Tướng người mũi to –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những cách có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm; mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng.
Tránh số và giữ được tiền
Chính bản thân người viết có một lá số Tử vi dở ẹc tại cung Tài bạch. Đã chẳng có Thiên Phủ, Lộc tồn…lại đèo bòng cặp Đại hao, Tiểu hao to tổ bố. Cái đó có nghĩa là kiếm được bao nhiêu, tiêu hết bấy nhiêu.
Mấy ông thầy Tử vi đều bảo kiếm khá lắm đấy và có cái đặc biệt là hết tiền rồi lại có ngay chứ không bị thiếu. Nhưng hễ có rồi lại có chuyện mà phải tiêu đi hết. Như có nhiều thì lại gặp chuyện phải tiêu sài nhiều mà hết…
-Nhưng nếu như tôi ráng không sài thì có được không?
-Đâu có được. Có cái chuyện nó bắt phải sài. Mình cố giữ để không sài mà không được. Song hao ở mão dậu đây là “chúng thủy triều đông” kiếm tiền khá lại tiêu nhiều, tránh không khỏi.
Mà thật nghiệm ra trong chung thân cuộc đời có những cái thật đúng như những lời giải đoán.
Tiền hết lại có, và có đều đều mất việc này lại có việc khác. Cứ kiếm ăn đều đều, và chi phí đều đều chuyện cơm nước, thì chẳng có biến cố nào trong đời buộc mình phải tiêu sài. Nghĩ lại như vậy lại hóa sướng, nghĩa là đỡ lo. Còn như có được món tiền khá, là tự nhiên có việc phải sài, có khi lại tai bay vạ gió nữa. Một lần có được món tiền, cả nhà sanh đau ốm. Một lần khác kiếm được món tiền khá, sanh rắc rối chốn công môn về chuyện chánh trị, thế là tiêu hết.
Và nếu cứ như vậy thì chẳng có cách nào để dành tiền mua được căn nhà hoặc tạo được cái nhà in hay cái trường nho nhỏ. Nhưng một bữa được cụ Hoàng Hạc cho hay cái vụ cải số để có một căn nhà ở yên lành (câu chuyện đã được thuật trong kỳ trước), chúng tôi bèn về nghiền ngẫm lại lá số của mình và các con. Có đứa con gái có cung Tài bạch giữ được tiền… thế là từ đó, mỗi khi kiếm được tiền dư, ngoài số tiền ăn hàng tháng, giao hết cho nó giữ. Quả nhiên, tiền giao cho nó giữ là không bị hao hụt, không bị những biến cố đến làm mình phải tiêu tiền. Nhờ giữ được đồng tiền mà dần dần đủ sức để mua một căn nhà.
Còn cái cộng nghiệp mà không được quên…
Tôi còn nhớ cụ Hoàng Hạc trong một cuộc thảo luận chỉ cho tôi thấy cái sự quan trọng của cộng nghiệp. Một lá số Tử vi không thể là một cái sự bất di bất dịch để cứ thấy sao là đoán như vậy còn phải tham bác cho rộng rãi sang đến phụ mẫu đến vợ chồng, con cái mà luận đoán về vận mạng và hạnh phúc con người. Nếu cứ đúng theo cung mạng Thân, Tài, Điền mà luôn đoán thì e rằng sai lầm. Cái điều này cũng phù hợp phần nào với chuyện cải số;
Có một ông lắc đầu lè lưỡi mà bảo rằng số trời thật là khủng khiếp an bài ra sao là đúng như vậy, ông kể
Thuở thanh niên, tôi thương một người con gái. Hai người giao kết với nhau. Cha mẹ hai bên cũng thuận nhận. Ấy thế mà vì một biến cố thật đặc biệt, hai bên không lấy được nhau là vì người con gái bị một kẻ oai quyền bức bách phải lấy hắn. Chỉ 2 năm sau, tên oai quyền đó lăn ra chết. Thế có phải là tại số tôi sống lâu và tại số cô đó góa chồng sớm mà thành ra Trời không se duyên chăng ?
-Thưa cụ: rất có thể như vậy
-Tôi xây dựng mối duyên khác. Cũng đến lúc sắp cưới thì cô gái bị chuyện bức bách mà chắp duyên với kẻ khác. Rồi vài năm sau, cô ấy mất. Thế chẳng phải là vì tôi không có số góa vợ và cô ấy không có số sống lâu, mà Trời không se duyên.
-Nhưng thưa cụ, số Tử vi có ghi như vậy?
-Có rõ ràng. Số tôi sống lâu và không thể góa vợ sớm, đường vợ con hoàn hảo. Còn số cô thứ nhất kia thì góa chồng sớm. Và số cô thứ hai thì đúng là yểu lạ thật chứ.
-Nhưng, thưa cụ, cũng có những sự kiện khiến hai vợ chồng ăn ở được với nhau lâu dài mà hai lá số không thật sự phù hợp với nhau. Tôi có được gặp cụ Hoàng Hạc chỉ dẫn cho về cái cộng nghiệp để đoán số Tử vi. Chỉ một cung tốt cũng tốt.
Và tôi đã kể lại những vụ đoán trúng phóc của cụ Hoàng Hạc, những lá số như còn ghi trong đầu óc.
Lá số của một cụ…mà nhìn vào cung Mạng, cung Tài, cung Điền, cung Quan lộc, là trông thấy tất cả sự nghèo hèn. Ông cụ khổ cả một đời, những ông thầy tử vi không thể đoán khác.
Cụ Hoàng Hạc, cách đây hơn chục năm, đã được ông Cụ nhờ coi lá số tử vi. Cụ Hoàng Hạc thấy cung Tử tức của lá số tốt quá đã quyết đoán rằng ông Cụ không thể suốt đời nghèo khổ:
-Cụ có con tốt, làm nên và lại có biến, thì làm sao cụ khổ mãi được. Sẽ có một đứa con lo hết cho hai Cụ.
Ông cụ còn bán tín bán nghi, vì đứa con mà Cụ thương nhất mà tánh tình của nó thì còn lang bạt kỳ hồ nơi hải ngoại, chưa nên danh phận. Ấy thế mà chỉ mấy năm sau, nó bỗng về nước, làm to, rồi tậu nhà cho hai cụ ở, và chăm lo mọi chuyện cơm nước. Hai cụ chẳng cần phải lo chi hết, dù rằng không phải là hai cụ nắm quyền.
Cộng nghiệp giữa hai vợ chồng
Và rồi cụ Hoàng Hạc chỉ cho tôi về việc quyết đoán về một cuộc đời không thể nhất thiết là sang hèn giầu nghèo theo các cung Mạng Thân Tài bạch,…mà phải coi đủ 12 cung. Cung nào cũng có phần quan trọng của nó, cung nào cũng có phần ảnh hưởng lớn của nó vào cuộc đời. Dù là Mạng Thân báo trước một cuộc đời hành khất nhưng được một cung tốt, chưa chắc gì dã phải sống hành khất.
Tôi mới nói:
-Phải rồi. Như sách vốn nói, xem số đàn bà quan trọng bậc nhất là cung phu. Bởi vì đàn bà thì vốn nhờ chồng, cung phu mà tốt là tốt.
-Nhưng ngược, đàn ông cung Thê mà tốt thì cũng tốt lắm nghe.
-Ủa, như vậy sao, thưa Cụ?
-Thì tại vợ chồng cuộc đời ra sao, là phải hai số hiệp lại. Thiếu gì người nhờ vợ mà sung sướng.
-Cũng như muốn biết số con bao nhiêu, phải coi số của cả hai vợ chồng mà đoán. Người có nhiều con, người có ít con, đem cộng lại mà chia đôi.
Cụ giải thích thêm:
- Các cung khác cũng vậy. Như số người chồng thật giầu và số người vợ thật nghèo, hoặc ngược lại, thì cũng cộng lại với nhau mà chia đôi ra để được biết về tài lộc của hai vợ chồng ra sao.
trích đăng (KHHB số 3)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Râu, Tóc ở trên người cũng đại diện cho phúc lộc của con người. Hãy xem cách luận tướng mặt qua râu và tóc cụ thể như thế nào.
Râu ở dưới miệng đại diện cho quan vị của con người. Người có lộc mà không có quan tước tức là có râu ở trên mà không có râu ở dưới; có quan mà không có lộc, tức là có râu ở dưới mà không có râu ở trên. Đó là vì, có lộc mà không có quan chủ người giàu có, lại có thể có được phúc, thọ; có quan không có lộc chủ người nghèo hèn, bần tiện, là điềm báo tài sản thất tán, rời xa quê hương, cha mẹ.
Dù Ngũ quan đều là tướng tốt nhưng mệnh chủ định người này cả đời nghèo khổ, chỉ có thể được trường thọ. Nếu một người râu trên và dưới đều tề chỉnh hoàn bị, đó là tướng tốt, phúc lộc song toàn. Nếu người mà có tóc cuộn tròn như nắm đấm, chủ người nghèo khổ.
Râu sáng bóng chủ người có phúc, râu khô héo chủ vận số không tốt. Râu thẳng, chủ người tính tình cương trực, không thể tích tụ được tài sản. Râu mềm mịn, chủ người có tính tình nhu nhược. Nếu râu có màu đỏ, chủ người vận mệnh cô đơn. Nếu tóc cuộn tròn và râu có sắc đỏ chủ người cả đời vất vả. Nếu râu đen sáng mà lại rạng rỡ, chủ người phú quý.
Sáng bóng nhuận sắc là tướng phúc.
Chất tóc khác nhau, số phận khác nhau Tóc của người giống như cây cỏ trên núi cao. Cho nên, tóc của người tốt nhất phải tươi sáng nhỏ dày, sáng bóng. Tóc đen sáng, tú khí được nhập vào trong, như thế mới là tướng quý.
Nếu tóc người lộ sắc vàng, người đó chủ bị khắc hại. Nếu tóc lộ sắc đỏ, chủ người gặp nhiều tai họa. Nếu tóc thô cứng, tính cách đa phần cương nghị, cô độc. Nếu tóc bết mà tỏa ra mùi hôi, người đó đa phần gặp nhiều khó khăn mà lại là kẻ bần tiện. Nếu tóc xoăn tít là người gian trá lại rất nghèo khổ.
Nếu tóc ở mép tóc tương đối nhiều chủ là người nghèo khổ. Nếu mép tóc tương đối cao, tính cách lương thiện. Nếu tóc sau gáy mà cao, tính tình người đó đa phần độc ác, nham hiểm. Nếu bên cạnh tai mà không có tóc mai, tâm địa nham hiểm, độc ác tựa như trong bụng chứa dao có độc. Nếu tóc người dài quá mày mà khiến trán rối loạn, người đó gặp nhiều tai họa. Nếu tóc mai thô mà mỏng bạc, người đó không có nhiều tài sản, cơm áo. Nếu tóc mai khô héo, người đó cả đời buồn khổ không ngừng.
Tóc đen, sợi tóc nhỏ chủ phú quý
Nếu một người tóc đen, sợi nhỏ, dày, chủ khí huyết đầy đủ, sung mãn. Nếu là tóc thô mà mỏng thưa, khí huyết tương đối mỏng bạc. Nếu tóc mịn mà bóng sáng, khí huyết thịnh vượng. Nêu tóc khô héo chủ người có khí huyết suy nhược. Nếu sợi tóc nhỏ mà sáng bóng, chủ người thích hợp làm quan. Nếu tóc đen nhỏ, đó là người được hưởng vinh hoa phú quý.
Nếu tóc mai rối loạn, người đó gian trá, xảo quyệt. Nếu trên trán có tóc rối loạn, người đó khắc hại mẹ. Nếu tóc mai không chỉnh tề, người như thế sẽ khắc hại vợ. Nếu chưa đến 40 tuổi mà tóc đã chuyển màu trắng, như thế là do khí huyết suy nhược tạo thành, tính cách người đó rất vui vẻ nhưng tuổi thọ không lâu dài. Nếu tóc mai cứng tựa như kim nhọn, người đó bất luận làm con hay làm bề tôi đều thiếu trung nghĩa, thiếu hiếu kính.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Bí quyết cắm hoa đào ngày Tết |
Có lẽ giờ ít người còn nhớ trong số 12 Tết cổ truyền của Việt Nam, tháng 9 âm lịch cũng có một ngày Tết như vậy. Cũng ít người còn biết ngày 9 tháng 9 âm lịch là ngày gì. Theo truyền thống, đây là ngày Tết Trùng Cửu, là ngày tết có nguồn gốc từ rất lâu đời.
Nàng là người như thế nào? Nàng hay vuốt lông mày, liếm môi, cho tay ra sau gáy, tay chân rung, uốn éo, …
Trong xem tướng mệnh học, người ta nhìn con người dưới nhiều khía cạnh khác nhau từ những nhận xét về cơ thể học, tâm lý học, xã hội học… Tướng mệnh học pha lẫn giữa hai loại khoa học tự nhiên và văn chương. Tướng mệnh của một người là định mệnh của người đó được thể hiện ra ngoài dưới những nét riêng về tướng cách, diện sắc, tâm tướng và tình tướng của cá nhân đó.
Trong sách Tướng mệnh học có một số vấn đề liên quan đến tính dục và giới tính của phụ nữ được phân tích khá sâu sắc. Nhìn sắc diện bên ngoài, khóe mắt làn da, nhìn cách cười nói, đi lại nằm ngồi, những chuyên gia về tướng mệnh học có thể suy đoán tính cách tính dục của người ấy những tướng như: Hung cao điến kiệu, yêu tế kiên hàn, thân như phong liễu, hạc thoái phong yêu (ngực ưỡn đít cong, eo nhỏ vai so, người ngả nghiêng như cây liễu, lưng như lưng ong, gầy như chân hạc…) đều thuộc tướng dâm.
Căn cứ vào tướng pháp của Thủy Kính, Ma Y, Hứa Phụ, Quản Lộ, Quí Cốc cũng như Thu Đàm Nguyệt, Nữ ngọc Quản Quyết, Linh Đài Bí… thì cho thấy những dâm tướng qua cử chỉ nữ nhân như sau: – Phụ nữ ngồi thường mân mê mái tóc là người rất đam mê tình dục. – Ngồi mà hay vuốt lông mày, liếm môi, cho tay ra sau gáy, tay chân rung, uốn éo thì ý dâm vượng thịnh, hiếu dâm, đa tình, đa dâm. Trong Dâm dật ca có câu: Yếm nhiên hàn tiếu ngữ. Dâm dật đới tình si (vừa nói vừa cười là dâm dật si tình) Vị ngữ tiên tiếu dã đa dâm loạn (chưa nói đã cười là loại loạn dâm). Hay câu ca khác: Nữ nhân đào hoa nhãn Tư phòng liễu diệp mi Vô môi năng tự giá Nguyệt hạ nữ nhân kỳ (Người phụ nữ có đôi mắt hào hoa, lại thêm lông mày như lá liễu là loại trăng hoa đáo để….). Trong phong thái, ăn mặc, trang điểm cũng nói lên cái tính khí gợi tình lẳng lơ qua mấy câu thơ của Hồ Xuân Hương: Mùa hè hây hẩy gió nồm đông Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng Lược trúc biếng cài trên mái tóc Yếm đào trễ xuống dưới lưng ong… Dâm sẽ là một điều xấu, thô bỉ và trơ trẽn nếu nó không được con người kiềm chế khi thực hiện nhu cầu tự nhiên này một cách bừa bãi cẩu thả. Xấu hay không là ở chỗ cái ý nó thể hiện dâm tính, bởi vì dâm cũng là một nhu cầu rất tự nhiên, nhất là trong đời sống vợ chồng.
Như chúng ta đã biết, sao Tử Vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, thuộc âm thổ. Trong Đẩu Số, sao Tử Vi có địa vị chí tôn chí quý, cho nên cổ nhân ví với "đế tọa", tức là ví Tử Vi là vua của một nước. Vua của một nước tuy tôn quý, nhưng không phải việc gì cũng nhất định sẽ như ý. Vì vậy muốn luận đoán tính chất của Tử Vi trong mệnh bàn, cần phải căn cứ vào sự hội hợp hoặc đồng độ của các sao mà định.
Tử Vi không nên làm "cô quân", vì vậy rất ưa "bách quan triều củng . Cái gọi là "bách quan", cũng chia thành hai hệ, một hệ là chính diệu, một hệ là phụ, tá, và tạp diệu.
Chính diệu triều củng Tử Vi cần phải là Thiên Phủ, Thiên Tướng mới hợp cách. Thiên Phủ là "kho tiền", Thiên Tướng là "quan ân". Quân vương mà không có kho tiền thì không thể lập quôc, không có quan ấn thì không thể ban hành mệnh lệnh.
Dù được "Phủ Tướng triều viên" vẫn cần phải nghiên cứu tính chất của Thiên Phủ và Thiên Tướng trong tinh bàn.
Khi "triều củng" Tử Vi, Thiên Phủ rât ưa gặp sao lộc, trong đó trường hợp gặp Vũ Khúc Hóa Lộc là thượng cách, trường hợp gặp Liêm Trinh Hóa Lộc là kế đó, trường hợp gặp Lộc Tổn là sau cùng. Được sao lộc thì kho tiền đầy. Không nên đồng độ với Địa Không, Thiên Không, cũng không ưa Chính Tiệt Không và Chính Tuần Không. Thiên Phủ có "sao không" đồng cung là "kho trống", dù hội hợp với Tử Vi cũng không có tác dụng.
Thiên Tướng "triều củng" Tử Vi, rất ưa gặp "Tài ấm giáp ấn" (tức là Thiên Đồng Hóa Lộc, hoặc Cự Môn Hóa Lộc, cùng với Thiên Lương giáp Thiên Tướng); rất kị gặp "Hình kị giáp ấn" tức là Thiên Đổng Hóa Kị, hoặc Cự Môn Hóa Kị, cùng với Thiên Lương giáp Thiên Tướng); nếu Kình Dương và Đà La cùng giáp Thiên Tướng cũng có tính chất không lành.
Phụ diệu "triều củng" Tử Vi, rất ưa Tả Phụ và Hữu Bật cùng giáp cung; tình huống này chỉ thấy ở hai cung Sửu hoặc Mùi, được giáp là ' Tử Vi, Phá Quân". Có thể cải thiện những hiểm trở sẽ gặp phải của hai sao "Tử Vi, Phá Quân". Nếu gặp Tả Phụ, Hữu Bật hội
Có thể gọi là tạp diệu "triều củng", ví dụ như sau:
Còn Hóa Lộc, Hóa Quyển, Hóa Khoa thì không gọi là "triều củng", mà chỉ có tác dụng ở phương diện cải thiện vận thế
Tử Vi nhập miếu không có "bách quan triều củng" thì còn khá, nếu lạc hãm mà còn không có "bách quan triểu củng" là "tại dã cô quân". Tính chất của nó, lại có thế chia ra hai loại là: "sao không" và không gặp "sao không".
Gặp "sao không" chủ vể người này tuy có thành kiến rất nặng, nhưng tư tường siêu thoát. Cho nên nếu gặp thêm Hoa Cái Thiên Hình, thì có khuynh hướng nghiên cứu triết lí hoặc tôn giáo. Càng nên gặp hai sao Thiên Đức Bác Sĩ; nếu đồng thời tọa Văn Xương hoặc Văn Khúc, thì chủ về lỗi lạc bất phàm
Không gặp "sao không", người này có thể xử sự không uyển chuyển, không ra lệnh được, nhưng không chịu cúi đầu trước người khác, vì vậy mà tạo thành khó khăn cho bản thân.
"Tại dã cô quân" không nên gặp các sao sát, kị. Gặp sao không mà gặp thêm các sao sát, kị, chủ về người này không nhờ được người thân, thời xưa là mệnh số làm tăng nhân, đạo sĩ. Không gặp sao không mà gặp các sao sát, kị, thì cuộc đời nhiều thị phi phiền toái. Trong vận hạn mà gặp nó, cũng chủ về kiện tụng hoặc phẫụ thuật.
Tình hình thường gặp nhất là Tử Vi tọa mệnh mà các sao cát và sao hung cùng tụ tập ở tam phương tứ chính. Lúc luận đoán cần phải biết tường tận tính chất cá biệt của từng sao, không được bỏ sót.
Ví dụ như "Tử Vi, Phá Quân" tọa mệnh ở cung Sửu, được Tả Phụ, Hữu Bật cùng giáp cung, nhưng ờ cung Dậu gặp Kình Dương, cung Mùi gặp Đà La. Tinh hệ có kết cấu dạng này, chủ về nhờ Tả Phụ, Hữu Bật giáp cung mà có nhiều trợ lực, nhưng không tránh được sẽ bị tranh chấp bất ngờ về phương diện sự nghiệp, và lúc trẻ dễ bị bâ't lợi, ví dụ như phá tướng.
Nhưng trong những tình hình thông thường, khi cát tinh và sao hung tụ tập, gặp sao lộc chỉ lợi về kinh doanh làm ăn; gặp Văn Xương, Văn Khúc mà có các sao sát, kị hội hợp, thì có thể thành nhân tài chuyên nghiệp.
Trong các sát tính, Tử Vi chỉ sợ Kình Dương, Đà La, mà không sợ Hỏa Tinh, Linh Tinh. Nhưng cũng không ưa Kình Dương, Đà La và Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng thời hội hợp. Tứ sát tinh cùng chiếu, thì Tử Vi trở thành bạo chúa; người này quá nặng ưa ghét, thành kiến, hơn nữa tâm chí đê tiện, nhu nhược, nhưng độc đoán cao ngạo.
Nếu là Kình Dương và Đà La giáp cung, thì dễ chuốc oán; Hỏa Tinh và Linh Tinh giáp cung thì chỉ chủ về vất vả. Cả hai trường hợp đều chủ về việc gì cũng phải tự mình làm.
Tử Vi phân bố ở 12 cung, có thể chia thành 6 loại kết cấu như: "độc tọa", "Tư Vi, Phá Quân"Tử Vi, Thiên Phủ", "Tử Vi, Tham Lang", "Tử Vi Thiên Tướng", "Tử Vi Thất Sát"; đối cung cũng là Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang và Thiên Phủ; có thể thây Tử Vi có quan hệ râ't lón vói 4 các sao này.
Nói một cách đại khái, trong 12 tinh hệ Tử Vi thì các trường hợp như "Tử Vi, Phá Quân" ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tử Vi độc tọa ở cung Ngọ, "Tử Vi, Thất Sát" ở hai cung Tị hoặc Hợi là khá dễ trở thành cách cục tốt lành; và hơi ngại trường hợp "Tử Vi, Thiên Tướng" ở hai cung Thìn hoặc Tuất.
Trong vận hạn mà gặp Tử Vi tọa cung mệnh, cũng cần tham khảo các tính chất đã thuật ở trên, bởi vì cung mệnh của đại hạn và lưu niên, Tử Vi tuy không có tính cách cơ bản là độc đoán, nhưng cũng biểu thị sự phát huy tài lãnh đạo. Gặp cát tinh tụ tập, thường thường là vận trình một mình phụ trách công việc.
Cách cục Tử Vi tọa mệnh, cũng có tốt có xấu. Trong Đẩu Số, có thể nói Tử Vi là chủ tinh trong 14 chính diệu, bởi vì các sao trong hai tính hệ Bắc Đẩu và Nam Đẩu đều phải theo nó mà bày bố, do đó cổ nhân xem nó "đế tinh", tức là có ý vị của một lãnh đạo.
Nhìn từ góc độ tốt, người có Tử Vi tọa cung mệnh, về đại thể đều có thể phùng hung hóa cát, cục diện càng khốn khó, càng có thể phát huy tài năng một cách ung dung mà không rối loạn, đồng thời cũng khá có chủ kiến. Nhưng xét từ mặt xấu, thường thường sẽ biến thành cô độc và độc đoán, đồng thời còn là người có nhiều ngạo khí.
Cho nên gặp người có Tử Vi tọa mệnh, ngoại trừ xem "tam phương tứ chính" của cung mệnh, còn phải xem cung phúc đức, nếu tốt, thì mệnh tạo một đời được hưởng nhiều phúc khí. Ngoài ra, cần phải xem học vấn của mệnh tạo, nếu gặp Văn Xương, Văn Khúc, hoặc Hóa Khoa, thì nhờ có học, tuy hơi độc đoán nhưng thường thường cũng có thể đưa ra quyết định tốt. Nhưng phán đoán của người này, đương thời nhất định sẽ không làm cho người ta tin phục, mà còn khiến cho người ta thấy người này thành "thích cố chấp", bởi vì người này có cái nhìn xa, đi trước người khác nhiều bước. Đổng thời tính khí của người này nhất định cũng không dễ tùy thuận hòa đồng, không chịu phụ họa theo người khác, vì vậy càng dễ khiến người ta cho rằng họ có thiên kiến. Nếu đã từng biện luận kịch liệt, thì sau chuyện đó, dù người này có liệu việc đúng như thần, cũng chưa chắc người khác đã tâm phục. Đây là bi kịch trong mệnh vận của người có Tử Vi tọa mệnh. Giả dụ như cung sự nghiệp hoặc cung tài bạch hơi kém, thì địa vị xã hội không cao, còn khó khiến cho người ta phục tùng, kết quả phát triển thành nguy cơ có tính phẫn thế và ghét đời. Cổ nhân nói Tử Vi mà gặp các sao sát, sao không, làm tăng nhân hay làm đạo sĩ thì còn phải xem sâu thêm một bậc.
Nhưng Tử Vi nhập mệnh mà không gặp Văn Xương, Văn Khúc hoặc Hóa Khoa, thì chủ về có học hành mà không có thành tựu; nếu là người ít học thức, thường thường sẽ đưa ra những phán đoán sai lầm. Nhất là người có cung phúc đức xấu, sẽ biến thành bạo ngược một cách thô bỉ.
Cổ nhân nói Tử Vi ưa gặp lục cát tinh, tức Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, nguyên nhân phấn lớn là vì lí lẽ đã thuật ở trên. Gặp Văn Xương, Văn Khúc là có học hành; gặp Tả Phụ, Hữu Bật thì có trợ lực; gặp Thiên Khôi, Thiên Việt là có cơ hội, đều có thể nâng cao địa vị của người có Tử Vi tọa mệnh, ảnh hưởng rất lớn đô'i với vận trình một đời của mệnh tạo.
"Tử Vi và Thiên Phủ" đồng cung, không nhất định được hưởng nhiều phúc
Tử Vi và Thiên Phủ là hai chủ tinh, tinh hình cùng ở một cung chỉ có hai trường hợp, ờ cung Dần, hoặc ở cung Thân; và nhất định cung tài bạch sẽ gặp Vũ Khúc; cung sự nghiệp nhất định gặp Liêm Trinh và Thiên Tướng; đối cung tất nhiên phải là Thất Sát. Đây là phối hợp cố định của "tam phương tứ chính".
Theo lí, phối hợp này khá mạnh, có thể nói là một "chuyên gia nội các". Tử Vi và Thiên Phủ thủ mệnh, tài tinh Vũ Khúc thủ cung tài bạch, Thiên Tướng là "ấn tinh" thủ sự nghiệp, Liêm Trinh lại chủ về là người có tài năng, thêm vào đó, đối cung có Thất Sát xung phong hãm trận, đúng là người có thể công mà cũng có thể thủ, có thế ở trong trướng mà quyết thắng ngàn dặm.
Nhưng khi các sao hữu lực tập trung quá nhiều lại dễ gây ra biến hóa thay đổi. Tử Vi độc đoán, Thiên Phủ vững vàng; Tử Vi quyết đoán, Thiên Phủ không có chủ kiến; hai sao này đều là chủ tinh mà cùng ở một cung, sẽ dễ xảy ra tình hình kềm chế lẫn nhau.
Cần nói thêm, do cát tinh đều tập trung ở tam phương tứ chính, nên các cung còn lại sẽ chỉ còn một số sao vô lực hoặc không cát tường, do đó đại hạn và lưu niên mà đến cung này, so với cung mệnh, các sao vô lực thường thường sẽ sinh ra tình huống "mệnh tốt mà vận xấu", khiến mệnh tạo sẽ cảm thấy "tâm so với trời cao, mà thân thì thấp hèn".
Cho nên cuộc đời có được hưởng phúc nhiều hay không, còn phải xem sự phối hợp của tứ sát tính và lục cát tinh mà định. Người có mệnh là "Tử Vi và Thiên Phủ đồng cung", rất ưa được Lộc Tồn đồng cung hoặc ở đối cung. Đây cũng là vì hai sao Tử Vi và Thiên Phủ không "Hóa Lộc", cho nên đặc biệt thích Lộc Tồn.
"Tử Vi, Tham Lang" đồng cung, có phải là "Đào hoa phạm chủ" không?
Cổ ca "Thái Vi phú" nói: "Đào hoa phạm chủ là cực dâm". Nói "Đào hoa phạm chủ" tức là Tham Lang và Tử Vi đồng cung. Tình hình này chỉ xảy ra ở hai cung Mão hoặc Dậu.
Nếu hội các sao Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Tài, Bác Sĩ, ngoài việc khéo giao tế ra, nhất định còn có thú vui "phong lưu thi tửu", hoặc tính thông âm nhạc. Liễu Vĩnh, một thi nhân đời Tông có tính phong lưu, là người có Tham Lang tọa mệnh.
Lúc Tử Vi tọa mệnh mà gặp Tham Lang, bản chất khéo giao tế và tính phong lưu thi tửu sẽ vì vậy mà thường hơi tự tư, ích kỉ, dễ biến thành chìm đắm trong hưởng thụ nhục dục. Cho nên, ở đây thực ra chỉ là kết quả của việc hai sao Tử Vi và Tham Lang gặp nhau.
Do đó, người có "Tử Vi, Tham Lang" tọa mệnh nếu phát triển theo con đường chính thì sẽ có thành tựu, có thể trở thành văn học gia hoặc nghệ thuật gia, nói "phong lưu mà không hạ lưu" là như vậy.
Có thể phát triển theo con đường chính hay không các sao hội hợp có liên quan. Nếu gặp phải Kình Dương, phá hoại, khiến tính chất văn nghệ của Tham Lang sẽ hướng hạ lưu. Ví dụ như thích xem tranh ảnh khiêu dâm, dâm khúc, thích xem tiểu thuyết sắc tình, tính thích phe tửu sẽ vì vậy mà biến thành quê mùa hạ lưu. Lúc này phát triển theo con đường chính sẽ rất khó. Nếu hội hợp với cá Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phụi hoặc hội hợp với các sao chủ về kỉ luật như Hóa Kị, sao Hình thì phát triển theo con đường chính sẽ dễ hơn.
"Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, vì người khác mà bôn ba
Nếu Tử Vi ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ cùng mệnh với Phá Quân. Luận đoán phối hợp, phải là không tệ bởi vì Tử Vi là đế tọa, Phá Quân thì có "uy quyền", hai sao phối hợp sức mạnh đột phá và thanh thế dữ dội.
Cung mệnh như vậy rất ưa gặp Lộc Tồn. Người tọa mệnh ở cung Sửu, sinh năm Bính, cung sự nghiệp sẽ gặp sao lộc, người sinh năm Tân, cung tài bạch sẽ gặp sao lộc. Người tọa mệnh ở cung năm Nhâm, cung sự nghiệp sẽ gặp sao lộc; sinh năm Ất cung tài bạch sẽ gặp sao lộc, chủ về có sự trợ giúp cho toàn bộ. Nhưng vẫn lấy trường hợp gặp sao lộc ở cung sự nghiệp lợi về phát triển trong chính giới, hoặc làm việc trong cơ cấu công cộng. Nếu gặp sao lộc ở cung tài bạch, tuy kinh doanh làm ăn phát đạt, nhưng khó tránh phải gặp sóng gió, trắc trở. Vì Phá Quân vẫn tồn tại một lực xung kích, mà biến động phải lớn, thậm chí thường thường khi ra một quyết định ảnh hưởng đến mệnh vận một đời, tuy có Tử Vi quản chế, tránh vất vả, nhất là chủ về nhiều lo toan nghĩ ngợi.
Nếu như hội hợp với sát tinh, thì tình trạng lo toan sẽ thiên về bản thân, ích kỉ, mà còn thường cậy quyền thế để được mục đích của bản thân. Cho nên cổ thư cho rằng mệ tôi thần bất trung, là con trai bất hiếu". Nhưng nếu hội họp trợ tinh, như Tả Phụ, Hữu Bật, sẽ chủ về là người thẳng thắn, có tư chất lãnh đạo, có thể làm công tác lãnh đạo trong công ti lớn hoặc nhà nước.
Thời cổ đại cho rằng, thương nhân nhất định phải là người giảo hoạt, nên người xưa nói, "Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh gặp Kình Dưong, Đà La, thích hợp kinh doanh làm ăn. Thực ra người có mệnh cục loại này, vẫn có mặt "chính trực" của họ, ở thời đại chưa chắc thích hợp phát triển trong giới thương nghiệp, trừ phi người này kinh doanh theo phương thức có tính sáng tạo, phát minh.
Phàm là người có "Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, thường có thể kiêm nhiều chức vụ, hoặc đồng thời làm hai nghề. Tuy có cảm giác mệt mỏi, nhưng họ lại lấy sự bận rộn, vất vả làm sự hưởng thụ. Do đó nếu như các sao của cung phu thê không tốt, người có mệnh cục loại này, duyên phận vợ chồng cũng sẽ có khiếm khuyết, đây là nhược điểm của họ.
"Tử Vi, Thiên Tướng" đối Phá Quân, có kĩ năng đặc thù
Tử Vi Đẩu Số toàn thư nói: "Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi "là tôi thần bất trung, là con trai bất hiếu".
Câu này biểu hiện rõ ràng cổ nhân cho rằng phối hợp "Tử Vi, Phá Quân" là không lành.
Tử Vi ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ắt sẽ có Thiên Tướng cùng thủ tọa, ở đôi cung ắt sẽ gặp Phá Quân. Chiếu theo thuyết của cổ nhân, dường như cho rằng "Tử Vi, Phá Quân" đồng cung thì tốt hơn "Tử Vi, Thiên Tướng" tương xung Phá Quân; bởi vì "Tử Vi, Phá Quân tọa mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thêm sao cát, rất phú quý", còn "Tử Vi ở hai cung Thìn hoặc Tuất gặp Phá Quân, là vua tôi bất nghĩa, giàu mà không sang, có hư danh", rõ ràng ở hai cung Thìn hoặc Tuất là không bằng ở hai cung Sửu hoặc Mùi.
Tại sao đồng cung lại tốt hơn ở đôi cung?
Then chốt của vấn đề có hai điểm:
Do đó phàm là người có Tử Vi thủ mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, sẽ có nhược điểm về tính cách, bản thân thích mạo hiểm, nhưng lại xúi người khác xung phong đi đầu, rồi bản thân mới chịu tiến tới.
Tính cách này, cổ nhân nói là "vua tôi bất nghĩa". Phân tích cho thấy, đây là ảnh hưởng của Phá Quân và Thiên Tướng đối với Tử Vi.
Người có mệnh cục phối hợp loại này, rất ưa Phá Quân hoặc cung mệnh gặp sao lộc, bất kể Hóa Lộc hay Lộc Tồn đều được, có sao lộc thì có thể kềm chế Phá Quân, khiến tính mạo hiểm và lực phá hoại của nó giảm bớt.
Cũng ưa có Tả Phụ hoặc Hữu Bật đổng cung với Tử Vi (cho nên lợi cho người sinh vào tháng 1, tháng 7); bởi vì Tả Phụ, Hữu Bật có thể làm mạnh thêm lực chế hóa của Tử Vi đối vói Phá Quân. Có điều, lúc này cũng sẽ làm mạnh thêm tính cách độc đoán, độc hành của Tử Vi, vì vậy biếu hiện cá tính mạnh mẽ, hỉ nộ tùy ý.
Nhưng người có "Tử Vi, Thiên Tướng" thủ mệnh gặp Phá Quân, ắt sẽ có kĩ năng đặc thù, trong đời cũng sẽ có một hai lần gặp vận may đặc biệt, đây là đặc điểm của mệnh cục này.
Mệnh cách "Tử Vi, Thất Sát", tay trắng làm nên
Tử Vi thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ đồng độ với Thất Sát. Cổ nhân đánh giá cách cục "Tử Vi, Thất Sát" rằng: "Tử Vi, Thất Sát Hóa Quyền, thì cát tường"; "Tử Vi, Thất Sát thêm sao không, chủ về có hư danh hưởng phúc ấm"; "Tử Vi, Thất Sát đồng cung, gặp tứ sát tinh là không quý, chủ về cô độc, hình thương."
Thất Sát và Phá Quân trong Đẩu Số tuy cùng thuộc loại sao "thượng tướng", nhưng tính chất lại có phân biệt.
Thất Sát thuộc âm kim, mang hỏa khí, Phá Quân thì thuộc âm thủy. Cho nên Thất Sát mang sát khí, còn Phá Quân thì có lực phá hoại. Vì vậy Thất Sát chủ về biến động, không biến động thì thôi, sẽ vĩnh viễn không biến động, còn đã biến động thì sẽ biến động lớn mà còn lâu dài; Phá Quân cũng chủ về biến động, nhưng biến động nhiều lần một cách bất thường, và rất hao tổn nguyên khí, có khuynh hướng phá hoại.
"Tử Vi, Thất Sát" phối hợp, cũng giống như Tống Giang và Lâm Xung, còn "Tử Vi, Phá Quân" phối hợp, thì giống như Tống Giang và Lí Quỳ, trong Thủy Hử truyện.
Do đó người có "Tử Vi, Phá Quân" thủ mệnh, cuộc đời có ít nhiều kịch tính; còn người "Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh, lại có khí khái đường đường.
Thông thường, người "Tử Vi, Thất Sát" thủ mệnh có năng lực khai sáng, có thể tay trắng làm nên, không sợ khốn khó, thậm chí khốn khó càng lớn thì "sức khai sáng" cũng càng lớn, phát đạt thì càng rực rỡ. Xét từ phương diện tính cách, người có mệnh cục loại này nhất định có cá tính mạnh, không chịu phục tùng. Vì vậy người có mức độ giáo dục khác nhau, tuy cùng một mệnh cục, vẫn có biểu hiện cực kì khác nhau. Có người sáng lập được sự nghiệp, cũng có người chỉ là kẻ hung hăng ờ chốn chợ búa.
Cho nên "Tử Vi, Thất Sát" đồng cung, điều tối quan trọng là xem sự phối hợp của hai sao Văn Xương, Văn Khúc; và cung phụ mẫu gặp cát tinh hay là sát tinh, những điều này đều quan hệ đến cơ hội được giáo dục của mệnh tạo.
- Ngón tay dài bằng lòng bàn tay: Trí thức, khôn ngoan, có óc phân tích, dể cảm động, nóng tính. Tay nhà cai trị giỏi, giám đốc…
- Ngón tay dài hơn lòng bàn tay: Trí tuệ, óc nghệ sĩ, kiên nhẫn, tỷ mỷ, kín đáo, nhút nhát.
- Ngón tay có gút: Hành động cân nhắc. Có gút gần móng tay: Hay hoài nghi và tìm nguyên nhân sự việc, nếu gút này to: Ưa tìm hiểu, ưa tranh luận, hay tự mãn nếu hạ được người đối thoại. Có gút gần lòng bàn tay: Kỹ lưỡng, trật tự, hay cân nhắc, có trật tự bản thân, nếu gút này to: Ưa hoạt động thuơng mại.
- Ngón tay quá dịu: Tính yếu ớt, nhiều tình cảm.
- Ngón tay dễ uốn: Tính dễ thích nghi, hay đổi ý, hào phóng.
- Ngón tay quá cứng: Độc đoán, thiển kiến, hẹp hòi, hay nghi ngờ.
- Các ngón tay hở: Kém thông minh, ích kỷ.
- Các ngón tay kín: Tính cẩn thận, lý luận, cần kiệm.
- Các ngón tay hở ở chân, kín phía trên: Hào phóng (tình cảm hay tiền bạc hay tư tưởng), không kín đáo, có óc tự do. (Trường hợp ngón tay không gò, thấy lổ hở dù có hay không gút: Nghèo, thậm chí vất vả mới đủ ăn).
- Ngón tay trỏ cong quẹo: Bịnh liên quan về gan.
- Ngón tay giữa cong quẹo: Bịnh ở liên quan đến ruột tỳ, tai, gân cốt.
- Ngón áp út cong quẹo: Bịnh liên quan hệ thần kinh, tim, thận, mắt.
- Ngón tay út cong quẹo: Bịnh liên quan bộ phận sinh dục, bài tiết, hay hệ thần kinh.
- Các ngón tay đều cong quẹo: Thiếu ngay thẳng, hay lầm lạc.
- Ngón tay trỏ méo: Hành động bất chấp luân lý và trật tự xã hội.
- Ngón tay giữa méo: Câu chấp, độc tài, thiếu tình cảm.
- Ngón tay áp út méo và cong vừa: Rộng rãi, cong quá là thiếu lương tâm.
- Ngón tay út cong quẹo ít: Khéo léo trong nghề, cong nhiều: Bất lương, gian dối.
Nguồn: Tổng hợp
Người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ.
Một thời, Thế Tôn ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
1. Này các Tỷ-kheo, ta sẽ giảng cho các Thầy về địa vị bậc không phải Chân nhân và địa vị bậc Chân nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Này các Tỷ-kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân nhân? Người không phải Chân nhân, này các Tỷ-kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, là biết ơn, là nhớ ơn. Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân nhân, này các Tỷ-kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn.
2. Có hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.
(Kinh Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tâm thăng bằng, phần Đất)
Sống ở đời, biết ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ để hiếu kính đã là điều khó. Nhưng để trở thành người con có hiếu đúng nghĩa, tâm hiếu và hạnh hiếu vẹn toàn lại càng khó khăn hơn. Trong nhiều kinh điển, Thế Tôn thường nói đến công ơn cha mẹ bao la như trời biển, dù chúng ta có hiếu thảo đến mấy vẫn khó có thể đáp đền. Tuy vậy, pháp thoại này Thế Tôn đã chỉ bày một phương thức báo hiếu khác với lệ thường, đó là hướng dẫn cha mẹ tu học, chuyển hóa ba ác nghiệp, mà theo Ngài là “trả ơn đủ cho mẹ và cha”.
Trước hết, Thế Tôn xác quyết rằng, biết ơn và nhớ ơn là đặc tính của bậc chân nhân, của bậc thiện nhân. Khi một người không có hay đã đánh mất đặc tính biết ơn và nhớ ơn thì chắc chắn đó là người độc ác, là kẻ bất nhân, bất chính.
Ngay cả những bậc giàu sang, uy quyền tột bậc trên thế gian, một lòng cung phụng song thân thì vẫn không đủ, vì ân đức cha mẹ sinh dưỡng, tác thành cho con cái nên người quá lớn, đến độ không thể nghĩ bàn.
Rõ ràng, Thế Tôn rất chú trọng đến sự chuyển hóa nghiệp lực cho cha mẹ để mong đời sau cha mẹ tái sanh vào cảnh giới tốt đẹp hơn. Vì đời sống hiện tại vốn hữu hạn và vô thường. Sau đời sống này còn vô số kiếp sống khác nữa. Nếu thương cha mẹ mà thiếu trí tuệ, có thể tạo thêm nghiệp cho cha mẹ mà không tích lũy được phước báo nào cả thì chưa thể gọi đó là thương, là hiếu đúng nghĩa và trọn vẹn nhất.
Vì thế, người con Phật hiếu đạo luôn phụng dưỡng và kính thuận cha mẹ trong hiện đời nhưng cũng không quên tạo dựng hành trang an lành cho cha mẹ khi giả từ cuộc thế, để tái sinh vào cõi lành. Hành trang đó chính là tín, giới, thí và tuệ. Điều này có nghĩa là đời này và đời sau cha mẹ đều hạnh phúc. Vì thế mà Thế Tôn khẳng định là đã làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.
Núi Hàm Rồng - Thanh Hóa |
|
|
|
|
||||
Tý | Sửu | Dần | Mão | ||||
|
|
|
|
||||
Thìn | Tỵ | Ngọ | Mùi | ||||
|
|
|
|
||||
Thân | Dậu | Tuất | Hợi |
Tuệ Anh (theo Diyixz)
Phúc Đăng, Lư Trung dữ Sơn Đầu
Tam Hỏa nguyên lai phách Thủy lưu
Thiên Thượng, Tích , Sơn hạ Hỏa
Thủy trung nhất ngô cân vương hâu.
Còn Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) và Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét) lại cần phối hợp với hành Thủy, bởi có nước thì càng phát huy được tính chất, khí âm (thủy) gặp khí dương (hỏa) sẽ gây ra sấm sét.
Sách Bác Vật Vựng Biên chép: "Mậu Tý, Kỷ Sửu, Sửu thuộc Thổ, Tý thuộc Thủy, Thủy ở chính vị mà nạp âm lại là Hỏa, nếu không phải thần long tất nhiên Thủy không biến ra Hỏa được, cho nên gọi bằng Tích Lịch Hỏa như tia lửa từ sấm chớp tức Thủy trung chi Hỏa".
Tích Lịch Hỏa lẫm liệt như tiếng sấm vang, nhanh tựa tia điện. Người Tích Lịch Hỏa mệnh nhiều sao tốt sự nghiệp cơ nghiệp thành công hơn người, thích làm việc to tát, càng loạn lạc càng xáo trộn khả năng càng phát triển.
Người mạng Tích Lịch Hỏa mà mệnh cung tầm thường chuộng hư danh thích nổi trôi dễ bị xúi giục làm những việc xuẩn ngốc như kiểu ôm bom ba càng nằm chắn xe tăng.
Người Tích Lịch Hỏa ưa vào cờ bạc thường bị bịp làm những chuyện bất ngờ, tâm ý nhiệt thành không giảo quyệt, luôn luôn ngăn nắp và kỷ luật.
Ảnh minh họa |
=> Xem ngày tốt xấu để tiến hành các việc đại sự |
=> Xem ngày tốt chuẩn nhất tại Lichngaytot.com |
No.1: Con gái tuổi Dần
Tính như “hổ vồ” của các cô nàng tuổi Dần khiến các chàng sợ chạy mất dép nếu chưa quen thân. Người cầm tinh con hổ thường mạnh mẽ, kiên cường và thêm chút bất cần. Họ là hình mẫu lý tưởng để hội “đầu keo” học hỏi và ngưỡng mộ trong công việc, học hành.
Ngược lại, với chuyện tình cảm cần sự mềm mỏng, con gái tuổi Dần lại không làm tốt. Thậm chí, họ chủ động được mọi chuyện khiến cánh con trai cho rằng mình là đồ thừa, không làm bờ vai vững chãi cho nàng. Nếu dịu dàng hơn đôi chút, biết cách thể hiện tình cảm theo kiểu lãng mạn, thì người tuổi Dần chắc chắn không thể đếm hết “vệ tinh” vây quanh mình.
No.2: Con gái tuổi Tuất
Khác với các cô gái tuổi Dần mạnh mẽ, người tuổi Tuất lại thể hiện phần nữ tính quá đà. Cụ thể là họ luôn phàn nàn bất kỳ vấn đề nhỏ nhặt nào. Hơn nữa, họ đều thuộc nhóm những người siêu sạch sẽ, thích sự hoàn hảo nên ít chàng nào đạt điểm 10 trong mắt họ. Vậy nên lòng thủy chung son sắt của con gái tuổi Tuất cũng không thể cứu vẫn được tình thế.
Hội con trai sợ nhất đối tượng nói nhiều, nói dai. Không chỉ là cảm giác khó chịu, họ dễ suy luận bạn thiếu tôn trọng họ hay tự hạ thấp danh dự bản thân. Thay vì lặp đi lặp lại một chủ đề, người tuổi Tuất nên thể hiện bằng hành động để cho “gấu” thấy sự khác biệt giữa hai cách làm.
No.3: Con gái tuổi Ngọ
Không thể phủ nhận con gái tuổi Ngọ sống phóng khoảng, luôn tỏa sức lôi cuốn mạnh mẽ với người khác giới. Tỷ lệ cánh con trai trúng tiếng sét ái tình với bạn là rất cao. Tuy nhiên, thế mạnh đó cũng lại là điểm yếu của con giáp này.
Hội đầu keo sẽ ngán ngẩm khi nghĩ tới việc phải giữ khư khư bạn gái vì lo các chàng khác tán tỉnh. Mặc dù có niềm tin tuyệt đối dành cho nàng, nhưng họ không thể tránh bị xao động khi chứng kiến cảnh nhiều “cây si” tình nguyện trồng trước cửa nhà nàng.
Mr.Bull (theo DZYX)
Ta lúc nhỏ thân phụ mất sớm, lão mẫu dạy bỏ không theo cử nghiệp mà theo học nghề y, vì học y cũng có thể mưu sinh, có thể cứu người giúp đời mà khi y thuật tinh thông thì được thành danh, đó là ý nguyện sớm có của cha con vậy.
Sau đó tại chùa Từ Vân, ta gặp một lão nhân râu dài, tướng mạo tốt đẹp có vẻ tiên phong đạo cốt, nên ta dùng lễ mà cung kính lão nhân ấy. Ông bảo ta rằng: Ngươi là người trong sĩ lộ. Năm tới tức phải nhập học, tại sao lại không theo học vậy? Ta nói rõ nguyên cớ cho vị lão nhân ấy nghe, và lễ phép hỏi danh tính cùng xuất xứ của lão nhân. Lão nhân nói: Lão họ Khổng, người Vân Nam. Lão được Thiệu Khang Tiết tiên sinh chân truyền Hoàng cực số, lão nghĩ cũng nên truyền cho ngươi. Ta thỉnh lão nhân về nhà, và báo cáo với lão mẫu thì người dạy phải nên tiếp đãi cho thật cẩn thận tử tế và thử xem ông ấy đoán số ra sao, thì thấy mọi việc lớn nhỏ ông đều đoán trúng cả.
Ta bèn có ý định theo đòi việc đèn sách và bàn với biểu huynh là Thẩm Xứng thì biểu huynh bảo: có Úc Hải Cốc tiên sinh mở lớp dạy tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, ta gởi ngươi tới đó trọ học thì rất là thuận tiện. Ta bèn bái Úc tiên sinh làm sư phụ. Khổng tiên sinh lấy số cho ta thì khi khảo thí ở huyện, đỗ đồng sinh đứng hạng thứ 14, thi ở phủ đứng vào hạng thứ 71, và thi ở tỉnh do quan đề đốc học viện làm chủ khảo thì đỗ vào hạng thứ 9. Năm tới đi thi, thì ở cả ba nơi số hạng đều đúng y như thế.
Sau đó lại lấy số chung thân cho ta, dự đoán những việc cát hung cho cả một đời và bảo rằng vào năm nào thì được khảo thí đứng hạng mấy, năm nào thì được bổ khuyết lẫm sinh (tức được cấp phát lương ăn học bằng gạo), năm nào thì làm cống sinh, và sau khi làm cống sinh, năm nào thì được tuyển làm trưởng quan ở Tứ Xuyên, tại chức sau 3 năm rưỡi thì cáo quan về hưu. Năm 53 tuổi vào giờ sửu ngày 14 tháng tám thì mất trên giường bệnh, tiếc rằng không con nối dõi. Ta cẩn thận ghi lại tất cả.
Từ đó về sau, phàm mỗi khi gặp kì khảo thí, danh số trước sau đều đúng như Khổng tiên sinh đã dự đoán sẵn. Chỉ có một dự đoán là khi nào số gạo cấp lương lẫm sinh của ta được tới 91 thạch 5 đấu (1 thạch là 10 đấu) thì lúc đó sẽ được bổ làm cống sinh, nhưng kịp tới khi ta được lãnh hơn 70 thạch thì Đồ tông sư (quan đề học), đã phê chuẩn cho ta được bổ làm cống sinh, duy chỉ có chỗ đó làm ta có điểm hoài nghi.
Nhưng thực ra sau đó, sự phê chuẩn này bị quan thự ấn họ Dương bác bỏ. Mãi tới năm Đinh Mão, tông sư Ân Thu Minh thấy bị quyển nơi trường thi của ta (quyển nộp thi đáng được chấm đậu mà bị bỏ rớt lại) thì than rằng: bài ngũ sách đúng là năm thiên tấu nghị, văn chương quảng bác, ý tứ sâu sắc thông suốt của một nho sĩ sao nỡ để cho mai một mãi ru, bèn truyền cho huyện quan dâng thỉnh nguyện lên để ông phê chuẩn cho được bổ cống sinh. Nếu tính số lượng gạo được cấp từ trước trải qua thời gian bị bác bỏ cho tới khi được bổ thì thực đúng là 91 thạch 5 đấu vậy.
Nhân thế, ta càng tin rằng sự tiến thoái, thăng trầm nhanh hay chậm đều có thời, có số cả, nên an nhiên tự tại chẳng cần mong cầu sự gì cả. Sau khi được bổ cống sinh, ta phải đi Yến Đô (tức Bắc Kinh), ở lại kinh đô một năm, suốt ngày tĩnh tọa mà không màng tới việc đèn sách.
II– Vân Cốc khuyên cải tạo vận mệnh
1. Nguyên lý của việc cải tạo
Năm Kỷ Tỵ, ta quay trở về , du ngoạn qua Nam Ung tức Quốc Tử Giám ở Nam Kinh, nhưng trước khi nhập giám, ta tới bái phỏng Vân Cốc Pháp Hội thiền sư ở Thê Hà Sơn, cùng thiền sư đối diện trong một thất, tĩnh tọa ba ngày đêm chẳng nhắm mắt. Thiền sư hỏi ta: Sở dĩ người phàm không làm được thánh nhân chỉ vì bị nhiều vọng niệm vương vấn bao quanh che lấp mất tâm thanh tịnh mà thôi. Nhà ngươi tọa thiền ba ngày không thấy khởi một vọng niệm nào là vì sao vậy? Ta đáp rằng: Khổng tiên sinh đã lấy số chung thân cho ta, sự vinh nhục sinh tử đều do số đã định sẵn cả, nên dù có vọng tưởng hoặc mưu cầu điều chi cũng vô ích mà thôi , nên không khởi vọng tưởng nữa.
Thiền sư cười mà nói rằng: Ta tưởng ngươi là một hào kiệt, nào ngờ ngươi vốn cũng chỉ là phàm phu mà thôi. Ta hỏi lí do tại sao thiền sư lại nói như vậy thì thiền sư bảo rằng: Phàm là con người nếu còn chưa được vô tâm, tức tâm còn vọng tưởng chưa được thanh tịnh thì chung cuộc vẫn bị ràng buộc bởi âm dương khí số, mà đã bị ràng buộc bởi âm dương khí số thì làm sao nói là không có số được? Tuy nhiên, chỉ người phàm là có số. Những người làm việc cực thiện cũng như cực ác không bị số mệnh câu thúc mãi, bởi làm nhiều điều thiện có thể đương nghèo hóa giàu, còn trái lại làm nhiều điều cực ác có thể đương giàu sang phú quý trở thành nghèo hèn. Nhà ngươi 20 năm nay, cứ theo lời đoán của Khổng tiên sinh mà bị số mệnh câu thúc không hề thay đổi một chút nào thì như thế chẳng gọi là phàm phu thì là gì?
Ta hỏi ngay rằng: Vậy thì có thể tránh khỏi số mệnh được sao? Thiền sư đáp: Mệnh do chính mình tạo và phúc cũng do tự mình cầu được. Kinh Thư đã nói làm lành được phúc, làm ác bị giảm phúc, thực rõ ràng đúng là những lời minh huấn. Trong kinh Phật có nói cầu phú quý được phú quý, cầu nam nữ được nam nữ, cầu trường thọ được trường thọ. Này, vọng ngữ là điều đại giới của đức Thích Ca; chư Phật, Bồ Tát há lại nói dối trá, lừa người ư?
Ta hỏi thêm rằng: Mạnh phu tử nói những điều mình cầu mong mà có thể đạt được là do chính ở nội tâm mình nghĩ đủ sức làm được như vậy, thí dụ như muốn trở thành một người có đạo đức, nhân nghĩa thì tận tâm, tận lực tu tập thì sẽ được, còn như công danh phú quý là những điều ở ngoài thân tâm mình thì làm sao mà cầu được?
Vân Cốc thiền sư nói: Lời của Mạnh phu tử không hề sai, chính tự ngươi không hiểu hết ý nghĩa mà thôi. Ngươi chẳng thấy Lục Tổ đã nói là tất cả phúc điền đều không rời tâm địa của con người, từ nơi tâm mình mà tìm cầu thì mọi sự đều được cảm ứng. Tìm cầu ở ngay nội tâm của mình thì không những chỉ được đạo đức, nhân nghĩa mà công danh, phú quý cũng được nữa, đó là nội ngoại song đắc, trong nội tâm cũng như ở ngoài thân tâm đều cùng được cả bởi lẽ khi mình đã là người có đạo đức, nhân nghĩa thì người đời sẽ trọng vọng mình, công danh, phú quý không cầu cũng tự nhiên được; chỗ hữu ích của việc tìm cầu là đạt được sự việc vậy.
Nếu không biết hướng về nội tâm, mà chỉ mưu đồ hướng ngoại tìm thì thật không hợp đạo lý mà chỉ được những điều định mệnh đã an bài. Số mệnh đã định thì chẳng phải phí công phí sức, dù cầu hay không, tự nhiên rồi sẽ có. Ngược lại số không có, lại không biết phương pháp hướng nội tâm cầu thì dù có trăm phương ngàn kế mưu đồ cũng không được gì cả, chỉ mất công vô ích mà thôi, vì ở trong thì tâm trí thao thức không yên, ngoài thì chẳng được gì cả, đó là nội ngoại song thất.
2. Phương pháp cải tạo vận mệnh
a) Biết lỗi thực sự phản tỉnh
Nhân đấy thiền sư lại hỏi ta: Khổng tiên sinh lấy số chung thân cho nhà ngươi ra sao? Ta cứ thực sự trình bày rõ ràng thì Vân Cốc thiền sư hỏi: Ngươi tự lượng xét mình xem có nên thành công trên đường khoa cử hay không? Có nên có con nối dõi hay không ? Ta tự xét mình khá lâu rồi đáp: Thực không nên vậy. Những người thành công trên đường khoa bảng như tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa, đều là những người có phúc tướng, tại hạ phúc bạc lại không biết tích lũy công đức, hành thiện để bồi đắp nền tảng của việc đạt được phúc dày, hơn nữa lại không biết nhẫn những sự phiền toái vụn vặt, không có độ lượng rộng rãi bao dung người, có lúc lại ỷ mình tài trí hơn người, thường làm ngay nói thẳng, hay vọng đàm nên ngôn ngữ không được thận trọng. Phàm những điều như thế đều là bạc phúc, há còn dám nghĩ đến việc khoa bảng ru!
Chỗ đất ô uế, ẩm ướt thường hay sinh vật, còn chỗ nước trong vắt thì không có cá mà tại hạ lại có tật ưa thích sự tinh khiết sạch sẽ, đó là một điều thứ nhất không nên có con vậy. Hòa khí tức phong vũ thuận hòa, thời tiết thuận tiện, vạn vật dễ sinh trưởng, mà tại hạ thì hay nóng giận, đó là điều thứ hai không nên có con. Ái tức là lòng nhân ái, tâm từ bi là căn bản của sự sinh trưởng, vì nhân sinh quả, quả lại sinh nhân, cứ thế mà sinh sinh mãi mãi, còn nhẫn tâm không phải là gốc rễ của sự sinh dưỡng, tại hạ trọng thanh danh tiết tháo, thường không biết xả thân cứu người, đó là điều thứ ba không nên có con. Hay nhiều lời mất khí lực cũng là điều thứ tư không nên có con; uống rượi nhiều, tinh thần suy nhược là điều thứ năm không nên có con; thường hay ngồi suốt đêm không biết bảo tồn nguyên khí, dưỡng dục nguyên thần là điều thứ sáu không nên có con vậy. Ngoài ra, còn nhiều thói hư tật xấu khác kể ra không hết.
Thiền sư Vân Cốc bèn nói: Há chỉ có khoa bảng là nhà ngươi không muốn hay sao! Người đời được hưởng thụ tài sản thiên kim hay bách kim là số mệnh đã định cho họ thành đại phú hay trung phú, còn người bị chết đói cũng là do quả báo định vậy; thiên thượng chỉ phụ họa vào theo số phận của họ, chứ chẳng có một ly một chút ý tứ nào thêm thắt vào cả. Nói về việc sinh con nối dõi thì người tích lũy trăm đời công đức hay người tích đức mười đời, con cháu họ trăm đời sau hay mười đời sau sẽ tiếp tục gìn giữ hưởng phúc, còn những người chỉ có phúc ba đời hay hai đời, con cháu ba đời hay hai đời của họ sẽ được hưởng phúc đó. Những người phúc quá bạc thì bị vô hậu, không con nối dõi, dòng giống bị đứt đoạn.
b) Việc triệt để sửa lỗi
Nay ngươi đã thấy vấn đề ở đâu thì phải hết lòng sửa lại những nguyên nhân làm cho không đậu tiến sĩ cũng như không con nối dõi. Tất cả những việc về trước coi như đã xóa bỏ hết, coi như ngày hôm qua mình đã chết, và từ ngày hôm nay về sau, xem như được tái sinh, nếu phúc bạc thì cần phải tu nhân tích đức, hành thiện cần phải có lòng nhân hậu độ lượng bao dung người, cần phải cư xử hòa thuận, kính ái người và cần phải biết tồn dưỡng nguyên khí tinh thần. Đó là nghĩa lý của thân tái sanh vậy.
Cái thân máu mủ huyết nhục của chúng ta hẳn nhiên đã có số nhất định, còn đã biết sửa đổi lỗi lầm, đã được giác ngộ, tâm được thanh tịnh thì thâm nghĩa lý ấy há không cùng thượng thiên cảm ứng, tương thông hay sao! Thiên Thái Giáp trong kinh Thư có nói: Thượng thiện tác hòa, bởi tiền nhân nay chịu hậu quả thì còn có thể tránh được, chứ tự mình gây ra những điều oan nghiệt, những điều ác thì phải tự gánh chịu ác báo, không thể sinh sống an lành, yên ổn được. Kinh Thi có nói: Con người phải luôn luôn tự xét lấy mình mà ăn ở, cư xử sao cho hợp thiện đạo, làm lành lánh dữ ắt hẳn phải được thiện báo. Đó là tự mình biết cầu được nhiều phúc. Khổng tiên sinh đoán là ngươi không có số khoa bảng, không con nối dõi, đó là cái oan nghiệt đã định sẵn từ trước, do vậy có thể tránh được.
Nay ngươi nên đem cái thiên tính đạo đức trời đã phú cho mọi người, khai mở thật rộng rãi, chí tâm tận lực hành thiện, tích lũy âm đức, đó là tự mình tạo lấy phúc cho mình thì sao lại không được báo đáp, thụ hưởng ư?
Kinh Dịch thường luận bàn việc lấy nhân đạo phối hợp thiên đạo để cảnh giác con người cẩn thận tránh làm những sự bại hoại, đã vì người quân tử có nhân nghĩa đạo đức mà định rằng người ta cần xu hướng về đường thiện, xa lánh ác đạo hung hiểm. Nếu cho rằng số mệnh là hữu thường không thể biến cải được thì sao lại cần xu cát tị hung? Chương mở đầu của Kinh Dịch nói rằng một nhà mà tích đức hành thiện ắt có nhiều sự hỷ khánh, có phúc được hưởng thụ dài lâu.
Theo Kinh Dịch thì số mệnh có thể biến cải miễn là biết làm nhiều điều lành và tránh ác. Ngươi có tin thực như vậy không?
Nhiều người thường nghĩ người bốc bát hương phải do người cao minh, thường là các thầy hoặc pháp sư. Trên thực tế, ai cũng có thể bốc được bát hương, song đích thân gia chủ bốc là tốt nhất. Đó phải là người thành tâm và chân tay sạch sẽ.
Ảnh: Mạnh Linh
1. Lau rửa sạch: Giã gừng cho vào rượu trắng, dùng khăn sạch nhúng rượu gừng và lau bát hương, để khô.
2. Nên: Có cốt (tro đốt bằng rơm nếp, có bán tại các hàng mã) và một trong các thất bảo của nhà Phật (ưu tiên đá quý, ngọc như hổ phách, lưu ly, thạch anh... vì có trường khí cao, mua ở các cửa hàng đá quý).
- Không nên: Cho giấy trang kim, hạt nhựa... bán sẵn ở các hàng mã. Cũng không nên cho bùa chú, linh phù... của đạo gia, mật tông... vào bát hương vì sẽ gây ra trường khí âm bất lợi.
3. Rửa tay sạch sẽ, lần lượt bốc bát hương. Thông thường có ba bát cho thần linh, gia tiên và bà cô.
Bốc lần lượt từng nắm cốt vào bát. Để cho yên tâm, Phật gia thường khuyên đếm theo số sinh như "sinh, lão, bệnh, tử". Lần lượt đếm và bốc cho đến khi gần đầy miệng bát. Nhớ nắm cuối cùng dừng lại ở số "sinh".
Không dốc, đổ cho đầy bát hương, mà nên bốc từng nắm. Trước khi bốc bát hương nào thì trong đầu cũng phải nghĩ là "Con ... (họ tên)... xin bốc bát hương cho thần linh (thần linh/gia tiên/bà cô)".
Bốc xong để riêng từng vị trí, tránh nhầm lẫn. Nếu sợ nhầm, có thể viết giấy dán bên ngoài, đến khi đưa lên ban thờ cần bỏ ra.
4. Bốc xong đặt bát hương lên ban thờ. Bát hương thần linh ở giữa, bát hương bà cô ở tay trái từ trong nhìn ra, bát hương gia tiên bên tay phải.
5. Sắm lễ: Hoa tươi, quả tươi, nước sạch bày lên bàn thờ. Mở rộng cửa ra vào trước khi thắp hương. Lúc mới đầu mỗi bát hương thắp 3 nén, những lần sau chỉ cần một nén là đủ. Nếu có chân nhang cũ có thể cắm lại mỗi bát 3 chân nhang.
6. Bố trí: Bát hương đã đặt lên ban thờ cần giữ nguyên vị trí, không xê dịch. Sau bát hương là phần thờ cúng, chỉ nên để ảnh gia tiên (nếu có), không bày rượu, vàng mã... ở đây. Tất cả đồ thờ dâng lên (hoa tươi, quả tươi...) cần ở phía trước hay bên cạnh bát hương.
7. Thời gian: Một số ngày, giờ thích hợp gần đây để bốc bát hương là: 8h ngày 10/12 âm lịch (thứ 5), 14h ngày 14/12 âm lịch (thứ 2), 14h ngày 16/12 âm lịch (thứ 4), 16h ngày 17/12 âm lịch (thứ 5), 12h ngày 20/12 âm lịch (chủ nhật), và 8h 21/12 âm lịch (thứ 2).
Nguyễn Mạnh Linh
Thời gian: tổ chức vào ngày 15 tháng 10 (cũng có thể là ngày mùng 1 tháng 10 âm lịch).
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thần Tam Thanh.
Nội dung: Theo phong tục tập quán Việt tộc, rằm tháng mười hàng năm được tổ chức trọng thể, vượt thoát phạm vi gia đình và trở thành một lễ hội tâm linh của dân tộc Việt, một sinh hoạt tín ngưỡng mang đậm tính nhân văn nơi chốn già lam tịnh địa. Đây cũng chính là điều mà nhà thơ Huyền Không đã khẳng định trong bài thơ Nhớ chùa:
“Mái chùa che chỡ hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.”
Mái chùa xưa và nay, dù ở nơi đất Tổ hay trời phương ngoại vẫn là nơi hội tụ của muôn ngàn con dân đất Việt chung giòng máu Lạc Hồng, chung một ý niệm đồng bào ruột thịt. Và rằm tháng Mười giờ đây không chỉ mang ý nghĩa đơn thuần là Tết Hạ nguyên mà trở thành một nếp sống tâm linh của người con Phật. Trong ngày lễ Hạ nguyên, người Phật tử dâng trọn tấm lòng tưởng niệm ân đức sâu dày của chư Phật, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh Tăng, đã từng khai sáng và trùng hưng huyết mạch của Đạo Phật tại thế gian này.
Hàng đệ tử chúng ta, những người mang sứ mệnh truyền thừa chánh pháp của Thế Tôn, mang đuốc tuệ vào lòng thế cuộc, vận chuyển bánh xe chánh pháp giữa rừng đời phải chọn một ngày thích hợp như lễ Hạ nguyên để “Tiên tri Tam đức, hậu báo tứ ân” nhằm thắp sáng tiền đồ hoằng dương Phật pháp.
Lễ Hạ nguyên ở chùa tuy hình thức có phần đơn sơ hơn so với các lễ hội Phật giáo khác như Đại lễ Phật đản, Đại lễ Vu Lan, nhưng về nội dung vẫn phản ánh đậm nét mầu sắc tâm linh, và nhắc nhỡ người con Phật hãy sống như chánh pháp, hành xử theo chánh pháp theo gương các bậc Tiên hiền cổ thánh ngàn xưa.
Thời gian: tổ chức từ ngày 15 tới ngày 20 tháng 10 âm lịch.
Địa điểm: xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn thành hoàng làng.
Nội dung: Hội có lễ rước và tế thần. Phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian như đấu vật, múa rối nước, cờ tướng.
dõi nhé!
Vật phẩm hóa giải hình sát trong phong thủy được người xưa ví như liều thuốc cho người bệnh, bệnh nào thuốc nấy. Cũng như vậy, tùy loại hình sát mà có loại công cụ hóa giải thích hợp. Chúng gồm những loại sau:
1- Tiền đồng hóa sát:
Tiền đồng thuộc kim, phong thủy học cho rằng nó sẽ làm giảm đi tính Thổ khí của những năm sát khí như Nhị Hắc (năm 2009 tới), Ngũ Hoàng (năm 2006). Người xưa cho rằng nhất định phải dùng tiền đồng Càn Long, có thể đúc mới cũng được, có khi lại tốt vì tính kim càng mạnh. Khi dùng, lấy 5 đồng tiền dùng dây kim tuyến xâu, kiêng dùng màu đỏ, vì đỏ là hỏa kỵ kim.
2- Tiền đồng lớn:
tính chất là hóa sát ngừa tai nạn. Có 3 cách dùng:
Một, đặt ở trước cửa trong trường hợp mở cửa ra thấy cầu thang hoặc thấy thang máy đóng mở.
Hai, đặt ở bên phải cổng lớn, dùng dây vàng treo lên, phòng phụ nữ trong nhà hay nhiều lời, cãi nhau.
Ba, đặt 2 tiền đồng dưới gối, giữ quan hệ vợ chồng bền tốt.
3- Để sinh tài, vượng tài:
người xưa dùng hai thỏi kim nguyên bảo đặt ở phía trên cửa sổ lớn nhất của nhà, hoặc ở thềm cửa sổ cũng được, mỗi góc phải trái đặt một thỏi. Theo phong thủy học, làm như vậy sẽ tăng khí chiêu tài tiến bảo.
4- Tiền mai hoa:
tác dụng góp phần làm thăng quan tiến chức và hóa giải kẻ tiểu nhân. Cách dùng, một là đặt ở chỗ tựa sau lưng của ghế ngồi, phòng tiểu nhân; hai là đặt trong ngăn kéo bàn làm việc có giấy tờ quan trọng.
5- Gà bằng đồng:
để chống lại thói trăng hoa, đặt ở chỗ đối diện với cửa lớn, như trong tấm bình phong, lọ hoa… Có thể đặt ở tủ quần áo của vợ hoặc chồng, phải dùng một đôi, mỗi góc tủ một con.
6- Sư tử đá:
có thể giải trừ nhiều loại hình sát, tăng thêm quyền uy của người ở. Có thể đặt một đôi trước cửa, nếu cửa sổ nhìn ra thấy những xung khắc bất lợi, có thể đặt một đôi mặt hướng ra cửa sổ, không những hóa sát mà còn tăng thêm uy quyền. Những người sống bằng nghề như môi giới, diễn viên, luật sư, trong phòng làm việc nên để đôi sư tử có thể gây thêm thanh thế, nhưng tượng không được hướng mặt vào mình.
7- Cột thủy tinh:
tính chất là làm ngưng tụ năng lượng tại một điểm trong không gian, giúp mọi người tăng cường tư duy, đầu óc minh mẫn, ham đọc sách, trẻ em ham học hành. Vật này đặt trên bàn làm việc, bàn học và phòng của trẻ em.
8- Long quy:
là loài vật đem đến điều lành, dùng để hóa tai ương, nhưng dùng hơi phức tạp, như phải đặt ở nơi tam sát hoặc thủy khí nặng mới có hiệu quả. Phong thủy học nói: “Muốn nhanh phát phải đấu tam sát”. Nơi ở có thủy khí nặng thường có chuyện đôi co kiện tụng, đặt long quy nơi đó có thể hóa giải được chuyện đôi co mà còn làm tăng thêm nhân duyên. Ở trên lưng vật long quy, người ta làm bộ phận rỗng có nắp đóng mở, nếu cho chè hoặc gạo vào đó sẽ tăng thêm hiệu lực.
9- Chuông gió kỳ lân:
là công cụ hóa sát thường dùng đặt tại nơi ở và cửa hàng mà không thể đặt công cụ khác được. Cách dùng: nếu cửa nhà đối thẳng với đường phố thì treo nó ở góc trái phía trên cửa, để tránh sát khí từ đường vào. Nếu cửa sổ nhà đối diện với cửa sổ nhà hàng xóm mà mình hay bị nhòm ngó, treo nó trước cửa sổ nhà mình, thì tài bạch nhà mình không bị đối phương làm ảnh hưởng.
10 – Sư tử đồng:
tính chất của nó là ngăn ngừa tai họa, thường đặt ở vị trí hướng ra cửa lớn; nếu đối diện với đường trục tung, hoặc mở cửa ra thấy cột đèn, cây lớn, ống khói, dùng nó là thích hợp. Ở phương vị họa hại, tuyệt mệnh trong nhà, phong thủy cho rằng đặt tượng sư tử đồng để giảm sức phá hoại.
11- Voi đồng:
thủy là biểu tượng của tiền của, nếu đặt một con voi đồng cỡ vừa trong nhà thì “hút thủy”, đại tài, tiểu tài sẽ đến, trong nhà luôn có điềm lành. Nếu đặt ở chỗ tài vị thịnh, thì cả nhà được lộc.
12- Gương bát quái phẳng:
có tác dụng che chắn những hình dạng kiến trúc gây sát, như góc tường, nhà lầu hình nhọn đâm thẳng vào nhà. Cách dùng: chỉ đặt ở ngoài nhà, không được soi gương người nhà mình, không treo nhiều gương, tối đa là 3 cái, mỗi phương vị chỉ treo 1 cái, nếu không tự mình chuốc lấy hung.
13- Gương lồi bát quái:
chỉ dùng khi nhà đối diện có công cụ hóa sát chĩa thẳng vào nhà mình, tác dụng của nó là phản xạ lại đối phương, trả nó về nhà nó, mình không chịu ảnh hưởng của đối phương. Chỉ đặt ngoài nhà, không đặt trước cửa và không chiếu vào người, nếu không biến cát thành hung.
14- Tháp văn xương:
Lợi cho học sinh đỗ đạt công danh sự nghiệp. Ở vùng Bình Sơn, Nguyên Lãng, Hồng Kông thường xây loại tháp này, nên nghe nói các làng này thường sinh ra người tài giỏi đỗ đạt làm quan to. Trẻ em nên đặt tháp này ở đầu giường, người lớn đặt trên bệ, học giả nên đặt trên giá sách.
15- Tiên nữ hoa đào:
đó là vật mang tài và hỷ cho nữ giới, chỉ nữ giới muộn chồng mới được dùng, người đã kết hôn không hiệu quả, nam giới không được dùng. Vật này còn mang tiền tài và công danh. Cách dùng: đặt ở cửa ra vào, thời gian có hiệu lực chỉ 1 năm. Nếu muốn tiếp tục phải đặt tiên nữ mới.
16- Hồ lô đồng:
là công cụ giúp tình cảm vợ chồng thêm đằm thắm. Khi tình cảm vợ chồng nhạt nhẽo thì đặt hồ lô đồng ở đầu giường, tình cảm lại như xưa. Ngoài ra, nếu trong nhà có người hay bệnh, đặt vật này có thể hóa giải. Nhà có trẻ em và người già thì nên dùng.
17- Hồ lô gỗ:
nếu trong nhà có người mắc bệnh lâu ngày, treo 3 hồ lô sẽ có hiệu ứng kỳ lạ. Nếu bệnh nặng, cho 3 cái ở đầu giường người bệnh. Vật này nếu treo ở phương vị Thiên Y, giúp mọi người trong nhà khỏe mạnh, thoải mái.
18- Kỳ lân:
có tác dụng gọi tài, tăng nhân khẩu, hóa sát. Khi đặt đầu hướng ra ngoài, dùng con vừa phải, không dùng con quá lớn.
19- Ngựa đồng:
dùng cho những người hay đi xa, chuyến đi thành công tốt đẹp. Chỉ đặt trên bàn làm việc và chỗ tài vị trong nhà, mặt nên hướng ra cổng lớn hoặc cửa sổ sẽ đại cát.
20- Bát bạch ngọc:
đem điều tốt lành, đeo trên người sẽ mang lại trăm điều tốt lành, lại có thể bài trí trong nhà. Nếu có tà xâm nhập vào cơ thể hay nhà không sạch, đem 8 xâu bát bạch ngọc để sau cửa lớn, dần dần sẽ tiêu trừ. Đối với trẻ em, đó là vật trấn kinh rất tốt.
21- Tiền đồng thất xích:
có thể hóa giải được việc khó hóa giải nhất trong phong thủy, vật này lợi quyền, lợi tài lại hóa sát. Nếu trước cửa có sát, chỉ cần treo hai xâu tiền là tránh được họa. Đây cũng là vật trợ vận, thường khi đặt sẽ chiêu tài.
22- Ngũ đế bạch ngọc:
là loại hóa sát bao gồm tiền đồng của 5 vị hoàng đế Trung Hoa xâu vào dây có kèm theo bạch ngọc ở bên. Tác dụng là khiến cho tài vận ngôi nhà cực vượng, hóa hung thành cát, hóa tiểu nhân: lưu ý khi dùng phải đánh bóng.
23- Sáu chữ minh chú:
còn gọi là Đại minh vương chú, có sức mạnh hàng phục yêu ma, hóa giải những điều làm đau đầu gặp phải hàng ngày. Minh chú này có thể đọc thì thầm hàng ngày, hoặc giữ trong người, có thể khi gặp hung hóa cát. Minh chú như sau: ám ma ni bát minh hồng. Tương truyền rằng, đây là minh chú của Quan Thế âm Bồ Tát.
► Xem bói tử vi 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Bàn thờ không phải cứ càng to càng linh nghiệm, đặc biệt ở các thành phố lớn, bàn thờ trong gia đình không nên quá to, cũng cần chú ý đến việc đặt vào vị trí thích hợp trong nhà, không nên vội vàng quyết định.
Bà mẹ nọ luôn lo lắng cho con, dù con cái đã thành gia thất bà rẫn luôn quan tâm đến sức khỏe và sự nghiệp của chúng. Đôi lúc quan tâm quá dẫn tới những ép buộc vô lý. Bà ép buộc con trai lớn nhất định phải đặt bàn thờ trong nhà để cầu cho gia đình bình an.
Trong phòng khách nhỏ hẹp của con trai, bà đã mua một ban thờ khá lớn, ép con đặt vào đó. Kết quả là nửa phòng khách là dùng để đặt bàn thờ. Xem bát tự của con trai và con dâu, hai người đều kỵ Hỏa, từ sau khi gia đình lập bàn thờ, do con dâu không tin thần thánh, thường xuyên giục chồng chuyển bàn thờ đi nhưng người con trai thì không muốn cãi lời mẹ, thế là chỉ vì việc ày mà hai vợ chồng thường xuyên cãi cọ.
Sau cùng bà mẹ đồng ý chuyển bàn thờ lớn ấy đi, thay bằng một chiếc bàn thờ nhỏ, đặt ở một vị trí thích hợp, tránh hướng Tây Bắc, hướng Tây Nam, từ đó hai vợ chồng người con không những không cãi cọ mà còn nhanh chóng sinh con. Sau khi sinh con xong, phát hiện bát tự của đứa trẻ cần Hỏa, mà vị trí của bàn thờ vừa khéo cũng nằm ở hướng Đông.
Bày bàn thờ chủ yếu chia thành thiên bộ thần và địa chủ thần, thiên bộ thần chỉ Quán Âm Bồ Tát hoặc thiên thần như đại thần tài (Mahakana)...
Thờ các thần như Thiên bộ, Bồ Tát bộ thậm chí phật bộ thần đều chọn dùng các pháp khí, dùng pháp khí bằng dồng thích hợp hơn cả. Đồ cúng có thể dùng đồ đồng màu vàng kim, nhang hương, cốc thờ, đều nên chọn các vật bằng đồng.
Còn thổ địa thần thuộc linh thần thấp, trong lục đạo chúng sinh, các thần dưới Thiên bộ thường là người chết mà không đạt được đến Thiên bộ hoặc không thể đầu thai nhưng bản thân khi tại thế lại tích lũy phúc đức hoặc có tu trì, sau khi chết đương nhiên vẫn còn lưu lại ở trần thế một thời gian, vì vậy được làm thần thố địa, có thể cai quản một tòa nhà hoặc một khu đất. Đây là lý do vì sao có thần thổ địa.
Thần thổ địa khi đạt được một thứ nguyên hoặc một thời không nào đó, công đức đã hoàn thành sẽ rời bỏ nơi cư trú cũ để được đầu thai. Trong cuộc sống hằng ngày những khu đất được cúng bái đều là chỉ cúng bái thần thổ địa.
Những đồ vật dùng để cúng bái địa chủ thần, đồ sứ là hợp nhất bởi gốm sứ thuộc Thổ, đồ cúng bái cũng nên chọn loại có hương hơm. Thần thổ địa thích những đồ ăn có hương thơm. Lý tưởng nhất đương nhiên là thức ăn ngọt hoặc rượu và những loại thịt ăn thường ngày, bởi vì thần thổ địa cũng có những sở thích giống của con người.
Nếu bàn thờ chỉ cúng bái thiên bộ thần, chỉ nên cúng bánh ngọt rượu hoặc các hoa quả khác, không nên cúng bằng các loại thịt cá.
Thông thường, những người chưa quy y, tốt nhất nên đặt bàn thờ hướng Bắc Nam, hướng Tây Đông, bàn thờ cao chừng 4 thước, đương nhiên tốt nhất không nên để tựa vào nhà vệ sinh hoặc áp vàc bên dưới dầm ngang nhà, đó là những hạn chế thường phải lưu ý.
Vạn vật của vũ trụ được quy về 5 phương diện, được gọi là ngũ minh, ngũ âm. Trong vũ trụ những thứ tốt đẹp, có lợi cho chúng sinh đều được gọi là minh, còn hỗn độn không chi tiết gọi là âm, đây chính là ý nghĩa chân chính của ngũ minh theo Phật giáo.
Dùng nguyên tắc trên để xác định vị trí của bàn thờ vừa có tác dụng cúng bái thần vừa phù hợp với hiệu ứng phong thủy:
Lễ nghi Phật giáo có thuật ngữ gọi là “ngũ minh cụ túc”, đó là phải cúng dường một đôi hoa mãn, tức hoa tươi và trúc phú qúy, một đôi trường minh đăng tức là đèn sáng suốt 24 giờ, thêm hương là hoàn thành lễ phẩm cúng dường đơn giản nhất.
Nếu thờ cúng tài thần, có thể cúng rượu van3 bánh ngọt, sôcôla, nhưng cần chú ý sau đó phải ăn hết đồ cúng mới tạo ra được hiệu ứng.
► Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
ì cuộc sống của bạn sẽ khá hơn.
Thời vận đỏ chính là thời kỳ khí số của bạn sung mãn nhất. Nếu bạn biết nắm bắt lấy nó, như vậy bạn đã nắm bắt được hạnh phúc của mình ở mức độ cao hơn.
Người ta thường nói đến thời vận lúc trẻ, thời vận lúc thanh niên, thời vận lúc trung niên và thời vận khi về già. Tổng hợp cả bốn loại thời vận trên, chúng ta hãy gọi là “bốn loại thời vận”, trong bốn loại thời vận ấy, thời vận thời nào của bạn rực rỡ nhất?
Mối quan hệ rất mật thiết giữa mùa sinh của một người với bốn loại thời vận:
* Người sinh vào mùa Xuân (từ tháng Một đến tháng Ba) thuộc loại sơ niên vận (từ khi sinh ra đến năm 20 tuổi) vận số cực thịnh.
* Người sinh vào mùa Hạ (từ tháng Tư đến tháng Sáu) thuộc loại thanh niên vận (từ 20 đến 35 tuổi) vận số cực thịnh.
* Người sinh vào mùa Thu (từ tháng Bảy đến tháng Chín) thuộc loại trung niên vận (từ 35 đến 50 tuổi vận số tốt đẹp).
* Người sinh vào mùa Đông (từ tháng Mười đến cuối tháng Mười hai) thuộc loại vãn niên vận (từ 50 tuổi trở lên vận số tốt đẹp).
Nếu thời gian vận sẽ tốt nhất của cả đời đến với bạn mà bạn biết nắm lấy cơ hội thì bạn sẽ gặt hái thành công.
Ví dụ bạn là người cầm tinh con Ngựa, được sinh vào mùa Hạ. Nhưng người cầm tinh con Ngựa sinh vào mùa Hạ thuộc loại vận số tốt nhất vào độ tuổi thanh xuân. Người sinh năm Ngọ có số vận đỏ vào năm Dần và năm Mùi.
1. NGƯỜI SINH VÀO MÙA XUÂN
Một năm được chia ra làm bốn mùa. Mùa Xuân từ đầu tháng. Một đến cuối tháng Ba. Mỗi mùa là ba tháng.
Những người sinh vào mùa Xuân thuộc loại sơ niên vận.
Bởi vì mùa Xuân là mùa mà vạn vật hân hoan tiến vào thời kỳ phồn vinh, hoa lá đua nhau khoe sắc, ong bướm rập rờn, cây cối đâm chồi nảy lộc mọi thứ trên đời đều như trẻ lại. Đồng thời vào xuân, băng tuyết đã bắt đầu tan chảy, khắp nơi hoa nở, chim hót rộn ràng và các loại động vật ngủ đông cũng đã bắt đầu thức giấc. Vạn vật đều tràn trề sức sống. Chính vì vậy ông cha ta đã gọi cuộc sống của mỗi con người thời trai trẻ là “tuổi thanh xuân”. Và vận số loài người cũng bị ảnh hưởng bởi niềm hân hoan bước vào thời kỳ phồn vinh ấy. Những người sinh vào mùa Xuân ngay từ lúc còn nhỏ đã được ông trời ưu đãi, quá trình trưởng thành của họ chẳng khác gì hình vẽ của một ngọn núi lửa.
Bạn trẻ có thể trưởng thành nhanh chóng hay không đều dựa vào trạng thái tinh thần của bậc làm cha, làm mẹ. Tức là tinh thần của họ cũng được thoải mái, thư thái trong không khí của mùa Xuân và sinh ra đứa con với tinh thần thư thái ấy. Những đứa con này lớn mạnh nhanh chóng, đó là lẽ đương nhiên.
Trong không khí hân hoan tiến tới sự phồn vinh ấy, lại được cha mẹ nuôi dạy, chăm sóc, yêu thương khi trong lòng họ tràn đầy sắc xuân, vận số của đứa trẻ ấy từ khi được sinh ra cho tới năm hai mươi tuổi vốn được ông trời đặc biệt ưu đãi. Mà cái gọi là “được ông trời đặc biệt ưu đãi” ấy không phải chỉ thỏa mãn về phương diện vật chất mà còn có cả tình yêu thương của cha mẹ nữa. Nó còn bao hàm tổng hợp tất mọi ưu đãi trong đời sống, môi trường.
Vì vậy đứa bé có được nhân tố tuyệt vời để trưởng thành có thể nói là những đứa bé sinh vào mùa Xuân đều có đầy đủ. Vì vậy, đối với những đứa trẻ được sinh vào mùa Xuân, trong quãng thời gian “Sơ niên vận” của mình vốn là thời kỳ vận số tốt. Nếu chúng biết nắm bắt lấy thời điểm “vận số tốt, ấy thì ngay từ lúc còn trẻ chúng đã có thể xuất đầu lộ diện, tiến lên cao, cả đời thuận buồm xuôi gió.
Những người sinh về mùa Xuân cần phải lưu ý đến vận xấu của mình ở độ tuổi trung niên.
Những người sinh vào mùa Xuân cần phải đặc biệt chú ý đến những năm hạn.
Vì vậy, nếu bạn được sinh vào mùa Xuân, bạn nên cố gắng vươn lên ngay trong thời kỳ rực rỡ nhất “Sơ niên vận” của mình, cố gắng nắm lấy thời vận lúc đang lên, đồng thời cũng phải lưu ý đến độ tuổi trung niên là lúc thời vận của mình đang xuống, phải thật cẩn thận trong lời ăn tiếng nói và công việc.
Bạn nên thận trọng khi làm một việc lớn mới vào năm vận hạn. Những người sinh vào mùa Xuân nếu có sự cạnh tranh, tranh chấp xảy ra vào độ tuổi trung niên tức là lúc vận hạn của mình thì dù bạn không sai nhưng người gánh chịu phần thua thiệt vẫn chính là bạn.
2. NGƯỜI SINH VÀO MÙA HẠ
Mùa Hạ vào khoảng từ đầu tháng Tư đến cuối tháng Sáu. Nếu bạn là người sinh vào mùa Hạ thì vận số cả đời của bạn, thuộc loại “Thanh niên vận”.
Đối với những người sinh vào mùa Hạ thì vận số của họ thịnh nhất vào khoảng lúc tuổi thanh niên. Bất kể họ làm việc gì đều tự do tự tại. Đồng thời, nếu bạn biết vận dụng tốt quãng thời gian có vận số thịnh nhất của mình thì cuộc đời của bạn sẽ phát triển tốt.
Vào mùa Hạ mặt trời rực rỡ, chiếu rọi khắp nơi, mọi vật đều tràn đầy sức sống. Trong thời gian này lúa đang trổ bông, phấn hoa lan tỏa khắp không gian để chuẩn bị kết trái. Mùa Hạ là mùa mà vạn vật vận động mạnh mẽ nhất trong bốn mùa. Mùa Hạ chính là ngưỡng cửa của mùa Thu, là mùa thu hoạch. Nếu dùng bốn mùa để ví với cuộc sống của một đời người thì đó là mùa mà người ta có nhiều biến động lớn nhất. Nếu nói theo màu sắc thì biểu tượng của mùa Xuân là màu xanh lục còn màu đỏ là biểu tượng của mùa Hạ.
Những người sinh vào mùa Hạ cần phải biết nắm lấy vận đó vào độ tuổi thanh niên của mình.
Nếu bạn là người được sinh vào mùa Hạ thì đến khi về già, quay đầu nhìn lại vận mệnh cả đời của mình, nhất định bạn sẽ thấy vận mệnh của mình phát triển rực rỡ nhất vào độ tuổi từ 25 đến 30 của mình.
Nếu bạn là người sinh vào mùa Hạ, dù cho thửa nhỏ của bạn trôi qua không được êm đềm cho lắm nhưng tuyệt đối bạn chớ nên nhụt chí. Những người thành công đều là những người đã vượt qua được thử thách của hoàn cảnh, ngay từ nhỏ đã theo đuổi mục tiêu của cuộc đời, biết dũng cảm tiến lên phía trước, luôn nỗ lực phấn đấu không biết mệt mỏi.
3. NHỮNG NGƯỜI SINH VÀO MÙA THU
Ai cũng biết rằng mùa Thu có ba tháng, kéo dài từ đầu tháng Bảy đến cuối tháng 9. Các bạn thử hình dung lại mùa Thu ở vùng ngoại ô xem sao. Đầu tiên, mùa thu chính là mùa thu hoạch. Lúa hay các loại hoa màu khác đều được thiên nhiên ban thưởng hậu hĩnh, cuối cùng cũng đã tới lúc chín muồi, tạo cho người nông dân cảm giác vui vẻ khi thu hoạch mùa màng về nhà. Vùng ngoại ô miền núi cũng khoác lên mình nét đẹp rực rỡ. Đó chính là một trong những đặc trưng của mùa Thu. Thế nhưng sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong, khung cảnh ngoài đồng lại khiến người ta có cảm giác cô tịch, vắng lặng, không thể che giấu nổi nỗi buồn mang mác của mùa Thu trước phong cảnh tiêu điều, cô tịch của vạn vật.
Những người sinh vào mùa Thu – vốn bị ảnh hưởng của mùa thu hoạch. Như biểu đồ đã chỉ, vào độ tuổi trung niên – Độ tuổi chín chắn của cuộc đời, vận số thịnh nhất sẽ đến với họ.
Vận số của bạn có chiều hướng đi xuống vào độ tuổi trước trung niên. Các bạn chớ ngại khi liên tưởng đến cây lúa, trước khi trổ bông kết trái đã phải trải qua sự khảo nghiệm của mưa gió. Tức là vào mùa Hạ, nhưng đợt gió mạnh thổi qua làm thân cây nghiên ngả, rập rờn. Như vậy cây lúa mới có được điều kiện thụ phấn giữa hoa đực và hoa cái, mới có được vụ thu hoạch vào mùa Thu. Cũng giống như đạo lý trên, những người sinh vào mùa Thu trước khi bước vào cuộc tranh thắng phụ đều phải trải qua các cuộc khảo nghiệm kỹ lưỡng.
Có vượt qua được các cuộc khảo nghiệm ấy hay không, điều này phụ thuộc bởi vận mệnh của những người sinh vào mùa Thu.
Những người sinh vào mùa Thu phải biết cần cù, cố gắng ờ độ tuổi thanh niên.
Ngoài ra còn một vấn đề cần phải nói nữa là giống như tranh minh họa ở trang trước đã hiển thị, cuộc sống nửa trước của cuộc đời họ đa số đều trải qua một cách bình lặng. Do đó, thông thường mà nói, họ không đủ lòng kiên nhẫn để đợi cho qua kỳ ngủ đông này, thường có những hành vi khinh xuất manh động, tự đào mồ chôn mình hay oán trời chẳng chiều người, cảm thấy vô cùng thất vọng trong cuộc sống, có rất nhiều người vứt bỏ mọi sự cố gắng của mình đi. Kết quả là dù vận số cực thịnh thời trung niên của họ có tới, không những họ không biết nắm lấy, thậm chí họ để nó trôi đi một cách tự nhiên còn mình thì chết dần trong sự buồn bực.
Ngược lại, những người biết nuôi hy vọng cho tương lai của mình trong thời kỳ ngủ đông này, vẫn liên tục cố gắng một cách không biết mệt mỏi tất đến độ tuổi trung niên họ sẽ thu được thành quả mĩ mãn của mình.
Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa. Đối với những người sinh vào mùa Thu, làm việc vất vả thời thanh niên nhất định sẽ được đền bù xứng đáng về sau này. Hơn nữa tôi cũng muốn khuyên những người sinh vào mùa Thu một điều là: Chớ nên theo đuổi cái lợi trước mắt, chớ nên ỷ vào tài năng hơn người của mình. Nếu bạn làm được như vậy, bất luận bạn theo đuổi sự nghiệp gì, qua độ tuổi 35 của mình, nhất định bạn sẽ gặt hái được thành công. Còn đối với công việc chuyên ngành hay đổi sang công việc mang tính tự do thì bạn vẫn cần phải cẩn trọng trong thời thanh niên, tuyệt đối chớ nên manh động.
Ví dụ như những người cầm tinh con Hổ vốn rất hay thay đổi công việc, chính vì vậy mà không ít người đã để thời điểm vận số cực thịnh của mình qua đi một cách phí phạm. Nhưng nếu những người sinh vào mùa Thu có khuynh hướng ấy, thời thanh niên họ liên tục thay đổi công việc, kết quả giành cho họ là trăm điều hại mà chẳng có lấy một chút lợi nào, trở thành kẻ thất bại của cuộc đời.
Nhưng nếu họ thay đổi công việc vào thời kỳ vận số thịnh nhất ở độ tuổi trung niên của mình, rất có thể họ sẽ đạt được những thành tích khiến người khác phải ngưỡng mộ, từ đó tạo ra một cuộc sống phát triển mạnh mẽ, hoàn toàn mới của mình.
Cũng giống như việc thay đổi ngành nghề vậy. Trên phương diện hôn nhân, đa số nhũng người sinh vào mùa Thu nếu kết hôn muộn sẽ có cuộc sống gia đình, hạnh phúc. Nếu họ kết hôn sớm thì không tốt dễ thay đổi.
Bội thu ở độ tuổi từ bốn mươi đến năm mươi
Tóm lại, những người sinh vào mùa Thu sẽ có vận số cực thịnh ở độ tuổi trung niên của mình. Dù nhắc đến những nhân vật thành danh thì họ đều thuộc số nhưng người bắt đầu phát ở độ tuổi từ ba mươi đến bốn mươi, đến độ tuổi trung niên họ bắt đầu gặt hái thành công to lớn.
4. NGƯỜI SINH VÀO MÙA ĐÔNG
Mùa Đông dài ba tháng, vào khoảng từ đầu tháng Mười đến hết tháng Mười hai. Nếu bạn sinh vào mùa Đông, như vậy vạn số của bạn sẽ thuộc loại “Vãn niên vận”.
Bởi bạn được sinh vào mùa Đông, hoa cỏ tàn tạ, phải gánh chịu gió lạnh tuyết rơi và cũng là mùa ngủ đông của các loài động vật. Đó chính là cách tự bảo tồn của các loài động, thực vật để vượt qua mùa Đông lạnh lẽo, chờ đợi mùa Xuân âm áp.
Tức là những người sinh vào mùa Đông như bạn vốn trời ban cho số vừa phải ẩn mình đợi đến mùa Xuân, vừa phải dưỡng thần, tích luỹ nhuệ khí, vốn có sức nhẫn nại lớn vô cùng. Dù bạn gặp phải bất cứ nghịch cảnh gì, bạn đều có thể điềm nhiên chấp nhận. Và bạn cũng có khả năng tự khắc phục cực kỳ siêu việt. Vì vậy, so với những người sinh vào các mùa khác, vào độ tuổi trung niên trở về trước thì bạn không bằng được họ nhưng vì bạn biết dựa vào tính nhẫn nại và khả năng khắc phục chính mình nên lúc về già có thể bạn sẽ thành danh, cuộc sống dễ chịu.
Phải chăng vận số của những người sinh vào mùa Đông không tốt bằng “Sơ niên vận”, “Thanh niên vận”, “Trung niên vận”? Chưa hẳn đã thế. Như trên đã nói, dù quãng thời gian vận số cực thịnh của cuộc đời họ đến muộn nhưng vẫn có những năm vận số tốt đều đặn đến với họ theo một chu kỳ nhất định.
Và nếu can chi của họ có vận số tốt (ví dụ như người cầm tinh con Rồng, Hổ, Rắn, Khỉ, Lợn vốn là những con vật có vận số mạnh hơn những loài khác trong mười hai địa chi) lại kết hợp với thời gian sinh, thậm chí với cha mẹ, bạn học có duyên số tốt thì bạn cũng có thể có vận tốt may mắn đến.
Những người sinh vào mùa Đông đã giành được đại thắng nhờ tính nhẫn nại và công phu chờ đợi của mình
Dù bạn nắm bắt được vận tốt vào độ tuổi thanh niên nhưng vận số lúc ấy của bạn vẫn chưa phải là vận số thực sự. Xét theo một khía cạnh khác thì vận số đó không có một chút tính chắc chắn nào. Tức là dù bạn có thể xuất đầu lộ diện từ lúc bạn còn trẻ nhưng e rằng bạn khó có thể giữ nó lại cho đến lúc bạn già.
Những người sinh vào mùa Đông dường như phải đợi đến lúc về già mới nắm bắt được hạnh phúc thực sự của mình. Vì vậy vào độ tuổi thanh xuân dù luôn gặp phải nghịch cảnh có tài mà không được trọng dụng, không nắm được vận đỏ thì bạn cũng chớ lấy đó làm bi quan. Hãy vui vẻ thoải mái, bình tâm tĩnh trí đợi đến khi thời cơ đã chín muồi.
Gương bát quái là một tấm biển trên đó vẽ hình bát quái (8 quẻ) gồm càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn với các nét vẽ dẽ nhận biết. Càn: 3 gạch liền. Khôn: 6 gạch ngắt quãng. Khảm: ở giữ liền. Ly: ở giữa hở. Chấn: Như chiếc ống lật ngửa. Cấn: Như bát úp. Đoài: khuyết ở trên. Tốn: đứt ở dưới.
Theo gương bát quái là để sửa lại các khiếm khuyết trong phong thủy, mang ý nghĩa làm biến đổi vật chất từ môi trường chưa được phù hợp đến môi trường phù hợp hơn để phong thủy đạt đến mức hoàn thiện nhất, đạt được các điều kiện tốt nhất cho con người. Đó là sự giao hòa giữa con người với cảnh vật, giúp cho bạn thực sự thoải mái, khỏe mạnh, “hợp” với nhà mình. Gương bát quái thực sự phát huy tác dụng với những trường hợp nhà thiết kế quá nhiều góc cạnh, nhà đối diện với cột điện, nhà cao tầng, máy biến áp, cửa sổ đối diện với nhà vệ sinh, nhà bếp… giúp thay đổi khí trường, loại trừ những ảnh hưởng xấu.
Ba loại gương bát quái thường gặp và công dụng:
(Theo Sức khỏe & ATTP)