuất bản tính chính trực, lương thiện, khả năng quan sát nhạy bén, phản ứng nhanh, rất chuộng nghĩa khí và tinh thần trách nhiệm, có tấm lòng đồng cảm. Người tuổi Tuất ghét nhất những kẻ giả tạo, ra vẻ ta đây; coi thường nhất những kẻ dối trá, bịp bợm. Họ biết cách đối nhân xử thế, cư xử với mọi người bằng sự chân thành. Các mối quan hệ xã hội của họ cũng rất tốt, làm việc gì cũng đến nơi đến chốn, không bao giờ bỏ dở giữa chừng.

Top 3. Tuổi Sửu 

3-6130-1408414439.jpg

Người tuổi Sửu tính tình trung hậu thật thà, chất phác, thận trọng và ôn hòa. Tuy có lúc hơi chậm chạp, không biết ứng biến linh hoạt nhưng họ lại là người rất quý trọng tình cảm, trọng tình trọng nghĩa. Người tuổi Sửu bản tính lương thiện, thích giúp đỡ người khác. Vì vậy, họ rất dễ tin người, đương nhiên cũng... dễ bị lừa. Lòng bao dung của người tuổi Sửu tuy có kém hơn hai con giáp trên một chút, nhưng vẫn được xem là mạnh so với các con giáp khác!

Nhật Băng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 con giáp có lòng bao dung vô bờ bến

Hiểu ý nghĩa của lễ vật trong tráp ăn hỏi

Theo truyền thống, lễ vật được đựng trong các mâm sơn son thiếp vàng, gọi là tráp ăn hỏi.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Trong các thủ tục ngày cưới của người Việt, ăn hỏi là một trong những phần lễ quan trọng nhất. Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức là đồng ý gả con cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi, đôi trai gái có thể coi là vợ chồng chưa cưới, chỉ còn chờ ngày cưới để công bố với hai họ.

Theo truyền thống từ xưa đến nay, lễ vật sẽ được đựng trong các mâm sơn son thiếp vàng, gọi là tráp ăn hỏi. Tùy từng vùng miền mà số lượng mâm quả cưới có thể khác nhau. Tuy nhiên, có những thứ lễ vật gần như được mặc định, đó là: trầu cau, bánh cốm, chè, hạt sen, rượu, thuốc lá, bánh phu thê, trái cây và phong bì tiền.

1. Trầu cau

“Miếng trầu là đầu câu chuyện”, từ ngàn xưa đến nay, dù đám cưới theo phong tục Bắc - Trung - Nam đều không thể thiếu khay trầu cau trong mâm quả cưới. Trầu cau hòa quyện cùng vôi sẽ tạo ra màu đỏ hồng như màu máu, tượng trưng cho sự sắt son bền chặt của cuộc sống hôn nhân.

y-nghia-vang-cua-le-vat-trong-trap-an-hoi
2. Trái cây

Trái cây trong mâm quả cưới là quà tặng từ thiên nhiên, ngụ ý mong cho tình yêu, cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ sẽ ngọt ngào, tươi mới suốt cuộc đời.

3. Bánh

Các loại bánh truyền thống thường được sử dụng trong lễ ăn hỏi là bánh phu thê, bánh hồng, bánh pía, bánh kem, bánh cốm... tùy vào phong tục từng vùng, trong đó, bánh phu thê là phổ biến nhất. Mang nhiều giai thoại khác nhau xoay quanh câu chuyện về tình nghĩa vợ chồng, chiếc bánh phu thê thể hiện mong ước về tình yêu mặn nồng, hòa quyện vào nhau.

Những gia đình theo phong tục xưa sử dụng bánh cặp, nghĩa là gồm hai thức bánh tượng trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là bánh phu thê - tượng trưng cho Dương và bánh cốm - tượng trưng cho Âm, hoặc bánh chưng - bánh dày. Những loại bánh này được đựng hoặc bọc trong giấy đỏ.

Nhiều địa phương thay thế bánh bằng xôi gấc và lợn quay. Màu đỏ và sự dẻo dai của xôi gấc ngụ ý cho tình cảm vợ chồng son sắt. Lợn quay tượng trưng cho sự sung túc, tài lộc và là lời chúc đôi uyên ương sớm có em bé.

y-nghia-vang-cua-le-vat-trong-trap-an-hoi-2
4. Trà và rượu

Là thứ lễ vật không thể thiếu trong mọi nghi thức truyền thống, trà và rượu tượng trưng cho lời xin phép của con cháu, ông bà tổ tiên sẽ về chứng giám cho đôi trẻ để đám cưới được diễn ra vui vẻ, hạnh phúc. Bên cạnh đó, chất cay nồng của rượu và thơm đắng của trà góp hương vị cho sắc màu cuộc sống, tượng trưng cho cuộc sống hôn nhân viên mãn.

5. Tiền đen

Phong bì tiền (lễ đen) được để vào một tráp riêng hoặc để chung vào với tráp trầu cau khi nhà trai mang sang nhà gái. Số tiền trong lễ đen tượng trưng cho việc thách cưới của nhà gái đối với nhà trai. Mặt khác, lễ đen cũng được coi như món quà của nhà trai dành cho nhà gái để tỏ lòng cảm ơn gia đình đã có công sinh thành, nuôi dưỡng con dâu mới. 

Theo Ngôi Sao

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hiểu ý nghĩa của lễ vật trong tráp ăn hỏi

Mơ thấy được tán dương hay bị sỉ nhục là điềm báo gì?

Mỗi giấc mơ đều mang một ý nghĩa riêng, thấy mình được tán dương trong giấc mơ nhưng có thể cuộc sống hiện thực đang gặp rắc rối, thấy mình
Mơ thấy được tán dương hay bị sỉ nhục là điềm báo gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

bị sỉ nhục thì cuộc sống lại sắp có niềm vui.

 
Giải mã giấc mơ được tán dương hay bị sỉ nhục:

Mo thay duoc tan duong hay bi si nhuc la diem bao gi hinh anh
Ảnh minh họa

 
Mơ thấy mình được vợ tán dương là vợ mình có hành vi bất thường khiến người khác ghen ghét.

 
Nữ giới mơ thấy mình được biểu dương tức không phải người vợ thành tâm như ý của chồng.

 
Mơ thấy cấp dưới tán dương mình là chuyện làm ăn sắp gặp khó khăn, cấp dưới sẽ không nghe lời nói của bạn.

 
Mơ thấy bạn thân biểu dương mình là người mơ sắp bị lừa.


Mo thay duoc tan duong hay bi si nhuc la diem bao gi hinh anh 2
Ảnh minh họa
 
Học sinh mơ thấy được người khác biểu dương thì kỳ thi sắp tới sẽ bị bét bảng.

 
Người làm việc mơ thấy mình tán dương sếp là ngụ ý sẽ được tăng lương, thăng chức, có thưởng.

 
Mơ thấy mình tán dương vợ, bạn bè hoặc người thân là điềm lành, cuộc sống hoà thuận vui vẻ.

 
Mơ thấy mình bị sỉ nhục là sắp đánh nhau với người khác.

 
Mơ thấy mình sỉ nhục người khác là danh tiếng vang xa khiến người khác bất ngờ.

 
Mơ thấy sỉ nhục người có địa vị cao hơn mình là điềm báo sắp được thăng chức tăng lương.

 
Mơ thấy xỉ nhục đối thủ là đối thủ sẽ đầu hàng.


=> ## cung cấp công cụ xem tử vi theo ngày tháng năm sinh, xem ngày tốt xấu chuẩn xác để thuận lợi công việc

Lichngaytot.com

Toát mồ hôi vì mơ thấy mình bị mắng
Chẳng ai muốn bị nghe mắng cả, thế nhưng có đôi khi chúng ta làm không tốt và không muốn thì cũng vẫn phải nghe những lời mắng đó. Thế nhưng,

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy được tán dương hay bị sỉ nhục là điềm báo gì?

Thất sát tinh quyết

Một bài viết rất hay về sao Thất Sát. Mời các bạn cùng đọc tham khảo.
Thất sát tinh quyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tổng luận

Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.

Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.

Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.

Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.

Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.

Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.

Biệt cách

Các sao có liên quan mật thiết với Thất sát, đó là Phá quân và Tham lang. Ba sao này hội chiếu ở tam phương, gọi là tổ hợp “Sát Phá Tham”.

Thất sát bài bố ở 12 cung, cấu tạo cơ bản được phân làm 6 tổ hợp như sau:

- Ở Tý Ngọ, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Vũ khúc Thiên phủ”

- Ở Sửu Mùi, Thất sát đồng độ với Liêm trinh

- Ở Dần Thân, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Tử vi Thiên phủ”

- Ở Mão Dậu, Thất sát đồng độ với Vũ khúc

- Ở Thìn Tuất, Thất sát độc tọa, cung đối diện là “Liêm trinh Thiên phủ”

- Ở Tị Hợi, Thất sát đồng độ với Tử vi

Từ các tổ hợp này có thể thấy, các sao có quan hệ với Thất sát, ngoại trừ Phá quân và Tham lang ra, còn phải kể thêm bốn sao Tử vi, Thiên phủ, Liêm trinh, Vũ khúc.

Thất sát rất ưa gặp Tử vi, cho nên khi thủ mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi, phần nhiều dễ “hợp cục nhập cách”, mà trở thành cát tường. Tổ hợp “Tử vi Thất sát” hóa làm “quyền lực”. Thất sát ở cung đối diện với Tử vi, cũng chủ về làm tăng “sức khai sáng” của mệnh cách; nhưng tính chất của Thiên phủ đồng thời lại khiến cho mệnh tạo dễ rơi vào hư ảo; nhìn từ mặt tích cực, Thất sát ở Tị Hợi sẽ tốt hơn ở Dần Thân, nhưng người có Thất sát thủ mệnh ở Dần Thân lại sống có ý vị triết học, không như người có Thất sát thủ mệnh ở Tị Hợi, luôn luôn cảm thấy không thỏa mãn dục vọng quyền lực.

Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính nhu của Liêm trinh có thể hóa giải tính cương của Thất sát, lúc này cần phải xem các sao Phụ diệu và Tá diệu hội hợp để định, nếu Hung thì thiên nặng về nhục dục, nếu Cát thì phẩm cách cương trực trung chính, còn thêm phần khí chất văn nghệ, phong lưu nho nhã, tuyệt đối không có chút gì hạ lưu. Nhưng Thất sát đối nhau với “Liêm trinh Thiên phủ”, là có thêm phần cảm khái, thường cảm thấy cuộc đời không đẹp như “hoa trong gương” hay như “trăng dưới nước”, thường khiến cho mệnh cách như một chiến tướng dục tốc nơi xa trường, xông pha trong mũi tên hòn đạn.

“Thất sát Vũ khúc” đồng độ, là một tổ hợp tinh hệ rất tích cực mà lại thiếu tài lãnh đạo. Có Thiên phủ ở cung đối diện hội chiếu, nên tài năng độc lập của Thất sát lại dễ được phát huy, nhưng thường có biểu hiện độc tài, cho nên có khuyết điểm về năng lực lãnh đạo. Trong các tổ hợp tinh hệ của Thất sát, thì tổ hợp này được xếp vào loại ưu, sóng gió ít và nhỏ, nếu để tìm một cuộc sống an định, đương nhiên mệnh cách này là thích hợp.

Thất sát thủ cung, chủ về hành động thiết thực

Trong Đẩu Số, Thất sát là sao “cương mãnh”, phối tam phương Sát Phá Tham là có thâm ý. Lực phá hoại của Phá quân và tính khéo ăn khéo ở của Tham lang được nhuyễn hóa trong vô hình, còn tính phá hoại của Thất sát thường là cơ mưu tính toán phối hợp hành động, tổ hợp Sát Phá Tham hội hợp có sắc thái “cương nhu tương tế”. Người có Thất sát thủ mệnh, có đặc điểm là thiết thực, không nịnh bợ, không chần chừ, dứt khoát không lần nữa, không cẩu thả. Khi Thất sát hội với các sao quá mạnh, như gặp Hỏa tinh Linh tinh, thì mệnh cách dễ chuốc lấy oán hận, nếu hội với Địa không Địa kiếp thường cảm thấy tâm hồn trống rỗng, sinh hoạt xã giao ít hợp quần.

Xã hội thời cổ đại, người có nghề đặc thù, mới có cảnh ngộ “độn thế và nhập thế” được gọi là cao nhân ẩn sĩ, cho nên cổ quyết nói “Thất sát hãm địa, nhờ tay nghề khéo mà mưu sinh”, “Tính thê lương thì số nên làm tăng nhân, đạo sĩ”. Thực ra, người có Thất sát thủ mệnh không như cổ thư nói, trong xã hội ngày nay, người có Thất sát là người có hành động thiết thực, như cổ thư nói “Thất sát nhập Mệnh Thân, gặp Cát tinh, ắt sẽ trải qua gian khổ”, đây là một đánh giá thỏa đáng; không như Tham lang dễ khéo léo mưu lợi, cũng không như Phá quân phá hoại tất cả, một sống hai chết, không cần phải xem xét lại, còn Thất sát thì đương nhiên “trải qua gian khổ” sau mới có thành tựu.

Người có Thất sát thủ mệnh, phần nhiều sức đề kháng tiên thiên của Phổi không đủ, trước kia y dược còn lạc hậu, vì vậy cho rằng Thất sát mà hội thêm với Hung tinh thì dễ yểu mạng, cho rằng nguyên nhân chết là vì bệnh Phổi và bệnh Suyễn khí. Ngày nay Y học đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, luận đoán này không còn ứng nghiệm.

Nữ mệnh Thất sát độc tọa cung Phúc đức

Thất sát có đặc tính trôi nổi, hiếu động, cổ nhân cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, ngày nay vẫn có người nệ cổ cho rằng “Nữ mệnh Thất sát độc tọa ở Phúc đức ắt sẽ thấp hèn”. Khi cung Phúc đức ở Tý hoặc ở Ngọ có Thất sát độc tọa, cung Mệnh ắt sẽ là tinh hệ “Tử vi Thiên tướng”, cổ nhân cho rằng tinh hệ này có tính chất “vô tình vô nghĩa”, thêm vào cung Phúc đức có Thất sát độc tọa mang tính “hiếu động trôi nổi”, và cổ nhân lập thuyết cho rằng, không thích hợp với nữ mệnh. Ở xã hội hiện đại, chủ về không chịu an phận thủ thường với hoàn cảnh đang sống, mà thường tìm cơ hội thay đổi để thỏa với nhu cầu. Tính cách này thường phản ánh ở cung Sự nghiệp, không nhất định ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Dần hoặc ở Thân, cung Mệnh ắt là “Liêm trinh Thiên tướng” ở Tý hoặc ở Ngọ, còn cung Phu là Tham lang và cung Sự nghiệp là Vũ khúc, với mệnh bàn cấu tạo theo cách này, các sao đều bất lợi về tình cảm, do đó cổ nhân cho rằng đây là mệnh “xướng kĩ, tỳ thiếp”, bởi vì thời cổ đại, “xướng kĩ, tỳ thiếp” thường ứng với loại nữ giới hay đùa giỡn với tình cảm. Xã hội ngày nay, tình cảm xung động nhất thời của con người, cũng như những tình cảm giao động của nữ mệnh, không hẳn là nhân tố quyết định đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Nếu Thất sát độc tọa cung Phúc đức ở Thìn hoặc ở Tuất, thì cung Mệnh ắt sẽ là “Vũ khúc Thiên tướng ở Dần hoặc ở Thân, cổ nhân cho rằng “Vũ khúc là sao cô quả” nên bất lợi về hôn nhân. Trên thực tế, nữ mệnh có mệnh cách loại này, sở trường mạnh nhất là “cơ trí”. Thời cổ đại, phụ nữ phải lo lắng chăm sóc gia đình, luôn ở trong nhà, “cơ trí” không có đất dụng võ, mà thường phát triển biến thái thành tính “ngầm hại nhau bằng kế mọn”, đương nhiên không thể kết luận là mệnh cách tốt. Xã hội hiện đại, chế độ đại gia đình đã không tồn tại, người phụ nữ có sự nghiệp của riêng mình, người có mệnh cách loại này, ngoài việc giỏi giang biết chăm lo gia đình, còn giỏi việc giữ tiền và sử dụng đồng tiền, không chỉ nghĩ tới bản thân mà sự nghiệp cũng có phát triển nhất định. Làm sao nói là “mệnh thấp hèn”?

Thất sát độc tọa Tý Ngọ

Thất sát độc tọa ở Tý hoặc ở Ngọ, cung đối diện có “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, các cung tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Thất sát ở Tý hoặc ở Ngọ, đối nhau như vậy có thể nói đây là mệnh cách vào loại mạnh, nhất là Thất sát ở Ngọ, gặp Cát tinh là thành cách “Hùng tú kiền nguyên”, chủ về tuổi trẻ trải qua gian khổ sau đó hưng phát. Nếu Thất sát ở Tý gặp Sát tinh tụ hội, chủ về trung niên hoặc vãn niên rất vất vả, gian khổ, khiến cổ nhân có thuyết “nhảy sông trầm mình”, khi không gặp Sát tinh trùng trùng, vẫn chủ về mệnh cách có thành tựu.

Muốn luận giải Thất sát ở Tý Ngọ, cần phải phân biệt Thất sát thuộc loại “quyền uy” hay thuộc loại “khắc kị”.

Hễ Thất sát có sao Lộc thì không phải “khắc kị”. Thất sát rất ưa Tham lang Hóa Lộc, không những tính chất của Thất sát được Tham lang Hóa Lộc điều hòa, mà Liêm trinh của cung Phúc đức cũng được điều hòa, rất đúng với cách “Hùng tú kiền nguyên”.

Vũ khúc Hóa Lộc cũng tốt, khiến cho Thiên phủ đồng độ cũng có sao Lộc, hội hợp và vây chiếu Thất sát cùng Liêm trinh cũng là thượng cách, có tính chất “quyền uy”.

Phá quân Hóa Lộc ắt sẽ đối nhau với Tham lang Hóa Kị, ảnh hưởng tới tính chất của Liêm trinh, do vậy Thất sát cũng bị chi phối bởi nhiều lo lắng, tuy không ảnh hưởng đến tính “quyền uy”, nhưng đời người gian khổ hơn.

Mệnh cách loại này rất ái ngại khi Vũ khúc Hóa Kị, hoặc Liêm trinh ở cung Phúc đức Hóa Kị, khiến cho Thất sát có tính “khắc kị”. Nếu lại gặp các sao Sát Hình, thì nội tâm nhiều lo lắng, nhất là nữ mệnh chủ về tình cảm “trống không”.

Thất sát rất ngại đồng độ với Kình dương, sẽ làm tăng tính “khắc kị” rất nặng, cũng không ưa Hỏa tinh, nếu có “Hỏa tinh Kình dương” đồng thời bay đến, thì tính “khắc kị” của nó làm cho đời người gặp nhiều tai nạn, sức khỏe cũng có vấn đề.

Rất ưa có Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt tụ hội, không gặp Sát tinh, dù không có cát hóa cũng chủ về “quyền uy”.

Cung hạn “Thái âm Thái dương” đồng độ, Thất sát thuộc loại “khắc kị” ưa Thái dương nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền, còn Thất sát thuộc loại “quyền uy” thì ưa Thái âm nhập miếu Hóa Lộc hay Hóa Quyền. Khi Thái dương nhập miếu cát hóa sẽ làm giảm nhẹ tính “khắc kị” của Thất sát, tính “khắc kị” được hóa giải. Khi Thái âm nhập miếu cát hóa sẽ làm hòa hoãn khí “quyền uy” của Thất sát. Nếu Thái âm hay Thái dương Hóa Kị, thì Thất sát thuộc loại “khắc kị” rất ngại, ắt sẽ xảy ra phá tán, thậm chí bị người gây lụy.

Niên hạn gặp năm Sửu hoặc năm Mùi, phải mượn “Thái âm Thái dương” để an cung, thì ngoài những tính chất kể trên, do lúc Thái âm Hóa Lộc thì Cự môn ở cung Tài bạch ắt cũng Hóa Kị, vì vậy gây ra những nhân tố không phù hợp với Thất sát, chủ về vận lúc trẻ gặp nghịch cảnh (Thất sát ở Tý thì cung mệnh của lưu niên ở Sửu, Thất sát ở Ngọ thì cung mệnh của lưu niên ở Mùi).

Cung hạn Liêm trinh độc tọa, ưa có sao Lộc, đây là vận thế hưng phát của Thất sát, nếu gặp thêm các Phụ, Tá, ở nguyên cục loại Thất sát “quyền uy”, chủ về trong vận sẽ tự sáng lập sự nghiệp.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình Hao, thì người theo Võ nghiệp phải đề phòng xảy ra bất trắc, nếu nguyên cục là loại Thất sát “khắc kị” thì càng thêm nặng, dù không theo võ nghiệp cũng phải đề phòng tai nạn đổ máu.

Vũ khúc Hóa Kị của loại nguyên cục Thất sát “khắc kị” càng là bất lợi. Đạo “xu cát tị hung” là làm những nghề có liên quan đến “máu”, như nha sỹ, bác sỹ ngoại khoa, khoa phụ sản, hoặc nghề dịch vụ tang lễ, hỏa thiêu, đồ tể… để giảm thiểu tính “khắc kị”.

Thông thường, Thất sát “quyền uy” ưa đến cung hạn Phá quân độc tọa, thêm cát hóa, có Cát tinh, ắt sẽ có chuyển biến theo hướng tốt lành. Thất sát “khắc kị” thì không ưa gặp cung hạn Phá quân, dù có các Cát tinh hội hợp, cũng phải trải qua thất bại trước rồi mới chuyển biến thành tốt lành. Nếu hội các sao Sát Hình, thì thất bại rất nặng, loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này là vận hung hiểm.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, Thất sát “khắc kị” cũng không ưa đến, chủ về tâm trạng không ổn định, các sao Hình Kị mà nặng, sẽ chủ về gặp tai nạn, bệnh tật. Thất sát “quyền uy” mà đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, thì lại là vận tốt, còn là vận có thu hoạch, nếu gặp thêm cát hóa thì càng thêm tốt.

Xét lưu niên, Thất sát “khắc kị” phần nhiều đều bất an, nhưng Thất sát “quyền uy” lại là năm định hình sự nghiệp.

Cung hạn “Vũ khúc Thiên phủ” đồng độ, bất kể là lưu niên hay đại hạn, Thất sát “quyền uy” đều ưa đến, chủ về tài lộc dồi dào, hoặc lập được công nghiệp. Đối với Thất sát “khắc kị”, thì phải có lưu diệu cát tường hội hợp với “Vũ khúc Thiên phủ” thì mới xét là tốt, nếu lại gặp Sát tinh hoặc hung tinh bị “hóa”, thì chủ về bị tai nạn rất lớn. Ở cung hạn này, Thất sát rất ưa gặp lưu Lộc hoặc gặp Hóa Lộc, tính “khắc kị” của Thất sát mới được hóa giải để giảm thiểu được nạn tai.

Tham lang độc tọa, là cung hạn Thất sát ưa đến, dù có tính “khắc kị” cũng chủ về một năm thuận lợi toại ý, nếu được cát hóa và có Cát tinh, còn là thời kỳ tài lộc dồi dào. Bất kể là lưu niên hay đại hạn đều đúng. Thất sát “quyền uy” cũng ưa đến vận hạn hay niên hạn gặp Tham lang, chủ về vận thu hoạch.

Tham lang Hóa Kị thì Phá quân đồng thời Hóa Lộc, chỉ chủ về tăng thêm vất vả gian khổ mà thôi. Chỉ khi có các sao Sát Kị Hình Hao cùng đến, thì đây là vận hạn không như ý, nhưng không chủ về nạn tai.

Cung hạn “Thiên cơ Cự môn” đồng độ, chỉ sợ Cự môn Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên), sao hội chiếu mượn Thái dương Hóa Kị để an cung, lại gặp Sát tinh, loại Thất sát “khắc kị” chủ về bị người gây lụy, hoặc bị người tranh đoạt. Nữ mệnh cần đề phòng một năm hay một vận phải ôm hận, hối tiếc. Nếu Thiên cơ Hóa Kị (ở đại hạn hay lưu niên) hội chiếu Thái âm Hóa Kị, loại Thất sát “khắc kị” mà đến cung hạn này, chủ về bị người mưu ngầm hãm hại ám toán, ngầm phá hoại mà thất bại. Thất sát “quyền uy” gặp cung hạn này cũng bất lợi, chủ về gây ra điều tiếng thị phi, kiện tụng, hoặc do kế hoạch sai lầm mà chịu tổn thất.

Nếu gặp cung hạn có cát hóa, lại hội cát tinh, đối với Thất sát “khắc kị” chủ về sự nghiệp tuy thuận, nhưng phải đề phòng vì tửu sắc mà chuốc họa. Đối với Thất sát “quyền uy”, thì đây là thời kỳ ổn định.

Cung hạn “Tử vi Thiên tướng” đồng độ, thông thường là đại hạn hay lưu niên, mà loại Thất sát “quyền uy” ưa đến, nhưng chỉ hơi gặp Sát tinh, thì không nên tự sáng lập khai mở sự nghiệp mới, thường chủ về hành động mù quáng, quyết định giải pháp nóng vội nên bị người công kích phản đối, hoặc bị cạnh tranh không lành mạnh. Loại Thất sát “khắc kị” đến cung hạn này, lại gặp các sao Sát Kị Hình Hao, chủ về điềm tượng phá tán thất bại. Nếu là đại hạn, thường trong lúc đang thành công thì đột nhiên xảy ra trắc trở.

Cung hạn Thiên lương độc tọa, thường thường là vận trình Thất sát phải rời xa quê hương, nếu không, cũng chủ về nội tâm bất an. Cung hạn Thiên lương rất kị Thiên đồng Hóa Kị hội chiếu, lại có Đà la đồng độ, đây là vận hạn Thất sát “khắc kị” bị lục thân lạnh nhạt. Nhất là nữ mệnh, dễ xảy ra rắc rối về tình cảm, yêu người đã có gia đình. Nếu Thiên lương có cát hóa và Cát tinh, thì Thất sát “khắc kị” nảy sinh ý muốn độc lập trong lưu niên hoặc đại hạn này. Đối với Thất sát “quyền uy” thì đây là niên vận đặt nền tảng cho sự nghiệp, nhưng vẫn không tránh được tình hình bất ổn.

Thất sát và Liêm trinh đồng cung

Thất sát và Liêm trinh đồng độ ở Sửu hoặc ở Mùi, cung đối diện là Thiên phủ độc tọa, cung tam phương là “Tử vi Tham lang” và “Vũ khúc Phá quân”, tính chất cấu tạo của tổ hợp sao khá phức tạp.

Muốn luận đoán bản chất của tinh hệ “Liêm trinh Thất sát” ở Sửu Mùi, cần phải phân biệt xem chúng thuộc loại nào, thuộc loại “phấn chấn” hoặc thuộc loại “cương bạo”.

“Liêm trinh Thất sát” thuộc cách “Hùng tú kiền nguyên” ở Mùi, gặp các Cát tinh, đặc biệt là Văn xương Văn khúc, mà còn hội hợp với Lộc tồn, Hóa Lộc, nhưng không có Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp hội chiếu, thì được xếp vào loại “phấn chấn”, thông thường, chủ về trải qua gian khổ mà thành đại nghiệp, khác với “Liêm trinh Thất sát” có tính “cương bạo”.

Gọi là “cương bạo”, là nói tính chất của các sao mà không nói về khí chất của mệnh tạo, do vậy, phần nhiều mệnh cách có biểu hiện bị lục thân lạnh nhạt, bản thân bị tai nạn, bệnh tật, đời người nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc phải bôn ba vất vả rất nhiều.

“Liêm trinh Thất sát” ưa gặp Lộc tồn hội chiếu và Hóa Lộc hội hợp. Có sao Lộc mà các sao Cát Hung đều gặp, cũng vẫn chủ về loại mệnh cách “phấn chấn”. Đây là điều kiện cơ bản.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, dù gặp các Phụ diệu cát và Tá diệu cát, cũng không đủ để thành mệnh cách “phấn chấn”. Đây là khuyết điểm của mệnh tạo khi nguyên cục không được gặp sao Lộc.

Nếu mệnh cách “Liêm trinh Thất sát” không có sao Lộc, lại hội hợp với các sao Sát Kị Hình ở tam phương tứ chính, thì mệnh cách thuộc tính “cương bạo”, mức độ “cương bạo” nặng hay nhẹ, thì phải xem các sao Sát Kị nhiều hay ít để định.

“Liêm trinh Thất sát” rất kị hội hợp với Vũ khúc Hóa Kị, chủ về làm tăng tính “cương bạo” của chúng. Tham lang Hóa Kị thì không sao, vẫn không bị mất đi bản chất “phấn chấn”, chỉ làm tăng số lần xảy ra sóng gió, trắc trở, mà không làm tăng mức độ nặng nhẹ. Khi Phá quân Hóa Quyền cũng được xếp vào loại “phấn chấn”.

Lộc tồn không nên đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, mà nên đồng độ với “Tử vi Tham lang”. Trường hợp Lộc tồn đồng độ với “Vũ khúc Phá quân”, dù khiến “Liêm trinh Thất sát” có bản chất “phấn chấn”, những vẫn bị áp lực quấy nhiễu, gây khó khăn về tâm lý, làm ảnh hưởng đến sự nghiệp.

Thiên phủ ở cung đối diện có ảnh hưởng rất lớn đối với bản chất của “Liêm trinh Thất sát”. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, “kho lộ” sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” biến thành “cương bạo”; nếu Thiên phủ Hóa Khoa, mà Thái dương và Thái âm không bị lạc hãm đến giáp Thiên phủ, sẽ gây ảnh hưởng khiến “Liêm trinh Thất sát” thành mệnh cách “phấn chấn”.

Cung hạn Thiên đồng độc tọa, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” rất thích hợp đến, đây là vận hạn phát đạt; nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về chuốc lấy rắc rối về tình cảm. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên đồng độc tọa, được Cát tinh hội hợp, cũng là vận hạn phát đạt; nếu gặp các sao Sát Kị Hình Hao, thì dễ vì tiền bạc mà gặp nạn, hoặc xảy ra trắc trở, hoặc chủ về hôn nhân trắc trở.

Cung hạn Thiên đồng Hóa Kị, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” dễ bị phạm pháp, kiện tụng, gặp Thiên hình, Đại hao thì càng tệ.

Cung hạn “Vũ khúc Phá quân” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn phát” thường thường là vận trình tốt đẹp. Lưu niên đến cung độ này cũng chủ về có cơ hội sáng lập sự nghiệp. Nếu nguyên cục có các sao đào hoa đồng độ, chủ về dễ thay lòng đổi dạ. Hiện tượng bề ngoài gần giống như cung hạn Thiên đồng độc tọa, nhưng bản thân mệnh cách sẽ tự biết nội tâm có sự cảm thụ khác nhau, đến cung hạn Thiên đồng sẽ có ý vị của tình yêu, còn lúc đến cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thì thuần túy về nhục dục.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập vào cung hạn “Vũ khúc Phá quân” thường chủ về được người đề bạt, cổ nhân cũng xem vận hạn này là “lập công ở biên cương”, vì vậy tuy được cát lợi cũng khó tránh khỏi bôn ba vất vả. Nếu cung hạn này lại hội hợp với các sao Sát Kị, mà “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” nhập cung hạn này, ắt xảy ra tranh giành tiền của, trong lưu niên Liêm trinh Hóa Kị xung chiếu với Vũ khúc Hóa Kị sẽ có sắc thái tranh giành tiền của, mà còn đổ vỡ về tình cảm. Sát tinh nặng, còn gặp Thiên hình, Âm sát đồng độ, cung Tật ách của nguyên cục không tốt, thì nên đề phòng bất trắc.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thái dương độc tọa, thường thường là năm lục thân xảy ra sự cố, nặng thì có thể sinh ly tử biệt. “Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” đến cung hạn Thái dương độc tọa, chủ về danh tiếng ngày càng lớn, hoặc chủ về sự nghiệp khuếch trương lớn. Nếu Hóa Kị bay đến hóa Thái dương, thì đây là vận xấu của “Liêm trinh Thất sát”, bất kể thuộc loại bản chất “phấn chấn” hay “cương bạo” cũng đều không tốt. Cần phải xem kỹ cung Tật ách.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, đối với tính chất của “Liêm trinh Thất sát” cực kỳ đơn giản, “cương bạo” thì bất lợi, thất bại; “phấn chấn” thì cát lợi, có thu hoạch.

Nếu ở lưu niên Thiên phủ độc tọa thủ mệnh, gặp Lộc tồn đến hội hợp, mà nguyên cục không có sao Lộc, thì không nên tích cực thúc đẩy phát triển, nếu không, không những hao phí khí lực, mà còn dễ bị người bài xích, chèn ép. Nếu các sao Sát hình nặng, còn chủ về bị người hãm hại.

Cung hạn “Thiên cơ Thái âm” đồng độ, “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” mà đến cung hạn này, sẽ xảy ra sự mất ổn định. Khi Thái âm ở cung vượng, thì đây là vận trình trải qua sự mất ổn định mà dẫn đến hưng phát, khi Thái âm rơi vào nhàn cung, thì gặp nhiều phiền phức. Khi Thái âm Hóa Kị thì hậu quả của sự mất ổn định là không tốt.

Cung hạn “Tử vi Tham lang” rất ưa Hóa Quyền ở nguyên cục, lúc “Liêm trinh Thất sát” đến sẽ là vận hạn sáng sủa, phát đạt. Nếu Hóa Quyền của nguyên cục bị Hóa Kị của vận hạn xung khởi, thì lại càng thêm sáng, chủ về lập được sự nghiệp và công trạng, cạnh tranh đắc lợi. Nếu có Hóa Kị ở nguyên cục, thì dù mang bản chất “phấn chấn”, cũng chủ về xảy ra áp lực rất lớn trong sự nghiệp, phải rất gian khổ để hóa giải. Nếu “Tử vi Tham lang” ở cung mệnh của đại hạn, chủ về xảy ra cảm giác mệt mỏi, buồn giầu lo lắng, thậm chí có cảm giác đời người hư ảo.

Thông thường “Liêm trinh Thất sát” ưa đến cung hạn Cự môn độc tọa, đối với “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” chủ về tình cảm gặp bất lợi, còn sự nghiệp và tiền bạc không có trở ngại. “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” ưa đến đại vận hoặc lưu niên Cự môn thuộc cục “phản bối” ở Thìn. Nếu là đại vận, thường những năm đầu của vận đột nhiên phát lên, tài lộc danh dự đều có ngoài dự liệu.

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” gặp Cự môn của cục “phản bối”, tuy có xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành, nhưng thường trong những năm đầu của vận, phải trải qua những trắc trở quá lớn, khiến cho mệnh tạo khó chịu đựng nổi.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, thông thường là vận hạn đặt định nền tảng của sự nghiệp cho “Liêm trinh Thất sát”. Bản chất “cương bạo” thì nền tảng của sự nghiệp mỏng yếu, còn bản chất “phấn chấn” thì nền tảng của sự nghiệp dày chắc, mà còn có địa vị cao.

Ở lưu niên, nếu “Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” gặp cung hạn thuộc loại “Hình kị giáp ấn” chủ về chuốc lấy thị phi, vì vậy không nên cố xuất đầu lộ diện, cũng không nên thay đổi nghề nghiệp, nếu có tứ sát cùng chiếu, chủ về tai nạn, bệnh tật, hoặc phạm pháp. Cần phải xem cung Phúc đức và cung Tật ách để xác định rõ thêm tính chất của cung hạn này.

“Liêm trinh Thất sát” loại “cương bạo” đến cung hạn Thiên lương độc tọa, thường đây là vận hạn lục thân bệnh chết hoặc ly tán. Nữ mệnh không nên yêu đương hay kết hôn trong vạn hạn này, nếu không, sẽ gặp nhiều đau khổ (Thiên lương ở Tý xấu hơn ở Ngọ).

“Liêm trinh Thất sát” loại “phấn chấn” ưa đến cung hạn Thiên lương độc tọa, tuy có trắc trở, nhưng thời điểm này là lúc kết giao các mối quan hệ giao tế, hoặc được người trợ lực.

Nữ mệnh “Liêm trinh Thất sát” không nên đến cung hạn Thiên lương độc tọa, dù là mang bản chất “phấn chấn” hay bản chất “cương bạo”, đều chủ bất lợi về lục thân, bản thân phải chia ly với gia đình, anh chị em bệnh mất.

Thất sát độc tọa Dần Thân

Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân, đối nhau với “Tử vi Thiên phủ”, tam phương là Phá quân độc tọa và Tham lang độc tọa.

Muốn luận giải bản chất của Thất sát ở hai cung này, cần phải phân biệt nó thuộc loại “cô độc, cao ngạo”, hay thuộc loại “uy quyền”.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo” bề ngoài cũng giống như loại Thất sát “uy quyền”, nhưng lại làm cao, chẳng khiến người ta khâm phục, còn Thất sát “uy quyền” tuy không hòa đồng với mọi người, giống như xử sự không hòa hợp, nhưng khiến người giao tiếp thường e ngại e sợ, có phần dè chừng khi ứng xử.

Thất sát cần phải gặp sao Lộc, mới có thể giải được tính “cô độc cao ngạo” của nó, khi Tham lang Hóa Lộc là hòa hoãn nhất, trường hợp Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu là kế đó, Phá quân Hóa Lộc là kế đó nữa.

Nếu Phá quân Hóa Lộc, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc loại tổ hợp “uy quyền”, nhưng tính hòa hoãn vẫn không đủ, nên vẫn mang tính “cô độc cao ngạo”.

Nếu Phá quân Hóa Quyền, mà Thất sát có các sao Phụ Tá hội hợp, là thuộc tổ hợp sao “uy quyền”, tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng biến thành tính chất “chọn bạn rất nghiêm khắc”.

Nếu Thất sát có các sao Sát Hình hội chiếu, lại có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật hội hợp, là thuộc loại “cô độc cao ngạo”.

Nếu Tham lang Hóa Quyền, Thất sát đồng độ với các sao Sát Hình, không có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, cũng thuộc tính “cô độc cao ngạo”.

Hai trường hợp trên, có Xương Khúc Tả Hữu hội hợp, thì tính “cô độc cao ngạo” tuy có giảm, nhưng không thành tính “quyền uy”.

“Tử vi Thiên phủ” ở cung đối diện, rất nên Hóa Khoa, chi phối ảnh hưởng tới Thất sát, chủ về tính “uy quyền”, nếu Tử vi Hóa Quyền, thì trái lại, sẽ chủ về tính “cô độc cao ngạo”.

Thất sát tọa mệnh, nên có bản chất thuộc loại “uy quyền”, nếu mệnh cách thuộc loại “cô độc cao ngạo” chủ về gặp nhiều tình huống rắc rối trong đời, nhất là nữ mệnh chủ về hôn nhân bất lợi.

Thất sát đến 12 cung, tính chất rất phức tạp, mỗi một sao chủ về biến hóa thay đổi khác nhau khi gặp Thất sát, là có cảnh ngộ khác nhau ngay. Dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản:

Thất sát nặng tính “uy quyền” mà nhẹ tính “cô độc cao ngạo”, thì nên đến những cung hạn sau:

- Thiên đồng độc tọa Hóa Quyền, cung đối diện có Thái âm Hóa Lộc vây chiếu.

- Thiên đồng độc tọa, hội Cự môn Hóa Quyền, Thái âm Hóa Khoa.

- Vũ khúc độc tọa Hóa Lộc.

- Vũ khúc độc tọa, gặp Tham lang Hóa Lộc ở cung đối diện.

- Thái dương nhạp miếu, không gặp sao Sát Kị.

- Phá quân cát hóa, không có Sát tinh mà có Phụ Tá cát hội hợp.

- “Tử vi Thiên phủ” hóa làm sao Khoa, hoặc biến thành Hóa Khoa.

- Thái âm Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền hay Hóa Khoa, không có Sát tinh.

- Tham lang Hóa Lộc, Hóa Quyền không có Sát tinh.

- Thiên lương Hóa Khoa, có sao Phụ Tá cát hội hợp.

Thất sát Hóa Quyền (bốn cung sinh) đến các vận hạn trên, chủ về một mình phụ trách công việc, hoặc gánh vác trọng trách, đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, phần nhiều thay đổi theo hướng tốt lành. Cảnh ngộ cụ thể của nó xem tính chất của các sao hội hợp để định.

Nếu bản chất Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, đến các đại hạn hoặc lưu niên đã thuật ở trên, không chủ về phát lên rồi biến thành hanh thông, chỉ là niên hạn thuận lợi toại ý. Nguyên cục có các sao Sát Kị hội hợp, chủ về phải gặp thị phi trước rồi mới được ổn định. Lúc đến đại hạn hoặc lưu niên Sát Phá Tham, cho dù tổ hợp sao của vận hạn rất đẹp, ắt sẽ có những khiếm khuyết đáng tiếc trong giao tế xảy ra, xác định nguyên nhân tại các cung vị lục thân để luận giải.

Thất sát có bản chất “uy quyền” không nên đến những cung hạn sau đây:

- Thiên đồng Hóa Kị, xung lưu niên Thái âm Hóa Kị

- Vũ khúc Hóa Lộc, Hóa Quyền, mà có các sao Sát Hình trùng trùng.

- Thái dương lạc hãm, mà có các sao Sát Hình đến hội.

- Phá quân Hóa Lộc, hội hợp với Tham lang Hóa Kị, có Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Đà la.

- Thiên cơ Hóa Kị

- Thiên cơ Hóa Lộc, xung khởi Cự môn Hóa Kị

- Thái âm lạc hãm Hóa Kị

- Thái âm Hóa Lộc, xung khởi Thái dương của nguyên cục Hóa Kị

- Cự môn Hóa Kị, xung khởi Thái dương Hóa Kị, rất xấu

- Cự môn Hóa Lộc, đồng độ với Văn xương Hóa Kị, lại gặp thêm Thiên hình Đại hao.

- “Liêm trinh Thiên tướng” thuộc loại “Hình kị giáp ấn”.

- Thiên lương Hóa Lộc gặp các sao Sát Hao.

Lúc đến các vận hạn thuật ở trên, Thất sát thuộc loại “uy quyền” cũng sẽ gặp khó khăn, đình trệ. Hễ Thất sát tọa mệnh, cuộc đời ắt sẽ có một thời kỳ nghịch cảnh, vì vậy trong những vận hạn này, phải có cái tâm yên định theo cảnh ngộ, thì tự nhiên giảm nhiều trắc trở, nếu có cái tâm cưỡng cầu, thì sẽ làm tăng vận xấu.

Tính chất bất lợi có nội dung gì, xem tính chất của các tổ hợp sao để định.

Thất sát thuộc loại “cô độc cao ngạo”, mà đến các đại hạn hoặc lưu niên thuật ở trên, thì phần nhiều sẽ vì quan hệ giao tế mà nảy sinh việc không may mắn, xui xẻo, cần tham chiếu cùng lúc cung Huynh đệ, Phụ mẫu, Giao hữu, để làm rõ chi tiết cảnh ngộ thực tế.

Thất sát và Vũ khúc đồng cung

Thất sát và Vũ khúc đồng cung ở Mão hoặc ở Dậu, cung đôi diện là Thiên phủ, cung tam phương có “Tử vi Phá quân” và “Liêm trinh Tham lang”.

Muốn luận giải cấu tạo hệ tinh bàn này, cần chú ý phân biệt xem chúng thuộc loại “quyết đoán” hay thuộc loại “nông cạn”.

Thực ra, “quyết đoán” sáng suốt và suy nghĩ “nông cạn” chỉ cách nhau một đường ranh, bởi vì “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại suy nghĩ “nông cạn”, bề ngoài vẫn giống như người “quyết đoán” sáng suốt, trong lúc nội tâm do dự, thiếu quyết đoán, vẫn có thể đưa ra một quyết định sáng suốt và nhanh chóng, nhưng thường thường là quyết đoán sai lầm và cần phải chắp vá bổ xung. Cho nên, nếu nhìn từ bề ngoài để phân biệt thì khó mà nhìn ra được.

“Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán” sáng suốt, thì phần nhiều đều có chừa đường để lui, còn loại người suy nghĩ “nông cạn”, thì phần nhiều là bạc tình, do đó đời người cũng khá cô lập. Điều này có thể dùng để phân biệt, khi luận giải nhóm tinh hệ này.

Luận giải tính chất của “Vũ khúc Thất sát”, chỉ cần xem tinh hệ này có gặp sao Lộc hay không, bất kể được Hóa Lộc hay gặp Lộc tồn đều được. Nếu có sao Lộc, mà còn gặp Tả phụ Hữu bật hội chiếu, thì thuộc vào loại “quyết đoán sáng suốt”. Nếu không có Tả phụ Hữu bật, mà còn không gặp sao Lộc, trái lại, có Sát tinh hội chiếu, thì thuộc vào loại “suy nghĩ nông cạn”.

Lấy các sao ở cung hội hợp để nói, nếu hệ “Tử vi Phá quân” có Sát tinh đồng độ, nhất là Đà la, thiflamf mạnh thêm bản chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”; nếu không có Sát tinh, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, thì có thể gây ảnh hưởng cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thành bản chất “quyết đoán sáng suốt”.

Hệ “Liêm trinh Tham lang” cũng không nên đồng độ với Đà la, đặc biệt khi phải mượn hệ này để nhập cung Phúc đức an sao, sẽ gây ảnh hưởng tới hệ “Vũ khúc Thất sát” càng thêm quan trọng.

Văn xương, Văn khúc có khả năng điều hòa tính chất “suy nghĩ nông cạn” của hệ “Vũ khúc Thất sát”, điều kiện tốt nhất là khi Văn xương, Văn khúc đồng cung với Thiên phủ ở cung đối diện chiếu về hiệp trợ, trường hợp này tốt hơn khi Xương Khúc đồng độ ở một cung với hệ “Liêm trinh Tham lang”. Nguyên nhân chủ yếu là vì hệ “Liêm trinh Tham lang” không ưa Xương Khúc cùng bay đến một cung, sẽ mang tính đào hoa, chi phối gây ảnh hưởng đến lực “quyết đoán sáng suốt” của hệ “Vũ khúc Thất sát”.

Cung độ Thái dương tọa thủ, nếu nhập miếu thì có lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát”. Nhưng, trường hợp mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” nhập hạn cung độ này, thì lại nảy sinh hay oán trách vô cớ, khiến cho tình hình quan hệ giao tế diễn biến xấu đi, sẽ ảnh hưởng đến hậu vận. Nếu Thái dương lạc hãm, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc tính chất nào cũng đều bất lợi. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” cũng dễ chuốc lấy thị phi, bị oán trách trong vận hạn này. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, nếu có Kình dương đồng độ, sẽ không dễ trụ nổi ở nơi làm việc, lại gặp thêm các sao Kị Sát thì còn chịu thêm cái họa gia nghiệp chao đảo.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, nếu gặp Hóa Kị, nhất là lúc Thiên đồng và Thái âm biến thành Hóa Kị hội chiếu lưu niên, đối với hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn”, đây là năm mất cơ hội, phá tài. Mệnh cách thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” chỉ cần phòng thủ thì có thể tránh được tổn thất.

Nếu Vũ khúc của nguyên cục Hóa Kị, thì đại kị đến cung hạn Thiên cơ tọa thủ, dù có cơ hội, ắt cũng bị phá tán, thất bại, cạnh tranh không lành mạnh, hai bên công kích lẫn nhau.

Đến cung hạn Thiên phủ tọa thủ, hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” không nên đến, nếu Thiên phủ lại là “kho lộ”, “kho trống”, thì thường là đại hạn hoặc lưu niên chủ về nạn tai, bệnh tật trọng đại, sự nghiệp phá sản. Hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” mà đến cung hạn này cũng phải đề phòng trộm cướp.

Cung hạn Thiên phủ thông thường bất lợi cho mệnh cách “Vũ khúc Thất sát”, nếu lưu niên hặp cung hạn này, có lưu Lộc hoặc lưu Hóa Lộc chiếu xạ, thì mới là điềm cát.

Hệ “Vũ khúc Thất sát” ưa đến cung hạn Thái âm tọa thủ, nếu Thái âm nhập miếu cát hóa thì càng ưa thích. Nếu hội các sao Hình Kị, mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” chủ về vì chắp vá điều sai lầm mà gây nên tổn thất nghiêm trọng. Đạo “xu cát tị hung” là biết có sai lầm thì lập tức dừng ngay kế hoạch, càng kéo dài thì tổn thất càng lớn.

Thái âm lạc hãm bất lợi cho hệ “Vũ khúc Thất sát” thuộc loại “quyết đoán sáng suốt”, chủ về vì một quyết định trọng đại mà việc khó lưỡng toàn, ắt sẽ có một phía bất mãn. Đối với mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì lại không có khiếm khuyết đáng tiếc này, nhưng nên “tĩnh” không nên “động”, “động” thì gây nên tổn thất, nhất là lúc Thái âm Hóa Kị gặp Đà la đồng độ, tuyết đối không nên bảo lãnh cho người khác, nếu không sẽ liên lụy chịu trách nhiệm trả thay cho họ.

Cung hạ Cự môn tọa thủ, nếu thành cách “Thạch trung ẩn ngọc”, thì loại mệnh cách “quyết đoán sáng suốt” rất nên đến, nếu Cự môn lại được cát hóa và hoặc gặp Cát tinh, thì đây là lưu niên hay đại hạn thành tựu sự nghiệp lớn. Nếu Cự môn cùng ở một cung với Văn xương Văn khúc mà không có cát hóa, thì đây là vận trình có tính chuyển biến, xem xét kỹ các sao hội hợp để định sau khi chuyển biến thay đổi, thì cát hung sẽ như thế nào.

Mệnh cách thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” đến cung hạn Cự môn thuộc cách “Thạch trung ẩn ngọc”, vận hạn cũng không cát tường, thường sai lầm ở giai đoạn sau cùng, hoặc vì quyết định sai lầm mà bị chỉ trích, oán trách.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa, nếu Thiên tướng thuộc cách “Hình kị giáp ấn”, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” sẽ cảm thấy bị áp lực, nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “quyết đoán sáng suốt” thì khá dễ đối phó, tìm được biện pháp để giải tỏa. Nếu mệnh cách nguyên cục thuộc loại “suy nghĩ nông cạn” mà gặp đại hạn hoặc lưu niên này, thì áp lực tinh thần càng nặng, chủ về thất bại.

Cung hạn Thiên tướng thuộc cách “Tài ấm giáp ấn”, thì bất kể mệnh cách thuộc bản chất nào, cũng đều chủ về “mọi toan tính chỉ phí sức”. Nếu cung hạn Thiên tướng có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật đồng độ hoặc hội chiếu, thì lại là cơ hội tốt để định hình sự nghiệp một đời.

Cung hạn hệ “Thiên đồng Thiên lương” tọa thủ, Thiên lương không nên Hóa Khoa và gặp sao Hình, nếu cung có tính chất quá cô độc và hình khắc, thì hệ “Vũ khúc Thất sát” mà gặp cung hạn này, phần nhiều có tang. Nếu hệ “Thiên đồng Thiên lương” hội hợp với các sao đào hoa, mà Thiên đồng Hóa Lộc, thì e rằng tuổi trẻ đắc chí mà từ đó đắm chìm trong tửu sắc.

Ba cung hạn “Vũ khúc Thất sát”, Liêm trinh Tham lang” và “Tử vi Phá quân”, là lưu niên hay đại hạn có tính chuyển biến cực lớn đối với mệnh cách hệ “Vũ khúc Thất sát” tọa mệnh.

Nhưng hễ gặp Phá quân Hóa Lộc thì Tham lang ắt cũng Hóa Kị, trong tình hình này, chỉ có lợi cho mệnh cách “quyết đoán sáng suốt”, còn mệnh cách “suy nghĩ nông cạn” thì bất lợi.

Thất sát độc tọa Thìn Tuất

Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cung đối diện sẽ là hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, tam phương có Tham lang độc tọa và Phá quân độc tọa hội chiếu.

Muốn luận giải tính chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, cần phải phân biệt rõ bản chất tính lý của Thất sát là “lý tưởng” hay “ảo tưởng”.

Trong thực tế, “lý tưởng” không nhất định sẽ tốt hơn “ảo tưởng”. Bởi vì “lý tưởng” quá cao, không phối hợp được với hiện thực, cũng là khiếm khuyết đáng tiếc của đời người. Còn người rơi vào “ảo tưởng”, tuy những suy nghĩ của họ không thể thực hiện, nhưng trên thực tế họ có thể rcanhr ngộ tốt đẹp, lúc này, họ cũng cho rằng bản thân có “lý tưởng” nhưng không thực hiện được mà thôi.

Ảnh hưởng tối quan trọng của Thất sát tọa thủ ở Thìn Tuất, đó là hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở cung đối diện gây ảnh hưởng hiệp trợ hay là ức hiếp. Nếu hệ này thuộc tính chất cao thượng, thanh nhã, lúc này Thất sát sẽ có khuynh hướng “lý tưởng”, trở thành người có mục tiêu để theo đuổi, dù vất vả khổ cực vẫn không từ nan.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” hội hợp với các sao Sát Kị, dù đồng thời có Cát tinh, được cát hóa, cũng gây ảnh hưởng đến khí chất của Thất sát mà trở thành dung tục, hơn nữa thường là người không tưởng, không thực tế; cảnh ngộ đời người nhiều biến động thay đổi, mà phần nhiều là không cần thiết, có lúc thậm chí những thay đổi không cần thiết đó lại là lý tưởng theo đuổi của đời người, thực ra đây là mục đích che đậy khuyết điểm của bản thân.

Ngoại trừ hệ “Liêm trinh Thiên phủ”, hai sao Phá quân và Tham lang cũng ảnh hưởng đến khí chất củ Thất sát. Tham lang Hóa Kị khiến cho Thất sát dễ rơi vào không tưởng. Phá quân Hóa Lộc tuy có gây ảnh hưởng đến Thất sát bệnh không tưởng, nhưng vẫn có lúc đối diện với hiện thực.

Tham lang mà Hóa Lộc, ắt Thất sát sẽ bị Đà la chiếu xạ hoặc đồng độ với Đà la, nếu cung độ của Thất sát lại gặp Địa không Địa kiếp, chủ về mệnh cách dễ rơi vào không tưởng.

Lấy bản thân Thất sát để nói, theo truyền thừa của Trung Châu phái, nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn chủ về nhiều không tưởng, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất chủ về nhiều “lý tưởng”. Ảnh hưởng của hệ này, biến khí chất của Thất sát độc tọa ở Thìn thành mệnh cách “lý tưởng”, còn Thất sát độc tọa ở Tuất thành mệnh cách “ảo tưởng”. Hai tính chất này không có liên quan với tình trạng “miếu, vượng, lợi, hãm” của các sao.

Sau khi nắm được đặc trưng của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, còn phải xem xét tình huống của Tử vi ở cung Phúc đức. Nếu là “bách quan triều củng” mà không gặp các sao Sát Kị Hình, thì Thất sát nhờ đó mà trở thành mệnh cách “lý tưởng”. Nếu gặp các sao Sát Kị Hình,, thì “lý tưởng” khá tầm thường, đời người phần nhiều phải dốc toàn lực để tranh giành. Nếu Tử vi là “tại dã cô quân”, thì bản chất của Thất sát là không tưởng, nếu gặp các sao Sát Kị Hình ở cung Phúc đức, thì giống như thương binh ở chiến trường mơ làm nguyên soái. Do những điều “ảo tưởng” không thể thực hiện, đời người lại nhiều gian khổ, vì vậy thưởng trở thành người phẫn thế ghét đời, hoặc tự xem mình là người cô độc thanh cao. Những “ảo tưởng” không thể thực hiện này, giống như sức mạnh của roi vọt thúc đẩy người ta tiến tới, khi đến cực hạn sẽ khiến mệnh cách trở thành kẻ trốn đời.

Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa, nếu các sao Phụ Tá cát, có thể trở thành sức mạnh để thực thi “lý tưởng”, dù có một hai Sát tinh cũng không ảnh hưởng gì nhiều, càng trở ngại càng khiến mệnh cách phấn đấu mạnh hơn, trở thành sức mạnh chuyên nhất theo đuổi mực tiêu. Trường hợp Thất sát ở Thìn được cát hóa thì tình hình càng đúng như vậy. Có lúc, nhờ Sát tinh mang lại trợ lực, khiến “ảo tưởng” va chạm với hiện thực, mà biến thành “lý tưởng”.

Mệnh cách Thất sát “ảo tưởng”, không ưa đến đại hạn hoặc lưu niên Thất sát, Phá quân, Tham lang độc tọa. Dù được cát hóa, cũng dễ xảy ra những biến động thay đổi không cần thiết. Nếu lại gặp các sao Sát Kị Hình, thì lại thay đổi một cách triệt để và toàn diện, đó là do bất mãn với hiện thực nên sinh lòng oán trách và oán hận.

Hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Thìn bất lợi đối với Thất sát, hệ “Liêm trinh Thiên phủ” ở Tuất thì có lợi hơn.

Nếu hệ “Liêm trinh Thiên phủ” gặp các sao đào hoa, còn kèm thêm sao Hình, thì Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” mà đến cung hạn này, sẽ vì hành động mù quáng mà gây sự cố đáng tiếc, còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng’ thì không sao. Các sao đào hoa này không chuyên chủ về tình cảm nam nữ.

Thiên phủ có sao Lộc sẽ có lợi đối với Thất sát. Nếu Thiên phủ là “kho trống”, hay “kho lộ”, khiến Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” càng tăng nặng “ảo tưởng”, dễ lâm vào tình huống rắc rối khó tìm được lối thoát; còn Thất sát thuộc loại “lý tưởng” thì phần nhiều cảm thấy giữa lý tưởng và hiện thực xung đột nhau, chỉ cần gặp Phụ diệu, đặc biệt là Thiên khôi Thiên việt, thì sẽ điều hòa được lý tưởng và hiện thực.

Hệ “Thiên đồng Cự môn” bất kể là cát hay hung, đều bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”, khi Cự môn Hóa Kị thì gây phẫn thế, khi Thiên đồng Hóa Kị thì gây trầm luân, tình hình khả quan hơn thì lạnh nhạt với lục thân, ít hòa hợp hoặc sinh ra tâm lý ngăn cách. Hệ “Thiên đồng Cự môn” có sao đào hoa đồng cung, thì người Thất sát thủ mệnh sẽ đau khổ vì tình, rơi vào “ảo tưởng” rất nặng.

Thất sát thuộc loại “ảo tưởng” ưa đến cung hạn “Thái dương Thiên lương”, gặp Cát tinh, là vận tốt để thực hiện lý tưởng. Nếu cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, không có Cát tinh tụ tập, lý tưởng cũng khó thực hiện được hoàn toàn, cần phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Thất sát loại “ảo tưởng” đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” lạc hãm, là điềm ứng có sự vọng động, nếu gặp Thái dương Hóa Kị, tình hình càng thêm nghiêm trọng. Đến cung hạn “Thái dương Thiên lương” mà gặp Cát tinh, thì cảnh ngộ cuộc đời lại trở thành khá đẹp, nhưng đây không phải là cơ hội để thực hiện những “ảo tưởng”, nếu thực hiện những “ảo tưởng”, sẽ tự tìm đến buồn phiền, biến thành vận thế phá hoại bản thân.

Cung độ Tử vi độc tọa, có lợi đối với Thất sát thuộc loại “lý tưởng”, bất lợi đối với Thất sát loại “ảo tưởng”. Thất sát không bị kềm chế, chủ về rơi vào “ảo tưởng”. Khi Tử vi hội hợp với các Cát tinh, dễ trở thành người lớn mật làm càn; khi Tử vi gặp các sao không cát tường, chủ về người hiểu rõ việc mình làm nhưng thường gặp trở ngại.

Cung hạn Thiên cơ độc tọa, khi Thiên cơ cát hóa Lộc Quyền Khoa, thì có lợi đối với Thất sát, dù mệnh cách loại “ảo tưởng” vẫn có thể thích nghi với hoàn cảnh. Nếu Thiên cơ Hóa Kị, lại gặp các sao Sát Hình, thì bất lợi đối với Thất sát, dù là loại mệnh cách “lý tưởng”, cũng dễ vì sai lầm nhất thời mà gây trở ngại cho việc thực hiện mục đích lý tưởng của mình.

Tử Vi Đẩu Số xem Thất sát là sao mấu chốt của sự biến động thay đổi!

Khi luận giải không nên ngộ nhận đối với Thất sát, tin rằng Thất sát là sao tích cực, mà xem thường mặt tiêu cực của sao Thất sát.

Hiện ta đang nói về Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất, chú ý đến bản chất “lý tưởng” và “ảo tưởng” của nó, tức cần đồng thời chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Bởi vì, khi “lý tưởng” có thể thực hiện được, sẽ dễ rơi vào trạng thái tiêu cực. Lúc “ảo tưởng” mà bất mãn, cũng dễ rơi vào trạng thái tiêu cực.

Ở trên, ta đề cập đến vấn đề bản chất của Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất có quan hệ mật thiết với sao Tử vi ở cung Phúc đức, chú ý đến mặt tiêu cực của nó. Nếu hệ Tử vi thuộc loại tích cực, thì trạng thái của Thất sát rơi vào tiêu cực chỉ là nhất thời; còn nếu hệ Tử vi là tiêu cực, thì phải chú ý, tính tiêu cực sẽ trở thành bản chất của Thất sát tọa mệnh.

Thất sát thuộc loại tiêu cực, không nên đến cung hạn hoặc lưu niên có quá nhiều Cát tinh hội hợp. Bởi vì, không những không thể thay đổi thành tích cực, trái lại, còn vì tình huống thuận hay nghịch của vận trình, mà hiểu lầm tiêu cực chính là bản chất. Cũng không nên đến vận hạn quá nhiều Hung tinh hội hợp, bởi vì sự trắc trở, gập gềnh của đời người có thể làm tăng tính tiêu cực của nó. Sự “trung hòa” đối với mẫu người này là rất quan trọng.

Tử vi và Thất sát đồng cung

Tử vi và Thất sát đồng độ ở Tị hoặc ở Hợi, cung đối diện là Thiên phủ, cung tam phương là “Vũ khúc Tham lang” và “Liêm trinh Phá quân” hội hợp.

Mệnh bàn loại này cấu tạo thuần tính vật chất, các sao hội hợp mạnh mẽ, do đó cát hung thường thường chỉ cách nhau một đường ranh.

Muốn luận giải bản chất của hệ “Tử vi Thất sát” ở Tị hoặc ở Hợi, cần phân biệt tính chất cực đoan của chúng, là thuộc vào loại “quyền uy” hay thuộc vào loại “hoành hành bá đạo”.

Mệnh cách thuộc loại “quyền uy”, phần nhiều phát triển theo xu hướng chính đạo, chính giới, chính tắc. Trường hợp mệnh cách “hoành hành bá đạo” dễ đi vào con đường lầm lạc. Thông thường, người có hệ “Tử vi Thất sát” thủ mệnh, không có tính cực đoan mạnh mẽ như vậy, ở đây chỉ là so sánh hai loại khuynh hướng trong tính chất mà thôi.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” đã có tính chất quyền lực, vì vậy không nên làm mạnh thêm tính chất quyền lực của nó, nếu không sẽ dễ biến thành “hoành hành bá đạo”. Lúc Tử vi Hóa Quyền, cần phải có Văn xương, Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt hội hợp, mới có thể tiêu trừ khí “hoành hành bá đạo”, lại không có các sao Sát Hình tụ hội, thì mệnh cách “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại “quyền uy”.

Nếu Tử vi không Hóa Quyền, mà có các sao Phụ Tá hội hợp, dù gặp Hỏa tinh Linh tinh, mệnh cách cũng không trở thành tính chất “hoành hành bá đạo”, mà mệnh cách chủ về “quyền uy”.

Nhưng nếu không có các sao Phụ Tá hội hợp, thì tuyệt đối không nên gặp Sát tinh. Nếu gặp hệ “Hỏa tinh Đà la”, hoặc gặp hệ “Kình dương Linh tinh” đồng độ hoặc hội chiếu, thì hệ “Tử vi Thất sát” biến thành “hoành hành bá đạo”, đời người sẽ gặp nhiều trắc trở.

Cung đối diện là Thiên phủ rất nên là can Canh Hóa Khoa, nếu không có Sát tinh cùng bau đến, thì có thể giải được tính chất “hoành hành bá đạo” của hệ “Tử vi Thất sát”. Dù không thể nhuyễn hóa thành mệnh cách loại “quyền uy”, nhưng ít nhiều cũng giảm hung hiểm, cảnh ngộ đời người do đó cũng nhiều thuận lợi hơn.

Cung tam phương tương hội là hệ “Vũ khúc Tham lang”, trường hợp tham lang Hóa Lộc là tốt nhất, Vũ khúc Hóa Lộc là tốt kế đó. Khi Vũ khúc Hóa Lộc vẫn khiến cho hệ “Tử vi Thất sát” nhiều vất vả khổ lụy, không bằng Tham lang Hóa Lộc chủ về được hưởng thụ.

Cùng một lý, hệ “Liêm trinh Phá quân” cũng ưa Liêm trinh Hóa Lộc hơn là Phá quân Hóa Lộc., khi Phá quân Hóa Lộc còn vất vả hơn Vũ khúc Hóa Lộc.

Bản thân hệ “Tử vi Thất sát” dù không có tính chất “hoành hành bá đạo”, cũng không nên hội với sao Hóa Quyền, khi Tham lang Hóa Quyền ảnh hưởng ít hơn Phá quân Hóa Quyền, đó là vì có Liêm trinh Hóa Lộc điều hòa, nên cũng không xấu. Nếu Vũ khúc Hóa Quyền thì không nên kèm Sát tinh, khi kèm Sát tinh sẽ ảnh hưởng khiến hệ “Tử vi Thất sát” thành “hoành hành bá đạo”, cho dù Thiên phủ Hóa Khoa cũng khó mà điều hòa nổi. Vì vậy, không nên gặp can Nhâm vì có Tử vi Hóa Quyền và Thiên phủ Hóa Khoa.

Tử vi Hóa Khoa, chỉ cần một hai Phụ Tá diệu cát hội hợp, thì mệnh cách đã thuộc loại “quyền uy”, mà không phải thuộc loại mệnh cách “hoành hành bá đạo”. Khi có các sao hội hợp là Văn tinh, chủ về phong thái nho nhã, lúc này gặp Hỏa tinh, Linh tinh cũng hóa thành khí “tương hòa”, khiến mệnh cách “Hỏa Tham”, “Linh Tham” mới thành hữu dụng. Nếu không, sau khi hoạch phát sẽ rất dễ hoạch phá.

Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về dễ thành công, đời người có nhiều thuận lợi toại ý, dù có gặp trắc trở cũng không hung hiểm; nếu thành mệnh cách “hoành hành bá đạo”, chủ về dễ lên dễ xuống, nan tai, bệnh tật cũng nhiều.

Cung hạn “Liêm trinh Phá quân”, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà không thích hợp với hệ “Tử vi Thát sát” loại “hoành hành bá đạo”, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này có chỗ để tạo dựng sự nghiệp, con mệnh cách lọa “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù được cát hóa, ở đại hạn thì không cát lợi, ở lưu niên thì lập tức bị trắc trở hoặc phá tán, thất bại. Nhất là lúc hội “Hỏa Tham”, “Linh Tham”, thành bại thường thường xảy ra rất nhanh, trong đại vận 10 năm có thể xảy ra nhiều sự cô dồn dập.

Nếu gặp các sao Sát Kị Hình tụ hợp, hoặc bị Thiên tướng thuộc loại “Hình kị giáp ấn” xung chiếu, mệnh cách thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, chủ về bị áp lực cạnh tranh, lúc này, nên xem xét hậu vận để định thời cơ tiến thoái; mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, tuyệt đối không nên gây ra thị phi, nếu không, ắt sẽ xảy ra sóng gió rất lớn.

Nếu Liêm trinh Hóa Kị của nguyên cục xung Vũ khúc Hóa Kị của đại vận; hoặc Vũ khúc Hóa Kị của nguyên cục xungTham lang Hóa Kị của vận hạn, còn xung Liêm trinh Hóa Kị của lưu niên, lại gặp Kình dương Đà la trùng điệp xung hội, còn có Thiên hình Đại hao, không có sao Lộc giải cứu, hoặc sao Lộc nhẹ mà sao đào hoa nặng, thì đây là năm có nhiều nguy cơ, thường thường vì thất bại mà có ý niệm coi thường mạng sống, nhất là nữ mệnh.

Cung hạn Thiên phủ độc tọa, là “kho lộ”, “kho trống”, thì bất kể hệ “Tử vi Thất sát” thuộc vào loại nào, cũng đều không nên đến. Dù là lưu niên phần nhiều đều bị phá tán thất bại. Mệnh cách thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, còn chủ về bị suy sụp nhanh chóng.

Thiên phủ là “kho đầy”, lại không có Sát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, mới chủ về bình hòa, thuận lợi toại ý; Còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, thì cần phải giữ mình.

Thiên phủ Hóa Khoa, có sao Lộc, gặp các sao Ân quang, Thiên quý, Đài phụ, Phong cáo, Tam thai, Bát tọa, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà đến cung hạn này, chủ về sẽ có vinh dự đặc biệt.

Do tính chất không tương thích, vì vậy khi hệ “Tử vi Thất sát” đến lưu niên Thiên phủ thủ mệnh của niên hạn, nguyên tắc thông thường không được tiến thủ.

Cung hạn “Thiên đồng Thái âm” đồng độ, thông thường hệ “Tử vi Thất sát” ưa đến. Do hệ “Tử vi Thất sát” chủ về vất vả, khi đến cung hạn “Thiên đồng Thái âm” thì có thể được yên tĩnh, vì vậy được xem là vận trình hưởng thụ của hệ “Tử vi Thất sát” thuoock loại “quyền uy”. Nhưng Thiên đồng không nên Hóa Kị, sẽ chủ về muốn yên mà không được yên, thường thường là điềm tượng sức khỏe không tốt, nhất là cần lưu ý bệnh tim mạch.

Hệ “tử vi Thất sát” đến cung đại vận “Thiên đồng Thái âm”, chủ về gặp nhiều sóng gió, nhưng vận thế vẫn tốt. Thiên đồng cũng không nên Hóa Kị, nếu không, cần phải đề phòng bệnh tim mạch và bệnh hệ thần kinh.

Thái âm Hóa Kị của nguyên cục, nếu xung hội với Thiên cơ Hóa Kị của đại vận, đây là cung hạn mà hệ “Tử vi Thất sát” không ưa đến, chỉ nên ở yên, phòng thủ, không thể hành động. Có điều, sống ở đời có lúc cũng bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu hay oán trách, hoặc bị người dưới quyền xâm phạm tài vật.

Cung hạn “Vũ khúc Tham lang” đồng độ, thích hợp với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà không thích hợp với loại “hoành hành bá đạo”. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này, thường thường là vận thế hưng thịnh, được cát hóa và có các Cát tinh tụ hội thì càng tốt, chỉ cần không gặp các sao Sát Kị, thì chủ về làm ăn bình thường. Hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” mà đến cung hạn này, dù là lưu niên, cũng chủ về gặp nhiều cạnh tranh, rắc rối, thị phi, nếu thành cách “Hỏa Tham” cũng phải lo nghĩ, một phen hú vía mới kiếm được tiền.

Nếu được cát hóa và có Cát tinh tụ hội, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến cung hạn này sẽ phát lâu dài, nhưng đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì lại không được dài lâu.

Nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình tụ hội, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, chủ về bị cạnh tranh, thu hoạch không được như lý tưởng; Còn đôi với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì phần nhiều là thất bại, nếu gặp Đà la đồng độ, còn chủ về hành động của bản thân gây ra thị phi, phải chịu nghịch cảnh.

Nếu Tham lang Hóa Kị xung khởi Liêm trinh Hóa Kị, gặp Sát tinh hội hợp, cần đặc biệt chú ý họa vì tửu sắc mà gây ra thị phi.

Cung hạn “Thái dương Cự môn” đồng độ, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” không ưa Thái dương quá vượng, cho nên khi đến cung hạn ở Dần có hệ “Thái dương Cự môn” tọa thủ, thường thường dễ chuốc lấy thị phi và gây họa, đến cung hạn ở Thân thì có đỡ hơn. Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” thì ngược lại, lại ưa cung hạn ở Dần mà không ưa cung hạn ở Thân, mệnh cách “quyền uy” nhập hạn ở Dần chủ về hưng phát tốt hơn.

Nếu cung hạn “Thái dương Cự môn” có các sao Sát Kị Hình tụ tập, đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” chủ về hình khắc lục thân, khi hợp tác với người khác rất bất lợi; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” thì rất sợ phạm phải hình pháp, kiện tụng, rất nên chú ý.

Đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, thì khi Cự môn Hóa Lộc sẽ là “hiệu lệnh”, mang lại giá trị tối ưu hơn Thái dương Hóa Lộc; Còn đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, thì Thái dương Hóa Lộc sẽ là danh vọng, mang lại giá trị tối ưu hơn Cự môn Hóa Lộc. Đây cũng là nguyên tắc thông thường.

Cung hạn Thiên tướng độc tọa mà gặp cách “Hình kị giáp ấn”, đây là vận trình bị áp lực và trắc trở của hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo”, lúc này mệnh cách rất ngại có Phá quân Hóa Lộc đến xung, chủ về có cơ hội nhiều và trắc trở cũng nhiều, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Nhưng hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” mà gặp hạn “Hình kị giáp ấn” thì lại càng dễ phát đạt, thường thường là vận trình có tính đột phá, ở lưu niên cũng chủ về cát lợi, tuy phải gặp oán trách nhiều mà thôi.

Gặp hạn “Tài ấn giáp ấn”, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “hoành hành bá đạo” cần phải an phận giữ mình thì sẽ tiến bộ, nếu vận dụng cơ tâm sẽ chuốc thị phi, là nhân tố khiến cho hậu vận xảy ra phá tán, thất bại.

Thiên tướng có sao Lộc bị Kình dương Đà la giáp cung, nếu không có Cát tinh phù trợ, hệ “Tử vi Thất sát” đến cung hạn này, đều nên “tĩnh” mà không nên “động”, nếu “động” sẽ gây tồn thất.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” đồng độ, cũng có lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy”, mà bất lợi đối với hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo”, thường thường là bất lợi đối với lục thân, gặp hạn đời cô lập.

Cung hạn “Thiên cơ Thiên lương” được cát hóa và có Cát tinh, hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “quyền uy” đến, sẽ chủ về tự lập, còn hệ “Tử vi Thất sát” thuộc loại “bá đạo” đến hạn này, sẽ chủ về đi vào con đường lầm lạc, nếu cung hạn có các sao Sát Kị Hình Hao hội hợp, thì mệnh cách “bá đạo” càng dễ vì cuộc đời chuyển biến mà gặp cảnh khốn khó, lưu lạc, rời xa người thân, bạn bè.

Thiên lương Hóa Lộc sẽ bất lợi đối với người có mệnh cách “bá đạo”, chủ về loại người dùng thủ đoạn bất chính để tranh đoạt, đối với người có mệnh cách “quyền uy” thì rất ưa Thiên cơ Hóa Quyền, thêm Cát tinh thì không có gì bất lợi.

Khi Thiên cơ Hóa Kị, bất kể loại người mệnh cách “quyền uy” hay loại người mệnh cách “bá đạo”, đều không nên đến cung hạn này, đối với người có mệnh cách “quyền uy”, có thể xem đây là thời kỳ tôi luyện bản thân; còn đối với người có mệnh cách “bá đạo”, vì biến thái tâm lý, dẫn đến làm càn mà gây ra họa.

Nguồn: http://tuvitinhquyet.blogspot.com


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thất sát tinh quyết

Luận đoán Cát Hung thế nào

Khí là sự biến hoá của âm dương. Không phân biệt nóng lạnh của người thì khó luận đoán. Nếu luận được khí sắc trên khuôn mặt, có thể đoán được cát hung.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khí thực chất là chỉ sự biến hoá của âm dương. Không thể phân biệt nóng lạnh của con người thì rất khó luận đoán. Chỉ là có sự biến hoá của khí, thần sinh ra theo khí, nhưng hàm nghĩa của nó không giống nhau. Nên khi luận được khí sắc trên khuôn mặt, có thể đoán được cát hung là như thế.

khi-sac-mat-doan-cat-hung

Nếu khí màu đỏ dừng lại ở bộ vị Thiên trung và Niên thượng, đồng thời bao quanh giữa lông mày và mắt thì vận mệnh chẳng thể dài lâu. Khí đỏ nếu chỉ ở Thiên trung, người này ban ngày sẽ có họa liên quan đến binh đao. Khí đỏ thẫm ở dưới mắt sẽ lập công và được tước vị. Khí đỏ nếu ở đầu lông mày và dưới mắt thì nam đề phòng vợ phóng túng dâm đãng.

Thiên trung có khí trắng ở bộ vị Biên địa, trong năm cần đề phòng tai họa. Khí trắng xuống đến Ấn đường sẽ có nhiều chuyện quan tư (kiện tụng), vợ chồng bất hòa.

Khí đen đến cằm thì đề phòng người thân có bệnh, vợ khó sinh. Khí đen từ mũi đến khóe mắt thì vô duyên vô cớ gặp tai họa. Nếu bộ vị Tọa thượng có khí đen thì có thư báo tin vui. Màu đen ở bộ bị Thiên trung mà bằng phẳng nhưng xuống đến Song ngục thì sẽ bị hình phạt. Nếu màu đen ở bộ vị Niên thượng sẽ bị bệnh, nếu lại đâm thẳng đến miệng sẽ bị hình phạt mà khó giữ được tính mạng. Xương gò má có khí đen và vào tới giữa 2 lông mày sẽ u uất dẫn đến cái chết. Nếu khí đen nằm ngang trên lông mày như sợi dây nhỏ thì yểu mệnh lại không có con trai.

Nếu màu vàng tròn sáng xuất hiện ở bộ vị Thiên trung sẽ thành công hầu. Khí vàng giống như chiếc trông ở bộ vị Thiên ngục chủ thành bậc công khanh, hưởng vinh hoa. Nếu khí vàng hình rắn xuất hiện ở Tinh lương thì người dân thường sẽ thu được vàng ngọc, châu báu. Nếu ở vị trí Trung đình giống như chiếc trống treo lên là tướng tam công. Khí vàng như sợi tằm sẽ được quan lộc.

Nếu khí sắc vàng, mặt sáng bóng thì cả đời bình thường, sẽ không vào lao ngục. Có khí vàng ở Ấn đường dài khoảng 1 tấc, có màu sáng bóng thì trong khoảng 80 ngày sẽ được vào triều đình. Có khí màu đỏ sẽ mất chức, khí đỏ đi lên trên người này trung thành với việc nước sẽ tránh được tai họa. Trên sống mũi có màu đỏ cần đề phòng phiền phức do quan phủ, bộ vị Niên thượng có màu xanh sẽ nhiều bệnh tật. Khí trắng xuất hiện ở Nièn thượng thì năm đó sẽ có việc tang thương. Khí đen vào trong miệng sẽ khó giữ được tính mạng

Nếu khí vàng ở bộ vị Tư không sẽ chuyển vận, trong 50 ngày được của cải bất ngờ. Nếu màu vàng đến Ấn đường sẽ được phong quan hưởng lộc. Đầu mũi có sắc đỏ thì trong 80 ngày sẽ có chuyện cãi cọ. Nếu là người đang làm việc công sẽ bị đòn roi. Nếu má có khí trắng thì trong một năm sẽ khó giữ được tính mạng. Màu đen ở hai bên thì lo lắng vì cha mẹ. Nếu có màu xanh hoặc đen trắng thì cha mẹ vận mệnh chẳng thể dài lâu.

Nhân trung có màu vàng thường sẽ có việc vui. Nếu màu này đến trên 2 má sẽ lên đến chức chính lang. Màu đen nếu xuất hiện ở Dược bộ sẽ có bệnh. Thiên phủ có màu vàng và sáng bóng thì trong 30 ngày sẽ được phát tài. Khí vàng giống như lá liễu vừa mới đâm chồi thì được vào triều làm quan. Có màu tía và sáng bóng thì không quá 10 ngày sẽ có việc vui. Nếu màu vàng từ bộ vị Khuyết đình đến bộ vị Thiên trung thì không đến 3 tháng sẽ lên chức công hầu.

Nếu khí vàng đến bên trái, phải của Tư trung thì được nghênh đón vào hoàng cung. Bộ vị Vũ khố có màu tía vàng sẽ nắm quyền tướng quân. Khí vàng trên mặt lộ rõ thì không nên nhận vật phẩm hay nhà cửa. Bộ vị Binh giám, Vũ khố cùng có màu đỏ sáng thì sẽ bị dao kiếm làm bị thương. 2 vị trí này nếu có màu trắng từ ngoài vào thì sẽ có tai nạn, nếu xuất hiện màu vàng sẽ thăng quan. Nếu màu đen xuất hiện ở chỗ này thì sẽ bỏ mạng bởi binh trận, nếu có màu xanh sáng thì không nhiều tai họa.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Luận đoán Cát Hung thế nào

Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Một bài viết rất hay về phương pháp giải đoán lá số tử vi của tác giả Lâm Canh Phàm. Mời các bạn cùng đọc tham khảo
Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong Tử vi đẩu số khi các lá số được sắp xếp, điều quan trọng nhất là xem cát hung của cung Mệnh, xem có được sinh vượng (cung vị của Trường sinh, Đế vượng), Mộ khố (cung Sửu là Kim khố, cung Mùi là Mộc khố, cung Thìn là Thủy khố, cung Tuất là Hỏa khố), sao Lộc tồn và sao Thiên mã rơi vào Không vong hay không, trong đó lấy sao Địa không, sao Tiệt lộ Không vong là đáng ngại nhất, Tuần không xếp ở vị trí thứ hai. Sao Mệnh chủ phạm Không vong là bất lợi nhất, sau đó sao Thân chủ phạm Không vong xếp ở vi trí tiếp theo. Sao Lộc tồn phạm Không vong, thì phát cũng không liền; sao Thiên mã phạm Không vong, thì cả đời bôn ba, mà tốn công vô ích. Nếu sao Lộc, Mã, Mệnh chủ và Thân chủ phạm Không vong, nhất định phải dựa vào thuộc tính Ngũ hành của cung vị của sao đó để phán đoán cát hung. "Kim không sẽ kêu", "Hoả không sẽ phát", đại hạn và tiểu hạn gặp phải mà được phúc. "Thủy không thì trôi nổi, Mộc không thì gãy, Thổ không thì sụt lún".

Tiếp đến là xem nạp âm mệnh chủ của Ngũ hành cục của bản mệnh thuộc sao nào. Mệnh Thủy nhị cục, lấy sao Phá quân là nạp âm mệnh chủ; mệnh Mộc tam cục, lấy sao Tham lang là nạp âm mệnh chủ; mệnh Kim tứ cục, lấy sao Vũ khúc làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Thổ ngũ cục thì lấy sao Cự môn làm nạp âm mệnh chủ; mệnh Hỏa lục cục thì lấy sao Liêm trinh là nạp âm mệnh chủ. Lấy hung cát mà nạp âm mệnh chủ rơi vào vị trí của cung để phân biệt họa phúc, cát hung. Nếu cung vị đó là sinh vượng, hoặc tại cung vị của quý nhân (vị trí cung của sao Thái dương, Thiên khôi, Thiên việt) và đồng cung với Lộc tồn là cát lợi. Nếu cùng cung với sao Thất sát, Kình dương là mệnh hạ đẳng.

Sau đó, lấy sao Mệnh chủ làm chủ, sao Thân chủ làm phụ tá, dựa vào hung cát mà nó rơi vào vị trí của cung để phán đoán phú, quý, hèn, sang. Tiếp theo, xem vận cát hung của sao Tử vi và Thiên tướng rơi vào vị trí của cung. Nếu sao Tử vi gặp hung, sát tinh thì phải xem hung cát mà Linh tinh, sao Vũ khúc sở tại vị trí của cung, qua đó mới có thể phán đoán là mệnh phú quý hay không. Người thuộc mệnh quý, ắt phải xem mức độ miếu, vượng của sao Thái dương; người thuộc mệnh phú, ắt phải xem độ sáng tối của sao Thái âm. Nếu như sao Thái dương tọa mệnh cung Dậu, Tuất, Hợi, Thái âm ở Thìn, Tỵ, Ngọ, mệnh này không thể giữ được những gì đã có, phải rời xa quê hương xuất ngoại mới có cơ hội phát triển, cải biến vận mệnh. Người thuộc mệnh nghèo hèn cũng phải xem cát hung của cung Mệnh.

Trong lá số, nếu cung Mệnh tốt, gặp lưu niên, đại tiểu hạn tốt, không gặp bất cứ trở ngại nào, tự nhiên sẽ phát vượng, cả đời sung túc. Đó là mệnh phú quý.

Trong lá số, nếu cung Mệnh kiên cố, bền vững làm cho vận mệnh không được như ý, nhưng vẫn được bình an vô sự là mệnh bình ổn.

Trong lá số, nếu cung Mệnh không gặp cát tinh, không thể kiên cố, lại gặp ác tinh, sát tinh phần lớn đều do xuất thân nghèo hèn. Nếu có thế phát tài bình ổn, cũng là do gặp 10 năm đại hạn tốt, 10 năm sau lại dần dần lụi bại, tài tán nhà tan, gặp phải việc không như ý, là mệnh nghèo khổ, bần cùng.

Nếu con người từ khi sinh ra đã giàu có mà không bị phá hoại, hưởng phúc đến già, đây ắt là do mệnh, hạn tương hợp, từng bước tiếp cận, nâng đỡ nhau, sao nhập cung miếu 5, 10 năm cũng không thất vận. Nếu người sinh ra đã được vui vẻ, hưởng phúc, vợ vinh con quý, đến trung niên lại gặp tai ương, hao người tốn của, hoặc thương vong, nhất định do trụ không vững, hoặc xuất hạn giao hạn, từ cát chuyển thành hung, trung niên phạm sát tinh chiếu mệnh hạn, hoặc sao rơi vào cung lạc hãm, lại thêm Thái tuế gặp hung, vận hạn đến đó, không nghèo khổ thì cũng chết yểu. Nếu một người sinh ra đã nghèo hèn, ban đầu rất gian khổ, đến trung niên trở nên vượng phát, tài lộc như ý, uy quyền xuất chúng, đều do sinh tại trung cục, các sao vận hạn trung niên đều mạnh, lại thuộc miếu vượng, là mệnh trước khổ mà sau sướng.

Vận mệnh phú quý của con người đã định sẵn trong bản mệnh mỗi con người, làm sao có thể phân biệt được sinh tử? Với vấn đề này, trước tiên phải xem đại hạn và xem tiểu hạn. Đại hạn chủ về phúc họa trong vòng 10 năm, tiểu hạn chủ về thăng trầm trong vòng 1 năm. Đại vận suy, thì 10 năm sẽ rơi vào lận đận khốn khó, cho dù tiểu hạn được vượng cũng chỉ hưởng phúc trong 1 năm.

Đại hạn đã suy, tiểu hạn cũng không có tác dụng gì. Đại hạn tốt tiểu hạn xấu không quá đáng lo ngại. Vì thế, cho dù lưu niên không lợi nếu đại hạn vững vàng, kiên cố, tai họa sẽ giảm nhẹ đi. Nếu luận sinh tử trước hết xem cung Mệnh có sát tinh không. Nếu Thái tuế lưu sát giao hội đối xung vị trí của cung tiểu, đại hạn, mà sao Tử vi, sao Lộc tồn đều là lạc hãm, lại chịu sự kiểm soát của Không vong, lúc này nếu 3 sao Tử vi, Thiên tướng ấn tinh, Lộc tồn tài tinh tam hợp hội chiếu, có thể giải trừ được tai ách, tuy bại mà không nguy; nếu không, sẽ gặp tai họa có liên quan đến tính mạng.

Cách cục của lá số vừa xác định, có thể dựa vào Chính tinh của cung Mệnh, đế đoán định tính cách của bản mệnh. Nếu cung Mệnh, một tinh cấp, một tinh chậm, lại có thể phán đoán được tính cách bất thường của họ, thiện ác khó phân định, ba phải, thiếu lập trường quan điểm. Nếu cát tinh nhập cung Mệnh, thì chủ nhân có tính cách nhân từ, phúc đức, là cách cục thượng hảo. Nếu ác tinh, sát tinh nhập cung Mệnh, thì bản tính ác độc ngang ngược. Ngoài ra, nếu có thể tham khảo quan hệ sinh khắc của Ngũ hành, thì suy đoán vận mệnh càng thêm tỉ mỉ, chính xác.

Khi sử dụng Ngũ hành phải xem xét mối quan hệ sinh khắc giữa đôi bên, lại xem chúng rơi vào cung nào. Nếu ngũ hành của sao Thất sát thuộc Hỏa, nếu rơi vào cung Dần, Dần thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa. Ngũ hành của sao Vũ khúc thuộc Kim, nếu đồng cung với sao Thất sát, Hỏa của sao Thất sát khắc chế Kim của sao Vũ khúc, sao Vũ khúc không thể phát huy được vai trò. Nếu Kim nhập Hỏa, là chịu hạn chế; nếu Kim nhập Thổ là đắc địa.

Bất luận con người có vận mệnh phú, quý, sang, hèn, nếu mệnh rơi vào cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi trong lá số, chủ về sự vất vả. Nếu lại giao hội các sao động như Thiên mã, Thiên cơ, Thái âm, Thái dương..., thì đặc tính của mệnh vất vả, gian truân càng nổi bật. Nếu mệnh rơi vào cung Tý, Ngọ Mão, Dậu, chủ về bất lợi, hiếu sắc, thích giao du, đàng điếm, chuyện tình duyên cả đời lận đận, lại gặp các sao đào hoa như: Tham lang, Liêm trinh, Thiên diêu, Hàm trì, Hồng loan, thì đặc tính đào hoa càng nổi trội. Nếu mệnh rơi vào cung Thìn, Tuất, Mùi, Sửu thì chủ về hình (hình khắc), cá tính bảo thủ, cô độc, rời xa quê hương, nếu lại gặp sao Phá quân, Cự môn, thì tính cách cô độc. Do cung Thìn và cung Tuất là Thiên la, Địa võng, ngưòi thuộc cung này nhất định muốn phá vỡ khuôn khổ và nguyên tắc, vì thế đặc tính tha hương càng thể hiện rõ.

Ngoài ra, 12 cung vị trong lá số, đều có thuộc tính ngũ hành riêng. 12 Địa chi của năm sinh cũng có những hợp kỵ không giống nhau. Vì thế, vị trí của cung Mệnh, Thái tuế, lưu niên và đại, tiểu hạn mà chúng tiến đến gần, hung cát họa phúc của chúng có liên quan đến năm sinh của con người.

(Tử vi đẩu số nhập môn - Lâm Canh Phàm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải lá số: giải mã bí ẩn cuộc đời

Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Cha mẹ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ. Bổn phận của con cái là không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thường thì khi đề cập đến đạo hiếu trong đạo Phật người ta chỉ nói đến việc hiếu thảo của người con, mà không đề cập nhiều đến vai trò đạo đức và giáo dục của các bậc cha mẹ. Đó là một sự thiếu sót rất lớn.

Thật ra theo tinh thần của lời Phật dạy trong kinh Nguyên thủy và Đại thừa, “Đạo hiếu” của người Phật tử được thể hiện đầy đủ về hai mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, và giữa con cái với cha mẹ. Ở đây, người viết sẽ đề cập về hai mối quan hệ thể hiện đạo hiếu đó, được mệnh danh là đạo làm cha mẹ và đạo làm con.

Trong các mối quan hệ con người, có thể nói mối quan hệ cha mẹ và con cái là thiêng liêng nhất. Sự thiêng liêng không chỉ đơn thuần nằm ở mối quan hệ di truyền và huyết thống, mà đó còn là tất cả tình người, tính giáo dục, đạo đức của hai thế hệ, trước và sau, thế hệ sinh và thế hệ được sinh ra.

  • Người con nào phá vỡ mối quan hệ thiêng liêng này đối với cha mẹ, nghĩa là bất hiếu, báo đời, hại cha mẹ, làm mất thanh danh và truyền thống tốt đẹp của gia tộc, làm các việc phạm pháp..vv. thì người con đó không còn là người con đúng nghĩa, mà chỉ là một người tội lỗi và đáng trách.
  • Trái lại, cha mẹ không làm tròn bổn phận của mình, chẳng hạn như không giáo dục con cái trưởng thành về thể chất, thể trí, tự lập trong đời sống chân chính (chính mạng) thì hàng cha mẹ đó cũng không xứng đáng là các bậc cha mẹ. Cả hai hạng cha mẹ và con cái như vậy đều được xem là không xứng đáng trong tinh thần giáo pháp của Đức Phật.

Trên tinh thần xây dựng và phát huy một xã hội an bình và hạnh phúc trong chiều hướng thượng, những lời dạy của Đức Phật trong tam tạng kinh điển Nam tông và Bắc tông, đã trực tiếp và gián tiếp ca ngợi về mối quan hệ thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Trong phần này, xin trình bày mối quan hệ này cụ thể qua kinh Thiện Sinh – Trung A Hàm. Đây là một bài kinh được xem là tiêu biểu cho đạo hiếu trong truyền thống Phật giáo Bắc phương.

Điều cần nói ở đây là trong lời Phật dạy về đạo hiếu, các giá trị giáo dục và đạo đức được thể hiện theo mối quan hệ song phương, đa chiều. Đạo hiếu, do đó, không chỉ dành cho những người con đối với cha mẹ mà quan trọng không kém đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái. Nói khác hơn đó là mối quan hệ của đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái.

Trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái

Nói đến mối quan hệ cha mẹ đối với con cái là nói đến tinh thần trách nhiệm và bổn phận của các bậc cha mẹ đối với một phần máu thịt mà mình đã sinh ra. Theo lời Phật dạy, cha mẹ sinh con cái không phải để thỏa mãn dục tính mà là thể hiện tình thương yêu đối với một phần máu mủ và sự sống của chính mình.

 cha mẹ
Mối quan hệ của cha mẹ như vậy được xem là nền tảng ban đầu, là cơ sở phát sinh các mối quan hệ đạo đức xã hội về sau

Ở đây, chúng ta thấy đạo Phật đã nhấn mạnh đến đạo đức trong mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ. Chính do tính chất đạo đức này mà các bậc cha mẹ cảm thấy cần phải có trách nhiệm đạo đức đối với việc nuôi nấng và dạy dỗ cho con cái trưởng thành và có lợi ích cho xã hội. Kinh Thiện Sinh đã đề cập đến mối quan hệ đạo đức của các bậc cha mẹ đối với con cái qua năm tiêu chí căn bản sau đây:

Thương yêu con cái:

Như đã nói mối quan hệ giới tính của các bậc cha mẹ trong đạo Phật được đặt trên cơ sở đạo đức, do đó, sự sinh sản con cái không nhằm nhu cầu thỏa mãn các khoái lạc giác quan thuần túy. Chính vì thế các bậc cha mẹ xem việc nuôi nấng con cái không chỉ là trách nhiệm mà còn là luân lý đạo đức không thể thiếu được.

Trong trách nhiệm thiêng liêng thứ nhất này, các bậc cha mẹ ngoài việc nuôi nấng con cái về thể chất, còn phải nuôi con cái bằng đạo đức và lòng yêu thương chân chính. Đó chính là thể hiện tinh thần từ bi của Phật tử. Các bậc cha mẹ phải luôn luôn quan tâm, yêu thương con cái hết mực.

Bởi vì con cái mình mà không thể yêu thương được, thì làm sao có thể yêu thương những người khác. Lòng yêu thương con cái của các bậc làm cha mẹ được thể hiện rất rõ ở văn hóa phương Đông nói chung, văn hóa Việt Nam nói riêng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Mẹ già trăm tuổi thương con tám mươi”, chính là thể hiện sự yêu thương con cái hết mực vậy.

Ngoài ra, yêu thương con cái là phải luôn dạy con cái không làm các điều ác, phải tuân thủ luật pháp xã hội, tôn trọng thuần phong mỹ tục của quốc gia, duy trì truyền thống tốt đẹp của gia đình. Sự giáo dục con cái như vậy rõ ràng là sự giáo dục của người có trí: không nuông chiều con cái, không để chúng có cơ hội đi vào con đường tội lỗi.

Các bậc cha mẹ nuôi con mà không biết dạy con tránh xa tội ác như vậy sẽ trở thành chướng ngại cho đời sống gia đình và xã hội. Đồng thời thể hiện sự yêu thương mù quáng, không đúng tinh thần của đạo Phật.

Cung cấp cho con cái không thiếu thốn:

Điều thứ hai mà cha mẹ có trách nhiệm với con cái là không để chúng thiếu thốn. Không thiếu thốn ở đây phải thể hiện trên hai phương diện là vật chất và tinh thần.

Trên phương diện vật chất, bậc làm cha mẹ phải tùy vào khả năng, điều kinh tế của mình để lo cho con cái đầy đủ từ miếng cơm, manh áo..vv, các phương tiện để học hành phát triển tài năng, trí tuệ. Trên phương diện tinh thần, cha mẹ phải luôn quan tâm chăm sóc, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn để động viên con cái có động lực vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ngày nay nhiều bậc cha mẹ chỉ biết cung cấp cho con cái về mặt vật chất mà thiếu sự quan tâm về mặt tâm lý. Do đó con cái cảm thấy xa lạ với chính cha mẹ của mình..vv. dẫn đến khủng hoảng tâm lý mà sa đọa vào các tệ nạn xã hội. Vì vậy các bậc cha mẹ không chỉ lo cho con cái về mặt vật chất, mà phải luôn quan tâm về mặt tâm lý tinh thần.

Tạo dựng nghề nghiệp chân chính cho con cái:

Giáo dục theo tinh thần đạo Phật luôn bắt đầu và đặt nền móng trên giáo dục đạo đức. Các bậc cha mẹ nào không đặt tầm quan trọng của giáo dục đạo đức ắt sẽ gặp phải cảnh người con bất hiếu, ngỗ nghịch và tạo ra cảnh mất đầm ấm hạnh phúc trong gia đình ở hiện tại và về sau, cho dòng tộc và tha nhân. Nói như thế không có nghĩa đạo Phật bỏ rơi sự giáo dục con cái trưởng thành về thể chất.

Tạo dựng nghề nghiệp cho con cái không những bao gồm sự nuôi nấng theo tinh thần khoa học mà còn chăm lo đến nghề nghiệp tương lai của chúng. Điều này có nghĩa là giao cho con cái cả gia tài sự nghiệp sẵn có của mình không bằng truyền thụ cho chúng kiến thức để có được nguồn tài sản đó.

Ở đây, giáo dục Phật giáo nhấn mạnh đến giáo dục “nhân” để sinh ra “quả”. Vun bồi nhân là cách tốt nhất để gặt hái quả tốt. Do đó giáo dục trong đạo Phật luôn là giáo dục con đường chứ không ban cho con đường. Đây là lối giáo dục vô cùng sáng suốt vì đã loại bỏ yếu tố tha lực trong các hoạt động và phát triển nhân cách đạo đức và năng lực bản thân.

Kế đến lời dạy này còn nhắm đến tính giáo dục tinh thần tự lực cho con cái, theo quy luật của cuộc sống và theo đạo đức của cuộc đời. Chỉ có tinh thần tự lực, dưới sự hướng đạo của cha mẹ, con cái mới thật trưởng thành trong xã hội.

Một ý nghĩa khác có thể rút ra từ lời dạy trên là để khắc chế nạn lêu lổng và buông thả của đời sống thanh thiếu niên trong xã hội nhiều cám dỗ, các bậc cha mẹ phải dạy chúng ý thức về một nghề nghiệp ổn định cho bản thân. Sự sống nhờ vả, dù đó là nhờ vào cha mẹ, cũng chỉ là tạm thời và có ý nghĩa rất ít; trong khi sự tự lập bằng mồ hôi, sức lực, trí khôn trong chiều hướng đạo đức và khả năng của bản thân mới là con đường tự tồn tại lâu dài và bền bĩ.

Chính sự giáo dục này giúp cho con cái thoát khỏi các cạm bẫy ăn chơi sa đọa của xã hội, góp phần ổn định đời sống tập thể và cộng đồng, nhất là hạn chế nạn thất nghiệp và những việc làm phi pháp.

Tìm nơi chốn xứng đáng để dựng vợ gả chồng cho con cái:

Trách nhiệm của các bậc cha mẹ không chỉ dừng lại ở giáo dục đạo đức tránh ác làm lành, ổn định nghề nghiệp cho con mà còn chăm lo đến đời sống lứa đôi cho con cái. Cần nhấn mạnh ở đây rằng xây dựng gia thất cho con cái không có nghĩa là ép buộc con cái phải làm chồng / vợ một người nào đó mà mình thích, thay vì người mà chúng yêu thương.

Đạo Phật không khuyến khích một tập tục “bắt đâu ngồi đó” như trong truyền thống Ấn giáo cổ đại, cũng như truyền thống “phụ vi tử cương” của Nho giáo. Đạo Phật đề cao tinh thần bình đẳng trong nhận thức của cha mẹ và con cái. Khi chưa đến tuổi thành niên, con cái tùy thuộc vào sự quyết định đúng đắn của cha mẹ.

Khi con cái đã đến tuổi trưởng thành, việc quyết định đời sống hôn nhân của chúng phải tùy thuộc vào sự lựa chọn của chúng. “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” là một phương châm rất phù hợp với tinh thần của lời dạy này. Ngoài ra, một ý nghĩa giáo dục khác là nếu cha mẹ có thể dạy và tạo dựng nghề nghiệp chân chính và ổn định cho con cái thì các bậc cha mẹ cũng có thể cố vấn tình yêu và hôn nhân cho chúng. Lời dạy này mang tính giáo dục rất cao.

Cha mẹ không chỉ là người sinh ra con cái mà còn là người thầy, người cố vấn, người hướng đạo đời sống yêu đương và hôn nhân cho con cái. Ở đây, ngoài yếu tố truyền trao kinh nghiệm yêu đương và hôn nhân cho con cái, các bậc cha mẹ còn phải đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn con cái chọn lựa người bạn đời thích hợp. Không có gì thiêng liêng và cao quý cho bằng khi cha mẹ còn đóng vai trò của người thầy và người cố vấn hôn nhân.

Nói rõ hơn, cha mẹ chỉ làm chức năng tư vấn cho con cái biết rõ tiêu chuẩn của một người vợ hay người chồng lý tưởng cũng như, thế nào là trách nhiệm và bổn phận của đôi vợ chồng “loan phụng hoà minh” v.v… Hoàn toàn không có chuyện ép buộc và sắp đặt của cha mẹ trên vấn đề hôn nhân của con cái. Đây là tinh thần giáo dục rất phù hợp đời sống hôn nhân hiện đại.

Một điểm cần lưu ý nữa là khái niệm “xứng đáng” không có nghĩa là “môn đăng hộ đối” như phong tục Nho giáo. Xứng đáng ở đây mang tính đạo đức và xã hội. Ở góc độ đạo đức, người con khôn ngoan nên biết chọn cho mình người bạn đời có đủ phẩm chất đạo đức ít nhất như mình.

Đây là sự tương thích về nhân phẩm giữa hai người. Kế đến, về phương diện xã hội, sự xứng đáng còn mang ý nghĩa chọn người bạn đời có cùng tính tình, chí hướng và hạnh nguyện. Không có gì đau khổ cho bằng khi vợ chồng lâm vào cảnh “đồng sàng dị mộng” vợ nắng chồng như mưa hay vợ mặt trăng, chồng mặt trời v.v…

Để tránh các tình trạng đau lòng có thể dẫn đến sự đổ vỡ mối quan hệ tình yêu và hôn nhân như vậy, con cái rất cần đến sự cố vấn của cha mẹ chúng, những người ít nhất đã một lần trải qua.

Trên tinh thần giáo dục trên, việc dựng vợ gả chồng xứng đáng cho con cái không chỉ tránh được các đổ vỡ do mối quan hệ đơn thuần “môn đăng hộ đối” về vật chất nhưng lại không thích hợp về tính tình, đạo đức, trí tuệ và hạnh nguyện, mà còn hướng đến một căn bản tương thích của đời sống lứa đôi. Nói cách khác, hạnh phúc hôn nhân không chỉ có được từ sự giàu sang mà phải đặt nền tảng trên sự tương thích về phẩm chất đạo đức, lý tưởng và hạnh nguyện. Trong bất kỳ cuộc hôn nhân nào nếu có sự tương thích về đời sống đạo đức và lý tưởng thì tất nhiên sẽ kéo theo sự hạnh phúc lứa đôi.

Cha mẹ có của cải vừa ý đều giao hết cho con cái:

Trách nhiệm thứ năm này mang ý nghĩa pháp lý và đạo đức rất cao. Về phương diện pháp lý, việc truyền trao này bao gồm di chúc và tài sản thừa tự cho con cái. Có nhiều bậc cha mẹ đã không nghĩ tới chuyện này khi còn khỏe mạnh. Do đó, một khi nhắm mắt xuôi tay, con cái bất hiếu đã gây cảnh nồi da xáo thịt về quyền thừa tự, tranh giành tài sản do cha mẹ để lại. Chính vì thế, để tránh các tình trạng trên, Đức Phật đã dạy các bậc cha mẹ phải di chúc và trao truyền gia tài khi mình còn sáng suốt và khỏe mạnh. Chỉ có trong tình trạng khỏe mạnh và sáng suốt, người ta mới có thể chọn người xứng đáng vá thích hợp để mà ủy thác.

  • Về phương diện đạo đức, sự truyền trao gia tài không chỉ có nghĩa đơn thuần là phân chia tài sản cho con cái mà còn có ý nghĩa truyền trao di sản văn hóa của dân tộc, truyền thống gia đình.
  • Gia tài đó hẳn không phải là “một nước Việt buồn” mà phải là một nước Việt thoát khỏi thực trạng khổ đau (khổ đế) hướng đến an lạc và giải thoát trên tinh thần tự chủ vô ngã.
  • Một gia tài như vậy, vàng bạc không thể mua được, đô-la không thể đổi được. Do đó cần phải cẩn trọng chọn lựa người xứng đáng mà truyền trao.
  • Ở mức độ đơn thuần hơn, sự truyền trao gia tài còn có ý nghĩa giúp cho xã hội tránh được sự truyền thừa không xứng đáng, những tình trạng cha truyền con nối, những truyền thống thế tập “con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”.

Đức Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã không truyền trao y bát cho ngài Thần Tú mà trái lại truyền cho ngài Tuệ Năng. Đức Phật Thích Ca đã không trao chính pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm cho ngài A Nan bác học đa văn mà giao cho tổ Ca Diếp đạo cao đức trọng. Sự chọn lựa ở đây bao hàm nội dung đạo đức rất lớn. Chọn lựa sai lầm thì kết quả đau thương sẽ không thể tưởng tượng. Chính vì thế sự chọn lựa đối tượng trao gia tài cần phải cẩn trọng, hợp thời, hợp cơ. Trừ phi đối tượng xứng đáng về đạo đức và trí tuệ được chọn lựa và giao phó, sự truyền trao sẽ trở nên vô nghĩa và nguy hiểm cho cả nhiều thế hệ về nhiều phương diện của cuộc sống.

Nói chung, nếu tinh thần này được áp dụng ở xã hội thì lo gì xã hội không có đủ người tài đức, đất nước không có được minh quân. Mọi sự phân biệt mang tính cách bè phái, cục bộ “con ông cháu cha” sẽ không còn cơ hội để tồn tại trong một xã hội mà tinh thần giáo dục của Đức Phật được truyền thừa và phát huy triệt để.

Bổn phận của con cái đối với cha mẹ

Theo tinh thần duyên khởi của đạo Phật, bất cứ mối quan hệ nào cũng phải có sự đối lưu của ít nhất hai thành phần. Ở đây sự đối lưu là giữa cha mẹ và con cái và ngược lại. Tinh thần giáo dục của Đức Phật không đơn thuần và một chiều, mà đó là sự đối lưu của ít nhất hai trị số con người trong mối quan hệ vừa đạo đức và giáo dục.

cha mẹ
Người con cũng phải có trách nhiệm đạo đức đối với cha mẹ, nuôi nấng mình trưởng thành và trở nên hữu dụng cho bản thân và xã hội.

Sự hiếu thảo của người con như vậy được trình bày qua năm trách nhiệm đạo đức sau đây:

Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ:

Trách nhiệm đạo đức trước tiên của một người con đối với hai đấng sinh thành ra mình theo Đức Phật là phải biết làm tăng thêm của cải, vật chất để nuôi dưỡng cha mẹ. Hay nói cách khác người con phải lấy sự báo đền cha mẹ bằng cách chăm sóc cha mẹ về đời sống vật chất, cũng như chính cha mẹ đã lo cho chúng ta trưởng thành, trong suốt những năm vị thành niên.

Cần lưu ý ở đây rằng: Tăng thêm của cải là để biểu thị một ý thức trách nhiệm cao độ, chứ không đơn thuần là một lời hứa suông. Như chúng ta đã biết Đức Phật định nghĩa nghiệp là những hành vi có ý thức và ý thức là chất xúc tác và dẫn đạo các hành vi của lời nói và việc làm. Do đó, chỉ có với một ý thức sâu sắc về bổn phận làm con ” Tăng thêm của cải để nuôi dưỡng cha mẹ” mới có thể giúp người con duy trì tốt truyền thống hiếu thảo đối với cha mẹ được. Bởi nếu không có của cải thì cũng không thể lấy gì mà phụng dưỡng cho cha mẹ.

Sự chăm lo đến đời sống vật chất của cha mẹ ở đây cho thấy đạo Phật rất thực tiễn. Người con hiếu thảo không chỉ biết vâng lời cha mẹ, làm việc tốt cho gia đình và xã hội mà trước tiên và hơn hết là lo phần đời sống vật chất cho cha mẹ mình. Chăm lo đời sống vật chất bao gồm việc dâng tặng cho cha mẹ tiền chi tiêu, quà quý, thuốc thang, sự thăm viếng và phụng dưỡng khi cha mẹ đau ốm hay không còn sức lao động.

Lời dạy này ngoài việc khích lệ con cái hiếu kính đối với cha mẹ còn nhắm vào việc xóa bỏ các quan niệm sai lầm cho rằng cha mẹ sinh con là để thoả mãn dục vọng cho nên con cái không cần phải có trách nhiệm lo lắng trở lại. Nếu lời dạy cao qúy này được áp dụng chắc chắn rằng xã hội sẽ không còn tình trạng các cha mẹ già phải tủi phận vào sống các nhà dưỡng lão, chỉ vì các người con bất hiếu. Kế đến, lời dạy còn có ý nghĩa cao quý khác, đó là, sẽ không còn cảnh những đứa con ngỗ nghịch “báo đời” cha mẹ dưới nhiều hình thức và về nhiều phương diện.

Cáng đáng việc nhà, làm tròn bổn phận đối với cha mẹ:

Ý thức trách nhiệm làm tròn bổn phận của một người con là điều quan trọng thứ hai trong đạo hiếu thảo của người Phật tử. Lời dạy này mặc dù rất bao quát nhưng có ý nghĩa đạo đức rất lớn. Khái niệm bổn phận ở đây cần phải được hiểu là sự thực thi những điều trách nhiệm của người con đối với cha mẹ tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép. Nghĩa là công việc hiếu thảo không bao giờ là một sự bắt buộc mà trái là một ý thức cao độ, ý thức làm người có đạo lý.

Có nhiều trường hợp người con vì thương cha kính mẹ mà làm nhiều điều tội ác để chu cấp tài sản cho cha mẹ. Đạo Phật chống lại sự hiếu thảo phi pháp như vậy. Nói cách khác cáng đáng việc nhà để trọn bổn phận tùy theo hoàn cảnh và điều kiện cho phép là một trong những cách thể hiện chữ hiếu hợp lý nhất. Ví dụ khi còn ngồi dưới mái trường, việc làm trọn bổn phận của người con đối với cha mẹ là vâng lời thầy cô, học hành chăm chỉ, thu hoạch kiến thức để làm nền tảng trí thức và đạo đức cho bản thân, hiện tại và về sau.

Khi đã xây dựng gia thất riêng, việc làm tròn bổn phận của người con là sống đúng, sống theo và sống hợp với các nguyên tắc đạo đức của đạo Phật, không làm các điều ác, phát huy các điều thiện, chăm lo cho vợ/chồng con chu đáo, cáng đáng việc nhà để cho cha mẹ có thời gian thư nhàn lúc tuổi xế chiều, không để cha mẹ phải vất vả vì công việc gia đình. Nói chung trong mọi hoàn cảnh và trường hợp, người con làm tròn bổn phận phải là người có ý thức trách nhiệm và thể hiện trách nhiệm đó bằng hành động cụ thể, đúng chính pháp và phù hợp với đạo lý và luật pháp của xã hội hiện hành.

Dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn:

Các bậc làm cha mẹ đã suốt đời hy sinh vì con cái, cũng không ai đòi hỏi con cái phải dâng hiến cho mình những gì vượt ngoài khả của con cái. Khi còn trẻ cha mẹ đã hết mình lo cho con cái, nhưng khi về già, không còn sức lao động, không làm ra của cải vật chất nhưng cũng không ai muốn ngửa tay xin con cái.

Cho nên phận làm con cái luôn phải biết vâng lời cha mẹ, tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế của gia đình mà dâng cho cha mẹ những gì cha mẹ muốn, không đợi cha mẹ phải đòi hỏi. Đây cũng là thể hiện tính tự giác, luôn biết quan tâm đến tâm tư tình cảm của cha mẹ. Tiếc rằng xã hội ngày nay, nhiều người làm con cái sống trong cảnh dư thừa vật chất, nhưng vẫn để cho cha mẹ nghèo khổ, đói rét. Chính vì thế mà tục ngữ có câu: “Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi nổi một mẹ”.

Đây quả thực là một tình trạng đáng buồn của xã hội, lời dạy trên của Đức Phật thật vô cùng ý nghĩa đối với những người làm con cái mà chưa tròn trách nhiệm của mình đối với cha mẹ.

Không tự làm gì khi chưa hỏi cha mẹ và không được trái ý cha mẹ:

Đây chính là bổn phận của người làm con khi tiến hành bất cứ một công việc gì cũng phải hỏi cha mẹ trước, mục đích để giữ gìn danh dự và không đi ngược với truyền thống gia đình.

Mỗi dân tộc đều có một bản sắc văn hóa riêng. Chính nét riêng là giá trị tạo nên và đóng góp cho nền văn hóa của nhân loại. Cũng vậy mỗi gia đình đều có truyền thống riêng mà các bậc tiền bối và tổ tiên đã dày công xây dựng. Người con hiếu thảo theo Đức Phật là người, ngoài việc làm tròn bổn phận, phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ đúng pháp còn là người biết tôn trọng các giá trị văn hóa và di sản truyền thống tốt đẹp của gia đình, giống nòi và dân tộc.

Cần lưu ý ở đây rằng lời dạy này không nhằm khuyến khích một chế độ thế tập “cha truyền con nối” một cách mù quáng. Nó chỉ nhằm kêu gọi ý thức trách nhiệm bảo vệ và phát huy các truyền thống tốt đẹp của một gia phả, một làng xóm, một cộng đồng, một sắc tộc, một quốc gia mà thôi.

  1. Đạo Phật không dạy chúng ta phục tùng các truyền thống lạc hậu, phản với đạo đức và sự hướng thượng trong đạo đức và tu tập.
  2. Trong tinh thần này, những quan niệm duy trì truyền thống theo kiểu “con vua thì lại làm vua, con sải ở chùa thì quét lá đa” cần phải được loại bỏ ra khỏi quan điểm chữ hiếu trong đạo Phật.
  3. Đức Phật chỉ khuyên chúng ta theo mặt tốt và tiến hóa của truyền thống trong khi mạnh dạn loại bỏ các mặt tiêu cực và bất lợi của nó.

Lời dạy này càng có ý nghĩa to lớn hơn nếu ta đặt nó trong sự vận động bảo tồn và duy trì các sắc thái văn hóa của tổ chức UNESCO. Nói dễ hiểu hơn, đây có thể là phương châm cho một khuynh hướng giữ gìn và bảo vệ nền văn hóa tích cực của các sắc dân, của các dân tộc trên thế giới theo chiều hướng có chọn lọc các truyền thống và đặt chúng trong tiêu chí của các giá trị phát triển đạo đức và đạo lý con người hơn là chỉ đơn thuần tìm hiểu và làm sống dậy chúng.

Tất cả những vật riêng của mình đều dâng hết cho cha mẹ:

Phận làm con phải luôn tự giác dâng nhưng tài sản, vật chất của mình cho cha mẹ, mà không giấu diếm giữ làm của riêng. Đây chính là thể hiện tinh thần tập thể của một gia đình, nhằm bảo vệ và làm tăng tiến tài sản thừa tự.

Nếu “duy trì các truyền thống tốt đẹp của gia đình, quốc gia” là một nguyên tắc chung và bao quát đối với những người con có hiếu theo tinh thần lời Phật dạy thì “bảo vệ tài sản thừa tự” là một nguyên tắc cụ thể ứng dụng trong phạm vi của truyền thống gia tộc. Điều này có ý nghĩa giáo dục rằng một mặt con cái phải biết sử dụng gia tài và di sản của cha mẹ để lại đúng pháp và mặt khác phải là người kế thừa có đạo lý. Nghĩa là cha làm thầy thì con cái không được đốt sách. Cha mẹ làm việc thiện, tôn kính Tam Bảo, thì con cái không nên làm việc ác, phỉ báng Phật Pháp Tăng. Trái lại còn phát huy một cách tốt hơn và có chiều kích hơn.

Rất tiếc hiện nay trong nhiều xã hội, lời dạy nầy không được áp dụng nên đã có nhiều cảnh con cái trở thành những kẻ phá hoại tài sản của cha mẹ và tổ tiên để lại. Nhiều người con chỉ biết chi tiêu gia tài của cha mẹ theo khuynh hướng tán gia bại sản hơn là duy trì và phát huy chúng.

Tóm lại, qua những gì vừa được trình bày ở trên, đạo hiếu của Phật giáo bao gồm đạo làm cha mẹ và đạo làm con cái. Năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm cha mẹ và năm nguyên tắc đạo đức của đạo làm con trong kinh Thiện Sinh có thể được xem là những chuẩn mực, khuôn vàng thước ngọc cho các mối quan hệ của cha mẹ và con cái trong một xã hội tiến bộ và văn minh.

Mối quan hệ giữa cha mẹ đối với con cái là mối quan hệ mang tính đạo đức và giáo dục rất cao. Các bậc cha mẹ không chỉ chăm lo về đời sống vật chất cho con cái mà còn và quan trọng hơn hết là chăm lo và phát triển đời sống đạo đức và trí tuệ của chúng. Đồng thời bổn phận của con cái không chỉ là chăm lo cho cha mẹ về mặt vật chất, mà phải luôn săn sóc cha mẹ về mặt tinh thần, không để cho cha mẹ phải phiền lòng.

Nếu năm nguyên tắc đạo làm cha mẹ nên được phổ biến rộng rãi trong các hội bô lão và các hội phụ huynh thì năm nguyên tắc đạo làm con nên được truyền bá trong các câu lạc bộ thanh thiếu niên, trong các hội đoàn sinh viên học sinh, để các bậc làm cha mẹ xứng đáng là cha mẹ và để các người con xứng đáng là những người con.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong kinh Thiện Sinh

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd