Tính trùng tang –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Trước đây, nhiều người vẫn có sự nhầm lẫn về cách tính Kim lâu. Tôi vẫn thường thắc mắc, tại sao có tới hai cách tính mà kết quả của hai cách tính này lại khác biệt nhau. Và bức màn bí mật, sự thắc mắc của tôi đã được giải thích một cách thấu đáo.
Kim lâu là gì ? Là những năm không tốt, bất lợi cho việc mưu tính, khởi công hoặc làm đại sự. Nếu như phạm phải, cuộc sống gặp nhiều trở ngại, bất trắc, không được như ý muốn. Theo mục đích của cuộc sống người ta phân chia ra hai cách tính kim lâu, dành cho các đối tượng và công việc khác nhau, cần phải phân biệt và chú ý cho tinh, kẻo có sự nhầm lẫn.
Cách tính tuổi kim lâu khi chọn tuổi kết hôn: “Người xưa thường nói, lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. Như vậy, các quý cô sau khi trải qua quá trình yêu đương tìm hiểu, quyết định xây dựng tòa lâu đài hạnh phúc cho mình đều phải lưu ý. Cách tính Kim lâu trong hôn nhân, chỉ áp dụng có phái nữ, có cách tính như sau : Lấy số tuổi âm, chia cho 9, nếu dư 1, 3, 6, 6 là phạm kim lâu, không nên tổ chức đám cưới vào năm đó. Kim lâu còn phân ra bốn dạng:
Sau khi chia cho 9 nếu số dư là 1 là Kim lâu thân : Bản thân có những bất lợi về sức khỏe, công danh.
Nếu dư 3 là Kim lâu phu thê : Dễ gặp tai nạn, hình khắc chia li, gãy đổ cho gia đạo, hôn nhân chẳng được hạnh phúc, cơm lành canh ngọt.
Nếu dư 6 là Kim lâu tử : Bất lợi cho con cái
Nếu dư 8 là Kim lâu súc : Các loài vật nuôi trong nhà sẽ bị bệnh dịch mà chết, gây thiệt hại đến sản xuất và kinh tế.
Ví dụ cô Nguyễn Thúy Hằng, sinh năm Canh Ngọ 1990, đến năm 2015 là phạm Kim lâu súc. Ta lấy 2015 – 1990 = 25 + 1 (Tuổi bào thai) = 26 : 9 dư 8. Nếu cô kết hôn vào năm nay sẽ gặp tình huống đó. Gia đình mà làm kinh tế nông nghiệp, chăn nuôi quy mô lớn, ắt phải để tâm đề phòng.
Cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng cửa nhà, hoặc mưu toan đại sự, thường áp dụng cho nam giới. Chúng ta áp dụng biểu đồ như sau.

Bắt đầu từ cung Cấn là 10 tuổi, tính thuận chiều Kim đồng hồ, 11 ở cung Chấn, 12 ở cung Khôn, 13 ở cung Ly, 14 ở cung Tốn, 15 ở cung Đoài, 16 ở cung Càn, 17 ở cung Khảm, 18 ở cung Cấn, 19 ở cung Chấn, nếu tuổi nào rơi vào các cung màu xanh là phạm Kim lâu, chớ nên khởi công, động thổ xây dựng. Nếu phạm vào cung Cấn là Kim lâu thân : Hại cho bản thân chủ nhà. Nếu phạm vào cung Khôn là Kim lâu thê : Không lợi cho vợ của gia chủ. Phạm vào cung Tốn là Kim lâu tử : Con cái gia chủ phải giữ gìn. Phạm vào cung Càn là Kim lâu lục súc : Các vật nuôi trong nhà dễ bị bệnh dịch.
Đến năm 20 tuổi thì lại khởi hạn từ cung Chấn và theo chiều thuận Kim đồng hồ, đến năm 30 tuổi thì hạn lại được khởi từ cung Khôn, cứ như vậy, tiếp tục, đó chính là cách tính Kim lâu trong khởi công xây dựng làm nhà. Ngoài ra, người ta con tính cả hạn tam tai và hoang ốc nữa. Nhưng ở đây, cần phân biệt để không bị nhầm lẫn trong mục đích sử dụng.
Tổng hợp
Có 2 dòng tranh phong thủy hiện nay: tranh phong thủy truyền thống và tranh phong thủy mạng xu hướng hiện đại.
Dòng tranh phong thủy truyền thống có yếu tố, quy chuẩn của thời cổ, mang tính chất truyền thống. Ví dụ như: Tranh tứ bình, tùng cúc trúc mai hoặc tranh ngựa...
Dòng tranh phong thủy hiện đại phù hợp với nội thất và xu hướng hiện đại.
Tranh phong thủy phải mang lại hiệu ứng tâm lý tốt đẹp cho gia chủ.
![]() |
![]() |
| ► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết hai bạn có hợp nhau không |
Biến động vận trình của 12 con giáp dịp lễ Thất Tịch
| ► Xem bói ngày sinh để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Lễ hội ngày 3 tháng 1 Âm Lịch có diễn ra bốn lễ chính:
1.HỘI LÀNG KHÊ THƯỢNG
Thời gian: từ ngày 3 tới ngày 7 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: làng khê thượng, xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, Tỉnh Hà Tây (cũ).
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Tản Viên Sơn Thánh (con rể Vua Hùng).
Nội dung: trong lễ hội, mở đầu là hoạt động tế lễ thánh thần, tiếp đó là tục "chém may" (Thi chém thân chuối) để cầu may, trò đấu vật.
2.HỘI BẠCH HẠC
Thời gian: tổ chức hàng năm và mở làm hai kì hội xuân, kì đầu từ mùng 3 đến hết mùng 5 tháng giêng, kì sau từ mồng 10 đến 13 tháng 3 âm lịch.
Địa điểm: làng Bạch Hạc, huyện Phong Châu (Nay thuộc phường Bạch Hạc thành phố Việt Trì), tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Thổ Lệnh Đại vương - vị thiên tướng đã xuất hiện ở đất Phong Châu vào đời nhà Đường.
Nội dung diễn ra: sáng ngày hội, dân làng tới nhà vị hương chức để rước bộ cầu ra đình. Đám rước long trọng có cụ Tiên chỉ trong làng cầm hương, các nam nữ thanh niên đi theo, có phường bát âm cử nhạc điểm theo tiếng chiêng. chín mẹ con quả cầu bay trên Long đình do bốn thanh niên khiêng. Rước tới đình, người ta đặt bộ cầu lên bàn thờ thay cho bộ cầu năm trước lễ tế cầu. Tế cầu xong thì diễn ra cuộc tung cầu để tất cả nhưng người đi trẩy hội cùng chen nhau cướp. Tục cướp cầu, tuy chỉ là một cổ tục diễn ra theo nghi thức cổ truyền, nhưng đây chính là một hoạt động văn hóa đề cao tinh thần thượng võ của dân tộc việt.
Vào ngày rã đán còn diễn ra cuộc thi thuyền. Địa điểm tổ chức cuộc thi là trên dòng sông lô. Những năm dân làng làm ăn thịnh vượng, mùa màng bội thu, nhân dịp hội tháng 3, ngoài bơi trải dân Bạch Hạc còn tổ chức đấu cờ người thay cho cờ tướng. Cờ người cũng chơi như cờ tướng chỉ khác quân cờ thay vì những biển cờ có khắc chữ là những nam nữ thanh niên mặc quần áo có thêu chữ mang tên những quân cờ ở trước ngực và sau lưng.
3.HỘI CẢNH DƯƠNG
Thời gian: Tổ chứ từ 3 tới ngày 7 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: xa Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Nội dung: Trong hội phần lễ, có lễ cầu ngư và lễ kì yên. Phần hội, tổ chức cuộc thi nấu cơm theo nhóm (Người tham dự thi nấu cơm thì sẽ phải vừa nấu vừa trông cóc).
4.HỘI CẦU NGƯ Ở CỬA HỘI
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mồng 3 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Vùng biển ở cửa hội, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đối tượng suy tôn: Nhằm bày tỏ lòng thành kính đối với Cá Ngài được coi là vật tổ của ngư dân vùng biển.
Nội dung diễn ra: Lễ hội Cầu Ngư là một lễ hội hoành tráng, diễn ra trong một không khí trang trọng, thiêng liêng, thể hiện vẻ đẹp truyền thông của người dân sứ huế.
Mở đầu lễ hội sẽ là một hồi trống vang lên, chiếc thuyền lớn từ bờ bắc xếp theo hình mũi tên, một chiếc hơi nhô về phía trước, hai chiếc còn lại song song và áp sát theo sau và từ từ tiến ra dòng. Thuyền đi đầu tiên gồm có 9 người, trong đó có 8 tay chèo do 8 thanh niên khỏe mạnh và có kinh nghiện đi biển. Tất cả họ đều mặc quần áo nâu mành cánh buồn đều tay đưa thuyền ra giữa "Lạch" Còn người cuối cùng trên thuyền là một ngư ông cao tuổi - Đây là linh hồn của lễ hội cầu Ngư. Đây cũng là con thuyền trở Cá Ngài làm bằng nhựa mềm với chiều dài gần hết con thuyền.
Hai con thuyền còn lại ở hai phía có người. Trong mỗi thuyền có 9 người, thì trong đó 8 người chèo lái và một người còn lại làm chỉ huy thuyền trưởng của cả đội. Có một điểm khác nhau là so với con thuyền phía trước thì cả hai con thuyền này đều phải trở đầy lưới sạch, được xếp trong tư thế sắp đánh cá. Ở phần đầu giữa mũi con thuyền cũng có hương án bày bán đầy đủ hương đăng, hoa quả lễ vật.
Khi cả ba thuyền hướng về phía biển đông theo hướng chỉ tay của chủ tế. Thuyền ra giữa trung tâm "Lạch" - Đó là lúc lễ cầu Ngư cửa Hội chính thức bắt đầu. Vị chủ tế cầu nguyện mong cho một năm mưa thuận gió hòa, trời yên bể lặng, tôm cá sinh sôi, ngư dân gặp nhiều may mắn.
Kết thúc phần lễ mọi người đưa "Cá Ngài" xuống sông. Hành động này mang ý nghĩa sự trở về của giang sơn biển cả, của chúa muôn loài.
Trong lễ hội người ta còn tiến hành đánh cá. Dù mẻ cá không được nhiều, song những năm như thế họ vẫn rất hạnh phúc. Vì họ cho rằng đó là điềm báo, là dấu hiệu của một năm bội thu. Trong khi các con thuyền đang đánh cá thì mọi người vẫn thắp nhang và cầu khấn mong được may mắn và để vơi bớt nỗi oan khuất cho những người trước kia đã nằm tại nơi đây.
![]() |
| Dần - Tý | Dần - Sửu | Dần - Dần | Dần - Mão |
| Dần - Thìn | Dần - Tỵ | Dần - Ngọ | Dần - Mùi |
| Dần - Thân | Dần - Dậu | Dần - Tuất | Dần - Hợi |
Maruko (theo Sohu)
Nhiều người quan niệm nếu hướng cầu thang đối diện cửa chính thì gia chủ sẽ bị hao tán tiền của, tài lộc sẽ bị tuôn chảy hết. Điều này đúng nhưng chưa đầy đủ.

Sự vận hành của cầu thang luôn có hai chiều lên và xuống. Những ngôi nhà có cầu thang đối diện cửa chính thì sẽ nhận được nhiều năng lượng nhưng sự suy thoái cũng rất lớn.
Dưới góc nhìn phong thủy, những ngôi nhà có kiểu cầu thang này có thể làm ăn tốt nhưng sẽ không giữ lại được nguồn tài lộc. Vì vậy, nên tránh bố trí cầu thang đối diện cửa để giảm thiểu tối đa hiện tượng tiền vào cửa trước rồi lại ra cửa sau.Khi cầu thang đối diện cửa chính, sử dụng một lớp cửa kính sau cửa gỗ chưa giải quyết được vấn đề vì trong quá trình sử dụng vẫn phải mở cửa thường xuyên. Tốt nhất có thể đánh lệch hướng cầu thang hoặc đặt dưới chân cầu thang một chậu cây để ngăn cản dòng năng lượng thoát ra ngoài.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Sách “Hám Long Kinh” nói rõ rằng: “Núi Hữu Bật vốn không có hình chính. Hình của nó rất đa dạng. Nó đi với 8 loại núi trong cửu tinh. Muốn nhận ra núi Hữu Bật, xem chỗ đứt quãng của 8 núi kia sẽ thấy”.
Các nhà phong thủy cho rằng, núi Hữu Bật ẩn hình chứng tỏ địa mạch ngầm đến, các sát không xâm, các hại không phạm, nếu có con mắt tinh tường thì thấy nguồn gốc của núi này. Từ đó cho thấy, núi Hữu Bật vô hình. Vậy nên, nếu biết vị trí của núi Tả Phụ thì có thể suy đoán được núi Hữu Bật tàng hình ở đâu. Núi Hữu Bật thường đi với núi Tả Phụ. Núi Tả Phụ ở bên trái long mạch còn núi Hữu Bật ở bên phải.
Theo ngũ hành thì núi Hữu Bật thuộc Thổ. Núi cát hay hung còn phụ thuộc núi đi cùng. Phần lớn, núi này đi với núi cát, rất ít đi với núi hung. Dương trạch cũng như vậy.
Theo Bí ẩn thời vận
|
Trong văn hóa truyền thống, bữa ăn gia đình là nơi mọi người gắn kết với nhau sau một ngày bận rộn. Năng lượng của góc ăn uống được tin rằng có mối tương quan trực tiếp đến sự giàu có của gia đình, đơn giản như khi không có tiền thì không có nhiều thức ăn trên bàn. Do đó, cùng với nhà bếp, góc bàn ăn cũng quan trọng không kém.
- Bàn ăn đặt trong nhà bếp
Nếu có điều kiện nên chia tách phòng ăn độc lập với nhà bếp. Tuy nhiên, nếu không gian có hạn thì cũng hoàn toàn có thể kết hợp hai nơi làm một. Phòng ăn, cũng như nhà bếp, tối kị lồi lõm, méo lệch.
- Bàn ăn đặt ở cung Cát
Nếu chia phòng ăn làm 9 ô bằng nhau thì bàn ăn nên bố trí ở ô trung tâm. Nếu chủ nhà thuộc mạng "Đông tứ trạch" thì nên tránh để bàn ăn ở hướng Tây, Tây Nam, Tây Bắc và Đông Bắc. Nếu chủ nhà thuộc mạng "Tây tứ trạch" thì tránh đặt ở hướng Đông Nam, Đông, Nam và Bắc. Đặt bàn ăn ở các phương vị thích hợp mang lại tài vận, sức khỏe cho mọi người trong nhà.
- Bàn ăn kị đặt ở vị trí Tây Nam
Sao Nhị Hắc - đại biểu cho bệnh tật, nằm ở vị trí Tây Nam. Phòng ăn liên quan nhiều đến sức khỏe nên tránh đặt ở vị trí này. Nếu không thể thay đổi, chủ nhà cần hóa giải bằng cách đặt tượng kì lân, sư tử hoặc tì hưu. Đầu tượng hướng ra phía cửa phòng.
- Bàn ăn tránh đối diện cửa chính.
Xét về mặt thẩm mỹ, nếu mở cửa ra thấy cảnh mọi người đang ăn cơm thì không hề đẹp mắt chút nào. Nếu phạm phải cấm kị này, gia đình nên đặt một bình phong để tạo không gian riêng biệt.
- Bàn ăn tránh đối diện bàn thờ Phật
Mùi dầu mỡ, thức ăn, thịt cá đại kị ám lên khu vực bàn thờ, đặc biệt là nơi thờ Phật. Bàn ăn của gia đình, do vậy, nên tránh hướng đối diện trực tiếp với vị trí thờ cúng của gia đình.
- Bàn ăn kị đối diện nhà vệ sinh
Phòng tắm, nhà vệ sinh là nơi sản sinh ra nhiều uế khí nên càng kín càng tốt. Góc ăn uống của gia đình tránh trực xung với hai nơi này để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe.
- Bàn ăn tránh dùng mặt kính
Mặt bàn kính mang lại cảm giác lạnh, cứng và dễ vỡ. Mặt bàn lạnh gây cảm giác tê cóng về mùa đông, ảnh hưởng đến tì vị của các thành viên trong gia đình.
- Ghế bàn ăn tránh dùng số lẻ
Bàn ăn là nơi sum họp nên những vật có đôi, có cặp luôn mang lại may mắn. Số lượng ghế bàn ăn nên là 4,6 hoặc 8 cái. Số lẻ, không chỉ khó bài trí, mà còn hung sát.
Hãy ăn mặc chỉnh tề dù bạn làm việc ở nhà một mình và không có ai khác trong phòng làm việc.
|
|
| (Ảnh minh họa) |
Phong thái của người thành công
Ăn mặc chỉnh tế là cách cho thấy bạn sẵn sàng đón nhận vận may bất cứ lúc nào. Khi quan sát những người thành đạt, bạn sẽ thấy rằng cách ăn mặc của họ luôn toát ra vẻ lịch lãm, chu đáo.
Nguyên lý phong thủy này cũng có thể áp dụng cho nhà cửa. Khí tù hãm và có hại thường tạo nên thái độ sống cẩu thả. Tuy nhiên, nếu bạn cố gắng giữ cho thân thể và nhà cửa được sạch sẽ, gọn gàng, vùng không gian xung quanh bạn sẽ được cung cấp năng lượng mới đầy sức sống và những điều tốt lành sẽ luôn đến với bạn.
(Theo Phong thủy đem lại sức sống cho bạn)
![]() |
Phóng sinh không đúng cách còn mang thêm tội
Theo nhà Phật, phóng sinh là cách nuôi dưỡng lòng nhân hậu, từ bi, nhưng gần đây nhiều người đã phát hiện ra những chiêu trò phóng sinh thành “phóng tử”, họ cho chim dùng thuốc để yếu rồi bán, phóng sinh xong chim chỉ bay được đoạn ngắn, rồi lại bị bắt về bán cho người khác. Trên mạng mới đây xôn xao clip một nhóm từ thiện phóng sinh lượng lớn rắn vào rừng, dù thả dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của kiểm lâm... Nhưng vẫn có nhiều ý kiến cho rằng, phóng sinh là thả những loài động vật ít gây hại (như chim, cá, cua, lươn, ốc), không nên thả rắn độc, rắn hổ mang. Đạo Phật quan niệm, phóng sinh tức là người có thiện tâm nhìn thấy chúng sinh bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại thì phát lòng từ bi tìm cách cứu chuộc, giải thoát, phóng thích, cứu mạng sống của chúng sinh. Đại đức Thích Đức Thiện - Trụ trì chùa Phật Tích (Bắc Ninh) cho rằng, nếu phóng sinh đúng nghĩa công đức cũng rất lớn. Nhưng phóng sinh thực hiện không đúng cách không đem lại hiệu quả mà còn trở thành mê tín, thêm tội, nhất là hành động “mua danh phóng sinh” lấy việc phóng sinh để phô trương, khoe khoang, muốn được nhiều người biết đến việc làm của mình. Phóng sinh có thể làm quanh năm chứ không cứ dịp Rằm tháng Bảy. Ảnh: T.G
Nhà chùa không khuyến khích phóng sinh
Thượng tọa Thích Chơn Không (Trụ trì chùa Thiên Tôn, Quận 5, TP Hồ Chí Minh) – ngôi chùa từ lâu không khuyến khích phóng sinh cho biết: “Không nên phóng sinh trong điều kiện như hiện nay ở Việt Nam” trên web Hướng từ bi (Tỉnh hội Phật giáo Lâm Đồng). Theo đó, nếu phóng sinh mà chúng sinh (chim, cá, ốc, hến, lươn, lạch…) được sinh tồn, thì rất nên làm. Nhưng thực tế phóng sinh là duyên cớ để người ta đi bẫy chim, bắt cá… có yếu tố làm tổn hại chúng sinh. Theo Thượng tọa Thích Chơn Không, các phật tử ở Mỹ không thể tìm mua được con vật để phóng sinh như ở Việt Nam vì không có ai bán chim, bán cá để phóng sinh cả! Còn ở Việt Nam vào ngày vía, lễ, sóc vọng, có nhiều người phóng sinh, nên chim, cá bị bắt cũng nhiều. Chính nhu cầu mua chim, cá phóng sinh đã tạo nên cái vòng luẩn quẩn và khiến bao nhiêu con chim được mua thả thì bấy nhiêu con chim bị vây bắt… và số chim bị giăng bẫy đánh bắt bị chết rất nhiều. Cá cũng vậy. Phóng sinh hiện nay vô tình đang thúc đẩy người khác làm ác, tạo ra tà mạng. Còn mắc tội thúc đẩy sát sinh, vì hành động tìm mua sinh vật gián tiếp làm hại sinh vật từ nhu cầu phóng sinh. Quá trình phóng sinh con vật bị bắt, bị thả nhiều lần cho đến khi chết: Trước khi phóng sinh thì con vật bị đánh bắt do nhu cầu phóng sinh; Con vật bị giam cầm, khủng hoảng, sợ hãi, bỏ ăn uống, kiệt sức, có nhiều con đã chết ngay trong lồng, trong chậu. Thực tế gần đây cho thấy, chim phóng sinh bị cắt cụt cánh, bị đánh thuốc nên không được tự do, bay vài mét lại rơi xuống, bị bắt lại bán tiếp cho đến chết. Cá thả xuống sông từ trên cao đổ xuống con thì giập mật, con thì hoảng loạn… lại tiếp tục bị chích điện, bủa lưới để bắt lại. Con vật bị thả là ảo, mà bắt là thật. Chưa kể một số loại cá nuôi khi thả ra môi trường tự nhiên rất khó sống, hay phóng sinh một số con vật có thể hủy hoại môi trường như rùa tai đỏ… Nhiều nhà sư giảng giải rằng, phóng sinh làm không đúng cách, chọn không đúng loài vật hoặc phóng sinh vào môi trường không phù hợp có thể vô tình giết hại sinh vật, tác động xấu đến môi trường sống. Nếu phóng sinh thực hiện do tính toán đầu tư để được phước báo, trường sinh, hay lợi ích thực dụng khác thì đều vô nghĩa. Quan điểm của nhà Phật là phóng sinh phải phát xuất từ lòng từ bi vô lượng, vì thương yêu, vì sự sống của chúng sinh, chứ không phải vì vụ lợi, đầu cơ công đức. Phóng sinh bằng cái tâm chứ đừng theo phong trào, không chạy theo số đông. Không có quy chuẩn về phóng sinh, nhưng các nhà sư đều hướng dẫn người dân phóng sinh sao để khơi lòng hiếu sinh, thương yêu của con người với vạn vật, chứ không phải tạo công đức thực dụng. Các nhà sư khuyên, không nên mua loài phóng sinh nhiều lần ở một cá nhân, địa điểm và không có tính chất định kỳ… để tránh chúng sinh bị đánh bắt lại. Gặp con gì thì mua con đó, không đặt trước, không phân biệt nhiều hay ít, lớn hay nhỏ mà tùy tâm, thành tâm. Dân gian còn kiêng phóng sinh loài nào thì không nên ăn ngay loài đó (thể hiện tâm từ bi không phân biệt chỗ cứu, chỗ ăn). Nhiều chùa thường gần tới giờ phóng sinh mới đưa các loài phóng sinh đến. Nghi lễ nhanh gọn, rồi nhanh chóng chở loài phóng sinh đi thả ngay. Việc này nhằm để chúng sinh giảm sợ hãi, ngột ngạt, tù túng và tránh cho chúng sinh không bị chết trước khi được phóng sinh. Cần hiểu việc phóng sinh chỉ có lợi ích duy nhất là tập cho chúng ta biết yêu thương muôn loài, góp phần giảm bớt cái ác do trục lợi từ việc làm hại chim, cá… phóng sinh. Việc phóng sinh nên thành tâm làm phúc, cứu khổ, cứu nạn và ngẫu nhiên chứ không nên định sẵn và có thể làm quanh năm chứ không cứ dịp Rằm tháng Bảy. Nếu phóng sinh ở nhà, người dân nên: Chọn nơi chúng sinh có thể sống ở đó lâu dài không bị bắt, hay do môi trường xấu quá mà chết. Không nên cầm cả xô, hay túi vứt ra ao, hồ, sông, suối. Hãy cứu vớt đến cùng bằng cách bốc từng nắm nhẹ nhàng thả xuống ở nhiều nơi, không tập trung một chỗ. Cá chờ nó bơi khuất hãy về. Thả các chim thú về với môi trường thiên nhiên cần làm đúng nơi đúng chỗ, đúng thời điểm để chúng sống được, không nhất thiết thả ở ao hồ quanh chùa (nhất là chùa đô thị sẽ làm người tham đánh bắt lại và thêm tội).
Sườn non bầu rượu túi thơ
Thảnh thơi ngồi gẫm cuộc cờ Trường An
Vạc Hậu Chu vừa khi mới đổi
Trần Hi Di lên ẩn núi Hoa Sơn
Mấy mươi năm trong cuộc bùn than
Lửa văn võ chưa rặc lò đan táo
Hà vật lão ẩu
Nặng trên vai hai chúa thái bình
Liếc trông chừng Tống nhật đã khai minh
Mây thúc quí hẳn từ rầy trong leo lẻo
Trần Kiều mộng lý giang sơn tiểu
Vãn quán xuân thâm nhật nguyệt trường
Rượu một bầu, thơ một túi, cờ một cuộc, cầm một xoang
Khi đắc ý gật trên lừa cười ra rả
Ngoài cung kiếm mặc ai xa mã
Luy trần bất đáo thử giang san
Trời riêng cho một cuộc nhàn.
Trong chính sử không thấy nói đến Trần Đoàn, tên ông chỉ được ghi trong dã sử, truyền ký và chính thức trong các sách về tướng pháp và lý số, thành thử đời sau không thể có một tiểu sử liên tục và rõ ràng về ông.
Căn cứ vào bài Ca trù của Nguyễn Công Trứ để lấy thứ tự đồng thời cộng với một số truyền kỳ, ta có thể hình dung một cách đại khái thân thế Trần Đoàn như sau:
Từ nhà Đường chuyển sang nhà Tống trải qua giai đoạn lịch sử quá độ trung ương tập quyền biến ra địa phương hùng cứ rồi chuyển thành đời Ngũ Đại đã rồi nhà Tống mới thống nhất.
Trần Đoàn lớn lên giữa lúc nhiễu nhương binh lửa, giết chóc loạn lạc, ông lên núi tu ẩn để tránh họa. Khi đã nắm được lẽ huyền vi của âm dương, ông thường đi đây đó để tìm anh hùng và chân chúa. Có một lần gặp người đàn bà gánh kĩu kịt trên vai hai đứa trẻ mỗi thúng ở đầu đòn gánh một đứa. Ông mới hỏi: “Hà vật lão ẩu? Này bà gánh kia chi vậy?” Người đàn bà mở nắp thúng cho Trần Đoàn coi rồi thở dài nói: “Tôi dẫn hai con tôi đi chạy loạn đây”.
Vừa nhác trông thấy hai đứa nhỏ, Trần Đoàn đã kêu lên: “Một vai bà mà gánh những hai vị thiên tử sao?”
Lòng ông vui mừng khôn xiết, vì thiên hạ sắp hưởng đời thái bình nên mới có hai vị chân chúa anh hùng xuất thế. Trần Đoàn liền lấy trong bọc ra mười lạng đưa biếu người đàn bà không quen biết rồi lên lưng lừa đi thẳng.
Hậu Chu là gì?
Là Chu Thế Tôn người đi bước đầu trong công cuộc thống nhất nhưng chưa được năm năm đã mất.
Phải đợi đến lúc có vụ binh biến Trần Kiều do hai anh em ông Triệu Khuông Dận và Triệu Khuông Nghĩa (hai đứa trẻ Trần Đoàn gặp trước đây nay lớn lên) cầm đầu đánh dẹp nốt các phương chấn bấy giờ đại nghiệp thống nhất mới hoàn thành.
Khi nghe tin Triệu Khuông Dận là Tống Thái Tổ thì Trần Đoàn đang ngồi trên lưng lừa ngửa mặt cười ra rả nói: “Thiên hạ thái bình rồi”.
Về sau, Tống Thái Tôn tức Triệu Khuông Nghĩa có cho người vời Trần Đoàn ra làm quan nhưng ông từ chối, bỏ vào núi đi mất không ai biết ở đâu.
Gốc thông hỏi chú học trò
Rằng thầy hái thuộc lò mò đi xa
Chỉ trong dẫy núi đây mà
Mây che mù mịt biết là nơi nao
(Tản Đà dịch thơ Giả Đào bài Tầm ấn giả bất ngộ).
Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ?
Không ai rõ chỉ biết đời nhà Gia Tĩnh thuộc Minh triều có lưu truyền cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư do tiến sĩ La Hồng Tiên biên soạn. Lời tựa ở đầu nói Tử Vi đẩu số toàn thư là của tác giả Hi Di Trần Đoàn.
Bài tựa viết như sau:
“Thường nghe nói cái lý của số mệnh rất huyền vi ít ai biết cho tường tận để mà thuận thụ coi công danh phú quí trên đời đều có mệnh.
Tôi vì muốn biết nên đã tới tận núi Hoa Sơn chỗ ông Hi Di Trần Đoàn đắc đạo để chiêm bái nơi thờ tự của bậc đại hiền. Lúc ra về thì thấy một vị cao niên thái độ ung dung chân thực đưa cho tôi cuốn sách mà bảo: “Đây là Tử vi đẩu số tập của Hi Di tiên sinh”.
Mang về mở ra xem, ban đầu các sao nghĩa lý thật ảo diệu nhưng càng đọc càng thấy lời bàn luận sắc đáng, đem ra đoán thử thấy lời đoán rất thần nghiệm, càng học càng thấy hay lạ. Bất giác phải kêu lên: “Tạo hoá chí huyền chí hư mà soi sáng được đến thế này, nếu con tâm bậc đại hiền không nhập vào với tạo hoá thì làm sao biết nổi. Tinh tú ở xa muôn triệu dậm mà tính hết vào trong một bàn tay, nếu bậc đại hiền không phải là người hung tàng tinh đẩu (trong ngực có tinh đẩu) thì làm sao tính nổi. Ngôi trời ở trên, ngôi đất ở dưới, loài người đứng giữa. Hi Di tiên sinh đã tìm được lẽ con người thiên hợp và lẽ trời nhân hợp qua sự biến hoá của các vi tinh đẩu để tính ra số mệnh hay dở của từng người, nếu không có cái học quán thiên nhân thì ai làm nổi. Hi Di tiên sinh xứng đáng là một bậc cao nhân, một thần nhân vậy.
Bởi thế tôi muốn đem những lời dạy của Hi Di Tiên Sinh phổ biến cho khắp thiên hạ trong cõi thế gian thấp kém này được hiểu cuộc đời là có mệnh số”.
Cuốn Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn do La Hồng Tiên biên soạn chia làm 4 tập:
Tập một và tập ba nói về tính chất ảnh hưởng các sao, các cung vào vận, vào mệnh con người qua các chương: Thái vi phú – Hình tinh phú – Tinh viên luận - Đẩu số chuẩn thắng - Tục hình tinh phú – Phát vi luận - Đẩu số cốt tủy chú giải - Nữ mệnh cốt tủy phú chú giải - Định phú quí bần tiện thập thập đẳng luận – Thập nhị cung chư tinh thất hãm quyết – Chư tinh đắc địa phú quí luận – Chư tinh thất hãm bần tiện luận - Định phú cục - Định quí cục - Định bần tiện cục - Định tạp cục – Đàm tinh yếu luận – Luận nhân mệnh nhập cách - Luận cách tinh số cao hạ - Luận nhân tính cách hà như - Luận nam nữ mệnh đồng dị - Luận tiểu nhi mệnh - Định tiểu nhi thời sinh quyết - Luận nhân sinh thời an mệnh cát hung - Luận tiểu nhi khắc phụ mẫu - Luận mệnh tiền bần hậu phú - Luận đại hạn thập niên họa phúc hà như - Luận nhi hạn thái tuế cát hung - Luận hành hạn phân nam bắc đẩu – Luận lưu niên thái tuế cát hung tinh sát - Luận kinh đà diệt tính - Luận thất sát trùng phùng - Luận đại tiểu hạn tinh thần quá thập nhị cung ngộ thập nhị chi sở kỵ quyết - Luận lập mệnh hành hạn cung ca - Luận thái tuế tinh thần miếu hãm ngộ thập nhi cung cát hung - Luận chư tinh đồng vị viên các tư sở nghi phân biệt phú quí bần tiện yểu thọ.
Tập hai dạy cách lấy số an các sao.
Tập bốn là những lá số của các danh nhân, thường nhân với lời phê.
Về tập hai tức cách an sao lập thành lá số thiết tưởng đã có nhiều sách làm kỹ càng rồi nên ở đây xin bỏ qua tập đó, chỉ nói một vài dị biệt giữa Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn với những sách Tử Vi ở nước ta. Tập một và tập ba cần chú ý hơn hết, chúng tôi sẽ dịch nguyên văn kèm theo lời bình và chú thích. Dùng chữ bình, chúng tôi tự thấy có vẻ hơi lạm thực ra chỉ là những thắc mắc mà chúng tôi tìm thấy đó thôi. Nhưng chúng tôi sẽ không dịch nguyên văn toàn bộ vì có nhiều điều lập đi lập lại hoặc do mất chữ trở thành vô nghĩa. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa thêm vào ít khám phá mới của vài tác giả như Trương Huy Văn với các cuốn “Tử Vi Xiển Vi”, “Tử Vi phát bí”, như “Vô Muộn” với cuốn “Đẩu số mệnh lý tân biên”. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không để rơi lọt một tinh hoa nào của khoa Tử Vi có ghi trong sách Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh.
NHỮNG THUẬT NGỮ CẦN BIẾT
Bất cứ nghề gì cũng có thuật ngữ, người thợ sửa xe hơi có những tiếng như “pan nóng”, “pan nguội”, “súp bắp”, “đen cô”... Thuật ngữ để chỉ dụng cụ hay tình trạng.
Khoa Tử Vi đẩu số, chữ đẩu đây nghĩa là ngôi sao cho nên tên sao và tính chất sao cùng với sự kết hợp các sao lại thành từng chùm mang những thuật ngữ riêng biệt.
Tử Vi đẩu số có bao nhiêu sao tất cả?
Ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư chỉ thấy nhóm sao chính là 14 vị: Tử Vi – Thiên Cơ – Thái Dương – Vũ Khúc – Thiên Đồng – Liêm Trinh – Thiên Phủ - Thái Âm – Tham Lang – Cự Môn – Thiên Tướng – Thiên Lương - Thất Sát – Phá Quân
Sau đây là các phụ tinh như: Văn Xương – Văn Khúc - Tả Phụ - Hữu Bật – Thiên Khôi – Thiên Việt – Thiên Mã - Lộc Tồn – Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Hoá Quyền – Hoá Lộc – Hoá Khoa – Hoá Kỵ - Thiên Không - Địa Kiếp – Thiên Thương – Thiên Sứ - Thiên Đức – Nguyệt Đức – Long Trì - Phượng Các – Thai Phụ - Phong Các - Hồng Loan – Thiên Hỉ - Tam Thai – Bát Tọa – Thiên Hình – Thiên Diêu - Đẩu Quân.
Rồi đến chòm sao đi theo Thái Tuế, chòm sao đi theo Lộc Tồn, chòm sao Tràng Sinh. Mỗi chòm 12 vị:
Rồi đến Triệt lộ không vong và Tuần trung không vong cộng lại là 85 vị.
Nhưng sách Tử Vi ở Việt Nam do tổ tiên chúng ta truyền lại thì thấy có thêm nhiều sao khác không ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư của Trần Đoàn như các sao: Đào Hoa – Thiên Tài – Thiên Thọ - Phá Toái – Kiếp Sát – Thiên Y – Thiên Trù – Thiên Giải - Địa Giải - Giải Thần - Địa Không – Ân Quang – Thiên Quí – Cô Thần - Quả Tú – Lưu Hà – Thiên Quan – Quí Nhân – Thiên Phúc.
Tổng cộng lại là 104 vị.
Các cụ đã căn cứ vào đâu mà thêm vào không hiểu hoặc giả sách Tử Vi đẩu số toàn thư chính bản đã sang bên ta, nên bản lưu bên chính quốc bị ghi chép thiếu sót. Nếu vậy, tại sao không có những lời giải rõ ràng về các sao: Giải Thần - Địa Giải – Thiên Trù – Thiên Giải mà chỉ có vài lời nghe thật gượng ép. Trừ sao Đào Hoa thì có thể nói Tử Vi đẩu số toàn thư bị thiếu, vì sao này rất quan trọng trong phép tính số Tử Bình và cách an sao không khác phép tính số Tử Vi.
Tính (sao) còn gọi là Diệu. Ví dụ 14 sao thuộc chòm Tử Vi Thiên Phủ là chính diệu (sao chính) nếu cung mệnh không có sao chính thì gọi là mệnh vô chính diệu.
Sách đẩu số mệnh lý cho rằng: Tả Phụ - Hữu Bật – Văn Xương – Văn Khúc - Lộc Tồn cũng là chính tinh nữa. Còn cổ truyền khoa Tử Vi của ta thì căn cứ vào Tử Vi đẩu số toàn thư nên chỉ có 14 vị là chính tinh mà thôi.
Các sao: Kình Dương – Đà La - Hỏa Tinh – Linh Tinh – Thiên Khôi – Thiên Việt gọi là Thiên diệu.
Hoá Lộc – Hoá Quyền – Hoá Khoa – Hoá Kỵ gọi là hoá diệu hay tứ hoá.
Ngoài ra các sao khác là tạp diệu.
Lại có những tên gọi riêng như Tứ Cát (bốn sao tốt) là Lộc, Quí (gồm Khôi Việt), Quyền, Khoa.
Tứ hung hay tứ sát (bốn sao hung) là Hỏa, Linh, Dương, Đà.
Những sao đi đôi, đi cặp là: Tử Phủ (hay Tử Vi – Thiên Phủ), Tử - Tướng, Phủ - Tướng, Nhật - Nguyệt, Tả - Hữu, Xương – Khúc, Không - Kiếp, Hỏa – Linh, Dương – Đà, Khôi - Việt.
- Tam hợp là gì?
Mỗi lá số tử vi có 12 cung theo 12 chi, mỗi cung khi tính sao được tính theo tam hợp tức là hội các sao của 3 cung lại. Ba cung nào? Phải theo nguyên tắc sau: Thân Tý Thìn, Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất.
- Lục xung là gì?
Tý - Ngọ xung, Sửu – Mùi xung, Dần – Thân xung, Mão - Dậu xung, Thìn - Tuất xung, Tị - Hợi xung.
- Thủ đồng là gì?
Một chính tinh đóng ở mệnh cung là thủ mệnh. Hai chính tinh đóng ở mệnh là đồng cung hoặc đóng ở các cung khác cũng vậy.
- Lâm - Nhập là gì?
Hai chữ trên mang cùng một nghĩa, nhưng sao tốt đóng ở đâu gọi là Lâm, sao xấu đóng ở đâu gọi là nhập.
- Miếu – Hãm là gì?
Mỗi sao cần phải đứng tại vị trí đúng chỗ của nó, đứng sai chỗ gọi là Hãm, đứng đúng chỗ gọi là Miếu. Còn có những danh từ khác chỉ sự đúng chỗ như vượng địa, đắc địa, tuy nhiên miếu địa vẫn là nhất. Đúng chỗ mới lợi, sai chỗ vô ích hoặc bất lợi, Ví dụ: vua Văn Vương bị bắt giam trong tù, Tỉ Can đi thờ vua Trụ.
- Tọa - Cứ là gì?
Tọa chỉ sao tốt ngồi tại cung nào.
Cứ tức chiếm cứ chỉ sao xấu xâm nhập tại cung nào.
- Bản phương - Hợp phương – Lân phương là gì?
Bản phương là cung chủ yếu ta căn cứ vào đó để tính. Ví dụ: Mệnh ở cung Mão thì Hợp phương theo tam hợp thì có Hợi và Mùi.
Còn lân phương là cung bên cạnh. Ví dụ: Thìn và Dần là lân phương của Mão.
- Triều và xung là gì?
Sao tốt đóng tại cung khác theo tam hợp và chiếu hướng về cung chủ yếu gọi là Triều. Sao xấu cùng một trường hợp trên gọi là Xung. Riêng sao Thái Âm, Thái Dương không dùng chữ Triều mà dùng chữ Chiếu. Riêng sao Lộc Tồn và Hoá Lộc không dùng chữ Triều mà dùng chữ Củng.
- Giáp - Chiếu - Hiệp là gì?
Các sao tốt đóng hai cung bên cạnh cung mệnh (lân phương) gọi là Giáp.
Ví dụ: giáp Nhật - Nguyệt, giáp Tả - Hữu
Chiếu là sao ở cung đối xung ảnh hưởng tới, ví dụ: Ngọ chiếu Tị, Dậu chiếu Mão hoặc ngược lại.
Về câu: “Chính không bằng Chiếu, Chiếu không bằng Giáp” không thể áp dụng cho bất cứ sao nào.
Ví dụ: Thái Âm, Thái Dương cần Chiếu, Tả Phụ, Hữu Bật cần Giáp.
TỨ YẾU - THẬP DỤ - BÁT PHÁP
Các sao phân phối đóng tại 12 cung, biến hoá vô cùng. Có bốn điểm trọng yếu để phân biệt:
a). Cát hung – b). Hư thực – c). Chủ khách – d). Cường nhược.
Sao có sao thiện, sao ác, thiện là cát tinh, ác là hung tinh. Hung hay cát không phải chỉ căn cứ trên tính chất mỗi vị sao mà còn căn cứ trên chỗ đứng của nó đúng hay sai, miếu địa hay hãm địa.
Hư thực thế nào? Sao tốt làm miếu địa mới là thực cát, thực cát thì không hung dù gặp hung cũng chẳng sợ. Sao xấu rơi vào hãm địa mới là thực hung, thực hung thì không cát, dù gặp cát cũng khó lòng giải. Sao tốt ở hãm địa là hư cát, hư cát là không tốt, còn có thể biến cát thành hung. Sao xấu ở miếu địa là hư hung, hư hung là không hung, còn có thể biến hung thành cát.
- Chia chủ khách ra sao?
Lấy các sao ở bản phương làm chủ, các sao tại cung tam hợp hay xung chiếu là khách. Nếu như bản phương không có chính tinh tức không có chủ thì phải mượn sao ở cung xung chiếu làm chủ, các sao cung tam hợp làm khách. Trong trường hợp cả hai cung xung chiếu cung vô chính tinh thì chỉ lấy sao khách mà luận cát hung.
Cường nhược đây ý nói cường nhược trong tương quan chủ khách. Khách với chủ đều tốt là khách chủ tương đắc hay khách chủ đều xấu là một bầy bạo nguợc thì khỏi phải đặt vấn đề cường nhược. Chủ khách vừa hung vừa cát thì phải xét chủ mạnh hay khách mạnh. Nếu chủ mạnh thì khách theo chủ, nếu chủ yếu thì khách kéo chủ đi. Cát cường cát thắng, hung cường hung thắng.
Thập dụ là gì? Là mười điều căn bản cho việc xem số ở mỗi cung cùng với cát cung tam hợp và cung xung chiếu:
1). Bản phương tốt (cát) “do nội tự cường” mạnh từ bên trong mạnh ra.
2). Bản phương xấu (hung) là “tòng căn tự phát” hư từ gốc rễ.
3). Cung xung chiếu tốt là “nghênh xuân tiếp phúc” chờ xuân đón phúc.
4). Cung xung chiếu xấu là “đương đẩu ác bổng” giơ đầu chịu búa đập.
5). Cung tam hợp tốt là “tả hữu phùng nguyên”, lắm chân tay giúp đỡ.
6). Cung tam hợp xấu là “tả hữu thụ địch”, địch từ bên phải, bên trái đánh tới.
7). Lân phương (cung đằng trước đằng sau) tốt là “lưỡng lân tương phù” hai bên hàng xóm phù trợ.
8). Lân phương xấu là “lưỡng lân tương vũ, hai bên hàng xóm mưu hại.
9). Cả bốn cung cùng tốt là “ Thiên tường vân tập” mây ngũ sắc kéo về chầu.
10). Cả bốn cung cùng xấu là “tứ diện sở ca” bị vây tứ phía không lối thoát.
Bát pháp là tám lối định cách cục khi xem sổ. Mệnh ai cũng thế, đều có cách cục ví như hình vuông, hình tròn, to, nhỏ, đẹp, xấu, lành vỡ của đồ vật. Cách cục của mệnh nói cho hết thì nhiều vô cùng nhưng đây dùng lối quy nạp để đưa thành tám lối. Chia ra như sau:
A. Thành phá tứ pháp:
Phàm mệnh thân bản phương có sao tốt gặp các sao khác ở cung tam hợp và xung chiếu nếu gặp:
- Khoa Quyền Lộc Quí thì kể như cách cục thành, đáng phê mấy chữ “giao long đắc vận vũ” (con rồng gặp mây nước).
- Nếu gặp tứ hung Hỏa Linh, Dương Đà thì kể như phá cách loại “miêu nhi bất tú” (chỉ nẩy mầm mà mầm không xanh tốt).
- Nếu vừa gặp tứ hung lẫn tứ cát thì kể như trong thành có phá, chẳng khác chi “bạch khuê hữu điềm” (viên ngọc trắng bị vết nứt, vết mẻ).
Cả tứ hung lẫn tứ cát đều không thì kể là cách chưa thành nhưng không bị phá, chờ xem hạn ra sao giống như “hỗn kim phác ngọc” (vàng còn lẫn các khoáng chất tạp nhạp, ngọc chưa được lấy ra khỏi đá).
B. Cửu khí tứ pháp:
Phàm mệnh thân cung mà các cung xung chiếu tam hợp đều có hung nếu:
- Gặp Lộc Quí Quyền Khoa là cứu cách, hạn hán lâu ngày được cơn mưa “cửu hạn phùng cam vũ”.
- Gặp Hỏa Linh Dương Đà là khí cách (bỏ đi), cây gỗ mục không thể khắc đẽo làm gì được “hử mộc nan điêu”.
- Gặp vừa tứ cát vừa tứ hung là vừa cứu vừa khí cách, giống như ăn gân gà “thực kê lặc”.
- Không gặp cả tứ cát lẫn tứ hung là cách “thủ tàu bão khuyết” nấn ná đợi thời.
CHƯ TINH VẤN ĐÁP LUẬN
Các sao trong Tử Vi đẩu số chia làm 3 loại: Thiện cát, hung ác, và hoà giải. Tuy nhiên, đừng quên rằng sự sắp xếp vị trí của sao trong lá số mới quan trọng về cát hung chứ không phải chỉ căn cứ vào bản chất cố hữu của từng sao vì như đã nói ở trên dịch lý là biến, biến cát thành hung, hung thành cát tùy theo mỗi sao ở miếu hay hãm địa.
Sách có câu: “Cát tinh nhập miếu tắc vi cát, hung tinh thất địa tắt vi hung” là nghĩa vậy. Tất sẽ có người thắc mắc hỏi: “Nếu phải chờ miếu hãm rồi mới định cát hung, rồi hung biến cát, cát biến hung thì còn phân định sao thiện cát, hung ác làm gì cho rắc rối?”.
Người xưa giảng rằng: “Bản chất cố hữu của sao rất cần, nếu ta luận nó qua quan niệm “tính mệnh” tính thế nào, mệnh sẽ do tính mà thành. Người có nhiều hung tinh mà vinh hiển thường vất vả, gian nan. Người có nhiều cát tinh thường đến với vinh hiển dễ dãi hơn, từ từ và chắc chắn, trong khi hung tinh đắc cách phát dã như lôi, lên như sấm sét thật đấy nhưng cũng phải vượt nhiều hiểm nguy.
Xét vị trí xong rồi, điểm quan trọng thứ hai là tìm hiểu những sao bạn đi cặp với sao chủ. Bạn hư chủ hỏng.
Về khả năng hoá giải cả sao hung lẫn sao cát đều có. Nhưng sao cát thường ở vai trò này nhiều hơn sao hung. Một khi sao hung đã được giao phó nhiệm vụ hoá giải, nó sẽ thi hành triệt để hơn sao cát.
Do những lẽ kể trên, khi luận về các sao phải lưu ý nhiều mặt chỉ sơ một ly sẽ sai đi một dặm.
Tử Vi khác với Tử Bình, ở chỗ cái lý nó tản mạn không có nguyên tắc nhất định, dĩ nhiên, nếu bây giờ được ông Hi Di Trần Đoàn mà nói chuyện trực tiếp thì nguyên tắc nhất định kia tất phải có. Chỉ vì nó tam sao thất bản mất mát hay bị bí truyền nên mất đi đó thôi. Bởi thế xem Tử Bình chỉ cần thuộc lý ngũ hành cho chắc rồi cứ thế luận ra.
Còn xem Tử Vi thì lý ngũ hành không tìm thấy mấu chốt vững chắc để làm cơ sở luận bàn cho nên phải thuộc từng sao, từng cung, sao nào ở chỗ nào, nếu hãm, đắc địa, bất đắc địa để hạ đoán.
Ví dụ: trong chương “Đẩu cốt số tủy phú” quyển I của Tử Vi đẩu số toàn thư có câu: “Tham Vũ mộ trung cư, tam thập tải phát phúc” nghĩa là: Sao Tham lang, Vũ khúc đóng tại mộ địa (Thìn Tuất Sửu Mùi) ở mệnh cung thì ngoài ba mươi tuổi mới phát.
Rồi ở dưới lại thấy có câu giảng rằng:
“Tham vũ bất phát thiếu niên nhân” (Sao Tham Vũ đi đôi, tuổi thiếu niên không phát được).
Câu phú trên đây dùng lý ngũ hành âm dương nào mà giảng nếu không nắm được cái nguyên lý ngũ hành đã mang ra áp dụng riêng cho khoa này. Mà cái nguyên lý ấy cho đến nay vẫn chưa thấy ai làm sách giảng ra, sở dĩ như vậy là vì nguồn gốc của nó bị thất lạc rồi. Rút cuộc đoán số trước sau Tử Vi chỉ có một chỗ bám vững chắc nhất là các câu phú và những định lý làm sẵn. Có thể ví như định lý tất cả mọi vật đều rơi xuống mà không có lời giảng nguyên nhân rơi xuống của mọi vật là sức hút của trái đất.
Dưới đây là tính chất của các sao cùng các cung miếu hãm của mỗi sao ghi trong các chương “Chư tinh vấn đáp luận”.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
| ► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị |
Gia chủ thuộc hành nào thì đặt giường ngủ theo hướng ấy:
• Gia chủ thuộc ngũ hành Thủy, Mộc, Hỏa (mệnh Đông tứ) nên đặt giường ngủ ở hướng bắc, đông, nam, đông nam.
• Gia chủ thuộc mệnh Kim, Thổ (Tây tứ) nên đặt giường ngủ ở hướng đông bắc, tây bắc, tây nam và tây.
• Nên đặt giường ở vị trí có ba mặt tựa vào.
Các vị trí nên tránh trong phòng ngủ:
• Không đặt giường hướng ra cửa hay từ cửa có thể nhìn chính diện vào giường bởi vì hiện tượng này sẽ dẫn tới sự suy sụp về sức khỏe và công danh của gia chủ. Trong tình thế không thể xoay giường thì nên xoay đầu lại để ngủ như là một cách hóa giải.
• Không đặt giường cạnh nhà vệ sinh hoặc dưới nhà vệ sinh tầng trên hoặc đầu giường chiếu thẳng vào nhà vệ sinh. Vì nhà vệ sinh thường được xem là nơi không sạch sẽ.
• Không được kê đầu giường ngay dưới cửa sổ, hoặc sát cửa số bởi vì cửa sổ là nơi có luồng khí và luồng ánh sáng mạnh nhất, có động hướng rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến giấc ngủ và bất lợi cho sức khỏe.
• Không đặt đầu giường nơi có xà ngang bắt ngang qua, vì sẽ gây mất ngủ, hoặc cảm thấy khó thở khi ngủ giống như có vật gì đè trên người.
• Đầu giường không nên chiếu thẳng vào bếp đun hoặc kê sát với phòng bếp không tốt với sức khỏe của con người, có thể sinh ra các chứng bệnh đau tim…
• Đầu giường không nên “lộ không”. Nếu đầu giường không kê sát vào tường được thì cuối giường nên kê sát vào tường, còn nếu không có thể đặt kệ tủ sát đầu giường cạnh vách tường cũng là một cách hóa giải.
• Giường ngủ kiêng chiếu thẳng từ ống khói ở bên ngoài. Phong thủy học cho rằng “ống khói làm cho chủ giường khó sinh nở”. Nếu xảy ra trường hợp trên thì có thể dùng rèm để che cửa sổ để tránh nhìn thấy ống khói là được.
• Đầu giường không nên chiếu thẳng vào gương (dù không phải là gương bát quái hay gương cửa). Nếu để gương chiếu trực tiếp vào đầu giường thường sẽ bị giật mình ảnh hưởng nghiêm trọng đến giấc ngủ dẫn tới hiện tượng mất ngủ, đau tim, tinh thần phân tán. Tốt nhất, nên treo gương ở phía trong cánh tủ quần áo để không làm ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc đặt giường ngủ theo phong thủy làm nhiều người hoang mang không biết đâu là đúng. Tuy nhiên, chúng ta nên áp dụng những điểm cơ bản nhất và dễ thực hiện.
(Theo Dân Việt)
Sinh khí ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người, nhà có sinh khí tốt thì người sống trong đó cảm thấy bình an, ấm cúng và gắn bó; còn nhà thiếu sinh khí sẽ gây cảm giác bất an, căng thẳng, đau yếu do dễ gặp xui xẻo trong đời sống hàng ngày.
Những không gian được cho là “bí“ sinh khí là những không gian bị đóng kín, lưu cữu khí độc trong phòng không thoát được và thiếu ánh sáng tự nhiên, đồng thời những không gian đó nằm trên một tổng thể, địa thế đất không tốt ví dụ như nhiều tiếng ồn, không khí ô nhiễm, thế đất trũng, thiếu cảnh quan xung quanh…
Các không gian bí sinh khí thường tạo lên những không gian bí bách, tù túng, gây cảm giác mất cân bằng và căng thẳng cho người sống trong đó. Vì vậy, các nhà phong thủy học đã đưa ra một số lời khuyên sau đây để cải thiện sinh khí, tăng cường sức sống cho ngôi nhà bạn.
Với nhà ống, để tạo luồng sinh khí cho ngôi nhà, gia chủ nên tận dụng tối đa việc lấy sáng, thiết kế sao cho các phòng đều có ánh sáng. Ở những không gian bí ánh sáng và không khí, có thể lắp quạt thông gió sao cho không khí có thể lưu thông và luân chuyển trong nhà. Không nên chia nhỏ không gian nhiều bằng tường hoặc các vách ngăn kín.
Không gian sống nhiều năng lượng dương
Ánh sáng tượng trưng cho năng lượng dương, vì vậy gia chủ nên chú ý luôn giữ cho ngôi nhà được sáng sủa, đặc biệt vào ban đêm, nhằm tạo sự cân bằng tốt trong nhà. Dùng đèn tròn chiếu sáng là tốt nhất bởi hình tròn tượng trưng cho chu kỳ vô tận của vận may.
Nên dọn dẹp lại nhà cửa, thay đổi công năng sử dụng, vứt bỏ đồ cũ ít sử dụng tạo thêm các khe thoáng lấy gió và lấy sáng tạo luồng khí đối lưu luân chuyển các luồng khí độc ra khỏi ngôi nhà.

Sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường như cây xanh, bể cá, ánh sáng trang trí, màu sắc, âm thanh và có thể là vật nuôi nhằm tạo một môi trường đa dạng gần gũi với thiên nhiên. Dưới đây là những vật liệu rất tốt nên được sử dụng trong ngôi nhà bạn:
Sử dụng nước: Những thác nước nhân tạo, bể cá thủy sinh, những bức tranh nước sẽ góp phần làm tăng sinh khí cho ngôi nhà. Những thứ đồ trang trí này nên được đặt ở hướng Đông hoặc Đông Nam. Nước chảy sẽ mang đến năng lượng dương cho ngôi nhà bạn.
Sử dụng cây cối: Bất cứ loại cây trồng trong nhà nào cũng có tác dụng làm tăng vượng khí tự nhiên, làm giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn. Bạn nên trồng những cây lá kim ở góc phòng để tăng sự lưu thông không khí trong nhà.
Hoa trang trí hợp phong thủy
Hoa trang trí hợp phong thủy
Sử dụng hoa: Hoa cũng có tác dụng làm tăng vượng khí tự nhiên. Những bông hoa sáng màu mang nhiều năng lượng dương trong khi các bông hoa màu nhạt có nhiều năng lượng âm hơn.
Hoa chỉ có thể mang lại năng lượng có ích khi chúng còn tươi, bạn nên thay nước hằng ngày và thay thế những bông hoa khác ngay khi hoa cũ bị héo. Hoa lụa cũng có tác dụng khá tốt khi được sử dụng thay thế cho hoa tươi, nhưng hoa khô thì không mang lại chút năng lượng hữu ích nào bởi vì chúng thiếu sinh khí.
Sử dụng than củi: Những tác phẩm nghệ thuật bằng than củi sẽ là rất cần thiết để mang lại sự hài hòa cho căn nhà nếu nhà bạn có nguồn lửa như lò sưởi nướng, bếp ga… đặt ở hướng Tây hoặc Tây Bắc. Bạn cũng có thể cho than củi vào những chiếc bình đất nung và đặt gần nguồn lửa, than củi mang mệnh thổ nên có tác dụng kìm hãm hỏa.
Sử dụng ánh sáng của nến: Sử dụng nến sáp sẽ mang lại cho căn phòng một không khí thân mật, ấm cúng. Những cây nến nên được đặt ở hướng Nam, Tây Nam hoặc hướng Bắc và khi được đốt cháy sẽ là nguồn cung cấp năng lượng rất tốt.
Chuông gió hóa giải sát khí.
Sử dụng chuông gió: Các loại chuông gió được làm bằng gỗ hoặc kim loại sẽ giúp phân tán các luồng khí đi khắp căn nhà và tạo bầu không khí thư thái, dễ chịu. Để chuông tự reo tự nhiên, bạn có thể treo chuông ở cửa sổ, cửa đi, chúng sẽ tự rung lên khi gặp luồng gió.
Quả cầu pha lê
Sử dụng pha lê: Những đồ vật trang trí bằng pha lê lý tưởng trong phong thủy là những quả cầu, những khối pha lê đa diện được treo bằng dây treo. Bạn nên treo chúng ở cửa sổ nơi mà chúng có thể dễ dàng đón nhận ánh sáng và đưa ánh sáng tự nhiên, năng lượng của những tia nắng vào nhà. Mỗi phòng chì nên treo một quả cầu pha lê ở hướng Tây, Tây Bắc, Bắc, Nam, hoặc Đông Nam.
Sử dụng chuông: Kiểu chuông phù hợp nhất trong trang trí theo phong thủy là chiếc chuông tay có kích thưóc nhỏ. Bạn có thể rung chuông bất cứ khi nào cần tìm kiếm cảm giác sông động hơn, bởi tiếng kêu của chuông sẽ giúp kich thích và làm tảng động nguồn năng lượng và khí ứ đọng.
Vậy thì, thế nào là thân hình khoẻ mạnh và đẹp đẽ ? Các chuyên gia cho rằng, một thân hình khoẻ mạnh, đẹp đẽ, cân đối phải là: Cơ bắp của người nam giới vạm vỡ đẫy đà, cân đối, còn nữ giới thì phải có thân hình phốp pháp, nở nang nhưng không béo phị; hai vai cân đối, vai của nam phải rộng, của nữ phải tròn, hơi thon; cột sống nhìn từ phía sau lưng phải thẳng, nhìn từ bên cạnh phải có đường cong sinh lý bình thường, xương bả vai không nhô lên như hai cánh; ngực phải rộng, nhìn từ chính diện phải như hình thang, nữ giới đôi bầu vú phải đầy đặn, chúm nhô ra mà không xệ xuống, nhìn từ bên cạnh phải có đặc trưng đường nét nữ tính rõ rệt, nữ giới lưng phải nhỏ ngắn, như hình trụ tròn, bụng phải phẳng dẹt, tay phải tròn trặn. Nam giới tai giữa hơi vểnh lên, nữ giới thì sa xuống, chân dài, cẳng chân dài và vị trí cơ bắp chân tương đối cao và hơi phình ra, nhìn về tổng thể, không có cảm giác mất cân đối về tỷ lệ.
Thân hình khoẻ đẹp không chỉ là một tiêu chí quan trọng để xác định thân hình đẹp của con người, mà còn là tượng trưng cho sự khoẻ mạnh của cơ thể con người nữa. Còn thân hình béo phị, gầy còm hoặc tỷ lệ giữa các bộ phận cơ thể mất cân đối, là đã mất đi một cảm giác đẹp bên ngoài của cơ thể. Hơn nữa, lại thường dự báo trong cơ thể đang ẩn náu bị một bệnh tật nào đó.
Dưới đây xin trình bày một số phương pháp nhìn thân hình để theo dõi bệnh:
1. Béo phì
Chất mỡ của cơ thể tích tụ nhiều gọi là béo phì. Béo phì thường chia làm hai loại: một loại là béo phì có tính kế phát, đó là béo do ự phân tiết bên trong mất điều hoà gây ra một số bệnh nào đó. Ví dụ: béo phì do chất insulin, béo phì do cơ năng của tuyến giáp trạng giảm xuống v.v... loại béo phì này rất ít gặp. Một loại khác là béo phì có tính đơn thuần, béo phì do các nhân tố di truyền, do ăn uống quá nhiều, ít vận động, tâm lý, tinh thần, nhân tố môi trường v.v... tất cả đều có tác dụng đối với loại béo phì này. Nhận xét một người có béo phì hay không, không thể chỉ nhìn vào vẻ bề ngoài, mà còn phải có một tiêu chuẩn khách quan, chỉ có khi cân nặng của cơ thể vượt quá 20% cận nặng tiêu chuẩn của cơ thể, mới có thể coi là béo phì.
Chúng ta biết người béo phì dễ bị các chứng bệnh mạn tính như huyết áp cao, bị bệnh ở hệ thống vành mạch của tim, bị bệnh đái tháo đường v.v... Thống kê y học đã chứng tỏ, số người bị bệnh ở hệ thống mạch vành tim béo phì nhiều gấp 5 lần so với người bình thường, bị bệnh cao huyết áp nhiều gấp 8 lần so với người bình thường, bị bệnh đái tháo đường nhiều gấp 7 lần so với người bình thường. Tuổi thọ bình quân của người béo cũng thấp hơn nhiều so với người có thể trọng bình thường. Các tài liệu nước ngoài chứng tỏ, người già vượt quá từ 35 đến 40% thể trọng tiêu chuẩn thì tỷ lệ tử vong tăng cao rõ rệt.
Gần đây các nhà khoa học phát hiện, người béo bụng nguy hiểm hơn người béo ở mông, và dễ bị bệnh tim hơn. Một công trình nghiên cứu của trường đại học San luisWashington của Mỹ chứng tỏ, người béo ở mông với người béo ở bụng, chất côlextêrôn chứa trong cơ thể họ có khác nhau. Hàm lượng các chất côlextêrôn, abumin, mỡ cao trong cơ thể của những người mông béo, eo lưng nhỏ cao, chất côlextêrôn .này sẽ thấp, vì thế khả năng bị bệnh tim lớn. Nói chung những phụ nữ béo, dẽ béo ở mông, nam giới dễ béo bụng, đó cũng là một trong những nguyên nhân vì sao nam giới dễ mắc bệnh tim hơn nữ giới.
Vậy thì xác định như thế nào là béo ở bụng? Ở đây có một phương pháp tính đơn giản là:
Đứng đo kích thướn vòng eo và vòng mông, vòng mông lấy ở chỗ mông to nhất làm chuẩn, sau đó lấy kích thước vòng eo chia cho số đo vòng mông thì được tỷ lệ giữa vòng eo và mông. Nếu vòng eo của một người nào đó là 79cm, vòng mông là 92cm thì tỷ lệ số giữa vòng eo và mông của người đó là 0,86, giới hạn trên của tỷ số giữa eo và mông của nam giới là từ 0,85 đến 0,9, của nữ giới là 0,75 đến 0,8, vượt quá phạm vi này thì xem là béo ở bụng. Do phương pháp này đơn giản, thực dụng, khả năng dự tính của nó rất nhanh, giống như đo huyết áp và chỉ tiêu côlextêrôn, cho nên nó được coi là một trong những chỉ tiêu áp dụng phổ biến để kiểm tra tình trạng sức khoẻ của tim mạch mọi người.
2. Gầy còm (sút cân)
Có thể người ta phát phì vất lợi cho sức khoẻ, nhưng nếu người ta cân nặng quá nhẹ, da dẻ thiếu tính đàn hồi, xương gầy như que củi, mặt mày, da dẻ khô khốc, yếu không chịu được gió máy, cũng là biểu hiện của sức khoẻ kém. Cơ thể con người do bệnh tật hay do nguyên nhân nào đó mà thể trọng giảm đi, sút tới trên 10% thể trọng bình thường thì gọi là gầy còm, (sút cân). Bác sỹ người Anh là Cayley, có nói một câu nổi tiếng là "Gầy là cửa sổ của bệnh tật". Nếu một người, trong trường hợp ăn uống sinh hoạt hàng ngày, tình thần, môi trường và cường độ làm việc tương đối ổn định, mà cơ thể trong thời gian ngắn ngày càng sút cân, gầy còm thì cần phải cảnh giácc với sự tồn tại của bệnh tật. Phải nhìn thấu qua các cửa "gầy" đó, mà tìm ra trong cơ thể có hay không có bệnh tật đang ở trạng thái ủ bệnh.
Thân thể thanh niên gầy yếu, thể hiện sức mạnh cơ bắp tương đối kém (nhất là cơ lưng) thường có thể xảy ra biến dạng cột sống, đường kính các bộ phận trong cơ thể ngắn, sức mạnh của cơ bắp, nội tạng chống đỡ yếu, các cơ quan nội tạng phát triển không tốt, đang tồn tại triệu chứng dinh dưỡng không tốt với mức độ khác nhau, dễ bị mắc bệnh.
Các chuyên gia cho rằng, thanh thiếu niên quá sút cân, gầy còm, đại thể có mấy nguyên nhân như sau:
Một là, ăn kém tiêu hoá không tốt.
Hai là, ngủ không theo nề nếp hoặc do thần kinh suy nhược mà sinh mất ngủ dài ngày.
Bà là, do thiếu dinh dưỡng lâu ngày mà mắc bệnh mạn tính.
Bốn là, vào thời kỳ cơ thể phát triển mà thiếu rèn luyện thể lực, cơ thể không được phát triển đầy đủ, các thớ sợi cơ bắp không tăng lớn lên được. Ngoài ra còn do cơ năng của tuyến nội tiết bị trở ngại, cũng làm cho cơ thể sút cân, gầy còm.
Người trung niên gầy còm tương đối ít thấy, đó là bởi vì nhiệt lượng ăn vào của người trung niên vượt quá lượng tiêu hao, chất năng lượng dư thừa được chuyển hoá thành chất mỡ tích trữ lại ở các tổ chức trong cơ thể và ở dưới da, cho nên bất kể nam hay nữ bươc vào thời kỳ trung niên, đại đa số là béo lên.
Những người trung niên nếu quá gầy còm, thường là triệu chứng xấu. Tuy nhiên là các chứng viêm hoặc loét các tạng như khoang miệng, dạ dày, ruột, gan, lá lách ... đều có thể gây trở ngại cho việc hấp thụ tiêu hoá mà dẫn đến gầy còm, nhưng phải đặc biệt cảnh giác với bệnh khối u ác tính, bởi vì sút cân, gầy còm là triệu chứng nổi lên của u ác tính. Gầy có kèm theo đau hoặc có mụn sưng ở chỗ nào đó, đều phải nghĩ đến khả năng của khối u ác tính. Vì thế, những người trung niên, nếu bỗng nhiên gầy đi thì cần phải kịp thời mời thầy thuốc kiểm tra kỹ, không được coi thường.
Người ta tới 60 tuổi dần gầy đi, phần nhiều là bình thường lại có thể tránh được nhiều bệnh tật mạn tính do béo gây nên. Ngạn ngữ có câu: "Có tiền khó mua được cái gầy của tuổi già", nhưng cái gầy của tuổi già lại cũng không thể lạc quan mù quáng, điều mà tuổi già phải cảnh giác là một số bệnh tật khác như:
Gầy thông thường, tức là gầy có tính cấu tạo về thể chất. Loại gầy này không phải do bệnh tật trong cơ thể gây nên, mà là do lâu ngày ăn uống thiếu thốn và không thích vận động gây nên. Loại người gầy này có thể kèm theo các chứng bệnh thần kinh suy nhược như tiêu hoá không tốt, dễ cảm thấy mỏi mệt, tim đập mạnh, hồi hộp, mất ngủ ...
Gầy và có kèm theo chứng bệnh về đường tiêu hoá, nhất là bệnh ỉa chảy mạn tính không rõ ràng, thường thấy ở những người bị các bệnh như viêm dạ dày mạn tính, loét đường tiêu hoá, viêm kết tràng mạn tính không có tính đặc biệt khác ...
Mức độ gầy tăng dần lên nghiêm trọng và có kèm theo triệu chứng về bệnh đường tiêu hoá hoặc có các biển hiện về phiền muộn, lạnh lùng, tinh thần tuổi già rối loạn, thấp nhiệt (ít năng lượng) ... thường thấy ở những người công năng của tuyến giáp trạng cường đại (tăng lên quá mức bình thường).
Trước tiên là gầy, sau lại dần dần thấy có triệu chứng lắng đọng sắc tố niêm mạc trên da, thường thấy ở người công năng của màng tuyến thượng thận bị giảm sút.
Thời kỳ đầu phần nhiều là béo, nhưng sau thời gian dài, lại dần dần gầy đi, thường thấy ở những người có bệnh đái tháo đường của tuổi già. Ở đây cần nhắc nhở mọi người là có người bị bệnh đái tháo đường do tuổi già, tuy không có chứng bệnh "ba nhiều" (ăn nhiều, uống nhiều và đi tiểu nhiều), nhưng do bị rối loạn sự trao đổi đường lâu ngày, tất nhiên là gầy còm.
Gầy không có nguyên nhân, nhất là người gầy đi rõ trong thời gian ngắn gần đây thì cần phải cảnh giác với bệnh ung thư. Vì ung thư ác tính thời kỳ đầu đều thấy gầy không rõ nguyên nhân.
Gầy đến với tuổi già, ngoài các nguyên nhân nói trên, còn thường thấy ở những bệnh truyền nhiễm mạn tính, như bệnh lao của tuổi già, bệnh ký sinh trùng của tuổi ... Viêm gan mạnh tính của tuổi già thường thấy nhiều. Gầy do nguồn gốc thuốc gây nên, đó là do uống một số thuôc làm tăng khả năng trao đổi trông cơ thể gây nên, như uống các thuốc (dinitro phenol và thyroxin...)
3. Cao thấp.
Trong cuộc sống có người vì cơ thể thấp lùn mà sinh ra buồn lòng ngán ngẩm, có người thì vì mình có thân thể cao mà hớn hở tự vui mừng. Kỳ thực bất kể nam hay nữ, chỉ cần có thân hình lớn cân đối, rắn chắc, không cao quá hoặc thấp quá, đều là bình thường. Mà chỉ có những người cao lớn quá mức (chứng bệnh của người khổng lồ), quá thấp (chứng bệnh của người lùn) hộăc tất cả các anh chị em trong nhà tương đối cao, độc chỉ có một mình là thấp bé, gầy yếu, mới có thể xem là bị bệnh. Như:
Thân thể cao lớn khác thường: Nếu tự động sinh trưởng tương đối nhanh, đến xấp xỉ 10 tuổi đã cao như người lớn, đến thời kỳ thanh xuân phát triển, thế cao lớn càng rõ hơn, có thể từ sinh trưởng đến xấp xỉ 30 tuổi, người cao nhất có thể cao trên 240cm. Nhìn từ bề ngoài, nếu cơ thể tương đối cân đối, cơ quan giới tính phát triển tương đối sớm, cơ bắp nở nang, sức khoẻ vượt hơn người, đó là bị mắc chứng bệnh người khổng lồ. Chứng bệnh người khổng lồ là do ở thời kỳ nhi đồng, tế bào hormone sinh trưởng là trước tuyến yên của não tăng sinh hoặc hormone sinh trưởng của hệ thống phân tiết trong cơ thể quá nhiều gây nên. Công năng của các tuyến nội tiết ở thời kỳ đầu tăng lên quá mức bình thường, vào thời kỳ cuối thì giảm đi sau khi thành niên trên nửa số kế phát ra chứng to phì đầu các chi (chân tay).
Thân thể đặc biệt thấp bé: Nếu lúc đến tuổi thành niên mà người vẫn cao không tới 120cm, đó là mắc chứng bệnh người thấp bé hay chứng bệnh người lùn. Chứng bệnh thấp bé có thể do công năng tuyến yên dưới não giảm gây nên.. Nó có đặc điểm là: Thân hình đại thể bình thường, đầu và thân tương đối bé, chứng tích về giới tính thứ hai (lông nách, râu, tiếng nói ...) phát triển chậm, vì xương mềm phát triển không đều mà gây ra chứng thấp bé. Đặc điểm của chứng bệnh này là đầu và thân dù to, dù nhỏ, nhưng trông cũng y như người lớn, chỉ có là chân tay đã ngắn lại bị khòng khèo, lưng nhô lên cao. Ngoài ra, chứng bệnh thấp bé còn có thể do nguyên nhân về dinh dưỡng hoặc trao đổi chất bị rối loạn gây nên. Bệnh lùn ngô nghê có thể do công năng của tuyến giáp trạng lúc ấu thơ bị giảm gây nên.
Thân thể thấp bé, gầy yếu so với người cùng tuổi, mà lại không có cách gì giải thích được (ghi chú) về mặt quy luật di truyền và môi trường sống, thì cần phải xét tới khả năng bị bệnh mạn tính, như bị bệnh còi xương, bệnh lao cột sống, dị hình cột sống, bị bệnh tim bẩm sinh và bệnh thận mạn tính ... thân thể thường thường trở nên thấp bé, gầy yếu.
Ghi chú:
Một người cuối cùng có thể cao được bao nhiêu ? Đó là do nhân tố của nhiều mặt quyết định, như giống người, di truyền, môi trường sống, dinh dưỡng, rèn luyện thể thao ... trong đó điều có tác dụng quyết định là di truyền. Các tài liệu nghiên cứu khoa học đã chứng tỏ, thân thể cao hay thấp, 75% phụ thuộc vào đặc tính di truyền của bố mẹ. Quy luật di truyền nói chung là: Cha mẹ đều cao thì con cái đều cao (cao cộng với cao, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ một cao một thấp thì con cái cũng cao (cao cộng với thấp, phần nhiều sinh cao). Bố mẹ đều thấp thì con cái thấp (thấp cộng với thấp sinh ra thấp). Ngoài di truyền ra, giống người và môi trường sống cũng ảnh hưởng rất lớn đến chiều cao cơ thể. Nói chung, giống người da trắng có thân hình cao to, còn người da vàng có thân hình tương đối thấp bé. Theo thống kê, Trung Quốc có 80% nam giới có thân hình cao từ 1,60m đến 1,75m; 80% nữ giới ở tuổi thành niên có thân hình cao từ 1,50 đến 1,64m. Ngoài ra, chiều cao bình quân của người lớn ở phương Nam và phương Bắc Trung Quốc cũng chênh lệch tương đối lớn. Người ở vùng Hoa Bắc, Đông Bắc tương đối cao, to, nam nữ bình quân cao lần lượt là 1,65m và 1,59; Người vùng Hoa Nam, Tây Nam tương đối thấp. chiều cao bình quân của nam nữ ở đó lần lượt là 1,65m và 1,55m.
4. Khung ngực:
Khung ngực, thường gọi là bộ ngực, nó bao gồm bộ phận dưới cổ và trên eo lưng, chủ yếu do xương ngực, xương sườn và tổ chức cơ ... tạo nên. Khung ngực bình thường, hai bên cân đối, đối xứng, đường kính trước sau ngắn hơn so với đường kính hai bên trái phải, có dạng hình cái thùng phẳng dẹt, cơ bắp bộ ngực nở nang mà giàu tính đàn hồi, thể hiện rõ một loại hình thể đẹp. Khung ngực khác thường, không những khó coi, mà còn thể hiện tồn tại của bệnh tật. Như:
Đường kính trước sau của khung ngực không đến một nửa đường kính bên trái bên phải, có dạng phẳng dẹt lệch và bộ phận cổ nhỏ dài, xương quai xanh nhô ra, y học gọi ngực đó là "ngực phẳng dẹt" (Ngực lép), nó thể hiện cơ thể rất gầy, cần phải tăng cường bồi dưỡng, cũng có thể là do bệnh mạn tính gây neê, như bệnh lao phổi ... Điều này đòi hỏi phải đến bệnh viện kiểm tra, chẩn đoán và kịp thời điều trị.
Đường kính trước và sau của bộ ngực tăng dài, có khi có thể ngang bằng với đường kính bên trái bên phải, độ nghiêng ở dưới về phía trước của cung xương sườn nâng lên, khe giữa các xương sườn tăng rộng, có khi đầy đặn toàn bộ ngực có hình cái thùng tròn. Y học gọi bộ ngực này là "ngực hình thùng". Ngực này thường thấy ở người bị bệnh hen suyễn nhánh khí quản, bị viêm nhánh khí quản mạn tính gây ra bệnh phúc hơi ở phổi.
Đường kính trước và sau của ngực dài hơn đường kính trái và phải, bộ ngực lồi ra phía trước và lại hẹp như ngực của gà. Y học gọi đây là "ngực gà", lại còn gọi là ngực của bệnh còi xương nữa. Đó là thể chứng riêng của sự thay đổi bộ xương do bệnh còi xương thiếu vitamin D gây nên. Bệnh này phần nhiều thấy ở nhi đồng và thiếu niên.
Bộ ngực một bên quá to hoặc quá nhỏ, làm cho hai bên trái và phải của ngực không cân xứng. Nếu bộ ngực một bên quá to (lồi lên cục bộ), chứng tỏ có thể là bị bệnh viêm màng ngực, bệnh ngực hơi ... Nếu một bên ngực nhỏ (lõm cục bộ), chứng tỏ khả năng bị bệnh lao phổi, viêm phổi, bệnh phổi bị suy thoái ... làm cho một bên phổi không căng lên được.
![]() |
| Nam giới nên nói không với những cô nàng có tướng này |
CÁC LOẠI TINH THỂ (THẠCH ANH)
Tinh thể Thạch anh (trong suốt)
Thạch anh trắng (trắng)
Thạch anh hồng (hồng)
Thạch anh chanh (vàng)
Thạch anh lam (lam)
Ametit (tím)
Aventurin (lam)
Thạch anh hun khói (nâu)
Thạch anh đen (đen)
Mắt hỗ (vàng-hạt dẻ)
Mắt chim ưng (lam – đen)
Mắt mèo (lục – xám)
Thạch anh sắt (rỉ sét)
Calcedoin (vi khối kết tinh)
Calcedoin (xám – lam hay xám – lục)
Mã não (tất cả màu vân dài)
Mã não bọt, rêu (thể vùi xanh đậm)
Mã não dạng dãi (đen vân dài trắng)
Mã não hồng (Cam)
Sardoin (cam -nâu)
Ngọc thạch anh (gạch – vàng – lục)
Heliotrop (xanh đạm với đốm đỏ)
Chrysoprase (xanhtỏi)

1. TINH THỂ THẠCH ANH TRONG SUỐT
Màu trong suốt, tương hợp trong pegmatites, trong các vân loại alpin hay trong một số đá biến chất. Ta tìm thấy trong tất cả các vùng núi miền Trung nước ta, có nơi
mà các tinh thể có thể lên đến nhiều tấn… (tuy nhiên trước khi khai thác chúng ta cần phải tìm hiểu chỉ số Bovis của các loại đá thạch anh trên 17.000 đơn vị.)
Chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết các đặc tính và khả năng trị liệu của tinh thể đá trong tài liệu này. Nó liên quan đến trung khu thần kinh cũng như tất cả các trung khu khác vì ánh sáng trắng chứa tất cả các màu sắc. Tác dụng của nó là giảm đau nhức trên và điều hòa năng lượng trên cơ thể (thể chất)
Giúp tập trung tư tưởng
Giúp sự cảm nhận (rung động) tăng lên
Phuc hồi trí nhớ
Thạch anh trắng :
¬Tình yêu cao thượng
¬Sắc đẹp
¬Làm tăng năng lượng cao thượng – cao nhã.
¬Nhún nhường – khiêm tốn
¬Trong trắng – ngây thơ
¬Sáng kiến mới
¬Sự thanh cao
¬Đoàn kết
Thạch anh trắng giúp :
¬Chữa bệnh đãng trí
¬Trợ giúp tìm người mất tích
¬Kiềm hãm và chặn đứng những tính xấu – tâm ma trỗi dậy.
2. THẠCH ANH TRẮNG
Màu trắng, mờ đục, thoát thai từ một cấu trúc ít hoàn hảo hơn lưới tinh thể, do bị lạnh quá nhanh làm cho tinh thể bị mờ đục. Đó là loại thạch anh thông dụng nhất được thấy với một tỷ lệ lớn trong tất cả các mỏ tinh thể đá. Thạch anh trắng này có một phẩm chất rất ÂM TÍNH so với tinh thể đá là DƯƠNG. Loại thạch anh TRẮNG này có thể được sử dụng để làm dịu hay tan biến các căng thẳng và sử dụng trên mối giao tiếp giữa người con với người mẹ và ngược lại. Các chứng bệnh có tính chất Dương.
3. THẠCH ANH HỒNG
Màu hồng do sự có mặt của titanium hay manganèse, trong mờ, tổng quát chắc và ít kết tinh.
Là loại thạch anh rất đặc sắc được dùng trong tình yêu. Có khả năng trấn an các cá nhân thường bị xúc động, giảm stress và các cảm xúc bất lợi. Làm thông thoáng các tắc nghẻn do sợ hãi và các cơn ghen tạo ra. Đó là loại thạch anh thúc đẩy tính đam mê và tình thương nhân loại. Đây là loại thạch anh của các tình nhân.
Có tác dụng trên thể tinh thần nên giúp cho ngũ ngon, không mơ hoảng, giúp phục hồi trí nhớ.
Giúp dễ dàng nhập định, làm thanh khiết các luân xa trong sự luân chuyển vòng quanh cơ thể khoảng 10cm. Làm tăng khả năng nhạy cảm của cơ thể.
Thạch anh hồng :
¬Tăng trưởng tình yêu thương
¬Giúp người trở nên chân thành – dễ thương
¬Giúp kích thích sự hy vọng và triển vọng của thành công
¬Tính độc lập
¬Trở nên dịu dàng – dễ mến
¬Tâm hồn trong trắng – thành thật.
¬Khỏi bệnh
¬Hài hòa
¬Trẻ mãi
¬Cởi mở tấm lòng
¬Luôn rộng lượng – tha thứ
¬Luôn giúp đở mọi người
¬Phục hồi những tổn thương về mặt tinh thần.
¬Thay đổi mới luôn luôn trong cuộc sống
thạch anh hồng có sao.
Giúp chữa các chứng sau :
¬Dễ đạt trạng thái vô thức
-Ổn định tinh thần
4. THẠCH ANH VÀNG
Thạch anh vàng trong suốt và màu vàng. Người ta tạo được thạch anh vàngnhân tạo bằng việc đốt nóng amétit lên khoảng 450o. Thạch anh vàng tự nhiên rất hiếm. Thạch anh vàng đun nóng được gọi là hoàng ngọc hay madère được tìm thấy ở Batây, Mỹ, Tây Ban Nha, Liên Sô, Madagascar, Pháp và Ecoce. Và Việt Nam chúng ta cũng có nhưng rất hiếm.
Thạch anh vàng giải tỏa sự bế tắc ở đám rối dương và cuống dạ dày vàlàm cho tâm hồn sảng khoái, lọc máu, thúc đẩy vùng thận và rất cần cho người bệnh tiểu đường.
5. THẠCH ANH LAM
Được gọi là ngọc lam có màu lam. Trong suốt và được tìm thấy ở Áo, Mỹ, Thụy Điển, Nam Phi và Ba Tây. Loại thạch anh được dùng để làm dịu các buồn phiền và tác động ở tuyến giáp trạng.
6. THẠCH ANH TÍM
Tím dợt hay sậm vì sự có mặt của sắt. Tìm thấy ở Âu Châu, Liên Sô, Uraguay và Ba Tây và ở Việt Nam nhưng rất hiếm. Bọt hơi trong các dung nham rắn lại tạo nên cái mà ta gọi là hốc tinh, một loại vỏ mã não rỗng tapiss phủ amétit, loại lớn nhất được thấy ở Ba Tây nặng hơn 100kg.
Amétit củng cố sức mạnh cho tuyến nội tiết. Trên địa hạt vật lý, đây là loại đá bảo vệ chống lại nhiều chứng bệnh. Nó tác động vùng đầu và làm dịu các cơn đau, giúp dễ nhập định và tinh thần trong sáng. Theo truyền thuyết và từ nguyên loại đá này dùng để phòng chứng say rượu
Thạch anh tím :
¬Tình yêu cao thượng
¬Tự chủ về mặt tinh thần
¬Có ý thức về mọi vấn đề
¬Niềm tin về tâm linh
¬Sự tự chủ – kiềm chế
¬Khả năng dự đoán – tiên tri
¬Sức sống mạnh mẽ
¬Tính chặt chẻ – chính xác
¬Đúng mực – thận trọng
¬Điều độ – tiết độ
Thạch anh tím giúp :
¬Hỗ trợ về mặt tâm linh
¬Can đãm
¬Xóa bỏ sự hẹp hòi ích kỷ
¬Xóa bỏ sự kiêu ngạo
1. Tuổi Tý kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con ngựa, dê, mèo
Nếu dùng đồ trang sức có họa tiết hình con ngựa, người tuổi Tý sẽ gặp nhiều trở ngại và khó khăn trong cuộc sống. Trang sức có hình con dê đem tới vận xui; còn trang sức có hình con mèo dễ khiến người tuổi Tý vướng vào vòng lao lý.
![]() |
2. Tuổi Sửu kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con dê, ngựa và chó
Sử dụng các loại trang sức có họa tiết dê, ngựa hay chó sẽ không mang lại may mắn và thuận lợi trong sự nghiệp cũng như tình duyên của người tuổi Sửu.
3. Tuổi Dần kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con khỉ và rắn
Hai con vật khỉ và rắn nếu xuất hiện trong đồ trang sức được sử dụng thường ngày của người tuổi Dần sẽ khiến tính khí nóng nảy của con vật này càng bị kích thích. Khi không kiểm soát được bản thân, họ dễ đưa ra những quyết định thiếu sáng suốt.
4. Tuổi Mão kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con gà, rồng và chuột
Bởi những con vật này vô cùng xung khắc với họ. Đường tình duyên của họ cũng vì thế mà lận đận, kém may mắn.
5. Tuổi Thìn kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con chó, mèo và rồng
Nếu kết hợp với đồ trang sức hình con chó, mèo, thậm chí là chính hình bản mệnh là con rồng, người tuổi Thìn sẽ không được thăng tiến trong sự nghiệp và thuận lợi trong chuyện tình cảm.
![]() |
6. Tuổi Tỵ kỵ đồ trang sức có họa tiết hình con lợn, hổ và khỉ
Những đồ trang sức có hình con lợn, hổ và khỉ vô cùng tương khắc với bản mệnh của người tuổi Tý. Nếu thường xuyên đeo những đồ này trên người, họ sẽ gặp trục trặc trong công việc và tình duyên. Tốt nhất người tuổi Tỵ nên tránh xa đồ trang sức có hình những con vật này để hạn chế xui xẻo đeo bám.
Mr.Bull
![]() |
Con gái tuổi nào có vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết Không ai khác, đó chính là những cô nàng tuổi Dậu, Sửu, Tý và Ngọ. |
![]() |
| ► Xem phong thủy theo ngũ hành để rước lành tránh dữ |
Bác Vật Vựng Biên ghi rằng: Thủy của Bính Tí, Đinh Sửu thì vượng ở Tí, suy ở Sửu. Vượng rồi Suy ngay tất nhiên không thể thành sông ngòi, cho nên gọi bằng Giàn Hạ Thủy.
Giản Hạ Thủy là dòng nước lạch suối, không rõ nguồn gốc và cũng không có hướng nhất định để chảy đi, lòng lạch lòng suối lúc nông lúc sâu.
Cổ nhân có câu: "Dục tấn dục thoái sơn khê thủy, Dục phản dục phúc tiểu nhân tâm" Nghĩa là lúc tiến lúc lui như nước lạch, lúc phản phúc lúc lật như lòng tiểu nhân.
Số ai có Phục Binh hay Phá Quân Địa Kiếp hoặc Tử Phá hoặc Linh Hỏa hãm địa mà thêm nạp âm Giản Hạ Thủy nữa thì cái lòng phản phúc lật lọng càng ghê gớm. Đứng ngôi chủ như vậy bộ hạ hãy lo giữ đầu, đứng vai thần tử mà như vậy kẻ đứng chủ chỉ việc chờ ngày bị phản.
Tâm chất thâm hiểm, tình ý nhỏ nhen nhưng rất thực tế và sắc bén. Trường hợp số bình thường ắt nhu nhược bất quyết mà thêm Giản Hạ Thủy nạp âm nữa thì hoàn toàn vô tích sự, lúng túng, hoảng loạn trước công việc.
Giữa Bính Tí và Đinh Sửu thì Bính Tí nguy hiểm hơn Đinh Sửu thổ khắc thủy khiến cho nhuệ khí bị tước giảm.
Bởi vậy mới có câu ca:
Điểm huyệt lập hướng, lưỡng phân minh
Âm cục, dương cục phân biệt tinh
Dương long thuận hành, âm long nghịch
Bát long đúng hướng mới trời sinh.
Sau đây là phương pháp sắp xếp các loại long mạch theo thuyết âm dương ngũ hành:
![]() |
| Bát long |
- Dương Hỏa cục: Long mạch ở dưới hướng Bính (hướng số 12 - hướng Nam lệch Đông Nam) tụ khí kết huyệt, phải quay đầu về hướng Dần (hướng 5 - Đông Bắc lệch Đông). Dòng nước từ hướng Ất (hướng 8 - Đông lệch Đông Nam) bao bọc ngoài minh đường chảy đến hướng Tuất (hướng 21 - Tây bắc lệch Tây).
- Âm Hỏa cục: Long mạch ở hướng Ất (hướng 8) kết huyệt, phải quay đầu về hướng Ngọ (hướng 13 - chính Nam). Dòng nước từ hướng Bính bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Tuất thì chảy đi. Dòng nước từ hướng Đông Nam (hướng Tốn) phải hợp Thủy cục Thân, Tý, Thìn, tức Nhâm long hoặc Tân long.
- Dương Thủy cục: Long mạch ở hướng Nhâm (hướng 24) kết huyệt phải quay đầu về hướng Thân (hướng 17). Dòng nước từ hướng Tân (hướng 20) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.
- Âm Thủy cục: Long mạch ở hướng Tân kết huyệt phải quay đầu về hướng Tý (hướng 1 chính Bắc). Dòng nước từ hướng Nhâm (hướng 24) bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Thìn (hướng 9) thì chảy đi.
Dòng nước từ Tây Nam chảy đi: hướng Khôn phải hợp với Mộc cục Hợi, Mão, Mùi tức Giáp long, hoặc Quý long.
- Dương Mộc cục: Long mạch ở hướng Giáp (hướng 6) kết huyệt phải quay đầu về hướng Hợi (hướng 23). Dòng nước từ hướng Quý (hướng 2) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
- Âm Mộc cục: Long mạch ở hướng Quý (hướng 2) kết huyệt phải quay đầu về hướng Mão (hướng 7). Dòng nước từ hướng Giáp (hướng 6) bao bọc ngoại minh đường, chảy đến hướng Mùi (hướng 15) thì chảy đi.
- Dương Kim cục: Long mạch ở hướng Canh (hướng 18) kết huyệt phải quay đầu về hướng Tỵ (hướng 11), dòng nước từ hướng Đinh bao bọc ngoại minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
- Âm Kim cục: Long mạch ở hướng Đinh (hướng 14) kết huyệt phải quay đầu về hướng Dậu (hướng 19), dòng nước từ hướng Canh bao bọc minh đường chảy đến hướng Sửu (hướng 3) thì chảy đi.
Theo Bí Ẩn Thời Vận
![]() |
Sofa được xem là một trong những yếu tố thể hiện sự sang trọng của phòng khách trong mỗi gia đình.
|
|
| Sofa phù hợp với góc nhìn ra thiên nhiên khoáng đạt |
|
| Sofa kết hợp với thảm |
|
| Phá cách bằng kiểu dáng đặc biệt |
(Theo Afamily)
|
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Nếu em bé sinh năm Rắn, trước hết các bậc cha mẹ cần tìm hiểu đặc tính của con Rắn thì mới có thể hiểu được những điều tốt xấu trong tên họ.

Rắn thích sống nơi hang hốc, đầu có mào nên có thể đội mũ, khoác áo quần màu sắc, có thể nắm giữ quyền lực. Rắn có thể ăn thịt và ăn no. Rắn thích rừng cây. Rắn kết hợp với Trâu, Gà thành tam hợp, phối hợp với Ngựa, Dê thành tam hội cũng rất tốt. Tên đặt cho bé sinh năm Rắn mà phù hợp với các điều kiện sau thì mới là tên đẹp:
1. Nên có các bộ hoặc chữ như Khẩu (口), Mịch (冖), Miên (宀), Hộ (戶), Quảng (广), Môn (門). Vì Rắn thích sống nơi hang động, là chốn nương thân, có thể nghỉ ngơi, ngủ đông, được coi là căn nhà ấm áp.
2. Nên có bộ thủ Mộc (木) vì Rắn thích bò lên cây, có ý lên cao, có khả năng biến thành Rồng khi gặp thời, như là được đề bạt, thăng cấp lại được người đời tôn sùng.
3. Nên có các bộ hoặc chữ như Sam (彡), Hệ (系), Y (衣), Thị (示), Thái (采), Cân (巾), Sơ (疋), Kỷ (几) là những vật tượng trưng để chuyển hóa thành Rồng, tăng thêm sự cao quý, có ý lên cao, được người người tôn sùng.
4. Nên có các chữ hoặc bộ chữ có hình dạng con Rắn như Xước (辶, 辵), Dẫn (廴), Cung (弓), Kỷ (几), Tị (巳), Trùng (虫), Ấp (邑) là vật đồng loại, có cảm giác được gia tộc bảo vệ, quý nhân trong đời rất nhiều.
5. Nên có các bộ chữ Tâm (忄, 心), Nhục (月, 肉) vì Rắn ăn thịt, mà Tâm là loại thịt thượng đẳng, hàm ý cuộc đời được nhiều no ấm.
6. Nên có các chữ mang hình chữ Long như Thìn (辰), Bối (貝), Dân (民), Lộc (鹿)… ám chỉ Rắn nhỏ biến thành Rồng lớn, có khí phách đảm đương việc lớn, dễ được cấp trên đề bạt.
7. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Dậu (酉), Vũ (羽), Kê (雞), Sửu (丑), Sinh (生), Ngưu (牛) vì địa chi Tị-Dậu-Sửu là tam hợp, mang hàm ý trong cuộc đời có nhiều quý nhân phù trợ.
8. Nên có các chữ hoặc bộ thủ như Mã (馬), Ngọ (午), Dương (羊), Mùi (未) vì địa chi Tị Ngọ Mùi là tam hội, có sức mạnh tương trợ.
Ngoài ra, cũng cần tìm hiểu Rắn không thích gì thì mới hiểu được tên họ tốt xấu ra sao. Người cầm tinh con Rắn không nên đặt các tên có chữ Nhân (亻,人) vì người gặp rắn hay sợ hãi, bất an. Rắn cũng không ăn ngũ cốc, hoa màu. Rắn đi với Hổ thì thành tương hại, đi với Lợn thành lục xung. Rắn gặp mặt trời thì sợ nóng quá. Nếu tên có chữ biểu thị vũ khí cũng không nên, vì sẽ gây sát thương. Nếu tên đặt mà phạm phải các yếu tố trên thì sẽ coi là phá cách, không có lợi cho số mệnh.
1. Cần tránh có bộ chữ Thảo (艸) vì tục ngữ có câu “đánh rắn động cỏ”. Rắn có thể chui rúc trong bụi cỏ, tuy có không gian để hoạt động nhưng dễ bị người ta phát hiện, dễ phải chịu mưa dập gió vùi, vô cùng vất vả.
2. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Thủy (水), Tí (子) vì địa chi Rắn thuộc hành Hỏa, nếu gặp các chữ có hành Thủy thì sẽ phạm vào thủy hỏa tương khắc, cuộc đời hay bị giày vò.
3. Cần tránh các chữ hoặc bộ thủ như Hợi (亥), Thỉ (豕) vì địa chi Rắn và Lợn đối xung, cuộc đời hay gặp những kẻ không ưa. Trong thực tế thì lợn vớ phải rắn thì nhai rau ráu.
4. Cần tránh dùng các chữ hoặc bộ thủ như Hổ (虎), Cấn (艮), Dần (寅), Thân (申), Viên (袁) vì Dần-Tị-Thân là tương hình hại, trong cuộc đời gặp toàn những kẻ không ưa.
5. Cần tránh bộ thủ Nhật (日) vì Rắn là động vật máu lạnh, sợ mặt trời quá nóng. Phần lớn Rắn đều thích sống trong hang động, bóng râm, rất ít khi lộ mình dưới ánh nắng mặt trời. Cho nên nếu rắn gặp mặt trời cũng tựa như là gặp ai cũng bị người ta ghét.
6. Cần tránh bộ chữ Nhân (亻,人), vì Rắn không thích chạm trán với người, người cũng là kẻ thù số một của Rắn. Loài người còn coi Rắn là biểu tượng của tà ác, nhìn thấy là đánh đuổi, cũng hàm ý rằng có rất nhiều tiểu nhân.
7. Cần tránh các chữ biểu thị ngũ cốc, hoa màu, đồ chay như Đậu (豆), Mễ (米), Hòa (禾) vì rắn là động vật ăn thịt, thích các món thịt như ếch, nhái…Đặc biệt là kỵ chữ Đậu (豆), nếu phạm phải thì ám chỉ người đó có nội tâm không chịu thua, tính khí ngang tàng, lại có cảm giác mất mát vì tuy là có đồ ăn nhưng lại không phải là thứ mình thích ăn hoặc không ăn được.
8. Cần tránh các bộ chữ hoặc chữ như Nghệ (乂), Nhập (入), Nhi (ㄦ), Bát (八) vì các nét này tựa như vẽ rắn thêm chân, làm ra những động tác thừa, tạo cảm giác làm việc rề rề, làm nhiều công ít.
Cần lưu ý thêm là, các chữ và bộ chữ nói trên chỉ có ý nghĩa tham khảo nhất định. Để chọn được tên hay tên đẹp còn cần phải xem xét nhiều yếu tố khác nữa như âm dương, ngũ hành, âm vận…chứ không đơn giản chỉ vận dụng yếu tố con giáp vào đặt tên, đổi tên.
![]() |
| Ảnh minh họa |
Với việc động thổ, bắt đầu một công trình xây dựng của gia đình thì sử dụng bài văn khấn động thổ sẽ hợp lí hơn. Nhưng với những việc như chuyển nhà mới, khi phải sửa chữa lớn trong gia đình như xây cổng, khi cất nóc, xây thêm tầng trên hay nên dùng bài văn khấn nào. Đây cũng không phải một việc quá lớn, trọng đại như động thổ nhưng cũng không phải là một việc nhỏ, vì việc xây cổng hay xây thêm tầng cũng ảnh hưởng nhiều tới đất đai, ảnh hưởng tới phong thủy của ngôi nhà và chính những người đang ở trong ngôi nhà đó.
.png)
Dưới đây, Phong thủy số giới thiệu tới bạn bài cúng khi làm những việc như chuyển nhà, cất nóc hay xây cổng,… mà dân gian ta hay dùng.
Lễ vật cần chuẩn bị: Chuẩn bị hương vàng, rượu trà, hoa quả và một đĩa xôi gà hoặc xôi thịt, có thêm đèn hoa.
Sau khi chuẩn bị xong thì đọc bài cũng dưới đây, nếu quý vị in bài cúng ra đề điền tên gia chủ vào thì sau khi khấn xong đốt bài cúng kềm theo tiền vàng.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Con lạy chín phương trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
Con kính lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
Con kính lạy Quan Đương nhiên.
Con kính lạy Các Tôn thần bản xứ.
Tín chủ chúng con là:……………………………………………………………………………….
Ngụ tại:……………………………………………………………………………………………..
Hôm nay là ngày …………..tháng……………………..năm…………………….. tín chủ con thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương, dâng lên trước án, có lời thưa rằng: Vì tín chủ con khởi tạo………………………( cất nóc, làm nhà, làm cổng, lên tầng,…….) căn nhà tại địa chỉ………………………………….. ngôi dương cơ trụ trạch để làm nơi cư ngụ cho gia đình, con cháu. Nay chọn được ngày lành tháng tốt, kính cáo chư vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép được động thổ ( cất nóc, làm cổng, lên tầng, làm việc gì nói việc đó).
Tín chủ con thành tâm kính mời: Ngài Kim Niên Đường cai Thái tuế chí đức Tôn thần, ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương, ngài Bản xứ Thần linh Thổ địa, ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa Long Mạch Tôn thần và tất cả các vị Thần linh cai quản khu vực này. Cúi xin các ngài nghe thấu lời mời, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, độ cho chúng con mọi chuyện thuận lợi, công việc hanh thông, chủ thợ bình an, âm phù dương trợ, sở cầu như ý, sợ nguyện tòng tâm.
Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hương linh, cô hồn thảo phụ mộc, quanh khất khu vực này, xin mời tới đây thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ, cũng như chủ thợ đôi bên, khiến cho an lành, công việc chóng lành.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!
Nam mô a di Đà Phật!