Tướng ngực –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
| => Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
![]() |
Tìm kim chỉ nam cho cuộc sống qua 19 câu nói của Lão tử
Thân trúc cao và thanh mảnh, đốt cứng, ruột rỗng. Cây trúc vốn mang cốt cách của người quân tử tượng trưng cho sự rắn rỏi, kiên cường, bất khuất.

Cổ nhân thường ca ngợi phẩm chất cao khiết của loài trúc và xem đó là tượng trưng cho sự rắn rỏi, kiêm cường, bất khuất.
Cổ nhân thường ca ngợi phẩm chất cao khiết của loài trúc và xem đó là tượng trưng cho sự cát tường.
Trong ruột của cât trúc rỗng, tượng trưng cho đức tính thẳng thắn, liêm khiết. Suốt bốn mùa trúc luôn xanh tươi, không đổi màu, tượng trưng cho sự tráng kiện của con người.
Trúc, mai và tùng là 3 loại cây chịu lạnh tốt, kết tình bằng hữu, gọi là ‘Tuế hàn tam bạn” (Ba người bạn tốt trong rét).
Mai, lan, trúc, cúc được gọi là “Tứ quân tử” là những loài cây tượng trưng cho lý tưởng của các bậc văn nhân.
Bức họa trúc và hoa mai bên cạnh nhau được gọi là Trúc mai song hỷ, thường dùng làm quà tặng trong lễ thành hôn.
Bức họa cành trúc cắm trong bình hoa mang ngụ ý “trúc báo bình an”.
Bức tranh cây trúc bên hai loại cây cát tường khác hoặc bên hai chú chim nhỏ được gọi là Hoa phong tam chúc vinh hoa.
Trong các loài trúc, vẫn có một loài có tên là thiên trúc. Bức họa thiên trúc, bí đỏ và hoa trường xuân mang ý nghĩa “trời đất mãi xuân”.
Chữ “trúc” (cây trúc) và chữ “chúc” (chúc mừng) đồng âm. Do vậy, cây trúc còn mang hàm ý chúc phúc.
Cách sử dụng:
Bức tranh trang trí họa cây trúc nên treo ở những vị trí cát lợi trong phòng khách hoặc trong thư phòng.
Cây trúc có Ngũ hành thuộc Mộc, do vậy nên treo bức tranh trúc ở vị trí tương sinh thuộc hướng Nam, Hướng Đông và Đông Nam. Không nên treo ở hướng Bắc, hướng Tây Nam, Đông Bắc đó là những phương vị tương khắc, hao tổn vượng khí. Treo ở hướng Tây Bắc, Tây thì bình thường.
Trung Thu Rằm Tháng 8 hàng năm là dịp để những người hướng Phật thỉnh nguyện Nguyệt Quang Bồ Tát – vị Nguyệt Thần soi rọi ánh sáng dịu êm, từ bi xuống cho tất thảy chúng sinh. Nhân ngày đản sinh của Ngài 15/8 âm lịch, cùng niệm chú Nguyệt Quang Bồ Tát để viên mãn hướng thiện.
![]() |
![]() |
Phương Vị: Bắc Đẩu Tinh
Tính: Âm
Hành: Thủy
Loại: Phúc Tinh, Phú Tinh
Đặc Tính: Điền trạch, tiền bạc, đôi mắt, mẹ, vợ
Tên gọi tắt thường gặp: Nguyệt
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ 2 trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Miếu địa: Cung Dậu, Tuất, Hợi.
Vượng địa: Cung Thân, Tý.
Đắc địa: Cung Sửu, Mùi.
Hãm địa: Cung Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Mệnh
Tướng Mạo:
Cung Mệnh có sao Thái Âm miếu, vượng hay đắc địa thì thân hình to lớn, cao, da trắng, mặt tròn, mắt sáng. Còn Thái Âm hãm địa thì thân hình nhỏ, hơi cao, mặt dài, mắt kém.
Tính Tình:
Thái Âm ở các cung miếu địa, vượng địa, đắc địa là người thông minh, hòa nhã, từ tâm, thích văn chương, mỹ thuật.
Thái Âm ở cung hãm địa là người có tính ương ngạnh, từ thiện, không tham danh lợi.
Công Danh Tài Lộc
Thái Âm là phú tinh nên có nhiều ý nghĩa tài lộc nhất. Nếu đắc địa, vượng địa và miếu địa, và tùy sự hội chiếu với Thái Dương và cát tinh khác, người có Thái Âm sáng sẽ có:
Dồi dào tiền bạc, điền sản.
Có khoa bảng cao, hay ít ra rất lịch lãm, biết nhiều.
Có danh tiếng, quý hiển.
Thái Âm đóng ở cung Tài, hay Điền thì tốt nhất. Thái Âm sáng mà bị Tuần Triệt coi như bị hãm địa, trừ phi ở Sửu Mùi thì tốt.
Nếu hãm địa, thì:
Công danh, trắc trở, không quý hiển được.
Lập nghiệp phương xa, bôn ba.
Khoa bảng dở dang.
Bất đắc chí.
Khó kiếm tiền, nghèo khổ, vất vả.
Các trường hợp này cũng xảy ra nếu Thái Âm miếu, vượng hay đắc địa mà gặp nhiều sao mờ ám, nhất là sát tinh Riêu, Đà, Kỵ, Hình.
Nếu Nguyệt hãm địa ở cung Âm thì cũng hưởng được lợi ích của luật âm tương hợp: Tuy không quý hiển nhưng cũng đủ ăn và ít phiền muộn. Nếu được nhiều cát tinh hội chiếu, thì sẽ được quý hiển, có danh vọng, tài lộc.
Cũng như đối với Thái Dương, Thái Âm ở Sửu Mùi gặp Tuần Triệt án ngữ, thêm Hóa Kỵ càng hay, sẽ được vừa phú, vừa quý như được miếu địa. Tại hai cung này, Thái Âm còn sáng hơn cả Thái Dương đồng cung, vì tọa thủ nơi cung Âm hợp vị. Danh tài càng về già càng hiển đạt vì Thái Âm sáng ăn về hậu vận.
Phúc Thọ Tai Họa
Tai nạn và bệnh tật xảy ra đối với các trường hợp Thái Âm hãm địa hoặc Thái Âm gặp các sao như Kình, Đà, Không, Kiếp, Riêu, Hình, Kỵ bị tật về mắt hay chân tay, đau bụng, gặp tai họa khủng khiếp, yểu tử, hoặc phải bỏ làng tha hương lập nghiệp mới sống lâu được. Riêng phái nữ còn chịu thêm bất hạnh về gia đạo như muộn gia đình, lấy kế, lấy lẽ, cô đơn, khắc chồng, xa cha mẹ.
Thái Âm và Thái Dương.
Thái Âm sáng gặp Lộc Tồn: Rất giàu có, triệu phú. Trong trường hợp này, Thái Âm có giá trị như sao Vũ Khúc sáng sủa, chủ về tài lộc.
Thái Âm đắc địa gặp Hóa Kỵ: Càng rực rỡ thêm.
Thái Âm sáng gặp Tam Hóa: Rất tốt đẹp, vừa giàu, vừa sang, vừa có khoa bảng.
Thái Âm sáng gặp Xương Khúc: Rất thông minh, lịch duyệt, từng trải, lịch lãm, tài hoa.
Thái Âm sáng gặp Tứ Linh (Long, Phượng, Hổ, Cái): Hiển hách.
Thái Âm, Thiên Đồng gặp Kình ở Ngọ: Rất có nhiều uy quyền.
Thái Âm sáng gặp Đào, Hồng: Rất phương phi, đẹp đẽ, được người khác phải mến chuộng tôn thờ. Đây là bộ sao của minh tinh, tài tử nổi danh. Tuy nhiên, bộ sao này có thể có nhiều bất lợi về tình duyên, có thể đưa đến sự sa ngã, trụy lạc, lăng loàn.
Thái Âm hãm gặp tam ám (Riêu, Đà, Kỵ): Bất hiển, bị tật mắt, lao khổ, nghèo, họa vô đơn chí, hao tài, bị tai họa liên tiếp, ly tán, bệnh hoạn triền miên. Phụ nữ có thể hiếm con.
Thái Âm hãm gặp sát tinh: Lang thang nay đây mai đó, lao khổ.
Thái Âm hãm gặp Tam Không: Phú quý nhưng không bền.
Thái Âm Thiên Đồng ở Tý gặp Hổ Khốc Riêu Tang: Người nữ có sắc đẹp nhưng bạc mệnh, đa truân, suốt đời phải khóc chồng, góa bụa.
Ngoài những bộ sao tốt xấu nói trên, cung Mệnh có Nhật sáng sủa tọa thủ rất tốt, nhưng còn kém hơn cung Mệnh được Nhật sáng sủa hội chiếu với Nguyệt. Nếu giáp Nhật, Nguyệt sáng cũng phú hay quý.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phụ Mẫu
Thái Dương, Thái Âm đều sáng sủa: Cha mẹ sống thọ.
Thái Dương, Thái Âm gặp Tuần Triệt: Cha mẹ mất sớm, có sự chắp nối, hoặc mình không ở gần.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung: Cha mẹ khá giả, nhưng hay bất hòa, khắc khẩu, không được ở gần một trong hai người.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phúc Đức
Thái Âm ở cung Dậu, Tuất, Hợi: Được hưởng phúc trọn đời, sung sướng và sống lâu. Trong họ có nhiều người quý hiển và giàu sang.
Thái Âm ở cung Mão, Thìn, Tỵ: Phúc đức rất kém, tuổi thọ bị giảm, mồ côi, hoặc phải ở nhờ nơi người thân, cha mẹ xa cách, chắp nối, lại hay đau bệnh, nghèo nàn, có nhiều sự khổ tâm, làm ăn chật vật, túng thiếu. Số phải ly hương. Trong gia tộc có người cô đơn, nghèo, làm nghề cực nhọc, tha phương cầu thực, duyên nợ vất vả, hay đau yếu, có tật nguyền, hoặc hay gặp tai nạn. Người nữ, con gái vất vả về chồng con.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung: Được hưởng phúc, sống lâu. Họ hàng danh giá. Nên lập nghiệp ở xa quê hương bản quán.
Nhật Nguyệt đồng cung: Được hưởng phúc, nhưng phải ly hương, vất vả một thời gian mới yên ổn. Họ hàng khá giả, nhưng ly tán.
Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung tại Dần: Phúc đức không được tốt, chịu cảnh mồ côi, hoặc phải ở nhờ nơi người thân, hoặc lúc bé đã phải xa nhà, ly hương. Trong gia tộc, người nữ, con gái hay trắc trở về chồng con, hoặc có người cô độc, tật nguyền.
Thái Âm, Thiên Cơ đồng cung tại Thân: Được hưởng phúc, sống lâu. Trong gia tộc có người làm nên sự nghiệp. Người nữ cuộc đời luôn luôn khá giả hơn người nam.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Điền Trạch
Nguyệt sáng: Điền sản rất nhiều.
Nguyệt hãm: Ít của, không có của.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Quan Lộc
Thái Âm đơn thủ tại Dậu, Hợi: Công danh danh hiển đạt.
Thái Âm đơn thủ tại Tuất: Có tài, công danh hiển đạt nhưng thường bị nhiều người ghen ghét hay bị bó buộc vào nhưng công việc không hợp với chí hướng.
Thái Âm tại Mão: Công danh muộn màng, có tài ăn nói, văn chương lỗi lạc.
Thái Âm đơn thủ tại Thìn, Tỵ: Gặp nhiều trở ngại trên đường công danh, có tài nhưng không gặp thời, công danh lận đận. Lúc thiếu thời vất vả, đến khi nhiều tuổi thì mới xứng ý toại lòng. tuy vậy, vẫn được nhiều người kính trọng có đức độ và có tài văn chương.
Thái Âm, Thiên Đồng đồng cung tại Tý: Công danh hiển hách, có nhiều tài năng khéo léo, nghề tinh xảo, đặc biệt, thông minh, mưu trí. Là số tay trắng làm giàu, càng lớn tuổi thì càng khá giả.
Thái Âm đồng cung với Thiên Đồng tại Ngọ: Chuyên về kỹ nghệ hay doanh thương.
Thái Âm, Thái Dương đồng cung tại Sửu, Mùi: Công danh bất hiển vì Âm Dương hổn hợp. Nhưng nếu có Tuần, Triệt thì lại tốt.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Nô Bộc
Nhật Nguyệt đắc địa: Tôi tớ lạm quyền, có học trò giỏi, người phò tá đắc lực.
Nguyệt hãm địa: Tôi tớ ra vào luôn, không ở lâu bền.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Thiên Di
Nhật, Nguyệt sáng gặp Tam Hóa: Được nhiều người quý trọng tôn phục, giúp đỡ, hậu thuẫn.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tật Ách
Nguyệt hãm gặp sát tinh: Gặp nhiều bệnh hoạn triền miên ở mắt, thần kinh, khí huyết, kinh nguyệt.
Nguyệt, Trì, Sát: Hay đau bụng.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tài Bạch
Nguyệt sáng gặp Sinh, Vượng: Rất giàu có, kiếm tiền rất dễ dàng và phong phú.
Nguyệt sáng gặp Vũ chiếu: Giàu có lớn.
Nguyệt Tuất, Nhật Thìn: Đại phú.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Tử Tức
Nguyệt Thai Hỏa: Có con cầu tự mới nuôi được.
Nhật Nguyệt Thai: Có con sinh đôi.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Phu Thê
Nguyệt, Nhật miếu, vượng địa: Sớm có gia đình.
Nguyệt Xương Khúc: Vợ đẹp, có học (giai nhân).
Nguyệt, Quyền ở Thân: Sợ vợ.
Ý Nghĩa Thái Âm Ở Cung Huynh Đệ
Nhật Nguyệt giáp Thai: Có anh chị em song sinh.
Thái Âm Khi Vào Các Hạn
Nguyệt sáng: Tài lộc dồi dào, có mua nhà, đất, ruộng vườn, gặp việc hên, sanh con.
Nguyệt mờ: Hao tài, đau yếu (mắt, bụng, thần kinh) bị kiện vì tài sản, bị lương tâm cắn rứt, sức khỏe của mẹ, vợ bị kém.
Nếu thêm Đà Tuế, Hổ: Nhất định mất mẹ.
Nguyệt Đà Kỵ: Đau mắt nặng, mất của.
Nguyệt Hỏa Linh: Đau yếu, kiện cáo.
Nguyệt Hình: Mắt bị thương tích, phải mổ.
Nguyệt Cự: Đàn bà sinh đẻ khó, đau đẻ lâu.
Theo quan niệm, vòng dâu tằm giúp em bé tránh tà ma, khóc đêm và bớt mồ hôi trộm. Vì thế, từ đầu tháng 7 âm lịch, số người tìm mua lá và vòng gỗ dâu về đặt dưới gối hoặc đeo cho con nhỏ tăng gấp nhiều lần bình thường. Các loại vòng dâu tằm thông thường đang được bán 11.000-20.000 đồng một chiếc. Riêng loại điểm thêm bạc hoặc con giáp có giá cao hơn nhiều lần, khoảng 170.000-300.000 đồng mỗi chiếc. Chị Trang, chủ xưởng sản xuất vòng dâu ở Khương Trung, Hà Nội, cho biết, mặt hàng này bán khá chạy. Các tháng trước, chị chỉ bán được 5-10 chiếc mỗi ngày, nhưng bước sang tháng 7 âm lịch, số lượng bán tăng lên, có ngày cả trăm chiếc. Chị Trang nói thêm, tháng cô hồn năm ngoái, chị bán được vài nghìn chiếc. Công đoạn làm vòng dâu tằm khá đơn giản. Nguyên liệu thường là cành dâu bánh tẻ đã tước vỏ phơi khô, cắt thành đoạn nhỏ, cho vào máy tạo hạt. Các hạt gỗ kết hợp với hạt bạc được xiên bởi một sợi chỉ đỏ, với ý nghĩa mang lại may mắn. Mỗi khách đặt mua sẽ được tặng kèm túi lá dâu để đặt ở đầu giường, được cho là giúp bé ngon giấc.

Vòng làm bằng gỗ cây dâu đang được nhiều người mua đeo cho trẻ nhỏ.
Theo chị Trang, ngoài làm trang sức, sản phẩm được nhiều người tìm mua vì yếu tố tâm linh. Bên cạnh đó, việc đeo vòng dâu cũng rất khoa học, bởi hơi khí của loại cây này giúp trẻ tránh bị sài đẹn, ra mồ hôi trộm. Đặc biệt, rễ cây dâu thường sử dụng chữa bệnh đau khớp nên nhiều người cũng cho rằng, đeo vòng dâu cho trẻ em tránh được bệnh lý về xương khớp. Chị Hà Linh, một người bán vòng dâu tằm ở Hà Nội, chia sẻ, chi phí nguyên liệu làm vòng dâu rất rẻ, chỉ tốn nhiều ở khâu gia công. Thông thường, mỗi chiếc vòng dâu chị lãi khoảng 5.000-6.000 đồng, loại gắn hạt bạc lời được khoảng 30.000-50.000 đồng. Do nhu cầu mua vòng dâu vào tháng 7 lớn nên trên thị trường Hà Nội còn xuất hiện nhiều vòng dâu giả. Theo kinh nghiệm của những người bán, nếu vòng được làm thủ công bằng nhánh dâu tằm tự nhiên, khi quan sát kỹ sẽ thấy những sợi dài và không có nhiều đốm khác màu trên hạt. Lõi hạt dâu thường xốp, kích thước không giống nhau. Nếu lõi xốp nhỏ, những đoạn nhánh đầy, cứng, rất có thể được làm từ cây mù hoặc tre trúc. Loại này có giá bán bằng nửa so với vòng dâu thật. "Đặc biệt, những vòng dâu tằm có màu sáng bóng, trơn tuột được nhuộm vân bằng hoá chất rất hại cho sức khoẻ trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh", chị cho hay.

Bột tẩy uế được cho có tác dụng tẩy sạch uế khí của gia chủ trước khi bước vào nhà, được chào bán với giá 250.000 đồng một gói.
Mặc dù không tin về tác dụng trừ tà của vòng dâu tằm, nhưng chị Bạch Hân (Đống Đa, Hà Nội) vẫn mua 4 chiếc về đeo tay và chân cho bé và đặt đầu giường ngủ. Chị cho rằng "có thờ có thiêng, có kiêng có lành". Hơn nữa, gỗ cây dâu lành, mùi thơm nhẹ và có thể giữ màu sáng được 2-3 năm. Đây cũng là món quà chị thường tặng cho các em bé vào dịp đầy tháng, sinh nhật hoặc tặng cho bà bầu.
Ngoài vòng dâu, thị trường thuốc trừ tà, bột tẩy uế cũng là những mặt hàng được nhiều người quan tâm trong tháng 7 âm lịch. Loại này có giá bán khá cao, dao động 196.000-250.000 đồng một gói. Theo người bán, các loại thuốc này được lấy từ một số lá, rễ, cành, vỏ cây bồ đề rồi xay nhuyễn, trộn thêm các thành phần khác để tạo mùi thơm đặc trưng.
Tuy mới chỉ phổ biến trong ít năm lại đây nhưng rất nhiều người đã tìm mua loại bột trừ tà. Theo người bán, các gói bột này được nhập từ Hong Kong (Trung Quốc); nhờ đã được niệm chú yểm bùa, chỉ cần đốt lên là có thể trừ tà ma. Các gói bột trừ tà này có giá khá cao, gần 200.000 đồng/gói. Ở phố cổ Hà Nội như phố Hàng Mã, Lãn Ông, mọi người cũng có thể dễ dàng mua được những loại bột tương tự, đựng trong túi nilon không ghi rõ thành phần, nhãn mác, được bày bán chung với các loại dược liệu khác. Giá cả các gói bột này không cố định, mỗi nơi một giá khác nhau. Theo các chuyên gia nghiên cứu tín ngưỡng văn hóa Việt Nam, việc sử dụng bột tẩy uế, trừ tà không có trong phong tục truyền thống Việt Nam. Tín ngưỡng và tâm linh là liều thuốc tinh thần để con người tìm thấy sự bình an trong cuộc sống, tuy nhiên việc du nhập tín ngưỡng tùy tiện, không chỉ nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, mà có thể làm đồng hoá giá trị văn hoá tín ngưỡng riêng có của người Việt.
![]() |
Ngày sinh chào đón sự ra đời của mỹ nhân![]() |
| ► Tra cứu: Tử vi năm 2016 theo cung, mệnh bản thân chuẩn xác |
Không phải ai cũng biết được, phần quan trọng nhất trong căn nhà chính là bàn thờ tổ tiên, và nơi đây được coi là nơi linh thiêng nhất. Gia đình của chúng ta có an yên hạnh phúc hay không là do chúng ta có biết cách chăm sóc nơi này hay không? Một trong những việc làm không thể thiếu khi chuẩn bị bước sang năm mới chính là dọn dẹp bàn thờ tổ tiên. Đây là một nơi ngày thường không được tùy ý chạm vào vì nếu lỡ xê dịch một chút vẫn có thể làm kinh động đến thần linh và khiến phong thủy gia đình bị xáo trộn.
Ảnh Internet
Ngày nay do thời gian có hạn hoặc một số kiêng kị không được lưu truyền trong dân gian nên không còn nhiều người biết cách dọn bàn thờ và cách bài trí bàn thờ gia tiên sao cho đúng phong thủy và mang lại may mắn như phong tục cổ nhân.
Dưới đây là một số điều cần lưu ý khi dọn dẹp bàn thờ tổ tiên mà mọi người cần biết:
- Trước khi dọn dẹp bàn thờ, người xưa thường phải tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị đĩa hoa quả đặt lên, sau đó thắp một nén hương thông báo cho tổ tiên và thần linh biết ngày hôm nay sẽ thu dọn bà thờ, mời tổ tiên và thần linh tạm lánh sang một bên để con cháu dọn dẹp.
- Khi lau rửa bài vị của tổ tiên thì phải dùng nước ấm, không được dùng nước lạnh. Khi làm vệ sinh, nếu có bài vị của thần Phật thì lau trước, sau đó đổ nước mới để lau bài vị của tổ tiên, tuyệt đối không lau bài vị của tổ tiên trước.
- Sau khi lau bài vị xong mới đến phần dọn bát hương, công việc này cũng rất quan trọng, ngày nay đa phần mọi người đều rút chân hương rồi cầm bát hương đổ hết tro ra ngoài, theo người xưa như vậy rất dễ gây "tán tài", vì vậy người ta dùng chiếc thìa nhỏ xúc từng thìa đổ ra ngoài rồi mới rửa sạch bát hương đặt sang một bên.

Cần chú ý khi rút chân hương ra khỏi bát hương (Ảnh: Internet)
- Khi rút chân hương ra khỏi bát hương, nhớ để lại 5 chân hương cũ trong bát hương. Những chân hương còn lại, đem đốt thành tro rồi thả dưới sông, ao hồ hoặc pha nước tưới cây chứ tuyệt đối không được thả ở những nơi dơ bẩn, ô uế.
- Khi bát hương khô ráo, nếu là bát hương thờ thần phật thì dùng bảy tờ tiền vàng, bát hương của tổ tiên thì dùng ba tờ tiền vàng đốt hơ quanh, cháy một nửa thì bỏ vào trong, đợi tiền vàng cháy hết thì đổ tro vào một lần, như vậy gọi là "ra nhỏ vào lớn", ý là "tiền ra nhỏ giọt, tiền vào như thác đổ", nếu lúc đầu đổ ra hết sau đó múc từng ít một vào thì gọi là "vào nhỏ ra lớn", tức "tiền ra thì nhiều mà tiền vào thì ít".
- Đối với những loại đồ thờ cúng cũng vậy, nếu không còn dùng được nữa, phải đem đốt đi hoặc thả trôi trên sông chứ không nên vứt vào bãi rác hoặc những nơi dơ bẩn khác.
| => Xem thêm: Những câu nói hay về triết lý nhân sinh cuộc đời đáng suy ngẫm |
![]() |
Mách nhỏ chị em vài chiêu khiến vịt hóa thiên nga trong ngày 8/3![]() |
Một cung Mệnh không có chính tinh tọa thủ như căn nhà không có chủ, một bầu trời không có trăng sao cho nên Mệnh VCD phải mượn chính tinh ở cung đối diện làm chính tinh của mình. Vì vay mượn cho nên Mệnh VCD chỉ chịu ảnh hưởng chừng sáu hay bảy phần những tốt xấu của các chính tinh ở cung xung chiếu mà thôi. Cung xung chiếu Mệnh là cung Thiên Di. Trong những bài trước, chúng ta đã nói cung Thiên Di là bối cảnh sinh hoạt ngoài xã hội của mỗi người. Do đó, khi phải mượn chính tinh ở cung Thiên Di cho Mệnh của mình thì đặc tính đầu tiên của người VCD là tính uyển chuyển, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Phải chăng vì Mệnh không có chính tinh cho nên những người VCD thường là con của vợ hai, hay nàng hầu. Nếu là con của vợ cả thì tuổi trẻ thuở thiếu thời hay bị đau ốm, bệnh tật, khó nuôi. Khi lớn lên thì cuộc đời cũng long đong, vất vả, sớm phải xa nhà, thường sống phiêu bạt nơi đất khách quê người, và tuổi đời không được thọ.
Một đặc điểm quan trọng khác mà người VCD phải lưu ý là vì Mệnh của mình không có chính tinh ví như đoàn quân không có tướng cho nên người VCD khi ra đời dù là làm công hay tự mình làm chủ thì cũng không nên là người đúng đầu trong một đơn vị như chỉ huy trưởng của một quân đội, giám đốc của một cơ sở hành chánh hay một cơ sở thương mại.
Người VCD chỉ nên là nhân vật thứ hai như một cái bóng, đúng sau lưng một người khác để phò tá, phụ giúp thì thích hợp và thuận lợi cho công việc hơn. Nếu giữ những chức vụ hàng đầu thì thường hay gặp khó khăn trở ngại, nặng nề hơn thì dễ đưa đến sự thất bại hay tai họa xảy đến cho chính bản thân mình hoặc cho đơn vị, cơ sở mà mình chỉ huy, điều hành. Người VCD tính tình thâm trầm, khôn ngoan sắc sảo và rất thông minh. Do vậy, những công việc như soạn thảo kế hoạch, tham mưu, cố vấn, quân sư v.v… rất thích hợp với họ, điển hình như Trương Lương, Phạm Lãi, Gia Cát Lượng thời xưa và như Henry Kissinger ngày nay. Ở đây chúng ta thấy một điều oái ăm cho người VCD. Họ có khả năng dự thảo kế hoạch nhưng chỉ thuận lợi khi họ làm cho người khác, còn đối với bản thân họ thì lại trái ngược. Họ thường khó đạt được những gì mà họ dự tính cho chính mình. Ảnh hưởng này mạnh nhất là trong khoảng tiền vận của cuộc đời. Càng lớn tuổi thì ảnh hưởng này càng giảm đi.
Người VCD thường lao đao vất vả trong buổi thiếu thời. Chỉ bắt đầu khá từ trung vận và càng về già thì cuộc sống càng ổn định hơn. Nói chung thì cuộc đời của họ thường chỉ được tốt đẹp vào nửa đời sau mà thôi. Bởi đặc tính đó cho nên trong mỗi hạn, dù tiểu hay đại hạn, thì họ cũng chỉ được tốt đẹp vào nửa hạn sau. Ví dụ: Đại hạn 10 năm tốt đẹp thì 5 năm sau được thuận lợi hơn và nhiều may mắn hơn. Là mẫu người có tài, có trí, họ có thể đạt được những công danh sự nghiệp. Nhưng trong ba chữ Phước-Lộc-Thọ thì chữ “Thọ” là nhẹ nhất. Và có phải như ông bà chúng ta thường nói: “Đa tài thì bạc mệnh”. Cho nên người VCD ít ai có được tuổi thọ cao.
Muốn hóa giải vấn đề này, người VCD phải làm con nuôi của người khác và phải đổi luôn cả họ của mình, hoặc phải sớm xa nhà, mưu sinh nơi đất khách quê người. Với sự bất lợi là Mệnh không có chính tinh thủ, nhưng người VCD vẫn được hai cách tốt:
1. Mệnh VCD có Tuần, Triệt, Thiên Không, hay Địa Không tọa thủ hoặc hợp chiếu, tùy theo cung Mệnh được bao nhiêu sao KHÔNG chiếu, khoa Tử Vi gọi là cách Mệnh VCD đắc nhị không, tam không, hay tứ không. Tuy đây là một cách tốt, khi phát thì phát rất nhanh vì sách có nói “hung tinh đắc địa phát dã như lôi.”. Có nghĩa là hung tinh đắc địa thì phát nhanh như sấm chớp.
Nhưng dù sao trong cái tốt vẫn ẩn tàng những sự bất trắc vì đó là bản chất của hung tinh cho nên đây chỉ là cách bạo phát bạo tàn kiểu như Từ Hải hay Hạng Võ mà thôi. Trường hợp Mệnh VCD gặp các sao KHÔNG vừa nêu trên chúng ta phải lưu ý một điều. Nếu Mệnh VCD đắc nhị không thì cũng bình thường, không có gì đáng nói. Nếu đắc tứ không thì ảnh hưởng của Tuần Triệt là con dao hai lưỡi tốt-xấu lẫn lộn cho nên không được trọn vẹn. Cách tốt nhất là đắc tam không. Nhưng đối với cách này, cụ Việt Viêm Tử phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp “đắc”, “kiến” và “ngộ” đễ khỏi nhầm lẫn trường hợp nào tốt, trường hợp nào xấu. Trường hợp đắc tam không: Mệnh VCD có một sao không thủ Mệnh, hai sao KHÔNG khác ở thế tam hợp chiếu là tốt nhất.
Có câu: “Mệnh VCD đắc tam Không nhi phú quý khả kỳ”. Cách này rất ứng hợp cho những người Mệnh Hỏa và Thổ vì các sao Không đều thuộc hành Hỏa cho nên đây cũng là một trong những cách hoạch phát. Trường hợp kiến tam không: Mệnh VCD có 1 sao KHÔNG thủ, một sao KHÔNG thủ ở cung Quan Lộc hoặc Tài Bạch, 1 sao KHÔNG ở cung xung chiếu (Thiên Di). Trong tam hợp Mệnh có hung tinh hay sát tinh tọa thủ. Người có cách này như mộng ảo hoàng lương. Công danh sự nghiệp dù tạo dựng lên được thì chung cuộc cũng chỉ là một giấc mơ. Trường hợp ngộ tam không: Mệnh VCD có hung tinh hay sát tinh hãm địa tọa thủ. Hai cung tam hợp và cung xung chiếu có sao KHÔNG tọa thủ hợp chiếu vào Mệnh.
Cách này là “Mệnh VCD ngộ tam không phi yểu tắc bần”, có nghĩa là gặp cách này không chết sớm thì cũng nghèo hèn cả đời vì tam KHÔNG đi cùng với hung sát tinh hãm địa ở Mệnh trở thành phá tán.
2. Mệnh VCD được hai sao Thái Dương, Thái Âm ở miếu, vượng địa chợp chiếu. Trường hợp này Mệnh như một vòm trời không một áng mây lại được hai vầng Nhật Nguyệt cùng một lúc chiếu vào khiến cho vòm trời ấy trở nên rực rỡ. Khoa Tử Vi gọi là “Mệnh VCD Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa”. Có người cho rằng phải có thêm Thiên Hư ở Mệnh nữa thì mới đúng nghĩa với hai chữ “Hư Không”. Điều đó xét ra không cần thiết lắm. Người đắc cách này thông minh xuất chúng, đa tài, đa mưu như Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc phân tranh. Khổng Minh Gia Cát Lượng sinh vào giờ Tuất ngày 10 tháng 4, năm Tân Dậu.
Mệnh VCD an tại Mùi có Thái Dương ở Mão (Mặt trời lúc bình minh) và Thái Âm ở Hợi (mặt trăng vằng vặc lúc nửa đêm, cả hai cùng hợp chiếu về Mệnh. Đây là cách “Nhật Nguyệt Tịnh Minh tá cửu trùng ư kim diện”. Người đắc cách này luôn luôn kề cận bên cửu trùng, quyền uy chỉ thua một đấng quân vương mà thôi. Vì Mệnh VCD, cho nên tuổi thiếu thời Gia Cát Lượng ẩn cư trong lều cỏ. Qua trung vận mới xuất thế theo phò tá Lưu Bị lập nghiệp đế. Ông là vị quân sư tài ba lỗi lạc, trên thông thiên văn, dưới thông địa lý. Chỉ ngồi trong trướng mà điều binh trăm trận trăm thắng. Ông đã hiểu rõ cái số của mình nên giữ đúng vị trí của một người có Mệnh VCD, chiu dưới chỉ 1 người mà trên muôn vạn người. Nhưng đến khi Lưu Bị qua đời, ấu chúa lên ngôi. Lúc ấy ông phải giữ vai trò của người đứng đầu, quyết định tất cả mọi chuyện như một vị Vua thật sự. Cho nên đó là một điều không thích hợp với người Mệnh VCD.
Phải chăng vì vậy mà 6 lần đưa quân ra khỏi Kỳ Sơn thì cũng 6 lần phải rút quân về không kết qủa. Kể cả lúc biết mình sắp chết, muốn cãi số trời, ông đã làm phép cầm sao bổn mạng của mình lại nhưng cũng không thành. Đó là đặc tính đáng chú ý của người có Mệnh VCD: Mưu sự cho người thì dễ, mà cho chính bản thân mình thì khó. Người ta cũng cho rằng, Gia Cát Lượng chết sớm là vì sát nghiệp của ông qúa nặng. Ông đã dùng hỏa công đốt chết 10 vạn quân đằng giáp của Mạnh Hoạch trong cốc Hồ Lô. Rồi lại dùng hỏa công đốt chết 18 vạn quân của Tào Tháo trên sông Xích Bích. Nhưng nếu chúng ta xét điều này dưới cái nhìn của khoa Tử Vi thi dù sát nghiệp của ông ta nặng hay nhẹ thì tuổi thọ của ông ta cũng sẽ được bao nhiêu với cái số Mệnh VCD ?
![]() |
| Ảnh minh họa |
Chọn vị trí tốt để đặt sofa
Nếu đặt sofa ở hướng cát lợi, gia chủ sẽ được an khang, thịnh vượng.
Đối với ngôi nhà hướng Đông, ghế sofa nên đặt ở hướng chính Đông, Đông Nam, chính Nam, chính Bắc của phòng khách. Đây được coi là 4 hướng tốt.
Đối với ngôi nhà hướng Tây, sofa nên đặt ở hướng Tây Nam, chính Tây, Tây Bắc và Đông Bắc của phòng khách.
![]() |
Ghế sofa phải hoàn chỉnh
Phong thủy coi trọng sự cân đối và hài hòa nên việc lựa chọn hình dáng sofa để bài trí rất quan trọng. Không nên bày 1 nửa bộ hoặc dùng kết hợp 2 loại sofa với hình dạng khác nhau như vuông và tròn.
Phía sau sofa nên có chỗ dựa
Nếu đằng sau sofa là cửa ra vào, cửa sổ hay lối đi, có nghĩa là không có chỗ dựa -điều này đi ngược quan niệm của phong thủy về vai trò của việc "hạo sơn" (tựa núi). Ngoài ra, xét từ góc độ tâm lý học, khi phía sau sofa là khoảng trống sẽ tạo cho người ngồi có cảm giác bất an.
Nếu đằng sau sofa không có tường để dựa thì bạn có thể đặt ở đó 1 chiếc tủ thấp hoặc 1 tấm bình phong để hóa giải.
Phía sau sofa không nên có nước
Nếu sau ghế sofa là bể cá, tiểu cảnh ướt (không phải tiểu cảnh khô)... sẽ không tốt vì chúng thuộc hành Thủy, thể hiện sự luân chuyển, bất ổn. Trong trường hợp này, nên thay thế sự hiện diện của hành Mộc thông qua việc bài trí chậu cây cảnh sau sofa sẽ tốt hơn cho vận khí của gia chủ.
![]() |
Phía sau sofa không nên để gương
Đây là điều cấm kỵ bởi khi có người ngồi trên sofa, phần gáy của họ sẽ bị người bên cạnh hay người ngồi đối diện nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu đặt gương ở bên cạnh chứ không phải đằng sau sofa thì không sao.
Không nên đặt sofa dưới xà ngang
Nếu phía trên giường ngủ có xà ngang thì chỉ người nằm trên giường bị ảnh hưởng xấu. Nhưng nếu trên sofa là xà ngang thì sẽ ảnh hưởng đến tất cả các thành viên trong gia đình.
Không nên đặt sofa dưới đèn
Nhiều gia đình thường lắp thêm đèn chùm trong phòng khách để trang trí và tăng cường ánh sáng. Tuy nhiên, không nên đặt sofa bên dưới đèn chùm vì sẽ khiến người ngồi trên ghế dễ rơi vào tình trạng căng thẳng thần kinh. Nếu không thể dịch chuyển vị trí của sofa thì nên lắp đèn treo tường thay vì đèn chùm.
Sofa không nên đối diện cửa chính
Khi sofa và cửa chính đối nhau tạo thành 1 đường thẳng, phong thủy gọi là “đối xứng”, là điều không tốt. Nếu gặp phải tình trạng này thì tốt nhất bạn nên chuyển dịch sofa lệch khỏi cửa. Nếu không thể dịch được thì nên sử dụng bình phong. Làm như vậy, khí từ ngoài qua cửa chính vào nhà sẽ không ảnh hưởng đến người ngồi trên sofa.
Những món ăn lưu truyền trong dân gian, đều có những câu chuyện lý thú tương truyền trong dân chúng. Bánh Trung Thu được coi là biểu tượng của sự phúc lành, đoàn tụ. Mỗi năm vào ngày Rằm tháng Tám, mọi người đoàn tụ với gia đình, ăn bánh, trái cây, uống trà và thưởng ngoạn Trăng Rằm.
Tương truyền, vào thời xa xưa, trên trời xuất hiện mười ông mặt trời, cùng chiếu xuống mặt đất nóng đến bốc khói, biển hồ khô cạn, người dân gần như không thể sống nổi. Chuyện này đã làm kinh động đến một anh hùng tên là Hậu Nghệ. Anh đã trèo lên đỉnh núi Côn Lôn, dùng thần lực giương nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Hậu Nghệ đã lập nên thần công cái thế, nhận được sự tôn kính và yêu mến của mọi người, rất nhiều chí sĩ mộ danh đã tìm đến tầm sư học đạo, trong đó có Bồng Mông là một kẻ tâm thuật bất chính.
Không lâu sau, Hậu Nghệ lấy một người vợ xinh đẹp, tốt bụng, tên là Hằng Nga. Ngoài dạy học săn bắn, cả ngày Hậu Nghệ luôn ở bên cạnh vợ, mọi người đều ngưỡng mộ đôi vợ chồng trai tài gái sắc này.

Một hôm, Hậu Nghệ đến núi Côn Lôn thăm bạn, trên đường tình cờ gặp được Vương mẫu nương nương đi ngang qua, bèn xin Vương mẫu thuốc trường sinh bất tử. Nghe nói, uống thuốc này vào, sẽ lập tức được bay lên trời thành tiên. Nhưng Hậu Nghệ không nỡ rời xa vợ hiền, đành tạm thời đưa thuốc bất tử cho Hằng Nga cất giữ. Hằng Nga cất thuốc vào hộp đựng gương lược của mình, không ngờ đã bị Bồng Mông nhìn thấy.
Ba ngày sau, Hậu Nghệ dẫn học trò ra ngoài săn bắn, Bồng Mông với tâm địa xấu xa đã giả vờ lâm bệnh, xin ở lại. Đợi Hậu Nghệ dẫn các học trò đi không lâu, Bồng Mông tay cầm bảo kiếm, đột nhập vào hậu viện, ép Hằng Nga phải đưa ra thuốc bất tử. Hằng Nga biết mình không phải là đối thủ của Bồng Mông, trong lúc nguy cấp đã vội vàng mở hộp gương lược, lấy thuốc bất tử ra và uống hết. Hằng Nga uống thuốc xong, thấy người bỗng nhẹ rời khỏi mặt đất, hướng về cửa sổ và bay lên trời. Nhưng do Hằng Nga còn nhớ chồng, nên chỉ bay đến mặt trăng là nơi gần với nhân gian nhất rồi trở thành tiên.
Tối hôm đó, khi Hậu Nghệ về đến nhà, các thị nữ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện xảy ra lúc sáng. Hậu Nghệ vừa lo vừa giận, đã rút kiếm tìm giết nghịch đồ, nhưng Bồng Mông đã trốn đi từ lâu. Hậu Nghệ nổi giận nhưng chỉ biết vỗ ngực giậm chân kêu khóc. Trong lúc đau khổ, Hậu Nghệ đã ngửa cổ lên trời đêm gọi tên vợ hiền. Khi đó, anh kinh ngạc phát hiện ra, trăng hôm nay đặc biệt sáng ngời, mà còn có thêm một bóng người cử động trông giống Hằng Nga. Hậu Nghệ vội sai người đến hậu hoa viên nơi Hằng Nga yêu thích, lập bàn hương án, đặt lên đó những món ăn và trái cây mà bình thường Hằng Nga thích ăn nhất, để tế Hằng Nga nơi cung trăng đang nhớ đến mình.
Sau khi mọi người nghe tin Hằng Nga lên cung trăng thành tiên nữ, đều đã lần lượt bày hương án dưới ánh trăng, cầu xin Hằng Nga tốt bụng ban cho may mắn và bình an. Từ đó, phong tục “bái nguyệt” vào tết trung thu được truyền đi trong dân gian.
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa
Thả trâu ăn lúa gọi cha ồi ồi
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên
Ông thời cầm bút cầm nghiên
Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.
Ngày xưa ở một miền nọ có một người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông già! Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên:
- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ đừng tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó!
Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì gánh cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong.
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn.
Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì thốt nhiên một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít với nhau hơn xưa.
Nhưng cũng từ đấy, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: "Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Ðông, cây dông lên trời!". Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên biến ngay.
Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà đái. Không ngờ chị ta vừa đái xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời.
Vừa lúc đó thì Cuội về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
Tết Trung Thu theo âm lịch là ngày rằm tháng 8 hằng năm. Đây là ngày tết của trẻ em, còn được gọi là "Tết trông Trăng". Trẻ em rất mong đợi được đón tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân,... rồi bánh nướng, bánh dẻo. Vào ngày tết này, người ta tổ chức bày cỗ, trông trăng. Thời điểm trăng lên cao, trẻ em sẽ vừa múa hát vừa ngắm trăng phá cỗ.
Tục vui Tết Trung-Thu đã có từ thời Đường Minh Hoàng bên Trung-Hoa, vào đầu thế kỷ thứ tám (713-755).
Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng tám, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao-ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp-sư Diệu Pháp Thiên tâu xin làm phép đưa vua lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Minh Hoàng được chúa tiên tiếp rước, bày tiệc đãi đằng và cho hàng trăm tiên nữ xinh tươi mặc áo lụa mỏng nhiều màu sắc rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng tung múa trên sân, vừa múa vừa hát, gọi là khúc Nghê-Thường vũ y. Vua Đường thích quá; nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ trình diễn. Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn. Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống Nghê-Thường vũ y, liền chỉnh đốn hai bài hát và hai điệu làm thành Nghê-Thường vũ y khúc. Về sau các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa hát về các phiên trấn xa xôi nơi họ cai trị rồi dần dần phổ biến khắp dân gian. Tục ngắm trăng, xem ca múa sau biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu .
Về sau tết Trung Thu lan rộng sang các nước láng giềng và thuộc địa của Trung Hoa. Sách sử Việt không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ, chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng tám âm lịch, chợ búa bắt đầu có màu sắc Trung Thu. Lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Người mua lẫn người đi xem đông chen như hội.
Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống đầu lân, mặt ông địa bày bán đầy các chợ. Những nhà giàu còn bày cỗ Trung Thu để khoe tài nấu nướng của các cô con gái tới tuổi lấy chồng.
Ở Việt

Bánh Trung Thu người Trung Hoa gọi là Bánh Trăng (Nguyệt), ngày xưa còn gọi là Bánh Hồ (bánh của người Hồ), bánh nhỏ, bánh đoàn (đoàn tụ), bánh đoàn viên . Những loại bánh trên người Tàu ngày xưa dùng để cúng tế, dần dần trở thành bánh dùng để cúng và ăn vào ngày Trung Thu.
Bánh Nguyệt có lịch sử lâu dài ở Trung Quốc, sử sách ghi chép từ thời Ân, Chu ở vùng Triết Giang đã có loại bánh kỷ niệm Thái Sư Văn Trọng gọi là bánh Thái Sư. Bánh này có thể coi như là thuỷ tổ của bánh Trung Thu. Vào thời Tây Hán, Trương Thiên đi Tây Vực mang về Trung Quốc hạt Mè, hạt Hồ đào (walnut), dưa hấu làm nguyên liệu cho bánh Nguyệt thêm dồi dào. Thời đó hồ đào là nguyên liệu chính của bánh Nguyệt nên còn gọi là bánh hồ đào.
Đến thời Đường trong dân gian có những người hành nghề làm bánh, ở thành phố Trường An có những tiệm bánh trứ danh. Tương truyền có một đêm Trung Thu Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ăn bánh hồ đào, thuởng ngoạn trăng rằm, Đường Huyền Tông chê tên bánh Hồ nghe không hay nên đặt tên là Bánh Nguyệt cho thơ mộng hơn , nên từ đó về sau Bánh Trung Thu có tên là Bánh Nguyệt mà người Tàu dùng cho đến bây giờ.
Đến thời nhà Tống, tập tục ăn bánh Trung Thu rất thịnh hành trong giới quý tộc. Thơ Tống có nhiều bài viết về việc ăn bánh Trung Thu, thưởng ngoạn Trăng vào ngày này. Tuy nhiên, trong dân gian việc ăn bánh Trung Thu mới trở thành phổ cập . Các nhà kinh doanh nghề bánh dùng câu chuyện Hằng Nga trên cung Trăng để làm tăng thị hiếu.
Ngày nay, Bánh Trung Thu là quà tặng cần thiết trong ngày Trung Thu. Mức lượng bánh Trung Thu sản xuất hàng năm vào mùa Trung Thu ở Đông Nam Á, Đông Á và Trung Quốc thật khổng lồ. Nhiều tiệm bánh ở vùng này nhờ lợi tức mùa bánh Trung Thu mà đủ chi tiêu cho cả năm trời.
Bánh trung thu tượng trưng cho sự đoàn viên, là thứ không thể thiếu để cúng trăng và thổ địa công vào mỗi mùa Trung thu. Phong tục ăn bánh trung thu vào Tết Trung thu bắt đầu từ cuối đời nhà Nguyên bên Trung Quốc đến nay.
Tương truyền vào thời đó, người Trung Nguyên không chịu nổi ách thống trị của người Mông Cổ, những người có chí khí đều muốn khởi nghĩa chống nhà Nguyên. Để tập hợp được các lực lượng đấu tranh, nhưng trong điều kiện không thể truyền tin đi, Lưu Bá Ôn đã nghĩ ra một cách truyền tin rộng rãi và bảo đảm, đó là kêu gọi mọi người mua bánh trung thu ăn vào Tết Trung thu để tránh họa. Sau khi mọi người mua bánh về và cắt ra, nhìn thấy bên trong có giấu một mảnh giấy viết “đêm 15 tháng 8 khởi nghĩa”, nhờ vậy người dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, và lật đổ được nhà Nguyên. Cũng từ đó, bánh trung thu đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào mỗi Tết Trung thu.
Hành: Hỏa
Loại: Bại Tinh
Đặc Tính: Phá hoại tài sản, bệnh tật, tang tóc (nhỏ), thích chơi bời, cờ bạc, hay nói, khoe khoang, khoác lác, khinh người
Tên gọi tắt thường gặp: Khách
Là một phụ tinh. Sao thứ 11 trong 12 sao thuộc vòng sao Thái Tuế theo thứ tự: Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Đức, Bạch Hổ, Phúc Đức, Điếu Khách, Trực Phù. Thuộc bộ hay cách Mã Khốc Khách (Thiên Mã, Thiên Khốc, Điếu Khách).
Hay nói, nói năng không giữ lời - hay khoe, khoác lác (như Lâm Quan) - khinh người - liến thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc - chủ bệnh tật, đau yếu, tai nạn, hao tài, tang khó
Liếng thoắng, ham chơi đặc biệt là mê cờ bạc.
Ở Mệnh, Quan: Khách, Phá Toái, Tuế Phá: du đãng, cờ bạc, phóng đãng - Khách, Quan Phù : cờ bạc - Khách, Khốc, Mã: gặp thời vận tốt
Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Quan Lộc:
Công danh hay gặp trắc trở, nay đây mai đó.
Gặp các sao Thiên Mã, Thiên Khốc thì làm nên.
Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tật Ách:
Hay gặp tai nạn té ngã, chuyện phiền lòng.
Gặp các sao Tang Môn, Hóa Kỵ, tự sát.
Ý Nghĩa sao Điếu Khách Ở Cung Tài Bạch:
Tài lộc ra vào thất thường, không ổn định.
Điếu Khách Khi Vào Các Hạn:
Điếu Khách gặp Tang: Thường có tang.
Điếu Khách gặp Hỏa: Tang nhỏ, tang xa.
Sao Điếu Khách có tác dụng chế hóa Hỷ Thần, làm cho Hỷ Thần mất giá trị.
Sao Tử Vi gặp sao Điếu khách: Thiên về nam khách, khách bí mật, khách bao che, bao che cho khách, trách nhiệm với khách. khách gánh vác trách nhiệm.
Liêm Trinh - Điếu khách: Thiên về nữ khách. Khách dò xét, theo dõi. Còn chủ khách thâm giao, khách lâu dài. Còn chủ số làm viễn khách dài lâu.
Vũ Khúc - Điếu Khách: Khách qua đường, khách không thâm giao. Kỵ gặp thêm KÌNH CÔ QUẢ khách chủ dễ xung đột mâu thuẩn vì tài sản. Khách tham nhũng, khách hỏi thăm tài sản
THAM VŨ đóng đất Võng La. Gặp loài TANG ĐIẾU một nhà càng hung
Thiên Phủ - Điếu Khách: Khách già, còn chủ nhiều khách, đông khách. Lợi cho những người làm các công việc liên quan đến người già như lão khoa.
Thiên Tướng - Điếu Khách: Khách chủ tương trợ lẫn nhau, Khách đi xem, khách xem xét. Khách nhờ cậy tương trợ.
Phá Quân - Điếu Khách: Khách bỏ đi hoặc bỏ khách. Khách quậy phá. Cá biệt là gắn bó, khách gắn bó… Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… Bỏ, thôi không còn thăm viếng nửa. Nhưng trước đó thường hay thăm viếng.
Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Thất Sát - Điếu Khách: Mất khách. Hoặc đoạt khách giành khách. Còn chủ khách chiếm đoạt. Khách chạy làng đưa đến mất khách. … Hợp với những người chinh chiến, viễn chinh đi thám hiểm… vì công việc của họ là khám phá. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Tham Lang - Điếu Khách: Trung niên khách, thiên về nam khách. Khách thăm dò tìm hiểu, khách do thám. Khách tham nhũng, khách bày tỏ lòng ham muốn. Thiên Cơ - ĐiếU Khách: Khách hiền. Khách cật vấn. Khách đi một mình. Lợi cho công việc tư vấn. Thiên Đồng - Điếu Khách: Khách trẻ con . Khách đi đôi, đi cặp. Kinh doanh, dịch vụ có liên quan đến trẻ con cần gặp khách này. Cùng với khách… như cùng đi, cùng vui chơi với khách… như trong các dịch vụ hướng dẫn du lịch. Thiên Lương - Điếu Khách: Khách hiền. Khách lương thực. Mua bán lương thực thực phẩm cần gặp khách nầy. Thái Dương - Điếu Khách: Nam khách. Khách công khai. Khách ban ngày, Khách công khai là gì? Đó là những người tự nhiên mà đến để mua bán, coi, xem, được mời để tham gia, tham sự việc gì đó. Thái Âm - Điếu Khách: Nữ khách. Khách âm thầm. Khách ban đêm. Khách âm thầm là gì? Cũng đến để mua bán...nhưng âm thầm lặng lẽ. Mua bán cái gì không ai biết. Cự Môn - Điếu Khách: Khách có đệ tử đồng môn bè bạn đi theo. Khách phản đối hay cãi. Rất kỵ gặp thêm Hung Sát tinh. Sao Tuần Gặp Sao Khách: Khách đến, còn chủ tôn trọng khách. Khách quan trọng. Khách trung thành. Triệt gặp Khách: Khách ra về, còn chủ xem thường khách. Tốt là Khách quý được miễn trừ, khách ngoại lệ. Thiên khôi gặp sao Khách: Khách quí, Khách cũ. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Thiên Việt gặp Khách: Khách mới. Khách quí. Rất kỵ gặp HÌNH lại có thêm KỴ. Kình Dương gặp Khách: Đi với Hỉ tinh khách khen ngợi. Đi với Kị tinh, HÌNH tinh, Thị phi tinh, CỰ, PHÁ xung đột với khách. Khách nầy hợp với chiến binh. Còn chủ nghênh đón khách. Thượng khách. Khách ngồi trên. Đà La gặp Khách: Chủ lôi kéo khách. Hướng dẫn khách. Xấu là Cản trở khách. Nghênh đón khách. Xấu ta không nên đi làm khách. Khách hạng hai. Kỵ gặp Kị tinh, Hình tinh, Thị phi tinh, Cự, Phá xung đột với khách. Hợp với chiến binh. Lộc Tồn gặp Khách: Một sao hỏi thăm, một sao thăm viếng. Tính chất thăm hỏi cực mạnh. Lộc tồn thiên về hỏi thăm có còn đó không? Có mạnh khỏe không, vì trong lòng LỘC TỒN tồn tại nỗi nhớ nhung nên vấn an. Sao Điếu Khách thiên về chia xẻ nỗi buồn khi có sự cố. Khách tồn tại, khách lâu dài. Lực Sỹ gặp Khách: Khách đợi chờ. Đợi chờ khách. Kẻ đợi chờ. Đường Phù gặp Khách: Khách công đường. Kỵ gặp nhiều sao quan sự lại thêm xung đột dễ làm khách của ông quan tòa. Khách dụ dỗ, thổi phồng. Sao Lưu ĐIẾU KHÁCH chú ý các trường hợp lưu sao Khách nhập tại Điền, Tài nếu tại đó có sẵn Sát tinh dễ gặp khách không mời mà đến là đạo chích. Để tiện cho bạn nghiên cứu, hôm nay treo tấm hình các sao lưu động năm Kỷ Sửu. Đại Hao gặp Khách: Chủ nhiều khách, khách lớn, khách quan trọng. Trao đổi với khách. Đây là cách mua bán quan trọng. Mua bán vật quan trọng có KHÔI (tùy theo tâm trạng vật đó là báu vật, đất đai, nhà cửa. Có giá trị khi có VŨ KHÚC.
![]() |
| Tượng gỗ pooping log sẽ bị "đánh" vào đêm trước Giáng sinh |
Bật mí 9 điều bí mật về ông già Noel![]() |
| Người dân Ukraina dùng nhện và mạng nhện để trang trí cây thông Noel |
![]() |
| Món ăn kinh dị trong lễ Giáng sinh của người Greenland |
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
![]() |
3 điều nên nhớ đừng quên trong tiết Thanh Minh![]() |
- Nên dựa vào người có quyền hành cao nhất để tính toán phong thuỷ cho văn phòng.
- Cổng văn phòng tối kỵ đối diện cột điện, ống khói hoặc gốc cây to. Không nên đặt nhà vệ sinh ngay cạnh cổng bởi toilet sẽ chặn luồng không khí mới vào văn phòng, ảnh hưởng vận may và sự nghiệp.
- Nền nhà văn phòng nên cao, nền quá thấp sẽ không đem lại may mắn trong làm ăn, đồng thời ảnh hưởng đến việc thông gió.

- Cầu thang nên tránh đối diện cổng bởi như vậy luồng khí đến và đi sẽ xung đột, không tốt cho vận may và sức khỏe.
- Phía sau văn phòng nên là không gian tĩnh, sẽ không tốt nếu là hành lang và nhiều người đi lại ồn ào. Tốt nhất là văn phòng tựa vào “núi”, nghĩa là tường vững chắc.
- Văn phòng không có cửa sổ là điều đặc biệt xấu vì không khí không thể lưu thông, “khí chết” nặng nề.
- Ánh sáng trong văn phòng phải chan hòa, ánh sáng tự nhiên tốt hơn là đèn điện.
- Bên cạnh phòng của sếp không nên có vòi nước nhằm tránh “dột tiền tài”, nên tựa vào “núi” (tường) nhằm tạo sự vững chắc, có lợi cho công việc phát triển. Bàn làm việc của sếp nếu đối diện với nhà vệ sinh thì có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của cả công ty.

- Vị trí tài lộc chính là góc chéo đối diện ngay cửa đi vào trong phòng. Vị trí này cần ánh sáng và sạch sẽ, kiêng đặt hoa và cây cảnh giả.
- Bàn làm việc không nên đối diện nhà vệ sinh, không nên nứt vỡ vì sẽ tổn hại đường công danh. Bàn làm việc tốt nhất nên làm bằng gỗ, tránh bằng kim loại. Phía trên không được có xà ngang hay đèn treo, bởi sẽ ảnh hưởng đến sự thăng quan tiến chức.
- Phía sau bàn làm việc tuyệt đối không nên có cửa, dù là cửa ra vào hay cửa sổ vì vừa kém an toàn vừa dễ mất tập trung. Tốt nhất là bàn làm việc có một góc dựa vào tường, tối kỵ đặt chéo.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Chùa Duyên Ninh còn có tên gọi dân gian khác là chùa Thủ. Chùa thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình). Chùa được xem là một trong những ngôi chùa cầu duyên nổi tiếng ở Việt Nam. Chùa nằm rất gần đền Vua Đinh Tiên Hoàng và giữa 2 điểm du lịch là chùa Bái Đính và khu du lịch sinh thái Tràng An. Chùa quay hướng đông bắc, gồm có chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp…
Lịch sử: Chùa Duyên Ninh là ngôi chùa cổ, được xây dựng từ thế kỷ X dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng. Chùa Duyên Ninh cùng với chùa Kim Ngân nằm ở vị trí thành Tây của kinh đô xưa. Cũng như chùa Nhất Trụ, chùa Duyên Ninh là nơi thờ phật và các nhà sư thế kỷ 10 như Pháp Thuận, Khuông Việt và Vạn Hạnh.
Chùa nằm rất gần đền Vua Đinh Tiên Hoàng và giữa 2 điểm du lịch là chùa Bái Đính và khu du lịch sinh thái Tràng An. Chùa quay hướng đông bắc, gồm có chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn, tháp…
Theo lịch sử ghi chép lại, Chùa Duyên Ninh là nơi các công chúa thời Đinh-Lê thường qua lại. Tại đây, công chúa Lê Thị Phất Ngân và tướng công Lý Công Uẩn đã thề hẹn ở đó mà sinh ra Lý Phật Mã (sau là vua Lý Thái Tông) vào năm 1000. Sau này khi Lý Thái Tông trở về đây dẹp loạn Khai Quốc Vương đã đổi tên chùa thành chùa Duyên Ninh. Cuối đời, Hoàng hậu Phất Ngân đã về đây tu hành và trông coi mộ phần thân phụ là Hoàng đế Lê Đại Hành. Tại đây, Hoàng hậu đã tác hợp cho nhiều đôi lứa thành đôi và từ đó Duyên Ninh trở thành ngôi chùa cầu duyên ở cố đô Hoa Lư.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 âm lịch năm Canh Tý niên hiệu Ứng Thiên thứ 7 thời Tiền Lê ở ngôi sau này là chùa Duyên Ninh trong kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình ngày nay). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi vua mới sinh, ở phủ Trường Yên có con trâu của nhà dân tự nhiên thay sừng khác, người có trâu ấy cho là điềm không lành, lấy làm lo ngại. Có người giỏi chiêm nghiệm đi qua nhà người ấy cười mà nói rằng: “Đó là điềm đổi mới thôi, can dự gì đến nhà anh” thì người ấy mới hết lo. Tương truyền thuở nhỏ ông đã có 7 nốt ruồi sau gáy như chòm sao thất tinh (sao Bắc Đẩu). Sau này ông trở thành vị Hoàng đế thứ hai của Nhà Lý.
Kiến trúc: Hiện tai, Chùa Duyên Ninh là một chùa cổ kính, nằm nép mình bên các dãy núi xưa là kinh thành của Hoa Lư. Trên địa bàn xã Trường Yên hiện còn 6 chùa gồm: chùa Nhất Trụ, chùa Am Tiên, chùa Kim Ngân, chùa Cổ Am, chùa Bà Ngô và chùa Duyên Ninh. Tương truyền, Mỗi chùa gắn với một sự tích khác nhau như cầu phúc thì đến chùa Cổ Am, cầu lộc vào chùa Kim Ngân, cầu danh vào chùa Nhất Trụ, cầu thọ vào chùa Bà Ngô, cầu tài vào chùa Am Tiên còn cầu duyên thì vào chùa Duyên Ninh…
Chùa Duyên Ninh là một trong những ngôi chùa cầu duyên linh thiêng nhất Việt Nam. Du khách và phật tử không chỉ được thưởng thức cảnh đẹp từ thiên nhiên mà còn có thể cầu nguyện năm mới nhiều may mắn.
A. Hình dáng các bàn tay của Nam giới
1. 1. Bàn tay ngắn quá : nghĩa là bàn tay không cân đối với cánh tay, hay với một thân hình to lớn quá. Cánh tay dài, hay thân hình to lớn thì phải có bàn tay dài hay to thì mới tương xứng. Người có bàn tay ngắn quá, thì đó là dấu hiệu cho thấy một con người có nhiều tánh tình lạ lùng, kỳ khôi, thường thì việc làm và lời nói không đi đôi với nhau, nói một đường làm một nẻo, hoặc muốn làm khác người.
2. 2. Bàn tay dài quá, và ngón tay thì gút mắt, kẽ giữa các ngón tay thưa thớt, tướng cao lêu khêu, miệng rộng, răng to, râu thưa : Bàn tay như thế, mà cộng thêm với dáng người như vậy, thì đây là hạng người hay nói nhiều, nói dai, nhưng không có cái gì ăn khớp với cái gì, và hay thù vặt.3. 3. Bàn tay dài quá, mà ngón tay lại ngắn, thô kịch, có gút mắt, và ngón tay út cũng quá ngắn : Ðây là hạng người nhẹ dạ, tính tình lại hay thay đổi và quá thiên về vật chất, coi tiền bạc nặng hơn tình nghĩa, hay nói càng nói xiên chẳng vị nể ai cả.
4. 4. Bàn tay đầy đặn và các đường chỉ tay rõ ràng không có những lằn cắt ngang dọc cộng thêm với tướng người cao vừa vặn cân đối, khỏe mạnh, mắt không bị lộ, đây là tướng người có những đức tính tốt, trường thọ, phúc hậu, lời nói bao giờ cũng được suy nghĩ trước khi nói, và phải có lý thì mới phát biểu, chứ không bạ đâu nói đó, nói càng nói bậy.5. 5. Bàn tay dài, lòng bàn tay hẹp, ngón tay không đều (ngón to ngón nhỏ, ngón mập ngón ốm) cong quẹo, đầu ngón tay cái nhọn vót, móng tay cứng, những đường chỉ trong lòng bàn tay không rõ ràng : ta đoán được những người như vậy có tính thái quá, thiếu chừng mực trong mọi việc, bạ đâu vui đó, không thủy chung, có khi còn càn bướng và láo khoét nữa.
6. 6. Bàn tay hơi vuông, đầu ngón tay cái và các ngón khác cũng hơi vuông, lòng bàn tay cứng và có ba dường chỉ chính (Sanh đạo, Trí đạo, và Tâm đạo – sẽ nói về sau) rõ ràng. Cộng thêm ngón út dài, chiều dài của ngón út (mở bàn tay ra và khép các ngón tay lại) dài hơn hai lóng của ngón áp út (ngón đeo nhẫn), đầu ngón út hơi tròn và có vành cao lên. Ðây là bàn tay của người siêng năng cần mẫn, việc làm rất chu đáo, biết xắp xếp, điều hòa mọi việc, biết giữ lời hứa, ít nói, tánh tình ngay thẳng, cương trực, đứng đắn, họ chịu đựng được môi hoàn cảnh của cuộc đời, cần kiệm, sống lâu, ăn uống hay chưng diện không lòe loẹt, đơn giản.7. 7. Bàn tay với lòng bàn tay cứng dẽ, các ngón tay hơi ngắn, móng cứng, có chỉ Tâm đạo xỉa xuống giữa ngón trỏ và ngón giữa : đây là bàn tay của người có tánh lì lợm, kỳ khôo. ít chịu phục tùng ai bao giờ, dầu cho lý lẽ của họ có sai bét đi chăng nữa, họ cũng không chịu thua. Vì sự cố chấp và cứng đầu của họ, nên cuộc đời họ gặp nhiều sóng gío, nhiều lần suy xụp, đảo điên.
8. 8. Bàn tay mà mỏng manh, ngón tay ngắn quá, lưng bàn tay xanh xao, da mặt cũng xanh xao, răng thưa và hô, tướng ốm, tóc sợi nhỏ, lỗ mũi nhỏ và lộ xương, xương cuống họng ló ra dài, người như vậy rất có thể mang chứng bệnh lao, và chết yểu .
9. 9. Bàn tay vuông, các ngón tay cũng vuông, lòng bàn tay cứng dẽ,có một đường chỉ (tâm đạo) nằm vắt ngang bàn tay như chữ nhất (-) đây là bàn tay của những người tánh tình nghêng ngang, hay gây sự, kiêu căng, phách lối, nhưng lại hay làm bộ hiền lành. Phần nhiều những người này lại hay sợ … vợ.
10. 10. Trái lại, bàn tay cũng có đường chỉ (tâm đạo) nằm ngang, nhưng lòng bàn tay thì mềm mại và các ngón tay cân đối, ngón tay cái dài, lóng thứ nhất của ngón cái vừa dài lại vừa vuông, đầu ngón trỏ hơi vuông, ngón tay út dài, và đầu ngón cũng hơi vuông – tướng người to béo, nước da trắng, pha đen, tiếng nói lớn và vang vang. Người như vậy thường là những người có chí sưu tầm những gì tỉ mỉ, trầm tĩnh, ít nói, nếu họ là bậc trí thức, thì họ có những đặc tài riêng, nhưng nhẹ dạ và nhát gan. Nữ giới mà người nào có đường chỉ nằm ngang lòng bàn tay như vậy là người hay hờn lẫy, và ghen tuông. Tóm lại, tất cả người nào có chỉ Tâm đạo nằm trọn ngang bàn tay thì họ là những người quá hà tiện đến độ bần, và cũng thường có những chứng bệnh về bộ phận tiêu hóa như ruột, dạ dày, hoặc yếu tim, phổi v.v.
Bói tay là một môn khoa học có từ lâu đời nghiên cứu về bàn tay (hình dáng, đường chỉ tay,…). Mặc dù đây chỉ là những tiên đoán mang tính tạm thời nhưng có vẻ như đấng tạo hóa đã vẽ sẵn một bản đồ cuộc sống trên bàn tay chúng ta. Mỗi đường chỉ tay thể hiện một lĩnh vực, mang tới một thông điệp.
Trong bàn tay có những đường chính như đường Sanh Đạo, Trí Đạo, Tâm Đạo, Định Mạng, Thái Dương và Hôn Nhân. Phạm vi của bài này chỉ giới hạn trong đường Hôn Nhân. Vị trí của đường này nằm ở ngay dưới ngón tay út, về phía cạnh của bàn tay. Đó là những đường rất nhỏ và ngắn so với những đường khác.
Vì sao tôi ghi tựa của bài này là "Xem chỉ tay người yêu"? Vì khi chúng ta yêu ai thì thường muốn biết người mình yêu như thế nào và hôn nhân sẽ ra sao. Còn nếu đã thành hôn rồi thì cũng muốn biết "nhịp cầu" có sẽ gãy đổ hay tồn tại mãi với sông tình. Ðể giúp tôi viết bài này dể dàng hơn, tôi xin phép đứng về phía các chị để xem chỉ tay của các anh. Tuy nhiên các anh có thể hiểu ngược lại, áp dụng những gì tôi trình bày trên bàn tay của các chị. Mức độ chính xác là tùy hoàn cảnh và sự hiểu biết riêng biệt của từng người. Tôi chỉ muốn đem sự hiểu biết khiêm tốn của mình về khoa xem chỉ tay chia xẻ với các bạn, với nhiều thiện ý.
Người bạn đang yêu có thể nói, "Em thật sự là mối tình đầu của anh". Bạn chẳng cần yêu cầu chàng qua máy Lie Detector (máy phát hiện nói dối) để biết sự thật. Bạn chỉ cần nhìn ở nơi có đường Hôn Nhân (ngay dưới ngón tay út như đã nói ở trên). Nếu bạn thấy 2 đường trở lên thì chắc chắn bạn không phải là người yêu duy nhất của chàng. Nói đến đây, bạn sẽ thắc mắc, "Tôi thấy có hai đường hôn nhân, vậy đường nào là của tôi đây, có thể tôi là mối tình đầu của anh ấy thì sao?". Để trã lời thắc mắc của bạn, tôi xin nói sơ qua về cách đo thời gian ở khoảng có đường Hôn Nhân. Đường Hôn Nhân ở khoảng giửa chân ngón tay út và đường Tâm Đạo. Bạn chia 4 khoảng cách đó, nếu đi từ Tâm Đạo trở lên, ¼ là 21 tuổi, 2/4 là 28 tuổi, ¾ là 35 tuổi.
Bạn có thể phỏng chừng thời gian ở giửa 2 tuổi 21-28 hay 28-35 nêu trên. Nếu anh ấy gặp bạn lúc 28 tuổi, nhưng khoảng 21 tuổi bạn thấy có một đường thì anh ấy đã từng trao thư tình cho ai đó trên đường có nhiều phượng đỏ! Ngược lại, nếu bạn gặp anh ấy vào tuổi 21, thì chắc chắn đây là mối tình đầu (tình đầu nào cũng đẹp, phải không bạn?), nhưng cái đường tình ở tuổi 28 là của ai đây?! Quá khứ, hiện tại, tương lai nằm ngay trên bàn tay là vậy đó.
Bây giờ chúng ta đi sâu vào chi tiết hơn. Thế nào là đường Hôn Nhân tốt hay xấu? Thường đường Hôn Nhân tốt thì thẳng, đậm và dài, tuyệt đối không bị gãy hay có những dấu hiệu gì khác trên đường đó. Nếu đường quá ngắn và mờ thì đó không phải là hôn nhân, mà chỉ là tình cảm sâu đậm, hay chỉ là mối "tình vụn"Trong hình số 2 trên đây, tôi vẽ 4 loại đường Hôn Nhân không tốt để các bạn dễ hiểu, bình thường thì chỉ có một đường thôi. Đường số 1 là đường Hôn Nhân bị gãy đổ (đường gãy và chồng lên nhau). Sau khi đã thành hôn rồi thì cũng phải chia tay thôi. Đường số 2 có cái chĩa hai (fork) ở cuối đường, kết cuộc rồi cũng phải xa nhau hay ly dị sau một thời gian chung sống với nhau. Xin lưu ý là hình số 2, đường chĩa hai (fork) hướng về lòng bàn tay (—-<), nếu hướng về cạnh của bàn tay (>—-), thì đây chỉ là một sự đính ước (engagement) không tiến đến hôn nhân. Đường số 3 tuy thẳng và dài, nhưng có một đảo nhỏ (island) đóng trên đường (—o—). Nó báo hiệu những xáo trộn lớn trong hôn nhân, hòn đảo càng lớn thi thời gian sống cách xa nhau càng kéo dài. Sau cùng là đường số 4, đường này có chỉa hai (fork) và đồng thời chạy xuống đường Tâm Đạo. Ðó là đường xấu nhứt trong 4 đường, có nghĩa là phải ly dị.
Tôi cũng cần nói thêm vài loại đường không ghi trong hình. Ðường Hôn Nhân có gạch chấn ngang là bị ngăn cản trong hôn nhân (—|–). Còn nếu đường Hôn Nhân cong vòng về phía ngón tay út, người này theo chủ nghĩa "độc thân". Sau cùng, tôi cũng xin bạn để ý, nếu đường Hôn Nhân đậm và thẳng, nhưng lại có một đường nhỏ và mờ song song kèm theo, chắc bạn đoán được là gì rồi chứ? Bạn cần kiểm nhận khi anh ấy đi chơi về, có mùi nước hoa lạ chăng?
Ngoài những đường Hôn Nhân nói trên ở dưới ngón tay út, còn có một loại đường khác cũng cho biết hôn nhân thành tựu hay không. Đó là đường chạy từ gò Thái Âm (Luna) về hướng đường Định Mạng (số 5 trong hình). Nếu đường này gặp (chạm vào) đường Định Mạng thì hôn nhân mới thành tựu, còn nếu ngưng nửa chừng thì không được. Một đường nhỏ và ngắn chạy song song với đường Ðịnh Mạng cũng là dấu hiệu thành công của hôn nhân.Bạn có thể thắc mắc là xem chỉ tay trên tay trái hay phải . Người ta thường nói câu "Nam tả nữ hữu" khi xem chỉ tay, có nghĩa là phái nam thì xem tay trái, phải nữ xem tay phải. Nhưng qua những gì tôi học hỏi được, những chỉ tay trên bàn tay trái chỉ về định mạng, thường không thay đổi. Những chỉ tay trên bàn tay mặt thay đổi tùy theo những gì bạn có thể thực hiện được để thay đổi định mạng. Nếu trời dành cho bạn trí tuệ thông minh xuất sắc (được ghi trên bàn tay trái), nhưng bạn không chịu học hỏi, thì tất nhiên đường trí tuệ của bạn xấu hơn trên bàn tay phải. Áp dụng vào đường Hôn Nhân, nếu trên bàn tay trái đường ấy có dấu hiệu đổ vỡ, nhưng vì tình yêu và ý chí của bạn thật tuyệt vời, con đường Hôn Nhân của bạn trên bàn tay phải được hàn gắn lại với thời gian, và đường tình của bạn trở nên rực rở, đầy hoa thơm và mộng đẹp. Vì vậy khi xem chỉ tay các bạn cần xem cả hai bàn tay để đối chiếu và giải đoán chính xác hơn.
Bài viết gom nhặt các bài viết của tác giả Hà Uyên trên các diễn đàn lý số
Sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn thường viết "tại đẩu chủ về... tại số chủ về..."
Ví dụ như sao Vũ khúc, sách viết: "Vũ khúc thuộc Kim, tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài"
Như vậy, Gloria nên tìm hiểu hàm nghĩa của:
- Tên sách có chữ Phi tinh được hiểu như thế nào? Thứ tự phối Phi tinh và Chính tinh là có khác nhau?
- Tại Đẩu có nghĩa là gì? Tại Số có nghĩa là gì?
Phải chăng câu "tại Đẩu chủ về Thọ, tại Số chủ về Tài" có thể được hiểu là "tại Thiên chủ về Thọ, tại Địa chủ về Tài"
Khi xét tới Thiên bàn và Địa bàn của một lá số, thì có thể vẫn xảy ra trường hợp, Vũ khúc tại Địa bàn cư cung Dần, ngộ Liêm Trinh tại Thiên bàn cư cung Dần ==> Vũ Khúc và Liêm Trinh đều gặp nhau tại cung Dần
===================
Xác định Địa bàn đối với lá số có giờ sinh là Tý - Ngọ thì như thế nào? (Thân Mệnh đồng cung)
Theo tìm hiểu của Tôi, hiện có hai trường phái dùng cách thức khác nhau:
- Trường phái thứ nhất lấy cung Phu thê để lập Cục
- Trường phái thứ hai thì lấy cung Phúc đức để lập Cục
Thực tế kiểm nghiệm của cá nhân Tôi, theo cách thức như sau:
- Dương nam Âm nữ thì lấy cung Phúc đức để lập Cục,
- Âm nam Dương nữ thì lấy cung Phu thê để lập Cục
Gloria sinh giờ Tý, số có Thân Mệnh đồng cung, nên kiểm thêm độ tin cậy của thông tin như thế nào, khi lập Địa bàn cho lá số của bản thân. (trường hợp năm tháng ngày giờ sinh của Gloria có thể gọi là đặc biệt)
....
Sách Phi tinh viết:
Tử vi thuộc thổ, là tôn quân ở trên trời, chủ về nắm giữ những điều quan trọng của tạo hóa. Cai quản ngũ hành, nuôi dưỡng vạn vật. Mệnh con người lấy Tử vi để định số, an các vòng sao.
Tử vi thủ Mệnh là trung đài, trước một vị là thượng đài, sau một vị là hạ đài, cần phải xem cả tam đài có miếu vượng hay không?
Sách viết như vậy, ta nên hiểu "Tam đài" như thế nào?
==============
Thứ tự Phi tinh phối Chính diệu: (theo sách Tử vi Đẩu số phi tinh - Trần Đoàn)
NAM ĐẨU
- Thiên phủ là sao thứ nhất
- Thiên lương là sao thứ hai
- Thiên cơ là sao thứ ba
- Thiên đồng là sao thứ tư
- Thiên tướng là sao thứ năm
- Thất sát là sao thứ sáu
BẮC ĐẨU
- Tham lang là sao thứ nhất
- Cự môn là sao thứ hai
- Lộc tồn là sao thứ ba
- Vũ khúc là sao thứ tư
- Liêm trinh là sao thứ năm
- Vũ khúc là sao thứ sáu
- Phá quân là sao thứ bảy
Không thấy nói gì đến thứ tự của sao Tử vi khi phối với Phi tinh, vì sao lại như vậy? con số 13 chính diệu phối Phi tinh được hiểu như thế nào?
....
Gloria, on 16/10/2012 - 14:05, said:
Thưa cụ, có phải cháu hiểu, đó là xem vị trí xuất thân, biến động của gia đình anh em đương sự, có đúng không ạ?
Nên xét tới đối cung và xung cung, hàm nghĩa của Sao có khác nhau,
Ví như Mệnh cư Hợi, thì "đối cung" là Tham lang đối cung với Thiên tướng + Liêm trinh, còn "xung cung" là Cự môn xung cung với Thái dương (Cục định sinh Nhật nghịch bố tử, đối cung Thiên phủ thuận lưu hành. Vi hữu Dần Thân đồng nhất vị, kỳ dư Sửu Mão hỗ an tinh)
....
Gloria, on 16/10/2012 - 19:09, said:
Cháu cần có thêm chút thời gian để suy nghĩ về cội nguồn của Đẩu và Số
Điều này là cần thiết, Tôi nghĩ nên như vậy!
Tiêu chí topic nói "phi tinh" và "tứ hóa" (Mạn đàm về TV ĐS phi tinh và Phi Yến Quỳnh Lâm), mối quan hệ giữa Cửu cung phi tinh và Tử vi, ta nên khảo cứu sau.
Cổ nhân nói "Vô vận bất năng tự tạo", con người ta sinh ra có vận, vận có thuận nghịch, khởi điểm tính thuận nghịch được xét bắt đầu từ cung Mệnh, nên từ cung Mệnh để xét tới đối cung hay để xét tới xung cung. Giả như Mệnh lập tại Hợi, là cung Tứ sinh, cung Phụ mẫu đối cung Huynh đệ, ví dụ ở đây có thể xét tới tình trạng dưỡng dục (tuổi Tân thì Hợi lập Mộc cục, dưỡng cư Tuất, Mộc dục cư Tý = dưỡng dục - dục của Mộc sẽ khác với Thổ dục, Kim dục, Thủy dục, Hỏa dục)
Tỵ Hợi được cho là Thiên môn và Địa môn, khi Cự môn nhập Thiên môn (cung Hợi) được cho là chỗ cung vượng (theo Thiệu Khang Tiết), tuổi Tân nên Thanh long động tại cung Hợi, được cho là Mệnh hợp cách thăng quan phát tài. Năm Quý thì Cự môn ngộ Đà la, là năm mà Cự môn hóa thành "ám" được gọi là "cửa đóng" (kiểm thêm ngày Quý?), lại thêm năm Quý xét tới xung cung Nô và Huynh chứa Phục bình + Tướng quân, được gọi là "phá đối hạ cục"... khi ta trọng năm Quý cưỡng không hóa "ám" cho Cự, vì Cự hóa Quyền năm Quý, tới năm Giáp lại gặp ngay phải cách "Mão đầu đới tiễn", thì sẽ xảy ra tình trạng được cho là phá cục, ... đại khái như vậy, ta nên tập trung vào mệnh bàn 12 cung trước, đối với Cửu cung phi tinh phối Tử vi nên khảo cứu sau (vì đó là mối quan hệ giữa Tử vi liên quan tới Kỳ môn và Phong thủy)
Giloria là cách Thân Mệnh đồng cung, còn Ngô Bảo Châu thì Thân cư Phúc đức, tuổi Nhâm có Lộc tồn ngộ Cự môn, thường biến cách nhân sư, nhưng Gloria được cách Trường sinh ngộ Thanh long còn Ngô Bảo Châu thì không được như vậy. (Theo "Tử vi Đẩu số - Thiệu Khang Tiết" thì Trường sinh ngộ Thanh long gọi là cách đặc biệt)
....
Gloria, on 20/10/2012 - 19:05, said:
Câu hỏi cho mọi người: Lý thuyết trục trong Tử Vi Đẩu Số Phi Tinh và trục trong Đông A có trùng nhau hay không?
Có liên hệ gì giữa các trục này và ba trục thiên địa nhân sát trong tử vi nam phái?
Gloria có tự đặt ra câu hỏi: "Tại sao Quân tử luôn luôn được ở trong, Tiểu nhân luôn phải ở ngoài không? Phải có thời của Tiểu nhân đoạt ngôi, mà Quân tử bị thất thế phải đi ra ngoài!"
Nguyên tắc "Thiên chính Địa thường" định lệ = ghi năm bắt đầu từ Tý, ghi tháng bắt đầu từ Dần
Để trả lời câu hỏi mà Gloria, thì có thể thiết lập lá số Tử vi theo nguyên tắc ngược lại, có nghĩa là ghi năm bắt đầu từ Ngọ, ghi tháng bắt đầu từ Thân.
Định lệ Kê - Mã - Trư - Long - Ngưu - Hổ, nay đổi lại thành Thố - Thử - Xà - Cẩu - Dương - Hầu (Mão - Tý - Tị - Tuất - Mùi - Thân)
Định cục theo chiều ngược kim đồng hồ, tất cả vẫn giữ nguyên, ví dụ tuổi Tân mệnh cư Hợi, thì Ngọ Mùi là Thổ cục, Tị Thìn là Tam cục, Dần Mão là Nhị cục, Tý Sửu là Kim cục, Tuất Hợi là Hỏa cục... sau đó an sao Tử vi, Mệnh cư Hợi thuộc Hỏa cục, ngày 23 thì Tử vi cư Thìn, có Thiên đồng nhập cung Mệnh,...
Giả như ta nói, Bắc bán cầu là Cự môn, Nam bán cầu là Thiên đồng có được không? Trục Tị Hợi có phải là trục phân âm dương không? Nếu không phải thì gọi trục Tị Hợi là trục gì?...
Tiêu chí của topic là Mạn đàm... nên tôi đề xuất thêm một hướng, để truy tìm câu trả lời
Gloria có thể làm thử xem sao, rồi chúng ta đưa ra câu trả lời mà Gloria đã hỏi
....
Gloria, on 22/10/2012 - 04:17, said:
Cháu đang sợ rằng cách cháu tính Cục là sai, vì nếu mệnh an tại Dần và Mão thì sẽ không ra kết quả khớp với cụ. Có thể là có gõ nhầm.
Đúng là Tôi gõ sai, (khởi từ Mùi 5, Ngọ 5, Tị 3, Thìn 3, Mão 2, Dần 2, Sửu 4 Tý 4, Hợi 6, Tuất 6, Dậu 3 Thân 3).
Người ở Bắc bán cầu và người ở Nam bán cầu, cùng năm tháng ngày giờ, cùng giới tính, chắc là phải khác nhau từ lập số cho đến luận giải số, nhận định này Tôi cũng sai,.... thôi, cho qua và không bàn tới nội dung này nữa.
Nhưng, Tôi vẫn nghĩ nhiều tới nguyên tắc: Trời có âm dương - Đất có cương nhu - Người có nhân nghĩa. Ví dụ như nói về Mệnh thuộc Kim
- Trời = Giáp Tý Ất Sửu >< Giáp Ngọ Ất Mùi = Một âm một dương, một thủy một thổ, thủy thổ tương khắc
- Đất = Nhâm Dần Quý Mão >< Nhâm Thân Quý Dậu = Một cương một nhu, dần mão thuộc mộc, thân dậu thuộc kim, Kim Mộc tương khắc
- Người = Canh Thìn Tân Tị >< Canh Tuất Tân Hợi = thìn tị trong bát quái ứng với Tốn, tuất hợi ứng với Càn, hình thể và mầu sắc của cả 2 có sự khác nhau.
Lại thêm dụ ý:
Thiên địa khai minh
Thủy Thân Mộc Hợi
Sơn Trạch thông khí
Mộc Dần Kim Dậu
....
Gloria, on 22/10/2012 - 14:38, said:
Kính thưa cụ.
Cho cháu hỏi, cụ có quan tâm tới lý thuyết Phiêu Phiêu, còn gọi là Kỵ Truy Kỵ, Lộc Truy Kỵ, chuyển Kỵ không ạ?
Cháu đang cùng một số cộng sự work một chút về Phiêu Phiêu, nhưng vẫn thực sự chưa nắm được tinh túy của nó. Cụ có đánh giá gì về lý thuyết này không ạ?
Tôi muốn biết trước thông tin về Lộc
- Thiên lộc năm Nhâm 2012 nhập Mệnh
- Địa lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Đinh Thái âm hóa Lộc, ứng cung Thê cư Dậu, Địa lộc can Đinh tại Ách
- Nhân lộc năm Nhâm Thìn 2012 là can Bính Thiên đồng hóa Lộc, ứng cung Quan cư Mão, Nhân lộc can Bính tại Di
Trong tam Lộc của thiên - địa - nhân cho tới thời điểm này đã ứng chưa? Nếu chưa ứng, thì là Thiên lộc Nhâm chưa ứng? hay Địa lộc Đinh chưa ứng? hay Nhân lộc Bính chưa ứng?
Tôi hỏi như vậy là muốn kiểm lại công thức này, trước khi chúng ta bước sang lĩnh vực thuyết Phiêu Phiêu,
Nếu Gloria thấy phiền về thông tin này thì thôi
....
Nam Đẩu hội tụ với Đế thiên tại phương Khôn, được gọi là "Đới Thiên phúc Địa", người sinh ra vào đêm, cần xác định rõ phương vị của mặt Trăng mọc, nay mặt Trăng ở nơi hữu triền, được gọi là "hướng minh". Gọi là "hướng minh", có nghĩa là ở nơi sáng vẫn hướng tới nơi chỗ sáng hơn, cũng như ở nơi tối mà hướng tới nơi sáng vậy, chẳng thể ở nơi sáng mà nhìn vào nơi u tối,...
Mệnh được định cách "Đới Thiên Phúc Địa", cho nên khi điều kiện cho phép, nên quan tâm tới Địa mệnh!
Lại nói:
Người Sinh sau Hạ chí tới trước Đông chí, mặt Trời được tính bắt đầu ở 1 độ chòm sao Tỉnh, còn đối với người sinh sau Đông chi cho tới trước Hạ chí, mặt Trời được tính ở 6 độ chòm sao Cơ,...
Vậy, hỏi rằng, Tại sao "Xuất Dần nhập Thân" thì được gọi là Quân tử thời đang thịnh trị? Xuất Thái nhập Bĩ sao?
Nay,
Gặp người ở thời "Thủ vỹ hoành thiên" (trục Thìn Tuất), Mệnh cư Hợi được định cách "Đới thiên Phúc địa",... và như vậy cung Thân (mệnh) được xác định theo phương vị của Địa hộ,... Mệnh cư Hợi, nơi giao giới âm dương, có thể nên bắt đầu từ "Xuất Khôn nhập Càn" vậy!
==========
Bài tập: nên tìm tư liệu đọc trước, tìm hiểu về chữ "Bích" khi nói tới "Nguyệt bích", đó là mối quan hệ giữa 12 tháng với sao Bích, được gọi là Nguyệt Bích, cung Hợi nằm ở trên Thiên môn, định lệ hàm chứa hai tú: Thất và Bích
....
Mr.Anh, on 23/10/2012 - 09:51, said:
Thưa cụ, tính Địa Và Nhân có phải tính theo ngũ hổ độn: Bính - Tân (tuổi Tân), Đinh Nhâm (Nhâm), Bính lộc tại Di, Đinh Lộc tại Ách?
Mong cụ chỉ dạy.
Cảm ơn cụ
- Cách đọc sách Thứ nhất nhận thấy: Trong sách "Tử vi Đẩu số", tập 1-2-3, 03 tập đầu này do Bắc phái trấn thủ, tập 4-5-6-7 do Nam phái trấn thủ, tại 03 tập đầu quyển 2 có nói tới phép "tam tam", có nghĩa là căn cứ vào ngày sinh, phối hợp với Cục số, kết hợp với Hóa Lộc "gốc" của Thiên mệnh, để tính Địa lộc.
- Cách đọc sách thứ hai nhận thấy: Trong sách Quả Lão tinh tông - Quyển thượng, có trình bày về nguyên tắc tính Thiên nguyên lộc, Địa nguyên lộc, Nhân nguyên lộc
Cả hai cách thức này, khi trải qua thực nghiệm với một số người sống gần 12 ~ 15 năm, lao động ở môi trường nghề nghiệp khác nhau,... đúc kết thống kê lại, để làm rõ mối quan hệ của Thiên mệnh Hóa Lộc "gốc" với cung Thân (mệnh), xác định Địa lộc một cách chính xác.
Khi Tôi hỏi Gloria, là để kiểm lại cả hai cách thức mà sách đã viết, là đúc kết cá nhân, không có giá trị phổ biến.
Mr.Anh nên theo những gì sách Tử vi đã được phổ cập sử dụng trong nhiều năm qua, khi nào sách biên dịch in ra phổ biến về Địa lộc và Nhân lộc, thì chiêm nghiêm sau, nên như vậy.
....
@ Gloria:
Nguyên tắc tính thiên can cho Tiểu hạn Gloria đã biết cách tính chưa?
- Đại Hạn khởi đầu là Kỷ Hợi
- Tiểu hạn khởi đầu là Quý Sửu
- Thái tuế là Tân Dậu
....
Năm 1981 - Tân Dậu (xác định Địa thường chính nguyệt - cách thứ nhất)
- Tháng Tám - Dậu = hào Thượng quẻ Ly + hào Sơ quẻ Đoài
- Tháng Chín - Tuất = hào Nhị quẻ Đoài + hào Tam quẻ Đoài
- Tháng Mười - Hợi = hào Tứ quẻ Đoài + hào Ngũ quẻ Đoài
===============
- Ngày mồng 1 tháng 10 âm lịch năm Tân Dậu (28/10/1981) => hào Thượng quẻ Khôn
...,...,...,
- Ngày 23 tháng 10 âm lịch (19/11 DL) => hào Tứ quẻ Phệ hạp - hào Tứ nạp can Kỷ
- Năm Tân, can Kỷ nhập cung Mệnh - Địa mệnh đắc chính.
....
Một người có Mệnh cư Ngọ, thiên can nhập cung Mệnh là can Canh, đương số tuổi Sửu nên thiên can Tiểu hạn là can Ất. Khi thiên can của Đại hạn và Tiểu hạn Ất Canh tương hợp, sách viết: "Đại vô bất chu, Tiểu vô bất cụ, Ngũ tinh tòng Nhật lãnh tụ chi thần cách"
Khi thiên can của Đại hạn và thiên can của Tiểu hạn tương hợp, Cổ nhân cho rằng cũng là một trong những căn cứ để xếp vào loại Mệnh tốt (đại quý)
Đây là một ví dụ, năm 1995 đương số đã được gọi bằng "Ông" mà không phải gọi là "thằng" (cấp Tá), đó là "ông Tướng" (Thiếu tướng), 17/11/1949 DL, 8h00
....
saobienden:
Em thấy anh Gloria quan tâm nhiều đến Thất chính Tứ dư, em xin tài liệu này từ chú Công là Phó khoa Hồi sức cấp cứu - BvTW - 108 (học trò Cụ), anh đọc xem có giúp được gì không anh nhé
- Giáp Kỷ tác Hỏa
- Tứ sinh = Bính Dần - Ất Tị - Bính Thân - Ất Hợi => Bính + Ất
- Tứ vượng = Mậu Tý - Đinh Mão - Mậu Ngọ - Đinh Dậu => Mậu + Đinh
- Tứ mộ = Kỷ Sửu - Giáp Thìn - Kỷ Mùi - Giáp Tuất => Giáp + Kỷ
- Ất Canh tác Kim
- Tứ sinh = Nhâm Dần - Tân Tị - Nhâm Thân - Tân Hợi => Nhâm + Tân
- Tứ vượng = Giáp Tý - Giáp Ngọ - Quý Mão - Quý Dậu => Giáp + Quý
- Tứ mộ = Ất Sửu - Canh Thìn - Ất Mùi - Canh Tuất => Ất + Canh
- Bính Tân tác Thổ
- Tứ sinh = Mậu Dần - Đinh Tị - Mậu Thân - Đinh Hợi => Mậu + Đinh
- Tứ vượng = Canh Tý - Kỷ Mão - Canh Ngọ - Kỷ Dậu => Canh + Kỷ
- Tứ mộ = Tân Sửu - Bính Thìn - Tân Mùi - Bính Tuất = Tân + Bính
- Đinh Nhâm tác Thủy
- Tứ sinh = Giáp Dần - Quý Tị - Giáp Thân - Quý Hợi => Giáp + Quý
- Tứ vượng = Bính Tý - Ất Mão - Bính Ngọ - Ất Dậu => Bính + Ất
- Tứ mộ = Đinh Sửu - Nhâm Thìn - Đinh Mùi - Nhâm Tuất =. Đinh + Nhâm
- Mậu Quý tác Mộc
- Tứ sinh = Canh Dần - Kỷ Tị - Canh Thân - Kỷ Hợi => Canh + Kỷ
- Tứ vượng = Nhâm Tý - Tân Mão - Nhâm Ngọ - Tân Dậu => Nhâm + Tân
- Tứ mộ = Quý Sửu - Mậu Thìn - Quý Sửu - Mậu Tuất => Quý + Mậu
....
Khi phán đoán mệnh người,
Trước hết xem phát truyền.
Khí vượng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu Quan
Khí tướng khi phát dụng,
Sẽ lợi việc cầu tài
Khí hưu khi phát dụng,
Thường bệnh tật liên miên.
Khí tù khi phát dụng
Bệnh tật chẳng bỏ qua.
Vương tướng khi phát dụng,
Sự việc thường ứng nghiệm
Một truyền hưu tử tới
Việc mờ mịt chẳng thông
Cục ý nghĩa tiến lùi
Khí đặc thù vượng tuyệt
Suy mộ coi như thoái
Thai sinh tiến chẳng lo
Thoái khí việc càng hung
Tiến khí an càng an
Nguồn: Cụ giảng về Ngân Thăng thuật
(Nguồn: sưu tầm)
lethanhnhi, on 07/09/2012 - 06:37, said:
SAO ĐỂ BIẾT ĐẦU BẠN MỌC SỪNG:
- Mệnh Cự môn thìn tuất, nam mệnh, chỉ cần vợ kiếm tiền, bất kể là tiền gì, mọc sừng cũng........không sao
- vũ khúc thất sát lộc tồn tả hữu cư phu thê
- Phu thê cung hóa kị nhập tử tức cung
- Phu thê hóa kị nhập quan cung
- phu thê tử phá sửu mùi, cả vợ chồng đều thích đi ăn vụng
- điền kị nhập bệnh
Ví dụ câu:
+ Phu thê hóa kị nhập quan cung
- Lá số lưu theo can Năm, thấy cung Phu thê gặp can Đinh, mà can Đinh có Cự Môn ngộ hóa Kị,
- Sau đó nhìn tới cung Quan thấy có sao Cự Môn cư Quan
- Phái Nhất Diệp Tri Thu cho rằng: can cung Phu thê hóa Kị nhập cung Quan, và đưa ra nhận định cho rằng: tình cảm vợ chồng sao nhãng, cả vợ và chồng đều thích đi ăn vụng
Trường phái này công bố nguyên tắc xem về Cung rất đáng quan tâm
...
@ Lethanhnhi: Khi tìm hiểu về trường phái Nhất Diệp Tri Thu, thì LethanhNhi lưu ý:
- Nam đẩu được cho là: chủ về hướng nội, chủ nhu - Ngoại nhu Nội cương.
- Bắc đẩu được cho là: chủ về hướng ngoại, chủ cương - Ngoại cương Nội nhu
Hàm nghĩa tinh yếu này, quyết định chi phối nguyên tắc lập tượng ==> lấy cơ sở của nguyên tắc này làm phương pháp luận xem xét sự vượng nhược của Cung, và xác định những Cung nào bị Sát tinh xung phá để đưa ra lời đoán định.
Có thể xem đây là Nguyên tắc thứ nhất của trường phái Nhất Diệp Tri Thu vậy!
...
lethanhnhi, on 08/09/2012 - 10:29, said:
em nhận ra người quen rồi, em đang dùng quẻ ![]()
@ LeThanhNhi:
Về quẻ này, thì Trung Châu phái và Tri Thu phái có điểm giống nhau và có điểm khác nhau khi lập thuyết cho Môn phái
- Giống nhau là hai Môn phái đều phối Tử vi với can Kỷ và Thiên phủ với can Mậu
- Khác nhau đó là, Trung Châu phái thì phối can Nhâm với Thiên Đồng, Tri Thu phái thì phối can Nhâm với Thiên tướng
Khi nào LeThanhNhi hứng thú đi sâu nghiên cứu thêm, để làm chủ bản thân và tự giải hạn cho mình, thì nên lưu ý!
...
Trích Lời tựa sách Tử Vi Đẩu số - Thuật Đăng Hạ, tập 2 <đã xuất bản ở Việt Nam - nxb Hồng Đức>
".... Vì vậy, khi bậc tiên sư truyền lại cho tác giả có nhắc nhở; " Nhà ngươi về sau thay người đoán mệnh, một là tiền công không được lấy cao (tác giả đoán mệnh cho người đã 5 năm nay mà chỉ lấy có 500 đồng, từ ngày 1 tháng 4 năm Dân Quốc 74 mới thu lên 600 đồng, mà những người đoán mệnh khác đều thu tới 1000 đến 2000 đồng). Hai là dặn dò người xem hàng năm nên đến xem lại lưu niên, để kiểm chứng sự việc dự đoán lần trước có chính xác hay không". Nỗi khổ tâm của tiên sư khiến tác giả vô cùng cảm phục!
Thuật Đăng hạ trình bày nhiều luận điểm mà các thư tịch khác không dễ gì tìm thấy, chẳng hạn như:
1. Người có sao Thái Dương và Thái Âm ở cung Thiên Di thì nên phát triển ở các phương hướng Đông, Bắc, Nam, bất lợi ở hướng Tây..
2. Người có sao Văn Xương ở cung Ngọ thì kỵ đi về hướng Nam.
3. Ngoài ra còn có màu sắc y phục (nhưng điều này quá phức tạp, lại không chuẩn xác)
4. Đi sâu vào phân tích tính cách, chẳng hạn như:
- Người có sao Thiên Hỷ tọa mệnh rất đáng yêu, được mọi người yêu thương.
- Say mê một số sở thích như câu cá, đánh cờ, uống rượu, âm nhạc, thích mua sắm quần áo...
Thuật đăng hạ nhấn mạnh âm đức. Nếu chúng ta đoán mệnh không chuẩn là vì các nguyên nhân sau:
1. Bát tự giờ sinh không đúng.
2. Ông bà cha mẹ, bản thân người đó có làm những việc tổn tới âm đức hay không? Cho nên khuyên chúng ta nên làm nên làm nhiều việc thiện, để phúc ấm lại cho con cháu.
3. Cũng nhấn mạnh các vấn đề như quỷ, luân hồi, báo ứng,...., cho nên nếu bạn không tin có quỷ thần thì không nên tìm hiểu thuật số.
4. Việc tiên cơ khó đoán.
Thuật Tử vi Đẩu số trong cổ thư không những khó đọc mà ý nghĩa khó hiểu, phải dựa vào sự kiểm chứng của chúng ta để đạt được sự tham ngộ.
Tham ngộ là tự mình nghiên cứu tham khảo từ nhiều nơi rồi ngộ được những điều uyên áo, huyền diệu trong đó.
Cuộc đời tác giả cảm thấy hổ thẹn vì không có cống hiến gì cho quốc gia xã tắc, nay giữa đêm khuya, khơi bấc đèn, mài mực chấp bút, tỏ bày tất cả để mọi người cùng nghiên cứu tham khảo, hy vọng giúp mọi người " phao chuyên dẫn ngọc", cùng mọi người tranh luận, đạt được những tri kiến, phần là mong mỏi các bậc cao nhân thạc đức điểm chỉ những hạn chế của bản thân.
CUỐI XUÂN, NĂM ẤT SỬU
PHAN TỬ NGƯ KÍNH BÚT!
Chủ đề An Khoa muốn bàn đến "ưu - nhược" của chính diệu, đây là vấn đề phải chăng, luôn được điều chỉnh theo "thời" đối với xã hội học
Tôi vẫn chưa bước ra khỏi tầm ảnh hưởng tư tưởng của Đạo giáo trong học thuyết của Tử vi, cho nên dụ ý mà Tôi muốn nói tới, đó là mối quan hệ giữa Thiên bàn và Địa bàn, khi chúng ta xem xét được cả Thiên (bàn) và Địa (bàn), thì có thể Ta không dùng khái niệm "ưu - nhược" để miêu tả, ví dụ như Ta nói:
- Khi Thiên bàn sinh trợ cho Địa bàn, thì được gọi là "Đạo khí", có nghĩa là đương số thường hành động mang Phúc của mình đem cho người khác, ám chỉ sự giúp đỡ là bổn phận.
- Khi Địa bàn sinh trợ cho Thiên bàn, thì gọi là "trợ khí", có nghĩa là đương số tự hưởng lấy Phúc phận của mình
- Khi Thiên bàn khắc Địa bàn thì gọi là "thuận", trên khắc dưới, thì đương số bẩm khí có thiên uy, có thể tự biết phải làm như thế nào để lãnh đạo người khác
- Khi mà Địa bàn khắc Thiên bàn thì gọi là "nghịch", dưới khắc trên, thì phần nhiều cuộc đời đương số thường trì trệ, khó để trở nên hiển quý, khi ở vào nơi Tử Tuyệt thì càng tồi tệ, ở vào nơi Sinh Vương mà có đủ tài lực để phát, thì cũng không thể nhanh
An Khoa tham khảo thêm một hướng nhìn cho vui
...
Khi đêm đến, bằng mắt thường, nhìn lên bầu trời, có tới ngàn vạn ngôi Sao, cái mà hướng Ta tập trung nhìn tới, đó là những ngôi Sao sáng nhất, nổi bật sáng tỏ đối với những sao ở xung quanh. Đây cũng có thể là một cách suy nghiệm.
...
AnKhoa, on 22/10/2012 - 17:05, said:
Thưa cụ, đây có thể là nỗ lực của ngành tâm lý học tích cực mà nhiều học giả phương Tây đang gắng sức tìm hiểu. Nhưng trải qua một thời gian nghiên cứu, rồi đi vào nghiên cứu Tử Vi, AnKhoa lại thấy rằng:
Để nhìn được bằng mắt thường, để có thể hướng cái Ta tập trung nhìn tới thật khó lắm. Đôi mắt của mỗi người có thể không khác nhau nhiều về tính chất sinh học, nhưng nó lại được "che phủ" bởi một lăng kính, mà lăng kính đó lại được định hình bởi một số sao tại Mệnh, Thân hay Vận trong hiện tại?
Chúng ta hướng vào nội dung chủ đề topic, đó là Ưu - Nhược của cái "chính", An Khoa có thể nói sơ qua về Thất sát được không?
Nếu có thể phân loại, chúng ta tìm hiểu thêm
- Những loại Mệnh nào, có ngũ hành của Mệnh không "dụng" được Thất sát, mặc dù là Thất sát thủ mệnh?
- Những loại tuổi nào theo can chi Năm phối ngũ hành Cục vô hiệu hóa Thất sát không phát huy được tác dụng, mặc dù Thất sát thủ Mệnh?
- Mối quan hệ của cái "chính" khi nhập cung? Ví dụ như Cự môn nhập cung Nô thì... Cự môn nhập cung Di thì... Cự môn nhập cung Tử tức thì... hay Thất sát cư Phu thê thì... Thất sát cư Tật ách thì...
...
Durobi có tìm hiểu tại sao ngày Thượng huyền và ngày Hạ huyền (ngày 8 và 23) sao Tử vi không an tại Sửu Mùi?
Bất kể là tuổi gì? bất kể là sinh vào tháng nào? cũng như Mệnh cục là Thủy cục, Mộc cục, Kim cục, Thổ cục, Hỏa cục, thì người sinh ngày 8 và ngày 23 không bao giờ sao Tử vi an tại Sửu Mùi. Chắc phải có nguyên nhân và lý do của nó!
Và tại sao Thất chính Tứ dư lại căn cứ vào Ngày sinh để xác định cung Thân? khác với Tử vi "Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi,... nghịch hồi an Mệnh thuận an Thân"
...
QuachNgocBoi, on 23/10/2012 - 18:50, said:
Thưa cụ Hà Uyên,
Cháu tính lại thấy với ngày 23 (Hạ Huyền) thì đúng như vậy.
Nhưng với Hỏa Cục thì ngày mồng 8 (Thượng Huyền) thì Tử Vi đến tại cung Mùi.
Với môn Thất Chính Tứ Dư thì Thân an theo Nguyệt (có ẩn Nhật), một tuần trăng 30 ngày thì trung bình sẽ mất 2,5 ngày trên 1 cung (18 canh giờ / 1cung) để đi hết được 1 vòng 12 cung.
Hà Uyên, on 20/10/2012 - 19:56, said:
... lại nói đối với 5 cục thì không bao giờ ngày 23 có Tử vi đóng tại Mùi,
Cảm ơn anh QuachNgocBoi
Viết bài trả lời anh Vuivui ngày 20/10, thì Tôi chỉ nói tới ngày 23, nhưng ba ngày sau, tức ngày 23/10, Tôi lại viết thêm ngày mồng 8 tương thích với năm Mậu Quý, nói thêm vào như vậy là vì "chính nguyệt" đối với năm Mậu Quý (Đẩu bính kiện Dần chính nguyệt khởi...) có thể phải xem xét kỹ hơn khi gặp "nhuận", Tôi đưa thêm ngày mồng 8 vẫn còn mang thêm một số hàm ý khác
Nhưng thôi, Ta bàn lại sau, trở lại với tính Ưu - Nhược của cái "chính" trong topic này.
...
AnKhoa, on 23/10/2012 - 17:19, said:
Thưa cụ, Thất Sát vốn là một Tướng tinh,
Tôi muốn hiểu thêm, trên nguyên tắc nào và nguyên nhân nào, sao Thất sát được cho là "Thất sát vốn là một Tướng tinh"!
Đối với Phi tinh thì ngài Trần Đoàn xếp theo thứ tự đứng thứ 6 của Nam đẩu (1 Phủ, 2 Lương, 3 Cơ, 4 Đồng, 5 Tướng, 6 Sát). Đối với Đẩu số, khi phối thiên can, sao Thất sát phối với can Canh theo thứ tự của thiên can là số 7,... ví như những nguyên tắc này, có thể đủ để kết luận sao Thất sát là Tướng tinh!!! hay vẫn có nguyên nhân nào khác, mà chúng ta chưa đề cập đến
...
banghuynh, on 24/10/2012 - 10:48, said:
@Cụ Hà Uyên: cháu xin được nêu suy nghĩ về các mệnh có thể "dụng" được Thất Sát là: Kim, Thủy
Kính Cụ!
Có thể sau này, banghuynh sẽ tự mình định hình cho mình một "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của cái "chính". Tôi nói vậy là vì, trong mỗi người như chúng ta, cùng đọc một quyển sách về Tử vi, nhưng chọn "ngữ" để chuyển hóa thành "thần ngôn" là có khác nhau
Ví dụ với tiêu chí của Topic, khi Tôi đọc sách, thì tự định hình "cơ chế" khi nói về tính "ưu - nhược" của Thất sát như sau:
- Tính "hữu trợ" và "vô trợ" của sao Thất sát (thông qua cung Huynh để xác định)
- Tính "nhanh" hay "chậm", "sớm" hay "muộn" của sao Thất sát (xác định "tính" này thông qua cung Phu thê)
- Tính "mạnh" hay "yếu" của sao Thất sát (thông qua cung Tật ách)
- Tính thích nghi với hoàn cảnh "đột biến" hay không có khả năng thích nghi (cung Di)
- Tính trật tự và bất trật tự, tính có kế hoạch theo thứ tự hay không theo thứ tự của sao Thất sát (thông qua cung Nô)
- Tính xu hướng phát triển theo trường phái cánh tả hay trường phái cánh hữu của sao Thất sát (Hư - Thực của cung Quan)
- Tính sở trưởng và sở đoản của sao Thất sát (cung Phúc đức)
- Là "tính" hay là "tình", là "tình" hay là "lý" của sao Thất sát (cung Phụ mẫu)
Đại khái như vậy, khi nói về cái Ưu hay cái Nhược của cái "chính", banghuynh đọc thêm cho vui
...
AlexPhong:
Trong dòng lịch sử phát triển của tử vi, nền tảng đã bị thất truyền không biết do cố ý hay vô tình. Tất nhiên, cái gì cũng có hai mặt, sự thất truyền cũng vậy, mặt tốt là người nghiên cứu người sử dụng không ngừng tìm tòi kiểm nghiệm với mục đích tìm lại nền tảng cũng như hiện đại hóa cho tử vi bắt kịp với nhịp sống hiện đại. Từ đó tử vi phát triển không ngừng, hoa nở rồi sàng sẩy rồi gieo trồng rồi hoa lại nở.
Thì, trong số các tác giả Việt Nam có một tội đồ đã được vinh danh, đó là tác giả Lê Quý Đôn với tác phẩm Thần Khê Định Số. Nôm na là cách dùng tướng pháp bổ khuyết cho tử vi. Tác phẩm này gián tiếp thừa nhận sự bất lực của ông trong nghiên cứu tử vi. Ông đã đầu hàng, giương cờ trắng trước khi tìm hiểu cặn kẽ quân thù. Và ông tìm một cứu cánh đó là tướng pháp. Theo phương pháp này thì tử vi thui chột từ đây, thôi chấm dứt, thôi thế là hết, thôi không còn gì nghiên cứu, tử vi không chính xác khi không kết hợp với tướng pháp vì chính xác thì Thần Khê Định Số đã không ra đời.
Nói về tướng pháp, đã là cao thủ xem tướng thì khỏi cần lá số tử vi. Mang tướng pháp kết hợp vào tử vi để cải tiến tử vi khác gì lắp động cơ đốt trong cho xe bò, còn con bò dùng để làm gì. Mà tử vi cũng chẳng phải xe bò, thậm chí còn là hàng không mẫu hạm hay tàu ngầm nguyên tử trang bị tên lửa hành trình. Lê Quý Đôn đã từng nỗ lực giết chết tử vi, nhưng may mắn sao cuốn sách không phổ biến. Có người than: eo ôi tiếc thế, sách yêu thế mà lại không phổ biến. Nhưng theo tôi đó là điểm may cho giới học thuật nước nhà. Và nếu ai có cuốn sách trong tay, làm ơn đốt đi giùm, xin cảm ơn sau.
Đôi khi và nhiều khi chúng ta đao to búa lớn, Đạo nọ Đức kia. Nhưng những điểm đơn giản như sự phân bố lệch của sao Tử Vi lên địa bàn, điểm Thìn và điểm Tý, vì sao Thổ cục khởi thân thì chúng ta không nhìn ra. Cái gì điều chỉnh lại sự lệch lạc này? Chúng ta học học học và học những đống kiến thức hào nhoáng vô dụng vào người mà bỏ mất các suy luận cơ bản. Tích trữ bom nguyên tử trong khi khẩu súng lục cũng không biết dùng. Tử vi nó phải thế này cơ, sao đơn giản thế được, nó phải xoắn quẩy cơ, sao thẳng đơ thế được. Uke, do what you want.
Về đâu, về đâu hỡi các Thần Khê? Về đâu đạo đức cho Không Kiếp, bomb cho Ưu Nhược?
Tôi làm việc trong một thời gian tương đối dài, chức năng chủ yếu là vô hiệu hóa đối tượng, ngăn chặn sự phá hoại mang tính hủy diệt,... không hề biết mặt đối tượng, thân thế, thân nhân,... dữ liệu ban đầu chỉ có khoảng khoảng sinh năm... sau đó biết đến tháng,... sau đó biết được ngày sinh nhật thông qua ĐT (đặc tình) là "bạn gái",... những dữ liệu này đã mang lại nhiều hiệu quả ngoài mong muốn,... đỡ mất tiêu phí lực lượng, thời gian,... cho nên, anh AlexPhong đưa ra nhận định, nhằm hướng tới sự nghiên cứu chuyên nghiệp và chuyên sâu về Tử vi. Một nhận định mang tính chiến lược.
Hai chữ tri thu cũng ví như lưỡng nghi Cha Mẹ, cùng một mục đích sinh Con, mà kết quả khác nhau, hoặc là con trai, hoặc là con gái. NhuThăngThái dần quy tụ lại trong ngoài (chủ khách) = Nội cục - Ngoại cục - Nội cách - Ngoại cách, thì nhìn nhận ngày càng rõ hơn.
Khi cục đã không chính, thì nghĩa cũng biến hóa theo (紫 微 正 義 = Tử vi chính nghĩa), ngài Trần Đoàn nói với Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn như vậy.
Chính cục được hiểu như thế nào? Đó là căn cứ vào ngày sinh để biết ngôi vị của Đế tinh, theo đó kỳ số cục là một nguyên tắc chính yếu
...
Khi ta khảo cứu, sách nói rằng: "60 giờ tương ứng nhất cục" (5 ngày), theo đó
- Từ ngày mồng 1 hàng tháng tới ngày mồng 10 là 1 tuần ứng với Nhị cục, kỳ số Nhị cục từ ngày mồng 5 tới ngày mồng 10
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 15 đủ số, ứng với Tam cục, kỳ số Tam cục từ ngày 11 tới ngày 15
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 20 đủ số, ứng với Tứ cục, kỳ số Tứ cục từ ngày 16 đến ngày 20
- Từ ngày mồng 1 tới ngày 25 đủ số, ứng với Ngũ cục, kỳ số Ngũ cục từ ngày 21 tới ngày 25
- Từ ngày mồng 1 tới ngày cuối tháng ( 29 - 30) đủ số, ứng với Lục cục, kỳ số Lục cục từ ngày 26 tới ngày 29 tháng thiếu, hoặc ngày 30 tháng đủ. (riêng tháng Hai là 28 ngày)
...
@An Khoa:
- Chính cục được căn cứ vào Can năm + cung mệnh + ngày sinh
Ví dụ:
- Người tuổi can Mậu Quý, sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh lập tại Dậu, ứng tam Cục, nhưng sinh ngày 21 thì kỳ số Cục là Ngũ cục, nên chưa được gọi là chính Cục, theo đó thì Tử vi cư Thân
- Khi ta gặp người tuổi can Đinh Nhâm, vẫn sinh ngày 21/6 âm lịch giờ Tuất, Mệnh cư Dậu, ứng ngũ Cục, trường hợp này được gọi là chính Cục, vì căn cứ vào ngày sinh, sinh ngày 21 thỏa được điều kiện kỳ số ngũ Cục, theo đó thì Tử vi cư Tuất.
Không chính cục luôn hướng tới chính cục, mệnh cư Dậu không chính cục có Thái âm, luôn hướng tới mệnh chính cục có Cự Cơ tọa thủ.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 20:16, said:
Thưa cụ Hà Uyên, Nội cục và Ngoại cục ở đây chắc là ngũ hành nạp âm của tháng mà cung mệnh và cung Thiên Di rơi vào để thể hiện chủ khách, còn Kỳ Cục Số là khái niệm khác?
Nội cục là chính cục của Mệnh
Ngoại cục căn cứ vào giờ sinh xác định Thân, người Thân cư Phu Thê + Thân cư Phúc thì không có Ngoại cục, chỉ có những người Thân cư Tài Di Quan thì mới tồn tại Ngoại cục. Đây là nguyên lý tham lưỡng (3 và 2) của Dịch.
...
NhuThangThai, on 25/02/2012 - 23:18, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Vậy thì có nghĩa rằng có điều kiện tương thích thì sẽ được gọi là kỳ số cục. Nhưng có cái cháu chưa hiểu, đó là điều kiện kỳ số cục này dựa vào so sánh độ lớn của cục hay dựa vào tương quan của hai cái ngũ hành cục? Bởi vì tương quan của ngũ hành cục và kỳ số cục đưa đến khá nhièu điều thú vị, và địa vị cháu là tác giả thì sẽ phát triển lý thuyết dựa trên điều này, nhưng có vẻ như cái này khác với ý của cụ.
Tiếp theo, cháu muốn hiểu, dựa vào Kỳ Số Cục để an thêm 1 sao Tử Vi nữa, vậy thì từ đó ta có thể nói về vị trí của sao Tử Vi mới này?
Còn cái ngoại cục, chắc cũng gần giống như với trường phái sử dụng tứ hóa của cung Thân, nhưng ở đây là áp dụng với ngũ hành nạp âm để đưa tới các vòng trường sinh. Có một điều cần để ý, theo quan điểm của cháu, phải sử dụng cung Thiên Di để nghiên cứu tương tác, chứ không thể sử dụng cung Thân chỉ trong trường hợp cung thân đóng ở phía bên kia của cung mệnh bởi ranh giới Điền-Tử, vì khó có thể nói ngoại cục mà sử dụng cung Thân mà bỏ qua cái quan trọng nhất là cung Thiên Di.
Kính cụ.
NhuThangThai cần một số thời gian để trả lời câu hỏi: tại sao năm Ất Canh thì trị số Cục tuân thủ theo thứ tự và trật tự 6 - 5 - 4 - 3 - 2
Ngài Trần Đoàn đã khải mở mối quan hệ của Ngày từ Nhất cục
...
Thái úy Lý Thường Kiệt tâu Vua: “Thần xin đề cử 2 quan A và B, sau khi hạ thần xem xét về Mệnh số, quan A giữ chức Cục trưởng cục đối ngoại, quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần”
Vua nói: “Để trẫm cho người chuyển Mệnh số của hai người này đến mật viện, cho các quan Tuyên úy trong mật viện cho ý kiến, sau đó Trẫm sẽ phê chuẩn”
Sáu cha Tuyên úy trong mật viện, thì 4 cha Tuyên úy phê đồng ý, 2 cha Tuyên úy phê không đồng ý.
Nhận xét của sáu cha Tuyên úy được chuyển đến Vua, đọc xong Vua đồng ý phê chuẩn theo đề nghị của Thái úy Lý Thường Kiệt.
Một trong hai cha Tuyên úy phê không đồng ý hỏi Vua: “Quan B giữ chức Cục trưởng cục hậu cần, xét cục số không có khả năng đối ngoại đã đành, vì Thân cư Thê, nhưng thế Chủ Khách bị phạm Cô Hư, xin Bệ hạ xem xét”.
Vua nói: “Chiến trường cũng như thị trường, Trẫm cần chính cục chuyên nhất, đạt mục đích có đầu thì có cuối, quân lương được chu đáo, hai người này vận số không có hóa Quyền, nhưng quan trọng hơn cả là đắc chính cục”
Cha Tuyên úy đã hiểu được ý Vua.
...
AnKhoa, on 26/02/2012 - 11:27, said:
Gửi cụ HaUyen,
"Thế Chủ Khách phạm Cô Hư" nghĩa là sao ạ?
Trả lời An Khoa một vài bài viết cũng không đủ, Tôi nhớ trước đây, chỉ riêng nhóm 4 sao căn cứ vào địa chi Cô Quả Khốc Hư này, đã phải học 90 tiết, sau đó thực tập 60 tiết, phối nghĩa với cục, sau đó phối nghĩa với cách, tiếp theo là tổ hợp Nội cục + Ngoại cách hay Ngoại cục với Nội cách, sau đó viết tiểu luật về 4 sao này theo hàm nghĩa THƯ HÙNG, khi mình ở cương vị chủ hoặc khi mình ở cương vị Khách,.v.v... để được gọi là đào tạo chuyên nghiệp, rồi tới tào tạo chuyên sâu, cũng tốn nhiều tiền của vậy.
Thanh thản thấy vui, thì viết bài tham gia mà An Khoa!
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 08:45, said:
Cuối cùng, bàn về ngày sinh/kỳ cục số, có người cho rằng Thái Âm đắc cách nếu người đó sinh vào Trung Huyền, tức là tầm giữa của tháng, vào đầu và cuối sáng thì độ số sẽ giảm đi nhiều. Tôi không biết điều này có đúng không, nhưng có cùng lập luận về việc dựa vào kỳ cục số để nghiên cứu.
Nói về kỳ số cục, thì dựa vào sách viết: số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch, câu này được hiểu như thế nào?
Đó là nói về mối quan hệ của Ngày trong Tháng - Ngày quyết định vị trí sao Tử vi. Ví như nói ngày 15 giờ Mão, xét tới ngày 14 thì số đủ, giờ Mão là nói số chưa đủ của ngày 15, hiểu đơn giản như thông lệ Tháng thuận Giờ nghịch.
Theo sách viết: "Số đủ thì thuận, số chưa đủ thì nghịch", thuyết này đã thừa nhận nguyên lý tự nhiên, đó là Giờ chuyển tiết khí trong ngày theo Lịch pháp.
Kỳ số cục, ngoài vấn đề cho ta biết trị số tương ứng với cục, để biết Mệnh số có đắc chính cục hay không, thì còn cho ta biết 5 can tương ứng với 5 ngày kỳ số cục, điều này làm căn cứ để xét Tứ hóa trong 10 can, xác định mức độ ứng cho mỗi vận nhân.
...
NhuThangThai, on 27/02/2012 - 19:53, said:
Kính thưa cụ Hà Uyên
Thấy bác lên trên này, cháu mừng quá. Nhân tiện, cháu có một số câu hỏi mong bác giải đáp.
1-có người nào sử dụng phương pháp luận mệnh dựa trên bát tự trụ năm hay không? Bác VDTT nói rằng có cuốn Trung Hoa Dự Trắc Học, tại sao bây giờ nó không còn phát triển nữa? Bởi vì môn này tồn tại từ thời Lạc Lộc Tử, tại sao đến thời Từ Tử Bình lại bị thất truyền? PHải chăng là vì lúc đó truyền nhân môn phái đó gặp trục trặc gì đó?
2-Cháu suy nghĩ mãi vẫn không giải đáp được câu tuổi Ất-Canh thì cục số giảm từ 6-5-4-3-2. Mong bác có thêm gợi ý. Cháu nghĩ suốt 2 tiếng đồng hồ, giờ đã chịu hẳn.
3-Trong các nghiên cứu của bác về nguồn gốc tinh đẩu thì bao nhiêu thực sự đến từ Thiên Văn, và bao nhiêu đến từ các quẻ dịch?
4-Có lần bác từng nói rằng Cự Môn thực ra là hành thổ ẩn tàng Kim. Theo NDTTP thì nó là hành thủy, Vượng tại Hợi (khác với tử vi Việt). Tương tự, họ cho rằng Thiên Lương thuộc Thổ, cũng khác với tử vi Việt.
Vậy theo bác, cái gì đúng, cái gì sai
Trong 4 vấn đề mà Nhuthangthai nêu ra, đều là những vấn đề có nội dung rộng, trả lời súc tích cô đọng, hay trả lời cho xong, cũng không thể ngày một ngày hai để rõ được hàm nghĩa.
Lịch sử đã cho ta biết, người đứng đầu một "Ấp" với 300 hộ dân (theo Dịch), tối thiểu cũng phải biết đọc từ 2700 => 3000 chữ, thì mới biết mà hiểu được "chiếu chỉ" từ quan huyện, quan tỉnh, hay cao hơn nữa là Vua, lại thêm theo thời gian chữ viết cũng được thay đổi (7 lần), kèm theo đó là Lịch pháp được vua phê chuẩn theo từng "thời". Nhưng, cái nôi văn minh vẫn là Đại lục, theo đó ta có thể nhận thấy, sự phát triển xã hội của Đài Loan so với Trung tâm văn minh Đại lục, tùy theo mỗi người mà đưa ra nhận xét của mình. Cá nhân tôi cho rằng, khả năng phát triển của phái Nhất Diệp Tri Thu, khó mà đi trước học thuyết của ngài Trần Đoàn viết sớ tâu Vua. Đây không phải là việc mà chúng ta phải đi xác minh độ tin cậy này làm gì, điều quan trọng mà Ta có thể nhận thấy, mối quan hệ giữa Thiên can và Địa chi đối với 30 ngày trong 1 tháng, để tìm hiểu về Mệnh lý thông qua Mệnh số, nền móng xây dựng học thuyết này, là từ ngài Trần Đoàn.
Sách viết, cũng như những trang mạng có nội dung về Huyền Học, vẫn chỉ đưa ra cách mà không nói cục đi kèm theo, những tinh túy được đúc kết từ thực tiễn, thông qua những câu Phú, cũng không chỉ rõ cục này thì phối với cách nào,... mà thường nói hai chữ chung chung là cách cục vậy. Hay khái niệm Tứ chính thì được hiểu như thế nào? Biện lý đến khi nào thì phải dùng đến số để khẳng định độ chính xác, sau đó lại dùng Lý suy Mệnh, rồi lại phải dùng đến khả năng của Số để dẫn giải..., nên vấn đề cục và số hình như chúng ta đang trong tình trạng còn nhiều hạn chế.
Nói ví như, Cục đường bộ và Cục đường biển thì những Cách nào đáp ứng đạt tới mục đích cuối cùng có hiệu quả và kết quả, hay Cục văn hóa dân gian và Cục trinh sát, hoặc như Cục y tế dự phòng và Cục tình báo,.v.v... vậy nên, khi nói cách cục thông qua thực tiễn cụ thể đối với từng con người trong mối quan hệ xã hội, đó là một phần giá trị Nhân học của Tử vi, mà không thể coi Tử vi như đi mua một cái gương soi, phương pháp sử dụng là soi mệt nghỉ xem Ta là ai,... mà quên mất rằng Ta đang tồn tại trong mối quan hệ tổng hòa đó. Hoặc như khi ta coi Lộc tồn tượng là "cầu", còn Hóa Lộc tượng là "kích", kích cầu cũng không thể xa rời quy luật 1/3, mở rộng kích cầu là điểm tựa chiến lược cho sự phát triển vận mệnh của mỗi người, cũng như của một TP hay một đất nước. Tiềm năng lớn nhất của mở rộng kích cầu là ở thành thị mà không phải ở nơi chưa được đô thị hóa, đây cũng chỉ là một quan niệm về lộc khi chúng ta đang tồn tại theo cơ chế thị trường vậy
...
NgoaLong, on 28/02/2012 - 10:18, said:
Có vẽ như bác HaUyen mắc sai lầm cơ bản từ đầu khi nhận định như trên chăng, để rồi phát kiến thêm cái gọi là Cục nữa để cho phù hợp???
Cảm ơn Ngoalong về kết kuận của bạn
Tôi đang cùng Nhuthangthai nói về Thủy cục và Thổ cục gặp cách Tử Phủ Vũ Tướng, sự chia sẻ này của Tôi đã sai.
Mong Nhuthangthai thông cảm vì Tôi đã sai cơ bản, cục đường bộ và cục đường biển tuy cùng thuộc một Bộ (cung Thân -trường sinh), nhưng đã quan niệm rằng chức năng và nhiệm vụ của đường biển và đường bộ là giống nhau.
...
Durobi chia sẻ bài dịch:
Phan Tử Ngư - Làm Sao Biết Lấy Được Chồng Tốt?
Hạnh phúc cả một đời của người phụ nữ quan hệ ở ở ông chồng, vì ông chồng hiền lành tốt tính thì gia đình tất mỹ mãn hạnh phúc.
Những sao dười đây biểu thị nữ mệnh sẽ lấy chồng tốt. (Phan Tử Ngư: Qua khảo chứng của tôi, điểm quan trọng nhất là vào năm mà tiểu hạn có Hồng Loan mà quen người yêu và sau đó cưới thì khá hạnh phúc, Hồng Loan củng chiếu cũng vậy. Nhưng Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn,Tuất, Hợi thì cát, lạc hãm thì hung.)
Nữ mệnh :
1. Thái Dương đóng nơi miếu vượng, như Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ.
2. Cung Phúc đức có Thái Dương tọa thủ + Xương, Khúc.
3. Cung Phu thê có Tử Vi tọa thủ + Xương, Khúc.
4. Cung Phu thê Tử Vi hoặc Tử Vi Thiên Phủ.
5. Cung Phu thê Thiên Đồng + Xương, Khúc.
6. Cung Phu thê Thiên Phủ tọa thủ.
7. Cung Phu thê Thái Âm miếu vượng.
8. Cung Phu thê Thiên Tướng.
9. Cung Phu thê Thiên Lương hoặc Thiên Cơ + Thiên Lương.
10. Cung Phu thê Văn Xương hoặc Văn Khúc (Chỉ cần 1, nếu Xương Khúc đồng cung thì có Đào Hoa).
11. Hồng Loan tại Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tuất, Hợi hoặc tọa thủ tại Mệnh.
12. Thiên Cơ miếu vượng tọa Mệnh.
13. Thiên Phủ thủ Mệnh, Thân.
14. Thái Âm miếu vượng thủ Mệnh.
15. Thiên Tướng miếu vượng thủ Mệnh.
16. Thiên Lương miếu vượng thủ Mệnh.
17. Tả Phụ hoặc Hữu Bật đóng ở Mệnh.
18. Phá Quân thủ Mệnh tại Tý, Ngọ.
19. Khôi, Việt đóng ở mệnh hoặc Thân.
20. Lộc Tồn đóng ở Mệnh + tam phương có sao tốt chiếu.
21. Hóa Khoa, Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền đóng ở Mệnh.
22. Thiên Đồng + Thiên Lương đóng ở cung Phu thê.
Phan Tử Ngư - Làm Sao Phối Hợp Suy Đoán Đại Tiểu Hạn
Cổ thư nói: "Tham lang Văn Xương đồng cung, chính sự điên đảo", lại nói: " Tham Lang Văn Xương tại Sửu Mùi, tai nạn sông nước". Thế thì chúng ta sẽ gặp trường hợp trên mấy lần ở tiểu hạn, thế thì sẽ xảy ra năm nào? Chủ yếu phải phối hợp đại hạn thì mới ứng! Tóm lại, đại hạn và tiểu hạn kết hợp lại để suy đoán là điểm độc đáo của Tử Vi.
- Đại hạn có Địa Kiếp hoặc Địa Không, tiểu hạn lại gặp Địa Không hoặc Địa Kiếp, năm ấy phải chú ý những việc sau:
(1) Không được đầu tư lớn, sẽ lỗ vốn.
(2) Không được di chuyển bằng đường hàng không.
(3) Không đến những nơi lầu cao hoặc núi cao.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn cũng có một trong tứ sát, năm ấy sẽ bất lợi nhiều chuyện.
- Đại hạn có một trong tứ sát, tiểu hạn có Tham Lang + Văn Xương, phải chú ý những chuyện sau:
(1) Sẽ có tai nạn xe cộ hoặc gãy xương.
(2) Người đang đi làm (kể cả nhà nước và tư nhân), phải đề phòng những sai sót về hành chính, dễ bị phạm lỗi, giáng chức, thậm chí mất việc.
(3) Không nên đi bơi đi chơi ở biển, thuyền viên thì không nên khởi hành ra biển.
- Trước cung đại hạn 3 cung, tức cung Phu thê lâm thời (hoạt bàn), có Tả Phụ, Hữu Bật, Phá Quân, Cự Môn, Linh Tinh, Không Kiếp v.v..., vợ chồng sẽ xảy ra chuyện sinh ly tử biệt.
- Đại hạn vào cung Phu thê, tiểu hạn có Hồng Loan, Thiên Riêu, có chuyện Đào hoa sẽ xảy ra.
- Tiểu hạn vào cung có Tả Phụ Hữu Bật giáp, rất cát lợi, có thể mua bất động sản, hoặc phát tài.
- Tiểu hạn đi đến cung có Lộc Tồn, tam phương tứ chính có Thiên Khốc Thiên Hư, sẽ nổi danh.
- Tiểu hạn gặp Thái Duơng hóa Lộc, sẽ nổi tiếng.
- Đại hạn hoặc tiểu hạn có Liêm Trinh Thất Sát + sát tinh, lại gặp năm Bính Liêm trinh hóa Kỵ, có tai nạn giao thông.
- Tham Lang đồng cung Hỏa hoặc Linh, gặp năm Mậu Tham Lang hóa Lộc, bột phát ào ạt, hoặc phát tài lớn.
- Cung Tài bạch có Thiên Riêu, vào năm Quí, nếu đánh bạc tất thua, hoặc vì mất tiền vì gái.
- Năm sinh là năm Canh, đại hạn hoặc tiểu hạn lại gặp năm Canh tứ hóa sẽ gặp trục trặc mọi chuyện.
- Lưu Xuơng nhập cung Mệnh, Thân, hoặc đại tiểu hạn, thi cử sẽ đậu, quan chức thì có tin thăng chức. Phụ nữ thì sẽ có con.
- Lưu Mã đồng cung với Lộc Tồn tại tiểu hạn hoặc Mệnh thì sẽ xuất ngoại, di chuyển, du lịch, quan chức thì lên chức, người làm ăn thì trúng quả.
- Thiên Cơ cung Thiên Di của năm sinh hoặc cung Thiên Di hoạt bàn, gặp năm Mậu Thiên Cơ hóa Kỵ, sẽ bị chuyện đi lạc, nếu có hung tinh đồng cung thì bị tai nạn giao thông.
- Lưu niên gặp Văn Xuơng hóa Kỵ, đi thi là rớt.
- Tài bạch cung có Thiên Cơ, đại tiểu hạn và lưu nguyệt lưu nhật gặp Thiên Luơng hóa Lộc, đánh bạc tất thắng lớn.
- Lưu niên Đại hao nhập cung Điền, sẽ bị ăn trộm đến viếng, gặp thêm sát tinh thì mất sạch sành sanh.
- Đại tiểu hạn có Hồng Loan gặp Đại Hao, hoặc tại cung Tài bạch, sẽ bị chuyện mất tiền.
- Đại tiểu hạn Liêm Trinh gặp Tả Phụ hoặc Hữu Bật, coi chừng điềm đi tù.
- Tham Lang đóng cung Quan lộc tại hãm địa + sát tinh, đại tiểu hạn gặp phải thì do tham ô nên bị bắt.
- Cung Phúc đức hoặc cung Tài bạch của năm sinh hoặc hoạt bàn có Hồng Loan hoặc Thiên Hỷ, sẽ bị mất tiền do đầu cơ hay đánh bạc.
- Năm sinh hoặc lưu niên Văn Xương hoặc Văn Khúc hóa Kỵ nhớ đừng làm (giúp) gì cho ai.
- Tham Lang tại Mệnh, Thân hoặc Tật ách, gặp Bệnh Phù đồng cung, lại gặp thêm Tham Lang hóa Kỵ, do chơi bời mà bị mắc bệnh hoa liễu.
- Tham Lang đóng cung Tài bạch hãm địa, gặp năm Quí Tham Lang hóa Kỵ, công việc làm ăn gặp sóng gió, hoặc cơ duyên không may mắn.
- Hoa Cái đồng cung với Cô Thần hoặc Quả Tú, đại tiểu hạn lại gặp, điềm bất lợi hoặc tử vong cho người phối ngẫu.
(Trích Tử Vi Tinh Áo - Phan Tử Ngư, trang 167 - 169)
Xin chào anh chị em trên diễn đàn. Thuật Tử vi được cấu tạo làm 12 cung, mỗi một cung là 30 độ (360/12 = 30), được thể hiện trên hình tròn, mà ngày nay được thiết lập lá số là hình chữ nhật hay hình vuông. Thuật Tử bình được căn cứ theo 4 chi của năm - tháng - ngày - giờ, mỗi một chi trong thuật Tử bình tương đương với 369 / 4 = 90 độ Khi chúng ta giả thiết rằng, 4 chi của Tử bình có mối quan hệ với 12 cung trong Tử vi, thì điều này dẫn tới khả năng, 4 cung trong 12 cung của Tử vi tiến tới giới hạn 30 độ => 45 độ. (90/2 âm dương) Chúng ta lại đặt một giả thiết nữa: một lá số có Mệnh lập tại cung Tuất gặp Tử Tướng, nhưng số Tử bình lại không có chi Tuất, nên cung Mệnh không còn giá trị góc 30 độ nữa, mà có thể giảm tới chỉ còn 15 độ chẳng hạn. Còn khi lá số có cung Mệnh lập tại Tuất gặp Tử Tướng, mà số Tử bình trong 4 chi có chi Tuất, thì cung Mệnh có giá trị góc 30 độ => 45 độ. Hà Uyên qua trải nghiệm thấy thú vị, nhưng còn rất nhiều lúng túng. Mong muốn cùng Anh/chi/em trên diễn đàn bình giải. Hà Uyên.
...
Chủ đề này, Hà Uyên căn cứ vào vị trí Địa lý của đất nước VN, nằm tại khu vực được gọi là Nhiệt đới gió mùa. Quá trình lao đông sản xuất của người Việt cổ là lúa nước, còn bên Đại lục là lúa mỳ.
Căn cứ theo chữ Nhiệt, mỗi cá thể đều có giới hạn trừ 2 và cộng 5. Có nghĩa là nhiệt độ cơ thể mỗi người trung bình là 37 độ, khi trừ đi 2 chỉ còn 35 độ thì trụy tim mạch, hoặc khi cộng với 5 thì 37 + 5 = 42 độ, thì dẫn tới hôn mê. Trừ 2 cộng 5 đều có kết quả như nhau.
Điều này, cho chúng ta hiểu ý nghĩa về giới hạn. Như vậy, chúng ta cũng có thể đưa ra một câu hỏi: 12 cung trong Tử vi của mỗi một người, nhất thiết bắt buộc phải chia đều hay không? Mỗi cung 30 độ?
Khi áp dụng vào thực tiễn thấy nảy sinh nhiều điều kỳ lạ. Có thể là một ngõ cụt, cũng có thể là một hướng tư duy, khi truy tìm mối quan hệ của các môn học thuật đối với một cá nhân cụ thể.
...
thieukim, on Sep 9 2009, 01:35 PM, said:
cái ngày nghe ngộ ngộ hì hì, khoa TB đâu có phải chỉ căn cứ theo 4 chi? còn thiên can thì sao? can tàng như thế nào? người đặt vấn đề có thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua chưa?
Chào thieukim
Hay qúa, Hà Uyên cũng chưa thấu hết vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua.
Cũng chỉ từ cái mà được gọi là định danh thôi, ví dụ như Tử bình có 4 chi là Tuất-Thân- Hợi-Tý, cũng vẫn con người đó, Tử vi mệnh lập tại Dần ngộ Tử Phủ, Hà Uyên đã để mắt tới gần 50 năm mà danh phận cũng chưa đi tới đâu.
Lại một trường hợp cùng năm tháng ngày, chỉ khác giờ sinh, đó là sinh vào giờ Hợi mà Tử bình có chi Hợi, thấy cuộc đời khác hẳn. Kể cũng lạ
Thắc mắc này có thể không đi đường dài được, Hà Uyên nghe theo bạn, thieukim bàn về vòng trường sinh tử tuyệt mà 10 can phải đi qua vậy.
Xin chào anh chị em.
Môn Tử vi, thông qua Tháng sinh và Giờ sinh, xác định được cung lập Mệnh. Tiếp đến là xác định Ngũ hành cho Cục, thông qua Can của Năm sinh. Với những trị số cơ bản như sau:
- Hoả Lục cục
- Thổ ngũ cục.
- Kim tứ cục
- Mộc tam cục.
- Thủy nhị cục.
Trị số: 2, 3, 4, 5, 6 được phối hợp với Ngũ hành: Thủy - Mộc - Kim - Thổ - Hỏa, không biết Người xưa căn cứ vào đâu, để xác lập như vậy?
Anh chị em cùng bình giải xem, Tại sao lại được cấu tạo như vậy?
...
Gửi Minh An.
Phàm hai quẻ Càn Khôn sinh ra sáu con, Bố Mẹ thân thoái mà 6 con thì tiến (2 lùi 6 tiến), cũng như là Âm Dương sinh ra Ngũ hành vậy. Chúng phối hợp với nhau mà thành 64 quẻ. Cũng giống như Can Chi phối hợp với nhau, mà thành Giáp Tý vậy. Nhân quẻ mà suy ra Cơ - Ngẫu, Biến - Hóa, thì cũng như Can Chi phối hợp, mà cũng suy ra Xung - Hợp - Chế - Hóa vậy.
Thì có khác nào khi nói về Ngũ hành, Thuỷ chỉ sinh ở Canh Tân, mà không Hóa ở Bính - Tân. Hỏa chỉ sinh ở Giáp Ất, mà không Hóa ở Mậu - Quý. Thuyết Biến quái, thì cho đây, là cái gốc của Dịch. Tất cả 64 quẻ đều lấy từ đây mà ra. Như vậy, là vẫn lấy Hóa khí làm Bản khí, thì cũng trái với ý nghĩa tương sinh của Ngũ hành vậy.
- Bỏ một dùng ba: 360 thì dùng 270
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
...
"Thân giảm" có câu:
Dương cực tắc kháng,
Âm cực tắc ngưng,
Kháng tắc hữu hối,
Ngưng tắc hữu hung.
Dương cực thì kháng,
Âm cực thì ngưng,
Kháng thì hối hận,
Ngưng thì hung hiểm.
Địa thế Khôn, Thổ dĩ hậu súc tải vật. Vô Thổ bất Thủy.
Địa trung hữu Thủy, Sư: Thổ dĩ dung súc Thủy.
Âm lấy Dương làm gốc, Dương lấy Âm làm gốc.
Thủy sinh ở 1 lấy Hoả thành ở 6.
...
Vâng, anh Thiên Sứ.
Hà Uyên đã đọc được hơn ba lần về tác phẩm: "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch". Cảm ơn Anh.
Dưới đây, là một trong những cách tường giải về độ số Cục trong môn Tử vi:
Từ Nguyên lý:
- Bỏ một dùng ba: 360 thì chỉ dùng 270 => 1 giáng 3 thăng.
- Bỏ hai dùng sáu: Bố Mẹ lùi mà sáu con tiến => 2 lùi 6 tiến.
- Bỏ ba dùng chín: Bỏ Tuyệt, Thai, Dưỡng => dùng từ Sinh tới Mộ.
Hành kim: Có 2 quẻ là Càn và Đoài. Càn 1, Đoài 2. Tuy nhiên, số 9 chính là 1 số chứa trong nó cả Càn lẫn Đoài nên số của hành kim là: 9+1+2 = 12/4 = 4 => Kim tứ cục. Từ Sinh, Vượng, Mộ có 3 khoảng, từ Sinh đến Vượng, từ Vượng đến Mộ và từ Mộ đến Sinh. Số của mỗi hành sẽ được chia cho 3 khoảng đó. Như vậy, tại mỗi khoảng, giá trị của hành kim là 12: 3 = 4 ( Kim tứ cục)
Tương tự hành Thổ có Cấn và Khôn, trị số là 8+7 = 15 / 3 = 5 => là Thổ ngũ cục
Hành Thủy quẻ Khảm có trị số là 6 / 3 = 2 => Thủy nhị cục.
Hành Mộc là quẻ Chấn và Tốn. Trị số là 4+5 = 9 / 3 => Mộc tam cục.
Duy chỉ có hành hỏa là Ly, 3: 3 = 1. Chẳng lẽ lại là Hỏa nhất cục.
Bạn Minh An đã gửi thư, đặt v/đ về việc tường giải của mình.
Cũng mong anh Thiên Sứ cùng anh chị em trên diễn đàn cho ý kiến bình giải.
...
Chào Minh An.
Khi tìm hiểu về Ngũ hành, mối quan hệ "sinh- khắc" cũng phải đủ một điều kiện, dựa vào quy luật Tứ thời của Tự nhiên. Ví như khi nói Hỏa khắc Kim, khi chúng ta xét Hoả phải ở trong trạng thái "thành" thì mới có thể khắc được Kim. Thông qua "số" mà bàn thì, Hỏa thành ở 7, thì 7 + 4 + 9 = 20 = 6 + 5 + 4 + 3 + 2 = 20. Tương tự như vậy, khi Kim khắc Mộc, thì số "thành" của Kim là 9 ta có: 9 + 3 + 8 = 20, cũng bằng 20 => điều này, cho chúng ta nhận thức được những gì?
Người xưa lấy Mộc tinh để làm thước đo cho mỗi một cung, cũng gọi là Tuế tinh, 12 năm. Khi căn cứ vào lấy "Vượng" để dụng sự, thì lấy Mộc làm thước đo như sau:
- Mộc có trị số Vượng là 3 của Chấn => Mộc Tam cục
- Kim có trị số Vượng là 7 của Đoài => 7 - 3 = 4 => Kim Tứ cục
- Hỏa có trị số Vượng là 9 của Ly => 9 - 3 = 6 => Hỏa Lục cục
- Thủy có trị số Vượng là 1 của Khảm => 3 - 1 = 2 => Thủy Nhị cục.
- Thổ có trị số Vượng là 8 của Cấn => 8 - 3 = 5 => Thổ Ngũ cục
Anh chị em cùng Minh An bình giải.
...
Tam hợp của Địa chi được căn cứ vào đâu để quy Ngũ hành cho Tam hợp?
Có thể, Người xưa cũng thông qua nguyên lý: "Bỏ một dùng ba, bỏ hai dùng sáu, bỏ ba dùng chín" chăng?
- Hợi - Mão - Mùi => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Mộc.
- Thân - Tý - Thìn => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Thủy.
- Tị - Dậu - Sửu => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Kim.
- Dần - Ngọ - Tuất => Sinh - Vượng - Mộ => Căn cứ vào Vượng để Quy thần về thuộc Hỏa.
Vậy còn Thổ thì sao? Tại sao Thiên can Mậu thì lại được khởi Trường sinh từ cung Dần? Tại sao Địa chi tam hợp cục của Thổ lại được khởi Trường sinh từ cung Thân?
(Nguồn: Sưu tầm)
Trước tiên, ta phải xác định các tuổi nào vướng Tam Tai năm nào đã nhé !
- Các tuổi Thân_Tý_Thìn : Tam tai 3 năm liên tiếp Dần_Mẹo_Thìn.
- Các tuổi Tị_Dậu_Sửu : .............................. Hợi_Tý_Sửu.
- Các tuổi Dần_Ngọ_Tuất : .............................. Thân_Dậu_Tuất.
- Các tuổi Hợi_Mẹo_Mùi : ............................... Tị_Ngọ_Mùi.
Ai cũng mắc hạn này, cứ 3 năm liên tiếp như thế, hết 3 năm đến 9 năm sau lại bị hạn này nữa vậy. Bị hạn này nhẹ thì tai tiếng, mất việc làm, làm ăn thất bát, cọ quẹt xe cộ, nặng thì tán gia bại sản, mất mạng. Nên khi mắc hạn Tam Tai, người ta hay cúng giải. Khi có điều kiện ở gần các Chùa mà các thầy ở đó có Lỗ Ban - 1 loại Bùa Chú - thì ta có thể nhờ quý thầy ấy cúng giải dùm.
Vì sao chúng tôi không bảo đến các thầy lỗ ban chuyên nghiệp, mà bảo đến các Tự viện có biết lỗ ban ? Xin thưa, vì các thầy lỗ ban ở ngoài cũng có người tốt người xấu, chúng tôi e quý vị bị "vẽ vời" rồi tốn kém, thay vì vậy, đến Chùa sẽ an tâm hơn. Không phải thầy lỗ ban nào ở ngoài cũng "vẽ vời", nhưng do 1 số người làm ảnh hưởng chung, "con sâu làm rầu nồi canh " mà.
Nếu không, quý vị có thể tự mình cúng giải theo cách sau đây: Chuẩn bị đồ cúng sẵn, chiều chạng vạng, đem tới ngã ba đường nào mà mình hiếm khi đi qua đó- ít nhất là trong 3 năm này, bày ra vái cúng xong, đi vòng đường khác về.
Lễ vật chuẫn bị gồm có: 3 chung nước, 1 nhúm muối gạo, 3 miếng trầu cau, 1 khúc dây lưng quần cắt làm 3 đoạn, 3 điếu thuốc hút, 1 bộ Tam Sanh (1 trứng hột vịt luộc, 1 con tôm luộc, 1 miếng thịt ba rọi luộc), 3 chung rượu, 1 ít tóc rối của người mắc Tam Tai, 3 đồng bạc cắc gói lại bằng giấy đỏ, 1 cặp đèn cầy, giấy vàng bạc, bông, trái cây (không cần nhiều), 1 bộ đồ thế (đến các tiệm vàng mã, mua đồ này, nam nữ tùy theo người mắc Tam Tai), và lẽ dĩ nhiên còn 1 thứ không thể thiếu là 3 cây nhang.
Sau khi vái cúng và rót trà, rượu đủ 3 lần, đốt giấy vàng bạc, đồ thế rồi bỏ các thứ cúng đó, vòng đường khác về.
Có điều này rất quan trọng nữa là: Không phải ngày nào cúng cũng được, mỗi năm ứng với 1 vị Thần, và vị Thần này giáng hạ trần gian có ngày, có hướng. Khi vái cúng phải đúng ngày này (tháng nào cũng được) và lạy về hướng này.
VĂN KHẤN GIẢI HẠN TAM TAI
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT !
NAM-MÔ HỮU THIÊN CHÍ TÔN KIM QUYẾT NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ !
KÍNH THỈNH : MÔNG LONG ĐẠI TƯỚNG....(A) TAM TAI....(B) ÁCH THẦN QUANG!
Hôm nay là ngày.....tháng.....năm....
Con tên họ là.......
Hiện ngụ tại.........
thành tâm sửa biện hương hoa lễ vật các thứ cúng dâng giải hạn Tam Tai, sắp bày nơi đây, kính thỉnh Mông Long Đại Tướng.....(A) Tam Tai.....(B) Ách Thần Quang giá đáo đàn tràng, chứng minh thọ hưởng. Ủng hộ cho con tai nạn toàn tiêu, nguyên niên Phước Thọ, Xuân đa kiết khánh, Hạ bảo bình an, Thu tống Tam Tai, Đông nghinh bá phước ! Thượng hưởng !
(Vái 3 lần, rót trà 3 lần ,rót rượu 3 lần, 3 lần lạy/mỗi lần 3 lạy ,rồi hóa vàng bạc & đồ thế ).
(A) : Là tên các vị Thần ứng theo từng năm như sau :
_ Năm Tý : Thần ĐỊA VONG , ngày 22 , lạy về hướng BẮC.
_ Năm Sửu : ĐỊA HÌNH 14 Đông Bắc
_ Năm Dần : THIÊN LINH Rằm Đông Bắc
_ Năm Mẹo : THIÊN HÌNH 14 ĐÔNG
_ Năm Thìn : THIÊN KIẾP 13 Đông Nam
_ Năm Tị : HẮC SÁT 11 Đông Nam
_ Năm Ngọ : ÂM MƯU 20 NAM
_ Năm Mùi : BẠCH SÁT 8 Tây Nam
_ Năm Thân : NHƠN HOÀNG 8 Tây Nam
_ Năm Dậu : THIÊN HỌA 7 TÂY
_ Năm Tuất : ĐỊA TAI 6 Tây Bắc
_ Năm Hợi : ĐỊA BẠI 21 Tây Bắc
(B) : Là chỉ Ngũ Hành của năm đó ứng với :
KIM : Thân_Dậu.
Mộc : Dần_Mẹo
THỦY : Hợi_Tý.
HỎA : Tị_Ngọ
THỔ : Thìn_Tuất_Sửu_Mùi.
Ví dụ như năm nay là năm hợi, ta sẽ vái "Mông Long Đại Tướng Địa Bại Tam Tai Thủy Ách Thần Quang".
Chúc các anh chị, các bạn giải tai, giải nạn và gặp nhiều an lành nhé !
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Dù cho đã cố gắng chọn hướng tốt, xem đất tốt nhưng không ai có thể đảm bảo phong thủy nhà ở không có vấn đề gì. Vì thế, để đề phòng trường hợp xấu, nhà phạm lỗi cấm kị, có sát khí thì nên tham khảo 10 bảo vật cải thiện phong thủy nhà ở, tăng may tránh họa. Có rất nhiều vật phẩm phong thủy cát tường có tác dụng hóa sát, trấn trạch, bảo hộ bình an cho ngôi nhà. Trong đó 10 bảo vật cải thiện phong thủy nhà ở dưới đây được coi là có năng lực mạnh nhất, phổ biến nhất và cách dụng đơn giản nhất, có thể áp dụng tại nhà một cách dễ dàng.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Xem bói tình yêu sẽ cho bạn biết :Nếu như bạn trai của bạn được hỏi trước đây anh ta có trải qua nhiều mối tình hay không? Thì biểu hiện sẽ thuộc một trong hai dạng thái độ là, không muốn nhắc dến sự việc hoặc giữ kín trong lòng. Song bàn tay anh ta lại không thể giấu bạn điều gì.
Xem bói tình yêu :Ngón út ngắn
Mối quan hệ xã hội và tình yêu rất dễ thay đổi. Đối với sự hiểu nhau với người yêu, vợ hoặc chồng luôn không đủ, hoặc bản thân chưa trưởng thành vẫn còn tính cách trẻ con. Bởi vậy rất dễ phát triển mối quan hệ với những người mình cảm thấy thích, duyên phận có nhiều biến đổi. Có rất nhiều mối tình.
Xem bói tình yêu: Có nhiều đường Hôn nhân chông chéo lên nhau
Nhu cầu sinh lý mạnh, khó có thể không chế được bản thân, có nhiều mối quan hệ phức tạp với người khác giới.
Xem bói tình yêu: Nhiều vòng kim tỉnh
Thích không khí lãng mạn, thường gây ra những chuyện tai tiếng.
Xem bói tình yêu:Đường tâm đạo có nhiều nhánh ở dưới
Có tấm lòng từ bi, dễ dàng chuyển từ sự đồng cảm sang tình yêu, dễ vì tình mà gặp khó khăn. Mặc dù không muốn như vậy nhưng thường bị người khác hiểu nhầm là kẻ đa tình.
Xem bói tình yêu: Gò Kim tỉnh có tính đàn hồi, bên cạnh đường Sinh mệnh có nhiều đường Kim tinh
Nhu cầu sinh lý mạnh, thể lực khỏe. Để thỏa mãn dục vọng của bản thân họ thường nảy sinh mối quan hệ với nhiều người khác giới.
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
![]() |
Nguyên tắc bố trí ban Thần Tài mà hầu như ai cũng nắm được là nên đặt ban ở dưới đất, phía sau lưng là tường, bức vách hoặc chỗ dựa chắc chắn, không có cửa sổ hay đục lỗ để tụ tài.
Nếu thờ Thần Tài và Thổ Địa cùng một ban thì cách bố trí ban thờ phải tuần tự. Hai bên, bên trái (nguyên tắc là từ ngoài nhìn vào) là ông Thần Tài, bên phải là Thổ Địa. Ở giữa hai ông là một hũ gạo, một hũ muối và một hũ nước đầy. Ba hũ này chỉ đến cuối năm mới thay. Giữa bàn thờ đặt một bát nhang và cần tránh động bát nhang khi lau chùi bàn thờ. Lọ hoa được đặt bên tay phải, đĩa trái cây bên tay trái. Hoa cúng Thần Tài nên là hoa hồng, hoa cúc, hoa đồng tiền. Trái cây nên chọn ngũ quả.
Khi trẻ 3-6 tuổi, phụ huynh nên kể những mẩu chuyện tiền thân đức Phật, thỉnh thoảng khen thưởng cho quà, hoặc chở trẻ đi chùa tập làm quen và chào hỏi các vị thầy, dạy tập trẻ thưa thầy mở đầu là “A Di Ðà Phật”, “Bạch thầy”…
Các nhà nghiên cứu Phật giáo đã chỉ ra sự hình thành và phát triển nhân cách con người diễn ra có tính quy luật theo từng lứa tuổi, bắt đầu từ khi thọ thai cho đến trưởng thành.
Vì thế, giáo dục bao giờ cũng hướng vào con người cụ thể với những đặc điểm tâm lý riêng về lứa tuổi, giới tính… và những đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Cụ thể là Phật giáo chủ trương giáo dục từ trong thai nhi cho đến khi lọt lòng, lớn lên và cả trưởng thành sau này mà có từng nội dung giáo dục, phương thức giáo dục phù hợp với từng giai đoạn phát triển của trẻ.
Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, cha mẹ sống phải biết yêu thương bằng một tình yêu chân thành, khắng khít không có gì phân ly được. Sự đầm ấm gia đình sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng thai nhi hình thành những hạt giống yêu thương và hiểu biết sau này. Kinh nghiệm thực tiễn về đời sống tâm linh, một cặp vợ chồng khi người mẹ mang thai thường xuyên thắp hương cầu nguyện Phật-Bồ tát, tụng kinh bái sám, chiêm ngưỡng Thế Tôn, làm các việc công đức thì lúc đó cha mẹ đã bắt đầu cho thai nhi kết nối liên thông với thế giới an lành trong tâm thức. Ðể khi vừa lọt lòng thông qua lời ru của mẹ và sự ôm ấp trìu mến của mẹ cha, trẻ thơ học được cách hòa nhập với môi trường sống mới. Sự phát triển của trẻ sơ sinh chủ yếu là về mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động của các giác quan và vận động qua sự nhìn, nghe, ngửi, nếm, lật, ngồi bò, đứng đi, nằm, cầm, nắm… Chiều hướng phát triển của các giác quan và vận động cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính chất và mức độ phát triển về trí tuệ và tinh thần của đứa trẻ.
Tùy theo cách thức chăm sóc của cha mẹ và cách cư xử của mọi người lớn trong gia đình mà đứa trẻ ghi nhận được các ấn tượng, hình thành các thói quen về hành vi trong sinh hoạt sau này. Cách tiếp cận thế giới qua hình ảnh, đồ vật theo hướng thiện sẽ làm nền tảng cho trẻ lớn lên có kinh nghiệm cư xử đúng với thế giới xung quanh. Mọi thứ phụ thuộc vào khả năng cha mẹ am hiểu giáo lý và ứng dụng giáo lý để hướng dẫn cho trẻ bắt chước và in đậm dấu ấn Phật pháp từ buổi còn thơ.
Ðến thời kỳ này, trẻ thơ bắt đầu tiến bộ rõ rệt về cơ thể, tâm lý. Trẻ bắt đầu được cha mẹ tập đi, biết thích chơi đồ vật, biết nói dần dần, góp phần thúc đẩy sự phát triển khả năng ý thức, một yếu tố thể hiện nhân cách con người. Lúc này cha mẹ tập nói những đại từ nhân xưng thân thuộc như ba, má, ông, bà hay thầy, sư ông… khi bồng trẻ lên chùa lễ Phật và hướng dẫn con mình hiểu người khác nói.
Đồng thời, cha mẹ nuôi dạy con cái học tập cư xử theo những nguyên tắc hành vi khi tiếp xúc với người khác trong gia đình như anh em, chú bác. Quan trọng hơn là cha mẹ phải là những người gương mẫu, đừng bao giờ để trẻ thấy một hình ảnh bất hòa cãi vã, tạo dấu ấn xấu trong mắt trẻ.
Thỉnh thoảng, cha mẹ lên chùa cho trẻ tiếp xúc không gian tĩnh lặng rộng lớn, hình ảnh Phật Thánh qua những bức tượng hiền hòa để trẻ cảm nhận tình thương của Phật, thậm chí có thể chỉ vào những bức tượng Hộ pháp để răn đe khi chúng không vâng lời như không chịu ăn, khóc nhè…
Ðây là giai đoạn hình thành nhân cách của trẻ, thể hiện khả năng hành động theo động cơ gián tiếp. Sự phát triển nhân cách lệ thuộc vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp xúc như cha mẹ, thầy cô, bạn bè… Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách trẻ thơ được lưu giữ lại. Sự phát triển nhân cách trong giai đoạn này chỉ đạt được mức độ thấp nhưng diễn ra ở tốc độ cao, bắt đầu xuất hiện khuynh hướng độc lập.
Vì vậy cha mẹ phải tập trung chú ý, quan tâm nhiều hơn trong việc trẻ ham thích trò chơi. Thông qua việc tiếp xúc với trò chơi mà định hướng ý thức trẻ vào việc học tập. Có thể dạy trẻ những gương tốt đạo đức thông qua việc kể chuyện cổ tích, thần thoại, bước đầu chỉ ra nhân vật thiện ác, kích thích trí tưởng tượng của trẻ, các loại tình cảm của trẻ thơ.
Ðối với những phụ huynh là Phật tử thuần thành thì nên kể những mẩu chuyện tiền thân đức Phật. Thỉnh thoảng khen thưởng cho quà, hoặc chở trẻ đi chùa tập làm quen và chào hỏi các vị thầy, dạy tập trẻ thưa thầy mở đầu là “A Di Ðà Phật”, “Bạch thầy”…, cúi chào người lớn, nhất là chú ý đến việc trẻ trong cách thức ứng xử các hành vi lễ phép, biết làm chủ về sinh hoạt cá nhân. Bước đầu cho trẻ tiếp xúc các lễ hội Phật giáo nhân ngày Phật đản, Vu lan, …để thông qua các đại lễ này ươm mầm những hạt giống về ý nghĩa Phật ra đời, những đạo lý cơ bản về hiếu hạnh.
Lúc này trẻ bắt đầu lớn nhanh so với các giai đoạn trước. Trẻ thơ bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội để tiếp nhận các hệ thống tri thức. Cha mẹ cần chú ý quan tâm về việc học tập, tính cách bắt đầu định hình với các đặc điểm sau:
Do đó, cha mẹ cần phải khéo léo uốn nắn dạy dỗ con em trong việc ứng xử hành vi, lễ phép tôn trọng người lớn và biết học tập theo chương trình dạy ở trường. Lúc này cha mẹ phải cho con tiếp xúc các mẫu người mô phạm để làm phương tiện giáo dục. Ngoài sự giáo dục của gia đình, nhà trường, cha mẹ phải dẫn con lên chùa gần gũi chư Tăng.
Sự tiếp xúc này sẽ để lại ấn tượng tốt thông qua lễ lạy, nghe những lời dạy của quý thầy, những câu chuyện đạo lý trong Phật giáo về sự tôn trọng sự thật, sự vâng lời mẹ cha, biết yêu thương đồng loại. Như câu chuyện Sa di La Hầu La thường hay nói dối được giáo hóa qua bài kinh Giáo Giới La Hầu La. Sa di nọ nhờ cứu đàn kiến mà được khỏe mạnh, sống lâu. Hoặc những bài kệ ngắn gọn đơn giản trong kinh Pháp Cú v.v…
Lúc này, cha mẹ cần lưu tâm chú trọng từng hành vi ứng xử của trẻ trong học tập, tâm lý, dạy cho chúng tự tin, biết tin yêu gia đình, thầy cô… đồng thời hướng dẫn tham gia các hoạt động mang tính tập thể, gia nhập Gia đình Phật tử, đi hành hương các chùa cùng bố mẹ, làm việc công đức ở chùa như quét dọn, tham gia văn nghệ vào các ngày lễ của Phật giáo… nói chung là tập làm các việc có ích thuộc về khả năng các cháu có thể làm được.
Giai đoạn này là giai đoạn trẻ phát triển và biến động về tâm sinh lý phức tạp, tác động khá mạnh vào sự định hình nhân cách. Giới tính định hình, nó quy định tính cách, nhận thức và sự thể hiện ra bên ngoài qua các hành vi ứng xử khác nhau giữa trẻ nam và nữ. Lúc này trẻ xuất hiện những khuynh hướng phát triển khá đặc biệt về biến chuyển tâm lý: như mong muốn tự khẳng định mình nên bắt đầu có dấu hiệu phản ứng lại lời dạy của thầy cô, cha mẹ, hoặc tranh cãi với bạn bè. Các em bắt đầu biết xấu hổ, biết tự kiêu, biết làm đẹp, thích được thỏa mãn các mong muốn như được đi chơi, được xem các trò chơi, tivi, game… Nếu không đáp ứng hoặc đáp ứng nhu cầu của trẻ không đúng do nuông chiều của cha mẹ thì dễ dẫn đến hư hỏng. Tình cảm của các em lúc này diễn biến rất phức tạp.
Vì vậy, cha mẹ càng có sự liên kết giáo dục gia đình, nhà trường, nhà chùa và xã hội chặt chẽ đối với vấn đề nuôi dạy con cái hoàn thiện. Người mẹ lúc này càng gần gũi con hơn bao giờ hết. Phải biết để ý sự phát triển tâm lý, theo dõi sự dậy thì tránh sự lo âu khi cơ thể biến chuyển về sinh lý cho các em gái, kể cả các em trai, đồng thời dạy cho các em hiểu biết về giới tính, có cách thức hành xử đúng khi quan hệ, tiếp xúc với người khác giới. Tuổi này các em bắt đầu ham chơi, thích mơ mộng và mong muốn được cưng chiều. Vì vậy phải khéo léo kết nối yêu thương vỗ về nhưng cũng phải nghiêm khắc cần thiết. Quan tâm và tạo các điều kiện học tập tốt nhất và vui chơi lành mạnh mà cha mẹ có thể đáp ứng.
Môi trường của các em tiếp xúc lúc này khá rộng, hiểu biết nhiều. Vì vậy cha mẹ Phật tử phải dành nhiều thì giờ chăm lo để các em phát triển nhân cách theo định hướng của gia đình, nề nếp của gia phong. Liên lạc thường xuyên với các thầy cô giáo để theo dõi việc học, tìm hiểu bạn bè của các em để nắm rõ tình hình sinh hoạt ở bên ngoài. Khi có điều kiện sinh hoạt gia đình thông qua bữa cơm, húy kỵ, tiệc mừng sinh nhật, chúc thọ… cần nói rõ ý nghĩa lễ và khơi dậy tình thương yêu, biết chia sẻ niềm vui với người khác, cũng như giảng rõ về sự bất hạnh đối với ai thiếu tình thương với cha mẹ. Độ tuổi này các bậc cha mẹ phải kết hợp quý thầy khéo léo giảng dạy các em về niềm tin và lẽ sống; tin Tam bảo, tin nhân quả, dạy phân biệt chính tà, thiện ác, nhất là biết tin vào chính mình.
Có điều kiện nên cho các em đi chùa cùng với gia đình để bước đầu học hỏi giáo lý Phật Đà, sự quy y và biết sống theo năm giới như một nếp sống đạo đức Phật giáo. Khi cha mẹ đi chùa hành hương thì nên cho các em đi theo, tiếp cận sự tin yêu, tôn kính ba ngôi Tam bảo, sự bố thí cúng dường, thực hành các việc phước thiện…
Các chùa hiện nay đều có tổ chức thuyết giảng sáng Chủ nhật, tu Bát quan trai, lớp học giáo lý, hướng dẫn các em thực hành nếp sống tri túc, hướng dẫn lối sống đạo đức Phật giáo, cho các em tham gia đi hành hương, từ thiện nên tạo điều kiện cho các em học tập và thực hiện. Dần dần, các em sẽ biết hình thành nhân cách hoàn thiện sống có ích và thực hiện ước mơ hoài bão của chúng theo định hướng của gia đình, xã hội yêu cầu.
Tóm lại, trẻ em là đối tượng cần quan tâm hơn bao giờ hết. Ðây là thành phần hạt nhân kết nối sự yêu thương gia đình qua tình vợ chồng, anh em, ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc nội ngoại xa gần xóm giềng. Các em cũng là người kế thừa trong gia đình gánh vác việc gia tộc, ngoài xã hội là những chủ nhân ông xây dựng đất nước sau này. Là phật tử, các em là người hộ trì Chánh pháp, thậm chí trở thành người xuất gia học đạo hành đạo đem lại lợi ích sau này cho đời đạo mỗi ngày sáng tươi. Vì thế, trách nhiệm với việc nuôi dạy con cái không chỉ ở phạm vi gia đình, nhà trường, nhà chùa mà cả xã hội nữa.
Cuộc sống hôm nay từng bước chuyển đổi trong xu hướng thịnh vượng, đời sống sinh hoạt của nhân dân ta đã ấm no đầy đủ, sự quan tâm đối với trẻ thơ càng được chú trọng hơn.
Nhà nước và các tổ chức cộng đồng, trong đó có Phật giáo đã thực thi chú trọng giảng dạy trẻ thơ học pháp và hành pháp trong sự hình thành nhân cách người phật tử.
Đây chính là chủ thể và cội nguồn cho Phật giáo Việt Nam phát triển lâu dài và có kế thừa liên tục. Vì vậy, trách nhiệm của chư Tăng đối với việc giảng dạy giáo lý cho thiếu nhi, nuôi dạy con cái hoặc gián tiếp thông qua các phụ huynh phật tử, hay trực tiếp với một chương trình cụ thể là điều cần thiết.