Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Tổng quan vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 12

Tuổi Tý Tài vận của tuổi Tý trong tháng 12 cực vượng. Lợi nhuận dànhđược từ kinh doanh buôn bán không hề ít. Tuy nhiên, tháng này, sứckhỏe và vận tình cảm của bạn có phần trắc trở. Nam tuổi Tý nên cẩnthận trong sinh hoạt thường ngày, kẻo đam mê tửu sắc mà ảnh hưởngđến chất lượng công việc lẫn tình cảm vợ chồng. Về sức khỏe, tuổiTý tháng này nên chú ý hơn tới bàng quang, tai, vùng thắt lưng vàbộ phận sinh dục.
Tổng quan vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Tuổi Sửu

Tài vận của người tuổi Sửu tháng 12 cũng rất hanh thông. Công việc có nhiều đột phá. Vận đào hoa cực vượng. Những nam, nữ còn độc thân dễ gặp được ý trung nhân. Người đã kết hôn nên cẩn thận trong quan hệ tình cảm. Tháng này, bạn nên tránh xa tửu sắc, kẻo phá tài hại thân.

Tuổi Dần

Tháng này, vận thế của người tuổi Dần thuận lợi, suôn sẻ. Bạn làm việc gì cũng hanh thông, kết quả đạt được khá mĩ mãn, sự nghiệp phát triển. Vì vậy, hãy nắm bắt thời cơ ngàn vàng này để thúc đẩy sự nghiệp của mình. Vận tình cảm của tuổi Dần tháng 12 cũng tương đối sáng sủa. Mâu thuẫn ắt sẽ được hóa giải. Tuy nhiên, tháng này, bạn nên chú ý hơn tới sức khỏe của người thân trong gia đình, đặc biệt là phụ nữ đã cao tuổi.

Tuổi Mão

Vận thế của tuổi Mão tháng 12 có phần sa sút. Tuy nhiên, sự nghiệp vẫn có những bước tiến nhất định. Nếu muốn tiến hành chuyện đại sự, bạn nên đề cao các tiêu chí: “bình tĩnh, chắc chắn, tuần tự”, thành công ắt sẽ đến với mình. Tuy nhiên, tháng này, tuổi Mão nên chú ý cải thiện quan hệ xã hội, chớ hành xử thiếu chín chắn mà đắc tội với người hoặc vướng vào thị phi, rắc rối.

Tuổi Thìn

Tháng này, tuổi Thìn làm việc gì cũng có quý nhân phù trợ nên khá thuận lợi, suôn sẻ. Tài vận của bạn cũng rất khả quan. Vì vậy, hãy nắm bắt thời cơ này để gặt hái những thành tích đáng nể trong tháng cuối năm. Trong tháng, quan hệ xã hội của người tuổi Thìn được cải thiện rõ rệt. Bạn và mọi người hòa làm một và đồng lòng đồng sức giải quyết mọi việc. Về phương diện tình cảm, hỉ sự nhiều không kể xiết.

Tuổi Tỵ

Tháng này, vận thế của tuổi Tỵ rất ảm đạm. Công việc có phần trì trệ, khó phát triển vượt bậc, thậm chí dễ nảy sinh tranh chấp, mâu thuẫn. Vì vậy, phàm làm việc gì, tuổi Tỵ cũng nên đề cao tiêu chí: “cẩn trọng, ổn định, bình tĩnh”. Tài vận của bạn trong tháng 12 chỉ ở mức trung bình. Về phương diện sức khỏe, bạn nên chú ý hơn tới bản thân, kẻo gặp tai họa bất ngờ.

Tuổi Ngọ

Vận thế của tuổi Ngọ trong tháng 12 có phần biến động, lên xuống thất thường. Công việc của bạn kém ổn định. Tháng này, tuổi Ngọ dễ có sự di chuyển, thậm chí chuyển nhà, điều động trong công việc hoặc thường xuyên đi công tác, nhưng chính nhờ biến động mà tài vận lại sáng sủa.

Tuổi Mùi

Vận thế của tuổi Mùi tháng này sa sút rõ rệt. Bạn dễ bị tiểu nhân ngáng đường hãm hại. Vì vậy, nên tránh quan phi khẩu thiệt, cẩn thận kẻo phá tài tổn lợi. Trong công việc, bạn gặp nhiều áp lực, khó khăn chồng chất khó khăn. Tài vận cũng chỉ ở mức trung bình, thậm chí phải chi nhiều khoản lớn. Vận tình cảm của những nam, nữ tuổi Mùi đã kết hôn không mấy tốt đẹp. Tình cảm phu thê dễ trục trặc vì có kẻ thứ ba chen vào. Cũng vì mệt mỏi trong chuyện tình cảm, bạn dễ suy sụp về sức khỏe. 

Tuổi Thân

Tháng này, sự nghiệp của tuổi Thân tiến triển vượt bậc. Cơ hội tốt sẽ đến với bạn, vì vậy, hãy nắm bắt thời cơ này để thăng tiến trong công việc. Tháng 12 cũng là tháng thăng quan thăng tài của người tuổi Thân. Tài vận của bạn cực hanh thông, vì vậy, nếu đang có ý định đầu tư bạn nên mạnh dạn dốc tiền. Về phương diện tình cảm, tuổi Thân dễ có vận đào hoa. Người còn độc thân có duyên phận sáng sủa.

Tuổi Dậu

Vận thế của người tuổi Dậu trong tháng 12 rất tốt. Sự nghiệp của bạn phát triển rực rỡ, vì vậy hãy tiếp tục cố gắng dựa trên nền tảng ổn định, vững chắc. Tài vận tháng này cũng vô cùng sáng sủa. Nếu có ý định đầu tư, hãy mạnh dạn quyết đoán, ắt sẽ thu được lợi nhuận. Những nam, nữ tuổi Dậu còn ở độ tuổi học sinh sẽ văn chương xuất chúng, học hành tiến bộ, thành tích đạt được rất mĩ mãn.

Tuổi Tuất

Tháng 12 của người tuổi Tuất là tháng vượng tài. Phải làm việc gì, bạn cũng nên tích cực chủ động, ắt sẽ thành công. Tuy nhiên, trong công việc, tuổi Tuất chớ nên tự kiêu tự mãn, hấp tấp vội vàng, hãy hành sự cẩn trọng, bình tĩnh. Tài vận tháng này rất khởi sắc, bởi vậy, đây là thời điểm thích hợp để bạn khởi nghiệp hoặc dốc tiền đầu tư. Tuy nhiên, bạn nên cẩn thận, kẻo hao tài mất của vì những sự cố ngoài ý muốn. Về phương diện tình cảm, vận đào hoa của người tuổi Tuất tháng này tương đối vượng. Nam, nữ còn độc thân dễ có cơ hội tìm thấy ý trung nhân.

Tuổi Hợi

Vận thế của người tuổi Hợi trong tháng 12 có phần cải thiện, tuy nhiên, công việc vẫn gặp trắc trở, sự nghiệp không phát triển nhanh. Nhưng nếu tích cực cố gắng, năng động sáng tạo, thành công ắt sẽ đến với bạn. Tháng này, tuổi Hợi nên cẩn trọng trong chuyện tiền bạc, hợp tác đầu tư.

Theo Hương Ngàn (Khám Phá)



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tổng quan vận mệnh của 12 con giáp trong tháng 12

Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Thập nhị Địa chi: Tam hợp (Tốt) Thân-Tý-Thìn Dần-Ngọ-Tuất Tỵ-Sửu-Dậu Hợi-Mão-Mùi
Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thập nhị Địa chi: Lục hợp (Tốt)
Tý hợp Sửu
Dần hợp Hợi
Mão hợp Tuất
Thìn hợp Dậu
Tỵ hợp Thân
Ngọ hợp Mùi

Thập nhị Địa chi: Lục xung (Xấu)
Tý xung Ngọ
Sửu xung Mùi
Dần xung Thân
Mão xung Dậu
Thìn xung Tuất
Tỵ xung Hợi

Thập nhị Địa chi: Tứ hành xung (Xấu)
Thìn-Tuất-Sửu-Mùi
Tý-Ngọ-Mão-Dậu
Dần-Thân-Tỵ-Hợi

Tránh xung (Xấu) :
Tý xung Mão
Ngọ xung Dậu
Dần xung Tỵ
Thân xung Hợi
Thìn xung Mùi
Tuất xung Sửu

Tránh kỵ (Xấu):
Tý kỵ Ngọ
Mão kỵ Dậu
Dần kỵ Thân
Tỵ kỵ Hợi
Thìn kỵ Tuất
Sửu kỵ Mùi

Tránh tứ tuyệt (Xấu)
Tuổi TÝ tuyệt tuổi TỴ
Tuổi DẬU tuyệt tuổi DẦN
Tuổi NGỌ tuyệt tuổi HỢI
Tuổi MÃO tuyệt tuổi THÂN

Tránh lục hại (Xấu) :
TÝ hại MÙI
DẦN hại TỴ
THÂN hại HỢI
SỬU hại NGỌ
MÃO hại THÌN
DẬU hại TUẤT.

Thiên Can hợp khắc (Hợp: Tốt, Khắc: Xấu)
GIÁP hợp KỶ, khắc CANH
ẤT hợp CANH, khắc TÂN
BÍNH hợp TÂN, khắc NHÂM
ĐINH hợp NHÂM, khắc QUÝ
MẬU hợp QUÝ, khắc GIÁP
KỶ hợp GIÁP, khắc ẤT
CANH hợp ẤT, khắc BÍNH
TÂN hợp BÍNH, khắc ĐINH
NHÂM hợp ĐINH, khắc MẬU
QUÝ hợp MẬU, khắc KỶ

Ngũ hành nạp âm (Bản mệnh) tương sinh (Tốt)
Thủy sinh Mộc
Mộc sinh Hỏa
Hỏa sinh Thổ
Thổ sinh Kim
Kim sinh Thủy

Ngũ hành nạp âm (Bản mệnh) tương khắc (Xấu)
Thủy khắc Hỏa
Hỏa khắc Kim
Kim khắc Mộc
Mộc khắc Thổ
Thổ khắc Thủy


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tuổi vợ chồng để kết hôn

Nhìn ngón tay giữa đoán ngay bản chất con người

Độ dài của ngón tay giữa sẽ hé lộ tính cách của bạn ví như dễ xúc động, thiếu kiên nhẫn hay quá tự tin.
Nhìn ngón tay giữa đoán ngay bản chất con người

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ngón tay giữa quá ngắn

Chủ nhân của ngón tay giữa quá ngắn thường thiếu kiên nhẫn, dễ xúc động và hành động theo cảm tính. Vì thế, người này cần phải nghiêm túc với bản thân hơn, cẩn thận trong từng suy nghĩ và cử chỉ nếu không sẽ phạm những sai lầm đáng tiếc khiến cả cuộc đời mang theo cảm giác hối hận.

Ngoài ra, người có ngón tay giữa quá ngắn hay ăn theo những trào lưu một cách mù quáng. Họ thích những việc có tính chất rủi ro cao, mang lại cảm giác mạo hiểm, nhưng chiến thắng lớn. Nếu gặp năm bất lợi với tuổi của mình, người này dễ thất bại. 

Tuy nhiên, nếu xét theo phương diện tình cảm, người này lại có tính cách hài hòa, dễ hòa đồng và hiếu khách. Vì sự cảm tính nhiều hơn lý tính nên trong mắt bạn bè, họ khá dễ tính, thậm chí còn có trái tim yếu đuối, chứa chan cảm xúc, dễ xúc động rồi mất sự tự tin vào bản thân, cuối cùng chỉ cảm nhận thấy sự cô đơn.

nhin-ngon-tay-giua-doan-ngay-ban-chat-con-nguoi

2. Ngón tay giữa quá dài

Dù là nam hay nữ, nếu ngón tay giữa quá dài thuộc tuýp tự tin, biết cách cư xử khéo léo với mọi người và nắm bắt tâm lý người khác tốt. Họ có thể tự mình hóa giải mọi cảm giác đau buồn về tình cảm để có cuộc sống “dễ thở” hơn.

Con trai có ngón tay giữa quá dài thường tôn sùng chủ nghĩa cá nhân còn các cô nàng thì lúc nào cũng coi mình là trung tâm của mọi sự chú ý. Tuy nhiên, một đặc điểm chung khó phủ nhận ở những người này là lối sống lý tính, làm việc đâu ra đó, đặc biệt rất có khiếu về quản lý tiền bạc.

Chú ý: Để biết ngón tay giữa của mình dài hay ngắn, bạn nên so sánh với những ngón tay còn lại trên một bàn tay, chứ không phải so sánh với ngón tay người khác đâu nhé.

Mr.Bull (theo Meiguoshenpo)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn ngón tay giữa đoán ngay bản chất con người

Vân Đài Loạn Ngữ

Một bài viết sưu tầm trên trang tuvilyso. Mời các bạn tham khảo.
Vân Đài Loạn Ngữ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Tóm tắt

Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.

Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...

B. Nội dung

Lý Khí (54 điều)

1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.

2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.

3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.

4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.

Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.

Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?

5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.

Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.

Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.

6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.

7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.

8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"

Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".

Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".

Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!

Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".

9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?

Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.

10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.

11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.

12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.

13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!

14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?

Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?

15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.

Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.

16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.

17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.

Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.

Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.

Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.

18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.

19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?

20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.

21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.

22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).

23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.

24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.

Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.

25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.

Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?

Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.

26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.

Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?

27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.

Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.

Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.

28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".

Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.

Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.

29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.

30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.

Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.

31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.

Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.

Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.

32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.

Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.

Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.

33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.

Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".

Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.

34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".

Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.

35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.

Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.

Các phép bói khác cũng thế.

36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.

Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.

Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.

Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.

37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.

38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.

39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.

40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.

Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.

Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.

41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.

Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.

42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.

Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.

Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.

Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.

Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.

Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.

Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.

Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.

Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.

Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.

Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.

Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.

Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.

Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.

Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.

Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.

Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.

Đó chính là Lý.

43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.

Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!

Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).

Đó là chứng cớ rõ ràng.

Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.

Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.

44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.

45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.

46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.

Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.

47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.

Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.

48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.

Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.

49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".

50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:

Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).

Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).

Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).

Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.

Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.

51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.

52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.

Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?

53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.

Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.

Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!

Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.

HÌNH TƯỢNG (38 điều)

1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.

Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.

2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?

3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?

Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?

Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.

Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.

4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?

5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?

Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.

Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.

Xem các sách Tả truyệnQuốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.

Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".

Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.

Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.

Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?

6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).

7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.

Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.

Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.

8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.

Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.

9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).

10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.

Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.

Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.

Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.

Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.

11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.

Các đời đều theo thuyết ấy.

Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.

Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.

Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.

Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.

12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.

Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.

Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.

13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".

Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.

14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.

Có lẽ thuyết này là đúng.

Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.

15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.

Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.

Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.

Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh HiếnTrịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.

Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.

Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.

Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.

Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.

16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.

Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.

Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.

Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.

Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.

Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.

Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).

Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.

Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.

Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.

Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.

Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.

Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).

Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.

Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.

17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.

Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.

Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.

Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.

Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.

Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.

Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.

Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.

Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.

Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).

Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.

18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".

Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.

Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?

Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ

Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.

Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.

Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.

Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.

19. Từ sau sách Sử kýHán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.

Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.

Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.

Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.

Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.

20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.

Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.

Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.

Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、

Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.

Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.

Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.

21. Phép định tiết Khí ngày giờ

Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,

Can thực chi xung tiết Khí đồng,

Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,

Thử pháp ư quân tối hữu công.

Dịch nghĩa;

Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,

Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,

Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,

Phép ấy dạy người rất có công.

Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.

22. Phép định tiết Khí thời khắc:

Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân

Thiên can bất động gia lưỡng thần,

Dịch nghĩa:

Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,

Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).

23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.

Thời gia tam khắc vạn niên linh,

Dịch nghĩa:

“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.

Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.

24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.

Giờ Mặt Trời mọc

a. Giờ Dần:

Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.

Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.

b. Giờ Mão:

Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.

Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.

c. Giờ Thìn:

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.

Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.

Giờ Mặt Trời lặn

d. Giờ Thân:

Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.

Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.

Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.

e. Giờ Dậu:

Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.

Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.

Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.

Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.

Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.

Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.

Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.

Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.

f. Giờ Tuất:

Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.

Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.

25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết

(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)

Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:

Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu

Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.

Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,

Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.

Lục lục chi niên, tử tế suy,

Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;

Tiện tố kim niên lập xuân số;

Toán lai hữu bản vô sai ngộ.

Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,

Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,

Phân hào bất lậu chân tiêu tức

Tận tại tiên sinh chưởng át trung.

Dịch nghĩa:

Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.

Chín năm trước tính đến chín năm sau,

Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,

Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.

Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,

Trải qua mấy tiết Hàn lộ,

Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.

Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.

Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,

Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;

Một phân một hào không sót tí gì,

Đều ở trong tay thầy toán số.

Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.

Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.

Lại có bí quyết rằng;

Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,

Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.

Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,

Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.

Dịch nghĩa:

Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.

Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,

Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,

Phép này rất đúng.

Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.

26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.

Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.

27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.

Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.

28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.

Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.

Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;

Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;

Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;

Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;

Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;

Tỵ, Hợi là số 4.

Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;

Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.

Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.

Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.

Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.

(Nguồn: sưu tầm)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vân Đài Loạn Ngữ

3 con giáp có biệt tài kinh doanh không ai bằng

Ở những con giáp này có sự nhạy bén và tính quyết đoán trong việc làm ăn. Đặc biệt, họ rất nhạy cảm với tiền ^^.
3 con giáp có biệt tài kinh doanh không ai bằng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu có phong cách làm việc quyết đoán, tự tin, thích sáng tạo. Cộng thêm năng lực thực thụ, sự nỗ lực hết mình, và chút may mắn, họ sẽ kiếm bội tiền khi cơ hội đến. 

dau-1791-1412202280.jpg

Con giáp này biết cách biến thách thức thành cơ hội cho mình. Trong hoàn cảnh cấp bách và khó khăn nhất, họ vẫn điềm tĩnh nghĩ ra cách xử lý tối ưu. Bởi lẽ họ là một trong số những người có con mắt tinh tường và sáng suốt trong lĩnh vực kinh doanh.

Tuổi Thân

Trong 12 con giáp, người tuổi Thân có sự nhạy bén nhất về các con số. Chỉ cần nhìn thấy tiền, họ sẽ thấy vô cùng hào hứng và tràn đầy ý chí quyết tâm để nắm được nó trong tay. Cá tính này khiến họ không ngừng học tập ngay từ khi còn trẻ và tích lũy nhiều kinh nghiệm để thành công trong việc kinh doanh sau này.

than-3377-1412202286.jpg

Người tuổi Thân có tài tổng hợp và đánh giá tình hình kinh doanh một cách khoa học. Họ cẩn trọng trong từng đường đi nước bước nên ít khi bị thất bại hoặc thua lỗ.

Tuổi Thìn

Vốn thích thể hiện và ưa sĩ diện, người tuổi Thìn không bao giờ xuất hiện luộm thuộm hoặc nhếch nhác trước mặt người khác, dù điều kiện kinh tế đang gặp khó khăn. Vì lý do đó, họ luôn nỗ lực kiếm thật nhiều tiền và chủ yếu bằng con đường kinh doanh.

thin-4466-1412202291.jpg

Trong lĩnh vực buôn bán, người tuổi Thìn khá nhạy bén và có thái độ điềm tĩnh, khó bị ngoại cảnh tác động, nên thường gặp hái được nhiều thành công. Hơn thế, họ phấn đấu không mệt mỏi, cố gắng kiên trì tới cùng để đạt được mục đích. Do đó, cuộc sống về già sung túc, giàu có là điều thường thấy ở những người tuổi Thìn.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp có biệt tài kinh doanh không ai bằng

Xem tướng đàn ông chung thủy để biết cách chọn chồng

Đàn ông có ngón tay giữa thẳng, không cong vẹo thì tính tình trung thực, quan niệm đạo đức mạnh nên sẽ không ngoại tình. Xem tướng đàn ông chung thủy để chọn
Xem tướng đàn ông chung thủy để biết cách chọn chồng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đàn ông có ngón tay giữa thẳng, không cong vẹo thì tính tình trung thực, quan niệm đạo đức mạnh nên sẽ không có tình trạng ngoại tình, trái lại vô cùng chung thủy.


► Lịch ngày tốt gửi tới bạn đọc công cụ xem tướng và xem bói tử vi để biết tính cách, số mệnh của mình

Dưới đây là một vài đặc trưng về tướng đàn ông chung thủy mà chúng ta dễ dàng quan sát thấy.
 
1. Ấn Đường rộng và lông mày dài
 
Trên thực tế rất ít người có được cả hai đặc điểm tướng mạo này cùng lúc. Bởi nếu lông mày dài thì khoảng cách giữa hai đầu mày càng gần, điều này đồng nghĩa với Ấn Đường bị thu hẹp lại. Tuy nhiên, nếu đuôi mày dài hơn đuôi mắt cũng được cho là lông mày dài. 
 
Đàn ông có Ấn Đường rộng và lông mày dài là người có tinh thần trách nhiệm với công việc và gia đình. Người này dám làm làm chịu và rất chung thủy trong tình yêu, sẽ mãi che chở và bảo vệ cho vợ con của mình.

Do do chung thuy cua nam gioi qua tuong mao hinh anh
Ảnh minh họa

2. Đôi tai to bản và đầy đặn

Nam giới có tướng tai to bản lại đầy đặn biết kiểm soát tốt cảm xúc và dục vọng bản thân. Người này tính tình ổn định, không dễ bị ngoại cảnh tác động nên rất tỉnh táo với những cám dỗ về sắc dục. Hơn thế, họ còn biết bảo vệ, che chở cho vợ và cả gia đình nhà vợ nên là hình mẫu điển hình của cánh mày râu chung thủy.
 
3. Môi dày và cân đối
 
Người có đôi môi dày và cân đối đa phần tính tình tử tế, làm việc tuân theo những quy tắc nhất định và không thích phải phá vỡ thói quen trong cuộc sống. Do đó, người này sẽ không gian dối hay lừa gạt nửa kia. Trong trường hợp xấu nhất là tình cảm đã thay đổi, họ sẽ bày tỏ thẳng thắn quan điểm của mình để nửa kia không bị tổn thương.
 
4. Đôi mắt sáng, có thần sắc và nhìn thẳng
 
Đàn ông có đôi mắt này phần lớn tính tình cương trực, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để suy nghĩ nên được nhiều người yêu mến. Với ánh nhìn thẳng thắn, không giấu giếm che đậy, người này sẽ không cho kẻ thứ ba có cơ hội xen ngang phá hoại tình yêu hoặc cuộc sống hôn nhân gia đình họ.
 
5. Sống mũi không xiên vẹo, khuyết hãm
 
Thông thường người có sống mũi thẳng, không bị khuyết hãm hay xiên vẹo thường rất tự tin và không dễ bị chi phối bởi những yếu tố ngoại cảnh. Đi kèm với tướng mũi này thường là đặc điểm đầu mũi tròn đầy và cân đối. Điều này càng chứng tỏ mức độ chung thủy trong tình yêu và sự tôn trọng, tinh thần trách nhiệm với cuộc sống gia đình. 
 
6. Ngón tay giữa thẳng, bàn tay đầy đặn và sáng hồng
 
Trong Nhân tướng học, ngón tay giữa đại diện cho tính cách bản thân mỗi con người. Nếu ngón này thẳng, không cong vẹo có nghĩa là người trung thực, thẳng thắn, làm việc gì cũng quang minh chính đại, có quan niệm đạo đức mạnh mẽ nên sẽ không xuất hiện tình trạng ngoại tình.
 
ST    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông chung thủy để biết cách chọn chồng

4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Bốn quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống để thêm hành trang vững bước vào đời.
4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bốn quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống để thêm hành trang vững bước vào đời.

4 quy tac tam linh can ap dung trong cuoc song hinh anh
 
1. Quy tắc đầu tiên: “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp.”
 
Điều này có nghĩa rằng không ai xuất hiện trong cuộc đời chúng ta một cách tình cờ cả. Mỗi người xung quanh chúng ta, bất cứ ai chúng ta giao lưu, đều đại diện cho một điều gì đó, có thể đến để dạy chúng ta điều gì đó hoặc giúp chúng ta cải thiện tình hình hiện tại.
2.Quy tắc thứ hai: “Bất cứ điều gì xảy ra thì đó chính là điều nên xảy ra."
 
Không có điều gì, tuyệt đối không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Không có. Nếu như tôi đã làm điều đó khác đi..., thì nó hẳn đã khác đi. Không. Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra giúp chúng ta học ra bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta.
 
4 quy tac tam linh can ap dung trong cuoc song hinh anh 2
 
3.Quy tắc thứ ba: “Trong mỗi khoảnh khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm.”
 
Mọi thứ bắt đầu vào đúng thời điểm, không sớm hơn hay muộn hơn. Khi chúng ta sẵn sàng cho nó, cho điều gì đó mới mẻ trong cuộc đời mình, thì nó sẽ có đó, sẵn sàng để bắt đầu.
 
4. Quy tắc thứ tư: “ Những gì đã qua, cho qua"
 
Quy tắc này rất đơn giản. Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 4 quy tắc tâm linh cần áp dụng trong cuộc sống

Tiết khí Hàn Lộ, thu chuyển sang đông

Hàn Lộ, tiết khí thứ 17 trong 24 tiết khí hàng năm, bắt đầu từ ngày 8 hoặc 9 tháng 10 đến ngày 23 hoặc 24 tháng 11. Bắt đầu từ đây, không khí trở nên lạnh lẽo.
Tiết khí Hàn Lộ, thu chuyển sang đông

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hàn Lộ, tiết khí thứ 17 trong 24 tiết khí hàng năm, bắt đầu từ ngày 8 hoặc 9 tháng 10 đến ngày 23 hoặc 24 tháng 11. Bắt đầu từ đây, không khí trở nên lạnh lẽo, nhiệt độ thấp, chuyển sang mùa đông.


► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Tiet khi Han Lo, thu chuyen sang dong hinh anh
 
Tiết Hàn Lộ là thời điểm Mặt Trời ở kinh tuyến 195 độ. Thời tiết lạnh, sương đọng nhiều, kết trắng trên mặt đất, hàn khí thịnh vượng. Hàn Lộ có ý nghĩa là nhiệt độ còn thấp hơn tiết Bạch Lộ, hơi nước đã sắp két thành sương. Nếu như Bạch Lộ là tiết khí chuyển từ nóng bức sang mát mẻ, khí nóng chưa hoàn toàn tiêu tán thì Hàn Lộ lại là tiết khí chuyển từ mát sang lạnh. Dân gian có câu "Hàn lộ hàn lộ, khắp nơi lạnh lộ" chính là vì như vậy.   Tiết Hàn Lộ, Mặt Trời rời xích đạo, đi từ vĩ tuyến 5°57′  Nam đến vĩ tuyến 11°32′ Nam, lúc này ở Bắc bán cầu, biên độ Mặt Trời từ lớn biến thành nhỏ, mặt đất tiếp thu nhiệt lượng ít hơn hẳn so với mùa hè, nhiệt độ giảm xuống, khí hậu dùng từ lạnh giá để miêu tả.   Bước vào tiết Hàn Lộ, mùa mưa kết thúc, khí trời thường là ngày ấm đêm lạnh, bầu trời trong trẻo, cảnh tượng cuối thu hết sức đẹp đẽ và lãng mạn. Bởi khí trời dần lạnh, cây cối hoa cỏ sắp héo tàn, người xưa gọi đây là thời điểm “từ thanh”, tức là giã biệt cây cỏ. 
Tiet khi Han Lo, thu chuyen sang dong hinh anh
 
Hàn Lộ và Tết Trùng Cửu 9/9 âm lịch gần nhau, có năm là cùng một lúc, hoa cúc nở rộ, để trừ khô háo, nóng trong, táo bón, nên uống trà hoa cúc hoặc rượu hoa cúc để thanh lọc cơ thể, mát gan, giải độc. Đồng thời, đây cũng là tập tục truyền thống trong Tết Trùng Cửu. 
 
Rượu hoa cúc làm từ hoa cúc, gạo nếp, men rượu, ủ, còn gọi là rượu trường thọ, có vị mát, dưỡng gan, sáng mắt, kiện não, tăng cường trí nhớ.   Hàn Lộ là thời điểm bắt đầu mùa đông, âm dương chuyển biến, dương khí dần lui nhường chỗ cho âm khí, hoạt động sinh lý của thân thể cũng cần thích ứng với sự biến hóa tự nhiên này. Dưỡng sinh trong tiết Hàn Lộ lấy cân bằng âm dương làm chủ, đúng theo nguyên tắc “xuân hạ nuôi dương, thu đông dưỡng âm”.    Vì thế, bước vào Hàn Lộ, hãy thu dương khí trong thân thể lại, nuôi dưỡng âm tinh, bảo vệ và thông phổi. Tăng cường ăn vừng, gạo nếp, gạo tẻ, mật ong, sữa, cá, tôm, thịt vịt, thịt bò,…. Hạn chế đồ ăn cay nóng như tiêu, gừng, hành, tỏi,…
Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 1) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 2) Món ăn dưỡng sinh trong 24 tiết khí (phần 3) Trần Hồng
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiết khí Hàn Lộ, thu chuyển sang đông

Những con giáp dễ tổn thương tinh thần

Do quá nhạy cảm, hay hoang tưởng về những rủi ro trong cuộc sống, nên người tuổi Tuất, Mão, Hợi... dễ mắc chứng bệnh tinh thần.
Những con giáp dễ tổn thương tinh thần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

No1: Tuổi Tuất

Người tuổi Tuất rất dễ mắc phải chứng hoang tưởng thái quá. Nỗi lo lắng những điều không may sẽ xảy tới với bản thân và người trong gia đình luôn tồn tại trong suy nghĩ của họ. Con giáp này luôn cho rằng cuộc sống tiềm ẩn nhiều cạm bẫy và mối nguy hiểm. Chúng có thể ập xuống đầu bất cứ ai và khiến họ phải điêu đứng.

Tuat-6081-1414736738.gif

Do vậy, lúc nào họ cũng phải gồng mình lên để chống chọi với nỗi ám ảnh mang tính chất hoang tưởng đó. Kết quả là tỷ lệ mắc chứng bệnh tinh thần này ở người tuổi Tuất là rất cao.

No2: Tuổi Tỵ

Hoài nghi chính là nhược điểm đồng thời là tật xấu khó chữa nhất ở người tuổi Tỵ. Họ luôn cẩn trọng, suy nghĩ kỹ lưỡng mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Họ quan sát kỹ càng và khá nhạy cảm với nhất cử nhất động của người khác, đặc biệt là phương diện tình cảm.

Ty-3913-1414736738.gif

Nếu "gấu" có biểu hiện bất thường nào đó, người tuổi Tỵ sẽ tưởng tượng đủ điều và hoài nghi không ngớt. Khi tâm lý nghi ngờ không được giải tỏa, tinh thần họ rất dễ bị kích động theo chiều hướng tiêu cực. Do đó, chứng bệnh tinh thần càng thêm nghiêm trọng.

No3: Tuổi Mùi

Người tuổi này đa sầu đa cảm, khả năng chịu đựng áp lực tâm lý kém và dễ bị kích động dẫn tới tổn thương tâm lý. Thêm nữa, họ có xu hướng suy diễn sự việc theo chiều hướng tiêu cực. Khi sự việc càng nghiêm trọng, mức độ tưởng tượng của họ càng kinh khủng.

Mui-7481-1414736738.gif

Nếu tâm lý bị tổn thương một chút, họ dường như không thể kiểm soát được cảm xúc cũng như tư duy, sự tỉnh táo của bản thân. Từ đó dẫn tới những hành động sai lầm hoặc thiếu sót.

No4: Tuổi Mão

Chỉ cần một cơn gió thổi mạnh, người tuổi Mão đã cảm thấy bất an. Những âm thanh dù nhỏ nhặt cũng khiến họ mất ngủ hoặc ngủ không sâu giấc.

Điều đó chứng tỏ sự nhạy cảm "vô đối" về phương diện tinh thần của người tuổi Mão. Họ dễ bị các yếu tố ngoại cảnh tác động và rơi vào trạng thái căng thẳng nên có nguy cơ cao về mắc các chứng bệnh về tâm lý.

No5: Tuổi Hợi

Đừng nhìn vẻ ngoài có phần thảnh thơi của người tuổi Hợi mà phán xét mức độ yêu đời của họ nhé! Thực ra, người tuổi Hợi "sướng mà không biết đường sướng", tự lấy dây buộc mình.

Hoi-8308-1414736738.gif

Cuộc sống an nhàn khiến người tuổi Hợi cảm thấy buồn chán. Thay vì làm việc gì đó, họ thích ngồi "than thân trách phận", oán trách cuộc sống bất công với mình. Lâu dần thói quen này biến thành bệnh tinh thần mãn tính của người tuổi Hợi.

Mr.Bull (theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp dễ tổn thương tinh thần

Nhận diện đặc điểm teen có số cực giàu

Chỉ cần sở hữu một trong những đặc điểm tướng cách dưới đây, chúng mình biết chắc đó là người giàu có, trong tương lai dễ kiếm được nhiều tiền.
Nhận diện đặc điểm teen có số cực giàu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Cổ tay mũm mĩm

Những teen có cổ tay mũm mĩm, vừa tròn trại lại đầy đặn thường gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, đồng thời rất vượng về tài lộc. Hơn thế, đa số họ được kế thừa di sản kếch xù của tổ tiên để lại hoặc chí ít cũng sinh ra trong gia đình giàu có, không thiếu của ăn của để. 

Nếu người này tự lập và kiên trì theo đuổi mục tiêu tới cùng, chắc chắn sau này sẽ có cuộc sống giàu sang phú quý, kiếm tiền dễ như trở bàn tay.

bantay-phunu-1564-1437808258.jpg

2. Khuỷa tay đầy đặn

Nếu duỗi tay thẳng ra phía trước, phần khuỷa tay dường như không nhìn thấy chỗ lõm, chứng tỏ đó là khủy tay đầy đặn, nhiều thịt. Chủ nhân sở hữu đặc điểm này thường có đầu óc thông minh, linh hoạt, khả năng sáng tạo không ngừng và có thể gặt hái thành công một cách dễ dàng hơn.

Tuy nhiên, nhược điểm của người này là làm việc nóng vội, khó kiểm soát cảm xúc nên dễ bị các yếu tố ngoại cảnh tác động, đôi khi sẽ làm hỏng chuyện. Nhưng nếu khắc phục được điều đó, quá trình chinh phục cuộc sống giàu sang phú quý sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều.

3. Chiếc cổ hạc

Cổ hạc ý chỉ cổ cao, dài. Teen cổ hạc thường có chí tiến thủ mạnh mẽ. So với những người bình thường, họ dễ dàng gặt hái được thành công hơn vì luôn nỗ lực hết mình, không ngại khó ngại khổ để chinh phục mục tiêu.

Ngoài ra, người này còn có tài làm quản lí, dễ trở thành lãnh đạo trong tập thể. Do đó, tương lai, tiền độ sáng lạng, cuộc sống lúc nào cũng “dễ thở”.

4. Số đo vòng ba càng bự càng tốt

Mách nhỏ với teen nhé, những người có vòng ba càng lớn thì càng thích hợp làm kinh doanh, đầu tư và thường rất thành công trong lĩnh vực này. So với người có vòng ba “khiêm tốn” chắc chắn người này có nhiều cơ hội kiếm tiền và phát tài hơn. Họ khá mát tay trong việc thu hút tiền bạc, tài lộc, do đó không bao giờ phải lo lắng về tiền bạc. 

Mr.Bull (theo MGSP)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhận diện đặc điểm teen có số cực giàu

Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất

Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất. Còn gì tuyệt vời hơn khi ngày sinh nhật nhận được những lời chúc ý nghĩa từ những người thân thương.
Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất. Còn gì tuyệt vời hơn khi ngày sinh nhật nhận được những lời chúc ý nghĩa từ những người thân thương. Nếu những người thân và bạn bè của bạn am hiểu về tiếng Anh thì tại sao bạn không lựa chọn những lời chúc sinh nhật bằng tiếng Anh để chúc mừng họ?

Vậy còn chần chừ gì nữa hãy lựa chọn cho mình một trong những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng Anh ý nghĩa sau đây và dành tặng để ngày sinh nhật của họ thêm ý nghĩa hơn. Mời các bạn cùng tham khảo

Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất

This present is not valuable itself, but it is a souvenir heroto, it brings all most my warm sentiment. happy birthday to you.
Tặng phẩm này riêng nó chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng mà kỉ niệm ở đây là anh gởi cho em tất cả những tình cảm tha thiết nhất. Sinh nhật vui vẻ.

——–

Wishing you a happy birthday. Praying you luckily.
Chúc em một sinh nhật thật nhiều ý nghĩa và hạnh phúc. Cầu mong mọi điều may mắn sẽ đến với em.

———

Wishing you a happy birthday. Praying you luckily.
Chúc em một sinh nhật thật nhiều ý nghĩa và hạnh phúc. Cầu mong mọi điều may mắn sẽ đến với em.

Wishing you birthday far from house byt still happy. Try to see to future.

Chúc em một sinh nhật xa nhà nhưng vẫn hạnh phúc. hãy cố gắng hướng tới tương lai.

Wishing you birthday far from house byt still happy. Try to see to future.

Chúc em một sinh nhật xa nhà nhưng vẫn hạnh phúc. hãy cố gắng hướng tới tương lai.

Darling ! on occasion of you birthday, wishing you success more. Hoping that you will love me forever same as the first time and you are always besides me.

Anh yêu ! Sinh nhật anh em chúc anh gặt hái nhiều thành công. Mong anh mãi yêu em như ngày đầu và luôn ở bên em.

Let my deep blessing always. Surround magnificent travel of your life. I hope in years to come you will hane a good health and plain sailing.
Happy birthday.

Hãy để những lời chúc sâu lắng của tôi luôn ở bên cạnh cuộc sông tuyệt vời của bạn. tôi hy vọng trong năm tới bạn luôn khỏe mạnh và thuận buồm xuôi gío trong công việc. Sinh nhật vui vẻ.

I want to wish you love and happiness on your birthday.

Tôi chúc bạn tình yêu và hạnh phúc nhân dịp sinh nhật của bạn.

Honey ! On occasion of your 25th birthday, wishing you success more. Hoping that you will love me forever same as the first time and you are always beside me at the end of life

Anh yêu ! Nhân dịp sinh nhật lần thứ 25 của anh em chúc anh gặt hái được nhiều thành công hơn nữa. Mong anh mãi yêu em như ngày đầu và luôn ở bên em cho đến khi lìa khỏi cõi đời

I wish you are always young, beautiful, lucky, and have a lot of success in your life. Happy birthday to you

Anh mong em luôn tươi trẻ, xinh đẹp, may mắn và gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống. Chúc mừng sinh nhật em

Just want to tell you that you’re special, and to wish you all the joys of a wonderful birthday!

Mình rất muốn nói với bạn rằng bạn là một người rất đặc biệt, và chúc bạn tất cả những gì tuyệt vời nhất trong ngày sinh nhật.

I spend all my heart for this gift, I hope it will bring all most my warm sentiment to you. Happy birthday to you.

Anh giành cả tấm lòng của mình cho món quà này, anh hy vọng nó sẽ mang đến cho em tất cả những tình cảm tha thiết nhất của anh. Sinh nhật vui vẻ.

Wishing you a happy birthday. Praying you luckily.

Chúc em một sinh nhật thật nhiều ý nghĩa và hạnh phúc. Cầu mong mọi điều may mắn sẽ đến với em.

Wishing you birthday far from house but still happy. Try to always smile no matter what happen

Chúc em một sinh nhật xa nhà nhưng vẫn hạnh phúc. Cố gắng luôn nở nụ cười cho dù có chuyện gì xảy ra.

Congratulation your birthday, we wish you young and nice and happiness forever. You are teacher that we love and respect.

Mừng sinh nhật cô chúng em chúc cô luôn luôn tươi trẻ mạnh khỏe và hạnh phúc. Cô sẽ là người mà bọn em sẽ luôn yêu quý và tôn trọng.

Momy ! On occasion of your birthday, wishing you a good health and lucky, the most happiness will come to mum in your life. We always love you so much

Mẹ yêu ! Sinh nhật của mẹ con chúc mẹ mạnh khỏe và những may mắn, hạnh phúc nhất sẽ đến với mẹ trong cuộc đời. Chúng con mãi yêu mẹ rất nhiều.

I want to wish you nice love and happiness on your birthday.

Tôi chúc bạn có một tình yêu đẹp và hạnh phúc nhân dịp sinh nhật của bạn.

Let my deep wishes always surround your magnificent life. I hope you will have a good health and plain sailing in working and love next year. Happy birthday.

Hãy để những lời chúc sâu lắng của tôi luôn ở bên cạnh cuộc sông tuyệt vời của bạn. Tôi hy vọng trong năm tới bạn luôn khỏe mạnh và thuận buồm xuôi gió trong công việc và tình yêu. Sinh nhật vui vẻ.

It’s a warm feeling when you know that someone likes you, someone thinks about you, someone needs you; but it feels much better when you know that someone never ever forgets your birthday. Happy birthday.

Bạn sẽ cảm thấy rất ấm áp khi biết rằng có ai đó thích bạn, ai đó nghĩ đến bạn, ai đó cần bạn; nhưng bạn sẽ còn cảm thấy ấm áp hơn khi biết rằng có ai đó chưa từng bao giờ quên ngày sinh nhật của bạn. Chúc mừng sinh nhật!

A smile is a curve that sets everything straight and wipes wrinkle away. Hope you share a lots and receive a lots. Happy Birthday …

Nụ cười là một đường cong mà có thể làm cho mọi thứ đều trở nên thẳng tắp, và xóa đi những vết nhăn. Hy vọng rằng bạn sẽ chia sẻ thật nhiều và nhận được nhiều. Chúc mừng sinh nhật…

Every candle on your cake is another year I’ve been lucky to know a person like you, girl. Happy Birthday to a wonderful friend.

Mỗi một ngọn nến trên chiếc bánh của bạn là một năm tôi được may mắn khi biết người như cô bạn! Chúc mừng sinh nhật một người bạn tuyệt vời.

Friend is someone who reaches for your hand and touches your heart. Hope your special day is bright and beautiful, just like you!

Người bạn là một người nắm tay bạn và chạm đến trái tim của bạn. Hy vọng rằng ngày đặc biệt của bạn sẽ tươi sáng và rạng rỡ, như chính bạn vậy.

Hy vọng những lời chúc trên sẽ hài lòng các bạn, và dĩ nhiên người được nhận những lời chúc này sẽ cảm thấy rất vui.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng anh hay nhất

Nắm vững 8 quy tắc phong thủy phòng bếp bảo vệ bà bầu

Đừng quên lưu ý phong thủy nhà ở vì nó có ảnh hưởng rất nhiều tới thai nhi. Đặc biệt là phong thủy phòng bếp thì càng phải thận trọng, tránh mắc lỗi lầm.
Nắm vững 8 quy tắc phong thủy phòng bếp bảo vệ bà bầu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Là cha mẹ, ai cũng mong muốn con cái sinh ra khỏe mạnh, xinh đẹp nên trong quá trình mang thai sẽ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Ngoài việc cẩn trọng, các bậc phụ huynh đừng quên lưu ý phong thủy nhà ở vì nó có ảnh hưởng rất nhiều tới thai nhi. Đặc biệt là phong thủy phòng bếp thì càng phải thận trọng, tránh mắc những lỗi lầm không đáng có.   Phong thủy phòng bếp tốt có lợi cho sức khỏe và tài vận của gia đình, nhà có phụ nữ mang thai thì càng nên chú trọng tới phương diện này để mẹ khỏe con khỏe, đứa trẻ ra đời thuận lợi.

Nam vung 8 quy tac phong thuy phong bep bao ve ba bau hinh anh 2
 

1. Cửa phòng bếp không đối diện cửa lớn

  Phong thủy truyền thống nhấn mạnh rằng: mở cửa thấy bếp, người tài tiêu hao, tức là mở cửa ra mà thấy nhà bếp thì sức khỏe và tài lộc đều không tốt. Cách cục này không chỉ khiến tiền tài khó tụ mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe của phụ nữ trong nhà, đối với phụ nữ mang thai sẽ càng có nhiều bất lợi hơn. Nếu nhà phạm lỗi phong thủy này thì ngoại trừ cửa chính, ở cửa phòng bếp nên treo xâu tiền Ngũ Đế, Lục Đế, treo mành rèm che để cản bớt sát khí, hóa giải hung hiểm.  

2. Cửa phòng bếp không đối diện cửa phòng ngủ

  Cửa bếp đối diện cửa phòng ngủ dễ dẫn tới tình trạng bà bầu bị hoa mắt váng đầu, tính khí nóng nảy, gián tiếp ảnh hưởng tới sự khỏe mạnh của thai nhi.
Xem thêm bài viết Những lưu ý phong thủy nhà ở tốt cho bà bầu
 

3. Sàn nhà bếp cao hơn sàn phòng khách

  Theo phong thủy phòng bếp, sàn bếp chỉ nên cao bằng hoặc thấp hơn sàn phòng khách. Điều này không chỉ phòng ngừa nước bẩn chảy ngược vào phòng khách, gây ảnh hưởng xấu tới phong thủy phòng khách – vị trí quan trọng nhất trong ngôi nhà mà còn thể hiện sự phân bậc chủ thứ, khách là chủ bếp là thứ.    Khi bước từ bếp vào phòng khách ứng với bước lên bậc cao hơn, tượng trưng cho đời sau phát triển, tiến bộ hơn đời trước, cũng có ngụ ý tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn hiện tại, có lợi cho thai nhi.  

4. Ban công không đối diện bếp


Nam vung 8 quy tac phong thuy phong bep bao ve ba bau hinh anh 2
 
Ban công và bếp đều thuộc ngũ hành Hỏa, Hỏa vượng gây bất ổn với thai nhi nên tuyệt đối tránh trường hợp bếp nấu đối diện với ban công.  

5. Kệ bếp không đối diện tủ lạnh, vòi nước

  Tủ lạnh, vòi nước thuộc ngũ hành Thủy, tương khắc với bếp thuộc ngũ hành Hỏa, dễ sản sinh ra tình huống bất lợi đối với sức khỏe, đặc biệt là bà bầu – đối tượng nhạy cảm cần được bảo vệ.
Xem thêm bài viết Phòng bếp phạm những lỗi này, bảo sao tiền đâu chẳng thấy
 

6. Kệ bếp không có xà ngang áp đỉnh

  Nhà có xà ngang áp đỉnh là tối kị trong phong thủy, đặc biệt bếp bị xà ngang áp đỉnh sẽ tạo thành chướng ngại cho phụ nữ mang thai, gây nhiều bệnh tật. Trường hợp này tương hình tương hại, nếu không may phạm lỗi này thì nên che bớt xà ngang bằng trần giả hoặc treo vật phẩm phong thủy hóa giải sát khí để hạn chế rủi ro.  

7. Kệ bếp không thể không có chỗ tựa

  Kệ bếp nên có chỗ dựa đằng sau, ví dụ như kê dựa vào tường hoặc một chiếc tủ lớn, bức vách ngăn vững chắc để đảm bảo con cháu hạnh phúc, ấm no, có lợi cho thai nhi.
Xem thêm bài viết 7 loại phòng bếp phạm đại kị phong thủy, không hung thì họa

8. Nhà bếp không đối diện với nhà vệ sinh


Nam vung 8 quy tac phong thuy phong bep bao ve ba bau hinh anh 2
 
Theo phong thủy phòng bếp, bếp là nơi nấu nướng, thậm chí là ăn uống của cả gia đình nên nhất định phải tránh đối diện với nhà vệ sinh – nơi có nhiều xú khí, uế khí. Cửa bếp và cửa nhà vệ sinh đối diện nhau dễ tạo thành năng lượng hỗn tạp, đối với sức khỏe của bà bầu và trí tuệ của thai nhi đều rất bất lợi.   Nếu không may nhà phạm lỗi phong thủy này thì rất khó thay đổi, hãy sử dụng rèm che ở cửa nhà vệ sinh để hóa giải, hạn chế khí xấu xâm nhập vào nhà bếp. Đồng thời bày thực vật xanh ở cửa nhà vệ sinh để thanh lọc không khí, cản xú khí, ngăn ngừa khí xấu làm tổn hại tới người trong nhà, nhất là phụ nữ mang thai.
Lời cổ nhân: Muốn con tài đức, mẹ phải lấy thân làm mẫu 5 kiểu người cần tránh giao tiếp khi bạn đang bầu bí Hướng giường ngủ cho mẹ bầu khỏe mạnh

Trần Hồng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nắm vững 8 quy tắc phong thủy phòng bếp bảo vệ bà bầu

Nhà phạm Tuyệt mệnh hóa giải thế nào ?

Bạn đọc Nguyễn Thành Phán chia sẻ, anh sinh năm 1974, vợ sinh năm 1978. Gia đình anh vừa mua căn nhà hướng Đông Nam. Nhiều người tính toán rồi kết luận nhà hướng Tuyệt mệnh khiến vợ chồng anh Phán lo lắng.
Nhà phạm Tuyệt mệnh hóa giải thế nào ?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo chuyên gia phong thủy, chủ nhà, tức người chồng, sinh năm 1974, tuổi Giáp Dần, phi cung Cấn, phối với hướng nhà Đông Nam sẽ được hướng tuyệt mệnh. Tuy nhiên, gia đình đừng nên lo lắng và suy nghĩ cực đoan rằng, tuyệt mệnh là rất xấu. Bởi nếu trong nhà có nhiều điểm tốt thì hướng nhà xấu cũng sẽ bị lấn át. Các yếu tố có thể dựa vào đó để hóa giải như hướng bếp, cầu thang, cửa ra vào, giường ngủ...

Cụ thể, trong trường hợp này, để hóa giải hướng nhà tuyệt mệnh cần chú ý đến bếp, bàn thờ, giường ngủ nên quay về hướng Thiên Y, tức là hướng Tây Bắc. Điều này sẽ góp phần hóa giải tính xấu do hướng nhà gây ra. Bên cạnh đó, việc thiết kế hệ thống cửa chú ý sao cho có sự thông thoáng. Nên bố trí cầu thang lấy được hướng tốt so với bản mệnh của chủ nhà, góp phần tăng cường các dòng năng lượng tốt lành các không gian khác trong nhà.

(Theo Phongthuytrungquoc)

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhà phạm Tuyệt mệnh hóa giải thế nào ?

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Doanh nhân tuổi Thân là những người sinh năm 1944, 1956, 1968, 1980, 1992... Họ thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát. Bất cứ lĩnh vực nào họ tham gia cũng đều đạt kết quả lớn, họ ít khi gặp kỳ phùng địch thủ.
Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những người tuổi Thân thường thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát và hoạt bát. Bất cứ lĩnh vực nào họ tham gia cũng đều đạt được thành công lớn, họ ít khi gặp kỳ phùng địch thủ. Do đó, trên thương trường, mọi người đều đánh giá cao các doanh nhân tuổi Thân. Chúng ta cùng tìm hiểu bí quyết thành công của họ là gì nhé?

1./Nhận diện doanh nhân tuổi Thân

Doanh nhân tuổi Thân là những người sinh năm 1944, 1956, 1968, 1980, 1992... Họ thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát, hoạt bát. Bất cứ lĩnh vực nào họ tham gia cũng đều đạt kết quả lớn, họ ít khi gặp kỳ phùng địch thủ.

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Họ cũng là người có tính kiên định dù phải đối mặt với tình thế khó khăn, nguy hiểm, nhưng không hề dao động mà tiến hành sự việc đến cùng. Họ ưa tranh đấu, nhưng lại rất bí mật kế hoạch hành động của bản thân, khiến đối phương dễ bị bất ngờ. Họ là những người đa tài, đa nghệ và hoạt động xã hội xuất sắc. Khi tiến hành công việc, họ luôn có phương pháp tiến hành hợp lý mà hiệu quả cao. Họ là những người sòng phẳng trong cuộc sống.

Do bản tính thông minh tài giỏi, nên người Thân cũng có lúc chủ quan, nên cuộc sống và tình yêu cũng phải gặp thất bại, vận hạn lớn.

Trong số 12 con giáp, họ hợp với người tuổi Tý, Thìn; không hợp với người Tỵ.

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Lá số tử vi 2016 cho rằng, người Thân cá tính có khinh suất nhưng có tài, tiền của từ bốn phía quy tụ lại; thường dễ xuất ngoại, làm việc liên miên.

Nếu là nữ thì cả đời sung túc, giúp chồng.

Nam giới suốt đời lao lực, quá 50 tuổi mới giàu có.

2./Doanh nghiệp sinh tuổi Thân (Doanh nghiệp được thành lập vào năm Thân)

Công ty ôtô General: Thành lập năm 1908 - Mậu Thân, là một công ty chế tạo ôtô lớn nhất thế giới. Năm 1991 có số vốn 180 tỷ 300 triệu USD, lợi nhuận thu được trên 1 tỷ USD. Năm 2005, doanh số bán ra 3 tỷ USD, lợi nhuận 1 tỷ 200 triệu USD.

Công ty Hitachi: Thành lập năm 1932 - Nhâm Thân, là công ty sản xuất động cơ tổng hợp lớn nhất nước Nhật. Năm 1991, có số vốn 61 tỷ 724 triệu USD, doanh số bán ra 56 tỷ 12 triệu USD; lãi ròng thu danh dự là 1 tỷ 665 triệu USD. Năm 2005, lãi ròng thu danh dự là 1 tỷ 800 triệu USD.

Công ty điện báo điện thoại quốc tế: Thành lập năm 1920 - Canh Thân, là công ty liên hợp tổng hợp lớn nhất nước Mỹ hiện nay. Năm 1991 có số vốn 49 tỷ 40 triệu USD. Năm 2005, số vốn tới 62 tỷ USD. Mặt hàng sản xuất chính là thiết bị vô tuyến và cung ứng phục vụ tín hiệu vô tuyến, các sản phẩm điện tử thông tin, sản phẩm công trình, hàng tiêu dùng và đồ dùng bảo hiểm...

3./ Bí quyết thành công của doanh nhân tuổi Thân.

a) Nhất biến vạn hoá.

Doanh nhân Hoàng Tuấn (Giáp Thân - 1944) khi 18 tuổi từ Trung Quốc lục địa sang Hong Kong với hai bàn tay trắng nay thành tỷ phú.

Năm 1974, anh bước vào kinh doanh hải sản tươi, kiêm quay nướng cá, thịt sấy khô. Học được kỹ xảo làm viên thịt nướng khô, anh biến hoá thành viên cá mực đặc biệt được khách hàng rất ưa chuộng.

Năm 1975, cửa hàng của anh mang hiệu " Đại vương cá mực", sau đó phát triển nhiều cửa hàng khắp Hong Kong, lợi nhuận thu về rất cao.

Năm 1984, phán đoán nhịp độ kinh doanh và nhịp sống ở Hong Kong sẽ rất cao, anh đưa ra ý tưởng kinh doanh cơm ăn nhanh, thế là kiểu cơm hộp - ăn kiểu Tây, thức ăn Trung Quốc ra đời. Với kiểu ăn tuỳ ý gọn nhẹ bất kỳ nơi nào, nên bán ra rất chạy, lợi nhuận rất cao.

Chưa dừng ở đây, anh còn sáng chế ra "Cơm rang Trung Hoa", đem kinh doanh thu lợi rất lớn.

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

b) Đi trước người một bước.

Doanh nhân Devis Thomas (Nhâm Thân – 1932), có tính cách tranh cường, chỉ sau 11 năm, từ một cửa hàng ăn, ông phát triển thành 200 khách sạn, doanh thu trên tỷ USD, bí quyết thành công là "nhanh tay đi trước".

Vào thập kỷ 60 thế kỷ 20, ông học được kỹ thuật gà quay, đem ra kinh doanh khắp mọi cửa hàng ăn của mình. Lại đem món ăn này quảng cáo rầm rộ, kết quả từ 4 cửa hàng phát triển thành 8 cửa hiệu.

Năm 1986, ông đem bản quyền sáng chế gà quay bán cho công ty mẹ, bản thân đi vào kinh doanh khách sạn. Lúc này Davis Thomas thành tỷ phú 35 tuổi .

c) Ôm ấp chí lớn.

Doanh nhân Erkelstun (Bính Thân – 1956) ở Bruney ở thập kỷ 50 thế kỷ 20 chỉ là người tiêu thụ môtô xe đạp, sau khi phát tài, ông có chí thành lập đội đua ôtô công thức I.

Năm 1971, ông chen chân vào Hội chế tạo ôtô công thức I. Phát hiện thấy quảng đại quần chúng xem truyền hình cuộc đua ôtô này, ông đã giành quyền quảng cáo trên truyền hình đua ôtô công thức I, nên thu nhập hàng năm hàng tỷ USD.

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

d) Đối ngoại có tính thuyết phục.

Tổng giám đốc công ty dược Muke (Bính Thân – 1956) có sức thuyết phục cao về tiêu thụ sản phẩm, bằng cách cho nhân viên bán hàng khi gặp bác sĩ bao giờ cũng mang theo máy tính cá nhân có chương trình giới thiệu các loại y dược chữa bệnh hiệu quả.

Năm 1988, công ty đã cung cấp miễn phí cho dân nghèo vùng châu Phi, Trung Đông, Nam Mỹ để giảm bớt chứng mù thuốc và qua đó quảng cáo thương hiệu của mình. Sau việc này, sản phẩm của công ty tiêu thụ nhiều và nhanh trên thị trường thế giới.

e) Chú trọng sáng chế phát minh.

Bà Lansing (Giáp Thân - 1944), năm 1980 được bổ nhiệm làm tổng giám đốc hãng sản xuất phim lớn Fors, do năm 1979, bà đã thành công cho ra đời những bộ phim nhiều tập ăn khách. Bằng sáng tạo trong kịch trường, bà đã tổ chức cho ra đời bộ phim "Sự tranh chấp của vợ chồng Claymuk", phim giành 5 giải thưởng Osca.

Tổng giám đốc công ty dược Muke, như đã đề cập bên trên, cũng rất chú ý đến phát minh sáng chế. Hàng năm đã đầu tư tới 460 triệu USD cho nghiên cứu khoa học. Năm 1998, con số này đã lên tới 755 triệu USD. Với việc làm này, công ty đã sản xuất ra nhiều biệt dược mới, mỗi loại khi tiêu thụ đạt doanh số hơn 100 triệu USD. Có người nói, công ty ông là "Vườn truờng đại học trong thiên đường".

4./ Chọn đối tác kinh doanh của doanh nhân tuổi Thân.

Tử vi 2016 của doanh nhân tuổi Thân khuyên họ nên chọn các đối tác kinh doanh, làm ăn sang năm mới như sau:

Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Doanh nhân Giáp Thân:

Nam giới nên chọn Giáp Thân, Bính Tuất, Đinh Sửu;

Nữ giới nên chọn Giáp Thân, Mậu Tý, Canh Dần.

Doanh nhân Bính Thân:

Nam giới và nữ giới đều nên chọn Đinh Dậu, Canh Tý, Quý Mão.

Doanh nhân Mậu Thân:

Nam giới nên chọn Kỷ Dậu, Quý Sửu, ất Mão;

Nữ giới nên chọn Kỷ Dậu, Quý Sửu, Đinh Mão, Đinh Mùi, Ất Mão.

Doanh nhân Canh Thân:

Nam giới nên chọn Nhâm Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Dậu;

Nữ giới nên chọn Nhâm Tuất, Ất Sửu, Mậu Thìn.

Doanh nhân Nhâm Thân:

Nam giới và nữ giới đều nên chọn Nhâm Thân, Giáp Tuất, Mậu Dần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các doanh nhân tuổi Thân thành đạt và bí quyết của họ.

Cách hóa giải cửa chính không thuận –

Ngoài phương vị cửa chính, thế cửa trong phong thủy học cũng là một trong những yếu tố hàng đầu liên quan tới việc lành dữ của ngôi nhà. Nhưng trên thực tế, không phải ngôi nhà nào cũng có được thế cửa đẹp. Vậy làm thế nào để tránh được những thế cửa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

xấu, và hóa giải chúng?

1. Hóa giải thế cửa chính bị góc nhọn chiếu thẳng vào

Thế cửa mà gia chủ nên tránh đầu tiên là thế cửa chính có góc nhọn chiếu thẳng vào (thường là góc nhà hay ngõ nhà hàng xóm).

05_051211DOOLThangPT01

Gia chủ chọn một trong ba cách sau để hóa giải:

+ Treo tấm biển đầu thú trước cửa chính: gia chủ treo tấm biển thú lên dọc cửa chính, hướng thẳng vào góc nhọn phía trước. Làm như vậy sẽ hóa giải được các tà khí chiếu vào cửa chính từ góc nhọn.

+ Treo gương lõm (hay còn gọi là gương lòng chảo): Cấu tạo loại gương này có thể phản chiếu được các hình ảnh phía trước, vì thế nó là một công cụ rất tốt để hóa giải góc nhọn chiếu thẳng cửa chính. Gia chủ chỉ cần treo gương lên như treo tấm biển đầu thú.

+ Xây tường chắn: xây tường chắn ở ngoài hoặc trong ngôi nhà, nó sẽ giúp chắn được những tà khí không tốt xông thẳng vào cửa.

2. Hóa giải thế đường cái đâm thẳng vào cửa chính

Đường cái đâm thẳng vào cửa chính cũng là một thế cửa không tốt với ngôi nhà: gia chủ hóa giải bằng cách đặt bia đá khắc dòng chữ Hán: “Thái Sơn Thạch Cảm Đường” hoặc treo tấm ván gỗ khắc dòng chữ: “Sơn Hải Chấn”.

05_051211DOOLThangPT02

Việc chọn thế cửa xây nhà, gia chủ tuyệt đối kiêng kỵ để cửa chính nằm đối diện với đường dốc: theo phong thủy học, thì đường xá là dòng sông (nước), tuy rằng thủy là tài, nhưng nếu nước vào ào ào thì “tài” ắt biến thành “tai”.

05_051211DOOLThangPT03

Gia chủ hóa giải bằng cách xây thêm bậc thềm phía trước cửa, nhằm hạn chế thế nước chảy vào cửa. Vô hình các bậc thềm này đã làm giảm thế nước, vì thế mà không thể gây hại được (chú ý số bậc thềm là số lẻ). Ngoài ra, gia chủ cũng có thể hóa giải bằng việc chôn một tảng đá trước cửa nhà, tảng đá giúp cản dòng chảy của thủy – không ào ào chảy vào nhà, tảng đá giúp chấn được những điều không may cho ngôi nhà.

3. Hóa giải đường cánh cung ngược trước cửa chính

Trước cửa nhà là một đoạn đường cong hình cánh cung ngược là một thế cửa xấu, nên tránh bởi, phong thủy cho đây là thế “lưỡi liềm cắt sườn” vô cùng không tốt cho ngôi nhà. Trong nhà ắt có chuyện dâm loạn, có người thương tật, nhà thường xảy ra hỏa loạn hoặc mắc bệnh thần kinh. (theo “Dương Trạch Thập Thư” giải thích).

05_051211DOOLThangPT04

Xin đưa ra ba cách hóa giải như sau:

+ Chôn bia “Thái sơn thạch cảm đường” trước cửa.

+ Treo tấm gỗ “Sơn Hải Chấn”

+ Treo gương lõm.

4. Hóa giải thế cửa chính hai nhà đối nhau

Ngày nay thành phố đất chật người đông, việc hai nhà có cửa đối diện nhau là điều khó tránh, nhưng đây lại là một thế cửa không tốt trong phong thủy học. “Kinh lỗ ban” ghi rằng: “Hai cửa không nên đối diện nhau, vì như thế sẽ có một chủ bị suy. Hai cửa không nên đối diện nhau vì như thế sẽ có một nhà bị dữ” Đó cũng là điều nhiều gia đình quan tâm nếu phạm phải điều cấm kỵ này.

Nhiều người chọn cách treo gương: tam xoa, bát quái, bạch hổ để hóa giải. Tuy nhiên làm như thế sẽ gây hoang mang cho chủ nhà đối diện, 2 bên cùng tìm cách hóa giải, không ai chịu kém ai, gây nên bất hòa. Tuy nhiên hai cửa đối diện nhau không quá nghiêm trọng và khó hóa giải như vậy. Do đó, gia chủ không nên quá lo lắng nếu chẳng may ngôi nhà bị rơi vào thế cửa xấu này.

Nếu muốn xóa bỏ được sự uy hiếp về tâm lý “Hai cửa đối diện nhau, lại vừa không để hàng xóm có cửa đối diện mình bị mặc cảm. Cách làm tốt nhất là trên dạ cửa có treo bốn chữ: “Thiên quan tứ phúc” (Ông trời ban phúc bốn phương). Có thể bàn với nhà hàng xóm cùng treo bốn chữ này lên cửa chính thì đó là điều vô cùng lý tưởng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải cửa chính không thuận –

LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Bốn thế sao (Thái tuế - Quan phù - Bạch hổ), (Thiếu dương - Tử phù - Phúc đức), (Tuế phá - Điếu khách - Tang môn), (Thiếu âm - Long đức - Trực phù), tư cách của từng nhóm sao và hình mẫu con người hiện ra từ tính cách, vai trò, sứ mệnh của họ
LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

    Vào những năm 60 của thế kỷ trước, tại khu vực miền Nam, một nhà đẩu số đã nghiên cứu ra một học thuyết của mình. Vâng ! tên tuổi mà tôi muốn nhắc tới ở đây là cụ Thiên Lương.

    Bản thân cụ Thiên Lương, hay các học trò trong môn phái của cụ luôn lấy nghiệm lý làm khuôn vàng thước ngọc, hệ quy chiếu trung thực để rút ra lý luận. Công lao của cụ đó là phát hiện ra vòng Thái tuế và tư cách của bốn nhóm người trong xã hội. Trước tác nổi tiếng của cụ là cuốn Tử vi nghiệm lý mệnh học, và cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư (Tuy nhiên cuốn Tử vi nghiệm lý toàn thư còn dang dơ thì cụ qua đời)

   Một lá số có mười hai cung, ứng với mười hai địa chi trong một giáp. Tuổi của một người nằm trong trong mười hai con giáp đó. Nếu như cung mệnh lập đúng địa chi năm sinh, nằm trong tam hợp Thái tuế, ắt là người có tư cách, phẩm hạnh của bậc chính nhân, quân tử.

   Thái tuế. Theo các nhà khoa học nghiên cứu Thái tuế là một hành tinh trong bát đại hành tinh của Thái dương hệ, tức là mộc tinh, chi phối một năm. Các nhà Thiên văn, Chiêm tinh, Đẩu số đã phát hiện ra hành tinh này từ thời cuối nhà Tần, đầu nhà Hán. Trong các công văn, biểu chế từ thời nhà Hán, thường mở đầu bằng câu “ Thái tuế đóng… Ngày… tháng…”. Ví dụ như biểu văn phong Nguyên soái cho tướng Hàn Tín của Hán Vương Lưu Bang. Từ đó trở đi, người ta động thổ, khởi công, hay mưu cầu những việc đại sự đều tránh năm tuổi của mình. Có câu “Động thổ trên đầu Thái tuế” chỉ sự thiếu hiểu biết, làm ẩu, và đương nhiên hậu quả của nó là không tốt. Bởi vì sức mạnh chi phối của Thái tuế rất lớn.

Thiệu Vĩ Hoa trong cuốn Dự đoán theo tứ trụ khẳng định Thái tuế là thần cai quản một năm, là ông vua, luận về tứ trụ và vận hạn, nếu Nhật nguyên hợp với Thái tuế về thiên can, địa chi, là gần gũi với bậc tôn quý, ứng nghiệm trong thực tế, sẽ gặp nhiều may mắn, đắc lộc và phát phúc. Ngược lại, Nhật nguyên xung đột với Thái tuế, nhất là trường hợp phạm thiên khắc địa xung, thì bản thân không chết, cũng có người thân qua đời, ý nói hung họa rất nhiều. Ví dụ nhật chủ Mậu Ngọ, Thái tuế Nhâm Tý (Tức là đến năm Nhâm Tý), can Mậu hành Thổ của Nhật nguyên khắc can Nhâm hành Thủy của Thái tuế, chi Tý và chi Ngọ xung nhau, thường xảy ra tai họa lớn. nếu Đại vận mà bí bét tất hạn nguy hiểm tính mạng chẳng chơi.

    Trở lại với ngôi Thái tuế trong Tử vi. Theo sách Tử vi Chân thuyên của Kiều Nguyên Tùng thì Thái tuế đóng ở cung mệnh thường có tư cách lớn, làm vua (hiện nay là nguyên thủ, hoặc cán bộ hành chính quản lý một khu vực), làm ông chủ, và làm thầy. Như vậy, nhân phẩm của người có Thái tuế được khẳng định rõ ràng. Dường như nó là định mệnh cho những người có may mắn gặp được nó, trên thế mệnh – thân

   Luận về Thái tuế, cụ Thiên Lương khám phá ra rằng, người có Mệnh – Thân nằm trong tam hợp Thái tuế là người sẽ dễ đạt được ước vọng của mình, còn lại những vòng sao khác vị trí khác thì hình thái về nhân phẩm và cuộc đời sẽ có biểu hiện khác đi, hoặc là bất mãn, không được như ý muốn, nếu có đạt được thì cũng là cả một quá trình phấn đấu gian lao, thắng bại, thành công còn phụ thuộc vào vận nữa. Người có Thái tuế Mệnh – Thân nếu không phú quý, đắc ý trong đường đời (phụ thuộc vào chính diệu và sự phối hợp giữa các tinh đẩu), thì cũng là người có nhân cách lớn, không ươn hèn, hay là kẻ bất chính.

    Bốn mẫu người mà cụ Thiên Lương tìm ra ở đây chính là : Một, tư tưởng, hành động, nhân phẩm chính phái. (Mệnh thân tam hợp Thái tuế  -  quan phù – bạch hổ). Hai, Cuộc đời nhiều nghịch cảnh, ở vào thế bất mãn, luôn luôn đấu tranh, quật ngược lại định mệnh (Mệnh – Thân nằm trong tam hợp Tuế phá – Điếu khách – Tang môn). Ba, nhóm người sinh ra trước chu kỳ vận động của Mộc tinh, khôn ngoan biết nhiều, được hưởng nhiều đặc ân, nhưng luôn phải trọng thần quyền, trọng đạo đức, nếu vi phạm nguyên tắc này, thì thành quả hóa hư không, kết cục của sự thảm bại. (Mệnh – Thân lập tại tam hợp Thiếu dương – Tử phù – Phúc đức) Bốn, nhóm người bị thua thiệt, thường lấy sự trung hậu, và tu dưỡng làm nòng cốt chủ đạo (Mệnh – Thân lập tại tam hợp Thiếu âm – Long đức – Trực phù).

   Mệnh cung thể hiện tư tưởng, nhân phẩm, tính cách, cung Thân chính là hành động của người đó với cuộc đời, với xã hội nhân sinh. Người có Mệnh - Thân ở tam hợp Thái tuế - Quan phù – Bạch hổ có những đặc điểm

   Thái tuế : Lòng đầy tự hào, coi mình có sứ mệnh làm việc chính đáng, luôn có nhân sinh quan tiến thủ không ngừng, khát vọng muốn cống hiến, đóng góp cho quần chúng nhân dân, và cao cả vĩ đại hơn là đóng góp cho nhân loại. Như cụ Nguyễn Công Trứ từng viết: Phải có danh gì với núi sông. Hay như tể tướng nhà Tống, Văn Thiên Tường : Nhân sinh tự cổ thùy vô tử/ Lưu thủ tâm đan hãn chiếu thanh. (Từ xưa đến nay có ai mà không chết? Để lại một tấm lòng son với sử xanh). Ví dụ sinh năm 1992 tuổi Nhâm Thân, mà mệnh thân lập tại tam hợp Thân – Tý – Thìn gặp chính diệu và phụ tinh đúng cách thì sẽ thành công lớn, hay ít ra nếu không thành công cũng là người có nhân phẩm, tư cách, phẩm hạnh cao thượng

Thái tuế hành mộc, nhiều sách ghi là hành Hỏa, luôn luôn tam hợp với Quan phù, Bạch hổ. Ở mệnh là người thông minh hay lý luận, hội hợp nhiều văn tinh thì có tài hùng biện, giỏi về chính trị, tư pháp

    Quan phù : Hành động chính đáng, với suy tính kỹ càng, thận trọng. Nếu như Thái tuế khởi xướng nên tư tưởng, học thuyết, lý tưởng…thì Quan phù là sự thận trọng, suy tính kỹ lưỡng, là hạng quan văn, tham mưu phục vụ cho lý tưởng, cho quân vương. Sự suy tính của Quan phù dẫn đến sự khôn khéo, thận trọng trong lời nói, hành vi, không mạnh mẽ quyết liệt, mà có phần nhẹ nhàng hơn, thường ra tay khi cảm thấy chắc ăn

    Quan phù: Tính nết hay giúp đỡ can thiệp phò tá. Tượng trưng cho công lý, hay lý luận, giỏi phê bình, chỉ trích, nhưng thích giúp đỡ người khác. Tâm lý cạnh tranh, cảm thấy buồn bực khi thua kém, nó là sao thúc đẩy học hành, cũng là động cơ phấn đấu, rèn rũa bản thân không ngừng

     Bạch hổ: Gắng công làm việc chính đáng bằng bất kể giá nào. Là sao chủ về võ, về hành động, về thực tiễn và rất quyết liệt. Tác phong “bạo hổ băng hà” (Hổ dữ qua sông, gầm thét vang dội). Khi nhận thức vấn đề đúng, sai, phải, trái (Thái tuế), suy tính kỹ càng (Quan phù), thì Bạch hổ là sự quyết tâm, quả đoán, cương nghị dũng mãnh khi thực hiện, vì thế nên đôi khi dễ bị hiểu lầm, hiểu sai.

    Thường khi thủ mệnh, Bạch hổ là người có tính cương quyết, võ lược văn thao, biện luận ngăn gọn, súc tích, nhưng hiệu quả và chính xác. Phú văn có câu : Nam nhân Tang, Hổ thì tài/ Nữ nhân Tang, Hổ thì đi hai lần đò.

    Thế tam hợp Thái tuế - Quan phù – Bạch hổ, luôn hội hợp với bộ Tứ linh Long trì, Phượng các, Hoa cái, Bạch hổ, được xem như chiếc cẩm bào dát vàng, nạm ngọc về tư cách nhân phẩm, lời nói và hành vi. Hội hợp thêm Khoa, Quyền, Lộc thì càng rực rỡ.

    Phú văn có câu : Ai bảo trong mệnh người quân tử không có sát tinh, mà mệnh kẻ tiểu nhân không có Khoa, Quyền, Lộc. Nhìn vào hệ thống chính tinh miếu, vượng, đắc địa, chưa thể kết luận vội vàng rằng đương số hạnh phúc, vui vẻ. Có khi đó là một hộp quà được gói ghém trang trí công phu cầu kỳ, rất đẹp đẽ và bắt mắt, nhưng bên trong lại là bánh kẹo chất lượng thấp…

    Trái với thế sao Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ, là thế sao Tuế phá, Điếu khách, Tang môn. Những người có mệnh thân ôm bộ sao này thường mang tâm lý bất mãn, không hài lòng với mọi thứ, cuộc sống cũng phải đấu tranh, nỗ lực quyết tâm rất nhiều mới đạt được ước vọng. Người xưa xếp đặt tinh bàn thật sâu sắc và thâm thúy. Vòng sao này, luôn ở thế xung chiếu đối nghịch với Thái tuế, Ví dụ sinh năm Bính Dần, Thái tuế đóng cung Dần mà mệnh lại lập ở Thân, Tý, Thìn. Dần, Ngọ, Tuất, tuổi năm sinh thuộc Hỏa cục, mệnh thân trong thế Thân, Tý, Thìn thuộc Thủy cục, một ván cờ nước lửa sẽ diễn ra, thắng bại còn phụ thuộc vào vận hạn, và sự phối hợp tốt xấu, nhưng về cơ bản họ không được thỏa mãn và đấu tranh nhiều.

    Tuế phá: Bất mãn, uất ức, căm phẫn muốn đả phá quật ngược mọi thứ. Đích danh là lãnh tụ phái đối lập. Thủ thân mệnh là người cực đoan hết sức, còn nhỏ thì là trẻ nghịch ngợm, hư, khó dạy, khi lớn là người luôn biểu lộ sự bất mãn của mình qua lời nói ngông cuồng, khích bác, và bằng những hành động cụ thể. Trong thực tế, nếu để ý sẽ thấy, nhóm người này thường không hài lòng về nhiều thứ công việc, gia đình, cuộc sống. Đơn cử một chuyện nhỏ nhặt như nấu thức ăn không ngon, hoặc không hợp khẩu vị, họ cũng có thể ca thán chê bai suốt cả bữa ăn. Đi làm về công việc có hơi bận rộn quá sức thì họ cũng thốt nên đầy lời oan vọng. Tuy nhiên, hình thức biểu lộ sự đả phá, phẫn uất thì biểu hiện ở nhiều hình thái khác nhau, nếu Tuế Phá đi kèm với Cự môn có khi sự bất mãn, đả phá này chỉ thể hiện ở lời nói, hành văn, câu chữ. Còn một khi đi kèm với các võ tinh như Phá quân chẳng hạn, thì nó sẽ biến thành những hành động cụ thể. Bởi vậy, Phú văn có câu: “Trai bất nhân Phá quân Thìn Tuất/ Gái bạc tình Tham sát Dần Thân”. Nhưng có lẽ chỉ khi nằm cùng Tuế phá mới thực sự là bất nhân chính hạng

    Điếu khách: Bất mãn và thường phải dùng lời lẽ của mình để phân trần, thuyết phục người khác. Theo các tài liệu của môn Tử vi Đẩu số thì Điếu khách là một sao nói về tính chất không cẩn ngôn, lại ham bài bạc. Nhưng trên thực tế, Điếu khách chính là sự phân trần, giải thích những phẫn uất, bức xúc, ức chế của mình. Vì ở tư thế đối nghịch, nên lời nói của họ không được nhiều người tin cậy và coi đó là sàm ngôn, không cẩn trọng, phát biểu liều. Điếu khách, còn là những lời lẽ ngông cuồng khích bác, nếu hội hợp văn tinh, thì cũng là một người rất giỏi lý luận, biện, Gia Cát Lượng mệnh Vô Chính diệu lập tại Mùi, ông sinh năm Tân Dậu, mệnh có Điếu khách, Tả phù, Hữu bật, Nhật Nguyệt tinh minh, nên ông nổi tiếng về biện luận, sang Đông Ngô, bẻ gãy lý luận của các danh sỹ Giang Đông, khích Tôn Quyền, khích Chu Du, nổi giận quyết tâm việc đánh Tào Tháo. Trước trận mạc mắng cho Tư đồ nước Ngụy Vương Lãng chết nay tại trận, gửi thư khiến Tào Chân đọc xong chết luôn…Như vậy, nếu sự hội hợp không tốt, Điếu khách chỉ là sự ca thán trong mệt mỏi, chán chường. Còn kết hợp với trí tuệ sáng suốt, học vấn uyên bác thì Điếu khách là một năng lực hùng biện như thiên tài, văn chương quán chúng. Chúng ta không thể xem nhẹ, đánh giá thấp, luận đoán một các hồ đồ được

     Trong thời kỳ gần đây, một số đại gia môi giới bất động sản, kinh doanh địa ốc, hay đội ngũ quảng cáo tiếp thị tài tình đều có Điếu khách, cư thân hoặc cư mệnh.

     Tang môn: Ở trong cảnh bất mãn, không thỏa chí, luôn phải đấu tranh với định mệnh, Tang môn chính là sự lo lắng. Người có Tang môn thủ mệnh nét mặt thường không tươi, đắm chìm trong lo âu, suy tư. Nếu đắc địa thì giỏi nghiên cứu, còn nếu không, thì cuộc đời đắm chìm trong sự buồn bã, ưu tư, lo toan nặng gánh. Đi kèm với Tang môn là Thiên khốc, Thiên hư, được vì như hai giọt lệ lăn dài, trên đường đời đầy bụi bặm, nước mắt chan cơm.

Nhóm Tuế phá, Tang môn, Điếu khách luôn luôn hội hợp với Thiên mã. Thiên mã chính là nghị lực mạnh mẽ, chí khí lớn lao, tác phong siêng năng, cần cù, chịu khó. Cuộc đời thường xuyên bận rộn, ít khi được thảnh thơi. Nghị lực, sự cần mẫn trong đấu tranh có được đền đáp xứng đáng hay không, khi Thiên mã ở cung nào (Ở Dần người mệnh Mộc đắc cách, người mệnh Hỏa được hưởng lợi, ở Tị là ngựa chiến của Hỏa mệnh, người Thổ mệnh gặp nó cũng được hưởng thụ nhiều, Ở Thân, người mệnh Kim – Thủy đắc cách. Ở Hợi người mệnh Thủy, Mộc nhiều cơ hội thành công )

     Thiên mã, hội hợp Thiên Khốc, Điếu khách, Trường sinh là tiếng chuông ngựa của con tuấn mã, hay tiếng hý vang thắng lợi trở về. Nếu là Thiên mã, Thiên hư, Điếu khách là tiếng rên của ngựa ốm đói. Ý tượng thất bại, đau khổ

      Lộc, Mã giao trì là cách kinh doanh, buôn bán ở phương xa mà thành phú thương…

      Nhóm Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức. Như trên đã giới thiệu, những người này, sinh ra trước chu kỳ vận động của Mộc tinh (Thiếu dương luôn ở trước Thái tuế), được tam hợp tuổi tương sinh cho tam hợp mệnh thân, khôn ngoan và hưởng nhiều đặc ân của tạo hóa.

     Thiếu dương: Bản chất của Thiếu dương chính là vòng tròn nhỏ màu trắng trên Thái cực đồ, nơi dương khí bắt đầu phát sinh, ánh sáng rạng rỡ, cho nên người có Thiếu dương tọa mệnh, thân là những người sáng suốt minh mẫn hơn, thông tuệ hơn người. Những người này từ học hành, nghiên cứu đều có tố chất học một biết mười, ứng xử, lời nói hành vi đều rất khôn ngoan, sáng suốt

     Tử phù: Như một đối trọng quyền lực với Thiếu dương, “càng khôn ngoan lắm, càng oan trái nhiều” như cổ nhân từng nói, hay “tài hoa mà bạc mệnh”, như cụ Nguyễn Du viết về Thúy Kiều vậy. Thế đứng của Tử phù là khôn ngoan nhưng thường bị kẹt, muốn có thành tựu phải dựa vào yếu tố khác

      Phúc đức: Muốn hơn người, mà thành quả vững chắc, thọ chung chính tẩm, sử sách ca ngợi, bảng vàng bia đá thì phải lấy đạo đức làm nòng cốt nền tảng, trọng đạo đức, trọng thần quyền, tu dưỡng bản thân, và hành động  theo chuẩn mực, quy tắc nhân ái thì thành tựu mới bền vững, sự sáng suốt khôn ngoan mới có giá trị, đem lại hiệu quả. Nhược bằng khôn mà không ngoan thì tất có hậu quả chuốc lấy thất bại thê thảm về sau. Điều này thực đúng đắn, trong xã hội không ít kẻ, dùng mưu trí làm điều ác điều xấu, đương nhiên kẻ gieo gió ắt gặp bão. Hồ Chủ tịch nói rằng: “Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Thậm chí tệ hại hơn là những tên lừa đảo, tham nhũng, vơ vét, bòn rút, đến khi ấy không những vô dụng mà còn là kẻ gây tai họa cho người khác nữa.

     Bộ sao này tạo ra thế cân bằng, bởi các sao hợp chiếu nữa, khôn ngoan (Thiếu dương), công danh, thành tựu sớm có Đào hoa, Hồng loan, cần trọng đạo đức và tu dưỡng Phúc đức (tam hợp gồm Thiên đức, Nguyệt đức), nếu không quan triệt được nguyên lý này thì lâm vào thế bị kẹt Tử phù, rơi xuống hố sâu vực thẳm (Thiên không, Lưu hà, Kiếp sát ra tay thực thi công đạo), Thiên không (tượng của hố sâu), Lưu hà (cơ nghiệp chìm đáy nước), lưng trời gẫy cánh, chẳng thể được trọn vẹn

     Nhóm thứ tư là nhóm Thiếu âm, Trực phù, Long đức. Nhóm này xét về thế cục ở thế thua thiệt rõ ràng. Những người sinh năm Hợi, Mão, Mùi thuộc Mộc cục mà mệnh thân ở thế Dần, Ngọ, Tuất thuộc Hỏa cục, Mộc sinh Hỏa, bản thân vốn bị sinh xuất, không còn nguyên vẹn khí gốc nữa. Xét về hình thế sao.

    Thiếu âm : Bản chất là vòng tròn nhỏ màu đen trên Thái cực đồ, tượng của âm khí, bóng tối bắt đầu phát sinh, lan tỏa. Ta hình dung ra lúc trời chiều nhá nhem, người mệnh cung có nó tất sẽ nhẹ dạ, cả tin và nhầm lẫn, đôi khi khờ dại tin người trong những tình huống quyết định

     Trực phù : Phải chịu sự thiệt thòi vì sự cả tin, nhầm lẫn, thù lao, thành quả không được hưởng thụ xứng đáng, công sức, trí tuệ còn bị người khác lợi dụng, cướp đoạt

     Long đức: Vì cố gắng bon chen cùng không thể đến đâu, chính về thế nên tự tu để an ủi bản thân, không nên tham lam, hay thủ đoạn làm gì nữa.

     Vòng Thiếu âm, Long đức, Trực phù rất hợp với bộ Cơ, Nguyệt, Lương, Đồng hình ảnh của những công dân tốt, những bác sỹ, nhân viên, giáo viên mẫu mực. Họ có tính cách không ham bon chen, chỉ cốt thực hiện cho đúng chức phận của mình, là người trung hậu, đáng tin cậy. Đây là hình ảnh của Thừa tướng Tiêu Hà, thời kỳ Vua Cao Tổ Lưu Bang dựng nước, giao cho việc trù liệu lương thảo khí giới thì ông cố gắng làm tốt, giao cho việc xây dựng luật pháp, kiểm kê hộ khẩu nhân đinh, ông cũng đều cố gắng hoàn thành, đến khi nhận công lao, ông cũng là người khiêm tốn, chỉ có điều không phải, đó chính là sự nhầm lẫn, khí mà ông nhúng tay vào vụ sát hại Hoài Âm Hầu – Hàn Tín, vì lẽ đó mà ông hối hận và trở về kiếp tu, trở về đạo lý.

     Thế Thiếu âm, Long đức, Trực phù thường tam hợp Lộc tồn (tài sản), Tướng quân, Quốc ấn (danh vọng và địa vị). Tuy nhiên, để ăn được Lộc tồn thì cũng là hưởng nó trong nghịch cảnh và vất vả, có được địa vị của Tướng quân, Quốc ấn là cả một quá trình cung cúc tận tụy, vất vả gian lao.

      Thông qua việc nghiên cứu kỹ về bốn thế sao, với tư cách của bốn nhóm người cơ bản trong xã hội, ta thấy được bất cứ bộ sao nào cũng có ưu thế và những điểm cần lưu tâm, quan triệt. Nhóm Thái tuế, Quan phù, Bạch hổ là nhóm danh phẩm, tư chất hơn người, muốn thành công thì nhân sinh quan của họ luôn phải tiến lên, hoàn thiện mình và cống hiến cho xã hội, cho nhân dân.

     Nhóm Tuế phá, Tang môn, Điếu khách là những anh hùng quật khởi, cái đáng tôn trọng ở họ là nghị lực, cần cù, bản lĩnh của người dám chống lại định mệnh, nếu như hội hợp tốt, vận hạn tốt, họ đứng lên và hình ảnh của họ cũng rạng rỡ chói lòa không kém. Nhưng cái hại là nếu tổ hợp xấu, họ là những kẻ đâm chọc, phá hoại, khích bác rất khó chịu xung quanh chúng ta. Tệ hơn nữa là những tên lừa đảo, cướp bóc, phản dân hại nước.

     Anh em nhà Thiếu dương, Tử phù, Phúc đức, sáng suốt khôn ngoan từ nhân thức tới hành động. Nhưng tài luôn kèm với đức, hồng gắn bó với chuyên. Phúc đức, Thiên đức, Nguyệt đức nhắc nhở ai đó quanh ta…Đã được hưởng ân huệ của tạo hóa, thì phải trọng sự tu dưỡng, đạo lý. Bằng không thì lưng trời gẫy cánh, cơ nghiệp tan tành, danh ô, tiết xú

     Những người Thiếu âm, Long đức, Trực phù, là những người đáng tin cậy, trung hậu, nhưng cần siêng năng học tập, cẩn thận chu đáo hơn, tránh những sai lầm, cả tin đáng tiếc trong cuộc sống.

    Mệnh - Thân ở những tư thế như trên có những đặc trưng cơ bản như vậy. Nhưng bách nhân bách tính, lời nói và việc làm có nhất quán, tư duy và hành động có như lý tưởng hay không, thì chuyện cung mệnh, cung thân lập ở những thế cờ khác nhau. Đó là điều kỳ sau tôi sẽ phân tích thêm.

 

 

 

 

 

    


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: LUẬN VỀ BỐN THẾ SAO TAM HỢP VÀ BỐN MẪU NGƯỜI TRONG CÕI NHÂN THẾ

Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Thần chú Đại Bi có những công năng oai lực mà không phải người nào cũng biết được những lợi ích khi tụng chú Đại Bi qua các hình tượng chú đại bi
Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác.

Ngài còn nhấn mạnh: Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành.

Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt.

Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni:

– Ngài A Nan bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?

– Đức Phật bảo : Thần chú này có những tên gọi như sau :

  1. Quảng Đại Viên Mãn Đà-Ra-Ni
  2. Vô Ngại Đại Bi Đà-Ra-Ni
  3. Cứu Khổ Đà-Ra-Ni
  4. Diên-Thọ Đà-Ra-Ni
  5. Diệt-Ác-Thú Đà-Ra-Ni
  6. Phá Ác-Nghiệp-Chướng Đà-Ra-Ni
  7. Mãn-Nguyện Đà-Ra-Ni
  8. Tuỳ-Tâm Tự-Tại Đà-Ra-Ni
  9. Tốc Siêu Thượng Địa Đà-Ra-Ni.

Từ lời dạy trên của Đức Phật với ngài A Nan, chúng ta hiểu được những công năng chính của thần chú:

Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu. Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa.

Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc.

Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ? Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,… là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên.

Hình tượng đại bi chú
Hình tượng đại bi chú

Thần chú này còn có tên gọi là Diệt Ác Thú. Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Ta đang trì tụng Thần chú Đại Bi vì phát khởi tâm Đại Từ Bi, nghĩa là yêu thương muôn loài không phân biệt thì tại sao lại phải Diệt Ác Thú trong khi ác thú cũng là một loại chúng sanh cần được thương yêu, cứu vớt? Tuy nhiên, muốn hiểu rõ công năng này, trước tiên ta hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh sống của những cư dân ở những chốn rừng thẳm, non cao, đặc biệt là những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới như Ấn Độ, nơi đầy dẫy những ác thú như hùm, beo, rắn rết… luôn luôn là một mối đe dọa lớn cho sinh mạng con người.

Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.

Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát địa.

Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát, giác ngộ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Công Năng Oai Lực của Thần Chú Đại Bi

Thắp bao nhiêu hương trên bàn thờ là tốt nhất?

Thắp hương trên bàn thờ: Số lượng nén hương khác nhau lại mang ý nghĩa cầu khấn khác nhau, gia chủ cần nắm vững để việc thờ cúng được tiến hành đúng cách.
Thắp bao nhiêu hương trên bàn thờ là tốt nhất?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong thủy, số lượng nén hương khác nhau lại mang ý nghĩa cầu khấn khác nhau, gia chủ cần nắm vững để việc thờ cúng được tiến hành đúng cách.
 

Theo quan điểm dân gian, việc dâng hương thờ cúng thường được chia thành hai loại, một là cúng bái âm giới (dành cho người đã khuất), hai là cầu khấn Thần Phật (Thần tiên, Bồ tát, Phật tổ…). Dù là loại nào đi nữa, thông thường khi thắp hương người ta thắp những số lẻ như 1, 3, 5, 7, 9. Những số lẻ này được coi là số dương, khi thắp lên bày tỏ sự tôn trọng và tấm lòng thành khẩn của con người.

1. Thắp 1 nén hương


Thắp 1 nén hương là cách thường dùng để thờ cúng thần linh trong nhà và được gọi là Bình An hương. Theo đó, nếu muốn cầu người nhà bình an, mọi việc thuận lợi thì gia chủ có thể thắp 1 nén hương mỗi buổi sáng tối trong 1 ngày là đủ.
 
Thap bao nhieu huong tren ban tho la tot nhat hinh anh
Ảnh minh họa
 
2. Thắp 3 nén hương
 
Theo Đạo Phật, cách thắp hương này gọi là Tam Bảo Hương. Tam Bảo chính là Phật, Pháp và Tăng, trong đó Pháp chính là kinh Phật, còn Tăng là người xuất gia.
 
Theo Đạo giáo, 3 nén hương này gọi là Tam Thanh Hương, trong đó Tam Thanh là Ngọc Thanh: Thiên tôn nguyên thủy; Thượng Thanh: Thiên tôn Linh Bảo và Thái Thanh: Thiên tôn Đạo Đức.
 
Trong 3 nén hương này, nén ở giữa là hưởng chủ, gọi là hương Giáo chủ; nén bên trái là hương Thanh Long; còn nén bên tay phải là hương Bạch Hổ. Mục đích của việc thắp 3 nén hương này là linh ứng báo tin, bảo vệ người trong nhà và xua đuổi mọi tai ương.
 
3. Thắp 5 nén hương
 
Những nén hương này gọi là Thiên Địa Ngũ Hành hương, gọi tắt Âm Dương Ngũ Hành hương. Thông thường có 2 cách để cắm 5 nén hương vào bát hương trên bàn thờ.
 
Cách 1: Sắp xếp theo 5 phương, ở giữa là hương Giao chủ, trái là hương Thanh Long, phải là hương Bạch Hổ, phía trước là hương Chu Tước, phía sau là lương Huyền Vũ. Cách 2: Sắp xếp theo hình chữ “Nhất” theo chiều ngang với nén hương thứ nhất là hương Thanh Long, thứ 2 là Bạch Hổ, thứ 3 là Quan Khẩu, thứ 4 là Hộ Pháp và thứ 5 là Báo Mã.
 
Thông thường cách thắp 5 nén hương này do các thầy pháp tiến hành để dự báo hung cát cho người khác hoặc mời gọi thần linh.
 
4. Thắp 7 nén hương
 
7 nén hương này được gọi là Bắc Đẩu Thất Tinh hương với tên gọi lần lượt là Thiên Xu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Khai Dương, Ngọc Hoành và Dao Quang.
 
Cách thắp 7 nén hương cùng lúc để mời gọi thần linh, thiên tướng, nếu không đến mức độ bất đắc dĩ thì không nên dùng cách thắp hương này.
 
5. Thắp 9 nén hương
 
Những nén hương này được gọi là Cửu cửu liên hoàn hương, được bày theo 3 hàng và 3 cột, trên mời Ngọc Hoàng Đại Đế, dưới mời Thập điện Diêm Vương. Cách thắp hương với 9 nén này là tín hiệu dùng để cầu cứu, trong trường hợp bất đắc dĩ và hầu như không có sự trợ giúp nào của con người thì mới sử dụng, hi vọng Ngọc Hoàng Đại Đế và Thập điện Diêm Vương cứu giúp muôn dân, cứu khổ cứu nạn.
 
=> Tra cứu: Lịch âm 2016, Lịch vạn niên 2016 chuẩn xác tại Lichngaytot.com

ST  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thắp bao nhiêu hương trên bàn thờ là tốt nhất?

Chơi đào rằm tháng Giêng, nét đẹp của người Hà Nội

Tết đã hết, nhưng các hàng đào, mai rừng vẫn được bày bán rất nhiều ở các chợ. Người Hà Nội có thú chơi đào rằm tháng Giêng để níu giữ chút hương Tết
Chơi đào rằm tháng Giêng, nét đẹp của người Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tết đã hết, nhưng các hàng đào, mai rừng vẫn được bày bán rất nhiều ở các chợ. Người Hà Nội có thú chơi đào rằm tháng Giêng để níu giữ chút hương sắc mùa xuân.


Không biết tự bao giờ, người Hà Nội có thú chơi đào rằm tháng Giêng. Cành đào của những ngày Tết nở bung sẽ được thay bằng cành đào mới, đặt trên bàn thờ tổ tiên, trước hiên nhà, hay trong phòng khách. Điều đó đủ để biết rằng, người Hà Nội vẫn còn tha thiết níu giữ một chút hương vị Tết cổ truyền hay sắc xuân dịu dàng, phơi phới.

Choi dao ram thang Gieng, cach niu giu sac xuan cua nguoi Ha Noi hinh anh
 
Có người cho rằng, cả năm được rằm tháng Bảy, cả thảy được rằm tháng Giêng. Mà đặc trưng của tháng Giêng ở Hà Nội chính là hoa đào. Cúng rằm hay đi lễ chùa mà có hoa đào thì còn gì tuyệt vời bằng.

Choi dao ram thang Gieng, cach niu giu sac xuan cua nguoi Ha Noi hinh anh 2
 
Người ta chơi đào vào rằm tháng Giêng nhằm mục đích níu giữ sắc và khí xuân. Điều này không phải loài hoa nào cũng có thể làm được. Cũng có thể vì đào mỗi năm chỉ nở 1 lần. Hay ngày nay, điều kiện kinh tế khá giả, nhiều người thích chơi đào và muốn níu giữ không khí ngày Tết nhiều hơn. Ngày xưa, nhà ai giàu có còn gói bánh chưng lần nữa vào dịp rằm tháng Giêng.

Choi dao ram thang Gieng, cach niu giu sac xuan cua nguoi Ha Noi hinh anh 3
 
Ông Phạm Văn Thinh (57 tuổi) ở Tây Hồ chia sẻ: “Hiểu sâu xa cái thú chơi đào rằm tháng Giêng của người Hà Thành cũng thú vị không kém việc người miền Trung thích đào phai, người miền Nam thích mai vàng ngày Tết vậy. Sắc hoa đào thắm dịp rằm tháng Giêng làm ấm khí trời lạnh buốt, có cảm giác hương vị Tết còn đọng lại trên từng cánh hoa đào, lan tỏa vào mỗi nếp nhà, tạo nên dư vị đặc biệt cho người dân Thủ đô…”

Chỉ ra 3 vị trí nốt ruồi không lo thiếu tiền xài
– Nốt ruồi tại mỗi vị trí khác nhau mang tới những điềm báo hung cát không giống nhau. Nhưng nếu sở hữu những nốt ruồi dưới đây, bạn hoàn
Vì Tết đã hết nên giá đào giảm rất mạnh. Có cành đào giá chỉ còn 30.000 đồng, thậm chí giảm xuống chỉ còn 10.000 đồng. Đào rẻ nhưng vẫn bán chứ để ở vườn cũng tàn, rồi phải cắt đi rất phí phạm.

► Xem thêm: Những phong tục truyền thống tại Việt Nam và thế giới

Ngọc Điệp

Xem thêm video: Học cách yêu thương theo lời Phật dạy



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chơi đào rằm tháng Giêng, nét đẹp của người Hà Nội

Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì là thắc mắc của không ít người. Để giải đáp và cung cấp thêm thông tin cho độc giả, Lịch Ngày Tốt xin trả lời những
Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

câu hỏi trên.   Với những người có ý định sinh con hoặc làm việc quan trọng thì chắc chắn năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? sẽ là những vấn đề đáng lưu tâm.   

nam 2019 la nam con gi
 

1. Năm 2019 là năm con gì?

  Dựa theo 12 con giáp và vòng tuần hoàn thiên can, năm 2019 là năm Kỷ Hợi.   Tính chất của Kỷ Hợi là nóng nảy, bộc trực nhưng lễ nghĩa, làm việc có trách nhiệm. Trong các tuổi Hợi, đây là tuổi bốc đồng nhất, giống như con lợn hoang, nếu không biết kiềm chế sẽ gây ra chuyện. nếu tiết chế được bản thân thì sẽ phát huy được năng lực, đạt được công danh   Tuổi Hợi bề ngoài vui vẻ, nhàn nhã nhưng là người đa sầu đa cảm. Kỷ Hợi trọng tình trọng nghĩa, luôn giúp đỡ anh em bạn bè mà không nề hà. Họ ngoài lạnh trong nóng, không thích bày tỏ cảm xúc nhưng là người tình cảm, nhạy cảm và lo nghĩ nhiều, tự mình bao quát việc của người khác. Xem thêm bài viết Hãy chọn một người tuổi Hợi để cả đời được sống trong hạnh phúc   Người tuổi Hợi số mệnh là số hưởng, con giáp cuối cùng trong 12 con giáp nên nhàn hơn những con giáp khác. Nhưng Kỷ Hợi cũng không tính là quá thong dong, tuổi trẻ làm quan, hậu vận phát đạt song trung vận ắt phải bôn ba, dành nhiều tâm sức. Người này tự thân lập thân, không có người tương trợ, tự tạo dựng sự nghiệp của riêng mình.   Người tuổi Hợi thông minh, giỏi tính toán, biết sắp xếp nên không thiệt thòi, nhưng hay mềm lòng, ít làm được đại sự.    Tam hợp với Hợi là Mão và Mùi, tứ hành xung với Hợi là Dần, Thân và Tị.    Xét về người hợp tuổi làm ăn với tuổi Hợi có thể hợp tác với người tuổi Sửu, Mão, Mùi, Hợi. Xét về tình cảm, người tuổi Hợi nên lựa chọn bạn đời tuổi Mão, tuổi Mùi, tuổi Dần. Với người tuổi Kỷ Hợi khi chọn bạn đời không nên chọn người sinh năm Giáp, Ất mà nên lấy người sinh năm Nhâm, Quý. Xem thêm bài viết Tuổi Hợi hợp với tuổi nào trong tình yêu hôn nhân?   Người sinh năm 2019 – Kỷ Hợi cần thận trọng mỗi khi tới năm Hợi và năm Tị.   

2. Năm 2019 mệnh gì?

 
nam 2019 la nam con gi 1
 
Năm 2019 mạng gì? Theo Lục Thập Hoa Giáp, năm 2019 có nạp âm là Bình Địa Mộc, mệnh Mộc. Mộc này là gỗ đồng bằng, mới nhú mầm nhú lá rồi phát triển thành cành nên thích mưa móc, không ưa tuyết sương, còn chưa vững vàng lắm. Mộc này phát triển tốt ở mặt đất, nơi thoáng mát.    Bình Địa Mộc là Mộc tự sinh, vốn tươi tốt, tự thân lập thân không có người đỡ đần, có chí lớn và tài năng nên tuổi trẻ đã phát đạt. Người nếu gặp thời, sinh vào giờ tốt thì đắc cách, nhất định là số mệnh hiển quý.
Xem thêm bài viết Tính cách người mệnh Mộc: thích lãnh đạo và hay nóng giận
 
Theo ngũ hành, Kim khắc Mộc nhưng Mộc của Kỷ Hợi không kị Kim, chỉ hiềm Tân Hợi Thoa Xuyến Kim, Tân Tị Bạch Lạp Kim, Quý Dậu Kiếm Phong Kim còn các Kim khác đều không gây tổn thương.    Thủy sinh Mộc, Kỷ Hợi đẹp nhất là gặp Ất Mão Đại Khê Thủy, Bính Ngọ và Đinh Mùi Thiên Hà Thủy, sẽ có số vinh hoa phú quý, nên hợp tác làm ăn với những tuổi này. Ngoài ra Giáp Thân Tỉnh Tuyền Thủy, Đinh Sửu Giản Hạ Thủy cũng khá tốt, nên chọn những người tuổi này để kết hôn, vợ chồng hòa ái lâu dài.   Mộc sinh Hỏa, Kỷ Hợi kết hợp với các tuổi Mậu Tý và Kỷ Sửu Tích Lịch Hỏa, Mậu Ngọ và Kỷ Mùi Thiên Thượng Hỏa, Bính Dần và Đinh Mão Lư Trung Hỏa cũng tốt. Nếu nữ mệnh tuổi Kỷ Sửu lấy nam mệnh các tuổi này thì vợ vượng phu, tốt cho chồng.   Thêm vào đó, Mộc vượng khí thịnh, Kỷ Sửu gặp các tuổi Nhâm Tý và Quý Sửu Tang Đố Mộc, Mậu Tuất Bình Địa Mộc chủ về cát lợi, sinh con các tuổi này là song Mộc thành rừng, có nhiều điểm tốt.   2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì? Các câu hỏi đều được giải đáp rõ ràng với những kiến thức đầy đủ, chính xác và hữu ích. Mong rằng bạn đọc sẽ có thêm cơ sở để tiến hành những việc quan trọng của mình trong năm Kỷ Hợi, đón cát tránh hung, trăm sự đều lành, phúc lộc song toàn, gặp nhiều may mắn.
Người tuổi Hợi mệnh Mộc Giải mã vận mệnh người tuổi Kỷ Hợi theo Lục Thập Hoa Giáp
Trần Hồng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Năm 2019 là năm con gì? Năm 2019 mệnh gì?

Cách tính ngày rụng trứng để sinh con trai con gái theo ý muốn chính xác nhất

Sinh con trai hay con gái từ lâu đã được chứng minh hoàn toàn la do tinh trùng chứ không liên quan đến phụ nữ những không ít gia đình vẫn phải chịu sự cổ hũ gia trường và không sinh được con như ý muốn của ông bà. “Con cái là của trời cho” và dù là trai hay gái thì ba mẹ vẫn hết mực thương yêu. Thế nhưng, nhiều nàng dâu vẫn phải cố “rặn” được một đứa cháu đích tôn cho nhà chồng nếu chẳng may bước chân vào gia đình “cổ hủ” hoặc phải sinh một nàng công chúa cho gia đình chồng để có đủ trai đủ gái. Đừng quá lo lắng, hãy thử áp dụng Cách tính ngày rụng trứng để sinh con trai con gái theo ý muốn chính xác nhất sau đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

* Do đặc tính của tinh trùng Y nên khả năng sinh con trai sẽ cao hơn nếu bạn quan hệ gần vào ngày rụng trứng. Ngược lại, nếu quan hệ xa ngày rụng trứng, khả năng sinh con gái sẽ cao hơn do tinh trùng X sống lâu hơn, có thể chờ đợi đến ngày trứng rụng. Thế nhưng, chuyện tính ngày trứng rụng cũng không dễ dàng gì bởi nhiều chị em có chu kỳ kinh nguyệt không đều. 

* Một chu kỳ kinh nguyệt được tính từ ngày “đèn đỏ” đầu tiên của bạn. Thông thường, một chu kỳ kinh bình thường sẽ kéo dài khoảng 28 – 32 ngày. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp kéo dài đến 35 -40 ngày. 

* Mỗi tháng, trứng thường rụng vào ngày 14 của chu kỳ kinh nguyệt tiếp theo, trứng sau khi phóng ra sẽ “sống” trong ống dẫn trứng 1-2 ngày, để đợi thụ tinh. Còn tinh trùng có thể sống trong “vùng tam giác mật” của các nàng khoảng 2-3 ngày.

Khi đã xác định được ngày rụng trứng, hai bạn không nên giao hợp trước khoảng 7-10 ngày và chỉ giao hợp 1 lần sau ngày trứng rụng 1 ngày vào trước 3 giờ sáng.

* Chị em nào có chu kỳ kinh nguyệt không đều thì có thể dùng que thử để thử nước tiểu vào buổi sáng sau khi ngủ dậy. Khi bạn thấy nồng độ hóc môn uteinizing hormone – LH tăng, có nghĩa là trứng chuẩn bị rụng. 

* Chị em có thể tham khảo vào bảng “thống kê” dưới đây để xác định ngày rụng trứng của mình. 


Dấu hiệu trứng sắp rụng

Bạn có thể dựa vào những dấu hiệu sau để “dự đoán” ngày rụng trứng của mình.

* Thân nhiệt tăng cao. Thân nhiệt ở thời điểm rụng trứng thường có thể dao động trong khoảng 36-37 độ C. Và khoảng thời gian này nếu các bạn giao hợp thì tỷ lệ thụ thai là rất cao.

* Chất nhầy cổ tử cung. Hãy chú ý đến “cô bé” của mình khi gần đến ngày. Thường thì cổ tử cung sẽ tiết ra chất nhày trong thời kỳ kinh nguyệt của chị em. Ngày trứng rụng chất nhày ở âm đạo trở nên nhiều hơn, mỏng hơn, trong suốt như lòng trắng trứng gà. Bạn có thể thử dùng tay đưa vào trong “vùng kín” để kiểm tra việc này. 

* Khó chịu ở bụng dưới. Khoảng 1/5 số phụ nữ thực sự cảm thấy khó chịu ở bụng dưới khi trứng rụng, có thể dao động từ nhẹ đến đau nhói. Điều này thường gặp trong thời kỳ phóng noãn, nó có thể kéo dài một vài phút đến vài giờ. 


Lưu ý khi tính ngày rụng trứng để sinh con trai

 Ngoài cách tính ngày rụng trứng hai bạn cần chú ý đến một số điều sau đây để có được kết quả như mong muốn: 

* Hai vợ chồng nên ăn nhiều thịt, nhất là các loại thịt màu đỏ như thịt lợn, thịt bò… 

* Nên thực hiện chế độ ăn hơi mặn hơn một chút. Tuy nhiên, bạn không nên ăn quá mặn để tránh ảnh hưởng xấu tới hệ bài tiết nhé. 

* Tránh xa tất cả các loại đồ uống có ga, nước soda, cà phê và các loại chất kích thích. 

* Tránh “yêu” vào buổi sáng, vì vào lúc này tinh trùng X khỏe mạnh hơn tinh trùng Y, vì thế việc thụ thai bé rai sẽ khó khăn hơn. Do đó, nên hai vợ chồng bạn nên “gần gũi” vào buổi tối nhé. 

* Theo ông bà ta, quan hệ vào những ngày trăng lưỡi liềm khả năng sinh con trai sẽ cao hơn.


* Những bé trai thường được thụ thai vào ngày lẻ. Thế nên, bạn hãy chọn những ngày lẻ để lên lịch “yêu” nhé. 

* Chú ý đến các loại thực phẩm có thể hỗ trợ “sức khỏe” của các “tinh binh” như chuối, cam, quýt, cà chua, nấm, hải sản… 

* Bạn có thể đến bệnh viện hoặc các phòng khám chuyên khoa sinh sản để tách 2 nhiễm sắc thể X và Y riêng biệt, điều này khiến cho việc sinh con gái hay sinh con trai theo ý muốn rất cao, lên đến 85%. Nhưng phương pháp không đảm bảo bạn sẽ thụ thai thành công, nếu không thành công bạn phải làm lại và các khoản chi phí thì không hề rẻ.

* Đối với con gái thì đơn giản hơn chỉ cần thực hiện ngược lại với cách sinh con trai là được.

Như vậy là chúng tôi vừa chia sẻ Cách tính ngày rụng trứng để sinh con trai con gái theo ý muốn chính xác nhất rồi đấy. Hãy tự tin vào bản thân mình và thực hiện một cách khoa học nhất để cuốc sống gia đình thêm hạnh phúc. Ngoài những bí quyết trên thì bạn cần chú ý chuẩn bị sức khỏe 2 vợ chồng thật tốt và chuẩn bị chi phí cho một chu kỳ sinh sản để bé luôn khỏe mạnh nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách tính ngày rụng trứng để sinh con trai con gái theo ý muốn chính xác nhất

3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

Con gái thường rất xem trọng vẻ ngoài, tuy nhiên phẩm chất lại là điều khiến bạn được yêu mến hơn. Cùng với đó thì vận may về nhân duyên cũng phần nào ảnh hưởng đến chuyện tình cảm của bạn.
3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cô nàng tuổi Thìn

Con gái tuổi Thìn tính tình nhã nhặn, cởi mở, giỏi kết thân với người khác, thường đem lại thiện cảm cho người tiếp xúc ngay từ lần đầu gặp gỡ. Mọi người thường thích gần gũi với nàng, gặp vấn đề phiền não cũng thích tìm nàng để chia sẻ. Đặc biệt là với người yêu thương, cô nàng tuổi Thìn luôn đóng vai trò lắng nghe và cho lời khuyên rất tốt. Với những phẩm chất đáng yêu này, nàng sẽ dễ dàng tìm thấy tình yêu đích thực nhờ sự hỗ trợ vận đào hoa thịnh vượng trong tháng cuối năm. Nàng có nhiều người theo đuổi và có nhiều lựa chọn lý tưởng, quan trọng là phải xác định rõ đâu là tình yêu thật sự để không bỏ lỡ nhân duyên.

3-con-giap-nu-van-dao-hoa-cuc-thinh-thang-12

Cô nàng tuổi Sửu

Trong tháng 12 này, thần tình yêu sẽ chiếu cố cô nàng tuổi Sửu, rất có thể những người bạn khác phái bên cạnh sẽ nhận ra ưu điểm của nàng và không ít tình huống nảy sinh tình cảm giữa đôi bên. Cô nàng tuổi này tính cách ổn định, xử sự lý trí và rất khéo trong đối nhân xử thế, là đại diện của mẫu người đoan trang, hiền thục, đảm đang và yêu cuộc sống gia đình. Những điểm đáng quý này sẽ được thể hiện trong mọi hoàn cảnh và giúp nàng ghi điểm trong mắt các chàng trai.

Cô nàng tuổi Mùi

Đây là kiểu con gái giống như tiểu thư trong gia đình, nàng thường đa sầu đa cảm, thiếu cảm giác an toàn nên đem lại cho người tiếp xúc một cảm giác nàng mong manh nhỏ bé và cần được bảo vệ. Khi bước vào tháng 12 năm nay, cô nàng sẽ nhận được ảnh hưởng không nhỏ từ vận đào hoa, sức hấp dẫn của bản thân tăng lên đáng kể. Với sự dịu dàng, dễ gần và đáng yêu, rất nhiều chàng trai sẽ để ý và lên chiến lược tấn công. Nếu tìm được tình yêu đích thực, họ sẽ có nhiều khả năng xây dựng một mối quan hệ tốt đẹp, bền vững.

Khang Ninh (theo d1xz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 3 con giáp nữ vận đào hoa cực thịnh tháng 12

Nhìn đôi môi đoán bệnh

Môi nứt báo hiệu cơ thể đang thiếu hụt vitamin, môi nhợt nhạt cảnh báo bạn bị thiếu máu, môi màu tối là dấu hiệu của bệnh gan...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cũng giống như một bài bộ phận khác như móng tay, bàn chân, màu mắt... dựa vào đôi môi bạn cũng có thể chẩn đoán được bệnh tật.

Dưới đây là những dấu hiệu của đôi môi mà bạn cần phải lưu ý, theo Boldsky.

Lở môi

Nổi mụn nhỏ ở môi kèm theo đau đớn và thường xuyên bị chảy máu báo hiệu bệnh nhiễm trùng do virus herpes, một bệnh lý mụn nước quanh miệng. Bệnh này rất dễ lây nhiễm, do vậy không nên sử dụng chung son môi hay các vật dụng của người mắc bệnh.

Nứt môi

Biểu hiện này cho thấy cơ thể bạn đang bị thiếu hụt các vitamin. Đây cũng có thể là dấu hiệu nhiễm nấm trên môi. Căng thẳng và lo lắng cũng gây ra các vết nứt ở đôi môi.

Môi nhợt nhạt

Tình trạng này báo hiệu cơ thể nhiều khả năng bị thiếu máu. Bạn phải ăn nhiều rau xanh và hoa quả, bổ sung thêm sắt để các tế bào máu được cải thiện.

Môi sưng

Nhìn đôi môi đoán bệnh - Ảnh 4

Ảnh: Boldsky.

Môi sưng có thể do dị ứng bên trong da. Nếu đôi môi của bạn sưng sau khi uống thuốc hoặc sử dụng kem dưỡng da hay kem dưỡng môi, có thể bạn đã bị dị ứng. Phải điều trị sớm, dị ứng nội bộ đôi khi gây tử vong.

Môi khô

Đôi môi thường xuyên khô ráp là dấu hiệu cơ thể thiếu nước hoặc mất nước. Thay vì sử dụng son dưỡng môi thường xuyên hãy bổ sung thêm nước cho cơ thể, nhất là vào mùa Đông.

Môi đổi màu

Đôi môi có màu tối sạm là kết quả của việc hút thuốc trong thời gian dài. Tuy nhiên, nếu bạn mắc bệnh gan, môi cũng sẽ chuyển sang màu tối. Tốt nhất nên đến bác sỹ nếu đôi môi có dấu hiệu đổi màu.

Theo VnExpress
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn đôi môi đoán bệnh

Sao Hoa Cái

Hành: Kim Loại: Cát Tinh Đặc Tính: Quyền uy, quý hiển Tên gọi tắt thường gặp: Cái
Sao Hoa Cái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phụ tinh. Một trong 4 sao của bộ Tứ Linh là Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ, Hoa Cái. Gọi tắt là bộ Long Phượng Hổ Cái.

Ý Nghĩa Hoa Cái Ở Cung Mệnh
Tính Tình
Người có bề ngoài sang trọng, đài các, thanh cao, được nhiều người yêu thích.
Công Danh Phúc Thọ
Hoa Cái chủ về phú quý, sự ngưỡng mộ, sự trọng vọng của người đời. Đây là trường hợp Hoa Cái đi với Long Trì, Phượng Các, Bạch Hổ thành bộ sao gọi là "Tứ Linh", chủ về công danh, chức vị, uy quyền.
Ý Nghĩa Hoa Cái Và Các Sao Khác

  • Hoa Cái gặp Tấu Thư là người thanh cao, lịch lãm, có mốt về ăn mặc, có năng khiếu về trình diễn; người biết thưởng thức ái tình một cách sành điệu.

  • Tiền Cái, Hậu Mã. Mệnh giáp Hoa Cái phía trước, Thiên Mã phía sau chủ về phú quý, sang cả.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sao Hoa Cái

Tuổi Sửu và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Mối quan hệ giữa Sửu và Mùi có rất nhiều điểm cần bàn vì đây là hai con giáp dường như đối lập nhau. Mâu thuẫn giữa hai “hành tinh” này bắt nguồn từ bản chất hoàn toàn khác nhau. Trong khi tuổi Mùi mơ mộng và có phần hơi lập dị thì tuổi Sửu lại hết s
Tuổi Sửu và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Sửu và tuổi Mùi có hợp nhau không? –

Hướng dẫn chi tiết xác định phương hướng theo phong thủy

Lịch Ngày Tốt xin giới thiệu, hướng dẫn một số nguyên tắc xác định phương hướng theo phong thủy – kiến thức cơ bản dành cho tất cả mọi người.
Hướng dẫn chi tiết xác định phương hướng theo phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện nay có rất nhiều người đã biết tới tầm quan trọng của phong thủy và bắt đầu thử nghiệm trong nhà hoặc nơi làm việc của mình, mong muốn đón cát tránh hung.

cach xac dinh huong nha
 

1. Xác định hướng nhà

  Xác định phương hướng theo phong thủy ứng dụng nhiều nhất trong xác định hướng nhà bao gồm nhà ở, công ty, văn phòng, nhà xưởng,… Cách thức tiến hành như sau: đứng ở cửa chính của kiến trúc, mặt hướng ra bên ngoài dùng la bàn phong thủy phán đoán hướng.    Thông thường, những hướng cơ bản của một ngôi nhà là: tọa Nam hướng Bắc, tọa Tây Nam hướng Đông Bắc, tọa Tây hướng Đông, tọa Tây Bắc hướng Đông Nam. Tọa Bắc hướng Nam, tọa Đông Bắc hướng Tây Nam. Tọa Đông hướng Tây, tọa Đông Nam hướng Tây Bắc.   Mỗi hướng nhà đại diện cho một quẻ trong bát quái: tọa Nam hướng Bắc là Cấn trạch, tọa Tây Nam hướng Đông Bắc là Khôn trạch, tọa Tây hướng Đông là Đoài trạch, tọa Tây Bắc hướng Đông Nam là Càn trạch, tọa Bắc hướng Nam là Khảm trạch, tọa Đông Bắc hướng Tây Nam là Cấn trạch, tọa Đông hướng Tây là Chấn trạch, tọa Đông Nam hướng Tây Bắc là Tốn trạch.    Trong tám quẻ bát quái Càn là lão phụ (cha), Khôn là lão mẫu (mẹ), Cấn là thiếu nam (con trai út), Đoài là thiếu nữ (con gái út), Chấn là trưởng nam (con trai cả), Tốn là trưởng nữ (con gái cả), Khảm là trung nam (con trai thứ), Ly là trung nữ (con gái thứ). Chấn, Tốn, Khảm, Ly là đông tứ trạch hợp với người Đông tứ mệnh. Càn, Khôn, Cấn, Đoài là Tây tứ trạch hợp với người Tây tứ mệnh. 
Xem thêm bài viết Hướng dẫn người ít kinh nghiệm xác định hướng nhà, tâm nhà
 

2. Xác định phương vị nhà

    Sau khi biết hướng nhà, cần phải xét thêm phương vị để cụ thể hóa các vị trí trong nhà, tiện bề sắp xếp bố trí phong thủy. Đây là cơ sở cần thiết để bày trí nhà ở hợp phong thủy, tránh lỗi, tránh sai.   Cách xác định phương vị như sau: đứng thẳng giữa nhà, dùng la bàn xác định các góc Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc – 8 phương vị cơ bản cộng với trung tâm nhà là chín vị trí. Khi áp các vị trí lên mặt phẳng thành hình vẽ thì người xưa gọi là “cửu cung đồ”.    Căn cứ vào trạch hướng nhà và các phương vị trong nhà có thể tiến hành bài trí phong thủy, tìm ra vị trí cát hung, phương vị may mắn, phương vị hung hiểm để có những cách thức khai vận, đón cát tránh hung cho phù hợp. Ví dụ, muốn tăng cường vận Thiên Tài thì nên bày thực vật xanh ở phương vị chính Đông.  

3. Trạch nhà tứ cát, tứ hung


Huong dan chi tiet xac dinh phuong huong theo phong thuy
 
Bất cứ ngôi nhà nào cũng bao hàm tứ cát và tứ hung, tức là bốn vị trí cát và bốn vị trí hung. Nên hiểu hàm nghĩa có các trạch nhà này để áp dụng cho đúng.    Tứ trạch cát:    Sinh khí: vượng đinh vượng tài, có thanh danh địa vị.   Thiên y: kéo dài tuổi thọ, dẫn đường quý nhân, tất cả đều hanh thông thuận lợi.    Diên niên: gia đình hoàn hợp, không khí đầm ấm, có anh em bạn bè giúp đỡ.   Phục vị: tất cả bình lặng không sóng gió, không có miệng lưỡi thị phi, tiểu nhân phải thoái lui.    Tứ trạch hung:   Tuyệt mệnh: có họa huyết quang, động dao kéo phẫu thuật hoặc vị thương do đao kiếm, gặp kẻ trộm cướp, tâm tình hết sức chấn động.    Họa hại: miệng lưỡi thị phi, liên quan tới tòa án, bị người khác bán đứng không có lòng cầu tiến, thân thể không khỏe mạnh.   Ngũ quỷ: xảy ra bất trắc, có họa thị phi, trúng tà, tai bay vạ gió, thoái tài.   Lục sát: gia đình bất an, miệng lưỡi thị phi, ngoài giá thú chuyện, bệnh tật tới người.   Căn cứ vào hướng nhà đối chiếu với tứ cát tứ hung để xác định độ tốt xấu. Nguyên tắc xác định phương hướng trong phong thủy như sau:   Sinh khí: hướng Đông Nam, Nam, Bắc, Đông, Đông, Bắc, Tây, Tây Bắc, Tây Nam.   Diên niên: hướng Nam, Đông Nam, Đông, Bắc, Tây Bắc, Tây, Nam, Đông Bắc, Tây.   Thiên y: Đông Bắc, Nam, Đông Nam, Tây, Đông, Bắc, Tây Nam, Tây Bắc.   Phục vị: hướng Bắc, Đông, Đông Nam, Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Tây, Đông Bắc.   Tuyệt mệnh: hướng Tây Nam, Tây, Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc, Nam, Đông, Đông Nam.   Ngũ Quỷ: hướng Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Tây,  Đông Nam, Đông,  Nam,  Bắc   Họa hại: hướng  Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc, Đông, Đông Nam,  Bắc, Nam.   Lục sát: hướng Tây Bắc, Đông Bắc, Tây, Tây Nam, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông.   Phán đoán phương hướng nhất định phải chuẩn xác, đây là yêu cầu cơ bản nhất trong bố cục phong thủy, nếu phạm sai lầm thì mọi nỗ lực bày trí đều uổng phí.   

4. 24 sơn hướng

  Phong thủy bát trạch mỗi phương quản 45 độ. Nhưng thực tế cho thấy do những yếu tố tương tác khác nhau, mà không thể có nhà nào chính hướng và có những sai lệch. Sự sai lệch này cũng có những tương tác khác nhau trong cùng một phương.    Bởi vậy ngoại trừ 8 phương vị ở trên, trong gia cư phong thủy còn dùng nhập nhị địa chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) và tám thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm Quý), bốn quẻ (Càn, Khôn, Cấn, Tốn) để biểu thị phương hướng. Như vậy toàn bộ phương vị 360 độ chia thành 24 sơn hướng.   24 sơn hướng phối hợp cùng bát quái, mỗi quẻ cai quản 3 sơn hướng. Phương Đông quẻ Chấn cai quản Giáp Mão Ất, phương Nam quẻ Ly cai quản Bính Ngọ Đinh, phương Tây quẻ Đoài cai quản Canh Dậu Tân, phương Bắc quẻ Khảm cai quản Nhâm Tý Quý, Đông Nam quẻ Tốn cai quản Thìn Tốn Tị, Tây Nam quẻ Khôn cai quản Mùi Khôn Thân, Tây Bắc quẻ Càn cai quản Tuất Hợi Càn, Đông Bắc quẻ Cấn cai quản Sửu Cấn Dần. 
Xem thêm bài viết Ý nghĩa phong thủy của các cặp sơn - hướng
 

5. Phương vị cửu tinh

 

cach xac dinh phuong vi nha
 
Phương vị xác định bằng 9 sao: Nhất Bạch Thủy Tinh, Nhị Hắc Thổ Tinh, Tam Bích Mộc Tinh, Tứ Lục, Ngũ Hoàng Thổ tinh, Lục Bạch Kim Tinh, Thất Xích Hỏa Tinh, Bát Bạch Thổ Tinh.    Trong đó Bắc 45 độ là phạm vi Nhất Bạch, Đông Bắc 45 độ  là phạm vi Bát Bạch, Đông 45 độ là phạm vi Tam Bích, Đông Nam 45 độ là phạm vi Tứ Lục, Nam 45 độ là phạm vi Cửu Tinh, Tây Nam 45 độ là phạm vi Nhị Hắc, Tây 45 độ là phạm vi Thất Xích, Tây Bắc 45 độ là phạm vi Lục Bạch. Ngũ Hoàng ở vị trí trung tâm.    Hướng bếp nên hướng về Nhất Bạch - hành Thuỷ là thuỷ hoả ký tế; Tam Bích, Bát Bạch - hành Mộc sinh Hỏa; Nhị Hắc, Ngũ Hoàng - Nhị Hắc là bệnh phù, Ngũ Hoàng là đại sát nên kỵ.   Vị trí tốt dành cho phòng khách là bố trí ở trung tâm ngôi nhà, khu vực có sơn tinh sinh khí xa, ví dụ như vận 8 là sơn tinh Nhất Bạch, vận 7 là sơn tinh Cửu Tử, vận sáu là Bát Bạch…
Xem thêm bài viết Mách bạn cách làm nhà vượng sơn - vượng hướng
 
Phối hợp Bát quái, Cửu cung ( Cửu tinh ) với hướng nhà được các trạch hướng như sau:   Phối hợp: Càn với Đoài, Khảm với Tốn, Cấn với Khôn, Chấn với Ly (Nghĩa là người mệnh Càn ở nhà hướng Đoài, người mệnh Khảm ở nhà hướng Tốn…) được Sinh khí thuộc sao Nhất Bạch Mộc tinh.   Phối hợp: Càn với Chấn, khảm với Cấn, Ly với Đoài, Khôn với tốn phạm Ngũ Quỷ thuộc sao Ngũ Hoàng Hỏa tinh.   Phối hợp: Càn với Khôn, Khảm với Ly, Cấn với Đoài, Chấn với Tốn được Phúc Đức thuộc sao Lục Bạch Kim tinh.   Phối hợp: Càn với Khảm, Cấn với Chấn, Tốn với Đoài, Ly với Khôn phạm Lục Sát thuộc sao Tứ Lục Thủy tinh.   Phối hợp: Càn với Tốn, Khảm với Đoài,Cấn với Ly, Chấn với Khôn, phạm Họa Hại thuộc sao Tam Bích Thổ tinh.   Phối hợp: Càn với Ly, Khảm với Khôn, Cấn với Tốn, Chấn với Đoài Phạm Tuyệt Mạng thuộc sao Thất Xích Kim tinh.   Phối hợp: Càn với Cấn, Khảm với Chấn, Tốn với Ly, Khôn với Đoài được Thiên Y thuộc sao Nhị Hắc Thổ tinh.   Phối hợp Càn với Càn, Khảm với Khảm, Cấn với Cấn, Chấn với Chấn, Đoài với đoài được Phục Vị thuộc sao Cửu Tử Thủy tinh.   Phong thủy nhà ở thịnh suy liên quan tới thập nhị chi, cửu tinh, thập can, trong đó thập nhị chi và sức khỏe có quan hệ sâu sắc nhất. Tiếp đến là cửu tinh có ý nghĩa quan trọng nhất đối với vận trình. Nguyên tắc xác định phương hướng theo phong thủy rất cần thiết, hãy nắm vững để ứng dụng thật tốt.
Những điều không thể không biết để chọn hướng nhà hợp phong thủy Mua nhà phải biết: Nhà hướng Tây Bắc có tốt không? Xem phong thủy nhà bếp, chọn hướng đại cát đại lợi
Trần Hồng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn chi tiết xác định phương hướng theo phong thủy

Muối, đất, bạc, gỗ, diêm - vật phong thủy hút tài hút lộc?

Mọi người thường không biết mang vật phong thủy hút tài hút lộc cho bản thân và họ áp dụng ngũ hành tương sinh nhưng để hiểu được không phải là dễ.
Muối, đất, bạc, gỗ, diêm - vật phong thủy hút tài hút lộc?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mọi người thường không biết mang vật phong thủy hút tài hút lộc cho bản thân và họ áp dụng ngũ hành tương sinh nhưng để hiểu được bản chất vấn đề không phải là điều đơn giản.


Mọi người ngày càng thích ứng dụng phong thủy trong cuộc sống hằng ngay với mong muốn công việc suôn sẻ, giàu sang, hạnh phúc sẽ tìm đến với mình. Để đáp ứng mong muốn này có nhiều thông tin cho biết để may mắn hơn trong cuộc sống nên mang theo một số đồ vật hợp phong thủy được để trong ví. Vậy người mệnh Mộc, Kim, Thủy, Hỏa, Thổ nên mang gì trong ví? Chúng tôi có thể liệt kê lại như sau:
 

Người mệnh Mộc nên mang gì trong ví?
 

Để được dưỡng mệnh, người mệnh Mộc được khuyên là nên bỏ muối trắng vào ví vì đây là vật phong thủy hút tài hút lộc hợp mệnh.
 
Bạn dễ dàng cầu tài cho bản thân bằng cách rất đơn giản như dùng tờ giấy bạc để gói muối và bỏ vào ngăn nào đó của ví tức là đã tạo nên bùa may mắn mang theo bên người.
 
Muoi, dat, bac, go, diem - vat phong thuy hut tai hut loc hinh anh
 

Người mệnh Kim nên mang gì trong ví?

 
Theo thuyết ngũ hành tương sinh Thổ sinh Kim và hình ảnh đại diện gần gũi nhất với chúng ta của Thổ là đất. Vì thế, người mệnh Kim được khuyên là nên mang đất bên người, chỉ cần gói đất cho vào ví sẽ mang lại tài lộc cho người mệnh Kim.  

Người mệnh Thủy nên mang gì trong ví?

  Vật phong thủy hút tài hút lộc cho người mệnh Thủy đó là bạc. Theo ngũ hành tương sinh Kim sinh Thủy mà những đồ vật được làm bằng bạc tượng trưng cho mệnh Kim, vì thế người mệnh Thủy nên mang theo bạc bên người để sung túc và may mắn hơn.


Người mệnh Hỏa nên mang gì trong ví?

  Theo thuyết ngũ hành Mộc sinh ra Hỏa và gỗ thuộc hành Mộc nên người mệnh Hỏa muốn may mắn, nhiều tài lộc thì cần bỏ mảnh gỗ vào ví. Nếu là gỗ lấy từ cây đang sống thì thực sự là lựa chọn hoàn hảo cho người mệnh Hỏa.
 

Người mệnh Thổ nên mang gì trong ví?
 

Hỏa sinh Thổ nên những đồ vật tượng trưng cho mệnh Hỏa sẽ là vật phong thủy hút tài hút lộc, đó là bật lửa hay bao diêm thì được xem là đồ mang may mắn cho người mệnh Thổ. Vì vậy, những người thuộc mệnh Thổ nên để bật lửa, bao diêm trong ví để luôn mang theo bên người mới. Không những thế, những đồ vật này còn giúp họ tăng may mắn về đường tình duyên.   Ngoài ra nên lưu ý tránh để ngăn nào trong ví trống rỗng vì như thế gây cảm giác tiêu tán tài vận. Nếu các ngăn đều có tiền đồng nghĩa với việc tiền lúc nào cũng đủ đầy, chủ nhân của chiếc ví này sẽ ngày càng giàu có.
 
Hơn nữa, nên đổ vào ví đồng tiền xu vì tiền xu mang năng lượng Kim có ý nghĩa may mắn, hút tiền bạc, thành công về tài chính.
 
Nên để một số tiền nhỏ trong ví và không tiêu số tiền đó. Điều này không những giúp bạn có cảm giác an tâm và tự tin trong mọi tình huống mà nó còn là yếu tố thu hút thêm tiền bạc, sự thịnh vượng cho bản thân…

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm của ngũ hành Thổ
 
 
Muoi, dat, bac, go, diem - vat phong thuy hut tai hut loc hinh anh 2
 
Tuy nhiên, những thông tin vẫn chưa hoàn toàn xác thực vì khái niệm Ngũ hành thực chất là những khái niệm mang tính phân loại cho toàn thể mọi hiện tượng, sự vật, sự kiện, các vấn đề trong vũ trụ, thiên nhiên, cuộc sống và con người. Mọi sự tương tác mang tính quy luật được mô tả theo những khái niệm Ngũ hành và quy luật sinh khắc. Nhưng tính tương tác theo Ngũ hành, nó cũng cần phải có nhiều yếu tố khác nữa để hình thành nên quy luật chứ không đơn giản là mang muối sẽ may mắn như thông tin trên.

Mời bạn tham khảo thêm bài viết: Ngũ hành là gì để hiểu hơn về bản chất của các thuộc tính ngũ hành. 
 
Trong phong thủy thường dùng tính chất tương sinh để hỗ trợ bản mệnh nhưng nó chỉ có thể phát huy nếu cộng hưởng với nhiều yếu tố tương tác tốt khác. Hơn nữa, cần phải phân biệt nội hàm khái niệm mệnh theo Ngũ hành - Kim; Mộc; Thủy; Hỏa; Thổ - mang tính phân loại có tính lý thuyết chứ không phải mạng Kim là người đó có cấu trúc tương tự kim loại và từ đó cho rằng Thổ đất sinh Kim là mạng được dưỡng.   Thuyết ngũ hành không đơn giản chỉ là mệnh Kim bị khuyết thì mang trong người cục đất gói bằng tờ giấy bạc mà cần có tính đồng đẳng trong các mối tương tác liên quan. Tuy nhiên, cách để vật phong thủy trong ví mang lại may mắn, bình an là theo quan điểm tương sinh tương khắc thuyết phong thủy vừa có yếu tố duy vật nhưng vừa mang màu sắc duy tâm.    Khi bạn thực hiện đúng theo hướng dẫn trên đủ giúp bạn yên tâm hơn và tự tin hơn khi ra quyết định nào đó và đó cũng được xem là may mắn. Điều đó phần nào giúp con người cảm thấy bình an nhưng không nên lạm dụng. Mọi việc nên xuất phát từ tâm lý tích cực chắc chắn sẽ có lợi, còn chỉ dựa vào những vật mê tín cầu may còn bản thân không chịu nỗ lực hết mình thì kết quả chỉ là con số không. 

*Bài chỉ mang tính chất tham khảo!

Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Muối, đất, bạc, gỗ, diêm - vật phong thủy hút tài hút lộc?
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd