Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Zombie - không chỉ ở trong phim

Từ Zombie được bắt nguồn trong ngôn ngữ của Ấn Độ, được ghép từ hai chữ “jumbie” – có nghĩa là thây ma và “nzambi”, có nghĩa là linh hồn người chết.
Zombie - không chỉ ở trong phim

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sau khi những chuyện kể về Zombie được truyền vào vùng đất Trung Phi xa xôi, cái tên này đã được chuyển thành nzùmbe với ý nghĩa tương tự.


► Mời các bạn đọc thêm: Chuyện tâm linh huyền bí bốn phương có thật

Zombie - khong chi o trong phim hinh anh
 
Theo một số sách sử tại vùng đất Haiti thuộc Trung Phi có ghi lại, vào thế kỷ thứ 18 một số chúa đất giàu có thường xuyên tìm kiếm những nô lệ rẻ tiền làm các công việc nặng nhọc tại các đồn điền mía, cao su hoặc chăn dắt gia súc trên quy mô lớn. Tuy nhiên, đối với những công việc cần hao tốn nhiều sức lực như vậy, chỉ có những thanh niên với thân hình vạm vỡ và sức khỏe phi thường mới có thể cáng đáng nổi. Điều đáng nói là để thuê được những nô lệ này, chúa đất đều phải trả với giá khá cao.
 
Với mong muốn thuê được những nô lệ to khỏe nhưng lại trả công ở mức rẻ mạt nhất, lúc này tại cả một khu vực rộng lớn ở vùng Trung Phi, có nhiều nhóm người đã nghĩ ra một phương pháp kỳ dị để đạt được mục đích của mình. Phương pháp này có tên là nzùmbe, bắt nguồn từ chữ Zombie từ Ấn Độ- có nghĩa là xác chết hoàn trần.
 
Để thực hiện được phương pháp Zombie, các chúa đất đã chọn lựa và thuê những người vạm vỡ khỏe mạnh nhất. Sau đó những người này sẽ bị đầu độc bằng Tetrodotoxin, một loại độc dược cực mạnh được lấy từ gan của một số loại động vật để làm tê liệt hệ thần kinh con người từ 5 cho tới 7 ngày. 
 
Những nô lệ bị đầu độc bằng chất Tetrodotoxin, sau khi thấm độc cơ thể sẽ bất động như người chết thật. Gia đình sau đó vẫn làm mai táng hậu sự bình thường. Ở vùng Trung Phi thời xa xưa, người bản xứ ít khi dùng quan tài như ngày nay, họ chỉ bó chiếu hay đắp lên cơ thể người qua đời những tảng đá, cành cây... rồi lấp đất lên xác người xấu số.
 
Chỉ vài ngày sau khi người xấu số được chôn cất, các chúa đất đã sai người đến đào xác và cho người trúng độc một loại thuốc giải. Thuốc giải sẽ làm người chết tỉnh lại mà sức khỏe lại không hề giảm sút. Chỉ có điều, tinh thần trí nhớ của họ đã bị triệt tiêu hoàn toàn.
 
Sau khi đưa những nô lệ này trở lại trần gian, những “xác chết hoàn trần” này chỉ còn biết nghe lời chủ làm tất cả các công việc được chỉ định… cho đến khi họ hoàn toàn không còn sử dụng được nữa. Khi chúa đất cảm thấy nô lệ đó đã trở nên vô dụng thì họ không tiếp tục cho thuốc giải, khi này những Zombie sẽ phải chết thật sự bởi chất độc ngấm dần vào cơ thể.
 
Tại một số vùng đất thuộc khu vưc Trung Phi trước đây, cũng có nhiều trường hợp kẻ phạm phải những tội ác nghiêm trọng chống lại cộng đồng sẽ bị biến thành Zombie để trả giá cho tội lỗi của chúng trong quá khứ. Và thường những kẻ phạm tội này khi biến thành Zombie đều trở thành những người vô hại.
ST
 
   
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Zombie - không chỉ ở trong phim

Khuyên cha mẹ hướng thiện

Con hư cũng là con, cha mẹ dẫu có sơ suất thì cũng là cha mẹ, không thay đổi được. Do vậy, trợ duyên để chuyển hóa lẫn nhau tốt đẹp hơn là điều cần làm
Khuyên cha mẹ hướng thiện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Con hư cũng là con, cha mẹ dẫu có “sơ suất” gì thì cũng là cha mẹ, không ai thay đổi được cộng nghiệp này. Do vậy, trợ duyên để chuyển hóa lẫn nhau, cải tạo cộng nghiệp gia đình tốt đẹp hơn là điều cần làm của người con Phật hiếu thảo

Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại vườn ông Anàthapindika. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ kheo:

  • Này các Tỷ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào lòng tin.
  • Đối với cha mẹ theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới.
  • Đối với cha mẹ xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vào bố thí.
  • Đối với cha mẹ theo ác tuệ, khuyến khích hướng dẫn, an trú vào trí tuệ. Như vậy là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.

(ĐTKVN, Tăng Chi Bộ I, chương 2, phẩm Tăng thăng bằng, phần Đất [trích], VNCPHVN ấn hành, tr.119)

LỜI BÀN:

Hầu hết chúng ta đều tâm niệm cha mẹ là Trời Phật, là đối tượng kính thờ, là bất khả xâm phạm. Nuôi dưỡng và vun đúc ý niệm này sâu vào tâm khảm là một tố chất quan trọng để tác thành nên tâm hiếu, hạnh hiếu. Song thực tế cho thấy vẫn còn nhiều bậc cha mẹ do nghiệp lực chi phối nên chưa thực sự gương mẫu và thể hiện hết trách nhiệm, vai trò phụ mẫu của mình, dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ cho con cái và cả gia đình.

Người đời thường phê phán con cái bất hiếu là nghịch tử nhưng cũng nghiêm khắc khi quy kết “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Hiện có không ít những người con phải gánh chịu chua chát với câu “ân nghĩa sanh thành”, oán trách và xa lánh cả song thân. Ở đây, chúng ta không trách cứ ai cả, vì đã là con người thì dù ở vai vị nào cũng có những hạn chế nhất định, không ai tránh khỏi lỗi lầm.

Cần bình tâm quán sát về bản thân, gia đình để nhận ra dòng vận hành của nghiệp lực, cộng nghiệp của cả gia đình. Nhờ quán chiếu sâu sắc vào cộng nghiệp, chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn về thực trạng gia đình hiện tại mà bớt đi những oán trách lẫn nhau và quan trọng hơn là mở ra một hướng mới để chuyển hóa, khắc phục. Ngay đây, việc thực thi hạnh hiếu được nâng tầm cao hơn là khuyến hóa cha mẹ bỏ tà quy chính.

Con hư cũng là con, cha mẹ dẫu có “sơ suất” gì thì cũng là cha mẹ, không ai thay đổi được cộng nghiệp này. Do vậy, trợ duyên để chuyển hóa lẫn nhau, cải tạo cộng nghiệp gia đình tốt đẹp hơn là điều cần làm của người con Phật hiếu thảo. Với con người, mọi lỗi lầm đều từ vô minh mà ra, từ tham ái mà hình thành, từ sân si mà dấy khởi. Thay vì oán trách, chúng ta hãy vận dụng tín (niềm tin), giới (làm lành, tránh ác), thí (buông xả) và tuệ (hiểu biết) vùng với tình thương, kính trọng để khuyến hóa cha mẹ hướng về Tam bảo.

Không ai nỡ nhìn người thân của mình đi vào cõi ác. Do vậy, khuyến hóa cha mẹ hướng thiện, bỏ tà quy chính không chỉ đem lại hạnh phúc an vui cho cha mẹ trong đời này mà cả những đời sau. Làm được điều này mới gọi là tận hiếu, chí hiếu, là “làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cho cha”.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuyên cha mẹ hướng thiện

Xem tướng bàn tay tổng quan

Trước khi tìm hiểu các đường chỉ chánh, phụ, và những dấu hiệu lạ lùng, uẩn khúc, những lằn cắt ngang dọc, chữ thập, chỗ chấm sâu, nốt ruồi, những điểm đỏ đen, v.v. mọc lên trong bàn tay, chỗ nào, tốt xấu ra sao; chúng ta cũng nên hiểu về hình dáng của bàn tay, và ý nghĩa của nó. Sau đây là một số hình dạng của các bàn tay thường gặp :
Xem tướng bàn tay tổng quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

A. Hình dáng các bàn tay của Nam giới  

1. 1. Bàn tay ngắn quá : nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có bàn tay dài hay to thì mới tương xứng. Người có bàn tay ngắn quá, thì đó là dấu hiệu cho thấy một con người có nhiều tánh tình lạ lùng, kỳ khôi, thường thì việc làm và lời nói không đi đôi với nhau, nói một đường làm một nẻo, hoặc muốn làm khác người.

2. 2. Bàn tay dài quá, và ngón tay thì gút mắt, kẽ giữa các ngón tay thưa thớt, tướng cao lêu khêu, miệng rộng, răng to, râu thưa : Bàn tay như thế, mà cộng thêm với dáng người như vậy, thì đây là hạng người hay nói nhiều, nói dai, nhưng không có cái gì ăn khớp với cái gì, và hay thù vặt.  

3. 3. Bàn tay dài quá, mà ngón tay lại ngắn, thô kịch, có gút mắt, và ngón tay út cũng quá ngắn : Ðây là hạng người nhẹ dạ, tính tình lại hay thay đổi và quá thiên về vật chất, coi tiền bạc nặng hơn tình nghĩa, hay nói càng nói xiên chẳng vị nể ai cả.

4. 4. Bàn tay đầy đặn và các đường chỉ tay rõ ràng không có những lằn cắt ngang dọc cộng thêm với tướng người cao vừa vặn cân đối, khỏe mạnh, mắt không bị lộ, đây là tướng người có những đức tính tốt, trường thọ, phúc hậu, lời nói bao giờ cũng được suy nghĩ trước khi nói, và phải có lý thì mới phát biểu, chứ không bạ đâu nói đó, nói càng nói bậy.  

5. 5. Bàn tay dài, lòng bàn tay hẹp, ngón tay không đều (ngón to ngón nhỏ, ngón mập ngón ốm) cong quẹo, đầu ngón tay cái nhọn vót, móng tay cứng, những đường chỉ trong lòng bàn tay không rõ ràng : ta đoán được những người như vậy có tính thái quá, thiếu chừng mực trong mọi việc, bạ đâu vui đó, không thủy chung, có khi còn càn bướng và láo khoét nữa.

6. 6. Bàn tay hơi vuông, đầu ngón tay cái và các ngón khác cũng hơi vuông, lòng bàn tay cứng và có ba dường chỉ chính (Sanh đạo, Trí đạo, và Tâm đạo – sẽ nói về sau) rõ ràng. Cộng thêm ngón út dài, chiều dài của ngón út (mở bàn tay ra và khép các ngón tay lại) dài hơn hai lóng của ngón áp út (ngón đeo nhẫn), đầu ngón út hơi tròn và có vành cao lên. Ðây là bàn tay của người siêng năng cần mẫn, việc làm rất chu đáo, biết xắp xếp, điều hòa mọi việc, biết giữ lời hứa, ít nói, tánh tình ngay thẳng, cương trực, đứng đắn, họ chịu đựng được môi hoàn cảnh của cuộc đời, cần kiệm, sống lâu, ăn uống hay chưng diện không lòe loẹt, đơn giản.  

7. 7. Bàn tay với lòng bàn tay cứng dẽ, các ngón tay hơi ngắn, móng cứng, có chỉ Tâm đạo xỉa xuống giữa ngón trỏ và ngón giữa : đây là bàn tay của người có tánh lì lợm, kỳ khôo. ít chịu phục tùng ai bao giờ, dầu cho lý lẽ của họ có sai bét đi chăng nữa, họ cũng không chịu thua. Vì sự cố chấp và cứng đầu của họ, nên cuộc đời họ gặp nhiều sóng gío, nhiều lần suy xụp, đảo điên.

8. 8. Bàn tay mà mỏng manh, ngón tay ngắn quá, lưng bàn tay xanh xao, da mặt cũng xanh xao, răng thưa và hô, tướng ốm, tóc sợi nhỏ, lỗ mũi nhỏ và lộ xương, xương cuống họng ló ra dài, người như vậy rất có thể mang chứng bệnh lao, và chết yểu .

9. 9. Bàn tay vuông, các ngón tay cũng vuông, lòng bàn tay cứng dẽ,có một đường chỉ (tâm đạo) nằm vắt ngang bàn tay như chữ nhất (-) đây là bàn tay của những người tánh tình nghêng ngang, hay gây sự, kiêu căng, phách lối, nhưng lại hay làm bộ hiền lành. Phần nhiều những người này lại hay sợ … vợ.

10. 10. Trái lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng hơi vuông – tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang vang. Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuông. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận tiêu hóa như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v.

 

XEM BÓI CHỈ TAY

Bói tay là một môn khoa học có từ lâu đời nghiên cứu về bàn tay (hình dáng, đường chỉ tay,…). Mặc dù đây chỉ là những tiên đoán mang tính tạm thời nhưng có vẻ như đấng tạo hóa đã vẽ sẵn một bản đồ cuộc sống trên bàn tay chúng ta. Mỗi đường chỉ tay thể hiện một lĩnh vực, mang tới một thông điệp.

Trong bàn tay có những đường chính như đường Sanh Đạo, Trí Đạo, Tâm Đạo, Định Mạng, Thái Dương và Hôn Nhân. Phạm vi của bài này chỉ giới hạn trong đường Hôn Nhân. Vị trí của đường này nằm ở ngay dưới ngón tay út, về phía cạnh của bàn tay. Đó là những đường rất nhỏ và ngắn so với những đường khác.

Vì sao tôi ghi tựa của bài này là "Xem chỉ tay người yêu"? Vì khi chúng ta yêu ai thì thường muốn biết người mình yêu như thế nào và hôn nhân sẽ ra sao. Còn nếu đã thành hôn rồi thì cũng muốn biết "nhịp cầu" có sẽ gãy đổ hay tồn tại mãi với sông tình. Ðể giúp tôi viết bài này dể dàng hơn, tôi xin phép đứng về phía các chị để xem chỉ tay của các anh. Tuy nhiên các anh có thể hiểu ngược lại, áp dụng những gì tôi trình bày trên bàn tay của các chị. Mức độ chính xác là tùy hoàn cảnh và sự hiểu biết riêng biệt của từng người. Tôi chỉ muốn đem sự hiểu biết khiêm tốn của mình về khoa xem chỉ tay chia xẻ với các bạn, với nhiều thiện ý.

Người bạn đang yêu có thể nói, "Em thật sự là mối tình đầu của anh". Bạn chẳng cần yêu cầu chàng qua máy Lie Detector (máy phát hiện nói dối) để biết sự thật. Bạn chỉ cần nhìn ở nơi có đường Hôn Nhân (ngay dưới ngón tay út như đã nói ở trên). Nếu bạn thấy 2 đường trở lên thì chắc chắn bạn không phải là người yêu duy nhất của chàng. Nói đến đây, bạn sẽ thắc mắc, "Tôi thấy có hai đường hôn nhân, vậy đường nào là của tôi đây, có thể tôi là mối tình đầu của anh ấy thì sao?". Để trã lời thắc mắc của bạn, tôi xin nói sơ qua về cách đo thời gian ở khoảng có đường Hôn Nhân. Đường Hôn Nhân ở khoảng giửa chân ngón tay út và đường Tâm Đạo. Bạn chia 4 khoảng cách đó, nếu đi từ Tâm Đạo trở lên, ¼ là 21 tuổi, 2/4 là 28 tuổi, ¾ là 35 tuổi. 

Bạn có thể phỏng chừng thời gian ở giửa 2 tuổi 21-28 hay 28-35 nêu trên. Nếu anh ấy gặp bạn lúc 28 tuổi, nhưng khoảng 21 tuổi bạn thấy có một đường thì anh ấy đã từng trao thư tình cho ai đó trên đường có nhiều phượng đỏ! Ngược lại, nếu bạn gặp anh ấy vào tuổi 21, thì chắc chắn đây là mối tình đầu (tình đầu nào cũng đẹp, phải không bạn?), nhưng cái đường tình ở tuổi 28 là của ai đây?! Quá khứ, hiện tại, tương lai nằm ngay trên bàn tay là vậy đó.

Bây giờ chúng ta đi sâu vào chi tiết hơn. Thế nào là đường Hôn Nhân tốt hay xấu? Thường đường Hôn Nhân tốt thì thẳng, đậm và dài, tuyệt đối không bị gãy hay có những dấu hiệu gì khác trên đường đó. Nếu đường quá ngắn và mờ thì đó không phải là hôn nhân, mà chỉ là tình cảm sâu đậm, hay chỉ là mối "tình vụn" 

Trong hình số 2 trên đây, tôi vẽ 4 loại đường Hôn Nhân không tốt để các bạn dễ hiểu, bình thường thì chỉ có một đường thôi. Đường số 1 là đường Hôn Nhân bị gãy đổ (đường gãy và chồng lên nhau). Sau khi đã thành hôn rồi thì cũng phải chia tay thôi. Đường số 2 có cái chĩa hai (fork) ở cuối đường, kết cuộc rồi cũng phải xa nhau hay ly dị sau một thời gian chung sống với nhau. Xin lưu ý là hình số 2, đường chĩa hai (fork) hướng về lòng bàn tay (—-<), nếu hướng về cạnh của bàn tay (>—-), thì đây chỉ là một sự đính ước (engagement) không tiến đến hôn nhân. Đường số 3 tuy thẳng và dài, nhưng có một đảo nhỏ (island) đóng trên đường (—o—). Nó báo hiệu những xáo trộn lớn trong hôn nhân, hòn đảo càng lớn thi thời gian sống cách xa nhau càng kéo dài. Sau cùng là đường số 4, đường này có chỉa hai (fork) và đồng thời chạy xuống đường Tâm Đạo. Ðó là đường xấu nhứt trong 4 đường, có nghĩa là phải ly dị.

Tôi cũng cần nói thêm vài loại đường không ghi trong hình. Ðường Hôn Nhân có gạch chấn ngang là bị ngăn cản trong hôn nhân (—|–). Còn nếu đường Hôn Nhân cong vòng về phía ngón tay út, người này theo chủ nghĩa "độc thân". Sau cùng, tôi cũng xin bạn để ý, nếu đường Hôn Nhân đậm và thẳng, nhưng lại có một đường nhỏ và mờ song song kèm theo, chắc bạn đoán được là gì rồi chứ? Bạn cần kiểm nhận khi anh ấy đi chơi về, có mùi nước hoa lạ chăng?

Ngoài những đường Hôn Nhân nói trên ở dưới ngón tay út, còn có một loại đường khác cũng cho biết hôn nhân thành tựu hay không. Đó là đường chạy từ gò Thái Âm (Luna) về hướng đường Định Mạng (số 5 trong hình). Nếu đường này gặp (chạm vào) đường Định Mạng thì hôn nhân mới thành tựu, còn nếu ngưng nửa chừng thì không được. Một đường nhỏ và ngắn chạy song song với đường Ðịnh Mạng cũng là dấu hiệu thành công của hôn nhân.

Bạn có thể thắc mắc là xem chỉ tay trên tay trái hay phải . Người ta thường nói câu "Nam tả nữ hữu" khi xem chỉ tay, có nghĩa là phái nam thì xem tay trái, phải nữ xem tay phải. Nhưng qua những gì tôi học hỏi được, những chỉ tay trên bàn tay trái chỉ về định mạng, thường không thay đổi. Những chỉ tay trên bàn tay mặt thay đổi tùy theo những gì bạn có thể thực hiện được để thay đổi định mạng. Nếu trời dành cho bạn trí tuệ thông minh xuất sắc (được ghi trên bàn tay trái), nhưng bạn không chịu học hỏi, thì tất nhiên đường trí tuệ của bạn xấu hơn trên bàn tay phải. Áp dụng vào đường Hôn Nhân, nếu trên bàn tay trái đường ấy có dấu hiệu đổ vỡ, nhưng vì tình yêu và ý chí của bạn thật tuyệt vời, con đường Hôn Nhân của bạn trên bàn tay phải được hàn gắn lại với thời gian, và đường tình của bạn trở nên rực rở, đầy hoa thơm và mộng đẹp. Vì vậy khi xem chỉ tay các bạn cần xem cả hai bàn tay để đối chiếu và giải đoán chính xác hơn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng bàn tay tổng quan

6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ
6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bạn vừa chia tay người yêu? Bạn đang thất tình? Bạn vẫn chưa quên được tình cũ? Hãy áp dụng ngay 6 mẹo phong thủy tình yêu giúp bạn nhanh chóng gạt bỏ quá khứ và chào đón tương lai.


6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
1. Đặt đồng tâm kết đỏ dưới gối
  Chọn một ngày tốt, tắm rửa sạch sẽ, tĩnh tâm, thành kính đem tâm nguyện của mình kể rõ rồi đặt dây đồng tâm kết đỏ dưới gối. Đềm trăng tròn, khi nằm trên giường, đem tâm sự trong lòng nói ra sẽ mau quên chuyện cũ.   2. Trồng cây xanh   Không cần phải trồng cây lớn, chỉ một chậu cây nho nhỏ cũng có tác dụng phong thủy rất tốt. Tự mình chăm sóc cái cây ấy sẽ tạo cảm giác ấm áp, hạnh phúc và mời gọi tình mới đến mau hơn.

Đeo đá hồ ly phong thủy vừa giữ chồng tốt lại tăng tài lộc
– Chị em đeo trang sức đá hồ ly không những giữ chồng tốt, tăng vận đào hoa, cải thiện tâm trạng mà còn tăng vận may về tài lộc.

3. Sử dụng quần áo, trang sức màu hồng
  Màu hồng được cho là màu của tình yêu, có tác dụng phong thủy vượng đào hoa rất công hiệu. Khi sử dụng những vật phẩm có màu hồng thì phong thủy tình yêu của chủ nhân không chỉ được cải thiện mà tâm ý cũng hiển hiện ra ngoài, tăng cơ hội đến bày tỏ cho những đối tượng đến sau.   4. Trang trí nhà cửa theo phong cách ấm áp   Nội thất nhà đẹp nhưng mang vẻ lạnh lùng, tĩnh mịch sẽ không có lợi cho vận đào hoa của chủ nhân đâu. Thậm chí, người sống lâu ngày còn bị ảnh hưởng cảm xúc, trở nên lạnh nhạt, đạm mạc, xa cách với người khác. Những màu sắc ấm áp, bố cục nồng nhiệt sẽ khiến chủ nhân ôn hòa, vui vẻ và thoải mái hơn. Chuyện buồn cũng nhanh quá, chuyện tốt cũng mau tới hơn. Nhân duyên tốt thì đào hoa mới vượng.   5. Bày trí những vật phẩm phong thủy cát tường   Những vật phẩm phong thủy tình yêu tốt lành như uyên ương, thủy tinh, đồ đôi,… sẽ tạo cát khí cho không gian sống, nâng cấp vận trình tình duyên cho chủ nhân.  
6 meo phong thuy tinh yeu nhanh tien cu, don moi hinh anh
 
6. Đeo bùa chú
  Những loại bùa chú thúc giục tình yêu, chiêu đào hoa có công hiệu phong thủy rất mạnh mẽ. Nếu kết hợp với ngũ hành của bản mệnh nữa thì đặc biệt hiệu quả, nhất định “tống cựu nghênh tân” ngay lập tức. Trần Hồng

Xem Clip Cách đơn giản cởi bỏ nghiệp chướng
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 mẹo phong thủy tình yêu nhanh tiễn cũ, đón mới

Kính ngưỡng Phổ Hiền Bồ Tát - hướng tới ánh sáng chân lý tu hành

Phổ Hiền Bồ Tát là một trong tứ đại Bồ Tát của Phật giáo, năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy cầu khẩn của chúng sinh mà hiện thân hóa độ.
Kính ngưỡng Phổ Hiền Bồ Tát - hướng tới ánh sáng chân lý tu hành

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngài được kính ngưỡng là vị thần bảo hộ của những người tuyên giảng đạo pháp.


Kinh nguong Pho Hien Bo Tat - huong toi anh sang chan ly tu hanh hinh anh
 

Mục Lục

  1. Danh xưng Phổ Hiền Bồ Tát 1
  2. Sức mạnh của Phổ Hiền Bồ Tát 2
  3. Hình tượng Phổ Hiền Bồ Tát 3
  4. Ngày vía Phổ Hiền Bồ Tát 4
  5. Hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát 5
  6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Phổ Hiền Bồ Tát 8

 

1. Danh xưng Phổ Hiền Bồ Tát

 

Phổ Hiền là danh xưng phiên âm từ tiếng Phạn, trong đó Phổ nghĩa là phổ biến, Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát, Phổ Hiền là vị Bồ Tát Đẳng Giác có mặt mọi lúc mọi nơi, hiện thân theo cầu khẩn của chúng sinh, có năng lực và pháp giới tỏa chín phương mười cõi.

 

Theo Đại Nhật Kinh Sơ có viết: “Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ nghĩa là trải khắp mọi nơi, Hiền là diệu thiện nhất. Ý nói Phổ Hiền Bồ Tát dựa hạnh nguyện phát ra từ tâm Bồ Đề và sự cân bằng của thân, khẩu, ý phổ khắp mọi nơi, diệu thiện thuần nhất, có đủ các đức, vì thế gọi là Phổ Hiền”.

 

Phổ Hiền là vị Bồ Tát quốc độ của Thượng Vương Như Lai, tương truyền đã lãnh đạo 500 vị Đại Bồ Tát tới nghe thuyết pháp kinh Pháp Hoa và phát tâm hộ trì chánh pháp của Đức Phật Thích Ca. Ngài đại diện cho trí tuệ, thấu hiểu muôn điều trên thế giới, nắm trong tay hào quang của tri thức, trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.

 

Mật Tông xưng tụng Bồ Tát Phổ Hiền là Thiện Nhiếp Kim Cương, Chân Như Kim Cương, Như Ý Kim Cương.

 

2. Sức mạnh của Phổ Hiền Bồ Tát

 

Trong Phật giáo, Phổ Hiền Bồ Tát cùng với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được phong là Hoa Nghiêm Tam Thánh – ba vị có sức mạnh lớn, trí tuệ tỏa sáng và tấm lòng đức độ cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Xem thêm bài viết Cung dưỡng tam thánh, học đạo tu đời theo Phật, Bồ Tát để hưởng phúc

 

Kinh nguong Pho Hien Bo Tat - huong toi anh sang chan ly tu hanh hinh anh
 

Thêm vào đó, Phổ Hiền Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát được xưng là Tứ đại Bồ Tát – những vị Bồ Tát có sức mạnh và lòng từ bi bao trùm chúng sinh. Từ đó có thể thấy địa vị của vị Bồ Tát này trong Phật giáo tương đối lớn, với những ý nghĩa rất đặc biệt.

 

Phổ Hiền là vị Bồ Tát đại diện cho lý, định, hạnh, nắm giữ lý đức, định đức và hạnh đức của chư Phật. Nói cách khác, Ngài là hiện thân của trí tuệ, lý trí với cái nhìn hướng thiện nhưng khách quan và tầm hiểu biết sâu sắc. Sức mạnh đến từ trí tuệ, trí huệ, tức là từ lý tính và huệ nhãn, thấu suốt cõi đời, rao truyền tri thức.

 

Đây là loại sức mạnh chân lý vững chãi, trải qua thể nghiệm, vừa ôn hòa từ bi nhưng cũng hết sức mạnh mẽ kiên định. Tâm tính thanh tịnh, lấy Lục độ thâu nhiếp vạn hạnh, không ngại chướng ngại, vượt qua khó khăn. Vì thế mà Phổ Hiền là vị Bồ Tát bảo hộ cho những người truyền đạo, bảo hộ Phật pháp.

 

Những người đang khó khăn, nguy nan, thái chí nản lòng nên cầu khẩn Phổ Hiền Bồ Tát. Ngài không cứu khổ độ nạn mà hướng con người tới ánh sáng của tri thức, của thiền định, tĩnh tâm, mở rộng tất cả các giác quan và có chí hướng vươn lên phía trước, thoát khỏi những khổ ải.

 

 

Phổ Hiền Bồ Tát là vị Phật bản mệnh của người tuổi tuổi Thìn và tuổi Tị, có thể giúp đỡ, che chở vượt qua sóng gió, soi đường chỉ lối tiến tới chân tâm, nhận ra hướng đi sáng suốt với trí tuệ tuyệt vời. Thỉnh bản mệnh Phật, đeo phúc bên người, không chỉ là cầu mong sự tốt lành mà còn mang ý nghĩa hướng thiện, lúc nào cũng như Phật ở bên, điều chỉnh con người sống theo những lời dạy của Phật, tốt đời đẹp đạo.

 

3. Hình tượng Phổ Hiền Bồ Tát

 

Phổ Hiền là vị Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà, voi trắng là biểu tượng Phật giáo tượng trưng cho trị huệ và sự dũng cảm, vượt qua muôn ngàn chướng khổ. Sáu ngà của voi là sáu chiến công, chiến thắng sáu giác quan bình thường của con người. Có thể nói, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà mang ý nghĩa trí huệ của ngài lớn mạnh, đủ để vượt qua tất cả những tầm thường của đời sống, tiến tới cảnh giới cao nhất.

 

Đồng thời, ở một ý nghĩa khác voi trắng sáu ngà có ngụ ý là sáu độ, sáu phương pháp tu hành để đạt cảnh giới Niết Bàn. Bốn chân voi là bốn loại thiền định là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền – một trong những pháp môn luyện thân tâm của nhà Phật.

 

Đây cũng là biểu hiện của hạnh nguyện rộng lớn bởi voi có sức chuyên chở, cũng giống như Phổ Hiền Bồ Tát mang chân lý tỏa khắp muôn nơi, đưa chúng sinh từ bờ mê bến giác đến bờ cõi đạo hạnh nhà Phật, tâm tư sáng tỏ. Dẫu muôn trùng khó khăn, Bồ Tát vẫn dùng lục đạo để đưa chúng sinh thoát khỏi bể khổ, không nền hà hiểm nguy, sẵn sàng vượt moi chông gai thử thách.

 

Ngoài ra, hình tượng của Phổ Hiền cũng thường xuyên gắn với những pháp khí hoặc hình ảnh quen thuộc của Phật giáo như hoa sen, ngọc như ý, trang sách ghi thần chú của Bồ Tát. Cũng có nơi hình tượng Phổ Hiền là vị Bồ Tát mặc trang phục màu trắng, mang ý nghĩa nhất thể.

 

Kinh nguong Pho Hien Bo Tat - huong toi anh sang chan ly tu hanh hinh anh
 

Phổ Hiền Bồ Tát tay trái cầm ngọc như ý pháp bảo, hoặc tay phái cầm nhánh hoa sen thanh khiết bên trên có ngọc chau, ngón cái và ngón trỏ bắt ấn tạo thành hình tam giác. Hoặc cũng có thể là hình ảnh Bồ Tát tay cầm cuốn kinh, tay cầm Kim Cương Chủy.

 

Mỗi tạo hình Bồ Tát đều mang ý nghĩa riêng nhưng chung quy lại để thể hiện trí huệ của Phổ Hiền, là vị bảo vệ Phật pháp, coi trọng pháp giới.

 

4. Ngày vía Phổ Hiền Bồ Tát

 

Ngày 21/2 âm lịch hàng năm là ngày vía Phổ Hiền Bồ Tát. Trong ngày này Phật tử và chúng sinh hướng Phật làm lễ kính ngưỡng công đức của Phổ Hiền đồng thời noi gương Ngài, tiến tới chân lý, sống cuộc đời minh bạch. Ngày này nên ăn chay, đọc kinh Hoa Nghiêm và tới chùa làm lễ công quả, cúng dường chư Phật để tâm an, lòng thanh tịnh.

 

5. Hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát

 

                                        Nhất giả Lễ kính chư Phật.

                                        Nhị giả Xưng tán Như Lai.

                                        Tam giả Quảng tu cúng dường.

                                        Tứ giả Sám hối nghiệp chướng.

                                        Ngũ giả Tùy hỷ công đức.

                                        Lục giả Thỉnh chuyển pháp luân.

                                        Thất giả Thỉnh Phật trụ thế.

                                        Bát giả Thường tùy Phật học.

                                        Cửu giả Hằng thuận chúng sanh.

                                        Thập giả Phổ giai hồi hướng.  

 

Trên con đường độ hóa chúng sinh, Phổ Hiền Bồ Tát có 10 hạnh nguyện, tức là 10 điều mà Ngài nguyện sẽ hoàn thành trên con đường tu thành chính quả cũng như trong suốt những chặng đường thành Phật tiếp theo, thể hiện ý chí nguyện vọng và tấm lòng đức độ của vị Bồ Tát này.

 

Thứ nhất là kính lễ chư Phật, bày tỏ niềm tôn kính về nhân cách, công đức và hạnh nguyên viên mãn của tất cả những bậc đã giác ngộ. Giữ tam nghiệp thân, miệng, ý luôn thanh tịnh, theo đúng pháp giới để cảm ứng được những điều tốt đẹp của các bậc Phật, trở về nguồn cội, phát triển vô lượng hạnh nguyện và khơi gợi công đức vốn có trong chính mình.

 

Thứ hai là thường xuyên xưng tụng công đức của Phật Như Lai. Như Lai là bậc Bồ tát có đạo hạnh vô lượng vô kiếp, xưng tụng công đức, bày tỏ lòng tôn kính với Ngài đồng thời noi gương học hỏi, coi đây là điểm tựa để bản thân nhìn theo, loại bò tà niệm, thân tâm an lạc.

 

Thứ ba là thờ phụng và cúng dường chư Phật. Công đức tự tâm, không chỉ tôn kính mà còn học hỏi, noi gương đức tính, đạo hạnh của những bậc giác ngộ. Tôn thờ cái đẹp, cái thiện, gieo hạnh lành, truyền hành tốt tới chúng sinh muôn loài, trường tồn vĩnh cửu.

 

Thứ tư là sám hối ác nghiệp và tuân theo tịnh giới. Ăn nan những lỗi lầm, những nghiệp ác từ khởi thủy đến nay để giảm bớt những ô trọc cuộc đời. Đồng thời tuân theo tịnh giới, giữ vững khuôn phép nhà Phật để cái ác không thể khởi sinh.

 

Thứ năm là tùy hỉ công đức tất cả Phật, Bồ tát và lục giới (Trời, Người, A Tu La, Địa, Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh) và 4 sanh (Noãn, Thai, Thấp, Hóa). Trên con đường thực hành hạnh của Bồ tát, tùy tâm hoan hỉ tiến hành công đức không phân biệt loài, thể hiện chính tâm thánh thiện, bình đẳng.

 

Thứ sáu là thỉnh lễ tất cả những buổi Phật giảng pháp. Pháp là kim chỉ nam cho người tu hành, là con đường đưa chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Phổ Hiền Bồ Tát thỉnh giác và bảo vệ lễ pháp của Đức Phật, mong muốn thấm nhuần Phật pháp và để Phật pháp truyền bá rộng khắp.

 

Thứ bảy là thỉnh cầu Phật, Bồ Tát không nhập Niết Bàn mà lưu lại thế gian giảng pháp. Niết Bàn là cảnh giới tịch diệt, rũ bỏ mọi tham sân si trở về cực lạc vô ngã vô thường, tiến tới trạng tháu hoàn toàn vắng lặng. Hóa duyên đã mãn, các vị Phật và Bồ Tát đều nhập Niết Bàn nhưng Phổ Hiền Bồ Tát vì chúng sinh mà cầu đạo, muốn các bậc giác độ ở lại thế gian lưu truyền tâm ý.

 

Thứ tám là theo Phật Tỳ Lô Giá Na học giáo pháp. Phật Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của tất cả các đức Như Lai, theo Phật học pháp, trở về với nguồn gốc giác ngô để đạt thành tựu hạnh nguyện tam muội.

 

Thứ chín là cúng dường chúng sinh, vì chúng sinh mà thực hiện 4 nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; từ đó cảm hóa chúng sinh để chúng sinh nhập thiện tâm.

 

Thứ mười là hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh để thành Phật. Phát nguyện độ sinh, mang công đức hồi hướng về bồ đề cầu thành Phật. Đây là hạnh nguyện cuối cùng, cũng là nền tảng của 9 hạnh nguyện kể trên.

 

Đồng thời, trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, khi giải thích mỗi một hạnh nguyện đều nhấn mạnh phải “niệm niệm chẳng ngừng nghỉ, không có gián đoạn; ba nghiệp thân, khẩu, ý không có mệt mỏi”, để chứng minh mỗi hạnh nguyện bất kể là thân hạnh, ngôn ngữ hoặc ý niệm đều phải là nguyện hạnh kiên định phát từ nội tâm, thời thời khắc khắc không có gián đoạn.

 

Ví dụ như trong Kinh có giải thích hạnh “lễ kính chư Phật” như sau: “khi hư không giới tận thì lễ kính mới tận; mà hư không giới thì không thể tận, nên lễ kính cũng không có cùng tận. Cũng như vậy cho đến chúng sinh giới tận, chúng sinh nghiệp tận, chúng sinh phiền não tận, thì lễ kính mới tận; mà chúng sinh giới cho đến phiền não không có cùng tận nên lễ kính cũng không có cùng tận.”

 

Xem thêm bài viết Khắc ghi 12 đại nguyện nhớ ngày Quan Thế Âm Bồ Tát xuất gia 19/9 âm lịch

 

6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Phổ Hiền Bồ Tát

 

Phổ Hiền Bồ Tát là vị Bồ Tát đại diện cho chân lý, thờ Ngài là thờ chân lý và hiểu thấu ý nghĩa của trí tuệ, sáng suốt. Ngoài việc cung dưỡng Bồ tát, thường xuyên là những việc tốt như ăn chay, phóng sinh, bố thí, không phạm giới luật, không sát sinh, không không nghiệp, rũ bỏ tham sân si,… thì phải kính lễ Phổ Hiển bằng chính cách sống hướng tới trí huệ.

 

Kinh nguong Pho Hien Bo Tat - huong toi anh sang chan ly tu hanh hinh anh
 

Bản thân cảnh tỉnh ăn năn, tránh xa mọi vọng tưởng, trở về với chân lý minh bạch nhất. Sống dưới ánh sáng chân lý mà bản thân vô minh, được soi tỏ thấu suốt mà chính mình mờ mịt, lấy giả làm thật, càng ngày càng xa cách cái tường minh thì dẫu thờ phụng Phổ Hiền Bồ Tát cũng bằng không.

 

Con người cần phải mở mang trí tuệ, không ngừng học hỏi, nhìn thẳng vào chân lý để có giác ngộ. Bồ Tát không giải quyết nhu cầu của chúng sinh, Ngài phổ độ, dẫn dắt để chúng sinh bỏ tối tìm sáng, bỏ ác tìm thiện, bỏ u mê tìm thấy lý tưởng đúng đắn, hướng người ta tới những giá trị đích thực của cuộc sống.
 

Những hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát cũng là lời nhắc nhở và mục tiêu mà bất cứ ai cũng nên tôn trọng, học hỏi. Hạnh nguyện rộng lớn, xóa tan cái vỏ ích kỷ hẹp hòi để bản thân tiến gần hơn tới giới hạn của thân tâm an lạc. Còn ích kỉ thì còn khổ đau, còn mong cầu thì còn phải khổ nạn. Từ bi vô hạn, sáng suốt vô biên, kính ngưỡng Phổ Hiền để cảnh tỉnh chính mình, mong cầu bản thân bỏ đi những thứ nhỏ nhen, tạm bợ mà con người đang vì nó tạo nghiệp khổ ngập trời.
 

Tại sao Quan Thế Âm Bồ Tát được nhiều người kính ngưỡng? Vì sao Đức Phật, Bồ Tát ngồi trên hoa sen mà không phải loài hoa khác? Sống thiện, sống lành, bao giờ mới được hưởng phúc báo?


Tâm Lan


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kính ngưỡng Phổ Hiền Bồ Tát - hướng tới ánh sáng chân lý tu hành

Cách hóa giải xuyên tâm sát –

Nhà bị Xuyên tâm sát là phía trước cửa chính ngôi nhà có vật hình trụ thẳng đứng, chẳng hạn như trụ điện, cột bảng giao thông, cây to án đối diện với cửa chính. Nhà phạm Xuyên tâm sát thì người sống trong ngôi nhà đó sẽ bị thương tật, mắc các bệnh v

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ề huyết quang, kiện cáo, thị phi, làm ăn kinh doanh thua lỗ. cách hóa giải xuyên tâm sát

1. Tình huống nhà bị Xuyên tâm sát

–         ề huyết quang, kiện cáo, thị phi, làm ăn kinh doanh thua lỗ. –         Cách hóa giải nhà bị Xuyên tâm sát: 1.     Treo 1 gương tiên thiên bát quái lõm bằng đồng trước cửa nhà đối diện với cây to hoặc trụ điện… chiếu tới ( Gương phải được khai quang cẩn thận và chọn ngày giờ treo lên đúng vị trí) với những dòng năng lượng màu xám trắng di chuyển theo hình xoắn ốc sẽ cắt các tia khí đen rơi xuống và thanh lọc các tia khí màu xám trắng bay vào nhà. 2.     Trường hợp nhà có sân rộng thì đặt nhiều cây cảnh có tán lá rộng trước cửa nhà hoặc làm 1 đài phun nước trước cửa nhà (hạt nước và lá cây có tác dụng tách khí rất hiệu quả, làm cho các tia khí đen bị rơi xuống và các tia khí trắng tốt cho con người bay vào nhà). 3.     Đặt 1 trụ thạch anh hoặc khối đá phong thủy trước cửa nhà để năng lượng của đá với những tia khúc xạ sẽ đẩy hết “tà khí” của “Xuyên tâm sát”, đồng thời mang lại may mắn cho ngôi nhà do năng lượng của đá phát ra. 4.     Đặt một đôi “tỳ hưu” tại hai góc cửa chính nhìn ra ngoài (tỳ hưu phải được khai quang và chọn vị trí đặt, ngày giờ đặt cẩn thận thì mới có tác dụng) sẽ hóa giải “sát khí” và “chiêu tài” về cho gia chủ. 5.     Treo 1 phù dơi trước cửa nhà để mang lại may mắn trong cuộc sống và đăc biệt là mang lại may mắn trong kinh doanh.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách hóa giải xuyên tâm sát –

Giải pháp cho cửa hàng hẹp hoặc bị che chắn –

Những không gian kinh doanh có hạn, không thể dùng để chỉ những lợi ích kinh tế lớn. Nếu phải dựa vào những thủ đoạn kinh doanh để thay đổi tình hình này thì cần một thời gian tương đối dài. Đây chính là “kiêu mã đầu” mà ngành kinh doanh thường nói đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ến. “Kiêu mã đầu” đối với vốn nhỏ lời nhỏ hoặc là cần phải xem người kinh doanh có những lợi ích kinh tế gì, là điều không thể thừa nhận. Cho dù là đã thông qua đầu, khiến cho danh tiếng của sản phẩm được truyền ra ngoài, cũng có lúc thường mất đi một số khách hàng mới. Những khách hàng mới này do cửa hàng hẹp mà họ không tìm được địa chỉ. Trong trường hợp này nên thay đổi hoặc cải tạo lại cửa hàng.

dsc02211
Đối với những cửa hàng họp hoặc trước của hàng bị che chắn, đối sách sửa đổi có bốn điểm sau đây: Một là nỗ lực xóa bỏ những rào chắn trước cửa hàng để cửa hàng có thể được lộ ra rõ ràng hơn; hai là đối với những cửa hàng mà mặt tiến bị hẹp không còn cách nào sửa chữa thì hãy treo biển hiệu cửa hàng cao to hơn, để cho người ở xa một chút cũng có thể nhìn thấy; thứ ba là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, điện đài, báo chí, đài phát thanh… để quảng bá, tiến hành tuyên truyền giới thiệu. Cố gắng làm tốt việc đó để khách hàng biết đến các mặt hàng kinh doanh, địa chỉ cửa hàng và những đặc điểm của dịch vụ sản phẩm; thứ tư là tích cực tham gia hoạt động phúc lợi xã hội để mọi người cùng biết đến.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải pháp cho cửa hàng hẹp hoặc bị che chắn –

Hướng dẫn đặt tên tiếng trung cho con hay, ý nghĩa 2018 –

Đặt tên cho con theo tiếng Trung hay, ý nghĩa nhất giúp mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống của bé sau nay mà các bậc phụ huynh nên tham khảo. Cách đặt tên tiếng Trung hay cho con luôn ẩn chứa rất nhiều ẩn ý, cũng như gửi gắm những giấc mơ mong

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặt tên cho con theo tiếng Trung hay, ý nghĩa nhất giúp mang lại nhiều điều tốt đẹp cho cuộc sống của bé sau nay mà các bậc phụ huynh nên tham khảo. Cách đặt tên tiếng Trung hay cho con luôn ẩn chứa rất nhiều ẩn ý, cũng như gửi gắm những giấc mơ mong con cái được sống sung túc, thành tài về sau. Chính vì vậy nhiều bậc phụ huynh ngày nay muốn lựa chọn những tên hán việt hay ý nghĩa để đặt cho con yêu của mình. Những cái tên tiếng Trung hay cho trẻ phải có ý nghĩa, đọc lên nghe thuận tai, chữ viết cân đối hài hòa,….vì nó ảnh hưởng chung đến vận mệnh của bé sau này.

Bên cạnh đó như chúng ta cũng biết Việt Nam chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa khá nhiều, nhiều họ ở Việt Nam cũng có nguồn gốc từ Trung Quốc, và nhiều cái tên cũng vậy. Cho nên đặt tên cho con theo tiếng Trung cũng không có gì xa lạ và ngược lại rất phổ biến và có ý nghĩa với nhiều ẩn nghĩa sâu sắc.

Việc đặt tên cho con có nhiều cách thức, từ đặt tên theo phong thủy, theo ngũ hành, Tứ trụ, nhưng tựu chung lại tên đặt vẫn phải có vần điệu và ý nghĩa, nên chứa thêm những tâm tưởng, ước vọng, niềm tin của cha mẹ và truyền thống của gia đình đối với con cái.

Để tìm hiểu chính xác cách đặt tên tiếng Trung cho con, mời các bạn cùng tham khảo thông tin trong bài viết dưới đây nhé.

Nội dung

  • 1 Thế nào là tên tiếng Trung hay?
  • 2 Tên tiếng Trung hay cho con gái
  • 3 Tên tiếng Trung hay theo vần cho con gái
    • 3.1 Theo vần A
    • 3.2 Theo vần B
    • 3.3 Theo vần C
    • 3.4 Theo vần D
    • 3.5 Theo vần Đ
    • 3.6 Theo vần G
    • 3.7 Theo vần H
    • 3.8 Theo vần K
    • 3.9 Theo vần L
    • 3.10 Theo vần M
    • 3.11 Theo vần N
    • 3.12 Theo vần O
    • 3.13 Theo vần P
    • 3.14 Theo vần Q
    • 3.15 Theo vần T
    • 3.16 Theo vần U
    • 3.17 Theo vần V
    • 3.18 Theo vần X
    • 3.19 Theo vần Y
  • 4 Tên tiếng Trung hay cho con Trai
    • 4.1 Danh sách tên con trai theo tiếng Trung hay

Thế nào là tên tiếng Trung hay?

Theo quan điểm của người Trung quốc, một cái tên hay cần hội tụ các yếu tố sau đây:

Cái tên phải có ý nghĩa. Thường thì cái tên truyền tải những mong muốn, kỳ vọng của những bậc sinh thành với đứa con của mình.

Khi đọc lên nghe phải thuận tai. Ngôn ngữ Trung Quốc cũng có những âm cao thấp, tuy không nhiều bằng Việt Nam, do đó họ cũng tránh những cái tên đọc lên nghe nhàm chán hoặc gây khó chịu cho người nghe.

Chữ viết phải cân đối hài hòa. Đây là đặc trưng của ngôn ngữ tượng hình. Những ngôn ngữ la-tinh đòi hỏi yếu tố này thấp hơn.

Phải gắn với sự kiện lịch sử hoặc văn hóa nào đó. Thường thì họ sẽ liên hệ với những sự kiện trong năm hoặc sự kiện đặc biệt nào gần đó để sau này có thể kể lại cho con cháu mình.

Được tạo bởi những chữ (bộ thủ) đơn giản, dễ hiểu.

Tên tiếng Trung hay cho con gái

tên hay cho bé gái thường thì phải thể hiện sự dịu dàng, thanh thoát, xinh đẹp và cao quý. Ngoài ra còn có những ẩn ý về sự hạnh phúc, đức, tài…

AN: Bình an và yên ổn.

Gợi ý tên hay cho bé gái là: Thanh An – Bình An – Diệp An – Hoài An – Ngọc An – Mỹ An – Khánh An – Hà An – Thùy An – Thúy An – Như An- Kim An – Thu An – Thiên An.

ANH: Thông minh, sáng sủa.

Gợi ý tên hay cho bé gái là: Diệp Anh – Quế Anh – Thùy Anh – Mỹ Anh – Bảo Anh – Quỳnh Anh – Lan Anh – Ngọc Anh – Huyền Anh – Vân Anh – Phương Anh – Tú Anh – Diệu Anh – Minh Anh.

BÍCH: Màu xanh quý tuyệt đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Ngọc Bích – Lệ Bích – Lam Bích – Hồng Bích – Hoài Bích

Châu: Quý như châu ngọc.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Bảo Châu – Minh Châu – Diệu Châu – Ngọc Châu – Diễm Châu – Quỳnh Châu – Thủy Châu – Trân Châu.

Chi: Dịu dàng, tràn đầy sức sống như nhành cây.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Diệp Chi – Mai Chi – Quế Chi – Phương Chi – Thảo Chi – Cẩm Chi – Diệu Chi – Thùy Chi.

DIỆP: Tươi tắn, tràn đầy sức sống như lá cây.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Bích Diệp – Quỳnh Diệp – Khánh Diệp – Ngọc Diệp – Mộc Diệp – Thảo Diệp.

DUNG: Diện mạo xinh đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái:Hạnh Dung – Kiều Dung – Phương Dung – Thanh Dung – Ngọc Dung – Hoàng Dung – Mỹ Dung.

ĐAN: Viên thuốc quý, màu đỏ.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Linh Đan – Tâm Đan – Ngọc Đan – Mỹ Đan – Hoài Đan – Khánh Đan – Nhã Đan – Phương Đan.

GIANG: Dòng sông.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Phương Giang – Khánh Giang – Lệ Giang – Hương Giang – Quỳnh Giang – Thúy Giang – Lam Giang – Hà Giang – Trà Giang.

HÀ: Dòng sông.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Bảo Hà – Thu Hà – Ngọc Hà – Khánh Hà – Thủy Hà – Bích Hà – Vân Hà – Ngân Hà – Thanh Hà – Cẩm Hà.

HÂN: Niềm vui, tính cách dịu hiền.

Gợi ý tên hay cho bé gái:Gia Hân – Bảo Hân – Ngọc Hân – Thục Hân – Khả Hân – Tường Hân – Mỹ Hân.

HẠNH: Đức hạnh, hạnh phúc.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Hồng Hạnh, Ngân Hạnh, Thúy Hạnh, Bích Hạnh, Diễm Hạnh, Nguyên Hạnh.

HOA: Rạng rỡ, xinh đẹp như hoa.

Gợi ý tên hay cho bé gái:Ngọc Hoa – Kim Hoa – Phương Hoa – Quỳnh Hoa – Như Hoa – Mỹ Hoa – Diệu Hoa – Mai Hoa.

HƯƠNG: Hương thơm của hoa.

Gợi ý tên hay cho bé gái:Mai Hương – Quế Hương – Khánh Hương – Ngọc Hương- Thảo Hương – Quỳnh Hương – Lan Hương – Minh Hương – Thiên Hương.

KHÁNH – tiếng chuông, niềm vui.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Ngân Khánh – Bảo Khánh – Vân Khánh – Mỹ Khánh – Kim Khánh – Ngọc Khánh.

KHUÊ: Ngôi sao khuê (tượng trưng cho tri thức), tiểu thư, khuê các.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Diễm Khuê – Ngọc Khuê – Minh Khuê – Diệu Khuê – Mai Khuê – Anh Khuê – Hà Khuê – Vân Khuê.

LAN: Loài hoa quý và đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Phong Lan – Tuyết Lan – Bảo Lan – Chi Lan – Bích Lan – Diệp Lan – Ngọc Lan – Mai Lan – Quỳnh Lan – Ý Lan – Xuân Lan – Hoàng Lan – Phương Lan – Trúc Lan – Thanh Lan – Nhật Lan.

LOAN: Một loài chim quý.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thúy Loan – Thanh Loan – Bích Loan – Tuyết Loan – Kim Loan – Quỳnh Loan – Ngọc Loan – Hồng Loan – Tố Loan – Phương Loan.

LINH: Cái chuông nhỏ, linh lợi, hoạt bát.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Trúc Linh – Mỹ Linh – Thùy Linh – Diệu Linh – Phương Linh _ Gia Linh – Khánh Linh – Quế Linh – Bảo Linh – Khả Linh _ Hạnh Linh – Mai Linh – Nhật Linh – Cẩm Linh – Hà Linh.

MAI: Loài hoa tinh tế, thanh cao, nở vào mùa xuân.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thanh Mai – Trúc Mai – Diễm Mai – Phương Mai – Xuân Mai – Quỳnh Mai – Tuyết Mai – Chi Mai – Nhật Mai – Hoàng Mai – Ban Mai – Ngọc Mai – Hồng Mai – Khánh Mai – Diệp Mai – Thu Mai.

VÂN: Đám mây trời.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thùy Vân – Mỹ Vân – Thanh Vân – Ngọc Vân – Thụy Vân – Thúy Vân – Diệu Vân – Hải Vân – Trúc Vân – Tuyết Vân – Khánh Vân – Thảo Vân – Bích Vân – Cẩm Vân – Bảo Vân – Diệp Vân.

MY: Loài chim hót hay, đáng yêu.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Hạnh My – Hà My – Thảo My – Diễm My – Khánh My – Ngọc My – Trà My – Giáng My.

MINH: sáng sủa, tươi tắn.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thu Minh – Ngọc Minh – Nguyệt Minh – Tuệ Minh – Khả Minh – Thảo Minh – Thùy Minh – Thúy Minh.

NGA: cô gái xinh đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Phương Nga – Bảo Nga – Thanh Nga – Bích Nga – Diệu Nga – Quỳnh Nga – Thúy Nga – Tố Nga.

NGÂN: Thanh âm vui vẻ, vang vọng.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thanh Ngân – Khánh Ngân – Bích Ngân – Diễm Ngân – Khả Ngân – Trúc Ngân – Quỳnh Ngân – Hạnh Ngân.

NGỌC: Bảo vật quý hiếm.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Bảo Ngọc – Thanh Ngọc – Bích Ngọc – Khánh Ngọc – Minh Nhọc – Như Ngọc – Lan Ngọc – Vân Ngọc.

NHI: Đoan trang, biết giữ lễ nghĩa.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thục Nhi – Hân Nhi – Đông Nhi – Ngọc Nhi – Quỳnh Nhi – Diễm Nhi – Vân Nhi – Thảo Nhi.

VY: Nhỏ nhắn, loài hoa hồng leo đẹp, tràn đầy sức sống.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Tường Vy – Ngọc Vy – Thảo Vy – Hạ Vy – Diễm Vy – Diệu Vy – Thúy Vy – Lan Vy – Mai Vy – Khánh Vy – Hải Vy – Bảo Vy – Diệp Vy – Trúc Vy.

NHIÊN – Ung dung tự tại.

Gợi ý tên hay cho bé gái: An Nhiên – Hân Nhiên – Khả Nhiên – Hạ Nhiên – Thùy Nhiên – Quỳnh Nhiên – Thảo Nhiên – Ý Nhiên.

NHUNG: Mượt mà, êm ái như nhung.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Hồng Nhung – Thảo Nhung – Quỳnh Nhung – Tuyết Nhung – Phi Nhung – Kim Nhung – Phương Nhung – Bích Nhung.

QUYÊN: Dung mạo xinh đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thục Quyên – Lệ Quyên – Ngọc Quyên – Bích Quyên – Bảo Quyên – Thảo Quyên – Tố Quyên – Tú Quyên.

QUỲNH: Hoa quỳnh, một thứ ngọc đẹp.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Diễm Quỳnh – Ngọc Quỳnh – Ngân Quỳnh – Hạnh Quỳnh – Mai Quỳnh – Phương Quỳnh – Thanh Quỳnh – Cảm Quỳnh.

TÂM: Tấm lòng nhân ái.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Băng Tâm – Minh Tâm – Thanh Tâm – Hồng Tâm – Mỹ Tâm – Đan Tâm – Khánh Tâm – Phương Tâm.

THẢO: Loài cỏ nhỏ nhắn nhưng mạnh mẽ, tràn đầy sức sống.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Bích Thảo – Phương Thảo – Thu Thảo – Ngọc Thảo – Hương Thảo – Như Thảo – Thạch Thảo – Thanh Thảo – Diễm Thảo – Dạ Thảo – Nguyên Thảo – Anh Thảo – Kim Thảo – Xuân Thảo.

THU: Mùa thu dịu dàng.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Mai Thu – Bích Thu – Hoài Thu – Cẩm Thu – Ngọc Thu – Quế Thu – Kiều Thu – Hồng Thu – Hương Thu – Hạnh Thu – Bảo Thu – Phương Thu – Diệp Thu – Lệ Thu.

THƯ: Thông minh, tài giỏi.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Anh Thư – Uyên Thư – Minh Thư – Ngọc Thư – Quỳnh THư – Diễm Thư – Bích Thư – Bảo Thư.

THỦY: sâu lắng, mạnh mẽ như làn nước.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Ngọc Thủy – Bích Thủy – Phương Thủy – Lệ Thủy – Xuân Thủy – Mai Thủy – Hương Thủy – Khánh Thủy.

TRANG: Nghiêm chỉnh, đoan trang.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Đoang Trang – Thu Trang – Quỳnh Trang – Hạnh Trang – Thùy Trang – Thục Trang – Linh Trang – Hạnh Trang – Ngân Trang – Thùy Trang – Ngọc Trang – DIễm Trang – Thảo Trang – Thiên Trang – Kiều Trang – Vân Trang – Bảo Trang – Yến Trang.

TRÀ: Loài cây xanh tươi, hoa thơm và quý.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Thanh Trà – Ngọc Trà – Bích Trà – Sơn Trà – Thu Trà – Diệp Trà – Xuân Trà.

YẾN: Loài chim quý, vừa đẹp, vừa hót hay.

Gợi ý tên hay cho bé gái: Hoàng Yến – Ngọc Yến – Minh Yến – Hồng Yến – Cẩm Yến – Nhã Yến – Hải Yến – Kim Yến.

Tên tiếng Trung hay theo vần cho con gái

Theo vần A

Hoài An: Cuộc sống của con sẽ mãi bình an
Huyền Anh: Tinh anh, huyền diệu
Thùy Anh: Con sẽ thùy mị, tinh anh.
Trung Anh: Trung thực, anh minh
Tú Anh: Xinh đẹp, tinh anh
Vàng Anh: Tên một loài chim

Theo vần B

Hạ Băng: Tuyết giữa ngày hè
Lệ Băng: Một khối băng đẹp
Tuyết Băng: Băng giá
Yên Bằng: Con sẽ luôn bình an
Ngọc Bích: Viên ngọc quý màu xanh
Bảo Bình: Bức bình phong quý

Theo vần C

Khải Ca: Khúc hát khải hoàn
Sơn Ca: Con chim hót hay
Nguyệt Cát: Kỷ niệm về ngày mồng một của tháng
Bảo Châu: Hạt ngọc quý
Ly Châu: Viên ngọc quý
Minh Châu: Viên ngọc sáng
Hương Chi: Cành thơm
Lan Chi: Cỏ lan, cỏ chi, hoa lau
Liên Chi: Cành sen
Linh Chi: Thảo dược quý hiếm
Mai Chi: Cành mai
Phương Chi: Cành hoa thơm
Quỳnh Chi: Cành hoa quỳnh
Hiền Chung: Hiền hậu, chung thủy
Hạc Cúc: Tên một loài hoa

Theo vần D

Nhật Dạ: Ngày đêm
Quỳnh Dao: Cây quỳnh, cành dao
Huyền Diệu: Điều kỳ lạ
Kỳ Diệu: Điều kỳ diệu
Vinh Diệu: Vinh dự
Thụy Du: Đi trong mơ
Vân Du: Rong chơi trong mây
Hạnh Dung: Xinh đẹp, đức hạnh
Kiều Dung: Vẻ đẹp yêu kiều
Từ Dung: Dung mạo hiền từ
Thiên Duyên: Duyên trời
Hải Dương: Đại dương mênh mông
Hướng Dương: Hướng về ánh mặt trời
Thùy Dương: Cây thùy dương

Theo vần Đ

Kim Đan: Thuốc để tu luyện thành tiên
Minh Đan: Màu đỏ lấp lánh
Yên Đan: Màu đỏ xinh đẹp
Trúc Đào: Tên một loài hoa
Hồng Đăng: Ngọn đèn ánh đỏ

Theo vần G

Hạ Giang: Sông ở hạ lưu
Hồng Giang: Dòng sông đỏ
Hương Giang: Dòng sông Hương
Khánh Giang: Dòng sông vui vẻ
Lam Giang: Sông xanh hiền hòa
Lệ Giang: Dòng sông xinh đẹp

Theo vần H

Bảo Hà: Sông lớn, hoa sen quý
Hoàng Hà: Sông vàng
Linh Hà: Dòng sông linh thiêng
Ngân Hà: Dải ngân hà
Ngọc Hà: Dòng sông ngọc
Vân Hà: Mây trắng, ráng đỏ
Việt Hà: Sông nước Việt Nam
An Hạ: Mùa hè bình yên
Mai Hạ: Hoa mai nở mùa hạ
Nhật Hạ: Ánh nắng mùa hạ
Đức Hạnh: Người sống đức hạnh
Tâm Hằng: Luôn giữ được lòng mình
Thanh Hằng: Trăng xanh
Thu Hằng: Ánh trăng mùa thu
Diệu Hiền: Hiền thục, nết na
Mai Hiền: Đoá mai dịu dàng
Ánh Hoa: Sắc màu của hoa
Kim Hoa: Hoa bằng vàng
Hiền Hòa: Hiền dịu, hòa đồng
Mỹ Hoàn: Vẻ đẹp hoàn mỹ
Ánh Hồng: Ánh sáng hồng
Diệu Huyền: Điều tốt đẹp, diệu kỳ
Ngọc Huyền: Viên ngọc đen
Đinh Hương: Một loài hoa thơm
Quỳnh Hương: Một loài hoa thơm
Thanh Hương: Hương thơm trong sạch
Liên Hương: Sen thơm
Giao Hưởng: Bản hòa tấu

Theo vần K

Uyển Khanh: Một cái tên xinh xinh
An Khê: Địa danh ở miền Trung
Song Kê: Hai dòng suối
Mai Khôi: Ngọc tốt
Ngọc Khuê: Danh gia vọng tộc
Thục Khuê: Tên một loại ngọc
Kim Khuyên: Cái vòng bằng vàng
Vành Khuyên: Tên loài chim
Bạch Kim: Vàng trắng
Hoàng Kim: Sáng chói, rạng rỡ
Thiên Kim: Nghìn lạng vàng

Theo vần L

Bích Lam: Viên ngọc màu lam
Hiểu Lam: Màu chàm hoặc ngôi chùa buổi sớm
Quỳnh Lam: Loại ngọc màu xanh sẫm
Song Lam: Màu xanh sóng đôi
Thiên Lam: Màu lam của trời
Vy Lam: Ngôi chùa nhỏ
Bảo Lan: Hoa lan quý
Hoàng Lan: Hoa lan vàng
Linh Lan: Tên một loài hoa
Mai Lan: Hoa mai và hoa lan
Ngọc Lan: Hoa ngọc lan
Phong Lan: Hoa phong lan
Tuyết Lan: Lan trên tuyết
Ấu Lăng: Cỏ ấu dưới nước
Trúc Lâm: Rừng trúc
Tuệ Lâm: Rừng trí tuệ
Tùng Lâm: Rừng tùng
Tuyền Lâm: Tên hồ nước ở Đà Lạt
Nhật Lệ: Tên một dòng sông
Bạch Liên: Sen trắng
Hồng Liên: Sen hồng
Ái Linh: Tình yêu nhiệm màu
Gia Linh: Sự linh thiêng của gia đình
Thảo Linh: Sự linh thiêng của cây cỏ
Thủy Linh: Sự linh thiêng của nước
Trúc Linh: Cây trúc linh thiêng
Tùng Linh: Cây tùng linh thiêng
Hương Ly: Hương thơm quyến rũ
Lưu Ly: Một loài hoa đẹp
Tú Ly: Khả ái

Theo vần M

Bạch Mai: Hoa mai trắng
Ban Mai: Bình minh
Chi Mai: Cành mai
Hồng Mai: Hoa mai đỏ
Ngọc Mai: Hoa mai bằng ngọc
Nhật Mai: Hoa mai ban ngày
Thanh Mai: Quả mơ xanh
Yên Mai: Hoa mai đẹp
Thanh Mẫn: Sự sáng suốt của trí tuệ
Hoạ Mi: Chim họa mi
Hải Miên: Giấc ngủ của biển
Thụy Miên: Giấc ngủ dài và sâu
Bình Minh: Buổi sáng sớm
Tiểu My: Bé nhỏ, đáng yêu
Trà My: Một loài hoa đẹp
Duy Mỹ: Chú trọng vào cái đẹp
Thiên Mỹ: Sắc đẹp của trời
Thiện Mỹ: Xinh đẹp và nhân ái

Theo vần N

Hằng Nga: Chị Hằng
Thiên Nga: Chim thiên nga
Tố Nga: Người con gái đẹp
Bích Ngân: Dòng sông màu xanh
Kim Ngân: Vàng bạc
Đông Nghi: Dung mạo uy nghiêm
Phương Nghi: Dáng điệu đẹp, thơm tho
Thảo Nghi: Phong cách của cỏ
Bảo Ngọc: Ngọc quý
Bích Ngọc: Ngọc xanh
Khánh Ngọc: Viên ngọc đẹp
Kim Ngọc: Ngọc và vàng
Minh Ngọc: Ngọc sáng
Thi Ngôn: Lời thơ đẹp
Hoàng Nguyên: Rạng rỡ, tinh khôi
Thảo Nguyên: Đồng cỏ xanh
Ánh Nguyệt: Ánh sáng của trăng
Dạ Nguyệt: Ánh trăng
Minh Nguyệt: Trăng sáng
Thủy Nguyệt: Trăng soi đáy nước
An Nhàn: Cuộc sống nhàn hạ
Hồng Nhạn: Tin tốt lành từ phương xa
Phi Nhạn: Cánh nhạn bay
Mỹ Nhân: Người đẹp
Gia Nhi: Bé cưng của gia đình
Hiền Nhi: Bé ngoan của gia đình
Thảo Nhi: Người con hiếu thảo
Tuệ Nhi: Cô gái thông tuệ
Uyên Nhi: Xé xinh đẹp
Yên Nhi: Ngọn khói nhỏ
Ý Nhi: Nhỏ bé, đáng yêu
Di Nhiên: Cái tự nhiên còn để lại
An Nhiên: Thư thái, không ưu phiền
Thu Nhiên: Mùa thu thư thái
Hạnh Nhơn: Đức hạnh

Theo vần O

Hoàng Oanh: Chim oanh vàng
Kim Oanh: Chim oanh vàng
Lâm Oanh: Chim oanh của rừng
Song Oanh: Hai con chim oanh

Theo vần P

Vân Phi: Mây bay
Thu Phong: Gió mùa thu
Hải Phương: Hương thơm của biển
Hoài Phương: Nhớ về phương xa
Minh Phương: Thơm tho, sáng sủa
Phương Phương: Vừa xinh vừa thơm
Thanh Phương: Vừa thơm tho, vừa trong sạch
Vân Phương: Vẻ đẹp của mây
Nhật Phương: Hoa của mặt trời

Theo vần Q

Trúc Quân: Nữ hoàng của cây trúc
Nguyệt Quế: Một loài hoa
Kim Quyên: Chim quyên vàng
Lệ Quyên: Chim quyên đẹp
Tố Quyên: Loài chim quyên trắng
Lê Quỳnh: Đóa hoa thơm
Diễm Quỳnh: Đoá hoa quỳnh
Khánh Quỳnh: Nụ quỳnh
Đan Quỳnh: Đóa quỳnh màu đỏ
Ngọc Quỳnh: Đóa quỳnh màu ngọc
Tiểu Quỳnh: Đóa quỳnh xinh xắn
Trúc Quỳnh: Tên loài hoa
Tên hay cho con gái theo vần S

Hoàng Sa: Cát vàng
Linh San: Tên một loại hoa

Theo vần T

Băng Tâm: Tâm hồn trong sáng, tinh khiết
Đan Tâm: Tấm lòng son sắt
Khải Tâm: Tâm hồn khai sáng
Minh Tâm: Tâm hồn luôn trong sáng
Phương Tâm: Tấm lòng đức hạnh
Thục Tâm: Một trái tim dịu dàng, nhân hậu
Tố Tâm: Người có tâm hồn đẹp, thanh cao
Tuyết Tâm: Tâm hồn trong trắng
Đan Thanh: Nét vẽ đẹp
Đoan Thanh: Người con gái đoan trang, hiền thục
Giang Thanh: Dòng sông xanh
Hà Thanh: Trong như nước sông
Thiên Thanh: Trời xanh
Anh Thảo: Tên một loài hoa
Cam Thảo: Cỏ ngọt
Diễm Thảo: Loài cỏ hoang, rất đẹp
Hồng Bạch Thảo: Tên một loài cỏ
Nguyên Thảo: Cỏ dại mọc khắp cánh đồng
Như Thảo: Tấm lòng tốt, thảo hiền
Phương Thảo: Cỏ thơm
Thanh Thảo: Cỏ xanh
Ngọc Thi: Vần thơ ngọc
Giang Thiên: Dòng sông trên trời
Hoa Thiên: Bông hoa của trời
Thanh Thiên: Trời xanh
Bảo Thoa: Cây trâm quý
Bích Thoa: Cây trâm màu ngọc bích
Huyền Thoại: Như một huyền thoại
Kim Thông: Cây thông vàng
Lệ Thu: Mùa thu đẹp
Đan Thu: Sắc thu đan nhau
Hồng Thu: Mùa thu có sắc đỏ
Quế Thu: Thu thơm
Thanh Thu: Mùa thu xanh
Đơn Thuần: Đơn giản
Đoan Trang: Đoan trang, hiền dịu
Phương Thùy: Thùy mị, nết na
Khánh Thủy: Đầu nguồn
Thanh Thủy: Trong xanh như nước của hồ
Thu Thủy: Nước mùa thu
Xuân Thủy: Nước mùa xuân
Hải Thụy: Giấc ngủ bao la của biển
Diễm Thư: Cô tiểu thư xinh đẹp
Hoàng Thư: Quyển sách vàng
Thiên Thư: Sách trời
Minh Thương: Biểu hiện của tình yêu trong sáng
Nhất Thương: Bố mẹ yêu thương con nhất trên đời
Vân Thường: Áo đẹp như mây
Cát Tiên: May mắn
Thảo Tiên: Vị tiên của loài cỏ
Thủy Tiên: Hoa thuỷ tiên
Đài Trang: Cô gái có vẻ đẹp đài cát, kiêu sa
Hạnh Trang: Người con gái đoan trang, tiết hạnh
Huyền Trang: Người con gái nghiêm trang, huyền diệu
Phương Trang: Trang nghiêm, thơm tho
Vân Trang: Dáng dấp như mây
Yến Trang: Dáng dấp như chim én
Hoa Tranh: Hoa cỏ tranh
Đông Trà: Hoa trà mùa đông
Khuê Trung: Phòng thơm của con gái
Bảo Trâm: Cây trâm quý
Mỹ Trâm: Cây trâm đẹp
Quỳnh Trâm: Tên của một loài hoa tuyệt đẹp
Yến Trâm: Một loài chim yến rất quý giá
Bảo Trân: Vật quý
Lan Trúc: Tên loài hoa
Tinh Tú: Sáng chói
Đông Tuyền: Dòng suối lặng lẽ trong mùa đông
Lam Tuyền: Dòng suối xanh
Kim Tuyến: Sợi chỉ bằng vàng
Cát Tường: Luôn luôn may mắn
Bạch Tuyết: Tuyết trắng
Kim Tuyết: Tuyết màu vàng

Theo vần U

Lâm Uyên: Nơi sâu thăm thẳm trong khu rừng
Phương Uyên: Điểm hẹn của tình yêu.
Lộc Uyển: Vườn nai
Nguyệt Uyển: Trăng trong vườn thượng uyển

Theo vần V

Bạch Vân: Đám mây trắng tinh khiết trên bầu trời
Thùy Vân: Đám mây phiêu bồng
Thu Vọng: Tiếng vọng mùa thu
Anh Vũ: Tên một loài chim rất đẹp
Bảo Vy: Vi diệu quý hóa
Đông Vy: Hoa mùa đông
Tường Vy: Hoa hồng dại
Tuyết Vy: Sự kỳ diệu của băng tuyết
Diên Vỹ: Hoa diên vỹ
Hoài Vỹ: Sự vĩ đại của niềm mong nhớ

Theo vần X

Xuân xanh: Mùa xuân trẻ
Hoàng Xuân: Xuân vàng
Nghi Xuân: Một huyện của Nghệ An
Thanh Xuân: Giữ mãi tuổi thanh xuân bằng cái tên của bé
Thi Xuân: Bài thơ tình lãng mạn mùa xuân
Thường Xuân: Tên gọi một loài cây

Theo vần Y

Bình Yên: Nơi chốn bình yên.
Mỹ Yến: Con chim yến xinh đẹp
Ngọc Yến: Loài chim quý

Tên tiếng Trung hay cho con Trai

Đặt tên cho con trai thường mang ngữ nghĩa nam tính, phẩm đức, có sắc thái mạnh mẽ, ý chí, có nhân, có nghĩa, có hiếu, có trung, có hoài bão và chí hướng. Tên con trai thường được được đặt dựa trên:

Phẩm đức nam giới về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, hiếu, văn, tuệ như: Trí Dũng, Chiến Thắng, Quang Vinh, Kiến Quốc, Vĩ Hùng…

Tính phú quý, tốt đẹp: phúc lành (Hoàng Phúc, Đăng Phúc); an khang (Bảo Khang, Hữu Khang); cát lành (Quý Hiển, Phước Vinh)…

Truyền thống gia đình, tổ tiên: Chí Đức, Hữu Tài, Tiến Đạt, Duy Khoa, Trọng Kiên, Minh Triết
Kỳ vọng của cha mẹ với con cái như thành đạt, thông thái, bình an, hạnh phúc: Chí Đạt, Anh Tài, Minh Trí, Duy Nhất, Tùng Thọ…
Đặt tên cho con gái thì cần mang nhiều nghĩa thiên nữ tính, nữ đức, có sắc thái thể hiện sự hiền dịu, đằm thắm, đoan trang và tinh khiết. Tên con gái thường được đặt dựa trên:

Phẩm đức nữ giới về tài, đức, thục, hiền, dịu dàng, đoan trang, mỹ hạnh: Thục Hiền, Uyển Trinh, Tố Anh, Diệu Huyền…

Tên loài hoa: hoa lan (Ngọc Lan, Phương Lan), hoa huệ (Thu Huệ, Tố Huệ), hoa cúc (Hương Cúc, Thảo Cúc)…

Tên loài chim: chim Quyên (Ngọc Quyên, Ánh Quyên), chim Yến (Hải Yến, Cẩm Yến)…

Tên màu sắc: màu hồng (Lệ Hồng, Diệu Hồng), màu xanh (Mai Thanh, Ngân Thanh)…

Sự vật hiện tượng đẹp đẽ: Phong Nguyệt, Minh Hằng, Ánh Linh, Hoàng Ngân…

Danh sách tên con trai theo tiếng Trung hay

Bảo Huỳnh
Bảo Khánh
Bảo Lâm
Bảo Long
Bảo Pháp
Bảo Quốc
Bảo Sơn
Bảo Thạch
Bảo Thái
Bảo Tín
Bảo Toàn
Bích Nhã
Bình An
Bình Dân
Bình Đạt
Bịnh Định
Bình Dương
Bình Hoà
Bình Minh
Bình Nguyên
Bình Quân
Bình Thuận
Bình Yên
Bửu Chưởng
Bửu Diệp
Bửu Toại
Cảnh Tuấn
Cao Kỳ
Cao Minh
Cao Nghiệp
Cao Nguyên
Cao Nhân
Cao Phong
Cao Sĩ
Cao Sơn
Cao Sỹ
Cao Thọ
Cao Tiến Cát Tường
Cát Uy
Chấn Hùng
Chấn Hưng
Chấn Phong
Chánh Việt
CHế Phương
Chí Anh
Chí Bảo
Chí Công
Chí Dũng
Chí Hiếu
Chí Khang
Đắc Di
Đắc Lộ
Đắc Lực
Đắc Thái
Đắc Thành
Đắc Trọng
Đại Dương
Đại Hành
Đại Ngọc
Đại Thống
Dân Hiệp
Dân Khánh
Đan Quế
Đan Tâm
Đăng An
Đăng Đạt
Đăng Khánh
Đăng Khoa
Đăng Khương
Đăng Minh
Đăng Quang
Danh Nhân
Danh Sơn
Danh Thành
Danh Văn
Đạt Dũng
Đạt Hoà
Đình Chiểu
Đình CHương
Đình Cường
Đình Diệu
Đình Đôn
Đình Dương
Đình Hảo
Đình Hợp
Đình Kim
Đinh Lộc
Đình Lộc
Đình Luận
Định Lực
Định Nam
Đỉnh Ngân
Đỉnh Nguyên
Đỉnh Nhân
Đỉnh Phú
Đỉnh Phúc
Đình Quảng
Đình Sang
Định Siêu
Đình Thiện
ĐÌnh Toàn
Đức Tường
Dũng Trí
Dũng Việt
Dương Anh
Dương KHánh
Duy An
Duy Bảo
Duy Cẩn
Duy Cường
Duy Hải
Duy Hiền
Duy Hiếu
Duy Hoàng
Duy Hùng
Duy Khang
Duy Khánh
Duy Khiêm
Duy Kính
Duy Luận
Duy Mạnh
Duy Minh
Duy Ngôn
DUy Nhượng
Duy Quang
Duy Tâm
Duy Tân
Duy Thạch
Duy Thắng
Duy Thanh
Duy Thành
Duy Thông
Duy Tiếp
Duy Tuyền
Gia Ân
Gia Anh
Gia Bạch
Gia Bảo
Gia Bình
Gia Cẩn
Gia Giần

 

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn đặt tên tiếng trung cho con hay, ý nghĩa 2018 –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Có rất nhiều giấc mơ kỳ lạ, làm bạn lo lắng không biết liệu giấc mơ ấy có điềm báo gì không? Nằm mơ thấy nhẫn vàng có ý nghĩa gì? Đây cũng là một câu hỏi với bao lo lắng của nhiều người và chưa biết làm cách nào để giải mã giấc mơ ấy. Tuy nhiên không
Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy đeo nhẫn vàng có ý nghĩa gì? –

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Hội Đền Bà Chúa Kho,Hội Làng Tả Thanh Oai, Hội Chùa Hang, Hội Xuân Đền Thượng, Hội Chùa Bà Thiên Hậu Tổ chức vào ngày 14 tháng giêng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Các lễ hội tiêu biểu diễn ra trong ngày 14 tháng giêng:

1. Hội Làng Tả Thanh Oai

Thời gian: được tổ chức vào ngày 14 tới ngày 16 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn của Đô Hồ phu nhân và vua Lê Đại Hành.

Nội dung: Mở đầu hội là lễ tế thần, lễ rước, tiếp đó là các hoạt động vui chơi dân gian như: chơi cờ bỏi, cờ người, đập niêu, bắt vịt, hát trống quân nam nữ.

2. Hội Đền Bà Chúa Kho

Thời Gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: làng Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh.

Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn công danh của đức Bà Chúa Kho, Tứ phủ công đồng.

Nội dung: Tương truyền Bà Chúa Kho sau khi lấy nhà vua Lý, bà xin vua về vùng Vũ Ninh để chiêu dân lập ấp, khai khẩn ruộng hoang tổ chức sản xuất ở 72 trang ấp. Bà còn trông nom kho lương thực, bảo quản tốt quân lương trong và sau chiến thắng quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu) năm 1076. Khi bà qua đời, nhân dân đã lập đền thờ để ghi nhớ lại công ơn của bà. Quanh năm khách thực phương từ khắp mọi miền tới đây cầu bái rất đông, đặc biệt vào ngày hội là ngày 14 để cầu tài, cầu lộc và vay tiền Bà cho cả năm làm ăn.

3. Hội Chùa Hang

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: khu di tích lịch sữ Chùa Hang, thị trấn chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

Nội dung: Đến với hội lễ chùa Hang, du khách không chỉ được hòa mình vào không khí đông vui, náo nhiệt, khám phá hang sâu, leo núi chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên, mà còn có thể tham gia vào những trò chơi dân gian như: Ném còn, đi cầu thăng bằng, bịt mắt bắt dê, cờ tướng, ném cổ vịt, chọi gà, múa sạp...

4. Hội Xuân Đền Thượng

Thời gian: tổ chức vào ngày 14 tới ngày 15 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: Thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Đối tượng suy tôn: nhằm tôn vinh và ghi nhớ công đức của Thánh Thần đã đánh đuổi giặc Nguyên, giữ yên bờ cõi đất Việt.

Nội dung: Đền Thượng nằm trên đồi Hỏa Hiệu thành phố Lào Cai. Hội xuân đền Thượng tổ chức tại trung tâm văn hóa phường Lào Cai, đền Thượng và đền Mẫu. Nghi lễ gồm có khai hội, rước Thánh Mẫu cùng Thiên Hậu Nương, tế cào ngày 14, lễ tạ vào ngày 15 để mong cầu người yên vật thịnh.

Phần hội trình diễn các trò chơi dân gian và các trò chơi dân tộc thuộc miền núi như: ném còn, bắn cỏ, kéo co, đẩy gậy, vật dân tộc, chọi gà, đu quay... Trong ngày hội xuân người ta còn bán các đồ lưu niệm thổ cẩm phong phú và đẹp mắt, sản phẩm địa phương do các cô gái dân tộc Mông, Dao, Thái... xe lanh, dệt thổ cẩm, thêu thùa.

5. Hội Chùa Bà Thiên Hậu

Thời gian: tổ chức từ ngày 14 tới ngày 15 tháng 1 âm lịch.

Địa điểm: số 4, đường Nguyễn Du, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn và tưởng nhớ tới Bà Thiên Hậu.

Nội dung: Lễ hội chùa Bà diễn ra trong hai ngày, hàng vạn người đến từ khắp nơi trong cả nước kéo về chợ Thủ cúng bái, vay tiền làm ăn, trả lễ tiền vay trước và rước hương lộc về nhà.

Lễ cúng Bà được tiến hành vào lúc nửa đêm 14 rạng sáng 15. Vị chánh tế chủ trì buổi lễ do bốn bang người Hoa ở thị xã Thủ Dầu Một cử ra theo thể thức luân phiên từng năm.

Vào ngày hội, chùa được trang hoàng cờ xí, đèn lồng rực rỡ từ tham quan đến điện thờ bằng 12 chiếc đèn lồng tượng trưng cho 12 tháng trong năm, kết thúc hội được bán đấu giá lấy tiền làm từ thiện.

Ngoài ra, ở hội còn có đội múa lân, sư tử, hầu các nơi về thi múa, hóa trang mặt nạ, vừa múa vừa đấu võ. Cuối hội là lễ rước kiệu Bà rầm rộ diễu hành qua các phố trong thị xã.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các lễ hội ngày 14 tháng 1 Âm Lịch - Hội Đền Bà Chúa Kho

Kiêng mở cửa hàng trên đường dốc –

Thông thường nền đất của cửa hàng phải ngang bằng với mặt đường cái. Điều này có lợi cho việc khách hàng ra vào dễ dàng, là vị trí lý tưởng cho kinh doanh. Tuy nhiên cũng có những trường hợp ngoại lệ. Có hai loại thường gặp: Một là mở cửa hàng trên đ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ường dốc. Hai là nền cửa hàng và nền của mặt đường chênh lệch, mấp mô không bằng phẳng, thấp hơn mặt đường.

1. Cửa hàng nằm trên đường dốc

cua-hang-cao-hon-duong

Thông thường mọi người đều cho rằng không nên mờ cửa hàng ở vị trí này. Theo thuyết phong thủy, các loại khí tràn từ trên cao xuống khó mà dừng lại ở nơi đường dốc nên cửa hàng khó tụ được tài khí trong nhà. Xét theo thực tế, xe cộ đang trên đà đi xuống nên không dễ dàng dừng xe, nếu không phải là điếu bất đắc dĩ thì chẳng ai dừng xe trên đường dốc cả.

Tuy nhiên có một số cửa hàng lại gặp phải trường hợp như vậy. Nếu tình hình bắt buộc phải chọn thì nên suy nghĩ kỹ và thiết kế làm sao cho cổng vào của cửa hàng nằm ở vị trí thích hợp giữa cửa hàng và mặt đường để tiện cho khách ra vào. Ngoài ra cách bày trí cửa sổ, hành lang, bày biện hàng hóa phải thuận tiện nhất cho khách hàng chọn lựa.

2. Nền nhà của cửa hàng thấp hơn mặt đường

cua-hang-thap-hon-duong

Trường hợp này cũng coi là vị trí địa lý không thích hợp cho việc mở cửa hàng. Bởi vì, các cửa hàng như vậy thường có âm khí rất nặng dù được ánh sáng của đèn (hoặc của những đồ vật phát quang) bổ sung, nhưng cũng rất khó thay đổi được trạng thái, đồng thời thế đứng của cửa hàng sẽ gây cho người chủ và khách hàng cảm giác ức chế hoặc lửng lơ, lêu dần sẽ không có lợi.

Nhưng đối với thành phố, mỗi tấc đất là một tấc vàng, có được một khoảng đất để mờ cửa hàng cũng chẳng dễ dàng gì. Gặp phải trường hợp này thì nên đặc biệt chú ý tới việc thiết kế cổng của cửa hàng, trần nhà cho bắt mắt để thu hút khách hàng ra vào cửa hàng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng mở cửa hàng trên đường dốc –

Sinh hoạt chuẩn ngũ hành cho cơ thể luôn khỏe mạnh

Từ khoảng 23 giờ, một số người bỗng cảm thấy tỉnh táo lạ thường, hoặc cũng có người lại cảm thấy vô cùng đói bụng... vì lúc này dương khí bắt đầu phát tác.
Sinh hoạt chuẩn ngũ hành cho cơ thể luôn khỏe mạnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Trong cuộc sống có một số hiện tượng kỳ lạ: Từ khoảng 23 giờ, một số người bỗng cảm thấy tỉnh táo lạ thường, hoặc cũng có người lại cảm thấy vô cùng đói bụng... tại sao lại như vậy? Vì đó là lúc dương khí bắt đầu phát tác, gây ham muốn bù đắp lượng khí bị thiếu trong cơ thể. Dưỡng sinh theo ngũ hành có tác dụng rất tốt tới sức khoẻ của bạn.

Sinh hoat chuan ngu hanh cho co the luon khoe manh hinh anh goc
 

► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Hà Xuyên

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sinh hoạt chuẩn ngũ hành cho cơ thể luôn khỏe mạnh

Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Nạp âm của ngũ hành Kim có 6 đại diện là Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạc Kim, Bạch Lạp Kim, Thoa Xuyến Kim, Hải Trung Kim. Xem ý nghĩa các nạp âm của Ngũ
Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nạp âm của ngũ hành Kim có 6 đại diện là Sa Trung Kim, Kiếm Phong Kim, Kim Bạc Kim, Bạch Lạp Kim, Thoa Xuyến Kim, Hải Trung Kim.

 
Ngu hanh Kim - Tong hop y nghia cac nap am  hinh anh
 
Kiếm, Sa Kim phong lưỡng ban kim Mộc mệnh nhược phòng tức khắc hiềm Ngoại hữu tứ Kim giải kỵ Hỏa Kiếm sa vô Hỏa bất thành hình.

 
Ngũ hành Kim gặp Hỏa thì thành Thủy mà trở thành đồ dùng hữu dụng. Kim gặp Thủy thì sinh, Thủy nhiều thì Kim chìm, mà Kim mạnh thì thành Thủy, danh lợi lưỡng toàn. Kim khắc Mộc, Mộc nhiều thì Kim khuyết, Mộc yếu thì Kim mạnh tất trở nên sắc bén. Kim sống nhờ vào Thổ, Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp, Thổ sinh Kim mà Kim nhiều thì Thổ tất thay đổi.  

1. Hải Trung Kim - Vàng dưới biển


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Tý, Ất Sửu là Hải Trung Kim, Tý thuộc Thủy lại là hồ nên vượng Thủy, lại có thêm Kim tử bởi Tý, mộ của Sửu nên Thủy vượng mà Kim tử vì thế gọi là Vàng dưới biển". 
Hải Trung kim giấu khí, có tên mà vô hình, giống như một bào thai trong bụng mẹ, tên có Kim nhưng thực chất lại không có Kim, bị vùi lấp giữa đại dương mênh mông. Giống như Long Cung cất giấu bảo vật, hoài thai long tru trong bụng đang đợi người đến khai thác, phát hiện thì mới thành bảo ngọc.
 Hải Trung Kim trong ngũ hành Kim còn mang ý nghĩa khoáng kim bị cất giấu dưới đáy biển, thi thoảng sẽ phát ra những ánh sáng óng ánh nhưng vì giữa đại dương xa xôi nên còn chờ người có duyên mới phát hiện được.
 

2. Kim Bạc Kim - Vàng pha bạc


Đào Tông Ngại viết: "Nhâm Dần, Quý Mão là Kim Bạc Kim, Dần Mão vượng Thổ, Thổ vượng Kim tất suy, nay Kim lại tuyệt tự tại Dần, hoài thai tại Mão nên Kim bất lực còn gọi Vàng pha bạc". 
Kim Bạc Kim được rèn luyện mà trở thành những tấm kim mỏng manh, vừa mỏng vừa yếu nên sức dẻo dai rất mạnh, thường được dùng để dán ở tượng Phật hoặc các loại vũ khí khiến vẻ bề ngoài trở nên đẹp đẽ lung linh và cũng làm tăng lên giá trị của đồ vật đó.
Giống như một người thích mua thể diện, trang trí vẻ tài lộc bên ngoài của mình vậy, có chút hư vô, xa hoa không chân thật.
 

3. Bạch Lạp Kim - Vàng chân đèn


Đào Tông Ngại viết: "Canh Thìn, Tân Tỵ là Bạch Lạp Kim, Kim được dưỡng từ Thìn, sinh từ Tỵ hình thành sơ chất Kim ban đầu nên chưa thể cứng rắn nên gọi là Vàng chân đèn". 
Bạch Lạp Kim là Kim trong khoáng, Kim khí vừa hình thành nên còn yếu, Bạch Lạp Kim còn là hợp kim từ kim cương nên có thể xuyên qua những đồ thuộc Kim. Bạch Lạp Kim như viên thạch ngọc trải qua rèn rũa trong khoáng thạch “đắm chìm trong ánh sáng của nhật nguyệt, tụ khí âm dương đất trời” nên hình thành thể ánh sáng là màu thuần chất của Kim.
 

4. Sau Trung Kim - Vàng trong cát


Đào Tông Ngại viết: "Giáp Ngọ, Ất Mùi là Sa Trung Kim, Ngọ là đất vượng Hỏa, Mùi là đất tang Hỏa, Hỏa tang thì Kim nhỏ giọt, bại mà nhỏ bé không thể thịnh vượng nên gọi là Vàng trong cát". 
Vàng trong cát do Kim khí mà thành chỉ có thể trà trộn vào cát, Kim chất cứng hơn cát chất, hai loại hòa trộn nên nếu chỉ có Kim thì khiêm tốn nhỏ bé, không thể mạnh mẽ mà có thêm cát thì bạc nhược yếu mềm, chỉ một cơn gió là xóa nhòa tất cả.
Sa Trung Kim thực chất không ổn định  vì có quá nhiều tư duy vụn vặt, như một người cá tính hay thay đổi vậy.
 

5. Kiếm Phong Kim - Vàng mũi kiếm


Đào Tông Ngại viết trong ngũ hành Kim: "Nhâm Thân, Quý Dậu là Kiếm Phong Kim, Thân Dậu là Kim chính vị, lại kiêm thêm Quan, Thân là vượng đế, Dậu Kim sinh vượng trở nên cứng rắn vô địch như kiếm, nên gọi là Vàng mũi kiếm". 
Trong ngũ hành nạp âm thì Kiếm Phong Kim có Kim khí thịnh nhất nên rất sắc bén, sắc đến độ lộ phong khí. Kiếm Phong Kim sắc bén nên cũng kinh qua trăm đao ngàn trảm, ánh kiếm vung vạn trượng, kiếm khí bức chết người.
Một thanh kiếm vị trí sắc bén nhất chính là mũi kiếm, trong đó chính vị của Kim là Thân Dậu cũng chính là nơi sắc bén nhất, Kim vượng thì mới mạnh giống như một người háo thắng, thích lấn lướt tranh luận, chỉ cần vui vẻ là có thể hòa nhập.
 

6. Thoa Xuyến Kim - Vàng trang sức


Đào Tông Ngại viết: "Canh Tuất, Tân Hợi là Thoa Xuyến Kim, Kim bức Tuất thành tang, bức Hợi thành bênh, Kim mang bệnh tật mà trở nên yếu đuối nên gọi là Vàng trang sức".
Thoa Xuyến Kim là trang sức làm từ Kim, nên có Kim khí ẩn giấu, chỉ có hình thù biến đổi không còn là Kim ương ngạnh nữa. Thoa là vòng tay vòng cổ, Xuyến là trang sức chuyên cho khuê các nhà giàu dùng từ xưa, tất cả đều tịnh, thanh, mang khí chất thanh tú diễm lệ. Như một tiểu thư khuê các nhìn có vẻ yếu đuối nhưng bên trong lại mạnh mẽ kiên cường.

► Tham khảo thêm: Mệnh Kim hợp màu gì?

Góc trắng tinh khôi cho chủ nhà mệnh Kim
Lichngaytot.com
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ngũ hành Kim - Tổng hợp ý nghĩa các nạp âm

Cải thiện phong thủy phòng làm việc không có cửa sổ

Ngay cả khi không có một văn phòng ở vị trí đẹp, bạn vẫn có thể có một không gian phong thủy tốt. Nếu phải làm việc trong một văn phòng nhỏ, không có cửa sổ, 3
Cải thiện phong thủy phòng làm việc không có cửa sổ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Ngay cả khi không có một văn phòng ở vị trí đẹp, bạn vẫn có thể có một không gian phong thủy tốt. Nếu phải làm việc trong một văn phòng nhỏ, không có cửa sổ, 3 lời khuyên phong thủy dưới đây sẽ giúp bạn cải thiện nó.

  1. Đảm bảo không khí được thông thoáng và lắp đèn chất lượng tốt. Không có cửa sổ thì bạn hãy thường xuyên mở rộng cửa chính để các luồng khí lưu thông hoặc dùng máy lọc khí, máy phun sương trong phòng. Đồng thời sử dụng một chút tinh dầu bạch đàn, bạc hà hoặc cam thảo. Ánh sáng từ những chiếc đèn quang phổ rực rỡ chắc chắn có giá trị phong thủy hơn một nguồn sáng tù mù. Bạn cũng có thể sơn lại tường bằng các gam màu nổi bật với tông màu không quá chói mắt như vàng tươi, đỏ, cam,…
 
2. Căn phòng bé và không có cửa sổ tạo cảm giác ngột ngạt, cải thiện nó bằng những bức tranh nghệ thuật sinh động. Không cần đắt tiền nhưng chúng phải thật sôi nổi, mạnh mẽ, táo bạo, đủ để thay đổi cảm giác tồi tệ trên. Hay công phu hơn, vẽ một bức tranh tường quang cảnh tươi vui sẽ đem đến cho bạn nhiều bất ngờ đấy.
Cai thien phong thuy phong lam viec khong co cua so hinh anh
 
3. Đặt bàn làm việc ở vị trí sao tốt sẽ giúp bạn nhận được sự hẫu thuẫn về phong thủy. Ngôi sao tốt sẽ bảo vệ năng lượng của bạn và hỗ trợ nguồn năng lượng đó phát huy tác dụng tốt hơn.
 
4. Ngoài ra, khi làm việc lâu trong một văn phòng nhỏ không có cửa sổ, cơ thể bạn sẽ thèm khát năng lượng rộng lớn chỉ có sẵn trong tự nhiên, bổ sung các yếu tố lửa, nước và gỗ vào không gian.
ST

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cải thiện phong thủy phòng làm việc không có cửa sổ

Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Mặc dù có nhiều điểm khác biệt nhưng Tý và Tuất vẫn kết hợp khá ăn ý. Tý thích xung quanh có nhiều bạn bè thân còn với Tuất, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa nếu không có sự trung thành. Đáng tin, khôn ngoan và có trách nhiệm, tuổi Tuất là người bạn tuyệt
Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Tý và tuổi Tuất có hợp nhau không? –

Xem tướng lông mày nam –

Theo nhân tướng học, lông mày không chỉ thể hiện tính tình, vận mệnh mà còn có mối liên hệ nhân duyên với một người nào đó. Nhìn vào lông mày của nam giới, người ta có thể đoán được nhan sắc của người vợ sau này dựa theo những đặc điểm dưới đây. - Lô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo nhân tướng học, lông mày không chỉ thể hiện tính tình, vận mệnh mà còn có mối liên hệ nhân duyên với một người nào đó.

Nhìn vào lông mày của nam giới, người ta có thể đoán được nhan sắc của người vợ sau này dựa theo những đặc điểm dưới đây.

dan-ong-dep-tu-ti-bacsigiadinh41

– Lông mày sáng bóng lấy được vợ đẹp; khô khan, tối tăm lấy vợ xấu.

– Gian môn (phần nằm ở đuôi lông mày và đuôi mắt kéo dài đến chân mai) lõm sụt tối tăm, lông mày và mắt không cân xứng: lấy vợ bình thường.

– Gian môn đầy đặn, lông mày và mắt không cân xứng hoặc lông mày và mắt cân xứng nhưng gian môn không đầy đặn: lấy vợ bình thường.

– Lông mày sáng nhưng không tốt hoặc ngược lại thì lấy vợ bình thường.

– Lông mày có đường nét và sáng tươi, da của vợ trắng. Lông mày khô, nhạt, tối tăm thì da của vợ đen.

– Lông mày rậm, rộng, vượt quá mắt thì mặt của vợ tròn, mắt to, người mập.

long-may1

– Lông mày rậm, đầu nhạt hơn đuôi thì vợ có khuôn mặt hình chữ thân (cằm nhọn, trán nhọn và gò má to).

– Lông mày dài hơn mắt: vợ có khuôn mặt dài.

– Lông mày không dài quá mắt: vợ có khuôn mặt ngắn.

– Lông mày bên cao bên thấp thì trong nhà không có vợ hiền.

– Lông mày nhỏ: mắt tròn to thì vợ gầy.

– Mắt nhỏ, lông mày đậm thì vợ mập hơn chồng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng lông mày nam –

10 lời khuyên phong thủy giúp dân công sở dễ dàng thăng quan tiến chức

Phong thủy có vai trò rất lớn trong cuộc sống, đặc biệt là trong sự nghiệp, cùng làm vài thay đổi nhỏ về phong thủy để xem vận thế của bạn nơi công sở có khác đi không nhé.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Sau lưng có điểm tựa vững chắc mới dễ thăng tiến
Khi bố trí bàn làm việc nên ngồi xoay lưng lại với tường hoặc vách chắc chắn, nếu sau lưng có đường đi thì con đường thăng tiến không được ổn định lắm, tinh thần cũng dễ bất an, lo lắng. Nếu sau lưng không có tường, vách có thể đặt bàn hoặc tủ sau lưng để hóa giải.     2. Trước mặt thoáng đãng, tiền đồ rộng mở
Phía trước bàn làm việc cần có khoảng trống rộng rãi, tránh không gian bí bách, nhỏ hẹp, như vậy thì càng dễ thăng quan tiến chức. Nếu trước mặt là bức tường thì tiền đồ của bạn giống như bị bức tường chặn đứng, vận khí rất khó để mở rộng.   3. Bên cạnh không có lối đi thì con đường thăng chức thuận lợi
Bên trái và bên phải bàn làm việc không được có lối đi nếu không con đường công danh sẽ gặp nhiều trắc trở, khó khăn.     4. Chính diện đối diện với cột trụ, làm việc dễ gặp sai sót
Nếu bàn làm việc của bạn trực diện với cột trụ thì vận khí bị chặn đứng, làm việc rất dễ gặp sai lầm, phán đoán thiếu chính xác và cũng dễ mắc bệnh đau đầu.
5. Chỗ ngồi cách cửa quá gần, hiệu suất kém

Trong văn phòng những người có chức vụ càng cao thì càng ngồi cách xa cửa ra vào. Vị trí làm việc không nên quá gần cửa ra vào nếu không hiệu suất sẽ không cao, khó phát huy được năng lực của bản thân và công việc dễ bị tác động không tốt bởi ngoại cảnh.     6. Tránh ngồi đối diện với cửa ra vào
Bàn làm việc tránh đặt đối diện với cửa ra vào, ngồi ở vị trí này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, dễ bị đau đầu. Công việc cũng gặp phải những tai ương không ngờ đến. Nên đặt một bức bình phong hoặc tủ thấp để ngăn cách giữa bàn làm việc với cửa ra vào để giảm bớt luồng khí tiêu cực.   7. Tránh ngồi dưới dầm ngang trên xà nhà
Nếu bàn làm việc đặt ngay dưới dầm ngang thì công việc dễ bị xáo trộn, làm việc dễ gặp sai sót. Nên dịch chuyển vị trí tránh xa xà ngang để công việc thuận lợi và suôn sẻ hơn.   8. Tránh ngồi ở chỗ bị đường đi cắt góc
Chỗ ngồi không nên đặt ở chỗ bị đường đi cắt vào, ngồi những vị trí như vậy sẽ ít gặp thuận lợi trong công việc, quan hệ với đồng nghiệp cũng không được tốt, dễ mâu thuẫn.   9. Phòng tài vụ nên ở nơi kín đáo, ít người qua lại
Những vị trí có lượng tiền mặt xuất nhập hàng ngày nên đặt ở nơi kín đáo, ít người nhòm ngó như vậy thu nhập mới ổn định, ít chịu tác động xấu, tránh thất thoát.     10. Bàn làm việc của sếp phải to hơn bàn làm việc của nhân viên
Thông thường bàn làm việc của cấp trên cần to, rộng hơn bàn làm việc của cấp dưới, như vậy sẽ mang lại nhiều tài lộc cho cấp trên và sẽ thuận lợi hơn trong việc chỉ đạo nhân viên. Nếu bàn không đủ rộng, có thể đặt vài tủ nhỏ bên cạnh để tăng vận khí.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 10 lời khuyên phong thủy giúp dân công sở dễ dàng thăng quan tiến chức

Giờ dần là mấy giờ liệu bạn có biết?

Như vậy để trả lời câu hỏi “giờ dần là từ mấy giờ đến mấy giờ” bạn có thể đưa ra câu trả lời chính xác khi nhìn vào bảng trên. Giờ dần nằm trong khoảng từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi xem các bộ phim ngày xưa đặc biệt là phim kiếm hiệp Trung Quốc, bạn thường thấy người ta tính giờ theo 12 con giáp, giờ thìn, tý, giờ ngọ, chính ngọ... Tuy nhiên bạn chẳng thể nào xác định được chính xác giờ tí thì vào giờ nào mà giờ dần là mấy giờ. Để bổ sung thêm kiến thức về cách tính giờ theo 12 con giáp chúng ta hãy cùng tìm hiểu ngay sau đây nhé.

Giờ dần là mấy giờ liệu bạn có biết?

Xem thêm những bài viết khác:

+ Giờ Dậu là mấy giờ?

+ Giờ Hợi là mấy giờ?

Giờ dần là mấy giờ?

Để biết giờ dần là mấy giờ, giờ dậu là mấy giờ, chỉ cần nhìn bảng sau đây, chúng ta sẽ có câu trả lời một cách chính xác nhất.

 

Giờ

Thời Gian

Giờ

Thời Gian

Tý - chuột

Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng

Ngọ - ngựa

Từ 11 giờ đến 13 giờ trưa

Sửu - trâu

Từ 1 giờ đến 3 giờ sáng

Mùi - dê

Từ 13 giờ đến15 giờ xế trưa

Dần - hổ

Từ 3 giờ đến 5 giờ sáng

Thân - khỉ

Từ 15 giờ đến 17 giờ chiều

Mão - mèo

Từ 5 giờ đến 7 giờ sáng

Dậu - gà

Từ 17 giờ đến 19 giờ tối

Thìn - rồng

Từ 7 giờ đến 9 giờ sáng

Tuất - chó

Từ 19 giờ đến 21 giờ tối

Tỵ - rắn

Từ 9 giờ đến 11 giờ sáng

Hợi - lợn

Từ 21 giờ đến 23 giờ khuya

 

Như vậy để trả lời câu hỏi “giờ dần là từ mấy giờ đến mấy giờ” bạn có thể đưa ra câu trả lời chính xác khi nhìn vào bảng trên. Giờ dần nằm trong khoảng từ 3 giờ sáng đến 5 giờ sáng. Ngoài ra khi được hỏi về các giờ tý, sửu, tỵ, ngọ, mùi....chúng ta cũng sẽ đưa được ra câu trả lời một cách dễ dàng.

Người sinh giờ dần thì sao?

Người xưa có câu “Tuổi thân thì mặc tuổi thân (ý tuổi thân là những người vất vả, cao số), đẻ vào giờ dần cũng sướng như tiên”. Và vì thế nhiều người cho rằng nhiều người khi sinh ra để vào giờ dần sẽ cực kỳ sung sướng và thành công. Tuy nhiên sự thật có đúng như vậy không? Hãy cùng xem những kinh nghiệm được đúc rút ra thành bài thơ sau đây:

1. Người sinh đầu giờ dần – khoảng từ 3 giờ sáng đến 4 giờ sáng

Bạn nào sinh đầu giờ DẦN:

Sinh ra cha đã mất rồi

Tiền vận vất vả hãy chờ vận sau

Ngoài ba mươi tuổi sắp lên

Tuổi già được hưởng mười phần hiển vinh

2. Sinh giữa giờ dần – 4 giờ sáng

Bạn nào sinh giữa giờ DẦN:

SInh ra có số giàu sang

Ba mươi tuổi đã vẻ vang hơn người

Anh em vui vẻ thuận hòa

Gia môn yên ổn, cháu con sum vầy

3. Sinh cuối giờ dần – 4 giờ đến 5 giờ sáng

Bạn nào sinh vào cuối giờ DẦN:

Sinh ra thiếu mẹ còn cha

Tuổi thơ gặp cảnh gian khổ trăm bề

Ba mươi sáu tuổi lập thân

Vợ con sớm có mà rồi lại như không

Bên trên là một vài điều cần biết về giờ Dần cũng như những người sinh vào giờ dần. Mấy câu thơ trên không phải ứng với ai cũng là chính xác, mỗi người có một số phận giàu sang khác nhau, tuy nhiên đó là  đúc rút kinh nghiệm của các cụ ta trong nhiều đời, bạn có thể tham khảo để xem bản thân, số phận mình có giống phần nào đó hay không nhé.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giờ dần là mấy giờ liệu bạn có biết?

Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh - Đặt tên cho con - Xem Tử Vi

Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh, Đặt tên cho con, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh, tu vi Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh, tu vi Đặt tên cho con

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh

Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh mang lại may mắn tài lộc cho bé sau này. Đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh

Đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh

Để tìm một cái tên hay hợp Phong thủy và hợp mệnh hợp tuổi bố mẹ phải trải qua rất nhiều bước. Ở bài này, BOI.VN chỉ hướng dẫn các bạn cách đặt tên cho BÉ TRAI sinh vào tháng 4 và tháng 5 âm lịch. Có 4 bước cần làm:

*Hợp tuổi (năm Ất Mùi)

*Hợp mùa sinh (sinh trong tháng 4, 5 âm lịch)

*Tên lót và tên có ngũ hành thuận sinh

 

*Ý nghĩa cát tường.

Dưới đây là danh sách các tên cho bé trai được sắp xếp theo thứ tự Alphabet hợp mùa sinh:

STT

Tên Bé trai
1 Anh Bảo
2 Chi Bảo
3 Quý Bình
4 Thái Bình
5 Minh Hảo
6 Nguyên Hảo
7 Quang Hiển
8 Quốc Hiển
9 Khánh Hoàng
10 Minh Hoàng
11 Hữu Hòa
12 Khải Hòa
13 Nguyên Huân
14 Phụng Huân
15 Sỹ Hùng
16 Thanh Hùng
17 Dĩnh Hưng
18 Gia Hưng
19 Thành Hữu
20 Tuấn Hữu
21 Phước Mẫn
22 Quốc Mẫn
23 Gia Phát
24 Ngọc Phát
25 Bảo Phi
26 Cát Phi
27 Hải Phụng
28 Sỹ Phụng
29 Hoàng Phước
30 Minh Phước

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn đặt tên cho bé trai sinh tháng 4 và 5 năm 2015 âm lịch hợp mùa sinh - Đặt tên cho con -...

Phong thủy sim –

Sim phong thủy là một sim số đẹp được tính toán theo các nguyên tắc cổ học Phương Đông để tìm ra được một sim số đẹp nhất hợp tuổi của mỗi người. Phong thủy vốn là môn khoa học áp dụng những nguyên tắc kinh điển của cổ học Phương Đông trong việc điều

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chỉnh các không gian, các luồng khí trong nhà. v.v… Theo Thuật số Phương Đông, vạn vật tồn tại và phát triển chi phối bởi quy luật Âm Dương và Ngũ Hành.

sim-phong-thuy-cac-loai

Một sim phong thủy được gọi là đẹp bắt buộc phải hội tụ đầy đủ 5 yếu tố sau đây:
+ Dãy số phải cân bằng số chẵn (0,2,4,6,8) và số lẻ (1,3,5,7,9)
+ Tổng điểm trong dãy 10 chữ số (số nút) cao
+ Ngũ hành trong dãy số tương sinh phải nhiều hơn tương khắc
+ Ngũ hành của dãy số phải hợp với mệnh của người dùng (Kim , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)
+ Dựa vào Cửu Tinh Đồ Pháp (Yếu tố mang tính trừu tượng)

Cũng vì yếu tố thứ 5 dựa vào Cửu Tinh Đồ Pháp mang tính trừu tượng mỗi người với mỗi quan điểm khác nhau mà Sim Phong Thủy gần như không có sim đạt điểm hoàn hảo 10đ. Với 5 yếu tố ngặt nghèo trên đây thì việc chọn được một số điện thoại hợp Phong Thủy là rất khó khăn. Một số điện thoại Phong Thủy vượt lên trên giá trị của sim số đẹp chưa biết sim phong thủy có mang ngay lại tài lộc tức thì không nhưng chắc hẳn nó tạo sự yên tâm, cầu an lành, lòng thanh thản vì mình đã chọn một số điện thoại hội tụ đầy đủ những yếu tố khắt khe mang cả tính tâm linh hay trừu tượng.

Có nhiều cách để chọn sim phong thủy hợp với từng người nhưng phần đa số mọi người hay các chuyên gia phong thủy quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề như Âm dương, Ngũ hành và Quái khí

Có thể hiểu và chọn sim số đẹp theo các phương cách sau:

Ngũ hành: Mỗi con số cũng đều có bản mệnh riêng, có số mệnh KIM và cũng có đủ số mệnh MỘC, THỦY, HỎA, THỔ.
Phải chọn sim làm sao cho tương sinh với ngũ hành của thân chủ, Tuyệt không chọn số tương khắc

Âm dương: Âm dương cũng không kém phần quan trọng trong phong thủy sim.
Giống như cha trời, mẹ đất phải cân bằng và hòa hợp thì vạn vật mới sinh sôi nảy nở
Trong dãy số…các con số mạng vận âm dương, chẵn lẻ phải tương đối cân bằng.

Thiên thời: Ai cũng biết Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa là những yếu tố may mắn và hỗ trợ rất lớn đến thành công.
Chúng ta đang sống trong giai đoạn nào? Sao nào quản sẽ tạo nên những số có Vượng khí.
Trong dãy số cần có số là vượng khí thì mới có được thiên thời

Quái khí: Mỗi dãy số đều ứng với 1 quẻ khác nhau, có quẻ mang điềm hung là xấu nhưng cũng có quẻ mang điềm cát.
Sẽ rất tốt nếu chọn được số điện thoại ứng với quẻ mang điềm cát. Bạn có thể chọn số ứng với quẻ bình thường (không xấu, không tốt) chứ tuyệt đối không nên chọn số mang điềm hung, ghở.

Quan niệm: Dùng số điện thoại cũng theo quan niệm xã hội mà tạo nên đẹp xấu.
Không thể chọn 1 sim phong thủy cao mà xấu, khó nhớ. Những số được xã hội đề cao như: Tứ quý (8888) – Lộc phát (68, 86) – Thần tài (39, 79) với quan niệm sẽ may mắn rất được ưa chuộng hiện nay.

Hướng dẫn : cách chọn sim số đẹp phong thủy hợp tuổi, hợp mệnh.
Đầu tiên, bạn nên biết mình thuộc mệnh nào trước khi chọn những con số để hợp với bản mệnh.

Những năm sinh thuộc mệnh kim
Nhâm Thân 1932 – Quý Dậu 1933; Canh Thìn 1940 – Tân Tỵ 1941; Giáp Ngọ 1954 – Ất Mùi 1955; Nhâm Dần 1962 – Quý Mão 1963; Canh Tuất 1970 – Tân Hợi 1971; Giáp Tý 1984 – Ất Sửu 1985; Nhâm Thân 1992 – Quý dậu 1993

Những năm sinh thuộc mệnh thủy
Bính Tý 1936 – Đinh Sửu 1937; Giáp Thân 1944 – Ất Dậu 1945; Nhâm Thìn 1952 – Quý Tỵ 1953; Bính Ngọ 1966 – Đinh Mùi 1967; Giáp Dần 1974 – Ất Mão 1975; Nhâm Tuất 1982 – Quý Hợi 1983; Bính Tý 1996 – Đinh Sửu 1997

Những năm sinh thuộc mệnh mộc
Nhâm Ngọ 1942 – Quý Mùi 1943; Canh Dần 1950 – Tân Mão 1951; Mậu Tuất 1958 – Kỷ Hợi 1959; Nhâm Tý 1972 – Quý Sửu 1973; Canh Thân 1980 – Tân Dậu 1981; Mậu Thìn 1988 – Kỷ Tỵ 1989;

Những năm sinh thuộc mệnh hỏa
Giáp Tuất 1934 – Ất Hợi 1935; Mậu Tý 1948 – Kỷ Sửu 1949; Bính Thân 1956 – Đinh Dậu 1957; Giáp Thìn 1964 – Ất Tỵ 1965; Mậu Ngọ 1978 – Kỷ Mùi 1979; Bính Dần 1986 – Đinh Mão 1987;  Giáp Tuất 1994 – Ất Hợi 1995

Những năm sinh thuộc mệnh thổ
Mậu Dần 1938 – Kỷ Mão 1939; Bính Tuất 1946 – Đinh Hợi 1947; Canh Tý 1960 – Tân Sửu 1961; Mậu Thân 1968 – Kỷ Dậu 1969; Bính Thìn 1976 – Đinh Tỵ 1977; Canh Ngọ 1990 – Tân Mùi 1991; Mậu Dần 1998 – Kỷ Mão 1999.

Tiếp theo bạn nên hiểu về mệnh của những con số:
Số 1 – số 9 – số 2 : Mệnh Kim
Số 4 – số 5 : Mệnh Mộc
Số 6 : Mệnh Thủy
Số 7 –  số 8 : Mệnh Thổ
Số 3 : Mệnh Hỏa

Phong thủy chính là môn khoa học không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày, chỉ có những người có sự hiểu biết về lĩnh vực phong thủy, mới đánh giá và hiểu biết hết giá trị của sim số đẹp theo phong thủy. Vì hàng trăm sim số đẹp mới chọn được một vài sim phong thủy. Có thể nói sim phong thủy vượt lên giá trị của sim số đẹp đóng vai trò như chiếc bùa linh nghiệm, cầu an phước lành,mang lại sự bình yên trong cuộc sống hàng ngày, cho người sử dụng.

Chính vì sim phong thủy phải tuân thủ theo những chuẩn mực riêng nên việc tìm được một sim phong thủy hợp tuổi, hợp mệnh với mỗi người là rất khó, chính vì thế các bạn có thể tìm những nơi biết về thuật phong thủy để được tư vấn riêng thì sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm một chiếc sim phong thủy để gặp những điều may mắn và thuận lợi trong công việc kinh doanh cũng như trong cuộc sống. Ngoài ra bạn cũng có thể xem điểm tìm sim hợp phong thủy bằng các công cụ auto để chấm điểm sim phong thủy trên các trang web nhưng cách này có độ chính xác không cao và dễ gây lầm tưởng mê tín cho người xem.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy sim –

Cát thần và hung sát

Trong việc dự đoán tứ trụ, tổ hợp tứ trụ nào có cát tinh được xem là tốt, tổ hợp nào có hung tinh thì bị coi là xấu. Tuy nhiên, có nhiều thần sát vừa có cát
Cát thần và hung sát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong việc dự đoán tứ trụ, tổ hợp tứ trụ nào có cát tinh được xem là tốt, tổ hợp nào có hung tinh thì bị coi là xấu. Tuy nhiên, có nhiều thần sát vừa có cát lại vừa có hung, do đó cần xem xét mối tương quan giữa các thần sát để dự đoán cát hung cho tổ hợp tứ trụ.

Người có nhiều thần sát là mệnh cục tương đối phức tạp, nhưng nếu tổ hợp tứ trụ tốt lại phối hợp với thần sát thì người đó thường là bậc siêu quần xuất chúng. Người bình thường thì thần sát không nhiều và việc dự đoán càng đơn giản.

Chữ "Phúc"

Ngoài ra, sát hay hung ở thần sát cũng không phải là tuyệt đối, chỉ có thể nói rằng một thần nào đó lấy cát làm chính, một sát nào đó lấy hung làm chính. Cát thần mà gặp phải hình xung khắc hại thì cũng không có tác dụng gì; hung sát mà bị chế hợp không đủ sức làm hại thì cũng không đáng sợ.

Trong mệnh cục, nếu người nào gặp được cát thần thì cả cuộc đời thuận lợi. Trong vận, trong năm gặp được cát thần thì đã tốt càng thêm tốt. Trong tứ trụ kỵ gặp phải hung thần vì như thế cả cuộc đời hay bị tai họa. Trong vận, trong năm gặp phải hung thần thì hung càng thêm hung.

(Theo Dự đoán theo tứ trụ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cát thần và hung sát

Người xưa dạy 10 cách nhìn người, chuẩn xác, không thể bỏ qua

Nghe cách nói, nhìn, dùng thời gian để nhìn người là ám chỉ sự quan sát lâu dài, không phải là ngay từ lần đầu gặp mặt đã vội vàng đưa ra kết luận tốt xấu
Người xưa dạy 10 cách nhìn người, chuẩn xác, không thể bỏ qua

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhìn người bằng cách nghe cách nói, nhìn cách thức và sự biểu lộ tình cảm của một ai đó ta có thể phán đoán tính cách của người đó.

Dùng thời gian để nhìn người là ám chỉ sự quan sát lâu dài, không phải là ngay từ lần đầu gặp mặt đã vội vàng đưa ra kết luận tốt xấu về một người nào đó. Kết luận vội vàng sẽ dẫn đến việc nhìn nhận lầm giữa kẻ xấu và người tốt, từ đó ảnh hưởng đến sự giao tiếp của mình với người đó sau này.

Ngoài ra con người còn vì lợi ích sinh tồn, đa số đều mang trên mình một chiếc mặt nạ. Khi gặp bạn họ thường đeo một chiếc mặt nạ giả. Đây là một hành vi có ý thức. Những chiếc mặt nạ chỉ có thể dùng khi gặp bạn, và chỉ thể hiện ra ở những góc độ mà bạn thích. Nếu bạn chỉ căn cứ vào những điểm này mà phán đoán sự tốt xấu của một người, từ đó quyết định mức độ giao tiếp với người đó thì bạn có thể mắc phải sai lầm.

Tục ngữ có câu: “Thức lâu mới biết đêm dài, chơi lâu mới biết là người cố nhân”. Dùng thời gian để nhìn người chính là để áp dụng câu châm ngôn trên.

Người xưa dạy 10 cách nhìn người, chuẩn xác, không thể bỏ qua

Hàng ngày chúng ta đều phải làm việc, giao tiếp, hợp tác với rất nhiều người có tính cách khác nhau, vậy mà đôi khi ta không có một chút khái niệm nào về “nhìn người”. Cổ nhân đã dạy:

01. Muốn nhìn thấu suy nghĩ của ai, hãy nhìn vào đôi mắt của người đó.

02. Muốn biết địa vị của một người, hãy xem đối thủ của họ ra sao.

03. Muốn hiểu thêm về tính cách của người nào, hãy để ý bạn bè xung quanh họ.

04. Muốn đánh giá quyết tâm của một người, hãy xem cách người đó đứng dậy sau thất bại.

05. Muốn biết quan hệ giữa hai người thân thiết đến đâu, hãy xem phản ứng của họ khi nghe tin người kia gặp bất trắc.

06. Người bạn tốt sẽ không bao giờ xa lánh khi ta gặp khó khăn.

07. Người được dạy dỗ tử tế sẽ cư xử hòa nhã với người già và trẻ nhỏ.

08. Người tâm địa thật thà sẽ không nói xấu sau lưng người khác.

09. Người có tiềm năng làm nên việc lớn sẽ không ham lợi nhỏ.

10. Người có ý lợi dụng thường chỉ đến với ta khi họ gặp khó khăn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Người xưa dạy 10 cách nhìn người, chuẩn xác, không thể bỏ qua

Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Chùa Trấn Quốc nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây - Hà Nội, chùa được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long - Hà Nội (có lịch sử 1500 năm)
Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Trấn Quốc (鎭國寺) nằm trên một hòn đảo phía Đông Hồ Tây (quận Tây Hồ) – Hà Nội, chùa được coi là lâu đời nhất ở Thăng Long – Hà Nội (có lịch sử 1500 năm). Kiến trúc chùa có sự kết hợp hài hoà giữa tính uy nghiêm, cổ kính với cảnh quan thanh nhã giữa nền tĩnh lặng của một hồ nước mênh mang.

Chùa được xây dựng từ thời tiền nhà Lý Nam Đế (năm 541-547) tại thôn Yên Hoa, gần bờ sông Hồng với tên gọi “Khai Quốc” (nghĩa là mở nước). Đến đời vua Lê Thái Tông (năm 1434-1442), nhà vua đổi tên chùa là chùa An Quốc. Hàng năm, nước sông Hồng lên to xói mòn làm lở bãi sông. Cho nên, năm 1615 đời vua Lê Kính Tông, dân làng Yên Phụ dời chùa vào gò đất Kim Ngưu (cá vàng). Đến đời vua Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa (1681-1705), chùa được đổi tên là Trấn Quốc. Bức hoành phi đề chữ “Trấn Quốc Tự” treo tại gian đại bái hiện nay được làm từ thời đó.

Năm 1821, Vua Minh Mạng đến thăm chùa, ban 20 lạng bạc để tu sửa. Năm 1842, Vua Thiệu Trị đến thăm chùa, ban 1 đồng tiền vàng lớn và 200 quan tiền, cho đổi tên chùa là Trấn Bắc. Nhưng tên chùa Trấn Quốc có từ đời Vua Lê Hy Tông đã được nhân dân quen gọi cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc toạ lạc trên một hòn đảo duy nhất của một hồ nước ngọt lớn nhất ở Hà Nội. Vào thời Hai Bà Trưng (40 – 43), khu vực xung quanh Hồ Tây dân cư rất thưa thớt, có các hang động vừa và nhỏ và rừng cây bao phủ, trong rừng còn có cả một số loài thú quý hiếm sinh tồn. Cùng trải qua thời gian hàng nghìn năm tồn tại của ngôi chùa, cảnh quan nơi đây bây giờ được đổi khác hoàn toàn. Bờ hồ có đường lớn bao quanh, những ngôi nhà biệt thự và công trình hiện đại hình thành… Một mặt thể hiện sự hoàn thiện tổng thể kiến trúc của thành phố, nhưng mặt khác vô tình phá vỡ cảnh quan lịch sử và tâm linh trong quan niệm sống của số dân cư bản địa.

Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工).

Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.

Bên phải là nhà tổ và bên trái là nhà bia. Trong chùa hiện nay đang lưu giữ 14 tấm bia. Trên bia khắc năm 1815 có bài văn của tiến sĩ Phạm Quý Thích ghi lại việc tu sửa lại chùa sau một thời gian dài đổ nát. Công việc này bắt đầu vào năm 1813 và kết thúc vào năm 1815. Phía sau chùa có một số mộ tháp cổ từ đời Vĩnh Hựu và Cảnh Hưng (thế kỉ 18).

Khuôn viên chùa có Bảo tháp lục độ đài sen được xây dựng năm 1998. Bảo tháp lớn gồm 11 tầng, cao 15m. Mỗi tầng tháp có 6 ô cửa hình vòm, trong mỗi ô đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý. Đỉnh tháp có đài sen chín tầng (được gọi là Cửu phẩm liên hoa) cũng bằng đá quý. Bảo tháp này được dựng đối xứng với cây bồ đề lớn do Tổng thống Ấn Độ tặng khi ông đến thăm Hà Nội năm 1959. Thượng toạ Thích Thanh Nhã, Uỷ viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trụ trì chùa Trấn Quốc, đã giải thích sự đối xứng đó là: “Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp”.

Tháp mộ chùa
Tháp mộ trong chùa

Ngôi chùa cổ kính này hiện còn lưu giữ khá nhiều hiện vật có giá trị như bộ tượng thờ ở thượng điện. Đây là những pho tượng được tạo tác tỉ mỉ, trau chuốt và mang nét đẹp đặc trưng riêng. Đáng nói nhất là pho tượng Thích Ca nhập Niết bàn được đánh giá là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam.

Trong khuôn viên của chùa có cây bồ đề 50 năm tuổi do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 nhân chuyến thăm chính thức của Tổng thống tại Việt Nam.

Với những giá trị về lịch sử và kiến trúc đó, chùa Trấn Quốc ngày nay không chỉ nổi tiếng là chốn cửa Phật linh thiêng, thu hút rất nhiều tín đồ Phật tử đến hành lễ mà còn là điểm thu hút khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Trấn Quốc - Hà Nội

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt? - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, Nhân tướng, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, tu vi Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?, tu vi Nhân tướng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt?

Những người nhiều tiền của thường có tướng bàn chân khác biệt so với người bình thường. Dưới đây là những sự khác biệt đó.

1. Ngón chân thứ hai dài hơn ngón chân cái

Ban chan cua ti phu co dieu gi khac biet hinh anh
 

Trong nhân tướng học gọi đây là kiểu tướng chân Hy Lạp. Từ xa xưa, các vị vua chúa cổ đại hay những người nắm giữa vị trí cao trong xã hội đa phần đều có kiểu chân với ngón chân thứ hai nổi trội, dài hơn tất cả những ngón chân khác. Chủ nhân của tướng chân này là người quyết đoán, có khả năng lãnh đạo tốt, tinh thần trách nhiệm cao, kể cả trong công việc và cuộc sống.

Hơn thế, người này tính tình sôi nổi, lúc nào cũng căng tràn sức sống nên dỡ trở thành trung tâm của mọi sự chú ý. Nhờ những mối quan hệ hài hòa, họ dễ dàng đạt được thành công hơn so với người khác.

2. Ngón chân cái, ngón thứ hai và ba bằng nhau

Độ dài ba ngón chân cái, thứ hai và thứ ba bằng nhau được gọi là kiểu chân La Mã. Người có tướng chân này tính tình hài hòa, hướng ngoại, dễ được mọi người yêu mến. Ngoài ra, người này có tính cách độc lập, tự tin vào bản thân, ghét phải phụ thuộc vào người khác nên lúc nào cũng cố gắng để tìm kiếm con đường phát triển của riêng mình.

Bên cạnh đó, người này còn có số khởi nghiệp sớm, ban đầu gặp không ít khó khăn, trở ngại nhưng cuối cùng thành công rực rỡ, hưởng cuộc sống vinh hoa phú quý.

Ban chan cua ti phu co dieu gi khac biet hinh anh
 

3. Ngón chân cái dài nhất

Kiểu chân này còn được gọi là chân Ai Cập. 5 ngón của bàn chân hình thành một cái dốc với đỉnh dốc là ngón chân cái.

Chủ nhân kiểu chân này có cá tính mạnh mẽ, tự tin vào bản thân nhưng đôi khi thái quá trở thành kiêu căng, ngạo mạn. Tuy nhiên, khi đã quyết tâm làm việc gì họ sẽ nỗ lực tới cùng. Do đó, đây cũng là một trong tướng chân của người giàu có, không phải lo lắng nhiều về vật chất.

4. Đặc điểm móng chân

Những người có móng chân hình tròn, trơn bóng, sắc hồng hào thường có số giàu sang phú quý. Đặc biệt nếu là nữ giới thì có mệnh làm phu nhân, không những được hưởng tiền bạc từ chồng mà còn có kẻ hầu người hạ để sai khiến. Nếu cộng thêm đặc điểm móng chân cụp xuống dưới càng chứng tỏ người này giàu sang, có thể trở thành tỉ phú.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn chân của tỉ phú có điều gì khác biệt? - Nhân tướng - Xem Tử Vi

Tiên đoán vận mệnh qua giờ sinh –

Nhiều bạn vẫn có cảm giác tò mò và thắc mắc mình có được giờ sinh không? sinh vào giờ nào thì tốt. Theo các chuyên gia nghiên cứu khoa học thì những người sinh giờ Dần thường đa tài đa nghệ, thông minh tài trí, cả đời có phúc. Thời trẻ và trung niên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhiều bạn vẫn có cảm giác tò mò và thắc mắc mình có được giờ sinh không? sinh vào giờ nào thì tốt. Theo các chuyên gia nghiên cứu khoa học thì những người sinh giờ Dần thường đa tài đa nghệ, thông minh tài trí, cả đời có phúc. Thời trẻ và trung niên bình an hạnh phúc, về già có nhiều của cải. Những người có giờ sinh khác thì thế nào? củ thể ra sao hãy cùng chúng tôi đọc bài viết để xem vận mệnh qua giờ sinh nhé!

Nội dung

  • 1 Xem vận mệnh qua giờ sinh
    • 1.1 Giờ Tý (Từ 23 h – 1 h)
    • 1.2 Giờ Sửu (Từ 1 h – 3 giờ)
    • 1.3 Giờ Dần (Từ 3 h – 5 h)
    • 1.4 Giờ Mão (Từ 5 h-7 h)
    • 1.5 Giờ Thìn (Từ 7 h – 9 h)
    • 1.6 Giờ Tỵ (Từ 9 h – 11 h)
    • 1.7 Giờ Ngọ (Từ 11 h-13 h)
    • 1.8 Giờ Mùi (Từ 13 h – 15 h)
    • 1.9 Giờ Thân (Từ 15 h – 17 h)
    • 1.10 Giờ Dậu (Từ 17 h – 19 h)
    • 1.11 Giờ Tuất (Từ 19 h- 21 h)
    • 1.12 Giờ Hợi ( Từ 21 h- 23 h)

Xem vận mệnh qua giờ sinh

Giờ Tý (Từ 23 h – 1 h)

Những người sinh giờ Tý thường tính cách thanh cao, có đạo đức, cá tính mạnh, nóng vội, ý chí hơn người, tài năng xuất chúng, tính cách tự do tự tại, gặp hiểm nguy đều tai qua nạn khỏi. Họ thuộc tuýp người “hai bàn tay trắng làm nên sự nghiệp”.

Giờ Sửu (Từ 1 h – 3 giờ)

Những người này có mối quan hệ với cha mẹ khá lạnh nhạt, khí chất cao quý, sự nghiệp phát triển rộng mở, nắm quyền lực trong tay, mệnh số may mắn, tuy có bệnh nhưng sống rất trường thọ.

Giờ Dần (Từ 3 h – 5 h)

Thông minh, dung mạo hơn người, có tiền có quyền, đa tài đa nghệ, có chí khí, số mệnh sống xa nhà. Khi còn trẻ, họ thường số vận không mấy suôn sẻ, càng trưởng thành, vận mệnh càng tốt hơn.

Giờ Mão (Từ 5 h-7 h)

Số mệnh ít nhờ cậy người thân, tài sản kiệt quệ, lúc nào cũng trong cảnh túng thiếu. Từ khi còn trẻ đến lúc trưởng thành, họ thường nợ nần chồng chất, về già vận mệnh mới thay đổi.

0-6512-1393928123

Giờ Thìn (Từ 7 h – 9 h)

Cuộc sống vất vả, bôn ba khắp nơi. Người này thông minh lanh lợi nên khi còn trẻ đã sớm có tiền của; khi trưởng thành tài sản dễ tiêu tán, càng về già càng đạt được thành tựu.

Giờ Tỵ (Từ 9 h – 11 h)

Thông minh lanh lợi, hiểu biết hơn người, trai tài gái sắc, tiền đồ tươi sáng. Thời còn trẻ tuy trải qua nhiều cực khổ nhưng vốn tài năng nên rất nhanh đạt được thành tựu, có thể tự mình lập nên nghiệp lớn.

Giờ Ngọ (Từ 11 h-13 h)

Bản tính tự lập, vui vẻ, tính cách cởi mở, khoan dung độ lượng. Ngay từ thời còn trẻ vận mệnh đã may mắn, mọi thứ đều suôn sẻ, có của để dành, cuộc sống yên vui cho đến già.

Giờ Mùi (Từ 13 h – 15 h)

Nội tâm luôn xáo động, cuộc sống khá vất vả. Thời trẻ tuy dễ có của cải nhưng phải làm việc rất cực nhọc; độ tuổi trung niên gặp chuyện không may; về già cuộc sống trở nên dư dả.

Giờ Thân (Từ 15 h – 17 h)

Cả đời sống cô độc, mối quan hệ giữa người thân khá nhạt nhòa, số mệnh sống xa nhà. Thời trẻ vận mệnh không suôn sẻ, kết hôn khá muộn màng, về già vận mệnh mới trở nên tốt hơn.

Giờ Dậu (Từ 17 h – 19 h)

Tính cách mạnh mẽ, cả đời luôn sống trong tranh đoạt với người khác, phù hợp với vị thế của người lãnh đạo. Họ có mối quan hệ với người thân luôn biến động, nhiều mối bất hòa. Thời trẻ vận mệnh không suôn sẻ, trung niên và về già thì tốt hơn.

Giờ Tuất (Từ 19 h- 21 h)

Đa tài đa nghệ, thông minh tài trí, nhanh nhẹn khéo léo, cả đời có phúc, vận mệnh lên xuống thất thường. Thời trẻ và trung niên bình an hạnh phúc, về già có nhiều của cải.

Giờ Hợi ( Từ 21 h- 23 h)

Thông minh cơ trí, tâm hồn thánh thiện, ít làm phật lòng ai, bản tính chân thật nên được nhiều người quý mến. Cuộc đời bình an ổn định, sức khỏe trường thọ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tiên đoán vận mệnh qua giờ sinh –

Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tuổi nào tương hợp - tương khắc, bổ khuyết cho nhau? Teen có thể tham khảo bảng tra dưới đây để biết mối tương quan giữa các con giáp nhé.
Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong số 12 con giáp có những cặp rất hợp mệnh nhau, nếu kết hợp sẽ rất ăn ý và thân thiết, nhưng cũng có một số cặp lại khắc mệnh và khi ở gần nhau sẽ rất dễ xảy ra xung đột, cãi vã. Qua bảng dưới đây, các bạn 12 con giáp sẽ biết được đối tượng tương khắc với mình và tránh ghép đôi cùng nhau hoặc tìm cách hóa giải tương khắc nhé.

12-con-giap-5376-1437623762.jpg

Tuệ Anh


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tra mức độ hợp nhau của 12 con giáp

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd