Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa

Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa bao gồm người tuổi Sửu, tuổi Tuất, tuổi Ngọ...
Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người tuổi Tuất sinh ra đã mang trong mình tinh thần trượng nghĩa, coi trọng chữ tín và sự trung thành mang tính kỉ luật nghiêm túc. Bất kể giàu nghèo, sang hèn, khi đã hứa chắc chắn họ không bao giờ thất hứa.

=> Lịch ngày tốt tổng hợp mọi thông tin về 12 con giáp bạn nên xem

Hạng 4: Người tuổi Thân

Nhìn những chú Khỉ tinh ranh, thích chạy đôn chạy đáo, nhớ chỗ này quên chỗ kia thì ít lại lại có thể ngờ rằng họ cũng lọt top dẫn đầu trong danh sách những con giáp không bao giờ thất hứa.

Đừng bao giờ để vẻ bề ngoài của họ đánh lừa, bởi vốn dĩ họ rất thích bông đùa hài hước. Nhưng một khi đã đồng ý với ai đó việc gì, họ sẽ kiên trì tới cùng để hoàn thành việc đó, chứ không phải dạng “hứa thật nhiều, thất hứa cũng thật nhiều” đâu nhé.

Top 4 con giap khong bao gio that hua hinh anh
 
Hạng 3: Người tuổi Ngọ

Bản tính những chú Ngựa năng động, thích đu hí đó đây, đi thật nhiều để trải nghiệm cuộc sống, khám phá điều mới lạ để thỏa mãn sự hiếu kỳ cũng như tinh thần  ham học hỏi của bản thân.
Top 4 con giap khong bao gio that hua hinh anh 2
 
Với những người xung quanh, dù quen thân đã lâu hay mới lần đầu gặp gỡ, con giáp này luôn tỏ thái độ nhiệt tình, tạo độ tin tưởng cao. Bạn hoàn toàn yên tâm khi nhờ cậy hoặc giao phó việc quan trọng cho họ. Tuy không thể chắc chắn 100% rằng việc đó sẽ thành công rực rỡ, nhưng chúng ta có thể chắc nghìn phần nghìn rằng, họ luôn giữ lời hứa.

Ngoài ra, người tuổi Ngọ vô tư, không màng lợi ích cá nhân. Thậm chí, họ còn lạc quan tới mức tin rằng mình sẽ không gặp phải người xấu, tin rằng mọi sự đều chuyển biến tốt đẹp nếu như người với người sống để yêu nhau, tin tưởng lẫn nhau.

Top 3 con giáp chào đón điều may mắn trong 3 năm tới
Trong những năm qua, một số con giáp gặp nhiều khó khăn, nhưng 3 năm tới là thời điểm rất tốt. Sau đây là 3 con giáp may mắn ba năm tới.
Hạng 2: Người tuổi Sửu

Một trong những nét đẹp về phẩm cách, tâm  hồn người tuổi Sửu chính là sự chân thành và cần mẫn. Điều đó không ai phủ nhận và rất dễ để nhận thấy. Họ chân thành, nỗ lực tới mức một khi đã hứa hẹn với ai điều gì đó, chắc chắn sẽ cố gắng hết sức để hoàn thiện ở mức độ cao nhất. Họ coi việc ấy như việc của chính mình.
Top 4 con giap khong bao gio that hua hinh anh 3
 
Thậm chí, khi chưa làm tốt lời hứa của mình, họ còn cảm thấy vô cùng áy náy, tự trách năng lực bản thân không tốt. Sau mỗi lần như vậy, con giáp này lại tự nhủ với mình cần không ngừng học hỏi để trau dồi kiến thức, hễ ai gặp khó khăn, trở ngại, họ sẽ chủ động đến “gỡ rối” giúp.

Hạng 1: Người tuổi Tuất

Top 4 con giap khong bao gio that hua hinh anh 4
 
Người tuổi Tuất sinh ra đã mang trong mình tinh thần trượng nghĩa, coi trọng chữ tín và sự trung thành mang tính kỉ luật nghiêm túc. Bất kể giàu nghèo, sang hèn, khi đã hứa chắc chắn họ không bao giờ thất hứa.

Chính bởi lẽ đó mà ai ai cũng tin tưởng giao phó trọng trách cho người tuổi Tuất mà không mảy may nghi ngờ bất cứ điều gì. Được bầu bạn, kết thân với con giáp này quả thực là diễm phúc không chỉ của riêng ai.

Hoàng Lam

Con giáp sinh ra để mang may mắn cho cha mẹ
– Nhờ hồng phúc của những con giáp này, đường công danh, sự nghiệp, tài vận và quan vận của cha mẹ như được chắp thôi đôi cánh, ngày càng


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp không bao giờ thất hứa

Chiêu tài khai vận với cây kim tiền

Kim tiền thuộc cây cảnh họ thiên nam tinh, sống lâu năm, xanh tốt. Thân cây to khỏe, nằm dưới mặt đất, trên mặt đất không có thân chính; mầm nảy nhiều và hình thành nhiều thân nhỏ. Lá kép dạng to, cuống ngắn, chắc khỏe, màu xanh lục, sáng bóng rất đẹp, có tuổi thọ khoảng 2 - 3 năm và được thay thế không ngừng. Chính vì vậy kim tiền được coi là cây "phát" - kim phát tài.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong môi trường tự nhiên, kim tiền phát triển rất nhanh, có thể thành cây có bóng râm to cao. Nếu cột lên cây vài sợi chỉ đỏ hoặc vài đồng tiền vàng (tượng trưng) thì sẽ trở thành cây phát tài, có ý nghĩa về mặt phong thủy và rất đẹp mắt.

Được coi là loại cây "phú quý", có tác dụng chiêu tài nên kim tiền rất thích hợp làm quà tặng trong những dịp mừng lễ, tết, thăng chức, khai trương.


Bạn hãy chọn cây có thân xanh tươi, dày chắc, phiến lá hoàn chỉnh. Những cây đã nở hoa sẽ mang lại nhiều "lộc" nhất. Nên bày cây ở hướng Đông, Đông Bắc trong nhà ở, phòng hội họp, văn phòng, nhà hàng, khách sạn.

(Theo Hoa cảnh ứng dụng trong phong thủy)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêu tài khai vận với cây kim tiền

Mơ thấy chiếc giường có ý nghĩa gì? –

Có rất nhiều giấc mơ lạ trong đó có giấc mơ thấy một chiếc giường ngủ ở trong giấc mơ mang ý nghĩa và thể hiện điều gì cho bạn, liệu đây có phải là một thông điệp đang cố gắng truyền vào tiềm thức của bạn thông qua giấc mơ về chiếc giường này không n
Mơ thấy chiếc giường có ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy chiếc giường có ý nghĩa gì? –

Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách

Vào ngày Rằm, ngày Tết, cúng lễ, cúng giỗ... người Việt có truyền thống thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Nhưng không phải ai cũng biết thắp hương đúng cách.
Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Vào ngày Rằm, mùng Một, ngày Tết, cúng lễ, cúng giỗ... người Việt đều có truyền thống tâm linh là thắp hương trên bàn thờ gia tiên. Mặc dù việc này ai cũng quen nhưng không phải ai cũng biết thắp hướng đúng cách.


► Tra cứu Lịch âm dương, Lịch vạn niên nhanh chóng và chuẩn xác nhất tại Lichngaytot.com

Thắp hương có ý nghĩa gì?

Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa
  Thắp hương là để cầu mong các vị Thần Phật, ông bà tổ tiên nghe được lời cầu nguyện giúp đỡ vượt qua những nỗi khổ, ngoài ra người ta thắp hương còn để không khí trở nên thanh tĩnh, ấm áp và trang nghiêm. Hoặc đơn giản, nó chỉ là một cách để chúng ta bày tỏ lòng thành kính với những người đã mất. Việc thắp hương đúng cách như một sợi dây vô hình, gắn liền hai thế giới lại với nhau.  

Số lượng hương khi thắp

  Theo nhà Phật, số lẻ mang tính âm, còn số chẵn sẽ mang tính dương. Do đó, khi thắp hương người ta thường chọn số lẻ như 1, 3, 5, cây hoặc chọn nguyên một bó chứ không bao giờ chọn số chẵn như 2, 4, 6 nén. Vì theo nhà Phật tính âm tượng trưng cho những người đã mất nên khi đốt hương, chỉ đốt số lượng lẻ. Trừ trường hợp đốt cho người mới mất trong thời gian còn chịu tang, người ta mới thắp 2 nén hương.   Số lượng hương khi thắp mang ý nghĩa nhất định.   Khi người ta muốn cầu bình an, mong muốn việc làm ăn thuận buồm xuôi gió thì người ta chỉ thắp duy nhất một nén hương.   Trong tập tục Việt Nam, thắp hương đúng cách người ta thường thấp 3 nén hương, nhằm thể hiện lòng thành kính, sự tận tụy của bản thân với các bậc bề trên. Trong phong thủy, 3 nén hương tượng trưng cho Trời, Đất và Người. Nên vào những dịp trọng đại, người ta thương đốt 3 nén hương để cầu mong mọi chuyện được thuận buồm xuôi gió.   Còn việc thắp 5 nén hương, tượng trưng cho 5 mệnh trong phong thủy ( Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), nên khi mua đất, cất nhà người ta sẽ thắp 5 ném hương.
Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa
Để cầu xin ân trên ban cho những điều may mắn, tốt lành người ta sẽ đốt 7 hoặc 9 nén hương.   Không chỉ vậy, ở một số vùng quê nước ta họ còn thắp hương từng gốc cây, góc nhà, vì theo họ mọi vật đều có tâm hồn và cần được an ủi để những vong hồn sống ở đó không cảm thấy cô đơn, hưởng được ít phước lành sớm ngày được siêu thoát.

 

Lưu ý khi thắp hương

 
Huong dan cach thap huong dung cach hinh anh 2
Ảnh minh họa

 
Nếu không muốn xui tận mạng thì khi thắp hương, bạn nên có những lời cầu khấn thành tâm. Đặc biệt, khi thắp hương ở chùa, miếu để cầu nguyện cho người thân đã mất, bạn nên nêu rõ tên của người đó ra để họ có thể hưởng được những điều tốt mà bạn cầu nguyện cho họ.   Một điều nữa chúng ta cũng cần phải ghi nhớ đó là khi thắp hương đúng cách, không chỉ thắp bằng tấm lòng thành kính mà còn phải tập trung không được có thái độ lơ là. Khi cắm hương, phải cắm từng nén một bằng hai tay vào bát hương.

ST.
Bố thí đúng cách - hưởng thụ khi học Phật Sự thật về tồn tại ma quỷ trong đời? Tiêu tán thiện nghiệp vì 4 sai lầm đáng trách
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn cách thắp hương đúng cách

Tam hình Sửu Mùi Tuất, tưởng xấu mà hóa giàu

Sửu Mùi Tuất tam hình không ai không biết. Tam hình thường là xấu, nhưng trường hợp này lại chứa tứ khố tại mệnh, nhất định giàu có sung túc.
Tam hình Sửu Mùi Tuất, tưởng xấu mà hóa giàu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong 12 địa chi có những tổ hợp tương hình, tương xung, tương hại lẫn nhau, trong đó Sửu Mùi Tuất tam hình không ai không biết. Tam hình thường là xấu, nhưng trường hợp này lại chứa tứ khố tại mệnh, nhất định giàu có sung túc. 


► Xem bói theo khoa học tử vi để biết tình yêu, hôn nhân, vận mệnh, sự nghiệp của mình

Tam hinh Suu Mui Tuat, tuong xau ma hoa giau hinh anh 2
 
Sửu Mùi Tuất dù là tổ hợp bị hình nhưng bởi bên trong Sửu có Thủy vượng, bên trong Tuất có mộ Hỏa (Đinh Hỏa), Sửu dựa vào Thủy vượng hình Tuất bên trong mộ Hỏa. Tuất là lục giáp tôn sư, Mùi là lục quý chi ti, Tuất hình Mùi, là lấy tôn hình ti, không có Thổ vượng (Kỷ Thổ), dựa vào hình vượng Sửu bên trong Thủy vượng.   Nói cách khác, Mùi dựa vào Đinh Hỏa hình Sửu trong Tân Kim, Sửu dựa vào Thủy vượng hình Tuất bên trong trong có Đinh Hỏa, Tuất dựa vào Tân Kim hình Mùi bên trong Ất Mộc. Sửu Mùi Tuất tương hình sinh vượng, chủ nhân tinh thần phấn chấn, lông mày thô rậm, tính cách ngay thẳng hào phóng, thông minh, may mắn.    Trong số mệnh đắc cách, nhưng lại không biết phân biệt thị phi, vì không hiểu biết pháp luật mà phạm tội. Nữ mệnh trong tử vi có tam hình Sửu, Tuất, Mùi thì gặp nhiều trở ngại, một đời cô độc. Nam mệnh có phần tốt hơn.   Mệnh lý truyền thống ghi nhận tứ hành xung Thìn Tuất Sửu Mùi làm tứ khố, Thìn là Thủy khố, Tuất là Hỏa khố, Sửu là Kim khố, Mùi là Mộc khố. Số mệnh có tứ khố thì tài khố sung túc, đầy đủ bạc tiền.
Tam hinh Suu Mui Tuat, tuong xau ma hoa giau hinh anh 2
 
Trong mệnh có khố mới có thể ngụ tiền, là phú quý mệnh. Nếu tứ khố đầy đủ chính là phú quý mệnh đại cát, nên mới có câu: mệnh có tài khố, không thể không giàu.   Vì thế hình chưa chắc đã là xấu toàn diện. Tam hình Sửu Mùi Tuất, tứ xung Thìn Tuất Sửu Mùi cũng có phương diện rất tốt. Vì thế, nếu mệnh gặp phải những tình huống hình, hại, xung thì chớ vội buồn bã, cần xem xét tất cả các phương diện. Ngoài ra, còn có thể bổ sung ngũ hành khuyết thiếu bằng tên gọi hoặc đồ vật trang trí, phục sức để giảm thiểu họa do hình, hại, xung gây ra. Nên tưởng xấu mà chưa chắc đã xấu, xấu rồi vẫn có cách hóa giải, chính là điểm vi diệu của luận mệnh tử vi. 
Năm tuổi có nên tiến hành hôn nhân đại sự? Giới thiệu khái niệm Cửu thần trong Kỳ Môn Độn Giáp Cách tính tháng âm lịch ứng với 12 địa chi
Thái Vân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tam hình Sửu Mùi Tuất, tưởng xấu mà hóa giàu

Lấy chồng tuổi nào khỏi muộn phiền vì tiền bạc

Láy chồng tuổi nào thì tốt? Người tuổi Thìn mạnh mẽ từ trong tiềm thức, làm việc gì cũng nhiệt huyết, một tay gây dựng cơ đồ.
Lấy chồng tuổi nào khỏi muộn phiền vì tiền bạc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Người tuổi Thìn mạnh mẽ từ trong tiềm thức, làm việc gì cũng nhiệt huyết, một tay gây dựng cơ đồ, là chỗ dựa đáng tin cậy cho đối phương cũng như người thân trong gia đình. Chính vì thế, lấy được con giáp này làm chồng, quý cô chẳng bao giờ phải muộn phiền về vấn đề tài chính.


► Bói tình yêu theo ngày tháng năm sinh để biết nhân duyên của hai người
  1. Chàng trai tuổi Thìn   Ra ngoài thì hào hoa, hô mưa gọi gió là vậy, nhưng khi về nhà, chàng trai tuổi Thìn lại đề ra những quy tắc, chuẩn mực riêng, sao cho gia đình luôn an yên, ngập tràn hạnh phúc.    Người tuổi Thìn mạnh mẽ từ trong tiềm thức, làm việc gì cũng nhiệt huyết, một tay gây dựng cơ đồ, là chỗ dựa đáng tin cậy cho đối phương cũng như người thân trong gia đình. Chính vì thế, lấy được con giáp này làm chồng, quý cô chẳng bao giờ phải muộn phiền về vấn đề tài chính, bởi họ sẽ đứng ra đảm đương tất cả, bạn chỉ cần chăm sóc tốt cho tổ ấm gia đình là được.   Với chàng trai tuổi Thìn, dù trong tay có tiền hay không, dù xuất thân cao quý hay nghèo hèn… nhưng khi đã chịu trách nhiệm về cuộc đời ai đó, họ sẽ không bao giờ để người ấy phải chịu thua thiệt.  
Lay chong tuoi nao khoi muon phien vi tien bac hinh anh
 
2. Chàng trai tuổi Ngọ   Lấy chồng tuổi nào để khỏi lo muộn phiền tiền bạc? Anh chàng cầm tinh con người có lối sống phóng khoáng, lúc nào cũng căng tràn nhiệt huyết. Cuộc sống sau hôn nhân với chàng trai tuổi Ngọ hứa hẹn nhiều bất ngờ thú vị. Bởi họ luôn ý thức được những gì cần thiết và thay đổi theo chiều hướng tích cực.   Với người tuổi Ngọ, tiền bạc chỉ là thứ phòng thân, gián tiếp làm cuộc sống thêm vui vẻ hơn mà thôi. Thậm chí, họ coi vấn đề vật chất như là công cụ để làm hài lòng bà xã của mình. Họ sẵn sàng chi ra số tiền lớn để mua quà tặng đắt giá, chỉ với mục đích khiến vợ vui lòng.   Chọn tháng sinh vượng tài vận cho 12 con giáp Chàng trai tuổi nào lấy mẹ làm tiêu chuẩn để chọn vợ? Họa từ miệng mà ra, 3 con giáp rất dễ vướng thị phi
3. Chàng trai tuổi Hợi
  Nói về mức độ chiều chuộng nửa kia, chẳng ai có thể sánh bằng chàng trai tuổi Hợi. Họ sẵn sàng dành những đồng tiền cuối cùng trong tay để mua quà tặng nửa kia, bất chấp ngày mai sẽ sống ra sao.    Hơn nữa, người tuổi Hợi là có ý thức phát triển sự nghiệp rất lớn. Khi chưa đạt được mục tiêu đề ra, họ chưa thể yên tâm mà lấy vợ. Bởi đơn giản, họ nghĩ, bản thân mình khổ sao phải kéo người khác khổ lây. Được nâng khăn sửa túi cho con giáp này, bạn đúng là người vô cùng may mắn.  
Lay chong tuoi nao khoi muon phien vi tien bac hinh anh
 
4. Chàng trai tuổi Dần   Dù tôn sùng chủ nghĩa đàn ông, tính tình lại vô cùng nóng nảy, nhưng mức độ chiều chuộng bà xã của chàng trai tuổi Dần cũng không hề kém cạnh những con giáp khác.    Hơn thế, về khoản kiếm tiền, người tuổi Dần cũng có những thế mạnh nhất định. Họ sẽ không chịu dừng lại khi chưa thực sự thỏa mãn tham vọng của bản thân. Chính vì thế mà họ gặt hái được không ít thành công trong sự nghiệp.   Chuyện tiền bạc với anh chàng tuổi Dần nhẹ tựa lông hồng. Dù phải vất vả bôn ba kiếm tiền, nhưng lúc tiêu tiền lại phóng khoáng vô cùng, nhất là khi người sử dụng số tiền ấy là bà xã, người thân trong nhà.   Hoàng Lam  
12 con giáp và những ngôi sao Euro 2016: Người tuổi Tỵ
Năm 2016, người tuổi Tỵ được cát tinh Thái Dương lâm mệnh, báo hiệu rằng sẽ được quý nhân là nữ giới giúp đỡ. Trong công việc, nếu lãnh đạo là nữ, con giáp này

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lấy chồng tuổi nào khỏi muộn phiền vì tiền bạc

Sự thật ngỡ ngàng về anh hùng thời loạn Tôn Quyền

Năm 220, Lưu Bị thất thủ Kinh Châu, thiên hạ chia thành ba phần rõ rệt. Đa phần đều cho rằng, đây là cơ hội tốt để Tôn Quyền kết hoa giăng đèn, khoác áo hoàng bào xưng đế một phương. Vậy mà đến tận năm 229, Tôn Quyền mới chính thức xưng đế, rời đô xây đại nghiệp.
Sự thật ngỡ ngàng về anh hùng thời loạn Tôn Quyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong tác phẩm kinh điển “Tam Quốc diễn nghĩa”, trong các nhân vật chính thì Tôn Quyền được khắc họa không mấy thành công. Tôn Quyền không có được cá tính hoặc tài năng nổi trội như Lưu Bị và Tào Táo, cũng không có được khí khái anh hùng. Đại nghiệp của ông khiến cho người đọc cảm thấy phần nhiều do may mắn.

Thực ra, nhân vật lịch sử Tôn Quyền cũng không thừa hưởng được sự dũng cảm cương nghị của cha, không có được nhuệ khí như anh trai Tôn Sách, không có được sự gian hùng ngang dọc Nam Bắc mà lại tài hoa văn chương như Tào Tháo, không được như Lưu Bị khi lập đại nghiệp trong loạn thế anh hùng. Điểm nổi bật duy nhất khiến Tôn Quyền không lẫn với ai đó chính là tướng mạo đặc biệt với mắt xanh ngọc bích và hàm râu tím.

Công bằng mà phán xét, trong thời loạn, một quân vương trong 24 năm đã xây dựng được đại nghiệp hưng thịnh, tạo thế vững vàng như long hổ ở Giang Đông thì Tôn Quyền đúng là một đại anh hùng có tài hoa chính trị phi phàm.

Ông kế thừa cơ nghiệp từ cha anh không hề phải kinh qua sự tôi luyện nơi sa trường ác liệt nhưng ông đã biết dùng những võ tướng, đại thần có năng lực làm kẻ tận trung với mình khiến cho Giang Đông trở thành vùng bảo địa hội tụ của các hiền tài trong thiên hạ.

Ông cũng là người dũng cảm khi bản thân thực sự không có tài năng quân sự nhưng lại dám tin tưởng giao cho Chu Du, Lã Mông, Lục Tốn quyền thống soái quân đội cực lớn. Đó chính là cái tài của người làm chính trị.

Ông hiểu rõ nhất những nhân tài này nhất mực trung thành với mình. Chu Du và Lục Tốn tình như anh em ruột, Lã Mông và Lục Tốn lại do chính tay ông đề đạt nâng đỡ, họ đều là những người nợ ân tình thâm sâu với Tôn Quyền, nay lại được trọng dụng nên khó mà tạo phản. Chính nhờ sự trợ giúp hết lòng của những anh tài này mà Tôn Quyền mới có thể hùng cứ tại Giang Đông.

Xét từ góc độ lịch sử, hàng loạt các quyết định và hành động của Tôn Quyền đã chứng tỏ rằng ông ta chính là một hào kiệt trong thời loạn lạc. Ngay đến Tào Tháo, Lưu Bị người gian xảo kẻ dũng mãnh nhưng cũng không thể ngờ được rằng thất bại thê thảm nhất cuộc đời họ chính là để Tôn Quyền - một kẻ vãn bối vốn không được đánh giá cao đã xưng vương một cõi.

Tôn Quyền khéo léo, biết khuất phục cũng biết vươn mình, đầy khí khái của một đấng đại trượng phu. Trước khi xưng đế, ông đã làm chư hầu cho Ngụy. Tuy một số người coi ông là kẻ mặt dày vô xỉ, nhưng thực chất đây chính là mưu kế chính trị cao siêu của ông ta. Giữa buổi loạn lạc, Tôn Quyền vì muốn tránh nguy cơ rơi vào cạm bẫy trong trận chiến giữa hai bên trong việc tranh giành Kinh Châu nên đã chịu nhục trong vòng gần 10 năm để làm thần cho Ngụy.

Thực ra sự đầu hàng này chỉ là danh nghĩa, trên thực tế Tôn Quyền không hề chịu sự điều khiển của Tào Tháo về chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao. Năm 24 Kiến An tức năm 219, Tôn Quyền sau khi giết chết Quan Vũ. Nguyên niên Hoàng Sơ tức năm 220, Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Tôn Quyền ngay lập tức cống tiến để biểu thị thần lễ. Năm thứ hai Hoàng Sơ, Tôn Quyền lại tiếp tục cử sứ giả đến xưng thần.

Tào Phi không bằng lòng với mối quan hệ nước chư hầu hữu danh vô thực nên đã yêu cầu Tôn Quyền đưa con trai đến làm con tin để biểu thị sự trung thành với nước Ngụy. Tôn Quyền không muốn để con trai mình làm con tin lại không muốn rơi vào ranh giới giữa cuộc chiến hai miền Nam Bắc nên đành phải tìm cách trì hoãn.

Năm thứ ba Hoàng Sơ, Tào Phi cuối cùng không chịu nổi Tôn Quyền đã cho ba đại quân xuống phía Nam phạt Ngô. Lúc này tướng Lục Tốn của Tôn Quyền vừa đại phá Lưu Bị giành chiến thắng ở trận chiến Di Lăng, giải quyết được sự uy hiếp từ phía Tây. Thừa thế xông lên, Tôn Quyền lập tức phản kháng lại Tào Phi, mối quan hệ chư hầu giữa Ngụy Ngô chính thức tan vỡ.

Tôn Quyền cuối cùng cũng đăng cơ hoàng vị, chính thức xây dựng nước Ngô. Trong thời gian chấp chính, ông cử người vượt biển. Ông cho thiết lập nông quan, thực hiện chính sách đồn điền, phát triển kinh tế, phát triển mở rộng lãnh thổ đến Giang Nam và một lần nữa ông lại thể hiện được tài năng trị quốc vượt bậc.

Đối với bất cứ một nhân vật lịch sử nào, đều cần phải nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan. Tuy cuối đời Tôn Quyền tự dưng trở nên ngờ vực đa nghi, giết người vô độ, đưa chính cục của Đông Ngô vào thế hỗn loạn, nhưng tổng thể mà nói Tôn Quyền vẫn được coi là một đời anh hào, một chiến lược gia chính trị kiệt xuất trong lịch sử của Trung Quốc.

Nguồn: keinthuc.net.vn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sự thật ngỡ ngàng về anh hùng thời loạn Tôn Quyền

Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành. Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mỗi một nguyên tố ngũ hành không tồn tại độc lập mà dựa vào nhau, chi phối lẫn nhau. Đây chính là quy luật tương sinh tương khác. Lựa chọn tầng nhà nên dựa vào tính tương sinh, tương trợ của ngũ hành.

Ngày nay khi các chung cư mọc lên như nấm, việc mua nhà tầng để ở, thuê văn phòng trong các chung cư, tòa nhà cũng vô cùng phổ biến. Trong phong thủy, nếu ngũ hành của tầng nhà tương sinh với mệnh của gia chủ thì cát tường, ngược lại thì không tốt cũng không xấu chứ không đến mức hung sát.

Ngũ hành của tầng nhà như sau:

Tầng 1 và 6 thuộc Thủy; tầng 2 và 7 thuộc Hỏa; tầng 3 và 8 thuộc Mộc; tầng 4 và 9 thuộc Kim; tầng 5 và 10 thuộc Thổ. Nếu số tầng lớn hơn 10 thì dựa vào phần đuôi đẻ tính, ví dụ: tầng 19 có số 9 thuộc Kim, vậy tầng 19 thuộc Kim.

chung-cu-phong-thuy

Căn cứ vào năm sinh để xác định tầng nhà:

Người sinh năm Tý (cầm tinh con chuột) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Người sinh năm Sửu (cầm tinh con trâu) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Dần (cầm tinh con hổ) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và10).

Người sinh năm Mão (cầm tinh con mèo) có ngũ hành thuộc Mộc: Hợp Thủy (tầng 1 và 6), Mộc (tầng 3 và 8), bình thường Thổ (tầng 5 và 10).

Người sinh năm Thìn (cầm tinh con rồng) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Tỵ (cầm tinh con rắn) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Ngọ (cầm tinh con ngựa) có ngũ hành thuộc Hỏa: Hợp Mộc (tầng 3 và 8), Hỏa (tầng 2 và 7), bình thường Kim (tầng 4 và 9).

Người sinh năm Mùi (cầm tinh con dê) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Thân (cầm tinh con khỉ) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Dậu (cầm tinh con gà) có ngũ hành thuộc Kim: Hợp Thổ (tầng 5 và 10), Kim (tầng 4 và 9), bình thường Mộc (tầng 3 và 8).

Người sinh năm Tuất (cầm tinh con chó) có ngũ hành thuộc Thổ: Hợp Hỏa (tầng 2 và 7), Thổ (tầng 5 và 10), bình thường Thủy (tầng 1 và 6).

Người sinh năm Hợi (cầm tinh con lợn) có ngũ hành thuộc Thủy: Hợp Kim (tầng 4 và 9), Thủy (tầng 1 và 6), bình thường Hỏa (tầng 2 và 7).

Tuy nhiên mỗi nhà đều có nhiều người cầm tinh khác nhau, nên mệnh gia chủ là tính mệnh của người đứng tên căn nhà (thường là người đàn ông trong nhà) hoặc là người quản lý chi tiêu trong nhà (nếu không lấy theo người đứng tên).

Cách này khi chọn tầng văn phòng, lấy theo mệnh của người đứng đầu công ty (trên giấy tờ, hoặc là người quản lý trực tiếp ở vị trí cao nhất).


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách lựa chọn tầng chung cư theo phong thủy –

Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Một bài dịch rất hay về bói toán cổ truyền tại việt nam. Mời các bạn cùng đọc.
Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Alexei Volkov

(University of Tsinghua, Beijing)

CHIÊM TINH HỌC VÀ THUẬT BÓI TOÁN TẠI VIỆT NAM CỔ TRUYỀN

Ngô Bắc dịch

Lời Người Dịch:

Dưới đây là bản dịch của một bài viết hiếm hoi của một tác giả Tây Phương về khoa Chiêm Tinh Học và Thuật Bói Toán tại Việt Nam từ xa xưa. Bởi phải chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa kéo dài cả nghìn năm lệ thuộc, chiêm tinh học và thuật bói toán Việt Nam đều bắt nguồn từ các kinh sách của Trung Hoa. Tác giả đã hoàn toàn dựa vào các sự phân tích hàn lâm, tức trên sách vở không thôi, và không nêu ra các sự khảo sát về mặt thực hành. Trong thực tế, đã có ít nhiều sự khác biệt trong sự thực hành, đôi khi chỉ trên hình thức, tạo ra sự khác biệt của khoa chiêm tinh và thuật bói toán của Việt Nam với Trung Hoa. Chẳng hạn như phép bói Bát Tự hay cách lập quẻ bằng giờ, ngày, tháng, năm sinh và giới tính vốn thông dụng tại Trung Hoa nhưng hầu như rất ít được áp dụng tại Việt Nam, hay trong bản tử vi của Việt Nam, con Mèo (Mão) đã thay cho con Thỏ trong 12 con vật thuộc địa chi của tử vi Trung Hoa.

Điều lạ lùng là tác giả không hề nói gì về Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, người được xem là nhà tiên tri nổi tiếng nhất của Việt Nam, kẻ mà người dân Việt Nam nào cùng nghe biết đến qua các lời được cho là sấm truyền của cụ trong hơn 500 năm qua, tuy chẳng hiểu biết một cách xác thực về nhân vật gần như huyền thoại này./-

***

Dẫn Nhập: Bối Cảnh Lịch Sử

Miền bắc của Việt Nam ngày nay đã từng chính thức trở thành một tỉnh của Đế Quốc Nhà Hán Trung Hoa vào cuối thế kỷ thứ 2 Trước Công Nguyên [từ giờ trở đi viết tắt là TCN, chú của người dịch], song các sự trao đổi trí thức giữa miền này với các phần khác của Trung Hoa đã hiện diện từ lâu trước thời điểm đó. Khi Việt Nam thôi không còn là một tỉnh của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10 Sau Công Nguyên [SCN], quốc gia Việt Nam mới khai sinh đã thực hiện một hệ thống thư lại tương tự như hệ thống của triều đại nhà Tống Trung Hoa (960-1279), kể cả các định chế giáo dục và hệ thống khảo thí. Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn còn mạnh trong suốt các triều đại Việt Nam liên tiếp nhau, và còn trở nên mạnh hơn trong và sau sự chiếm đóng ngắn ngủi của Trung Hoa tại Việt Nam trong các năm 1407-1427. Chính sách thực dân của Pháp đã khởi sự với chiến dịch Nam Kỳ (Cochinchina) trong các năm 1858-1862 đánh dấu bước khởi đầu của một sự suy sụp mau chóng học thuật Trung-Việt cổ truyền và phát súng ân huệ quyết định đã được bắn ra với sự xóa bỏ hệ thống khảo thí quốc gia trong năm 1919.

Trong thời kỳ mà Việt Nam là một tỉnh chính thức của đế quốc Trung Hoa (giờ đây thường được nói đến bởi các tác giả Việt Nam như thời “đô hộ của giặc Tàu”), chính quyền địa phương đã sử dụng tiếng Hoa cổ diển cho các tài liệu chính thức, trong giáo dục, và các cuộc khảo thí quốc gia. Các tài liệu sớm nhất (các bi ký trên các bia đá của thiên niên kỷ đầu tiên SCN) không chứa đựng, hay rất ít, các chữ “địa phương” được sắp xếp trên căn bản của Hán tự. Sau khi có sự tách biệt Việt Nam ra khỏi Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10, một số lượng gia tăng các chữ địa phương xuất hiện trong các tài liệu văn bản. Chữ viết địa phương thiết kế trên căn bản Hán tự và dùng để ký tự ngôn ngữ Việt Nam được gọi là chữ Nôm . 2 Vài lần các nhà cai trị Việt Nam đã cố gắng để dùng chữ Nôm làm ngôn ngữ cho việc soạn thảo văn kiện chính thức và học thuật thay cho tiếng Hoa (Hán: 漢) cổ điển, nhưng Hoa ngữ cổ điển vẫn còn được dùng thường xuyên hơn. Ngay này từ ngữ “các sách Hán Nôm 漢 ” được dùng để chỉ toàn thể sưu tập các sách Việt Nam viết bằng Hoa ngữ cổ điển hay bằng tiếng Việt (dùng chữ Nôm), hay bằng cả hai ngôn ngữ hỗn hợp).

Vào cuối thế kỷ thứ 19, chính quyền thực dân Pháp đã diệt trừ một cách có hệ thống hệ thống chữ viết Hán Nôm cổ truyền, một phần vì ngộ nhận một cách ngây thơ, phần kia bị giải thích một cách cố ý bởi các kẻ bênh vực cho chính sách thực dân Pháp, như một dấu hiệu đô hộ chính trị và văn hóa của Trung Hoa trên Việt Nam. Sự sử dụng hệ thống ký âm dùng mẫu tự La Tinh với các dấu nhấn biến âm được đặt ra bởi các nhà truyền giáo Công Giáo hồi cuối thế kỷ thứ 16 và đầu thế kỷ thứ 17 (một cách mỉa mai, ngày nay được nói đến ở Việt Nam là Quốc Ngữ 國 語, “ngôn ngữ dân tộc”) nguyên thủy được nghĩ như một giải pháp cho vấn đề phát sinh từ những khó khăn được kinh nghiệm bởi các công chức của chính quyền thực dân khi dùng tiếng Việt. Cùng lúc, nó được nhận thức như một phương tiện để diệt trừ sự lệ thuộc vào hệ thống giáo dục kiểu Trung Hoa và, sau cùng, để thay thế nó bằng giáo dục hiện đại của Pháp. 4 Các phong trào chống thực dân của Việt Nam giành được động lực hồi đầu thế kỷ thứ 20 cũng bênh vực cho Quốc Ngữ viết bằng mẫu tự [La Tinh] là quan trọng cho cuộc giải phóng dân tộc và cho sự hiện đại hóa nhanh chóng xứ sở. 5 Sau này, khi sự giảng dạy của và bằng tiếng Pháp bị gián đoạn (trong thập niên 1940 tại miền Bắc) hay giảm bớt (tại Miền Nam), chữ Quốc Ngữ sau rốt trở thành ngôn ngữ viết duy nhất được sử dụng bởi nhóm dân tộc đa số của Việt Nam, người Kinh (hay Việt, ngày nay cấu thành khoảng 85% của toàn thể dân chúng.) Hậu quả, di sản văn chương của hơn mười thế kỷ của sự phát triển độc lập của dân tộc bị mất đi chỉ trong vòng vài thập niên, và ngày nay chỉ còn một ít cá nhân có khả năng đọc được các văn bản cổ viết bằng chữ Hán Nôm. Hơn nữa, trong suốt các cuộc chiến tranh xảy ra tại Việt Nam trong thế kỷ thứ 20, các sách được bảo tồn tại Thư Viện Hoàng Triều tại Huế cũng như tại các sưu tập tư nhân bị tổn hại, phá hủy, hay mất mát. Liên quan đến các sách về bói toán, trong các năm 1948-49, 1956, 1968, và 1976, chính quyền [cộng sản] Việt Nam đã thực hiện vài chiến dịch nhằm vào việc diệt trừ “các mê tín dị đoan”, đặc biệt về bói toán, trong đó các dụng cụ và sách vở được sử dụng bởi các nhà bói toán chuyên nghiệp bị tịch thu. 6 Để kết luận, tại Việt Nam trong vài thập niên qua một số lượng lớn lao các sách liên hệ đến thuật bói toán đã bị mất mát, hủy diệt, hay trở nên không thể cung ứng cho các nhà nghiên cứu.

Chiêm Tinh Học Việt Nam:

Các Nguồn Tài Liệu Chính Yếu Và

Văn Chương Thứ Yếu

Lịch sử của thuật bói toán được thực hành bởi nhóm dân tộc đa số, người Kinh [tiếng Việt trong nguyên bản, chú của người dịch] theo sự hiểu biết của tôi, chưa bao giờ được thảo luận một cách có hệ thống trong các ấn phẩm bằng ngôn ngữ Tây Phương. 7 Các nỗ lực đầu tiên để nghiên cứu và trình bày các nguồn văn liệu Việt Nam cũng như các sự thực hành thực tế của các người bói toán được thực hiện bởi các học giả thực dân Pháp Gustave Dumouyier (1850-1904) và Georges Coulet (tích cực trong thập niên 1920). 8 Một sự giới thiệu văn minh Việt Nam được viết cho khối độc giả đại chúng bởi Nguyễn Văn Huyên đề cập rất ngắn vài loại bói toán, đặc biệt những loại liên quan đến các cách thức lên đồng (mediumistic practices). 9 Các tác giả Huard và Durand (1954) đưa ra một sự phác họa đại cương thuật bói toán Việt Nam (trong trường hợp này rõ ràng để chỉ thuật bói toán của người Kinh, bởi các tác giả không hề nói tới bất kỳ nhóm dân tộc ít người nào khác); họ liệt kê địa lý phong thủy (geomancy), chiêm tinh (astrology), “phù thủy: sorcery”, xem tướng (physiognomy), và “xem bói bằng chân tay thú vật [xem chân gà?]: zoochiromancy” như các hình thức được thực hành rộng rãi nhất của thuật bói toán. 10 Nguồn gốc Trung Hoa của truyền thống bói toán Việt Nam không được thảo luận bởi Huard và Durand, nhưng họ có đề cập đến tập khảo cứu chiêm tinh Zi wei dou shu quan shu (tiếng Việt là Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư) 紫微斗數全書 của tác giả Trung Hoa Chen Tuan 陳摶 [tiếng Việt là Trần Đoàn, chú của người dịch] (cũng được gọi là Chen Xiyi 陳希夷 [Trần Hi Di, ND], 871-989) như là tập cẩm nang bói toán phổ thông nhất tại Việt Nam. 11

Các khảo luận còn tồn tại về thuật bói toán có thể được thấy liệt kê trong hai thư mục tiêu chuẩn về các sách Hán-Nôm. Một trong chúng là một thư tịch song ngữ (tiếng Việt và tiếng Pháp) bởi Trần Nghĩa và François Gros (1993), và thư mục kia là một thư tịch được biên soạn (bằng Hán tự) bởi Liu Chun-Yin 劉春銀 (Lưu Xuân Ngân), Wang Xiaodun 王小盾 (Vương Tiểu Thuẫn) và Trần Nghĩa 陳義 (Liu và các tác giả khác, 2002). Thư tịch của họ Trần và Gros (1993) gồm 5,038 đầu mục thư tịch liệt kê số tài liệu lưu trữ của thu viện Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm (Hà Nội), các thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ (École française d’Extrême-Orient (từ giờ trở đi viết tắt là EFEO) và Hội Á Châu học (Société Asiatique (cả hai ở Paris), cũng như một số thư viện Việt Nam và Nhật Bản. Mỗi đầu mục của thư tịch bao gồm các phần chú giải ngắn bằng tiếng Việt và tiếng Pháp; các nhan đề của các quyển sách được liệt kê theo thứ tự mẫu tự ABC trong hệ thống ký âm Quốc Ngữ. Để xác định các sách về thuật bói toán, người ta có thể sử dụng một bảng chỉ dẫn theo đầu mục (index) được cung cấp ở cuối thư tịch. Các sách về chiêm tinh học được tìm thấy trong phân mục Tín ngưỡng dân gian (các tín ngưỡng truyền thống) chứa đựng các sự tham chiếu đến các tác phẩm thuộc vào một loạt rộng rãi nhiều ngành học thuật, từ “nhân chủng học: anthropology” và “tôn giáo: religion” đến “văn chương: literature”. Hệ thống phân loại này gây khó khăn cho việc nhận dạng các sách liên quan đặc biệt đên khoa chiêm tinh. Thư tịch của họ Liu và các tác giả khác (2002) thì dựa trên thư tịch của Trần và Gros (1993), nhưng các đầu mục thư tịch trong đó được tái sắp xếp theo hệ thống Trung Hoa cổ truyền thành “bốn loại” (“các kinh sách”: 經 (kinh), “các biên tập về lịch sử”: 史 (sử), “các trường phái triết học”: 子 (tử), và “sưu tập văn chương”: 集 (tập). Các sách về bói toán được tìm thấy trong mục “số mệnh học: numerology” (shushu 數 術: số thuật) thuộc loại “tử: sách về các trường phái triết học” và được phân chia thành năm phân loại: xem thế đất: geomancy (kanyu 堪 輿: kham dư), chiêm tinh học (xingming 星 命: tinh mệnh), bói toán dựa trên 6 hào (hexagrams) của Yijing [Dịch Kinh] (Yigua 易 卦: dịch quái), xem tướng (physiognomy) và các loại linh tinh liên hệ đến bói toán (xiangfa zazhan 相 法 雜 占: tướng pháp tạp chiêm), và “xóc quẻ xin xâm: tallies and omens” (qianchen 籤 讖: thiêm sấm). Tuy nhiên, một sự kiểm tra lướt nhanh trên phần về bingjia: binh gia 兵 家 (nghệ thuật quân sự) trong sách của họ Liu và các tác giả khác (2002) cho thấy rằng nó cũng chứa đựng các tác phẩm mà các sự mô tả chúng khiến nghĩ rằng chúng có thể trình bày các phương pháp bói toán liên hệ đến các vấn đề quân sự. Tương tự, các quyển chuyên về Yijing (Dịch Kinh) trong loại “kinh: canonical books” 經 và một số khảo luận y học chứa đựng các sự trình bày về các phương thức bói toán hay các sự thảo luận về các nền tảng triết lý và lý thuyết của thuật bói toán.

Cả hai thư tịch Trần và Gros (1993) và Liu và các tác giả khác (2002) đều không liệt kê các sách được bảo tồn trong vài sưu tập lớn chứa đựng các văn bản về chiêm tinh học. 12 Cũng có lý do để tin tưởng rằng một số các sách Hán-Nôm về chiêm tinh học từ thư viện Hoàng Triều tại Huế vẫn còn tồn tại; không may, chúng được bảo tồn trong các sưu tập tư nhân và do đó vẫn chưa được cung ứng cho sự nghiên cứu có hệ thống. Tổng quan về các tài liệu chính yếu trong bài viết này chính vì thế nhất thiết vẫn chưa đầy đủ.

Các Cơ Sở Chiêm Tinh Và Thiên Văn Của Việt Nam:

Một Tổng Quan

Theo quyển [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 (Sơ Lược Lịch Sử [Đại] Việt) trong thời khoảng từ thế kỷ thứ 2 TCN đến năm 1225 và được xem bởi một số sử gia là niên sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại, 13 các nhà cai trị Việt Nam đã khởi sự xây dựng các cơ sở thiên văn/chiêm tinh tại kinh đô Thăng Long昇 龍 (tức Hà Nội ngày nay) ngay từ năm 1029, khi vị Hoàng Đế thứ nhì của nhà (Hậu) Lý (後) 李 朝 (1009-1225), Thái Tông 太 宗 (tên cá nhân là Lý Phật Mã 李 佛 瑪, trị vì 1028-1054), ra lệnh tái xây cất Càn Nguyên Điện 乾 元 殿 sau trận động đất năm 1017; 14 các cơ sở mới xây dựng gồm có điện thờ Trời: Phụng Thiên Điện 奉 天 殿 mà trên nóc điện có đặt một Tòa Tháp Chính Ngọ (Chính Dương Lâu 正 陽 樓) với một đồng hồ nước bên trong. 15 Rõ ràng hoàn toàn có xác suất rằng các sự quan sát thiên văn và chiêm tinh tại các triều đình của các nhà vua Việt Nam có thể đã khởi sự sớm hơn nữa, vào cuối thế kỷ thứ 10, gần như ngay sau khi Việt Nam giành được sự độc lập khỏi Trung Hoa. Thời điểm khi các sự quan sát đầu tiên được thực hiện có thể được tính toán phỏng đoán trên căn bản các tài liệu về các vụ nhật thực (xem bên dưới).

Trong năm 1206, cơ sở thiên văn này đã bị hư hại vì hỏa hoạn, và nó đã chỉ được phục hồi vào một thời gian nào sau đó 16, điều, trên lý thuyết, có thể là lý do tại sao các niên sử Việt Nam [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書không có các tài liệu về các vụ nhật thực xảy ra giữa các năm 1206 và 1242. 17 Hai cơ sở nhiều xác suất nhất liên hệ đến các hoạt động thiên văn và chiêm tinh được mô tả là tọa lạc gần Cung Điện [Nhà Vua] trong một bản sao lục hồi thế kỷ thứ 17 tập Hồng Đức Bản Đồ 洪 德 版 圖 (Các Bản Đồ [của Việt Nam] được in dưới thời Hồng Đức) soạn thảo năm 1490 (Hình 1), 18, đó là Phụng Thiên Phủ 奉 先 府(Văn Phòng Thờ Phụng Trời) và Ti [Ty] Thiên Giám 司 天 監 Si tian jian, ty phụ trách Quan Sát Các Hiện Tượng Trên Trời). 19

Hình 1: Bản đồ Hà Nội từ tập Hồng Đức Bản Đồ

(hướng Tây ở trên cùng) cho thấy các địa điểm của Ti Thiên Giám 司 天 監 (A),

Phụng Thiên Phủ奉 先 府 (B), và Quốc Tử Giám 國 子 監 ©.

Posted Image

Ngay dù tên gọi Phụng Thiên Phủ có nói đến Trời và hiển nhiên gần giống như Phụng Thiên Điện 奉 先 殿 của nhà (Hậu) Lý, tôi giờ này không hay biết về bất kỳ bằng chứng nào khiến nghĩ rằng các chức năng của [Phụng Thiên] Phủ có dính líu đến việc ghi chép thời gian hay các hoạt động khác liên quan đến các sự quan sát thiên văn. Ti Thiên Giám được trình bày trên bản đồ tọa lạc phía nam của Cung Điện Hoàng Triều nằm giữa Phụng Thiên PhủQuốc Tử Giám 國子監, cơ quan thẩm quyền bậc đại học. Danh xưng của định chế kể trước, Ti Thiên Giám 司天監, giống y như tên của cơ quan đối tác phía Trung Hoa của nó; tại Trung Hoa, tên này được đặt cho Văn Phòng Thiên Văn/Chiêm Tinh lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 10 và được dùng hầu như một cách có hệ thống trong thời nhà Nguyên (bắt đầu từ thập niên 1260), nhà Minh, và (một cách không chính thức) dưới thời nhà Thanh. 20 Thời điểm chính xác của sự thiết lập Ti Thiên Giám của Việt Nam không được hay biết.

Điều vẫn chưa rõ rằng liệu “Ti Thiên Giám” nguyên thủy hồi đầu thế kỷ thứ 11 có phải đã được xây dựng tại địa điểm được thể hiện trên bản đồ hay không. Rất nhiều phần nó đã bị đóng cửa trong thời gian chiếm đóng của Trung Hoa (1407-1427), bởi nếu không, nó sẽ thách đố quyền hạn chuyên độc của các nhà chiêm tinh chính thức của Trung Hoa trong việc thực hiện và giải thích các sự nhận xét về thiên văn học. Người ta có thể ức đoán rằng định chế này đã được mở cửa lại không lâu sau sự triệt thoái của quân đội Trung Hoa, và đã duy trì hoạt động trong suốt thế kỷ thứ 17, khi một bản sao lục trình bày nơi Hình 1 được in ra.

Điều cũng không được rõ là cách thức mà các nhân viên làm công việc thiên văn/chiêm tinh đã được huấn luyện ra sao, song có thể hữu lý để ức đoán rằng các nhà cầm quyền Việt Nam đã thiết lập một chương trình giáo dục đặc biệt để huấn luyện các nhà thiên văn học và chiêm tinh học tương lai, giống như trường hợp của Trung Quốc. Ti Thiên Giám chính vì thế sẽ chịu trách nhiệm về việc thực hiện các sự quan sát, giải thích các dữ liệu về thiên văn học và khí tượng học, thi hành các sự tính toán niên lịch, tiên đoán các vụ nhật thực, và huấn luyện các nhân viên tương lai. Có rất nhiều xác suất rằng định chế này đã có một thư viện chuyên khoa lưu trữ các tác phẩm về thiên văn học và chiêm tinh học được giả định không có lưu hành ở bên ngoài văn phòng. Một mảnh bằng chứng gián tiếp hậu thuẫn cho giả định này được tìm thấy trong sưu tập các pháp điển Trung Hoa Song hui yao 宋 會 要, Tống hội yếu. Trong một tài liệu đề năm 1107 nó có lưu ý rằng các sứ giả Việt Nam sang Trung Hoa đã cố tìm mua sách thuộc nhiều khoa học, và rằng họ được phép để mua mọi văn bản ngoại trừ các sách được xem “bị cấm đoán”, tức, liên quan đên thuật bói toán, yin-yang (âm dương), niên lịch, và số mệnh học (numerology); chính sự lưu ý này xem ra làm ta suy nghĩ rằng các sứ giả đã đặc biệt chú ý đến các sách về các đề tài này. 21 Các nỗ lực để thụ đắc các sách vở liên hệ đến các niên lịch (và, với nhiều xác suất nhất, đến chiêm tinh học) tiếp tục cho đến đầu thế kỷ thứ 14. 22

Học trình của khoa Toán Học: Suan xue 算 學 Trung Hoa hồi đầu thế kỷ thứ 12 bao gồm một số chủ đề liên hệ trực tiếp đến sách lịch và khoa chiêm tinh, đặc biệt đến điều được gọi là “ba lược đồ: schemes” hay “ba biểu thức vũ trụ”: san shi 三 式, tam thức, có nghĩa ba phương pháp chính yếu của thuật bói toán (xem bên dưới), cũng như các văn bản chiêm tinh học không được xác định khác. 23 Nếu các sách vở thiên văn học và chiêm tinh học được bao gồm trong học trình của ngành học được nói là “đếm, tính: 算” (Toán trong tiếng Việt, Suan trong tiếng Hán) tại Việt Nam, khi đó các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được đề cập đến trong các tài liệu lịch sử có thể bao gồm các phần liên quan đến sự tinh toán để làm sách lịch và chiêm tinh, như trong trường hợp tại Trung Hoa dưới thời nhà Tống. 24 Có hiện hữu các tài liệu về các cuộc khảo thí quốc gia về “tính toán” được tổ chức tại Việt Nam trong năm 1077, 25 1261, 26 1363, 27 1404, 28, 1477, 29 1507, 30 và 1762. 31

Các sự trình bày về các hoạt động của các nhà thiên văn học và chiêm tinh học chuyên nghiệp được sử dụng bởi các nhà cầm quyền Việt Nam có thể được tìm thấy trong các hồi ký của các Tu Sĩ Dòng Tên người Ý Đại Lợi, Christophoro Borri (1583-1632) và Giovanni Filippo de Marini (1608-1682), các kẻ đã lần lượt đến thăm Đàng Trong: Cochinchina (Trung Kỳ Việt Nam) và Đàng Ngoài: Tonkin (Bắc Kỳ Việt Nam). Sự mô tả của Borri cho thấy rằng không chỉ Chúa Đàng Trong (Cochinchina), mà cả các ông hoàng, đều có các nhà chiêm tinh riêng của mình với công việc gồm cả sự tính toán các vụ nhật thực; de Marini mô tả một nghi thức đặc biệt được giả định sẽ được thực hiện bởi nhà vua trong ngày có nhật thực. 32 Các sự trình bày này khiến ta nghĩ rằng vào khoảng thế kỷ thứ 17, các nhà thiên văn học Việt Nam thụ hưởng một quy chế quan chức khá cao, rằng họ đã sử dụng các phương pháp của Trung Hoa về sự tiên đoán các vụ nhật thực, và rằng đôi khi họ không thể điều chỉnh một cách chính xác các phương pháp này với các vị trí (có nghĩa miền bắc và miền trung Việt Nam) nơi mà các vụ nhật thực được giả định sẽ được quan sát.

Một định chế chính thức chịu trách nhiệm về các công việc thiên văn và làm sách lịch tiếp tục hiện hữu tại Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 20. Một sự trình bày (có niên kỷ năm 1930) về văn phòng thiên văn/chiêm tinh Khâm Thiên Giám 欽 天 監, cơ quan kế nhiệm Ti Thiên Giám 司 天 監, 33 mô tả cơ cấu và nhân viên văn phòng thiên văn/chiêm tinh tọa lạc tại Huế, kinh đô của triều Nguyễn (1802-1945), và thuật lại một cách ngắn gọn lịch sử của nó, bắt đầu từ thời Hoàng Đế Minh Mạng (trị vì từ 1820-1841). 34

Các Sự Quan Sát Thiên Văn

Được Thực Hiện Tại Việt Nam

Tác giả Ho Peng Yoke trong bài viết của ông (1964) có cung cấp một danh sách các vụ nhật thực được đề cập tới trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 như được quan sát tại Việt Nam. Sự phân tích của họ Hồ chứng tỏ rằng “phần lớn các tài liệu ban đầu của quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư được rút ra từ các nguồn sách vở Trung Hoa, kể cả các lỗi sai lầm của chúng” (trang 128). Các tài liệu về các vụ nhật thực trong các Niên Sử đã không được phát hành một cách đồng nhất: có 21 vụ nhật thực trong thời khoảng từ 205 TCN đên 122 TCN, một vụ nhật thực cho mỗi năm 41, 479 và 547 SCN, 35 và sau đó một loạt 45 vụ nhật thực cho thời khoảng từ 993 SCN đến 1671 SCN. Các tài liệu liên quan đến các vụ nhật thực từ năm 205 TCN đến 547 SCN, theo ý kiến của tác giả họ Hồ, được sao chép từ các tài liệu của Trung Hoa. Chính vì thế, người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng sự khởi đầu của một sự quan sát (tương đối) có hệ thống của các vụ nhật thực tại Việt Nam có thể trùng hợp với sự thiết lập công tác thiên văn / chiêm tinh tại kinh đô. 36 Bộ [Đại] Việt Sử Lược nêu ở trên cũng chứa đựng các sự ghi chép về các vụ nhật thực, song các sự ghi chép này không giống với các vụ được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Một cách cụ thể hơn, [Đại] Việt Sử Lược chứa đựng các sự ghi chép chỉ có năm vụ nhật thực, trong đó vụ sớm nhất có nhật kỳ là ngày 15 Tháng Hai 1040; 37 vụ nhật thực này, được thực sự nhìn thấy tại Việt Nam, cũng được liệt kê trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. 38 Điều đáng chú ý, bốn vụ thiên thực còn lại được ghi chép trong bộ [Đại] Việt Sử Lược đã không được tìm thấy trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Chỉ có một vụ trong đó, vụ nhật thực vào ngày 11 Tháng Ba, 1206, phù hợp với một vụ thiên thực thực sự xảy ra (ngay dù rất nhiều phần nó đã không được nhìn thấy tại Việt Nam); 39 hai trong số ba vụ thiên thực còn lại đã xảy ra trong các năm hơi khác biệt với những năm được nêu ra trong bộ [Đại] Việt Sử Lược, 40 trong khi có một sự ghi chép không phù hợp với bất kỳ vụ thiên thực thực sự nào có thể xảy ra hoặc trước hay sau đó, trừ khi cả tháng và năm của vụ thiên thực đã bị thay đổi một cách đáng kể bởi các nhà biên soạn bộ sử ký hay bởi các người sao chép sau này. 41

Các Khảo Luận Về Chiêm Tinh Học:

Các Nhận Xét Dẫn Nhập

Các khảo luận về chiêm tinh học được bảo tồn trong các sưu tập các sách Việt Nam viết bằng tiếng Hán và tiêng Nôm được liệt kê trong thư tịch ở cuối bài viết này; độc giả có thể nhìn thấy rằng trong phần lớn các trường hợp, người ta đối diện với các bản chép tay không ghi niên đại của nguyên bản không xác định chắc chắn. Các sách được in thường có mang các niên kỳ xuất bản, và các niên kỳ này tương đối gần đây, từ cuối thế kỷ thứ 19 đến đầu thế kỷ thứ 20. Những niên kỳ muộn màng này của các ấn phẩm không nhất thiết tương ứng với thời điểm thực sự của sự biên soạn; tuy nhiên, không có bằng chứng vững chắc ngược lại, điều xem ra hợp lý để nghĩ rằng phần lớn các tài liệu hiện tồn của Việt Nam về chiêm tinh học đã thực sự được sản xuất ra tương đối muộn, ngay dù, một cách giả thiết, chúng có thể dựa trên các nguồn tài liệu xưa hơn. Sự phát biểu này không phủ nhận về mặt lịch sử văn liệu chiêm tinh học xưa hơn nhiều rất có thể đã hiện hữu tại Việt Nam. Có hai lý do để phát biểu như thế: trước tiên, các định chế chính thức đối phó với các vấn đề thiên văn và chiêm tinh được thiết lập tại nước Việt Nam độc lập hồi đầu thế kỷ thứ 11 hẳn phải sở hữu một số văn bản liên hệ đến các hoạt động của chúng; thứ nhì, có các sự đề cập đến các tác phẩm chiêm tinh có ảnh hưởng được soạn thảo bởi các học giả Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Thí dụ, điều được hay biết rằng Trần Nguyên Đán 陳 元旦 (1325-1390), một cố vấn cao cấp cạnh Hoàng Đế Việt Nam, có soạn thảo quyển khảo luận Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書 (Văn Bản Niên Sử Bao Quát Một Trăm Thế Hệ); tập khảo luận này bị mất, nhưng, theo một sự trình bày được tìm thấy trong một văn bản hơi muộn hơn, nó có chứa đựng một sự tái thiết niên biểu Trung Hoa (?) và một sự tính toán (hồi tố?) các vụ thiên thực. 42

Theo các sự tường thuật quy ước, một số lượng lớn lao các sách trong các thư viện chính quyền Việt Nam đã bị mất vì cháy hay tịch thu bởi quân xâm nhập Trung Hoa hồi cuối thế kỷ thứ 14 – đầu thế kỷ thứ 15. Nếu, theo các truyền thuyết, vụ hỏa hoạn xảy ra trong cuộc lục soát kinh đô bởi người Chàm hồi năm 1371 đã hủy diệt bừa bãi một số không rõ các thư viện, quân xâm lăng Trung Hoa đã tịch thu theo lời cáo giác một số lượng lớn lao các quyển sách và chuyển chúng về Trung Hoa, đã nhắm, với nhiều xác xuất nhất, một cách đặc biệt vào các sách vở bị nhìn như khẳng định một cách biểu trưng sự độc lập của quốc gia Việt Nam, tức, trước tiên, các niên sử địa phương, các sách lịch, các văn bản thiên văn học và chiêm tinh học. 43

Sự truy tầm các tài liệu Việt Nam về chiêm tinh học cũng bị khó khăn bởi cơ cấu hỗn hợp của các văn bản hiện tồn; một số các thủ bản (sách chép tay) được bảo tồn trong các thư viện là các sưu tập của các văn bản thuộc nhiều bản chất khác nhau có thể chứa đựng các phần sao chép từ các sách về chiêm tinh học. Một vài khảo luận chiêm tinh học được ghi trong thư tịch của Trần và Gros 1992 và Liu và các tác giả khác chứa đựng các phụ lục đôi khi gồm một số văn bản chiêm tinh học không quan trọng với các nhan đề khác biệt thường không liên hệ với nhau và với các luận thuyết chính yếu (muốn có các thí dụ, xem bên dưới). Hơn nữa, ngay cả khi nhan đề của một khảo luận trùng hợp với nhan đề của một văn bản chiêm tinh học Trung Hoa nổi tiếng, nó rất có thể là một sự tóm lược hay một biến thể của chủ đề trong nguyên bản Trung Hoa, hay một ấn bản với các lời bình luận bằng tiếng Hán cổ điển hay tiếng Nôm được thêm vào bởi các tác giả Việt Nam. Đây là lý do tại sao các nguồn tài liệu chiêm tinh học chủ yếu được tìm thấy trong thư tịch dưới đây không thể được xem là hoàn chỉnh; tuy thế, nó cho phép chúng ta được nhìn thấy, đến một mức độ nào đó, những loại văn bản chiêm tinh học nào thường được sao chép và bình luận nhiều nhất.

Trong đoạn kế tiếp tôi sẽ thảo luận một cách ngắn gọn các nguồn tài liệu hiện tồn. Cuộc thảo luận được chia nhỏ thành hai phần: trước tiên, tôi sẽ giới thiệu ba hệ thống chính yếu của chiêm tinh học Trung Hoa và trình bày ngắn gọn các khảo luận Việt Nam hiện tồn rõ ràng bị ảnh hưởng bởi chúng; thứ nhì, tôi sẽ, cũng ngắn gọn như thế, thảo luận cơ cấu của một khảo luận Việt Nam dựa trên một nguyên mẫu Trung Hoa.

Ba Truyền Thống Chiêm Tinh Học Trung Cổ

Của Trung Hoa và

Sự Đón Nhận Chúng Tại Việt Nam

Ba truyền thống ảnh hưởng nhất của chiêm tinh học Trung Hoa, được trình bày trong học trình của Trường Toán Học thời nhà Tống như “ba lược đồ [chiêm tinh]” hay “ba bảng vũ trụ” (san shi 三 式 tam thức là các hệ thống bói toán Tai yi 太 乙: thái ất, Qimen dunjia 奇門遁甲: Kỳ Môn Độn Giáp, và Liu ren 六 壬 Lục Nhâm. 44

(1) Hệ Thống Thái Ất (Tai Yi).

Tại Trung Hoa, hệ thống này được chấp nhận bởi Phòng Thiên Văn dưới thời nhà Đường (618-907) và được sử dụng suốt thời nhà Tống (960-1279). 45 Yan Dunjie 嚴 敦 杰 Nghiêm Đôn Kiệt (1917-1988) khám phá rằng các kỹ thuật bói toán của truyền thống này đã sẵn hiện diện hồi đầu thế kỷ thứ 6 SCN. 46 Văn bản nền tảng của truyền thống này là quyển Taiyi jinjing shijing 太 乙 金 鏡 式 經 Thái Ất Kim Kính Thức Kinh (Cẩm Nang Gương Vàng cho Biểu Đồ Vũ Trụ Thái Ất) của Wang Ximing 王 希 明 Vương Hy Minh (nhà Đường), được bảo tồn (có lẽ với các sự bổ túc sau này) trong tuyển tập Trung Hoa thế kỷ thứ 18 Si ku quan shu 四 庫 全 書 (Tứ Khố Toàn Thư). Cách thức bói toán liên quan đến sự vận dụng một bảng bói toán (hay, có thể, một biểu đồ) vẽ một vòng tròn trung tâm và bốn lớp vòng tròn đồng tâm được chia thành 16 phần trên mỗi vòng tròn. Lớp đầu tiên được ghi đầy bằng các con số từ 1 đến 4 và từ 6 đến 9, tạo thành, cùng với số 5 tại vòng tròn trung tâm, một hình vuông ma thuật; lớp vòng tròn đầu tiên cũng chứa 8 hình ba hào (trigrams) và một số dấu hiệu quay tròn tuần hoàn. Lớp kế tiếp chứa danh tính của “các tác nhân thần thánh: divine agents”, và lớp thứ ba, tên của các tỉnh của Trung Hoa. 47 Lớp sau cùng thì để trống và được giả định sẽ được lấp kín trong tiến trình bói toán. Như tác giả họ Ho nêu ý kiến, các sự áp dụng phương pháp này chính yếu liên hệ đến các sự vụ quân sự, song đã có những trường hợp khi sự bói toán liên can đến các hiện tượng thiên nhiên, chẳng hạn như các vụ động đất, giông bão với sấm sét, và ngay cả các vụ thiên thực. 48

Trong số các văn bản Việt Nam hiện tồn có hai tập khảo luận trực tiếp liên hệ đến truyền thống này: Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tài liệu giản lược [liên can đến bói toán theo phương pháp] Thái Ất và theo Kinh Dịch) [A38] và quyển Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙統 宗 寳 鑑 (Gương Quý Báu của Các Nguồn Gốc Thống Nhất của [các phương pháp của] Thái Ất [A39]. Quyển khảo luận kể tên trước được quy cho sự trước tác của danh sĩ Lê Quý Đôn 黎貴 惇 (1726-1784). Theo quyển tiểu sử của Lê Quý Đôn của Nguyễn Hữu Tạo 阮 有 造 (đỗ tiến sĩ 進 士 jinshi năm 1844), ông Lê còn viết ba quyển khảo luận về thiên văn học khác, một quyển trong đó là quyển Thái Ất Quái Vận 太 乙 卦 運 (Sự Tuần Hoàn Của Thái Ất [giữa các hào], giờ đây đã bị mất, rõ ràng có liên quan đến cùng hệ thống bói toán. 49 Về quyển khảo luận Thái Ất Thống Tông Bảo Giám太 乙 統 宗 寳 鑑, có thể quyển sách này là một bản sao chép hay một bản tóm lược khảo luận Trung Hoa (được tái xuất bản trong bộ Tứ Khố Toàn Thư: Si ku quan shu 四 庫 全 書) có cùng nhan đề viết bởi một một tác giả không có tiếng tăm thời nhà Nguyên (1279-1368) được biết dưới bút hiệu “Lão Già Núi Xiao” (Xiao shan lao ren 曉 山 老 人 Hiệu Sơn Lão Nhân). Một vài văn bản tiếng Hán của tập khảo luận Trung Hoa này còn hiện hữu, ấn bản sớm nhất là một bản chép tay (thủ bản) thời nhà Minh và có vài ấn bản có niên đại từ thời nhà Thanh.

Tại Trung Hoa, hệ thống Thái Ất được bảo tồn trong phạm vi của cái gọi là truyền thống “Bói Toán Theo Con Số Của Các Hoa Hồng [sic] Màu Tím và Chùm Sao” (Ziwei doushu 紫 微 (= 薇) 斗 數 Tử Vi Đẩu Số). 50 Tác giả Ho Peng Yoke tuyên bố rằng có hai nhánh của truyền thống kể tên sau: một trong chúng là một sự liên tục trực tiếp của hệ thống Thái Ất, trong khi nhánh kia, được đại diện bởi một phiên bản của tập khảo luận được tìm thấy trong Kinh Sách Đạo Giáo (Daoist Canon) (Daozang 道 藏 Đạo Tang), sinh ra từ một sự tổng hợp một vài hệ thống thiên văn có nguồn gốc Tây Phương. 51 Còn hiện hữu bảy văn bản Việt Nam thuộc vào truyền thống này: An Tử Vi Quốc Ngữ Ca 安 紫 微 國 語 歌 [A1], Tử Vi Đẩu Số 紫 微 (-- 薇) 斗 數 [A47], Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 (= 薇) 斗 數 解 音 [A48], Tử Vi Giải 紫 微 解 [A49], Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 [A50], Tử Vi Số 紫 微 數 [A51], và Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 [A52]. Bốn trong bảy quyển khảo luận này tức các quyển A1, A47, A48, A52, được viết bằng chữ Nôm hay chứa các lời bình giải bằng chữ Nôm và rõ ràng được nhắm dành cho các độc giả không thoải mái với tiếng Hán cổ điển.

Hình 2: Một lá số tử vi từ quyển Tử Vi Đẩu Số紫 微斗 數

(Viện Hán-Nôm, số thư tịch VHb.163)

Posted Image

Có 10 bản sao chép bằng tay của quyển [A47] (một lá số tử vi từ quyển sách được trình bày nơi Hình 2); số lượng nhiều bản sao chép cho thấy khảo luận này khá phổ thông trong những người hành nghề bói toán. Trong khi đó, hai trong bảy văn bản, [A49] và [A50] là các bản sao chép tay các ấn phẩm Trung Hoa không được xác minh. Không may, không một trong các bản văn chép tay này có ghi niên đại. Các nhan đề của các tập khảo luận xem ra khiến ta nghĩ rằng chúng hoàn toàn được dành cho một hệ thống bói toán duy nhất; tuy nhiên, điều này không nhất thiết xảy ra: thí dụ, văn bản [A1] chứa đựng một khảo luận độc lập Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜法 [A24] làm phần cuối cùng của nó.

(2)Hệ Thống Kỳ Môn Độn Giáp

Các sự đề cập ban sơ về các phương pháp Qimen 奇 門 Kỳ Môndunjia 遁 甲Độn Giáp có thể được tìm thấy trong tập khảo luận Baopuzi 抱 撲 子 Bao Phác Tử được trước tác bởi học giả Trung Hoa nổi tiếng Ge Hong 葛洪 Cát Hồng (283-343). Một số sách rõ ràng có liên hệ đến truyền thống Độn Giáp được đề cập trong các chương của các sử ký Trung Hoa tiêu chuẩn như Hou Han shu 後 漢 書 Hậu Hán Thư, Sui shu 隋 書 Tùy thư, Jiu Tang shu 舊 唐 書 Cựu Đường ThưXin Tang shu 新 唐 書 Tân Đường thư, nhưng không một trong các sách này còn tồn tại ngày nay. Một quyển sách nhan đề Huangting Dunjia yuan shen jing 黃 庭 遁 甲 緣 身 經 Hoàng Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh được tìm thấy trong juan (quyển) 14 của tuyển tập của Đạo Giáo nhan đề Yun ji qi qian 雲 笈 七 籤: Vân Cập Thất Thiêm (Bảy Quẻ từ Nơi Tàng Trữ Sách Mây) được biên tập hồi đầu thế kỷ thứ 11 và được bảo tồn trong Daozang: Đạo Tang; tuy nhiên, hệ thống được trình bày trong đó không phải là một trong “ba biểu thức vũ trụ” được dùng để giảng dạy tại “Trường Toán Học” 52 dưới thời nhà Tống. Điều rõ ràng rằng từ nguyên thủy Qimem (Kỳ Môn)Dunjia (Độn Giáp) nói đến hai hệ thống khác biệt được tổng hợp lại, muộn nhất là ở thế kỷ thứ 8.

Truyền thống này rõ ràng không được thật ưa chuộng tại Việt Nam; tôi đã chỉ có thể tìm được hai thủ bản liên quan đến nó, quyển Độn Giáp Kì [Kỷ] Môn 遁 甲 奇 門 [A13] và Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 [A36]. Cả hai được biên soạn bằng tiếng Hán cổ điển bởi các tác giả vô danh; niên đại biên soạn của chúng không được hay biết. Thủ bản nêu tên trước có gồm một phụ lục nhan đề Chiêm Tinh Bốc Pháp 占 星卜 法 (Các Phương Pháp bói toán trên căn bản các chùm sao (asterisms). Tuy nhiên, điều rõ ràng rằng một số các khảo luận hiện tồn lưu giữ các thành tố của hệ thống Kỳ Môn Độn Giáp được kết hợp với biểu thức thứ ba của các truyền thống “biểu thức vũ trụ”, Liu ren: Lục Nhâm.

(3) Hệ thống Lục Nhâm: Liu ren.

Căn nguyên của hệ thống “biểu thức vũ trụ” Trung Hoa thứ ba cho thuật bói toán, liu ren 六 壬 (Lục Nhâm trong tiếng Việt), trở lùi về đến thời tiền nhà Hán (206 TCN – 220 SCN), mặc dù sự trình bày đầy đủ lần đầu về hệ thống có niên đại thời nhà Đường (618 – 907). 53 Một sự thảo luận chi tiết về phương pháp được cung cấp bởi nhà thông thái Shen Gua 沈 栝 Trầm Quát (hay Shen Kuo, 1031 – 1095) trong sách của ông nhan đề Mengxi bitan 夢 溪 筆 談 Mộng Khê Bút Đàm cho thấy cho thấy hệ thống Lục Nhâm tương liên với niên lịch nhiều đến đâu. 54 Trong tiến trình bói toán một bảng xoay tròn chia làm mươi hai cung (duodenary) được giả định sẽ được dùng đến; nó có thể được thay thế bởi lòng bàn tay của thày bói, điều khiến cho hệ thống trở nên “thuận thủ: portable” hơn, khi so sánh với hai hệ thống kia. 55

Truyền thống này rõ ràng thụ hưởng sự ưa chuộng lớn lao tại Việt Nam; tôi đã có thể tìm được các quyển khảo luận sau đây: Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 [A11], Lục Nhâm 六 壬 [A17], Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 [A18, A19], Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 [A20], Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略[A21], Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 [A22], Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 藍[A23], và Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬大 遁 泌 傳 [A35]. 56 Quyển đầu tiên của các văn bản này [A11] là một sự phỏng tác các quyển (juan 卷) 4 và 5 của tập khảo luận của Trung Hoa nhan đề Liu ren da quan 六 壬 大 全 Lục Nhâm Đại Toàn của tác giả người Trung Hoa thời nhà Minh tên Guo Zailai 郭 載 騋 Quách Tải Lai (niên đại không rõ, hoạt động hồi đầu thế kỷ thứ 17); một trong các ấn bản hiện tồn cũng gồm cả các quyển (juan) 118 và 119 của tập khảo luận của Trung Hoa có tên Wubei zhi 武 備 志 Vũ Bị Chí (Tài Liệu Về Các Sự Dự Phòng Quân Sự, 1621) của Mao Yuanyi 茅 元 儀 Mao Nguyên Nghi (1594 – 1640). Thủ bản [A19] có chứa hai phụ lục nhan đề Lục Nhâm Khởi Lệ 六 壬 起 栵 (các thí dụ cho sự khởi đầu trong phương pháp Lục Nhâm) và Ngọc Trướng Đàm Binh Ca 玉 帳 談 兵歌 (các đoạn thơ ngắn thảo luận các sự áp dụng quân sự từ trướng bằng ngọc) giải thích bằng tiếng Nôm hệ thống bói toán Lục Nhâm (tức Liu ren 六 壬); các phụ lục này được gán cho sự trước tác của nhà trí thức nổi tiếng và viên chức chính quyền cao cấp Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬 (1528 – 1613), kẻ đã được phái làm sứ giả sang Trung Hoa trong năm 1597 và trở về nước năm 1599. 57 Theo một số nguồn tài liệu, Phùng Khắc Khoan đã phiên dịch Yijing: Dịch Kinh sang tiếng Việt (tức tiếng Nôm); 58 Sự kiện này có thể được sử dụng để xác nhận sự tinh thông của ông về văn chương bói toán cũng như sự quan tâm của ông đến việc phiên dịch các văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, ngay dù người ta không thể hoàn toàn gạt bỏ khả tính rằng sự trước tác mang tên họ Phùng, vị học giả nổi tiếng và sứ giả sang Trung Hoa, đã chỉ được gán cho các văn bản chiêm tinh vô danh sau này hầu làm tăng tầm quan trọng của chúng. Một văn bản nhan đề Binh gia yếu chỉ 兵 家 要 旨 bing jia yao zhi (các chỉ dẫn thiết yếu cho nhà binh), chuyên khảo về các ứng dụng của thuật bói toán cho các mục đích quân sự và được giả định được trước tác bởi họ Phùng, được phụ đính vào tập khảo luận [A22], trong khi một tập khảo luận ngắn nhan đề Thiên Vận Bí Thư 天 運 铋 書 tian yun bi shu, (văn bản bí mật về các chu kỳ của trời), trình bày các liên hệ giữa các hiện tượng khí hậu và các niên lịch, và cũng được gán cho sự trước tác của họ Phùng, được phụ đính theo tập khảo luận Xin lue tian shu 心 略 天 樞 Tâm Lược Thiên Xu được viết bởi học giả và chiêm tinh gia Trung Hoa nổi tiếng Liu Bowen 劉 伯 溫 Lưu Bá Ôn (Liu Ji 劉 基 Lưu Cơ), 1311 – 1375). 59

Cải Biên Các Văn Bản Trung Hoa:

Thí Dụ Về Quyển Ngọc Hạp Kí 玉 Yu xia ji

Trong phần này, tôi muốn trình bày sự phức tạp của tiến trình biên soạn các văn sách chiêm tinh Việt Nam trên căn bản nguyên bản Trung Hoa của chúng. Chúng ta hay cứu xét trường hợp của một nhóm các khảo luận liên hệ đến truyền thống trích yếu chiêm tinh Trung Hoa Yu xia ji 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc). Các nhan đề của một số các văn bản Việt Nam có chứa hai từ Ngọc Hạp 玉 匣 (Rương bằng Ngọc), gồm, Ngọc Hạp 玉 匣 [A25], Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 攢 要 [A26], Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用[A27], Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A37] và Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 擇 通 書 廣 玉 匣 記 [A44]. Truyền thống này rõ ràng khá phổ thông: Thư Viện của Viện Hán-Nôm trữ 10 bản in của [A25], một trong chúng có niên đại năm 1876 và một bản năm 1923; các khảo luận [A27], [A37], và [A44] cũng được in. Các tác giả của các thư tịch Trần và Gros 1993 và Liu 2002 đồng ý rằng các văn bản này in lại một nguyên bản Trung Hoa và gán nguồn trước tác cho một Đạo Sĩ bất tử “Perfected Lord Xu” (許 真 君: Hứa Chân Quân, tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn (239-292/374?). 60 Văn bản của Daozang (Đạo Tang) nhan đề Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân) với một lời đề tựa năm 1433 [YXJ: Ngọc Hạp Ký], trong thực tế, được quy kết công khai do sự trước tác của ông. 61 Có đúng Xu Xun (Hứa Tốn), nổi tiếng chính yếu như một kẻ hạ sát con rồng và một người con hiếu thảo, cũng là một chuyên viên trong khoa chiêm tinh học hay khổng? 62 Câu hỏi này có lẽ không liên hệ đến chủ đề của phần này cho bằng câu hỏi sau đây: Có phải văn bản này từ Daozang (Đạo Tang) trong thực tế đã được in lại trong các khảo luận Việt Nam được nói đến ở trên? Một sự phân tích sơ lược cho thấy rằng câu trả lời ở thể xác định, nhưng tình trạng còn lâu mới đơn giản. Văn bản nguyên thủy được tìm thấy trong Daozang (Đạo Tang) dưới nhan đề 玉 匣 記 Ngọc Hạp Ký (Các Tài Liệu Từ Rương bằng Ngọc) chứa đựng về mặt kỹ thuật, ba phần: (A) văn bản nhan đề Zhu shen sheng dan ling jie ri qi 諸 神 聖 誕 令 節 日 期 Chư Thần Thánh Đản Lệnh Tiết Nhật Kỳ có ghi niên đại giữa thế kỷ thứ 15; (B) văn bản đã nói ở trên Xu zhen jun yu xia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký [YXJ]; và © Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Các Tài Liệu Về Các Sự Lựa Chọn [Các Ngày Tốt] của Pháp Sư) [XZJ]. Đoạn mở đầu tương đối ngắn của phần ©, từ giờ trở đi gọi tắt là C1 [XZJ: 325-326], có niên đại là 627 SCN và được tiếp nối bởi một đoạn “Tái Bút: Postscript)” (C2) [XZJ: 327-346] rất dài có niên đại là 1488 và gồm một số lượng lớn các văn bản chiêm tinh tương đối ngắn. Nếu bây giờ chúng ta xét đến tập khảo luận Việt Nam Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 攢 要 通 用 [A27], chúng ta có thể nhìn thấy rằng phần (A) hoàn toàn bị bỏ ra, phần lớn phần (B) được sao chép lại nơi đoạn mở đầu của tập khảo luận Việt Nam (các trang 2b – 6b), và phần (C1) được in lại ngay sau đó (các trang 6b – 9b); kế đến, theo sau là một đoạn dài có nhan đề (bằng tiếng Hán) “Zhan san shi er gua ding ji xiong” 占 三 十 二 掛 定 吉 凶, Chiêm Tam Thập Nhị Quái Định Cát Hung (Thuật Bói Toán [sử dụng] 32 quẻ 6 hào (hexagrams) để xác định điều (ngày) tốt và xấu, các trang 9b – 19b) không được tìm thấy trong ấn bản Daozang: Đạo Tang. Chỉ sau đó mới đến đoạn mang nhan đề [bằng tiếng Hán] “Jin fu jing” 金 符 經 “Kim Phù Kinh” (Khảo luận về Kim Phù [Thẻ bài, phù hiệu bằng vàng: Golden Talisman, các trang 19b – 25a) được in lại từ văn bản Daozang (Đạo Tang) [XZJ: 331 – 334], và sự kiện rằng các nhà biên soạn ấn bản Việt Nam đã xác định một cách chính xác vị trí của nhan đề trong ấn bản của văn bản của họ khiến ta suy tưởng một cách vững chắc rằng họ đã có trong tay một phiên bản của tập khảo luận không dựa trên ấn bản Daozang(Đạo Tang) . Bằng cách nào và vào lúc nào phiên bản thay thế này của tập khảo luận đã vươn tới các nhà bói toán Việt Nam có lẽ vẫn chưa được hay biết.

Các Kết Luận

Để nghiên cứu lịch sử truyền thống chiêm tinh Việt Nam, một vài khảo hướng rõ ràng đáng tin cậy ngang nhau. Một cuộc điều tra các nguồn văn bản hiện tồn được cung cấp trong bài viết này chỉ là một trong các khảo hướng; một phương pháp đáng tin cậy khác sẽ là một sự nghiên cứu các bản văn báo cáo của các giáo sĩ truyền đạo Tây Phương hoạt động tại Việt Nam từ hồi đầu thế kỷ thứ 17, cũng như của các khách lữ hành và các thương nhân Tây Phương và Trung Hoa. Muốn có một sự nghiên cứu về tình hình ngày nay, các kết quả của các cuộc nghiên cứu thực địa khảo cổ gần đây có thể được sử dụng. Mỗi khảo hướng đều có các nhược điểm của nó. Vô số tài liệu cổ xưa bị đánh mất, và điều không được hay biết là các khảo luận Hán-Nôm hiện tồn đại diện đến tầm mức nào sự sao chép các tác phẩm chiêm tinh đã được lưu hành trong giới các nhà chiêm tinh Việt Nam từ thế kỷ thứ 10 đến đầu thế kỷ thứ 20; điều cũng không được biết rõ các cách thực hành bói toán thực sự của các nhà chiêm tinh đó nhiều đến đâu tương ứng với các văn bản thành văn. Nếu người ta nghiên cứu các báo cáo của các nhà truyền giáo, các thương nhân và các khách lữ hành, các sự đề cập hiếm hoi đến các sự thực hành thuật bói toán bản địa cho thấy rõ rằng sự nghiên cứu của họ đã không tập trung vào nghị trình học thuật của các nhà truyền giáo và các nhà thám hiểm, và, hơn nữa, sự lý giải của các cách thực hành bói toán cũng như các tài liệu liên hệ không bao giờ được tiết lộ cho họ bởi các nhà bói toán Việt Nam. Đối với các nhà nhân chủng học hiện đại, ngay cả những người trong họ đã cố gắng để có cái nhìn sát cận hơn đến các sự thực hành thực sự của các nhà bói toán ngày nay, trong phần lớn trường hợp, đã không quen thuộc với các tiền lệ lịch sử của các hiện tượng mà họ quan sát, đặc biệt với các văn sách bói toán bằng Hán-Nôm.

Trong bài viết này tôi đã trình bày ngắn gọn khung cảnh định chế của các thế kỷ đầu tiên của truyền thống chiêm tinh Việt Nam được bảo trợ bởi nhà nước độc lập, và cung cấp các kết quả của một sự kiểm tra sơ lược một phần nhỏ của các tài liệu chiêm tinh hiện tồn. Tất cả các tài liệu thảo luận hóa ra hoặc là các bản sao chép các văn bản Trung Hoa (đôi khi được thay đổi hay tóm lược) hay các tác phẩm dựa trên các nguyên tác Trung Hoa. Lịch sử của sự chuyển giao chúng sang Việt Nam thì không rõ ràng; đa số các văn bản Việt Nam hiện tồn không có ghi niên đại, và những văn sách có ghi niên đại được sản xuất (thường được in ấn) tương đối sau này. Rất thường nguồn gốc tác giả của các văn bản không được biết rõ; trong một số trường hợp, các niên đại của đời sống của các tác giả phỏng định khiến ta nghĩ rằng sự chuyển giao có thể đã xảy ra khá sớm, như trong trường hợp các tập khảo luận được gán cho sự trước tác của Phùng Khắc Khoan 馮 克 寬, song luôn luôn có một khả tính rằng tên họ của tác giả giả định, thường là một học giả nổi tiếng hay một viên chức cao cấp, chỉ được liên kết với một văn bản vô danh sau sinh thời của nhà học giả. Tuy nhiên, như lịch sử của các định chế chiêm tinh chứng minh, ngành chiêm tinh học chắc chắn đã khởi sự được thực hành cho các mục đích của nhà nước Việt Nam ngay từ thế kỷ thứ 11; không may, điều vẫn chưa được hay biết về phương cách và thời gian mà các văn bản chiêm tinh Trung Hoa đã tìm đường đến tỉnh hạt ly khai sau thế kỷ thứ 10, và chúng đích xác là những gì. Tại các thư viện hiện đại lưu trữ các sưu tập sách Hán-Nôm, tất cả các văn sách chiêm tinh được gộp chung lại với nhau, điều có vẻ khiến ta suy nghĩ rằng chiêm tinh học đã là một ngành được thực hành bởi chỉ một nhóm duy nhất các chuyên viên; tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng sự chuyển giao các văn bản chiêm tinh và kỹ năng chuyên môn đi từ Trung Hoa sang Việt Nam xuyên qua một số luồng, và ở cả hai phía, các nhóm xã hội liên can đến tiến trình này bao gồm từ các nhà chiêm tinh của hoàng triều đến các thày bói ở thôn quê./-

____

CHÚ THÍCH

1. Cuộc nghiên cứu các khảo luận Việt Nam thảo luận trong bài viết này được yểm trợ bởi các khoản trợ cấp sưu khảo 95-2411-H-007-037 (trong các năm 2006-2007) và 96-2411-H-007-004-MY3 (trong các năm 2007-2012) của Hội Đồng Khoa Học Quốc Gia (National Science Council) (Đài Loan), cũng như bởi một khoản trợ cấp từ Dự Án “Chính Sách Đa Văn Hóa Tại Á Châu Gió Mùa: Multiculturalism in Monsoon Asia” (Đại Học National Tsing-Hua University, Hsinchu, Taiwan) trong các năm 2008-2012. Tác giả cám ơn hai vị ẩn danh đã xét duyệt về các ý kiến hữu ích trên bản thảo đầu tiên của bài viết này.

2. Muốn có một sự mô tả chi tiết về lịch sử và các đặc tính chính yếu về chữ Nôm, xem Lê 1995; trên các trang 93-96 của luận án này, người đọc sẽ tìm thấy nhiều sự tham chiếu liên quan đến các ấn phẩm bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Muốn có các ấn phẩm bằng tiếng Anh, xin xem, thí dụ, Nguyễn 1956; 1990.

3. Ở đây và nơi khác trong bài viết này, tôi cung cấp các cách đọc trong tiếng Việt các chữ Hán-Nôm; cách đọc chúng trong Hoa ngữ theo hệ thống phiên âm pinyin, khi được cung cấp, được ghi dấu với từ ngữ “Hán tự: Chinese”. Các nhan đề của các sách tiếng Hán và tên gọi của các tác giả Trung Hoa đuợc cung cấp theo hệ thống phiên âm pinyin mà không có cách đọc theo Hán Nôm [người dịch đã phiên âm sang tiếng việt trong các trường hợp này, Ngô Bắc].

4. Trong năm 1878, chính quyền thực dân ra nghị định rằng sau năm 1882, Quốc Ngữ sẽ là hình thức chính thức duy nhất của chữ viết, ngoài tiếng Pháp; xem Osborne 1997: 163. Tuy nhiên, như được nêu ý kiến một cách tức thời bởi các người điểm bài ẩn danh của bài viết này, lập trường được lấy bởi các thẩm quyền thực dân Pháp và bởi giới văn nhân Việt Nam về sự giảng dạy, và bằng Quốc Ngữ, đã trải qua các sự sửa đổi đáng kể trong đầu thế kỷ thứ 20. Không may, một sự thảo luận chi tiết về đề tài hấp dẫn này sẽ không liên quan đến nơi đây; độc giả quan tâm được giới thiệu đến Marr 1981, Osborne 1997, Poisson 2004, và Trịnh 1995, trong số nhiều tác giả khác.

5. Như D. Marr đã viết về nó, “Vào khoảng 1930 ý tưởng rằng sự phát triển và phổ biến chữ Quốc Ngữ cấu thành các thành tố thiết yếu của cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do đã là một phần của mọi đề cương [chống thực dân] triệt để”. (Marr 1981: 150).

6. Văn 2008: 266-267.

7. Về các kỹ thuật bói toán được dùng bởi một số dân tộc ít người tại Việt Nam xem, thí dụ, Arhem 2009; Vargyas 2004.

8. Dumountier 1899; 1914; 1915; Coulet 1926; 1929.

9. Nguyễn 2002: 245-256.

10. Huard và Durand 1954: 65-71.

11. Huard và Durand 1954: 66. Đã có nhiều ấn bản khác nhau của quyển sách nhan đề Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數, được bảo quản tại thư viện Viện Hán Nôm (Hà Nội) cũng như tại thư viện Hội Nghiên Cứu Á Châu (Société Asiatique) (Paris) (xem mục số [A47] trong thư tịch ở cuối bài viết này), nhưng tôi không thể xác định được bất kỳ ấn bản nào của quyển Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư được đề cập tới bởi Huard và Durand. Một cách ngạc nhiên, các tác giả cũng xác nhận rằng các nhà chiêm tinh Việt Nam có sử dụng bộ bách khoa về toán học của Trung Hoa, Số Lý Tinh Uẩn 數 理 精(Shu li jing yun) được soạn thảo năm 1723 dưới sự chỉ đạo của Mei Juecheng 梅瑴 成 Mai Quyết [?] Thành (1681-1763). Xin đối chiếu với một sự đề cập đến sưu tập này trong một quyển lịch chính thức của Trung Hoa, được trích dẫn (nhưng không xác định một cách xác thực) bởi tác giả C. Morgan (1980: 21).

12. Chẳng hạn như sưu tập của Thư Viện Quốc Gia (Hà Nội) cũng như một số sưu tập nhỏ hơn, thí dụ, sưu tập của Viện Sử Học, Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Sự kiểm tra của tôi tại hai thư viện kể sau tiến hành trong các năm 1998 – 2008 cho thấy chúng có lưu giữ một số các văn bản về bói toán (kể cả chiêm tinh học) không được liệt kê trong thư mục của Trần và Gros (1993) hay của Lii và các tác giả khác (2002).

13. Quyển [Đại] Việt Sử Lược [SL 1936] có gồm một phụ lục nhan đề “Niên Biểu Triều Trần 陳“viết cho thời khoảng từ 1225 đến 1377; L. Cadière và P. Pelliot (1904: 626) đã dùng sự kiện này để kết luận rằng quyển niên biểu đã được soạn tháo trong thời trị vì của Hoàng Đế Trần Phế Đế 陳 廢 帝 (tên riêng là Trần Hiện 陳晛, trị vì từ 1377-1388). Tuy nhiên, A. Polyakov, trên căn bản sự phân tích văn bản của ông về quyển niên biểu, đã lập luận với đầy sức thuyết phục rằng hai chương đầu tiên của nó đã được soạn thảo hồi đầu kỷ thứ 12 (Polyakov 1980: 74).

14. SL 1936: 27; Polyakov 1980: 143.

15. Tài liệu liên hệ trong [Đại] Việt Sử Lược [大] 越 史 略 viết: 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 為 掌 漏 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chưởng lậu khắc chi xử [SL 1936: 29], có nghĩa “Trước Thềm Rồng [Dragon Stairs 龍 墀 Long Trì, chỉ Quốc Vương] có dựng Đàn Tế Trời (Pavilion of Paying Tribute to Heaven). Trên nóc [của nó nhà vua] xây Chính Dương Lâu正 陽 樓 là nơi để điều khiển đồng hồ bằng nước (clepsydra); cũng xem một bản dịch trong Polyakov [1980: 147]. Biến cố này có được trình bày trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越 史 記 全 書 bằng các từ ngữ khác biệt đôi chút: “ 前 安 奉 天 殿o 上 建 正 陽 樓o 刻 之 處: tiền an Phụng Thiên Điện, thượng kiến Chính Dương Lâu, vi chủ chưởng trù khắc chi xử [TT 1984: 221] [các chữ màu đậm chỉ sự khác biệt, nhấn mạnh bởi người dịch]. Nếu từ ngữ 籌 trù: thẻ [bằng tre, gỗ, ngà voi ….để đếm hay làm toán, chú của người dịch] không phải là một sự nhầm lẫn của kẻ sao chép, nó có thể chỉ các que đếm (hay thẻ bài) được dùng trong các sự tính toán thiên văn. Các que đếm này cũng được sử dụng bởi các nhà chiêm tinh Việt Nam cho đến thế kỷ thứ 17 hay còn sau hơn thế; xem Volkov 2009.

16. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

17. Các niên sử không đề cập đến vụ thiên thực hình vành khuyên ngày 4 Tháng Tám 1217, được trông thấy thấy Bắc Việt Nam, hay vụ thiên thực ngày 23 Tháng Năm 1221, được trông thấy tại Trung Hoa và Bắc Việt Nam. [Đại] Việt Sử Lược không chứa bất kỳ tin tức nào liên hệ có niên kỳ sau năm 1225, và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大 越 史 記 全 書 không đề cập đến các vụ thiên thực xảy ra vào ngày 3 Tháng Bảy 1228 và ngày 19 Tháng Mười Hai 1237. Vụ thiên thực năm 1229 được đề cập trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Ho, 1964: 139, số 34) là tưởng tượng; vụ thiên thực thực sự sớm nhất trong số các vụ thiên thực được liệt kê trong bộ niên sử kể tên sau như đã xảy ra trong thế kỷ thứ 13 là vụ thiên thực ngày 26 Tháng Chín 1242 (cùng nơi đã dẫn: ibid., số 35). Tin tức về các vụ thiên thực này và các vụ nhật thực khác được lấy từ trang mạng của Cơ Quan NASA nhan đề “Các sự Tiên Đoán Thiên Thực của Fred Espenak ("Eclipse Predictions by Fred Espenak, NASA's GSFC") tại

http://eclipse.gsfc....as/SEatlas.html.

18. Sự thay thế các từ kỵ húy 邦 [bang] và 新 [tân] (được dùng trong tên cá nhân của các hoàng đế Việt Nam Anh Tông 英 宗, tên cá nhân là Lê Duy Bang 黎 維 邦, trị vì 1557-1572, và Kính Tông 敬 宗, tên cá nhân là Lê Duy Tân 黎 維 新 trị vì 1600-1618, trong tập bản đồ hiện tồn khiến ta nghĩ rằng nó không phải là một bản sao chính xác của nguyên bản mà là của phiên bản đã được sửa đổi sau này, xem Liu và các tác giả khác, 2002: 305. Tác giả John K. Whitmore (1995: 486) đưa ra các chi tiết bổ túc khiến ta nghĩ rằng tập bản đồ hiện tồn là một quyển tái bản trong thế kỷ thứ 17 của nguyên bản thuộc thế kỷ thứ 15; cũng xem Papin 2001: 123-124.

19. Bởi có sự đồng âm tên gọi định chế này trong Hán tự, Si tian jian 司 天 監 Ty Thiên Giám tác giả Hucker (1985: 456) đề nghị thay bằng tên gọi là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”; sự diễn dịch này có thể hàm ý rằng văn phòng này (theo sát nghĩa “Cơ Quan Thẩm Quyền Giám Sát phụ trách các vấn đề liên quan đến Trời (Heaven)”) thực hiện các hoạt động chỉ chuyên về thiên văn, trong khi định chế thực sự phụ trách việc quan sát mọi loại hiện tượng trên trời (kể cả các hiện tượng về khí tượng) và về sự giải thích của chúng, về thiên văn (astronomy) cũng như chiêm tinh học (astrological).

20. Hucker 1985: 456-457, số 5780.

21. Han 1991: 4. Về các sự hạn chế áp đặt trên sự lưu hành tài liệu thiên văn và chiêm tinh dưới các triều đại nhà Đường và nhà Tống, xem Morgan 1987: 57.

22. Fedorin 2009.

23. Lee 1985: 96; Friedsam 2003: 52.

24. Các người điểm duyệt ẩn danh bài viết này đã vạch ra một cách chính xác rằng sự mô tả các cuộc khảo thí về “tính toán” năm 1762 (CM 1996: 3720-3721) nói đến các bài toán đố về sự phân chia theo tỷ lệ cố định và cân nhắc cá biệt (tiếng Việt lần lượt là bình phân 平 分 và sai phân 差 分) như là đề mục của các cuộc khảo thí về ‘toán” (thực ra, niên sử đề cập đề mục này như một trong nhiều môn thi khác nhau, song các “môn kia” đã không được xác định cụ thể); về các vấn đề phân chia trong toán học Việt Nam, see Volkov 2012, và về các hoạt động hành chính liên can đến một số kiến thức toán học nào đó, chẳng hạn như khảo sát địa chính và kế toán, xem Poisson 2004. Chính vì thế, tài liệu này khiến ta nghĩ rằng vào thế kỷ thứ 18, các môn toán học và thiên văn gần như chắc chắn đã được giảng dạy một cách riêng rẽ; sự phỏng đoán này có thể được hậu thuẫn bởi một tài liệu có niên kỳ vào năm thứ 7 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786), tức năm 1746 (được tham chiếu trong CM 1969 là tương ứng với năm thứ 11 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆, 1735-1796, tức năm 1745) liên quan đến các cuộc khảo thí được thực hiện chuyên biệt về các chủ đề thiên văn (CM 1969: 3606). Tuy nhiên, sự phân biệt giữa hai ngành học xuất hiện trong các tài liệu này hồi giữa thế kỷ thứ 18 không bảo đảm cho kết luận rằng sự giảng dạy về toán học và thiên văn học luôn luôn được thực hiện một cách riêng biệt; nói cách khác, điều không có thể loại bỏ rằng tại một giai đoạn sớm hơn, sự giảng dạy toán học của Việt Nam bắt chước theo mô hình triều đại nhà Tống trong đó một số các đề mục, có tính chất toán học thuần túy theo một quan điểm hiện đại, đã được dạy cùng với các đề tài thiên văn và chiêm tinh, xem Lee 1985: 96 và Friedsam 2003: 52.

25. CM 1969: 697.

26. CM 1969: 984.

27. CM 1969: 1292.

28. CM 1969: 1458. Trong nguồn tài liệu này, năm trong vấn đề đưọc nói đến là năm thứ nhì của niên hiêu Khai Đại 開 大(1403-1407)của triều đại nhà Hồ 胡 (1400–1407), tức năm 1404, và cùng lúc, năm thứ nhì của niên hiệu Trung Hoa Vĩnh Lạc 永 樂 Yongle (1402-1424), tức năm 1403.

29. CM 1969: 2253, TT 1984: 703; bị in sai là năm "1472" trong sách của Han 1991: 6.

30. CM 1969: 2456. Các cuộc khảo thí đã diễn ra trong Tháng 12 của năm đầu tiên niên hiệu Trung Hoa Chính Đức 正 德 (1506-1522) và của năm thứ nhì niên hiệu Việt Nam Đoan Khánh 端 慶 (1505-1509); cả hai niên kỳ đều tương ứng với khoảng đầu năm 1507.

31. CM 1996: 3720-3721. Tài liệu này chứa đựng sự mô tả đã nêu trước đây về một cuộc khảo thí diễn ra trong Tháng Năm năm thứ 23 niên hiệu (Việt Nam) Cảnh Hưng 景 興 (1740-1786, tức năm 1762, được đề cập trong CM là tương ứng với năm thứ 27 niên hiệu (Trung Hoa) Càn Long 乾 隆 Qianlong, 1735-1796, tức năm 1761。

32. Volkov 2008.

33. Tên của định chế này trùng hợp với tên của đối nhiệm Trung Hoa của nó, Qin tian jian 欽 天監 Khâm Thiên Giám, được dùng vào cuối thời nhà Minh và trong thời nhà Thanh tại Trung Hoa; xem Hucker 1985: 169. Hucker phiên dịch tên của định chế này (theo sát nghĩa “Nha Bày Tỏ Sự Tôn Kính Ông Trời”) là “Nha Thiên Văn: Directorate of Astronomy”, ngay dù sự trình bày của chính ông nói rõ rằng các chức nghiệp của nhân viên của nó gồm cả các việc quan sát khí tượng và bói toán.

34. Xem [KTG].

35. Ho 1964: 138, các [chú thích?] số 22-24, lần lượt.

36. Có thể rằng sự phân bố các vụ thiên thực [nhật hay nguyệt thực] được nói đến trong quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã cố ý được sắp đặt cho tương ứng với lịch sử chính trị của Việt Nam, bởi vì tất cả các vụ thiên thực ghi nhận được, ngoại trừ các vụ thiên thực của năm 479 và 1422, đều nằm trong các thời kỳ độc lập chính thức của Việt Nam ra khỏi Trung Hoa: thời kỳ từ 205 đến 122 TCN tương ứng với triều đại nhà Triệu 趙 Việt Nam (207-111TCN), vụ thiên thực năm 41 SCN xảy ra trong thời khoảng có sự nổi dậy của chị em Bà Trưng 徵 (40-43 SCN), và vụ thiên thực năm 547 nằm trong thời kỳ trị vì của nhà Tiền Lý Việt Nam (544-602). Vụ thiên thực vào ngày 8 Tháng Tư năm 479 là một vụ thiên thực hình vành khuyên, được nhìn thấy tại Ấn Độ và Trung Hoa, có thể khó nhìn thấy tại Việt Nam; ngược lại, vụ toàn thực ngày 20 Tháng Chín năm 461, được nhìn thấy hoàn toàn tại Bắc Việt Nam, lại không được liệt kê. Vụ thiên thực ngày 23 Tháng Một năm 1422 cũng không được nhìn thấy tại Việt Nam.

37. SL 1936: 30; Polyakov 1980: 149.

38. Ho 1964: 139, số 29.

39. SL 1936: 61; Polyakov 1980: 206.

40. Hai vụ thiên thực này là: (1) một vụ vào ngày đầu tiên của Tháng Mười Một năm 1105 (thiên thực một phần), xem SL 1936: 42; và Polyakov 1980: 173, và (2) vụ xảy ra ngày đầu tiên của tháng thứ nhì năm 1188, xem SL 1936: 57, và Polyakov 1980: 198. Sự ghi chép vụ trước có lẽ tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 16 Tháng Mười Hai năm 1107, và vụ kể sau tương ứng với vụ thiên thực vào ngày 17 Tháng Hai năm 1189; cả hai vụ thiên thực đều được nhìn thấy tại Việt Nam.

41. Vụ thiên thực vào ngày đầu tiên của tháng thứ mười năm 1093; xem SL 1936: 41; Polyakov 1980: 170. Từ 1081 đến 1100 đã chỉ có hai vụ thiên thực có thể được nhìn thấy tại Hà Nội: một vụ vào ngày 19 Tháng Ba năm 1094, và vụ kia vào ngày 14 Tháng Mười năm 1083. Không có vụ thiên thực nào được nhìn thấy tại Trung Hoa trong thời khoảng này.

42. Xem Nam Ông Mộng Lục (Ghi chép về các giấc mơ của một Ông Già từ Phương Nam) 南 翁 夢 錄 Nan weng meng lu, của Hồ Nguyên Trừng 胡 元 澄 (cũng được biết là Lê Trừng 黎 澄, 1374?-1446?), đoạn trích dẫn liên hệ như sau:

(Người này [=Trần Nguyên Đán] am tường và hiểu biết các phương pháp về niên lịch; [ông ta] đã biên soạn quyển Bách Thế Thông Kỷ Thư 百 世 通 紀 書, khởi đầu với cấu hình của chùm sao nguyên thủy của vua Nghiêu [vị hoàng đế Trung Hoa trong huyền thoại] xuống tới các triều đại nhà Tống và nhà Nguyên. [Ông] đã tính toán (?) các sự giao hội giữa mặt trăng và mặt trời, và các vụ thiên thực, các độ đo [= tọa độ] của các hành tinh và các ngôi sao trên quỹ đạo liên hệ của chúng. [Tất cả các dữ liệu này (?)] rất phù hợp với thời thượng cổ.); cũng xem Knorozova 2009: 156-157.

43. Trần 1938: 43, n. 3; Cadière và Pelliot 1904: 619, n. 3.

44. Ho Peng Yoke (2003) đề nghị sự phiên dịch tên gọi của ba kỹ thuật chiêm tinh này như sau: (1) Phương pháp của vị Thần Taiyi: Thái Ất” (36), (2) “[Sắp xếp] các điểm, sự việc, yếu tố và các Cửa [tốt, cát, lành] [cùng với] việc che dấu can Giáp [Wood [Mộc?]: yia” (trang 84) trong khi chỉ trích sự phiên dịch trực tiếp hơn như “Các Kỹ Thuật Trốn Tránh Các Cửa Kỳ Lạ: Strange Gates Escaping Techniques” (trang 83), và (3) “phương pháp sử dụng sáu năm trong lục tuần hoa giáp của can Nhâm (Dương Thủy)” (trang 5), đã ưa thích nó hơn là cách phiên dịch sát nghĩa hơn “Nghệ thuật Lục Nhâm (Dương Thủy)” (trang 113. Để giản tiện, tôi sẽ dùng tên phiên âm từ Hán tự cho các tên gọi này như dưới đây.

45. Ho 2003: 36.

46. Ho 2003: 36-40:171, [chú thích] số 3-4; tác giả Ho nêu ý kiến rằng một công cụ bói toán mới được khai quật gần đây thuộc thời nhà Hán có thể tượng trưng cho một hình thức thô sơ của kỹ thuật này (trang 41). Cũng xem Kalinowski 1991: 105, 542, [chú thích?] số 79, 568, số 23.

47. Thành phần này của phương thức bói toán rõ ràng đã bị sửa đổi khi được truyền bá tại Việt Nam.

48. Ho 2003: 66-68.

49. Trần 1937: 33. Hai khảo luận khác có liên hệ đến hệ thống bói toán Lục Nhâm: Liu ren; tôi sẽ trở lại chúng bên dưới. Họ Trần cũng đề cập tới công trình văn chương khác của ông Lê dành cho thuật bói toán (Trần 1937: 34); văn bản này, có nhan đề là Hải hội minh châu 海 會 明 珠, được cung ứng vào lúc họ Trần soạn bài viết của ông, giờ đây bị mất đi.

50. Ở đây, hoa hồng (rose) là loại có tên khoa học là Rosa Muliflora: hoa nở thành từng cụm nhiều hoa (Hán tự là wei vi. Zi wei 紫 薇 (Hồng Đỏ Tím): Tử Vi để chỉ một chùm sao gần bắc cực, xem, thí dụ, Ho 2003: 76.

51. Ho 2003: 74-82.

52. Ho 2003: 83-84.

53. Kalinowski 1983.

54. Ho 2003: 113-119.

55. Ho 2003: 137.

56. Trần 1937: 33 có nói đến hai tập khảo luận nữa liên quan đến truyền thống Lục Nhâm (tức liu ren 六 壬) được trước tác bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (xem bên trên): quyển Lục Nhâm Hội Thông 六 壬 會 通 (Họ Trần dịch nhan đề này là Notions generals de la science de la divination appliquée à la guerre (Các Khái Niệm Tổng Quát về khoa học bói toán áp dụng cho chiến tranh), có lẽ dựa trên căn bản nội dung của nó) và Lục Nhâm Tuyển Túy 六 壬 選 粹 (Choix de principes essentiels de la science de la divination appliquée à la guerre), theo họ Trần; cả hai khảo luận này đều không được tìm thấy trong các thư tịch của Trần và Gros 1993, Liu và các tác giả khác 2002, hay tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam.

57. Cuộc du hành của ông sang Trung Hoa được đề cập tới trong quyển CM 1969: 2832; nó được ghi niên kỳ là tháng thứ tư của năm thứ 20 niên hiệu (Việt Nam) Quang Hưng 光 興, 1578-1599, tức năm 1697 [nhiều phần xếp chữ sai, phải là 1597, chú của người dịch] (được cho biết trong CM 1969 là năm thứ 25 niên hiệu (Trung Hoa) Wanli 萬 曆 Vạn Lịch, 1572-1620, tức năm 1596). Họ Phùng đã trở về từ Trung Hoa trong tháng thứ 12 năm thứ 21 niên hiệu Quang Hưng, tức, trong năm 1599 (được nói là năm thứ 26 niên hiệu Vạn Lịch, tức năm 1598), xem CM 1969: 2847. Về Phùng Khắc Khoan, cũng xem Gaspardone 1934: 115-116; Trần 1938: 106-107, 117; Knorozova 2009: 244, chú thích số 38; về cuộc gặp gỡ của ông với sứ giả Triều Tiên, xem Cheng 2009.

58. Trần 1938: 106-107.

59. Cũng xem văn bản viết tay đồ sộ Binh Pháp Tập Lược 兵 法 輯 略 (phiên âm theo hán tự bing fa ji lue) được cho là được biên soạn bởi Liu Bowen (Liu Ji) (Lưu Bá Ôn tức Lưu Cơ) và biên tập bởi Nguyễn Đức Uông 阮 德 汪 (không ghi niên kỳ), TG 246 (một bản chup bằng vi phim của nó được cung ứng tại thư viện của Trường EFEO ở Paris; tập khảo luận này dành cho các sự ứng dụng quân sự của khoa chiêm tinh.

60. Muốn có các dữ liệu tiểu sử của Xu Xun (Hứa Tốn) như được tìm thấy Daozang (Đạo Tang) và sự sùng bái ông ta, xem Boltz 1987: 70-78.

61. Muốn có một sự trình bày ngắn gọn, xem Ren 1991: 1170, số 1467.

62. Một văn bản không sớm hơn năm 1295 đề cập đến Xu Xun (Hứa Tốn) là “Xu Taishi zhenjun” 許 太 史 真 君 Hứa Thái Sư Chân Quân”, tức Hứa Tốn đã được nói đến một cách công nhiên như Nhà Đại Chiêm Tinh taishi 太 史 thái sư: Great Astrologer (Trưởng Phòng Chiêm Tinh, xem Hucker 1985: 481, số. 6212); J. Boltz đề nghị dịch là “Perfected Lord Xu, the Grand Scribe: Ngài họ Hứa hoàn hảo, Nhà Đại Thư Pháp” (1987: 75)

---------

SÁCH THAM KHẢO

1. Các Tài liệu Chính Yếu

A. Các khảo luận chiêm tinh học bằng tiếng Việt còn tồn tại đến nay

[Các văn bản trong phần này được sắp xếp theo thứ tự ABC các nhan đề của chúng theo cách đọc trong Việt ngữ. Đối với mỗi nhan đề, tôi cung cấp nhan đề của nó theo cách đọc Việt Ngữ, nhan đề nguyên thủy của nó bằng Hán Nôm, cách đọc theo phiên âm kiểu pinyin cho chữ Hán, và một tên tạm dịch (trong một số trường hợp có thể không hoàn toàn thỏa đáng). Mỗi văn bản có một ký số tham khảo được dùng trong thân bài của bài viết này, thí dụ, A35 để chỉ văn bản được liệt kê nơi phần này [phần A] với ký số 35. Các niên kỳ biên soạn và xuất bản, tên của (các) tác giả được nói đến trong các trường hợp hay biết được; nếu tên họ của họ không được cung cấp, điều đó có nghĩa họ vẫn chưa được hay biết đối với tôi. Với mỗi văn bản, các sự tham chiếu được cung cấp theo các thư tịch Trần and Gros 1993 (bắt đầu với các mẫu tư TG) và Liu et al. 2002 (bắt đầu với mẫu tự L); trong các trường hợp khi một văn bản được tìm thấy tại Thư Viện Quốc Gia Việt Nam, tôi cung câp số ký gọi từ thư tịch của thư viện này bắt đầu bằng các mẫu tự BNV.]

1. An tử vi quốc ngữ ca 安 紫 微 國 語 歌 (An zi wei guo yu ge). (Các lời giải đoán thuật bói toán số mệnh theo Tử Vi bằng thơ viết bằng chữ quốc gia [= Nôm]. BNV R. 293.

2. Bốc Phệ Chính Tông 卜 筮 正 宗 (Bu shi zheng zong) (Nguồn gốc chính thống của [các phương pháp bói toán] bốcphệ), 1848-1859. Của Tiên Sinh Cổ La 古 羅 先 生 (Âm Hán tự: Gu Luo) (không ghi niên kỳ). TG 227; L 2470.

3. Chiêm Bốc Tạp Nghiệm 占 卜 雜 驗 (Zhan bu za yan) Các cách thức bói toán linh tinh). TG 440; L 2491.

4. Chiêm Luận Sự Niên Nguyệt Nhật Thì Tích 占 論 事 年 月 日 辰 跡 (Zhan lun shi nian yue ri chen ji) ((Bói Toán dựa trên năm, tháng, ngày, và chùm sao [= giờ] sinh). TG 442; L 2492.

5. Chiêm Nhật Nguyệt Cát Hung Đồ 占 日 月 吉 凶 圖 (Zhan ri yue ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán liên quan đến điều tốt và điều xấu theo căn bản ngày tháng). TG 443; L 2493.

6. Chiêm Phu Thê Giá Thú Hợp Hôn Cát Hung Số 占 夫 妻 嫁 娶 合 婚 吉 凶 數 (Zhan fu qi jia qu he hun ji xiong shu) (Bói toán về các điều tốt và xấu của hôn nhân). TG 444; L 2493.

7. Chiêm Thiên Văn Chư Loại Đẳng Tinh Cát Hung Đồ 占 天 文 諸 類 等 星 吉 凶 圖 (Zhan tian wen zhu lei deng xing ji xiong tu) (Các biểu đồ bói toán về các nhân vật trên trời, thiên thể mọi loại và đẳng cấp, liên can đến các điều tốt và xấu). TG 447; L 2485.

8. Chiêm Thiên Văn Loại 占 天 文 類 (Zhan tian wen lei) (Các loại bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 448; L 2486.

9. Chiêm Thiên Văn Thư 占 天 文 書 (Zhan tian wen shu) (Kinh sách bói toán về các khuôn mẫu trên trời). TG 449; L 2487.

10. Cửu Thiên Huyền Nữ Toán Pháp 九 天 玄女 算 法 (Jiu tian xuan nu suan fa) (Các Phép Tính Của Thiếu Nữ Huyền Bí Của Chín Tầng Trời). TG 640; L 2471.

11. Đại Lục Nhâm Đại Toàn 大 六 壬 大 全 (Da Liuren da quan) (Đại toát yếu về Sáu [các dấu hiệu, các can] Nhâm: ren. Nhan đề thay thế khác: Đại Lục Nhâm Đại Độn [trong nguyên bản đánh máy sai là Toàn] 大 六 壬 大 遁 (Da Liuren da dun) [Các Phương Pháp] của Cuộc Đại Lẩn Tránh và Của Sáu can Nhâm. Của Guo Zailai 郭 載 騋 thời nhà Minh. TG 823; L 2472.

12. Diệu Tiên Kinh 曜 仙 經 (Yao xian jing) (Khảo luận về thuật bói toán của các [Đạo Sĩ] bất tử (?)). TG 736; L 2504.

13. Độn Giáp Kì [Kỳ?] Môn 遁 甲奇 門 (Dun jia qi men) ([Các phương pháp] Độn Giáp và Kỳ Môn). 63 TG 1094; L 2500.

14. Khâm Định Hiệp Kỉ [Kỷ?] Biện Phương 欽 定 協 紀 辨 方 (Qin ding xie ji bian fang) ([Kinh sách] về các thời đại hợp nhất và các phương vị tách biệt, được phê chuẩn bởi Hoàng Đế). Các nhan đề thay thế khác: Hiệp Biện 協 辨 (Xie bian) (Thống Nhất và Tách Biệt); Tạp Chiêm 雜 占 (Za zhan) ([Các phương pháp] linh tinh của sự bói toán). TG 1652; L2498.

15. Linh Văn Thắng Lãm Kinh Tổng Luận 靈 文 勝 覽 經 總 論 (Ling wen sheng lan jing zong lun) (Tổng luận dựa theo sự kiểm tra các khảo luận về “kinh sách của các thần linh”). TG 2010; L 2506.

16. Lục Giáp Toàn Thư 六 甲 全 書 (Liu jia quan shu) (Toàn bộ kinh sách liên can đến phương pháp Lục Giáp). TG 2075; L 2507.

17. Lục Nhâm 六 壬 (Liu ren). TG 2077; L 2476.

18. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2078; L 2508.

19. Lục Nhâm Đại Độn 六 壬 大 遁 (Liu ren da dun) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2079; L 2477.

20. Lục Nhâm Đại Độn Pháp 六 壬 大 遁 法 (Liu ren da dun fa) {[Các phương pháp của] Lục Nhâm và của Cuộc Đại Lẩn Tránh}. TG 2080; L 2478.

21. Lục Nhâm Kinh Vĩ Lược 六 壬 經 緯 略 (Liu ren jing wei lue) (Tóm lược Kinh Sách và Kinh Ngụy Tác về Lục Nhâm. TG 2082; L 2479.

22. Lục Nhâm Quốc Ngữ 六 壬 國 語 (Liu ren guo yu) ([Các phương pháp] Lục Nhâm [được giải thích bằng tiếng dân ta [= Nôm]]. TG 2083; L 2480.

23. Lục Nhâm Tiện Lãm 六 壬 便 覽 (Liu ren bian lan) (Tóm lược dành cho độc giả về Lục Nhâm). TG 2084; L 2481.

24. Mã Tiền Bốc Pháp 馬 前 卜 法 (Ma qian bu fa) (Các phương pháp bói toán [liên can đến việc “đổ nước] ở phía trước con ngựa của một người”). 64

25. Ngọc Hạp 玉 匣 (âm Hán tự: Yu xia) ([Tài liệu từ] rương bằng ngọc). Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4744; L 2511.

26. Ngọc Hạp Toản Yếu 玉 匣 纂 要 (Yu xia zuan yao) (Cốt yếu của sự biên soạn từ Rương Bằng Ngọc). TG 4745; L 2483.

27. Ngọc Hạp Toản Yếu Thông Dụng 玉 匣 纂 要 通 用(Yu xia zuan yao tong yong) (Sự sử dụng thông thường các điều cốt yếu của sưu tập từ Rương Bằng Ngọc). In năm 1926. BNV R.2227.

28. Ngọc Trướng Huyền Cơ 玉 帳 玄 機 (Yu zhang xuan ji) ([Các phương pháp của] Bộ Máy [trong nguyên bản dịch chữ Cơ là Cực 極, được viết khác với chữ Cơ 機 trong nhan đề, vốn có nghĩa là Bộ Máy, chú của người dịch] Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2354; L 2488.

29. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Độn Thư Pháp 玉 帳 玄 機 泌 遁 書 法 (Yu zhang xuan ji bi dun shu fa) (Các phương pháp của kinh sách về sự chạy trốn bí mật theo tập khảo luận về của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2355; L 2489.

30. Ngọc Trướng Huyền Cơ Bí Pháp 玉 帳 玄 機 泌 法 (Yu zhang xuan ji bi fa) (Các phương pháp bí mật của Bộ Máy Huyền Bí và Trướng Treo Ngọc). TG 2356; L 2490.

31. Quỷ Cốc Đại Định Hoàng Tuyền Số 鬼 谷 大 定 黃 泉 數 (Gui gu da ding huang quan shu) ([Sự bói toán] số mệnh về sự [quay về] Suối Vàng, được ấn định một cách uy nghiêm bởi [thầy] Quỷ Cốc). TG 2912; L 2496.

32. Quỳnh Lâm Huyết Hải Thư 瓊 林 血 海 書 (Qiong lin xue hai shu) (Kinh sách về Rừng Quỳnh và Biển Máu). TG 2914; L 2505.

33. Sách Coi Số 冊 […] 65 數 (Ce […] shu) (Coi số theo các [ ….] sách). TG 2921; L 2494.

34. Số Pháp Thư 數 法 書 (Shu fa shu) (Kinh sách về các phương pháp coi số). TG 2966; L 2502。

35. Tân San Lục Nhâm Đại Độn Bí Truyền 新 刊 六 壬 大 遁 泌 傳 (Xin kan Liu ren da dun bi chuan) (Truyền thống bí mật mới được ấn hành về [các phương pháp của] Lục Nhâm và của Sự Lẩn Tránh Lớn Lao). Một thủ bản đề niên kỳ 1883. TG 3192; L. 2501.

36. Tam Kì Bát Môn Độn Pháp 三 奇 八 門 遁 法 (San qi ba men dun fa) (Các phương pháp của Sự Lẩn Tránh [sử dụng] Ba [Tác Nhân] Kỳ Lạ và Tám Cửa). TG 3078; L 2473.

37. Tăng Bổ Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 增 補 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Zeng bu xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai có các sự tăng bổ). Một nhan đề thay thế khác: Tuyển Trạch Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 選 擇 通 書 廣 玉 匣 記 (Xuanze tong shu guang Yu xia ji) (Niên giám về sự lựa chọn [các ngày tốt] cùng với quyển Ngọc Hạp Ký triển khai). Các ấn bản các năm 1876, 1920, và 1923. Của Hứa Chân Quân 許 真 君 (tức Xu Xun: 許 遜 Hứa Tốn). TG 4855; L 2518; BNV R.60.

38. Thái Ất Dị Giản Lục 太 乙 易 簡 錄 (Tai Yi yi jian lu) (Tài liệu giản lược [về bói toán theo phương pháp của] Thái Ất và theo Kinh Dịch. Được biên soạn bởi Lê Quý Đôn 黎 貴 惇 (1726-1784). TG 3290; L 2475.

39. Thái Ất Thống Tông Bảo Giám 太 乙 統 宗 寳監 鑑 (Tai yi tong zong bao jian) (Gương soi quý giá của Các Căn Nguyên Thống Nhất của [các phương pháp] Thái Ất). TG 3291; L 2482.

40. Tham Bình Bí Quyết Kim Tỏa Ngân Chủy Ca 參 評 泌 訣 金 鎖 銀 匙 歌 (Can ping bi jue jin suo yin shi ge) (Các bài thơ ngắn về các bí quyết được so sánh và bình luận về Kim Tỏa (Khóa Vàng) và Ngân Chủy (Chìa Khóa bằng bạc). TG 4889; L 2514.

41. Thần Lịch Tạp Kị [Kỵ?] Pháp 神 歷 雜 忌 法 (Shen li za ji fa) (Các phương pháp khác nhau về [các ngày] xấu [theo] lịch trình của các thần linh). TG 3388; L 2521.

42. Thiên Văn Thể 天 文 體 (Tian wen ti) (Cấu trúc (?) của các thiên thể). TG 3543; L 2474.

43. Thông Thư Chính Quyển 通 書 正 巻 (Tong shu zheng quan) Niên Giám: quyển chính thống). TG 3601; L 2497.

44. Thông Thư Quảng Ngọc Hạp Ký 通 書廣 玉 匣 記 (Tong shu guang Yu Xia ji) (Niên Giám cùng với Ngọc Hạp Ký triển khai). In năm 1876. TG 4926; L 2513.

45. Tiền Định Lâp Thành 前 定 立 成 (Qian ding li cheng) ({Cẩm Nang} lập sẵn để xác định số phận đã định). TG 3724; L 2495.

46. Toát Kim Bốc Pháp 撮 金 卜 法 (Cuo jin bu fa) (Các phương pháp bói toán [trị giá một toát vàng: cuo [đơn vị đo trọng lượng của Trung Hoa, 1/1000 đấu (thặng), chú của người dịch]]. TG 3797; L 2524,

47. Tử Vi Đẩu Số 紫 微 斗 數 (Zi wei dou shu) (Đoán số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4992; L 2515.

48. Tử Vi Đẩu Số Giải Âm 紫 微 斗 數 解 音 (Zi wei dou shu jie yin) (Các sự giải thích và xem [chính xác] số mệnh theo phương pháp của Tử Vi). TG 4102; L 2509.

49. Tử Vi Giải 紫 微 解 (Zi wei jie) (Các sự giải thích về phương pháp của Tử Vi). TG 4993; L 2516.

50. Tử Vi Hà Lạc Nhâm Thìn Số 紫 微 河 洛 壬 辰 數 (Zi wei He Luo ren chen shu) (Đoán số mệnh theo các phương pháp của Tử Vi và Hà [tu] và Lạc [shu, Lục Nhâm và các chùm sao]. TG 4995; L 2517.

51. Tử Vi Số 紫 微 (Zi wei shu) (Đoán số mệnh theo Tử Vi). TG 4103; L 2499.

52. Tử Vi Thập Nhị Cung Đoán Pháp Quốc Âm Ca 紫 微 十 二 宮 斷 法 國 音 歌 (Zi wei shi er gong duan fa guo yin ge) (Các phương pháp có vần điệu để giải đoán trên căn bản các phương pháp của Tử Vi và Mười Hai Cung được diễn đạt bằng tiêng dân ta [tức chữ Nôm]). TG 4104; L 2510.

53. Tuyển Trạch Thông Thư Đại Toàn 選 擇 通 書 大 全 (Xuan ze tong shu da quan) (Các đề tài tuyển trạch từ bản tóm lược tổng quát các niên giám). Một bản sao của MS ghi niên kỳ năm 1880. TG 4044; L 2503.

B. Các Niên Sử Việt Nam

CM 1969 – Trần Văn Vi 陳 文 為 và các tác giả khác, đồng biên tập, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục 欽 定 越 史 通 鑑 綱. Taipei: Guoli zhongyang tushuguan.

SL 1936 – [Khuyết danh], [Đại] Việt Sử Lược [大] 越史略.Shanghai: Shangwu yinshuguan.

TT 1984 – Chen Jinghe 陳 荊 和 Trần Kính Hòa (biên tập), 校 合 本 大 越 史 記 全 書 Khảo (hay Hiệu) Hợp Bản Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tokyo: Viện Nghiên Cứu Cao Cấp Về Á Châu, Đại Học Tokyo, 3 quyển, 1984-1986.

C. Các Tài Liệu Chính Yếu Khác

KTG – Khâm Thiên Giám 欽 天 監. Một thủ bản có niên kỳ 1930 được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số VHv. 1261.

LHT – Lê Công Hành Trạng 黎 公 行 狀 (Một tiểu sử của Lê Quý Đôn). Thủ bản được bảo tồn tại Viện Hán Nôm, Hà Nội; ký số A. 43.

XZJ – Fa shi xuan ze ji 法 師 選 擇 記 Pháp Sư Tuyển Trạch Ký (Tài liệu về các sự lựa chọn ngày tốt của Pháp Sư). Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang, Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 325-346.

YXJ – Xu zhenjun Yuxia ji 許 真 君 玉 匣 記 Hứa Chân Quân Ngọc Hạp Ký (Tài Liệu Từ Rương Bằng Ngọc của Hứa Chân Quân (tức Xu Xun 許 遜 Hứa Tốn), Trong Zhengtong Daozang 正 統 道 藏 Chính Thống Đạo Tang Taibei: Hsin Wen Feng Publishing Company, 1977, quyển 60: 321-324.

II. Các Nguồn Tài Liệu Thứ Yếu và Các Bản Dịch

ARHEM, Nikolas (2009). In the Sacred Forest: Landscape, Livelihood and Spirit Beliefs among the Katu of Vietnam. SANS Papers in Social Anthropology 10, Gothenburg, University of Gothenburg.

BOLTZ, Judith M. (1987). A survey of Taoist literature: Tenth to Seventeenth Centuries. Berkeley, University of California, Institute of East Asian studies.

CADIÈRE, Leopold và PELLIOT, Paul (1904). "Première étude sur les sources annamites de l'histoire d'Annam." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, t. 4: 617-671.

CHAPUIS, Oscar (1995). A History of Vietnam: from Hong Bang to Tu Duc. Westport, Greenwood Press.

CHENG Wing-sheung 鄭 永 常 Trịnh Vĩnh Thường (Tháng Sáu 2009). "Yi ci qiyi de shi zhi waijiao: Feng Kekuan yu Li Suiguang zai Beijing de jiaohui 一 次 奇 異 的 時 之 外 交: 馮 克 寬 與 李 脺 光 在 北 京 的 交 會 [Nhất thứ kỳ dị đích thời chi ngoại giao: Phùng Khắc Khoan dữ Lý Tụy Quang tại Bắc Kinh đích giao hội] (Một Trường Hợp Ngoại Giao Kỳ Lạ qua Thi Ca: Cuộc Gặp Gỡ của Phùng Khắc Khoan và Lý Tụy Quang [phiên âm theo tiếng Hàn Quốc là Yi Su-Gwang, sứ giả của Triều Tiên, chú của người dịch] tại Bắc Kinh). Taiwan gudian wenxue yanji[u] jikan 臺 灣 古 典 文 學 研 究 集 刊 [Đài Loan Cổ Điển Văn Học Nghiên Cứu Tập San], quyển 1: 345-347, 349-372.

COULET, Georges (1926). Les Sociétés secrètes en terre d'Annam. Saigon, Ardin.

COULET, Georges (1929). Cultes et religions de l'Indochine annamite. Saigon, Ardin.

DUMOUTIER, Gustave (1899). "Études d'ethnographie religieuse annamite: Sorcellerie et Divination." Actes du XI' Congrès international des Orientalistes (1897), Paris, tome II: 275-409.

DUMOUTIER, Gustave (nov.-déc. 1914). "L'astrologie considérée plus spécialement dans ses applications à l'art militaire." Revue Indochinoise: 456-475.

DUMOUTIER, Gustave (July-Aug. 1915). "L'astrologie chez les Annamites: ses applications a l'art militaire." Revue Indochinoise: 101-126.

FEDORIN, Andrei [Фeдopин, Aндрй ЛЬВОВИЧ] (2009). "Лунно-солнечнЫй каленларЬ на ЛалЬнем Востоке: вЬетнамский вариант" (Âm-Dương (Luni-Solar) lịch tại vùng Viễn Đông: một phiên bản của Việt Nam). ПроблемЫ ДалЬнеƨо Восмока, no. 4: 158-162.

FRIEDSAM, Manfred (2003). "L'enseignement des mathématiques sous les Song et Yuan." In C. Despeux and C. Nguyen Tri {eds.). Éducation et instruction en Chine, vol. 2 {Les formations spécialisées), Paris/Louvain. Éditions Peeters: 49-68.

GASPARDONE, Emile (1934). "Bibliographie Annamite." BEFEO, fasc. 1: 1-173.

HAN Qi 韓 琦 Hàn Kỳ (1991). "Zhong Yue lishi shang tian wen xue yu shuxue de jiaoliu 中 越 歷 史 上 天 學 與 數 學 的 交 流 Trung Việt lịch sử thượng văn học dữ số học đích giao lưu (Sự tương tác giữa thiên văn học và số học của Trung Hoa và Việt Nam trong lịch sử)." Zhongguo keji shiliao 中 國 科 技 史 料 Trung quốc khoa kỹ sử liệu, quyển 12.2: 3-8.

Ho Peng Yoke (1964). "Natural phenomena recorded in the Đại Việt sử ký toàn thư, an early Annamese historical source." Journal of the American Oriental Society, vol. 84.2: 127-149.

Ho Peng Yoke (2003). Chinese Mathematical Astrology: Reaching out to the Stars. London and New York, RoutledgeCurzon.

HUARD, Pierre, và DURAND, Maurice (1954). Connaissance du Viet-Nam. Paris/Hanoi, Imprémerie Nationale/École Française d'Extrême-Orient.

HUCKER, Charles O. (1985, bản in lại năm 1988). A Dictionary of Official titles in Imperial China. Taibei, Southern Materials Center (bản in lại năm 1988; nguyên thủy được ấn hành bởi Stanford University Press năm 1985).

KALINOWSKI, Marc (1983). "Les instruments astro-calendriques des Han et la méthode Liu Ren." Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, tập 72: 309-419.

KALINOWSKI, Marc (1989). "La littérature divinatoire dans le Daozang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 5: 85-114.

KALINOWSKI, Marc (tr.) (1991). Cosmologie et divination dans la Chine ancienne. Le Compendium de Cinq Agents (Wuxing dayi, VIè siècle). Paris, EFEO.

KALINOWSKI, Marc (éd.) (2003). Divination et société dans la Chine médiévale. Paris, Bibliothèque Nationale de France.

KNOROZOVA, Ekaterina [Kнорозова, Eкатерина Юрьевна] (2009). Cmpaнсmeuя е бесконечном (Wandering in the infinite). Sankt-Peterburg, BRAN & Alfaret Publishers.

LÊ, Alexandre (1995). Etude du Nom, écriture idéographique de la langue Vietnamienne: son histoire, sa structure et sa valeur littéraire. Mémoire de D.R.E.A. de Vietnamien. Paris, INALCO (luận án chưa được xuất bản).

LEE, Thomas H.C. (1985). Government Education and Examinations in Sung China. Hong Kong, The Chinese University Press, and New York, St. Martin's Press.

Liu Chun-Yin 劉 春 銀, Wang Xiaodun 王 小 盾, Trần Nghîa 陳 義 (2002). Yuenan Han-Nan wenxian mulu tiyao 越 南 漢 文 獻 目 錄 提 要 Việt Nam Hán-Nôm Văn Hiến Mục Lục đề yếu (Mục Lục chú giải các tài liệu văn chương Hán Nôm). Taibei, Academia Sinica.

MARR, David G. (1981). Vietnamese Tradition on Trial, 1920-1945. Berkely etc. [?], University of California Press.

MORGAN, Carole (1980). Le Tableau du boeuf du printemps. Étude d'une page de l'almanach chinois. Paris, Collège de France, Institut des Hautes Études Chinoises.

MORGAN, Carole (1987). "La divination d'après les croassements des corbeaux dans les manuscrits de Dunhuang." Cahiers d'Extrême-Asie, vol. 3: 55-76.

NGUYỄN Đình Hòa (1959). "Chữ Nôm, the Demotic System of Writing in Vietnam."Journal of the American Oriental Society, vol. 79, no. 4: 270-274.

NGUYỄN Đình Hòa (1990). "Graphemic borrowing from Chinese: the case of chữ nôm, Vietnam's demotic script." Bulletin of the Institute of History and Philology, Academia Sinica [Taiwan], 61: 383-432.

NGUYỄN Văn Huyên (2002). The Ancient Civilization of Vietnam. Hanoi, The Gioi.

OSBORNE, Milton E. (1997, bản in lại ấn bản năm 1969). The French Presence in Cochinchina and Cambodia: Rule and Response (1859-1905). Bangkok, White Lotus Press [được ấn hành lần đầu tiên bởi Cornell University trong năm 1969].

PAPIN, Philippe (2001). Histoire de Hanoi. Paris, Fayard.

POISSON, Emmanuel (2004). Mandarins et subalternes au nord du Viêt Nam (1820-1918) - une bureaucratie à l'épreuve. Paris, Maisonneuve et Larose.

POLYAKOV, Aleksei [UOUHKOB, AjieKceÄ BOPHCOBHH] (tr.) (1980). KpamKan ucmopun Bbema. Bbem uiu AUOK (Tóm lược lịch sử Việt Nam. The Việt Sử Lược). Moscow, Nauka.

REN Jiyu 任 繼 愈 Nhậm Kế Dụ và các tác giả khác (đồng biên tập) (ấn bản lần thứ nhì năm 1995). Daozang tiyao 道 藏 提 要 Đạo Tang đề yếu (Chú Giải Đạo Tang). Beijing, Zhongguo shehui kexue chubanshe.

SMITH, Richard J. (1991, bản in lại năm 1993). Fortune-tellers and Philosophers. Divination in Traditional Chinese Society. Boulder, Westview Press; in lại tại Taipei, SMC Publishing Inc.

TRẦN Văn Giáp (1983). "Les chapitres bibliographiques de Le-qui-Don et de Phan-huy-Chu." Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Saigon, Testelin, Nouvelle série, t. 13, no. 1: 13-217.

TRẦN Nghîa et Gros, François (eds.) (1993). Catalogue des livres en Han-Nôm. Hà Nội, Nhà xuất bản khoa học xã hội/Edition [des] sciences sociales.

TRỊNH Văn Thao (1995). L'École française en Indochine. Paris, Karthala.

VĂN An Vi (2008). "A Thai Divination Kit in the Vietnam Museum of Ethnology." Asian Ethnology, vol. 67, no. 2: 257-269.

VARGYAS, Gabor (2004). "Thuật Tiên Tri trong Lễ Lên Đồng của Người Bru” [Divination in Bru Shamanism]. Trong sách biên tập bởi Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu và các Hình Thức Shaman Trong Các Tộc Người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội [Social Sciences Publishers]: 537-548.

VOLKOV, Alexei (2008). "Traditional Vietnamese Astronomy in Accounts of Jesuit Missionaries." Trong sách đồng biên tập bởi L. Saraiva và C. Jami. History of Mathematical Sciences, Portugal and East Asia III: The Jesuits, the Padroado and East Asian Science (1552-1773), Singapore etc. [?]. World Scientific: 161-185.

VOLKOV, Alexei (2009). "Mathematics and Mathematics Education in Traditional Vietnam." Trong sách đồng biên tập bởi E. Robson và J. Stedall, Oxford Handbook of the History of Mathematics, Oxford, Oxford University Press: 153-176.

VOLKOV, Alexei (2012). "Argumentation for State Examinations: Demonstration in Traditional Chinese and Vietnamese mathematics." Trong sách biên tập bởi K. Chemla, The History of Mathematical Proof in Ancient Traditions, Cambridge, Cambridge University Press: 509-551.

WHITMORE, John. K. (1995). "Cartography in Vietnam," trong sách đồng biên tập bởi J. B. Harley và David Woodward, The History of Cartography, vol. 2, book 2: 478-508.

_____

Nguồn: Alexei Volkov, Astrology and Hemerology in Tradional Vietnam, Extrême-Orient, Extrême-Occident, 35 – 2013, các trang 113 – 140.

Alexei Volkow

Ngô Bắc dịch


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chiêm tinh học và thuật bói toán tại việt nam cổ truyền

Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Chữ số là hệ thống ký hiệu dùng để ghi chép một số thông tin mà ở thờikỳ ban sơ con người vẽ chúng lên mặt đất. Những ký hiệu này được pháthiện vào thời kỳ đồ đã cũ - khoảng 25.000 năm trước. Nhưng trải qua sựtham gia, nghiên cứu của các nhà toán học, nhà triết học, các nhà tư tưởngtrong khoảng thời gian đó và trở về sau thì việc tính toán mối liên hệgiữa các chữ số đơn giản đã phát sinh thay đổi. Họ đãdựa vào nhiều đặc tính chuyên môn để liên hệ chữa số lại với nhau.
Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nhà tư tưởng kiệt xuất Trung Quốc Mao Trạch Đông đã từng nói: "Con người" luôn không ngừng tổng kết kinh nghiệm, phát hiện, phát minh, sáng tạo, tiến về phía trước. Lịch sử đã phát triển của chữ số nói với chúng ta rằng, để giải quyết yêu cầu một số vấn đề, cần phải phát minh ra các con số mới và tổ hợp mới của chữ số. Sự hình thành của thuật dự đoán thông tin qua những con số là một khoa học hình thành trên cơ sở nghiên cứu lý số của người xưa.

Trên cơ sở này các nhà triết học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và làm sâu sắc thêm quan điểm này, đưa nó vào hệ quy chiếu với các trục không gian, thời gian để tính toán quá trình phát triển của thiên thời, nhân sự đòng thời tổng kết ra những quy luật ứng dụng trong cuộc sống và để đưa ra những quyết sách trọng đại.


Thần số học giới thiệu những lý luận cơ bản của thuật dự đoán thông tin qua các con số như một môn khoa học liên ngành tổng hợp. Bộ môn này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm căn cứ, lấy lý luận không gian, thời gian làm tọa độ, lấy thuật số cổ đại làm nền tảng, lấy hiệu ích xã hội, lợi ích kinh tế làm mục đích. Nó là một môn khoa học thuật số trực tiếp ứng dụng vào quyết sách phát triển mục tiêu hóa hung được cát của con người đã trải qua kiểm chứng, thực hành mà tổng kết thành. Tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người như học hành, sự nghiệp, tài vận, hôn nhân, sinh đẻ cho đến cả vấn đề sức khỏe, tai họa, mất mát, thuyên chuyển trong công việc... tôi sẽ cung cấp phương pháp lập quẻ đoán quẻ tương ứng để có được những thông tin dự đoán chính xác.


Trương Xuân Toàn


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài 1: Giới thiệu về bộ môn Thần Số Học

Nếu kết hôn trong năm Đinh Dậu, cặp con giáp này sẽ có hôn nhân viên mãn

Những cặp con giáp dưới dây mà quyết định kết hôn trong năm nay 2017 thì sẽ có một tổ ấm viên mãn "vạn người thèm muốn".

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Từ xa xưa, việc chọn lựa đối tưởng kết hôn luôn được các bậc cha mẹ, thậm chí những người trẻ tuổi quan tâm. Bởi vì, đây cũng xem như là yếu tố giúp cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và viên mãn về sau. Nếu bạn đã có hoặc chưa có đối tượng, hãy cùng tham khảo để tìm được ý trung nhân hợp tuổi và có hạnh phúc trọn vẹn trong năm nay nhé!.

1. Tuổi Tý và tuổi Thìn

Chuyện tình cảm của cặp con giáp này trong năm Bính Thân khá chật vật và bất ổn. Đặc biệt những cặp đôi có sự cách biệt về tuổi tác khá lớn đã khiến họ khó giữ hòa khí hơn. Tuy nhiên, với năm Đinh Dậu 2017 này, tình yêu của họ sẽ chuyển sang trang mới. Nếu như cặp đôi này đi đến hôn nhân thì quả là một định sáng suốt. Khi về chung một nhà, tình cảm của họ sẽ được nâng đến tầm cao mới, thậm chí sẽ nồng nàn như thời mới yêu.

Nếu kết hôn trong năm Đinh Dậu, cặp con giáp này sẽ có hôn nhân viên mãn - Ảnh 1.

Ảnh Internet

2. Tuổi Thân & tuổi Tý

Năm vừa qua chính là năm tuổi của các cá nhân tuổi Thân nên họ như vừa thoát khỏi lưỡi hái tử thần, nằm chờ hồi sức vậy. Vì vậy, khi bước sang năm Đinh Dậu, vận mệnh của tuổi Thân sẽ có bước chuyển biến mới, đặc biệt là chuyện tình cảm. Nếu những cô nàng, anh chàng tuổi Thân có người yêu tuổi Tý thì hãy mau mau nghĩ đến chuyện kết hôn trong năm nay nhé. Các bạn nhất định sẽ hạnh phúc khi "về chung một nhà" và xây dựng tổ ấm hạnh phúc về sau.

3.Tuổi Dần & tuổi Ngọ

Trong năm 2017 này, tuổi Dần sẽ phải đón nhận trọng trách lớn trong công việc. Dù vậy nhưng mọi thứ rồi cũng suôn sẻ, đâu vào đấy nên con giáp này cũng đừng quá lo lắng. Mà thay vào đó, chuyện hôn nhân trong năm nay sẽ rất tốt đối với tuổi Dần. Sẽ tuyệt vời hơn nữa nếu, cô, cậu tuổi Dần kết hôn với những người tuổi Ngọ thì chắc chắn hai bạn sẽ có hạnh phúc tuyệt vời. Không những thế khi về chung một nhà, cả sự nghiệp lẫn tiền tài của cả hai sẽ phất lên như diều gặp gió.

Nếu kết hôn trong năm Đinh Dậu, cặp con giáp này sẽ có hôn nhân viên mãn - Ảnh 2.

Ảnh Internet

4. Tuổi Mão & tuổi Hợi

Vỗn dĩ hai con giáp này nằm trong "tam hạp", tức về cơ bản nếu kết hợp với nhau đã tốt rồi, nay còn tính chuyện hôn nhân thì không gì hợp hơn nữa. Cả hai con giáp đều là những người trân trọng giá trị gia đình, sống tình cảm, và nếu kết hôn năm 2017 thì vô cùng tuyệt vời. Kể cả rằng tuổi tác có cách nhau xa đến mấy (như Quý Hợi 1983 và Quý Mão 1963 chẳng hạn), vẫn có thể có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc nếu cả hai cùng biết chia sẻ, quan tâm lẫn nhau. Điều đặc biệt, năm 2017 này lại là năm tình yêu bùng cháy đối với hai con giáp này, nếu như cả 2 vẫn còn độc thân thì hãy nhanh chóng tìm bạn đời tuổi này để có được hạnh phúc viên mãn nhé!


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nếu kết hôn trong năm Đinh Dậu, cặp con giáp này sẽ có hôn nhân viên mãn

Bàn tay của người có sự nghiệp thành công

Bàn tay tốt xấu phải chăng cũng đã ngầm báo hiệu sự nghiệp cuộc đời có thành công hay không?
Bàn tay của người có sự nghiệp thành công

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Mọi người đều khát vọng có được sự nghiệp thành công. Nhưng để đạt được thành công trong sự nghiệp thì ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa là những nhân tố không thể thiếu được.

Trên đường Vận mệnh có hình ô vuông

Những người này sau khi trải qua luyện tập khắc khổ, tất có việc tốt đang chờ. Trải qua vất vả đã giúp mang lại sự trưởng thành.

Đường Vận mệnh có đường phụ trợ

Đây là những người nhận được sự giúp đỡ của những người xung quanh, nhận được những viện trợ lớn mạnh phía sau.

Đường Công danh rõ ràng

Nếu trên bàn tay bạn có đường công danh rõ ràng có thể phát huy tài năng mạnh mẽ, đạt được thành công trong sự nghiệp. Tài vận cực tốt.

Trên đường Sinh mệnh có dường kéo dài lên phía trên

Là người thông qua nỗ lực học tập đã tìm thấy con đường phát triển của mình. Ngoài ra, nếu muốn kinh doanh độc lập, thời gian cụ thể ra sao hãy tham khảo thêm ở số mệnh lưu niên.

Trên gò Mộc tỉnh có đường chỉ thẳng, rõ nét

Báo hiệu là người luôn ấp ủ mục tiêu phấn đấu. Trong thời gian gần nhất họ sẽ gặt hái được thành tích, được thăng chức.

Trên gò Mộc tỉnh có hình sao

Có thể đạt được lợi ích trong dịp may. Nắm được cơ hội sẽ thành công trong sự nghiệp, đạt được danh tiếng.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bàn tay của người có sự nghiệp thành công

Hướng dẫn phong tục ngày Tết: Chúc Tết, mừng tuổi, xuất hành

Phong tục của dân ta thoạt nghe như chuyện thần tiên nhưng vẫn tồn tại vì trong cái huyền bí có những ý nghĩa thực tế.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chúc tết - mừng tuổi

Sáng sớm mồng một Tết hay ngày "Chính đán", mọi sinh hoạt ngừng lại, các con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ tiên chúc Tết ông bà, các bậc huynh trưởng và mừng tuổi lẫn nhau.



Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con, mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi. Bởi vậy ngày mồng một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên; và người lớn thì "mừng tuổi" trẻ em một cách cụ thể bằng những đồng tiền mới bỏ trong những "phong bao". Tục này ở Việt Nam quen gọi là "lì xì". Tiền mừng tuổi nhận được trong ngày Tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn), ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

Về chúc Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc hoặc nhữngngười phải chịu ơn người khác thường phải đi chúc Tết và mừng tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ tiên của gia chủ. Tục này ngày nay ít còn, vì thì giờ eo hẹp, đường sá xa xôi cho nên đã được thay thế bằng những tấm thiệp "Chúc Mừng Năm mới" hay "Cung Chúc Tân Xuân".

Xuất hành và hái lộc

Đầu năm mới, người Việt Nam còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần, hỉ thần...



Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc, người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi và có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:

- Gió Nam: chỉ đại hạn
- Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
- Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
- Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
- Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
- Gió Đông: chỉ có lụt lớn...

Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người Việt Nam còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc".

Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành xi, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ tiên.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng dẫn phong tục ngày Tết: Chúc Tết, mừng tuổi, xuất hành

Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác.
Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong phong thủy bát trạch, tính chất của 8 ngôi sao quyết định tới tính chất của phương hướng, từ đó xác định hướng nhà, hướng cửa và hướng bếp chuẩn xác, hợp với gia chủ.


► Mời các bạn tiếp tục xem hướng nhà theo tuổi để không phạm phải đại kị

Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
1. Sinh Khí (Tham Lang) – Mộc   Sao Sinh Khí thuộc ngũ hành Mộc, thuộc Đông tứ trạch trong phong thủy nhà ở, là đại cát tinh số một. Đặc điểm của sao này là mạnh mẽ, tràn đầy tinh lực, tính cách bốc đồng, quyết đoán và nhiều tham vọng.    2. Diên Niên (Vũ Khúc) – Kim   Sao Diên Niên ngũ hành thuộc Kim, là đại cát tinh. Sao này hiền hòa, an nhàn, có tính nhẫn nại, thích tán thưởng người khác và biết khẳng định bản thân.   3. Thiên Y (Cự Môn) – Thổ   Sao Thiên Y ngũ hành thuộc Thổ, là Thổ tinh, đại cát tinh. Tính chất là an nhàn, ổn định, đủ ăn đủ mặc, thoải mái, ít phiền não, thân thể tráng kiện, có quý nhân tương trợ.   4. Phục Vị (Phụ Bật ) – Mộc   Sao Phụ Bật chia thành Tả Phụ Bật và Hữu Phụ Bật, thuộc loại trung cát tinh. Sao này tác dụng thấp hơn so với các sao ở trên, yêu gia đình, mẫn cảm, săn sóc, nghe lời cha mẹ, ít tham vọng.   Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 2) Thế nào là hướng nhà tốt xấu Mách bạn cách làm nhà vượng sơn - vượng hướng
5. Tuyệt Mệnh (Phá Quân) – Kim
  Sao Tuyệt Mệnh thuộc ngũ hành Kim, là đại hung tinh. Tính chất hỗn độn, tác dụng thất thường, vì việc nhỏ mà lo buồn, phiền muộn, trầm mặc, dễ nảy sinh áp lực trong lòng dẫn tới bệnh tâm lý.   6. Ngũ Quỷ (Liêm Trinh) – Hỏa   Sao Ngũ Quỷ thuộc ngũ hành Hỏa, không phải cát tinh. Sao này có tính chất cuồng bạo, dễ bị phiền nhiễu hay cùng người khác xung đột, vô ý đắc tội với người khác, phương diện nhân duyên không tốt, làm việc vô ích, không có hồi báo.  
Tinh chat 8 sao quyet dinh huong nha trong bat trach phong thuy hinh anh 2
 
7. Họa Hại (Lộc Tồn) – Thổ
  Họa Hại thuộc ngũ hành Thổ, không phải cát tinh, có tính chất xâm hại. Sao này dễ bị việc vặt vãnh quấy nhiễu, dễ mệt mỏi, suy yếu, không tin tưởng bản thân, lười nhác.   8. Thất Sát (Văn Khúc) – Thủy   Sao Thất Sát ngũ hành thuộc Thủy, là hung tinh, có tính chất phá hoại. Thường xuyên gây thị phi, phiền não, dễ mất ngủ, ù tai, gây ra lỗi lầm. Nếu hướng bếp, hướng cửa mà ở phương này thì nam giới trong nhà ăn tàn phá hại.    Phong thủy bát trạch nhấn mạnh vào tính chất cát hung của các sao này để lựa chọn hướng đại cát. Hướng nhà, hướng cửa, hướng bếp thì phải chọn phương cát tinh. Hướng nhà vệ sinh thì hướng về phương hung tinh. 
Biểu trưng phong thủy của 8 hướng nhà cơ bản (phần 1) 4 tiêu chuẩn vàng xác định hướng nhà tốt Nhà chính hướng, phú quý cát tường
Trần Hồng

 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tính chất 8 sao quyết định hướng nhà trong bát trạch phong thủy

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý, tu vi Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý

Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Canh tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo.

– Năm sinh dương lịch: 1960, 2020, 2080

– Năm sinh âm lịch: Canh Tý

bàn-thờ-thần-tài-tuổi-Canh-Tý

bàn-thờ-thần-tài-tuổi-Canh-Tý

– Theo phong thủy, Thần tài mang lại tiền bạc hay của cải cho mỗi gia đình, nên mỗi gia đình, nhất là gia đình mua bán hay kinh doanh đều có bàn thờ Thần tài, đốt nhang nghi ngút để cầu xin Thần tài cho mua may bán đắt, trúng mối lời nhiều, đem lại nhiều tiền bạc sung túc. Những nhà kinh doanh đều có lập bàn thờ Thần tài. Vì vậy, khi đặt bàn thờ thần tài gia chủ tuổi Canh tý cần quan tâm đến cả vị trí và hướng đặt.

– Theo nguyên tắc chung nhất, thì gia chủ tuổi Canh tý nên đặt bàn thờ thần tài tại góc nhà, sát mặt đất, nhưng phải giữ vệ sinh sạch sẽ, khô ráo. Tốt nhất là tại góc chéo bên trái hoặc bên phải đối diện với cửa chính, mặt bàn thờ hướng ra cửa để đón tài lộc (trong phong thủy đây là vị trí tụ khí vì thế sẽ thu hút được vận may, tài lộc vào nhà).

– Gia chủ tuổi Canh tý cũng nên đặt bàn thờ thần tài ở vị trí thông thoáng, nơi mọi người ra vào có thể quan sát được. Ngoài ra, bàn thờ thần tài phải có chỗ tọa vững chắc vì vậy lưng bàn thờ nên dựa vào tường hoặc tủ kệ cố định.

– Gia chủ tuổi Canh tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng tốt là: Đông (Diên Niên); Bắc(Sinh Khí); Nam (Thiên Y); Đông Nam (Phục Vị). Đối với tuổi Canh tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng tốt là: Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc(Sinh Khí); Tây (Thiên Y); Tây Nam (Phục Vị).

– Gia chủ tuổi Canh tý (Nam giới) thuộc Đông tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài quay về các hướng xấu là: Tây Bắc (Họa Hại);Tây Nam(Ngũ Quỷ); Tây (Lục Sát); Đông Bắc (Tuyệt Mệnh).Đối với tuổi Canh tý (Nữ giới) thuộc tây tứ mệnh không nên đặt bàn thờ thần tài tại các hướng xấu là:Đông (Họa Hại);Đông Nam(Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); Bắc (Tuyệt Mệnh).

*Giải nghĩa một số từ ngữ phong thủy

– Sinh khí: Thu hút tài lộc, danh tiếng, thăng quan phát tài.

– Thiên y: Cải thiện sức khỏe, trường thọ

 

– Diên niên: Củng cố các mối quan hệ trong gia đình, tình yêu.

 

– Phục vị: Củng cố sức mạnh tinh thần, mang lại tiến bộ của bản thân, may mắn trong thi cử.

– Họa hại: Không may mắn, thị phi, thất bại.

– Ngũ quỷ: Mất nguồn thu nhập, mất việc làm, cãi lộn.

– Lục sát: Xáo trộn trong quan hệ tình cảm, thù hận, kiện tụng, tai nạn.

– Tuyệt mệnh: Phá sản, bệnh tật chết người.

– Bên cạnh đó, gia chủ tuổi Canh tý cũng cần quan tâm thêm đến trạch khí của ngôi nhà cũng như bố cục của phòng ốc để có lựa chọn tối ưu.

– Trong nhiều trường hợp, bàn thờ thần tài vẫn có thể xoay chéo 45 độ so với tường. Khi đó, phía sau lưng cần có bức vách che góc nhọn của tường hoặc những đồ trang trí như lọ lộc bình… để làm vững lưng ban thờ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng đặt bàn thờ thần tài cho người tuổi Canh Tý - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Thế nào là phòng ngủ chuẩn phong thủy

Phòng ngủ chuẩn phong thủy là phải luôn tồn tại và thúc đẩy một dòng chảy hài hòa giữa dưỡng sinh và khoái hoạt.
Thế nào là phòng ngủ chuẩn phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một phòng ngủ được coi là chuẩn phong thủy phải luôn tồn tại và thúc đẩy một dòng chảy hài hòa giữa dưỡng sinh và khoái hoạt. 

  Một phòng ngủ được coi là chuẩn phong thủy phải luôn tồn tại và thúc đẩy một dòng chảy hài hòa giữa dưỡng sinh và khoái hoạt. Đó là nơi luôn cuốn hút, hấp dẫn, kích thích và cũng giúp bạn luôn duy trì sự bình tĩnh trong cùng một thời điểm. Đồng thời, đó cũng là nơi luôn chứa sự vui vẻ, thú vị và hạnh phúc, cho bạn một giấc ngủ ngắn nhanh chóng, một giấc ngủ đêm tốt hay là nơi tạo nên một tình yêu nồng nàn.   Dưới đây là một vài tiêu chí để đánh giá xem phòng ngủ nhà bạn đã được bài trí đúng phong thủy hay chưa.

The nao la phong ngu chuan phong thuy hinh anh
Ảnh minh họa

1. Không có quá nhiều các thiết bị điện, công nghệ
 
Những thiết bị điện, đồ công nghệ luôn là “kẻ phá bĩnh” giấc ngủ của bạn. Nó chỉ mang lại sự căng thẳng, mất tập trung chăm chút các mối quan hệ (với chính mình hoặc người thân của bạn) và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe.   Do đó, hãy đưa tivi, máy tính, điện thoại, các thiết bị tập thể dục ra khỏi phòng ngủ để có được giấc ngủ trọn vẹn, kích thích cả thể chất và tinh thần ổn định để dễ dàng gặt hái được thành công trong cuộc sống.   2. Cửa sổ mở thường xuyên để đảm bảo phòng ngủ đủ ánh sáng và không khí trong lành   Ánh sáng và không khí trong phòng ngủ là một trong những yếu tố quan trọng kích thích nguồn năng lượng tích cực, xua đi mọi tà khí. Ánh sáng chính là chất dinh dưỡng số một và là biểu hiện mạnh nhất của năng lượng. Ánh sáng phát ra từ nến luôn là ánh sáng tốt nhất cho phòng ngủ của bạn, nó tạo ra một bầu không khí thân mật, ấm áp và thoải mái. Bên cạnh đó bạn sẽ khó có một phòng ngủ chuẩn phong thủy nếu như không khí mỗi khi bạn hít thở không sạch sẽ, luôn chứa đầy các chất ô nhiễm.   Một số người nhầm tưởng rằng việc đặt cây xanh trong phòng ngủ sẽ tạo ra luồng không khí trong lành, điều đó hoàn toàn phản khoa học phong thủy. Ngoài ra, có thể sử dụng tinh dầu để tạo ra một bầu không khí trong lành và thơm mát trong phòng ngủ. Tốt nhất bạn nên sử dụng các loại tinh dầu tinh khiết (đã được hóa lành tính) thay vì sử dụng các loại dầu thơm nhưng lại độc hại.   3. Màu sắc nhẹ nhàng   Theo phong thủy phòng ngủ, trang trí trong phòng ngủ đúng cách sẽ giúp bạn có một giấc ngủ ngon, giảm nguy cơ mắc bệnh tật và tăng cường khả năng tập trung cho công việc. Màu sắc phong thủy cho phòng ngủ được coi là "màu da", từ nhạt đến trắng và đến màu nâu sô cô la. Vì thế, các màu trong gam này sẽ là lựa chọn tốt nhất cho việc lựa chọn đồ vật trang trí phòng ngủ.   4. Treo tranh khôn ngoan   Nếu muốn thấy cuộc sống của mình ra sao, bạn có thể treo tranh phản ánh điều đó. Tốt nhất là những hình ảnh với sự thúc đẩy, phát triển, đẹp và tràn ngập hạnh phúc. Trừ khi bạn thích một cuộc sống buồn bã và cô đơn, nếu không đừng bao giờ treo những hình ảnh buồn và cô đơn trong phòng ngủ của bạn. Tốt nhất là hãy treo những hình ảnh liên quan đến cảm xúc, tình yêu, hạnh phúc, sự gắn bó,…   5. Kê giường ngủ đúng phong thủy   Một chiếc giường đẹp và cân bằng là yếu tố rất quan trọng trong việc tạo ra một phòng ngủ phong thủy hoàn hảo. Chỉ cần tuân thủ 3 nguyên tắc cơ bản dưới đây là bạn có thể kê giường đúng phong thủy rồi.
 
- Vị trí kê giường thoáng và làm sao có thể tiếp cận được từ hai phía - Có bàn cạnh hai bên giường - Không kê giường đối diện trực tiếp với cửa ra vào   Theo Khám phá  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thế nào là phòng ngủ chuẩn phong thủy

Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết.
Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Để tìm đuợc một ngôi nhà tốt hoàn toàn theo phong thủy là điều không dễ dàng. Cổ nhân có câu “nhân vô thập toàn”, suy rộng ra một căn nhà có những khiếm khuyết là điều khó tránh. Dưới đây là một vài gợi ý để cải thiện ngôi nhà có thế lỗi phong thủy.


1. Những ngôi nhà xấu do ngoại cảnh


Nhà gần đê hoặc gần những con đường cao hơn so với nền nhà ở được coi là không tốt theo phong thủy. Những phương án tôn nền nhà cho cao bằng cốt nhà thường không mấy khả thi. Trường hợp này, chủ nhà nên thiết kế một tầng hầm (có thể sử dụng làm hầm rượu, gara…) cho ngôi nhà sao cho sàn tầng 1 tối thiểu cao bằng nền đường.

Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 1) hinh anh
 
Thế nhà âm dương thái quá, không cân bằng. Ví dụ, ngôi nhà quá thiếu ánh sáng hoặc không khí (yếu tố dương trong phong thủy), thường gặp trong khu vực ngõ ngách ở đô thị. Để hóa giải, nên bố trí hệ thống thắp sáng thường xuyên ngay trước khu vực cửa ra vào nhằm tăng cường năng lượng dương giúp cân bằng trở lại.
 
Những ngôi nhà có con hẻm đâm vào nhà cũng là một trong những lỗi phong thủy nhà ở thường gặp và gây rất nhiều lo lắng: thế nhà Thương sát.
 
Thật ra, thế nhà này chỉ xấu trong trường hợp ngõ đâm thẳng vào nhà có chiều dài tương đối lớn, hoặc mật độ lưu thông dày đặc. Nên treo một chiếc gương lồi, có tác dụng làm tản mạn bớt luồng xung khí. Hoặc xây nền nhà cao hơn bình thường, tạo thế nhà cao cũng làm giảm bớt hiệu ứng của luồng xung khí do thế nhà xấu mạng lại.
 
Còn nếu con đường đó ngắn và mật độ thưa thớt, yên ả sẽ tạo minh đường sáng sủa, thì lại là một lợi thế dưới góc nhìn phong thủy. 
 

2. Nhà xấu theo Bát trạch

Thông thường, khi mua nhà hoặc xây nhà chúng ta hay để ý tới tuổi của gia chủ và muốn biết tương quan của nó với hướng nhà. Các hướng gặp phải Ngũ quỷ, Tuyệt mạng, Lục sát, Họa hại là bốn hướng xấu gây bất lợi với gia chủ. 
 
Ngoài hướng nhà, phong thủy cũng rất coi trọng hướng bếp. Bếp đặt theo một hướng tốt sẽ khắc phục và hóa giải yếu tố xấu của hướng nhà.

Goi y cai thien the nha loi phong thuy (phan 1) hinh anh 2
 
Ví dụ : Người nam tuổi Canh tuất, sinh năm 1970 (quái Chấn) làm nhà hướng Tây (quái Đoài) là hướng Tuyệt mạng. Nếu muốn khắc phục chúng ta có thể lấy hướng bếp Thiên y – tức là quay bếp về hướng Bắc (Quái Khảm) để hóa giải yếu tố bất lợi do hướng Tuyệt mạng gây ra.
 
Đặt ban thờ và giường ngủ tại phương vị tốt cũng góp phần hóa giải những bất lợi do hướng nhà xấu đem lại.  
(Còn tiếp)

 
Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 2) Gợi ý cải thiện thế nhà lỗi phong thủy (phần 3)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gợi ý cải thiện lỗi phong thủy nhà ở

Tháng 7 âm lịch - tháng của ân tình

Tháng 7 âm lịch thường được nhiều người gắn cho là tháng tâm linh nhưng nếu tinh ý một chút sẽ nhận ra, đối với người phương Đông, tháng 7 là tháng của ân tình
Tháng 7 âm lịch - tháng của ân tình

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tháng 7 âm lịch thường được nhiều người gắn cho là tháng cô hồn, tháng quỷ lễ, tháng tâm linh và đặt ra muôn điều cấm kị. Nhưng nếu tinh ý một chút sẽ nhận ra, đối với người phương Đông, tháng 7 là tháng của ân tình.


Thang 7 am lich - thang cua an tinh hinh anh 2
 
Thật vậy, tháng 7 âm lịch không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà có rất nhiều dịp lễ tâm linh: Rằm tháng 7 Vu Lan báo hiếu, Rằm tháng 7 xá tội vong nhân, Thất Tịch 7/7 lễ tình nhân phương Đông Ngưu Lang – Chức Nữ. Và điểm chung của tất cả những dịp lễ này là đều thấm đẫm ân tình, mang giá trị nhân văn về tình cảm.   Cúng Rằm tháng 7 hay cúng xá tội vong nhân là hoạt động tâm linh thường niên của người phương Đông. Lễ này xuất phát từ lễ cúng Quỷ Diệm Khẩu của Phật giáo, tức là cúng quỷ miệng lửa, quỷ đói. Sau dần dần trở thành lễ cúng cô hồn, cúng xá tội vong nhân, cúng thí thực cho những linh hồn vất vưởng, không nơi nương tựa, không có người thân lang thang chốn dương gian vào tháng 7 âm lịch – thời điểm quỷ môn mở cửa.    Hoạt động này không chỉ để quỷ đói không quấy nhiễu gia đình mình mà còn ẩn chứa tinh thần tương trợ, cứu giúp đầy tình nghĩa, cả khi đó là những người không còn trên nhân thế. Là hoạt động mở rộng tấm lòng, cưu mang sự côi cút, bơ vơ một cách thiện lương nhất.   Tháng 7 âm lịch còn là mùa Vu Lan báo hiếu, mùa của những đứa con hướng về cha mẹ. Cũng là một dịp lễ tâm linh bắt nguồn từ tích Phật Giáo, Vu Lan đề cao tinh thần hiếu đạo và tình cảm gia đình. Trong trăm thiện, thiện nhất là hiếu, trong trăm phúc, phúc nhất là hiếu, tấm lòng cha mẹ với con cái là quanh năm tháng ngày, tháng 7 Vu Lan, mỗi năm một lần, nhất định phải bày tỏ chân tình với đấng sinh thành.
Thang 7 am lich - thang cua an tinh hinh anh 2
 
Tình yêu trên đời có trăm ngàn cách, nhưng người phương Đông chọn tháng 7 mưa ngâu để thể hiện tình yêu vượt ngàn cách trở, tạo thành lễ tình nhân phương Đông 7/7 Thất Tịch. Chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ vượt qua thân phận, vượt qua chia cách mà yêu nhau, mỗi năm một lần gặp gỡ trên cầu Ô Thước bắc qua sông Ngân Hà, khóc nước mắt thành mưa từ ngàn đời nay vẫn không thôi xúc động.
  Tháng 7 âm lịch, xin đừng chỉ thấy là tháng tâm linh, hãy nhớ đến nó như tháng của ân tình, tháng của tình yêu đôi lứa, của tình cảm gia đình và tình thương con người. Một tháng ba lễ khác nhau nhưng lễ nào cũng đong đầy giá trị và mang ý nghĩa sâu sắc.

Các bài viết cùng chủ đề tháng 7, tháng cô hồn:
Tháng cô hồn: Nên sờ ngực, kị nhặt tiền rơi? Nhắc nhở 6 điều tuyệt đối không nên làm trong tháng cô hồn Thực sự có ma quỷ trong tháng 7 âm lịch?
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tháng 7 âm lịch - tháng của ân tình

Phong thủy cho người mệnh Hỏa –

Các yếu tố Phong Thủy tốt và xấu cho người mệnh Hỏa.   Hành Hỏa chỉ mùa hè, lửa và sức nóng. Hỏa có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự cô

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Các yếu tố Phong Thủy tốt và xấu cho người mệnh Hỏa.

1394179401

 

Hành Hỏa chỉ mùa hè, lửa và sức nóng. Hỏa có thể đem lại ánh sáng, hơi ấm và hạnh phúc, hoặc có thể tuôn trào, bùng nổ và sự bạo tàn. Ở khía cạnh tích cực, Hỏa tiêu biểu cho danh dự và sự công bằng. Ở khía cạnh tiêu cực, Hỏa tượng trưng cho tính gây hấn và chiến tranh.

1. Về màu sắc :

Màu hợp nhất cho người mệnh Hỏa là các màu thuộc hành Mộc: xanh lá cây, xanh da trời. Gỗ cháy sinh ngọn lửa, nghĩa là Mộc sinh Hỏa. Chính vì vậy, có màu xanh lá cây, xanh da trời là màu lý tưởng mà người mệnh Hỏa nên dùng. Màu xanh nhẹ nhàng bạn có thể dễ dàng kết hợp hơn đối với ngôi nhà của bạn, đối với trang sức cho bạn như ngọc lục bảo, đá peridot.

Màu sắc kỵ với người mệnh Hỏa: Màu đen, xám, xanh biển sẫm, thuộc hành Thủy, khắc phá hành Hỏa của mệnh cung, xấu. Nếu bạn thích đá quý thì cũng không nên đeo các màu này mà lựa chọn theo màu xanh ra trời, màu xanh lá cây, màu đỏ, màu hồng, màu da cam sẽ tốt cho sức khỏe và đem đến may mắn cho bạn.

2. Nghề nghiệp phù hợp với người mệnh Hỏa

Người mệnh Hỏa cần hành Mộc thì hợp với nơi làm việc phương Đông. Hợp với nghề mộc, nghề, gỗ giấy, kinh doanh các mặt hàng gỗ, giấy, hoa, cây cảnh, vật phẩm tế lễ hoặc hương liệu.

3. Tình Duyên cho người mệnh Hỏa

hoa_mau_don

 

Ba loại Phúc Đăng Hỏa (lửa đèn dầu), Lư Trung Hỏa (lửa bếp lò) và Sơn Đầu Hỏa (lửa trên núi) gặp hành Thủy sẽ khắc kỵ. Khi gặp nước ba thứ lửa trên sẽ bị dập tắt, đúng nghĩa Thủy khắc Hỏa, thuộc diện khắc nhập mất phần phúc.

Còn Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) và Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét) lại cần phối hợp với hành Thủy, bởi có nước thì càng phát huy được tính chất, khí âm (thủy) gặp khí dương (hỏa) sẽ gây ra sấm sét.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy cho người mệnh Hỏa –

Điềm báo và những kiêng kỵ trong dân gian

Đứng trước bất kỳ hiện tượng nào đó của thiên nhiên, thậm chí ngay cả những hiện tượng rất bình thường của cuộc sống, ví như tiếng chó sủa, lửa reo, hay sự hồi hộp, lo âu của con người thì tín ngưỡng dân gian đều cho rằng đó là điềm ứng báo
Điềm báo và những kiêng kỵ trong dân gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm mới 2016 của bạn như thế nào? Hãy xem ngay TỬ VI 2016 mới nhất nhé!

Đứng trước bất kỳ hiện tượng nào đó của thiên nhiên, thậm chí ngay cả những hiện tượng rất bình thường của cuộc sống, ví như tiếng chó sủa, lửa reo, hay sự hồi hộp, lo âu của con người thì tín ngưỡng dân gian đều cho rằng đó là điềm ứng báo

Vậy điềm báo là gì? ý nghĩa của điềm báo cụ thể ra sao? Sự phi lý và nhảm nhí như thế nào?

Xin lược soạn để bạn đọc tham khảo như sau:  

1. Các hiện tượng “bỗng dưng”:

- Vô tình mặc áo trái là điều may mắn, là điềm báo sắp nhận được tin vui hoặc vận may từ trên trời rơi xuống. Nếu vận đang xui xẻo, sẽ xoay chuyển được tình thế.

- Khi tai bị ngứa là điềm báo chủ nhân đang là tâm điểm của sự bàn luận. Nếu ngứa tai trái là đang được mọi người nói tốt, còn ngứa tai phải là đang bị mọi người nói xấu. Khi tai đang bị ngứa, cố đoán xem ai đang nói về mình và đọc lớn tên người đó lên, nếu đoán đúng, cơn ngứa sẽ không còn.

- Khi tay bị ngứa ran: Nếu ngứa tay trái, hoặc tay trái ngứa trước tay phải, tình hình tài chính sẽ rất khả quan. Ngược lại, nếu ngứa tay phải, hoặc tay phải ngứa trước, báo hiệu sắp tới sẽ bị hao tài. Nếu ngứa ở 4 ngón tay trái, đây là dấu hiệu vận may lớn về tiền bạc sắp đến.

- Vào nhà thấy người trong nhà đầu bù tóc rối, áo quần xốc xệch, vẻ mặt tối ám là điềm ưu sầu, suy sụp.

- Trong nhà có người ngủ ngày ngủ đêm liên miên là triệu trứng suy vong, hao tán, không phát đạt.

- Bức tranh trong nhà tự nhiên rơi xuống là điềm xấu. Nếu tranh đó là tranh vẽ hay ảnh chụp người trong nhà thì đó là dấu hiệu bất ổn đối với người đó.

- Trước mặt nhà rêu phong, cây cối rủ kín hoặc vách tường đổ nát là điềm báo gia đạo đến hồi suy vi sầu thảm.

- Cá dưới nước tự nhiên nhảy lên bờ nằm (trừ cá quả vì nó nhảy lên bờ bắt kiến) trước mặt mình là nghịch cảnh, điềm báo sẽ gặp chuyện bất thường.  

- Chim đang khỏe mạnh, bất ngờ bị thương hoặc tai nạn gì đó rơi xuống trước mặt mình (theo câu thành ngữ "chim sa cá nhảy") là điềm gở, cảnh báo sắp có chuyện đau buồn, nghịch cảnh.

- Gà mái nhà nuôi mà tự nhiên cất tiếng gáy là điềm báo gia đạo sắp có xáo động.

- Chim sẻ nhẩy nhót kêu trên mái nhà là điềm báo sắp có tin vui, có người ở xa đến.

- Nếu chuột kéo nhau bỏ chạy ra khỏi nhà nào đó là điềm báo nhà đó sẽ có bất hạnh, tang tóc.

- Tự nhiên có chuột reo trong nhà là có tin vui.

- Chuột xuất hiện trong nhà vào ban trưa là điềm gia chủ bị hao tài.

- Tự nhiên có bầy chim bay đến cắn mổ nhau loạn xạ là điềm có tranh cãi trong nhà.

- Chim, quạ hoặc bồ câu kéo đến làm tổ trong nhà là điềm báo vận may đang đến, đem theo những thành công về sự nghiệp, tài chính như mong đợi.

- Chim bồ câu tới đầy sân và làm tổ trên mái nhà là điềm báo gia đình hưng thịnh giầu sang.

- Chó lạ đến nhà, nhất là ở lại nhà mình là điềm đại cát, báo hiệu gia đình bước vào giai đoạn hưng thịnh.

- Tự nhiên chó cái ở đâu đến đẻ trong nhà là điều may mắn về tài, lộc sẽ đến..

- Tự nhiên con chó trong nhà đứng giữa nhà mà tru lên từng hồi là điềm hung, rất xấu.

- Tự nhiên con chó rên rỉ dưới cửa là điềm báo sắp có sự không may.

 - Tự nhiên con chó đến nằm dài trước cửa ra vào, mặt quay ra trước cửa là dấu hiệu có người trong nhà sẽ rời khỏi gia đình.

- Mèo lạ đến nhà, nhất là đuổi mà không chịu đi là điềm gở, báo hiệu cho sự buồn bực, sa sút. - Dơi làm tổ trong nhà là tốt, báo hiệu sự nghiệp, kinh tế của gia đình ngày càng khấm khá, thịnh vượng.

- Tự nhiên dơi bay đụng vào cửa hay bay vào trong nhà là điềm xấu.

- Tự nhiên mèo dùng chân chùi mặt và cào móng lên tai 3 lần, là dấu hiệu có khách quý đến nhà.

- Khi lái xe gặp phải con mèo đen chạy ngang qua đường hoặc mới bước ra cửa ngõ mà gặp mèo đen là điềm “xui xẻo”.

 - Gặp rắn: Cho dù gặp rắn ở đâu, trong nhà hay ngoài đường, rắn luôn là điềm báo sẽ có một việc hoặc một người quan trọng sắp xuất hiện trong cuộc đời.

- Bướm bay vào nhà là điềm báo sắp đón vị khách quan trọng. Nếu bướm có màu sáng, người khách sẽ mang đến những tin tức tốt, liên quan đến chuyện tình cảm, hạnh phúc. Nếu bướm màu tối, nhất là màu đen, điềm báo sẽ nhận được những tin tức tốt lành liên quan đến công việc, sự nghiệp.

- Cào cào nhảy vào nhà là điềm báo sắp đón tiếp một vị khách cao quý.

- Bọ rùa vào nhà là dấu hiệu sắp có người đến thăm..

- Cóc vào nhà là điềm may mắn về tiền tài sắp đến.  

2. Thịt giật

Người xưa cho rằng: Tự nhiên một vài nơi trong người, nhất là các bắp thịt giật nổi phồng lên, hoặc máy động. Đó là điềm ứng báo, được gọi là thịt giật hay còn gọi là thịt máy. Căn cứ vào thời gian sảy ra hiện tượng thịt giật mà luận đoán ý nghĩa của may, rủi.

Cổ nhân thường lấy can chi, âm dương ngũ hành làm cơ sở để lý giải mọi vấn đề. Cách tính giờ của văn hóa dân gian cũng không ngoài quy tắc: Căn cứ vào can chi - âm dương - ngũ hành làm chuẩn. Mỗi ngày được cổ nhân quy định gồm 12 giờ, mỗi giờ gồm 120 phút (theo giờ đồng hồ hiện hành), có tên gọi và thứ tự theo thập nhị chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Văn hóa dân gian quy định bắt đầu của một giờ từ khoảng thời gian nào, kết thúc vào thời gian nào cũng không đồng nhất và khá rối rắm, phức tạp, nhất là khi đem cách tính giờ của Tử vi so với cách tính giờ của Tử Bình, hoặc cách tính giờ phổ thông của dân gian. Như vậy, rất khó khăn cho những ai khi tiếp cận, muốn tìm hiểu về văn hóa dân gian, nhất là văn hóa tín ngưỡng, vì thế, theo thiển nghĩ của người viết, khoảng cách giữa giờ này với giờ kia tạm quy ước là 01 phút, theo cách tính giờ phổ thông của tín ngưỡng dân gian.

Ví dụ: Giờ Tý được tính thời gian bắt đầu từ 23 giờ đến  01 giờ kém 01 phút, giờ Sửu được tình từ 01 giờ đến 03 giờ kém 01 phút ... các giờ khác cũng tính như vậy.

Cụ thể, người xưa luận giải:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Có tin chia gia tài hoặc bạn sắp được hưởng lộc bất ngờ.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Con cái từ xa mang lại vui vẻ cho gia đình của bạn.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Chuyện nhỏ hóa ra chuyện lớn. Nên nhường nhịn, ôn hòa để tránh chuyện kiện tụng có thể sảy ra cho bạn.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có người mang quà đến tặng để nhờ vả bạn một công việc gì đấy.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Đề phòng tai nạn xảy ra bất ngờ với con cái trong nhà. Tốt nhất không nên cho con cái ra ngoài đường và nên để mắt thường xuyên tới chúng.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Có khách lạ tìm đến nhà bạn để bàn bạc, trao đổi công việc, và công việc đó sẽ có lợi cho bạn.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có người đang cố tình tìm cách dèm pha, nói xấu bạn. Tốt hơn hết, bạn nên đề phòng sự phản trắc của bạn bè, người quen ngay từ bây giờ.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Là điềm báo có của đến bất ngờ.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có tài lộc đến với bạn nhưng cũng có chuyện lôi thôi nhỏ kèm theo.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Bạn sắp có chuyện hao tài, và mang nhiều tai tiếng. - Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Con cái ở xa về, gia đình vui vẻ.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Công việc của bạn đã có những dấu hiệu chuyển biến tốt đẹp, tài lợi cũng sắp đến với bạn khá nhiều.  

3. Hồi hộp

Tự nhiên người hồi hộp, như lo sợ một chuyện gì đó, hoặc tim đập mạnh, tâm trạng lâng lâng khó tả.... Người xưa cho rằng đó là điềm báo, căn cứ vào thời gian sảy ra để luận giải, cũng có điềm lành, điềm dữ. 

Cụ thể, cổ nhân cho rằng:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Có người đang chờ mong một cuộc ân tình với bạn.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Đây là điềm báo tai họa từ đâu sẽ bất ngờ ập đến với bạn. Vì thế bạn nên cẩn trọng đề phòng chuyện thị phi, đàm tiếu, bị vu oan, làm danh dự của bản thân bị tổn thương, bôi nhọ.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Điềm báo có lộc về ăn uống. Tuy nhiên, bạn cũng cẩn thận kẻo gặp lôi thôi từ chuyện ăn uống.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có khách sang trọng tìm đến, đem lại tài lộc dồi dào cho bạn.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Điềm báo có tin vui về tài lộc đến với bạn, tuy nhiên, bạn nên tu tâm tích đức để giữ được tài lộc.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Bạn đang có chuyện tâm tình, thầm kín và chuyện tình cảm đó dễ có cơ thành tựu.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có chuyện hồi hộp ngẫu nhiên, tiền của vào nhà thật bất ngờ. Bạn cần phải tích đức để tránh được tai họa có thể đến sau niềm vui  may mắn được tài lộc.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Chuyện tình duyên bất ngờ đến với bạn. Chuyện tình đầy thơ mộng nhưng kết quả sẽ không như bạn mong đợi.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có tin vui từ xa về, bạn rất vui vẻ với tin vui đó.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Là điềm báo người thân của bạn sẽ đến thăm hỏi và cậy nhờ sự giúp đỡ của bạn vào ngày sắp tới.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Có người rủ rê bạn hùn vốn làm ăn. Bạn đừng chối từ lời đề nghị của họ vì  sự hợp tác đó sẽ đem lại nhiều tài lộc cho bạn.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Bạn nên cẩn thận đề phòng tai nạn có thể sảy ra.

>>> Năm mới 2016 AI xông đất nhà bạn? Sẽ mang lại nhiều may mắn tài lộc?

Xem ngay XEM TUỔI XÔNG ĐẤT 2016 mới nhất>>>

 4. Ù tai

Tự dưng không động chạm tới tai, không để nước lọt vào tai mà có hiện tượng ù tai như khi ta tắm. Đó là điềm ù tai. Người xưa cũng căn cứ vào thời gian sảy ra để lý giải cho thời gian tới sẽ như thế nào. Tuy nhiên, ở điềm ù tai này, cổ nhân phân biệt giữa tai trái, tai phải có ý nghĩa khác nhau chứ không giống nhau.

Cụ thể, người xưa cho rằng:

Tai trái:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Có người khác phái đang mong nhớ, tương tư tới bạn. Họ đang hy vọng sẽ xây dựng được mối ân tình sâu nặng với bạn.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có việc hao tài sắp đến với bạn nhưng sự hao tài đó không đáng kể.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Là điềm báo có kẻ gian đang rình rập quanh bạn. Nên cẩn trọng đề phòng chuyện mất cắp sẽ đến với bạn.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có chuyện vui xen lẫn chuyện buồn. Bạn cần cẩn thận giữ mình là tốt nhất.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Bạn sắp có việc phải đi xa. Tốt nhất, bạn nên cẩn thận trong lời  ăn tiếng nói.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Tai biến nặng nề, đề phòng cẩn thận khi đi đường.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có niềm vui của sự xum họp sắp đến gần bạn.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Có lộc về chuyện ăn uống, tuy nhiên, bạn nên đề phòng điều lôi thôi sẽ đến sau khi bạn được tận hưởng lộc ăn uống đó.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có người rủ bạn đi du lịch. Bạn nên nhận lời vì chuyến du lịch này sẽ đem lại cho bạn nhiều niềm vui.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Đề phòng mất cắp đồ đạc, tài sản trong nhà.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Là điềm báo bạn có lộc về ăn uống.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Sẽ nhận được tin vui trong vài ngày tới và may mắn sẽ đến với bạn khá nhiều.  

Tai phải:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Đây là điềm xấu, báo việc bạn sắp phải tốn tiền vì chuyện không đâu mà còn bị tai tiếng, cười chê.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có chuyện kiện tụng, lành ít dữ nhiều. Bạn nên cẩn thận.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Là điềm báo có chuyện cãi vã trong gia đình, họ hàng. Bạn nên nhường nhịn kẻo sẽ đổ vỡ hạnh phúc gia đình, hoặc mất đi tình cảm họ hàng, thân thuộc.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có khách quý sắp đến thăm nhà, đem lại cơ hội tốt cho bạn về công việc, tình cảm, hoặc chuyện đại hỷ của bạn đang đến gần.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Có người cầu cạnh, nhờ vả bạn giúp đỡ một việc quan trọng với họ mà bạn có khả năng, điều kiện để giúp đỡ.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Tài lộc đến với bạn thật bất ngờ, niềm vui đầy nhà.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có người thân trong quyến tộc đến thăm bạn ngày một ngày hai.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Là điềm báo có tin vui từ xa đang đến.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Người thân của bạn đi xa từ lâu, nay bỗng trở về xum họp.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): CLà điềm báo cát tường, báo sẽ có người tìm đến bạn, mời bạn hợp tác làm ăn với họ. Bạn hãy nhận lời đề nghị của họ vì sự hợp tác này sẽ đem lại cho bạn nhiều tài lộc.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ):  Bạn sẽ được lộc về tiền của bất ngờ.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Đây cũng là điềm lành. Bạn sắp có lộc về ăn uống.  

 5. Mặt nóng

Tự nhiên, không phải vì lý do bệnh tật, hoặc đứng bếp nấu nướng,.. mà mặt nóng bừng lên, cảm giác ngứa ngáy khó chịu. Hiện tượng đó được người xưa cho đấy là điềm báo. Lối báo ứng tự nhiên này cũng có điềm tốt, điềm xấu.

Cụ thể:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Đây là điềm lành, báo hiệu công việc đang trù tính của bạn sắp được thành tựu, tài lộc sắp về với bạn.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có chuyện bực mình đến với bạn, nhất là chuyện gia đạo của bạn sẽ gặp trắc trỏ, không được thuận hòa.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Có người sắp đến rủ rê bạn chuyện hợp tác làm ăn.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có người sắp mời bạn tham dự tiệc. - Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Có người từ xa mang đến tin vui cho bạn.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Người tình cũ của bạn đang tưởng nhớ tới bạn, mong sớm gặp mặt để nhờ sự giúp đỡ của bạn...

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có chuyện xích mích trong gia đình, nhất là anh em, họ hàng. Bạn nên nhường nhịn kẻo chuyện nhỏ mà hóa ra to chuyện.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Bạn phải đề phòng chuyện cãi vã, nên đề phòng để tránh từ chuyện nhỏ hóa thành chuyện to.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có người giới thiệu khách quý đến kết hợp làm ăn với bạn, hoặc bạn được nhờ vả sự giúp đỡ của họ.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có người để ý, dòm ngó đến bạn. Nên cẩn thận vì sự để ý, dòm ngó này không có thiện ý với bạn. Tốt nhất, bạn nên đề phòng, tránh xa con người đó.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Đây là điềm báo tài lợi dồi dào sắp đến, và hơn nữa may mắn đó đến với bạn cũng không hề nhỏ.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Có kẻ đang vu cáo, dèm pha, tìm cách để hãm hại bạn. Bạn nên cẩn thận kẻo bị oan sai, dẫn đến chuyện kiện tụng chốn công đường.  

6. Máy mắt

Tự dưng bị máy mắt, không thể nào khống chế được, thì đó là điềm máy mắt. Về ứng nghiệm này thì mỗi người có một cách luận giải, không tập trung một ý. Có người thì cho rằng máy mắt bên trái chỉ ứng nghiệm cho con trai, máy mắt bên phải chỉ ứng nghiệm cho con gái; có người lại cho rằng máy mắt bên trái là tin dữ, máy mắt bên phải là tin lành, nhưng lành dữ thế nào thì không thấy có lời giải thích.

Người viết căn cứ vào nội dung được trình bày trong nhiều cuốn sách được xuất bản từ trước năm 1975 và sưu tầm trong dân gian để tổng hợp.

Bất luận là nam hay nữ, khi có triệu chứng máy mắt, đều có nghĩa như sau:  

Mắt  trái:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Có bạn bè ở xa về. Bạn sẽ có nhiều niềm vui về tình cảm.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Bạn sẽ có chuyện buồn bực do người thân đem lại. Nên giữ thái độ ôn hoà để giữ được tình cảm.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Có người sẽ mang đến tài lộc cho bạn.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Đây là điềm báo có người đang âm thầm giúp đỡ bạn. Trong một vài ngày tới, bạn sẽ nhận được tin vui.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Bạn sắp có chuyện bực mình do kẻ khác đến quấy rầy.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Bạn vui vì sắp có lộc về ăn uống. Tuy nhiên, bạn cũng cần cẩn trọng kẻo sẽ gặp chuyện phiền phức không đáng có.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có người sẽ đem tin vui đến cho bạn.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Có tin vui nho nhỏ sắp đến với bạn.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Bạn sắp gặp chuyện bất ngờ về tình cảm, tuy nhiên, niềm vui đó cũng không kéo dài.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có khách quý đến nhà, đem lại niềm vui lớn cho bạn.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Việc suy tính trong lòng bạn từ lâu sắp được thành tựu.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Đây là điềm báo sắp có khách quý chuẩn bị đến thăm và đem đến cho bạn những niềm vui về tài lộc.  

Mắt phải:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Điềm báo bạn sắp có lộc về ăn uống.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có chuyện nhắc nhở từ người thân với bạn làm bạn bực mình, khó xử..

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Điềm báo sắp có tin tốt lành đến.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Điềm báo thời gian tới tài lộc sẽ bất ngờ đến.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Bạn phải thật cẩn thận lời ăn tiếng nói, đề phòng chuỵên cãi vã mà phải đưa nhau tới chốn công đường.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Có chuyện xô xát với bạn do có kẻ cố tình gây rối, chọc phá.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Đề phòng tai nạn hoặc mất cắp sảy ra với bạn.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Bạn sắp bị hao tài nhưng sự thiệt hại đó không đáng kể.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có người khác phái đang tơ tưởng tới bạn.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có người bà con ở xa đến thăm gia đình bạn.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Có người rủ rê bạn đi du lịch. Bạn nên nhận lời đề nghị đó, vì chuyến du lịch đó sẽ đem lại nhiều niềm vui cho bạn.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Điềm báo bạn sắp có chuyện rắc rối do lời ăn tiếng nói gây ra. Nên cẩn thận, giữ gìn lời ăn tiếng nói ngay từ bây giờ, kẻo danh dự của bạn bị ảnh hưởng xấu.  

7. Nhảy mũi

Không bị cảm sốt mà bỗng dưng bị nhảy mũi liên tiếp một hay nhiều cái, hoặc nhiều lượt thì đó gọi là điềm nhảy mũi. Thông thường thì nhảy mũi một hoặc hai cái đều được coi là điềm tốt, điềm lành. Tuy nhiên, nhảy mũi không phải lúc nào cũng một hoặc hai cái, mà có khi nhảy mũi liền vài ba bốn cái, do vậy, tín ngưỡng dân gian căn cứ vào thời gian sảy ra hiện tượng nhảy mũi để suy luận việc cát hung.

Cụ thể:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Điềm báo bạn có lộc về ăn uống sắp đến.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có người khác phái rủ bạn làm một việc có lợi cho mình nhưng công việc đó lại gây thiệt hại cho người khác.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Điềm báo bạn sắp có chuyện hẹn hò.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có người sắp mang quà đến tặng cho bạn.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Điềm báo bạn sắp có lộc về ăn uống

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Đây là điềm lành, báo bạn có quý nhân giúp đỡ, đáp ứng sự mong muốn trong lòng bạn từ lâu.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có thân nhân từ xa về, đem đến niềm vui về tài lợi cho bạn.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Có niềm vui nho nhỏ về tài lộc cho bạn.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Đây là điềm xấu, báo sẽ có tin bất lợi đến với bạn, nhưng bạn hãy bình tĩnh để tìm cách giải quyết, đừng hốt hoảng, lo sợ mà làm rối tung rối mù mọi chuyện.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có người khác phái tìm đến nhờ sự giúp đỡ của bạn. Tất nhiên, bạn sẽ được lợi cả tiền bạc lẫn tình cảm trong chuyện này.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Có người khác phái đang tương tư bạn, người đó sẽ viết thư hoặc điện thoại cho bạn trong vài ngày tới.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Điềm báo có chuyện rắc rối về tiền bạc nhưng bạn bình tĩnh cân nhắc, sẽ giải quyết được.  

8. Lửa cười

Lửa trong bếp lò không có gió, không cao ngọn mà tự dưng phì phì như có người thổi hoặc tiếng lách tách như tiếng reo. Đó là điềm lửa báo, được gọi là lửa cười. Tín ngưỡng dân gian cũng căn cứ vào thời gian sảy ra điềm lửa cười để luận giải về sự may, rủi trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Cụ thể:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Đây là điềm báo không tốt cho bạn. Vợ (nếu là nam giới) hoặc chồng (nếu là nữ giới) của bạn có chuyện ngoại tình.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Con cái trong nhà có thể bỏ nhà theo người yêu.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Có người đang muốn đến để cầu thân với bạn.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ):  Bạn sắp có lộc về tiền tài và tình cảm.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Điềm báo bạn có chuyện buồn phiền sắp đến. Nên cố gắng thu xếp sao cho ổn thỏa để được yên thân.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Điềm báo có người mời bạn đi dự tiệc.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có kiện tụng đến với bạn, nên ôn hòa để giải quyết mới mong tránh được những phiền nhiễu sau này.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Có người nâng đỡ, việc trù liệu của bạn bấy lâu sẽ có cơ hội thành tựu.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Đây là điềm báo gặp lộc về tiền của bất ngờ, tuy nhiên, bạn nên thật cẩn thận và chú ý khi đi ngoài đường.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có chuyện tai biến trong nhà bạn, đề phòng việc tang khó sắp sảy ra.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Đây là điềm báo người tình cũ sẽ tìm đến, tình yêu thơ mộng lại bắt đầu, đem lại niềm vui  cho bạn.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Bệnh tật bất ngờ gặp phải, bạn cần chạy chữa gấp.  

9. Chó sủa

Là hiện tượng chó nuôi tự nhiên chõ mõm vào người mà sủa, hoặc tru dài. Tín ngưỡng dân gian cho rằng: Chó tru hoặc sủa cũng có điềm xấu điềm tốt, nhưng nhìn chung, điềm tốt không nhiều nên điềm chó tru, hoặc chó sủa thường đem lại cho con người sự bực dọc, lo lắng.

Người xưa cũng căn cứ vào thời gian sảy ra điềm chó tru (hoặc chó sủa) để luận đoán về may, rủi trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Cụ thể:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Điềm báo vợ hoặc chồng có tư tình bên ngoài, hôn nhân của bạn đang có nguy cơ bị đổ vỡ..

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Nguy hiểm sắp đến với bạn, nên cẩn thận giữ mình kẻo bị hàm oan, tai bay vạ gió, phải chịu oan ức, tù đày.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Gặp lại người yêu cũ, tình xưa được nối lại. Bạn cần phải đề phòng chuyện ghen tuông sẽ dẫn đến sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Tiền bạc của bạn đã bị mất lâu ngày, nhưng khả năng bạn sẽ tìm lại được.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Có tin vui về tiền bạc do công việc làm ăn sắp đến với bạn.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Có người thân trong gia đình đến báo hung tin cho bạn.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Có người đến mời bạn đi ăn uống.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Tai nạn có thể sảy ra với vợ hoặc chồng của bạn, vì thế nên đề phòng, nhất là việc đi đứng.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Điềm báo sẽ có xích mích nhỏ với người hàng xóm hoặc đồng nghiệp lân cận, từ chuyện rất nhỏ mà thành ra to chuyện. Bạn nên giữ thái độ ôn hòa để tránh chuyện lôi thôi.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Đây là điềm báo sẽ có người nâng đỡ bạn vào một địa vị mới, tốt đẹp hơn cho công việc hiện tại rất nhiều.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Có kẻ rắp tâm hãm hại bạn, nên cẩn thận, đề phòng kẻo sẽ bị thân tàn danh bại.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Có chuyện kiện tụng đến với bạn, đã tốn tiền còn bị tai tiếng.  

10. Quạ kêu

Quạ bay ngang qua nhà và kêu lên những tiếng dài không dứt, đó là chuyện bình thường. Vậy mà không ít người lấy đó làm căn cứ để phán đoán sự may rủi cho thời gian tới. Người ta cho rằng đó cũng là một điềm báo của thiên nhiên. Căn cứ vào thời gian sảy ra điềm quạ kêu, người xưa cũng đưa ra những lời luận đoán về sự may, rủi.

Cụ thể:

- Giờ Tý (Từ 23 giờ đến 01 giờ): Đây là điềm báo tốt lành về tình cảm, báo hiệu người thân của bạn ở xa sắp về xum họp cùng gia đình.

- Giờ Sửu (Từ 1 giờ đến 3 giờ): Có người sắp mang tin vui đến cho bạn.

- Giờ Dần (Từ 3 giờ đến 5 giờ): Có chuyện kiện tụng nhưng không nguy hại cho bạn. Dù sao, bạn vẫn nên cẩn thận, đề phòng những rắc rối không nên có.

- Giờ Mão (Từ 5 giờ đến 7 giờ): Có người đến mời bạn đi dự tiệc, và buổi tiệc ấy sẽ đem lại cho bạn khá nhiều tài lộc nếu bạn biết đón thời cơ.

- Giờ Thìn (Từ 7 giờ đến 9 giờ): Đây là điềm báo thời gian tới, tài lợi vào tới tấp. Bạn nên lo làm việc thiện để giữ được tài lộc dài lâu.

- Giờ Tỵ (Từ 9 giờ đến 11 giờ): Điềm báo có may mắn đến với bạn.

- Giờ Ngọ (Từ 11 giờ đến 13 giờ): Đề phòng chuyện sức khỏe, bệnh tật không tốt đến với bạn.

- Giờ Mùi (Từ 13 giờ đến 15 giờ): Bạn đề phòng chuyện mất trộm, hoặc thất thoát tài sản có thể sảy ra.

- Giờ Thân (Từ 15 giờ đến 17 giờ): Có người rủ bạn làm ăn. Bạn đừng thoái thác lời đề nghị của họ mà hãy nhận lời, vì chuyện hợp tác này sẽ đem lại lợi lộc khá lớn cho bạn sau này.

- Giờ Dậu (Từ 17 giờ đến 19 giờ): Có chuyện lo âu, phiền muộn đang đến với bạn.

- Giờ Tuất (Từ 19 giờ đến 21 giờ): Tài lợi dồi dào, may mắn không nhỏ đang đến với bạn.

- Giờ Hợi (Từ 21 giờ đến 23 giờ): Bạn sắp gặp phải chuyện khẩu thiệt ngoài đường. Tốt nhất, bạn nên cẩn thận, để tránh điều đó sảy ra.

>> Đã có VẬN HẠN 2016 mới nhất. Hãy xem ngay, trong năm 2016 vận mệnh bạn như thế nào nhé! >>

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Điềm báo và những kiêng kỵ trong dân gian

Xem tướng dáng đi –

Dáng đi của bạn nói lên được cuộc sống của bạn vinh nhục sung sướng ra sao. Các bạn hãy cùng coi bói qua tướng đi với mình nhé: 1. Coi bói qua tướng đi hình chữ (V) hai đầu bàn chân bét ra, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc
Xem tướng dáng đi –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng dáng đi –

Vật phẩm phong thủy cầu con cái –

Rất nhiều gia đình hiện nay đang hiếm con, muộn con và đã sử dụng nhiều cách chưa được. Vậy thì hãy cầu con bằng vật phẩm phong thủy, Điều này sẽ mang lại may mắn cho bạn về lộc con cái. Vật phẩm cầu con sẽ mang lại cho bạn những đứa con như bạn hằng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều gia đình hiện nay đang hiếm con, muộn con và đã sử dụng nhiều cách chưa được. Vậy thì hãy cầu con bằng vật phẩm phong thủy, Điều này sẽ mang lại may mắn cho bạn về lộc con cái. Vật phẩm cầu con sẽ mang lại cho bạn những đứa con như bạn hằng mong ước.

Nội dung

  • 1 Vật phẩm phong thủy cầu con
    • 1.1 Tranh Liên sinh quý tử
    • 1.2 Tranh giàn bầu
    • 1.3 Thạch lựu
    • 1.4 Tranh Cát khánh hữu dư
    • 1.5 Tranh Kỳ Lân tặng con
    • 1.6 Giả ngọc sơn
    • 1.7 Lồng đèn đỏ

Vật phẩm phong thủy cầu con

Tranh Liên sinh quý tử

Với những người sốt ruột muốn có con ngay, hãy sử dụng miếng ngọc bội cổ mang tên “liên sinh quý tử”. Hình dạng của miếng ngọc bội này là 1 cậu bé ngồi trên lá sen hoặc tay cầm bông sen (loại này còn có tên là “trì hà đồng tử”) “liên” là hoa sen, lá sen nhưng lại đồng âm với chữ “liên” là liền ngay, nên tấm ngọc bội mang ý nghĩa cầu chúc có con sớm.

ktt_13.11_quytu1_kienthuc_gcjj

Tranh giàn bầu

Trong dân gian, hình tượng một gia đình đông con nhiều cháu thường được ví với “bầu bí đầy đàn”. Vì vậy, hình ảnh giàn bầu sum xuê cũng tượng trưng cho sự đông đúc, đầy đủ con cháu. Giàn bầu bí dây leo chằng chịt, quả to quả bé treo lủng lẳng là biểu tượng một gia đình sum họp, con đàn cháu đống. Người ta khắc họa hình giàn bầu trĩu quả trên đá ngọc làm bùa cho những đôi vợ chồng hiếm con, nếu vẽ thành tranh thì treo trong nhà, với ý cầu chúc đẻ nhiều con.

ktt_13.11_quytu2_kienthuc_dihv

Thạch lựu

Để có nhiều con, có thể sử dụng viên bạch ngọc tạc hình quả lựu. Hình quả lựu ở đây được bổ làm đôi, 1 nửa lộ ra rất nhiều hạt, mang ý nghĩa “lựu khai bách tử” (tức là lựu nở nhiều con). Việc mang tặng bức tranh “lựu khai bách tử” cho đôi vợ chồng mới cưới, được coi là lời cầu chúc tốt đẹp.

ktt_13.11_quytu3_kienthuc_garb

Tranh Cát khánh hữu dư

Treo tranh có hình 2 đứa trẻ tay cầm khánh, tay cầm cá. Khánh với ý nghĩa là “cát khánh” (điều vui mừng, tốt lành), cá biểu tượng là “hữu dư” (có dư).

ktt_13.11_quytu4_kienthuc_nfdb

Tranh Kỳ Lân tặng con

Tương truyền, Khổng Tử là báu vật do Kỳ Lân ban tặng. Sau khi thân mẫu của Khổng Tử nằm mơ thấy Kỳ Lân tới tặng con thì một thời gian sau đã sinh nở được Khổng Tử. Vì vậy, sau này để cầu con dân gian thường sử dụng bức tranh hay pho tượng Kỳ Lân để mong cầu có con. Nên kết hợp với Bát trạch để bày tại phương vị con cái trong Bát Trạch Đồ.

ktt_13.11_quytu5_kienthuc_aadv

Giả ngọc sơn

“Núi quản nhân đinh, sông quản tài lộc”. Đó chính là quan niệm trong phong thuỷ. Vì vậy, đặt đúng núi vào phương vị cần thiết để tăng cường nhân đinh cho những gia đình hiếm muộn con cái. Ngoài ra, Ngọc Sơn (núi bằng đá quý) còn có tác dụng làm “toạ sơn” cho nhưng nơi có địa thế suy yếu phía sau lưng. Bạn có thể bày Ngọc Sơn phía sau lưng để mong cầu nhận được sự hỗ trợ của cấp trên và bạn bè đồng nghiệp.

ktt_13.11_quytu6_kienthuc_shnh

Lồng đèn đỏ

Trường phái Phong thủy biểu tượng cho rằng, có rất nhiều biểu tượng đem lại vận may về sự sinh sản nhưng biểu tượng phổ biến nhất là lồng đèn đỏ. Ánh sáng từ lồng đèn đỏ phát ra được cho là ánh sáng tốt lành, mang đến nhiều niềm vui lớn cho gia đình. Trên lồng đèn thường vẽ chữ hoặc trang trí các biểu tượng tốt đẹp. Lồng đèn được treo gần giường tân hôn để tăng cường vận may về khả năng thụ thai.

ktt_13.11_quytu7_kienthuc_prns

Đôi khi người ta treo lồng đèn ở hai bên giường – cho cô dâu và chú rể. Hai đèn này được thắp cùng một lúc, nếu chúng cháy cùng tốc độ và tắt cùng lúc thì đó là dấu hiệu may mắn của một cuộc hôn nhân hạnh phúc và bền vững. Những lồng đèn như thế thường có vẽ chữ Song hỷ sẽ thu hút năng lượng dương, thuận lợi cho việc thụ thai và sinh con trai. Khi người vợ có thai, đèn lồng vẫn được thắp sáng mỗi đêm. Lồng đèn đỏ và vàng là biểu tượng được đặt trong phòng tân hôn để kích hoạt vận may về đường con cái.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vật phẩm phong thủy cầu con cái –

Lý giải: Mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang

Lí giải phong thủy mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang: Đứng về góc độ phong thủy, cùng lí giải nguyên do vấn đề này.
Lý giải: Mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không ngẫu nhiên dân gian lại có câu nói “Mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang”. Đứng về góc độ phong thủy, cùng lí giải nguyên do vấn đề này.


Điển tích Cẩu nhi “Chó đến nhà thì sang”

 
"Mèo vào nhà thì khó chó đến nhà thì sang" được coi là một quan niệm dân gian, một sáng tạo của nhân dân bắt nguồn từ những câu chuyện về con chó liên quan đến cả một triều đại của Lý Công Uẩn - Vua Lý Thái Tổ. Từ chuyện năm Lý Công Uẩn sinh ra năm Giáp Tuất (974), ở quê ông có con chó đẻ con sắc trắng, đốm lông vàng thành hình chữ "Vương" trên lưng điềm báo năm Tuất sinh người làm Vua và Lý Công Uẩn sau này ngôi rồng... Đây được gọi là điển tích “Cẩu nhi” (chó sinh con báo hiệu điềm lành).

Li giai phong thuy Meo vao nha thi kho, cho den nha thi sang hinh anh
 
Căn cứ vào tập tính con vật: Chó trung thành, bảo vệ chủ. Mèo lật lọng, vô ơn
 
Chó và mèo nằm trong 12 con giáp, đều là vật nuôi hoang dã, con người bắt và thuần dưỡng để phục vụ đời sống của con người. Trong quá trình nuôi người ta phát hiện chó rất trung thành với chủ, chủ nhà no, đói đều không bỏ đi, bảo vệ chủ đến nơi đến chốn, thậm chí khi chủ chết, chó còn nhịn đói canh mộ (khuyển mã chí tình)... Hơn nữa, con chó có một trí nhớ rất tốt, dù đi đâu xa lâu ngày vẫn nhớ nhà (lạc nhà theo chó, lạc ngõ theo trâu)... nên người ta mới dạy dỗ chó trở thành chó nghiệp vụ, chó dẫn đường... Đặc biệt, khi chó đến nhà là nhà có kẻ canh nhà, giữ của, biểu hiện của thần giữ của nên sẽ giàu có.    Trái ngược với chó, mèo khi có ăn thì ở lại, không có ăn bỏ đi, sẵn sàng bỏ đi khi thích (mèo già hóa cáo). Chính việc bỏ đi của mèo, thể hiện sự mất của và người ta quan niệm mèo đến là mang điều xui, sự nghèo hèn, thất thoát…Do đó mà Mèo vào nhà thì khó chó đến nhà thì sang.

Li giai phong thuy Meo vao nha thi kho, cho den nha thi sang hinh anh 2
 
Trường khí phong thủy
 
Theo lí giải khoa học, người và động vật khi còn sống đều có một vòng trường sinh học - tổ hợp các hạt điện sinh học âm bao quanh cơ thể. Sóng sinh học và dòng điện sinh học lan truyền trong không gian bao la. Con người và vật đều có khả năng phát và thu sóng sinh học. Sóng sinh học có thể tương tác với nhau hoặc giao thoa. Nhờ có vòng trường sinh học và sóng điện sinh học phát và thu mà con người và động vật có được cái gọi là linh cảm, giao cảm.    Chó và mèo đều là loài động vật có mối linh cảm lớn, đặc biệt là chó có thể biết trước được điều xấu xảy ra với chủ mình. Có không ít trường hợp, khi chủ đi ra ngoài, chó linh cảm thấy điều xấu đã cắn gấu quần giữ chủ lại, hoặc cứu chủ thoát khỏi hiểm nguy. Hơn nữa, chó còn linh cảm thấy nguồn sóng lạ, sóng xấu để xua đuổi, cảnh báo như “khắc khoải như chó cắn ma”...   Giữa người và chó cũng có sự xung đột giữa hai nguồn sóng sinh học nên mới có chuyện, có người đi qua chó không cắn nhưng có người chó cắn rất dữ cho dù chủ đã canh giữ... Ngược lại, khả năng linh cảm của mèo lại hay báo những tin xấu như thấy người chết là mèo tìm đến, vực dậy người chết... Chính những điều này cũng khiến người ta quan niệm khác nhau về điềm lành và dữ ở chó và mèo.   Bên cạnh đó, khi quan sát người ta nhận thấy, giống mèo rất thích các khu vực có bức xạ hay trường khí xấu. Ngược lại, con chó lại hay lui tới các khu vực không có bức xạ, trường khí tốt. Bởi vậy, những nơi mèo nằm thường là nơi có trường khí xấu, chó hay nằm thì ngược lại.   Do đó, chó hay mèo đến nhà, nguyên nhân là do sự quyến rũ của trường khí, bức xạ nào đó mới phát sinh trong khu vực mình ở. Trường khí tốt, thì bỗng nhiên có con chó lang thang đi qua thấy hấp dẫn quá xông vào ở. Còn là trường khí xấu thì một con mèo lạc đi ngang thích quá cũng ghé vào trú chân. Đến một ngày tốt hoặc xấu trời nào đó, trường khí - bức xạ đó phát huy tác dụng hoặc tác hại, thế là có chuyện xảy ra.
Theo Kiến thức          
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lý giải: Mèo vào nhà thì khó, chó đến nhà thì sang

Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu A

Một số người tuổi Hợi thuộc nhóm máu A thường lạnh lùng và khó gần. Song thực tế, họ không phải là những người như vậy. Nếu quan sát một chút, bạn sẽ thấy họ
Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu A

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Một số người tuổi Hợi thuộc nhóm máu A thường lạnh lùng và khó gần. Song thực tế, họ không phải là những người như vậy. Nếu quan sát một chút, bạn sẽ thấy họ cũng rất hay cười. Đây cũng chính là đặc điểm nổi bật nhất ở họ chiếm được thiện cảm của mọi người xung quanh.

Người tuổi Hợi cũng rất biết cách lấy lòng người mình đang theo đuổi. Họ sẽ chú ý, quan sát thói quen, sở thích của đối phương ngay trong buổi hẹn đầu tiên để tạo ấn tượng bất ngờ cho "người ấy" những lần hẹn sau. Cách thông thường mà họ bày tỏ tình cảm không phải bằng lời nói mà chủ yếu là hành động lãng mạn, bất ngờ.

Những gì họ làm cho đối phương đều xuất phát từ tình yêu trong sáng. Chính điều này giúp họ nhanh chóng chinh phục được đối phương. Đôi khi, những giận hờn có thể xảy ra nhưng cuối cùng tình cảm đôi lứa lại thêm sâu sắc.

Trong cuộc sống gia đình, nữ giới tuổi này sẽ là những người vợ hiền, người mẹ tốt. Họ có thể lo chu toàn mọi việc trong nhà để chồng chuyên tâm với công việc.

Để tạo dựng cuộc sống êm ấm và hạnh phúc như ý muốn nam giới tuổi Hợi thuộc nhóm máu A nên để mắt tới những cô gái dịu dàng nhưng đảm đang, hoạt bát. Với nữ giới, một người đàn ông chín chắn, kiên cường và có óc hài hước sẽ là vị hôn thê lý tưởng.

(Theo 12 con giáp về tình yêu, hôn nhân)

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên của người tuổi Hợi nhóm máu A

Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy, Phong thủy bàn thờ, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy, tu vi Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy, tu vi Phong thủy bàn thờ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy

Cách đặt bàn thờ hợp phong thủy cũng là điều quan trọng trong mỗi gia đình truyền thống ở Việt Nam. Nếu bạn đặt bàn thờ đúng hướng tốt, sẽ thu nạp được sinh khí tốt. Đương nhiên con cháu sẽ được hưởng phúc, làm ăn phát đạt, mọi sự thông hành. Ngược lại, nếu đặt bàn thờ sai vị trí, đặt ở hướng xấu thì sẽ khiến gia đình làm ăn thất bại, mọi sự không được may mắn. Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy

Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy

Theo quan niệm truyền thống của cha ông ta, việc thờ cúng tổ tiên là vô cùng quan trọng. Điều đó không những thể hiện chữ hiếu của con cháu với tổ tiên cha mẹ và dù mất đi, tổ tiên vẫn phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, việc này quyết định bởi phần đặt bàn thờ, tốt hay xấu, thì sau khi đặt từ 3 đến 4 tuần là ứng nghiệm. Việc bạn xem ngày tốt xấu để đặt bàn thờ cũng quan trọng như bạn đặt bàn thờ đúng hướng.

Lưu ý là hướng của bàn thờ là hướng ngược lại với chiều của người đứng khấn. Một số lưu ý khác để phong thủy bàn thờ ông bà được tốt hơn:
Tọa cát hướng cát, nghĩa là đặt ở vị tốt xoay về hướng tốt
Dưới và trên bàn thờ không đặt các loại cửa người đi được, không đặt bàn thờ ở chỗ bị dầm đè lên.
Không đặt bàn thờ ở phần đất lấn chiến khoảng không
Không đặt bàn thờ ở chỗ có đường đi lại
Bàn thờ không nhìn vào phòng vệ sinh, và không đặt dưới hay dựa vào phòng vệ sinh
Trên chỗ bàn thờ ở tầng trên không kê giường, bàn ghế, tủ quần áo phụ nữ
Bàn thờ không được đặt trong phòng ngủ, đặc biệt là phòng của vợ chồng
Đèn trên bàn thờ luôn bật sáng để thu hút năng lượng dương
Có thể cân nhắc đặt bàn thờ ở Trung Cung và hướng về hướng tốt.

 

Đối với bàn thờ Ông Địa, Thần Tài nên đặt gần cửa để nghinh tiếp tài lộc, và quay về các hướng tốt, tương tự như bàn thờ tổ tiên ở trên phong thủy cho bàn thờ. Cách bày trí kết cấu bàn thờ Ông Địa, Thần Tài.

 

Còn với bàn thờ Ông Táo nên được đặt ở sau bếp. Đây cũng chính là vị “nhất gia nhì chủ”, có nhiệm vụ coi sóc việc gia cư, định hoạ phước, trừ ma diệt quỷ. Nguyên tắc đặt là toạ hung hướng cát, tương như bếp nấu.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lưu ý bạn nên biết khi đặt bàn thờ hợp phong thủy - Phong thủy bàn thờ - Xem Tử Vi

Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân, luôn tồn tại những bí mật. Đã là bí mật thì đương nhiên phải giữ kín, nhưng trong một số trường hợp, kể cả
Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Trong công việc cũng như trong cuộc sống cá nhân, luôn tồn tại những bí mật. Đã là bí mật thì đương nhiên phải giữ kín, nhưng trong một số trường hợp, kể cả những người giỏi giang, được nhiều người tin tưởng vẫn có thể vô tình làm lộ bí mật. Để hạn chế việc bí mật bị “bật mí” thì nên tránh việc tiết lộ với những người có tướng mặt không thể giữ được bí mật.


Người thích “buôn dưa lê”: Răng vẩu

 Người có hàm răng “vẩu” là người có hàm răng nhô ra quá mức so với trán và mũi. Những người răng vẩu thường là những người nói nhiều, thích buôn chuyện. Nhiều khi họ “thêm mắm dặm muối” khiến cho câu chuyện khác xa so với ban đầu.
 

Người có tính tình “quái dị”

 Là nam giới nhưng có giọng nói “eo éo”  như nữ giới hoặc là nữ giới nhưng có giọng nói “ồm ồm” như nam giới, giọng nói của những người này thường gây phản cảm cho người khác khi tiếp xúc, tính tình của họ cũng quái dị như giọng nói và đôi khi cả giới tính của họ vậy.
 

Những người “quái gở” này, họ có tâm tư thay đổi thất thường, là người lắm mưu nhiều kế, hay bài xích người khác, tính tình chua ngoa, cay nghiệt. Nếu để những người này nắm được bí mật thì hậu họa sẽ khó lường.

 

Nhin mat la biet ai hay ngoi le doi mach hinh anh
Người mắt lồi nói năng thiếu suy nghĩ

Người nói mà không suy nghĩ: Mắt lồi

Những người mắt lồi có ưu điểm là phản ứng nhanh, tính ngay thẳng nhưng lại thiếu khả năng phán đoán, nói năng bừa bãi, thiếu suy nghĩ, hành động nông nổi, không quan tâm tới hậu quả. Nếu bí mật rơi vào tay họ thì trong một khoảnh khắc “lỡ lời”, toàn bộ bí mật sẽ bị “bật mí”.

Hơn nữa, nếu người có mắt lồi, ánh mắt lại láo liên, “đảo như rang lạc” thì là người chỉ chờ có cơ hội để phá đám, thích trêu chọc người khác. Nên cẩn thận với những người này.
 

Người khó khả năng giữ bí mật kém: Dái tai nhỏ và nhọn

Nếu không muốn trở thành trò cười cho thiên hạ hoặc là trung tâm của sự bàn tán thì tuyệt đối không được “dốc bầu tâm sự” với những người có dái tai nhỏ và nhọn. Những người này thường không chịu nổi áp lực tâm lý, một khi có biết được một bí mật nào đó, họ sẽ cảm thấy bứt rứt, chỉ chờ cơ hội để nói ra. Đây chính là những người “phao tin đồn nhảm”, luôn muốn lấy chuyện riêng tư của người khác làm niềm vui.
 

► Mời các bạn: Xem tử vi, xem tướng số đoán biết vận mệnh chuẩn xác tại Lichngaytot.com

Theo Tivisomenh

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng mặt người buôn chuyện hay ngồi lê đôi mách

Nhìn dáng ngực xem tình trạng hôn nhân của bạn

Những cô nàng ngực tròn, cân đối, dáng rơi rủ thường rất may mắn. Họ không những có thể lấy được người chồng tốt, hạnh phúc, mà con cái cũng ngoan ngoãn, kinh tế giá khả.
Nhìn dáng ngực xem tình trạng hôn nhân của bạn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Câu hỏi: Vòng một của bạn giống miêu tả nào nhất dưới đây?

1. Ngực tròn, cân đối, dáng hơi rủ

2. Ngực nhỏ, hình quả trứng ốp la

3. Ngực đầy đặn, thân hình gợi cảm

4. Ngực hướng lên trên, kích thước trung bình

5. Ngực bằng phẳng

6. Ngực trung bình, hướng sang hai bên

Anh Anh (theo Inka)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn dáng ngực xem tình trạng hôn nhân của bạn
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd