Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Hóa giải điểm xấu phong thủy trong căn hộ chung cư

Căn hộ chung cư là loại hình nhà ở đang rất được ưa chuộng trong cuộc sống hiện đại bởi những ưu điểm rất thuyết phục của nó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuy nhiên, thiết kế căn hộ chung cư lại không giống như các loại nhà phố hay biệt thự thông thường. Do đó, rất nhiều gia chủ gặp rắc rối trong việc thiết kế căn hộ phù hợp với phong thủy. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đưa ra một số biện pháp giúp gia chủ có thể khắc phục được những điều xấu trong thiết kế căn hộ chung cư theo phong thủy.

Hướng nhà

Hướng của chung cư là hướng thẳng góc với mặt cửa ra vào chính của chung cư, các lối giao tiếp khác được coi là hướng phụ. Chung cư có mặt dài quay về hướng nam hoặc lân cận nam sẽ đón được gió mát và ánh sáng ổn định. Các cạnh ngắn (đầu hồi) quay về hướng xấu sẽ giúp giảm thiểu những căn hộ bên trong chịu ảnh hưởng nắng tây và gió nóng.

Đối với căn hộ chung cư, nhiều khi gia chủ cũng sẽ phải chấp nhận hướng nhà một cách thụ động, tuy nhiên khó khăn này cũng có thể giải quyết. Đối với căn hộ chung cư quay về hướng không được đẹp như hướng Tây chẳng hạn, nắng chiếu thẳng vào nhà, vào mùa hè sẽ rất nóng bức và ngột ngạt. Vì vậy, ta có giải pháp che nắng như tạo hành lang xanh hay lam che nắng.

Phòng khách

Đặc điểm của hầu hết các căn hộ chung cư là khi đứng ngoài cửa chính, có thể quan sát thẳng vào phòng khách và bếp. Đây là điều tối kị trong thiết kế căn hộ vì nó mang lại sự bất an cho gia chủ và hao tán tài lộc. Để hóa giải điểm xấu này, chúng ta có thể sử dụng vách ngăn hờ tách riêng bếp và phòng khách để tránh bếp và cửa chính có thể nhìn thông nhau, vách này cũng có tác dụng trang trí và để vật dụng trong nhà.


Bên cạnh đó, sử dụng tượng vật, tranh ảnh cũng là một cách để hút tài khí vào nhà như: Đặt bộ tài khí đáo gia (hòn non bộ bằng gốm) đặt quay vào nhà có thể làm giảm khí xấu và mang lại tài lộc cho gia chủ hay bộ chiêu tài tiến bảo (tượng một loài thú có sừng bằng ngọc) quay ra cửa đi hoặc cửa sổ để hút tài lộc từ bốn phương. Dùng bình phong chắn ở hướng cửa ra vào, treo tranh phong thủy chủ đề “Thuận buồm xuôi gió”, “Cửu ngư” hoặc “Bát mã”....cũng là một cách hay để hóa giải.

Phòng bếp

Cũng như phòng khách, bất lợi đầu tiên ở căn hộ chung cư chính là người bên ngoài có thể quan sát thẳng vào nhà bếp khi mở cửa. Điều này không tốt theo quy luật phong thủy bởi khí từ cửa xộc thẳng vào khu bếp. Tuy nhiên khả năng di chuyển bếp lại khó khăn bởi phụ thuộc vào hệ thống đường nước và kết cấu kiến trúc của cả tòa nhà. Bởi vậy, nên đặt những vách ngăn lửng phân chia không gian, có thể là bình phong, kệ tủ, vách gỗ… tách biệt giữa bếp và phòng khách, lái hướng của dòng khí.

Phòng ngủ

Ít nhất một hoặc hai phòng ngủ trong một căn hộ chung cư sẽ có nhà tắm khép kín riêng từng phòng, mà diện tích lại hẹp, do đó không thể tách xa giường ngủ và nhà tắm, cửa có thể đối diện với giường như vậy sẽ gây nên những tổn hại về sức khỏe.

Ta cần có những biện pháp hạn chế khuyết điểm này, đặc biệt với những người mệnh hỏa vì Thủy xung với Hỏa. Biện pháp che chắn khuyết điểm này là bạn nên treo đồng tiền cổ trước cửa nhà tắm. Những đồng tiền xu là biểu tượng của nguồn tài lộc và của cải. Cát khí của nó không những làm gia tăng tài lộc mà con đem lại nhiều may mắn, giải trừ tai họa, tiểu nhân…



Bên cạnh đó, một khuyết điểm của phòng ngủ chung cư là các phòng thường không vuông vắn, có vát góc dẫn đến việc khó bố trí đồ dùng cho cân bằng, giải pháp là chọn gương để tạo khoảng trống ảo. Ngoài ra có thể đóng tủ, kệ vừa vặn với vị trí bị lệch hoặc kê chậu cây giúp che chắn cũng như tạo cân bằng khí tốt.

Với những giải pháp hóa giải cho các tình huống kể trên cũng không khó thực hiện, vì vậy để bố trí căn hộ theo Phong thủy cũng không khó khăn gì. Hóa giải những điểm xấu trong phong thủy sẽ góp phần làm cho các căn hộ chung cư bên cạnh tính tiện nghi hiện đại còn là một môi trường tốt lành để tạo dựng một tổ ấm thực sự.

Mộc Lan
Theo InfoNet

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hóa giải điểm xấu phong thủy trong căn hộ chung cư

Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Nguồn gốc của ngày Tết Trung Thu, ý nghĩa của Tết Trung Thu là gì?, Vì sao các hoạt động như phá cô đêm rằm, rước đèn ông sao hay bánh trung thu lại được tổ chức vào ngày 15 tháng 8 âm lịch.
Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo phong tục của người Việt và một số nước khu vực Đông Á, thì Tết Trung Thu được tổ chức vào giữa mua thu, chính là ngày 15 tháng 8 âm lịch. Trong dịp này, người người , nhà nhà bày mân cỗ cúng gia tiên và bánh trái cúng mặt trăng. Nhưng háo hức nhất vẫn là các em thiếu nhi, vì ngoài ngày 1/6 là Quốc tế thiếu nhi, thì đây là ngày lễ lớn thứ 2 để các em được vui chơi, rước đèn phá cỗ.

Vào ngày Tết Trung Thu, người lớn thì uống rượu thưởng trăng, trẻ em thì được xem múa lân, rước đèn ông sao, hát các bài hát về Trung Thu, Chị Hằng, chú Cuội, và cùng nhau phá cỗ. Tuy đây là một phong tục hàng năm, nhưng nguồn gốc của ngày này do đâu mà có và có từ thời gian nào?

 

Nguồn gốc về Chị Hằng, Chú Cuội và Cung Trăng

Theo sử sách từ Trung Quốc thì có khá nhiều sự tích kể về Chị Hằng và nguồn gốc của tết Trung Thu. Tuy nhiên, lịch sử sách nước ta, thì sử tích chú Cuội và gốc đa chắc chắn em nhỏ hay người lớn nào cũng được biết. Bởi câu chuyện này đã được đưa vào chương trình sách giáo khóa cho các em học sinh tiểu học. Theo các truyền thuyết của Trung Quốc thì Tết Trung Thu là sự tích bắt đầu từ Hằng Nga, Hậu Nghệ, vua Đường Minh Hòa được lên cung trăng.

Với truyền thuyết Hằng Nga- Hậu Nghệ thì từ thời xa xưa, trên trời xuất hiện 10 ông mặt trời, chiếu xuống trái đất làm khô cạn hết sông ngòi, mọi vật và sinh linh trên trái đất không thể sống nổi. Vì thế nên một anh hùng tên là Hậu Nghệ đã trèo lên ngọn núi Côn Lôn, dùng nỏ thần bắn rụng chín ông mặt trời. Để đáp lại chiến công của Hậu Nghệ, Vua Nghiêu đã ban tặng cho chàng một viên thuốc trường sinh bất lão và dặn phải một năm sau mới được uống. Hậu Nghệ nghe lời và làm theo, chàng ta mang về nahf và giấu trong bồ thóc. Vào một hôm chàng đi vắng, Hằng Nga vợ chàng mở bồ thóc ra thì thấy một vật tròn sáng lấp lánh. Biết được là linh dược vua ban, nàng đã uống ngay viên thuốc và bắt đầu bay về trời. Với chiếc nỏ thần trong tay, Hậu Nghệ đuổi theo vợ nhưng bị thần Gió cản lại, để cho nàng tiên nữ xinh đẹp Hằng Nga bay về cung trăng. Vì nhớ nhung vợ nên Hậu Nghệ đã xây một lâu đăì đặt tên là “Dương”, trong khi đó Hằng Nga cũng xây một lâu đài đặt tên là “Âm”. Và cứ mỗi năm một lần, vào đúng ngày rằm tháng 8 âm lịch thì mặt trăng luôn thật tròn và sáng để chàng Hậu Nghệ có thể trông thấy được vợ mình.

Truyền thuyết thứ hai về vua đường Minh Hoàng: Theo sử sách ghi rằng, vào một đêm khi cùng uống rượu thưởng nguyệt với các bá quan văn võ, vua Đường ao ước được lên cung trăng một lần. Biết ý vua nên pháp sư – Diệu Pháp đã xin vua làm phép để mang người lên cung trăng. Lên tới cung trăng, Vua được các vị tiên tiếp rước, bài tiệc đãi đằng, cho hàng trăm tiên nữ múa hát, gảy đàn, gọi là khúc Nghê- Thường vũ y.

Về sau, nhà vua lấy ngày rằm tháng 8 hàng năm để kỉ niệm ngày vua được lên cung trăng, tục ngắm trăng, xem ca mua nhạc dần dần biến thành thú vui chơi đền Trung Thu.

Ý nghĩa của ngày Tết Trung Thu

Tết Trung Thu diễn ra vào ngày 15 tháng 8 theo lịch âm, vào thời gian này thì người Đông Á mình đã thu hoạch xong vụ mùa và đang trong thời gian nghỉ ngơi chuản vị cho vụ thu – đông. Và món ăn đặc trưng nhất trong mùa lễ hội này là bánh trung thu với nhiều hương vị khác nhau, thường được thưởng thức cùng nước trà.

 

Vào đêm Trung Thu, các em thiếu nhi và người lớn cùng nhau rước đèn, múa lân. Người ngoài Bắc gọi là múa sư tử, trong Nam gọi là mua lân. Bên cạnh đó một vài nơi còn có tục rước đèn kéo quân trong dịp tết Trung Thu.

Ngoài việc giúp cho trẻ em có một ngày lễ vui vẻ và biết tới truyền thống phong tục của dân tộc thì tết trung thu còn là dịp con cháu đoàn viên bên gia đình, là dịp để con chu tỏ lòng biết ơn, hiếu thảo với ông bà tổ tiên,

Từ sau cánh mạng tháng 8, sau khi Bác Hồ gửi thư Trung Thu cho các cháu thiếu nhi cả nước thì ngày Tết Trung Thu mới thực sự là ngày tết chính thức của tất cả các trẻ em. Ngày nay, trẻ em được chăm sóc, quan tâm và giáo dục tốt hơn, bởi đây chính là tương lai của đất nước.

Xem thêm các bài văn khấn rằm tháng 7 và cách bày lễ cúng rằm tháng 7


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao lại gọi là ngày Tết Trung Thu

Tuổi Dần và tuổi Thân có hợp nhau không? –

Khi là một cặp uyên ương, Dần và Thân có lúc tạo được cho nhau không khí vui vẻ nhưng cũng rất hay cãi vã lẫn nhau. Hổ và Khỉ khó có thể tìm thấy những điểm chung. Là hai con giáp đối diện nhau trong vòng Hoàng đạo, giữa họ thường xuyên có mâu thuẫn.
Tuổi Dần và tuổi Thân có hợp nhau không? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dần và tuổi Thân có hợp nhau không? –

Tuổi Dậu và những tương hợp trong tình duyên

Bộ tam hợp Tỵ - Dậu - Sửu bao gồm người sinh vào các năm Tỵ, năm Dậu và năm Sửu.
Tuổi Dậu và những tương hợp trong tình duyên

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bộ tam hợp Tỵ - Dậu - Sửu bao gồm người sinh vào các năm Tỵ, năm Dậu và năm Sửu.

- Năm Dậu là các năm: 1945, 1957, 1969, 1981, 1993, 2005, 2017...
- Năm Tỵ là các năm: 1941, 1953, 1965, 1977, 1989, 2001, 2013...
- Năm Sửu là các năm: 1949, 1961,1973, 1985, 1997, 2009, 2021...

Sự tương hợp với người tuổi Tỵ

Người tuổi Dậu và tuổi Tỵ thường có chung suy nghĩ và thị hiếu. Họ quý mến và tôn trọng lẫn nhau. Trong mối quan hệ này, Tỵ là người biết hoạch định những chiến lược lớn còn Dậu lại là người kiên trì, quả quyết và có kĩ năng hành động để mang lại kết quả. Dậu chịu khó lắng nghe và ngưỡng mộ những kế hoạch khéo léo, tài tình của Tỵ. Với tính cần cù, Dậu sẽ biến tất cả các kế hoạch to tát đó thành hiện thực. Cả 2 đều có trí tuệ và hiểu biết sâu rộng.

(Ảnh minh họa)

Trong kinh doanh, họ sẽ tạo ra thế mạnh khi kết hợp với nhau. Trong tình yêu, tình cảm của họ sẽ ngày càng nồng nàn, đằm thắm bởi họ biết dành cho nhau sự yêu thương, chân thành.

Tỵ thuộc hành Hỏa, Dậu thuộc hành Kim. Hỏa kiểm soát Kim. Trong trường hợp này, Tỵ tỏ ra lấn át và nắm quyền kiểm soát. Nhưng do bản chất của mối quan hệ nghiêng về sự hòa hợp nên cả 2 vẫn có thể hợp tác với nhau thật hiệu quả.

Tình yêu nồng nàn với người tuổi Sửu:
Dậu và Sửu đều thực tế, kiên cường, sẵn sàng hy sinh cho việc lớn. Khi đã yêu nhau, cả 2 đều biết trân trọng, giữ gìn tình yêu và quyết tâm đi đến 1 cuộc hôn nhân hạnh phúc. Thành quả của họ sẽ được đón nhận đúng như mong đợi. Trong công việc, việc làm của Dậu thường có hiệu quả rõ ràng và có tầm ảnh hưởng hơn so với Sửu. Nếu như Sửu có xu hướng thống trị, thì Dậu có tính nhẫn nại, chịu đựng. Điều quan trọng là ẩn sâu trong mối quan hệ này luôn là 1 tình yêu chân thật và đam mê. Đây là mối quan hệ có sự ràng buộc thành công và lâu dài.
Sửu thuộc hành Thổ, Dậu thuộc hành Kim. Thổ sinh Kim. Ở đây Sửu sẵn sàng trong vai trò làm người hỗ trợ, còn Dậu vui vẻ đón nhận sự hỗ trợ đó.

Theo Phong thủy trong tình yêu


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tuổi Dậu và những tương hợp trong tình duyên

Tình duyên tuổi Canh Tý - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Tình duyên tuổi Canh Tý, Bói tình yêu, Xem Tử Vi, xem bói, xem tử vi Tình duyên tuổi Canh Tý, tu vi Tình duyên tuổi Canh Tý, tu vi Bói tình yêu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tình duyên tuổi Canh Tý

Xem căn duyên tiền định tuổi Canh Tý này là dựa vào tuổi người chồng Canh Tý lấy vợ nhé, đây là xem tuổi người vợ của Canh Tý nam.

Tuổi Canh Tý đại ky trong kết hôn:
Trai tuổi Canh Tý không nên kết duyên(đại kỵ) với nữ tuổi Nhâm Dần, Qúy Mẹo(Qúy Mão), Mậu Thân, Giáp Dần và Bính Thân. Vì tuổi đại kỵ nên kết duyên sẽ không ăn đời ở kiếp với nhau, có thể sẽ tuyệt mạng. Xem chi tiết tử vi trọn đời tuổi Tý

Chi tiết khi Canh Tý nam mạng kết hôn với tuổi đại kỵ

 
  • Chồng tuổi Canh Tý vợ tuổi Nhâm Dần, chồng lớn hơn vợ 2 tuổi, ở đời với nhau phạm  (Biệt Ly) 
  • Chồng tuổi Canh Tý vợ tuổi Quí Mẹo, chồng lớn hơn vợ 3 tuổi, ở đời với nhau phạm  (Tuyệt Mạng) 
  • Chồng tuổi Canh Tý vợ tuổ Mậu Thân, chồng lớn hơn vợ 8 tuổi,ở đời với nhau phạm  (Biệt Ly) 
  • Chồng tu ổi Canh Tý v ợ tuổi Giáp Dần,chồng lớn hơn vợ 14 tuổi, ở đời với nhau phạm  (Biệt Ly)
  • Chồng tuổi Canh Tý vợ tuổi Ất Mẹo, chồng lớn hơn vợ 14 tuổi, ở đời với nhau phạm  (Tuyệt Mạng)
  • Chồng tuổi Canh Tý vợ tuổi Bính Thân, vợ lớn hơn chồng 4 tuổi, ở đời với nhau phạm  (Biệt Ly)

Nam Canh Tý tránh kết hôn ở tuổi 15, 21, 25, 33, 37, 39. Những người vợ tuổi đại kỳ với Canh Tý bên dưới không nên kết hôn ở tuổi  17, 22, 23, 29, 34, 35, 41. Những năm tuổi trên đây kỵ hiệp hôn, luận việc hôn nhân không thành, còn có đôi bạn rồi mà gặp những năm nói  trên  thì hay  sinh  việc buồn  và  xung  khắc hoặc  chịu đựng cảnh xa vắng. Xem thêmvận hạn 2015 tuổi Tý
Tuổi Canh Tý nam mạng và nữ mạng sinh  tháng  1, 7 AL hay xảy  việc buồn phiền bất đồng ý, đến ngày chót khó nên đôi. Tuổi  này  trai  hay  gái  khi  có  đôi bạn số  định gặp  người bạn ở hướng Mẹo mới nhằm căn duyên. 

XIN LƯU Ý 
Trai  tuổi Bính Thân sanh  tháng 1, 12, 2, 9, 3, 8 và  tháng 4 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Thê hoặc đa đoan về việc vợ. Xem tử vi 2015 tuổi Bính Thân
Gái tuổi Bính Thân sanh tháng 1, 2, 4 và tháng 5 như sanh nhằm mấy tháng này có số Lưu Phu hoặc trái cảnh về việc chồng. 
Còn sanh nhằm tháng 6 và tháng 3 số khắc con, khó sanh và khó nuôi. 
  
Tuổi CANH TÝ Hiệp Hôn Tốt và Ở Đặng

 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi CANH TÝ 
    (Chồng vợ đồng một tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt,gặp số Nhì Bần Tiện, vợ chồng  làm ăn không đặng phát đạt,  thường gặp cảnh thiếu nghèo, hay khiến điều hao tốn, hào tài, hào con đa số
    Tánh người vợ chân hay đi, tánh sáng, hay lo tính, it vui vẻ, bản thân hay có tiểu bệnh, tánh t ình vợ chồng ít đặng  hòa hạp, ở với nhau chung lo cũng đặng ấm no. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không tốt, nên hòa  thuận và kiêncố . 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi TÂN SỬU 
    (Chồng lớn  hơn vợ 1 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp sốNhứt Phú Quý vợ  chồng như  có phước hưởng giàu hoặc,  còn  thiểu phước  thì đặng khá, nhưng phải có thành bại nhiều phen thì mới tốt, hào tài  ấm no, hào con đông đủ, vật dụng trong nhà thường dùng. 
    Tánh người vợ  lanh lẹ, hay giao  thiệp, hay đi nhiều,  tay  làm có  tài cũng hay hao phá  tài, ở với nhau vợ  chồng cũng  có  phần   hòa hạp,  chung sống với  nhau  làm  ăn đặng. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài  hay luân chuyển. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi GIÁP THÌN 
    (Chồng lớn  hơn vợ 4 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp sốTam Vinh Hiển vợ chồng đặng có   danh giá và có quyền chức, nhiều người hay mến thương,  thường có quí nhơn giúp đở, hào  tài    trung bình, hào con đông đủ, vật dụng trong nhà sắp đặt có thứ tự.

Tánh người vợ hay rầu lo, ít vui vẻ, hay có bệnh nhỏ, số khó giữ tiền tài, tánh ý vợ chồng cũng đ ặngg  hòa hạp, ở với nhau đặng hưởng ấm               no. 
                Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài  buổi đầu hay luân chuyển

  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi ẤT TỴ(Chồng lớn  hơn vợ 5 tuổi).Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng phát đạt, phải chịu cảnh thiếu nghèo một  thời gian, qua hạn mới đậu  tài, hào  tài  ấm no, hào con đông đủ, vật dụng  trong nhà khiếm dụng.Tính người vợ lòng hay lo tính, miệng hay rầy nói, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, chung ở với nhau vợ chồng lời tiếng ít đặng hạp ý, việc làm ăn cần năng cũng đặng lập nên. ==> Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên nhẫn và bền chí.
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi BÍNH NGỌ
    (Chồng lớn  hơn vợ 6 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng thường g ặp cảnh  thiếu nghèo, làm ăn không đặng phát đạt, hay khiến điều hao tốn, hào tài  đủ no, hào con thiểu số, vật dụng trong nhà khiếm dụng. 
    Tính người vợ hay rầu lo, ít vui vẻ, tánh lạt lòng, hay có bệnh nhỏ, tánh tình chồng vợ hay xung khắc, tâm ý bất hòa, chung sống với nhau nên kiên cố  và nhẫn nại làm ăn cũng đặng ấm no. 
    Kết  luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên nhẫn và bền 
    chí. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi ĐINH MÙI 
    (Chồng lớn  hơn vợ 7 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp sốNhứt  Phú Quý vợ  chồng  như  có  phước hưởng  giàu  còn  thiểu  phước  thì  đặng  khá, nhưng phải có  thành bại nhiều phen  thì mới tốt, hào  tài  bình  thường, hào con  trung bình, vật dụng trong nhà đủ dùng. 
    Tánh người vợ tánh sáng, lanh lẹ, hay giao thiệp, tay làm có tài cũng hay hao phá tài, ý tình vợ chồng ít đặng  hòa hạp, ở với nhau làm ăn đặng ấm no. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, về hào tài  hay luân chuyển. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi KỶ DẬU 
    (Chồng lớn  hơn vợ 7 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng  trung bình,gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng  làm ăn mới đặng  thông suốt, cầu  lo hay ăn nói việc chi cũng đặng dễ dàng, hào tài  tương vượng, hào con trung bình, vật dụng trong nhà sắp đặt vẻ vang. 
    Tánh người vợ tánh sáng, có duyên, vui vẻ, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, tánh tình chồng vợ  hòa hạp, ở với nhau làm ăn lập nên sự nghiệp. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng trung bình, hưởng cảnh ấm no và an vui. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi CANH TUẤT 
    (Chồng lớn  hơn vợ 10 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài đủ dùng, hào con đông đủ. 
    Tánh người vợ tánh sáng, hay lo tính, chân hay đi nhi ều, bản thân có tiểu t ật, ý tình vợ chồng  hòa hạp, chung sống làm ăn cũng đặng lập nên. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi TÂN HỢI 
    (Chồng lớn  hơn vợ 11 tuổi) 
    Hai  tuổi này ở với nhau  làm ăn không đặng tốt, hào  tài  trung bình, hào con  thiểu số. 
    Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, ở với nhau vợ chồng ít đặng  hòa hạp, việc làm ăn sống cảnh ấm no. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi NHÂM TÝ 
    (Chồng lớn  hơn vợ 12 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no, hào con trung bình. 
    Tánh người vợ vui vẻ, có duyên, hay giao  thiệp, có số tạo giữ  tiền ngày lớn  tuổi, tánh tình chồng vợ  hòa hạp, ở với nhau cần năng ngày hậu nên nhà. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi QUÍ SỬU 
    (Chồng lớn  hơn vợ 13 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài tương vượng, hào con đông đủ. 
    Tánh người vợ lòng hay lo tính, có duyên, vui vẻ, có số tạo giữ tiền tài, ý tình vợ chồng hòa thuận, chung sống làm ăn dựng nên sự nghiệp. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi BÍNH THÌN 
    (Chồng lớn  hơn vợ 16 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số. 
    Tánh  người vợ  chân  hay  đi,  tánh  sáng,  trong mình  có  tiểu tật,  ở với  nhau vợ chồng  hòa hạp, việc làm ăn chung lo cũng đặng hưởng cảnh ấm no. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi ĐINH TỴ 
    (Chồng lớn  hơn vợ 17 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no, hào con thiểu số. 
    Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, có số tạo tiền tài, tánh tình chồng vợ đặng  hòahạp, khá nhẫn nại v à kiên cố  cũng đặng nên. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi MẬU NGỌ 
    (Chồng lớn  hơn vợ 18 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no, hào con đa số. 
    Tánh người vợ  lanh lẹ, vui vẻ, có duyên, có  tay tạo giữ  tiền  tài, ý  tình vợ chồng hay xung khắc, khá kiên nhẫn với nhau làm ăn mới đặng.  
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi KỶ HỢI 
    (Vợ lớn  hơn chồng 1 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau không đặng tốt, gặp số Nhì Bần Tiện vợ chồng làm ăn không đặng khá, phải chịu cảnh thiếu nghèo một thời gian, qua hạn mới đậu tài, hào tài  ấm no, hào con thiểu số, vật dụng trong nhà đủ dùng. 
    Tánh người vợ  lòng hay  lo  tính, miệng hay rầy nói, có  tay tạo giữ  tiền ngày lớn tuổi, tánh tình chồng vợ lời tiếng bất hòa, ở với nhau nhẫn nại làm ăn mới đặng. ==>Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng tốt, nên kiên nhẫn và chung lo.
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi MẬU TUẤT
    (Vợ lớn  hơn chồng 2 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng tốt, gặp sốTam Vinh Hiển vợ chồng  đặng sang trọng hoặc có chức phận, lo tính việc chi  cũng dễ, hào tài  bình thường, hào con trung bình, vật dụng trong nhà thường dùng 
    Tánh người vợ hay rầu lo, ít đặng vui vẻ, tánh lạt lòng, bản thân hay có bệnh nhỏ, lời nói hay  thắc mắc, ý  tình vợ chồng  ít đặng  hòa hạp, chung sống với nhau  làm ăn cũng đặng ấm no. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau đặng tốt, nên thương lẫn đồng lo việc. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi ĐINH DẬU 
    (Vợ lớn  hơn chồng 3 tuổi) 
    Lời giải: Chồng  tuổi này gặp người vợ  tuổi này ở đời với nhau đặng  trung bình, gặp số Tứ Đạt Đạo vợ chồng  lo  tính việc chi đều  thông suốt, việc  làm ăn đặng có quí nhơn giúp đở, hào tài  tương vượng, hào con rất ít, vật dụng trong nhà sắp đặt có thứ tự. 
    Tánh người vợ tánh sáng, có duyên, vui vẻ, có số tạo giữ tiền ngày lớn tuổi, tánhtình chồng vợ không đặng  hòa hạp cho lắm, ở với nhau cần năng sẽ đặng lập nên. 
    Kết luận: Cảnh vợ chồng này ở với nhau không đặng trung bình, về hào con thiểu phước. 

ĐOÁN PHỤ THÊM  

  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi ẤT MÙI 
    (Vợ lớn  hơn chồng 5 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài ấm no, hào con trung bình. 
    Tánh người vợ hay lo tính, có duyên, vui vẻ, có tay tạo giữ tiền tài, hay có bệnh, ở với nhau vợ chồng hòa thuận, việc làm ăn đặng nên nhà. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi GIÁP NGỌ 
    (Vợ lớn  hơn chồng 6 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài đủ no, hào con trung bình. 
    Tánh  người vợ  chân  hay  đi,  tánh  sáng,  lanh lẹ, lời  nói hay  thắc mắc,  ý  tình vợ chồng hay xung khắc, khá nhẫn nại làm ăn mới đặng. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi QUÍ TỴ 
    (Vợ lớn  hơn chồng 7 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn không đặng tốt, hào tài ấm no, hào con thiểu số. 
    Tánh người vợ thông minh, vui vẻ, bản thân hay có bệnh nhỏ, tánh tình chồng vợ hòa thuận, nên cần năng cũng đặng cảnh ấm no. 
  • Chồng tuổi CANH TÝ vợ tuổi NHÂM THÌN 
    (Vợ lớn  hơn chồng 8 tuổi) 
    Hai tuổi này ở với nhau làm ăn đặng tốt, hào tài trung bình, hào con thiểu số. 
    Tánh người vợ lanh lẹ, hay giao thiệp, làm có tài cũng hay hao phá tài , ở với nhau vợ chồng  hòa hạp, chung sống làm ăn nên nhà. 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tình duyên tuổi Canh Tý - Bói tình yêu - Xem Tử Vi

Giấc mơ về bệnh thiên đầu thống –

Thiên đầu thống là bệnh do các huyết quản trên đầu gây ra. số người mắc bệnh chiếm tỉ lệ từ 5 - 10%, nhi đồng từ 2 - 4%, tỉ lệ nữ mắc bệnh cao hơn 4 lần so với nam. Người bị bệnh thiên đầu thông tình cảm lúc nào cũng căng thẳng, lo lắng, mỏi mệt, gầy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thiên đầu thống là bệnh do các huyết quản trên đầu gây ra. số người mắc bệnh chiếm tỉ lệ từ 5 – 10%, nhi đồng từ 2 – 4%, tỉ lệ nữ mắc bệnh cao hơn 4 lần so với nam. Người bị bệnh thiên đầu thông tình cảm lúc nào cũng căng thẳng, lo lắng, mỏi mệt, gầy mòn. Có một số giấc mơ liên quan đến loại bệnh này:

Giấc mơ về bệnh

–      Giấc mơ thứ nhất:

Tôi dừng lại trước cổng một trường học. Đằng xa có một cô gái dắt một đoàn trẻ con đi lại. Tôi nghi ngại nhìn cô, cô càng đi gần lại. Trẻ em ồn ào. Cô đi đến trước mặt tôi. Cô rất đẹp, tôi muốn trò chuyện với cô nhưng không sao nói được. Lúc đó mặt trời ra khỏi mây, chiếu xuống đầu tôi, đau ghê gớm. Tức khắc, tôi thấy đầu tôi to ra, như có nhiều con sâu đang bò trong đầu.

–      Giấc mơ thứ hai:

Tôi đứng trên một phiến đá, xem hai người đang kéo cưa xẻ đá. Mảnh đá vụn bay khắp nơi. Lúc đó có nhiều người đến khuyên họ, nhưng không ai cản nổi. Tôi ở bên cạnh mà không biết nên nói gì, lấy tay chỉ họ để cưa xuống rồi hoảng hốt bỏ đi.

Giấc mơ thứ nhất có một số biểu hiện của bệnh thiên đầu thống. Tâm lý quá hưng phấn trong giấc mơ biểu hiện ở cảm giác đôi với một cô gái có hào quang xinh đẹp. Cảm thây đầu to lên một chút là bệnh đã phát triển.

Ở giấc mơ thứ hai, kéo cưa là một động tác liên tục, nhất là động tác cưa đá. Người mắc chứng thiên đầu thống thì huyết quản có lúc giãn ra có lúc thu hẹp như động hình của cưa xẻ vậy. Đá cũng cứng như đầu, đá bị cưa thì đầu bị đau.

Giấc mơ thứ nhất là của một nữ sinh. Giấc mơ thứ hai là của một người đàn ông ở độ tuổi sắp về hưu, mỗi giấc mơ đều liên quan đến đặc điểm bản thân


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ về bệnh thiên đầu thống –

Những con giáp sẵn sàng 'đốt' tiền để mua sắm

Với người tuổi Ngọ, Thân và Thìn, mua sắm là niềm vui để bù đắp khoảng trống, nên họ chẳng tiếc tiền để làm điều đó.
Những con giáp sẵn sàng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Ngọ

Người tuổi Ngọ đặc biệt may mắn về vận tài chính, nên con giáp này tiêu tiền cực kỳ phóng khoáng. Họ cho rằng biết cách tiêu tiền mới có động lực để kiếm tiền. Vậy nên, người cầm tinh con Ngựa sẵn sàng bỏ cả tháng lương để mua món đồ mà họ yêu thích. Hơn nữa, với cá tính của con giáp này, họ đã muốn cái gì thì phải có bằng mọi giá. 

Đặc biệt, nếu phải dùng tiền để đạt được mục đích, thì tuyệt đối không phải đắn đó. Tuy nhiên, đó chỉ là với những gì người tuổi Ngọ mong muốn được sở hữu. Trong cuộc sống, họ vẫn hay kỳ kèo, trả giả vì điều mình không ham muốn. 

Ngo-9919-1439959806.jpg

Tuổi Thân

Người tuổi Thân thường không coi trọng tiền bạc trong cuộc sống. Họ chỉ xem nó như một công cụ nhỏ để đem lại niềm vui cho cuộc sống. Niềm vui ấy không bền vững, trừ khi chúng ta xây dựng được thế giới nội tâm thanh tịnh. Hơn nữa, người tuổi Thân dễ bị tác động bằng lời mời chào hay lôi kéo, nên họ có thể mang về một núi đồ đạc dù chỉ đi dạo. 

Với tính cách ấy, con giáp này bị gán cho mác hoang phí. Đặc biệt vào lúc tâm trạng buồn, họ sẽ liên tục suy nghĩ phải mua gì để bù đắp vào chỗ trống trải ấy. Vậy nên, dù có phải bỏ ra hết số tiền tiết kiệm, con giáp này cũng chẳng đắn đo.

Than-3338-1439959806.jpg

Tuổi Thìn

Người tuổi Thìn sinh ra đã thích “sang chảnh”. Họ luôn tạo hình hình ảnh của bản thân cũng như cuộc sống phải xứng đáng với đẳng cấp. Dù còn thiếu thốn, con giáp này vẫn cố chạy vạy để thấy tự tin về ngoại hình của mình khi xuất hiện trước đám đông. 

Việc tiêu tiền của người cầm tinh con Rồng sẽ khiến bạn kinh ngạc. Họ thích gì mua nấy, thậm chí chẳng cần xác định mục đích của món đồ. Con giáp này sẵn sàng bỏ chúng nếu bị ai đó nhận xét không hay và tìm mọi cách để có đủ tiền sắm đồ mới. Mặt khác, họ rất chăm chỉ, nhạy bén với các cơ hội làm ra tiền của.

Thin-2-7213-1439959806.jpg
ti-8518-1439219114-1439253903-4916-8381- Top 4 con giáp có số làm đại gia

Mr.Bull (theo SH)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp sẵn sàng 'đốt' tiền để mua sắm

Kinh thị Dịch truyện

Một bản dịch Kinh Thị Dịch Truyện rất hay của tác giả Quách Ngọc Bội. Đây là bản rất hay.
Kinh thị Dịch truyện

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết dịch của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

(Quyển thượng)

Nguyên tác Kinh Phòng thời nhà Hán

Úc Lâm thái thú nước Ngô là Lục Tích chú thích

Binh bộ thị lang triều Minh là Phạm Khâm hiệu đính.

Quách Ngọc Bội dịch

Posted Image

(Càn dưới Càn trên) Càn

Thuần dương nắm quyền. Tượng phối Thiên (Trời), với Khôn là Phi Phục, cư Thế (1). <<Dịch>> nói: "Dụng cửu, [kiến quần long vô thủ, cát] (2)", nghĩa là dùng 9, thấy bầy rồng chẳng có đầu, cát. Hào Cửu Tam tam công là Ứng, giống như "càn càn tịch dịch chi ưu" nghĩa là quần quật rồi đến đêm có cái lo mà cần cẩn thận.

Giáp Nhâm phối hai tượng quẻ nội ngoại (3).Tích toán khởi Kỷ Tị hỏa cho đến Mậu Thìn thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Sâm theo vị trí khởi Nhâm Tuất (6). Kiến Tý (QNB chú: tức tháng Một - 11 al) khởi Tiềm Long (7). Kiến Tị tới cực chủ "kháng vị" (8) (QNB chú: chữ "kháng"ở đây vừa có nghĩa là rất, quá, vượt quá,... vừa có nghĩa là tú Cang trong 28 Tú, còn chữ "vị" có nghĩa là vị trí, chỗ, nơi,...).

Phối vào nhân sự là cái đầu (9), là vua, cha (10), vào các chủng loại là ngựa là rồng (11). Giáng ngũ hành, ban lục vị (12). Cư ở phận dã Tây Bắc, nơi của âm dương tương chiến. Dịch nói "chiến vu càn" (13) nghĩa là chiến đấu ở chỗ Càn. Thiên lục vị, Địa lục khí, lục tượng lục bao, tứ tượng phân thành vạn vật, âm dương không sai khác, thăng giáng có cấp bậc (14). Nhân sự cát hung thấy ở tượng của nó chăng, tạo hóa phân chia có không chăng (15).

Lục vị thuần dương, âm tượng ở trong (16). Dương là vua, âm là tôi thần. Dương là dân chúng, âm là sự tình sự việc. Dương thực âm hư, tượng của minh ám, âm dương có thể biết được (17).

Thủy phối vị là phúc đức (18), Mộc nhập vào chỗ Kim hương cư bảo bối (19), Thổ lâm vào nội tượng làm phụ mẫu (20), Hỏa tới trên Tứ thượng e ngại gặp địch (21), Kim nhập vào Kim hương tiệm cận cạnh Mộc (22). (QNB chú: chỗ này nên hiểu rộng Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ là 5 hành tinh, chứ không phải là nói về khí ngũ hành. Nhưng hãy xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây, liên hệ tới khí của Nạp Giáp và Trang Chi).

Tông miếu trên thấy Tuất Hợi, gốc của Càn (23). Dương cực sinh âm (24), bát quái theo quy tắc.

(1) Nhâm Tuất thổ, Quý Dậu kim.

(2) Thuần dương dụng cái đức của 9.

(3) Càn là đầu của trời đất, phân phối Giáp Nhâm nhập vào chỗ Càn.

(4) Điềm của cát hung, tích năm mà khởi tháng, tích ngày khởi giờ, tích giờ khởi quái nhập bản cung.

(5) Thổ tinh nhập Tây phương, tựa vào Tây Bắc, cư Nhâm Tuất là Phục Vị (chỗ náu).

(6) Nhâm Tuất tại Thế, cư ở tông miếu.

(7) Tháng 11 Đông Chí, nhất dương sinh.

(8) Tháng 4 rồng thấy ở Thìn, dương cực âm lai, cát khứ hung sinh (cát đi qua, hung sinh ra), dụng cửu cát.

(9) Càn là cái đầu, là đầu mối, đứng đầu, là thủ lĩnh vậy.

(10) Càn tượng cứng rắn kiên cường, tôn quý của trời đất, cho nên là vua cha.

(11) Trời vận chuyển chẳng ngưng.

(12) Thập nhị Thần phân chia làm Lục vị thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức cát hung.

(13) Càn là dương, Tây Bắc âm, dương nhập vào âm, hai khí thịnh tất sẽ chiến đấu.

(14) Âm dương 24 Hậu (QNB chú: ám chỉ Khí - Hậu, 24 Tiết - Hậu), Luật Lã điều hòa nhịp điệu vậy.

(15) Cho nên biến động chẳng ngừng, lưu chuyển quanh Lục Hư.

(16) Dương trong âm, âm trong dương.

(17) Ba Năm là dương, Hai Bốn là âm, Sơ Thượng tiềm kháng (tiềm ẩn và vượt quá). (QNB chú: đây là nói đến thuộc tính của vị trí 6 hào trong quẻ).

(18) Giáp Tý thì Thủy là tử tôn của Càn.

(19) Giáp Dần thì Mộc là Tài của Càn.

(20) Giáp Thìn thì Thổ là là Phụ Mẫu của Càn.

(21) Nhâm Ngọ thì Hỏa là Quan Quỷ của Càn.

(22) Nhâm Thân thì Kim cùng vị làm tổn hại Mộc.

(23) Tuất Hợi là vị trí của Càn.

(24) Giáng nhập Cấu quái (giáng xuống nhập vào quẻ Cấu).

Posted Image

(Tốn dưới Càn trên) Cấu

Hào âm đương quyền. Kim Mộc hỗ Thể, Thiên hạ Phong hành, viết Cấu.

Cấu, gặp gỡ vậy. Dịch viết, âm gặp dương (1), cùng Tốn là Phi Phục. Nguyên sĩ cư Thế (2), tôn quý mà lại ti tiện (3), định cát hung chỉ lấy tượng của một hào (4). Cửu Tứ chư hầu kiên cường ở trên, khí âm nơi dưới. Dịch nói, quan hệ với chỗ Kim ùn ứ tắc nghẽn. Tốn tích âm nhập dương, Tân Nhâm giáng tượng nội ngoại.

Kiến Canh Ngọ tới Ất Hợi (5), tích toán khởi Ất Hợi thủy tới Bính Tuất thổ, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7), tú Tỉnh theo vị trí nhập Tân Sửu (8). Kiến Ngọ khởi Khôn cung hào Sơ Lục. Dịch nói, "lý sương kiên băng chí" nghĩa là dầm sương băng cứng tới. Kiến Hợi, "long chiến vu dã" nghĩa là rồng chiến đấu ở ruộng vườn (9).

Phối với nhân sự là bụng, là mẹ (10), ở chủng loại là ngựa. Dịch nói, "hành địa vô cương" nghĩa là đi ở nơi vô cùng vô tận (11). Nội Tốn là phong (gió), Càn là thiên (trời), thiên hạ phong hành (trời buông gió thổi), quân tử lấy hiệu lệnh tuyên cáo bốn phương (12). Gió trời khí tượng 36 Hậu (13). Mộc nhập Kim là bắt đầu (14). Âm không thể chế dương, kèm bên Kim ùn tắc. Cái đạo nhu thuận của Dịch dẫn dắt vậy. Ngũ hành thăng giáng, lấy thời (giờ) tiêu tức. Âm lay động dương, giáng nhập vào Độn (15).

(1) Nhất âm mới sơ sinh, dương khí còn thịnh, âm chưa phải là địch.

(2) Tân Sửu thổ, Giáp Tý thủy.

(3) Tử Tôn với Phụ Mẫu tương hỗ vị trí đại diện.

(4) Nhiều lấy ít làm quý báu.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Điềm của tai họa và phúc sinh ở ngũ hành thăng giáng vậy.

(7) Thái Bạch ở Tây cư Kim vị.

(8) Tân Sửu nhập Thổ bắt đầu, Thổ lâm vào Mẫu vậy.

(9) Tuất Hợi chính là vị trí của Càn. Càn náu ở vị trí gốc (bản vị), tất sẽ chiến. Chỗ tích âm còn thịnh, cho nên chiến.

(10) Khôn thuận theo, dung chứa ở vật.

(11) Cái này giải thích hào một phối với Khôn tượng. Bản thể chính là Càn Tốn. Nay tán tụng hào một khởi âm. Giả làm Khôn tượng mà nói.

(12) Tốn nhập vào vậy.

(13) Ba mươi sáu Hậu, Tiết Khí giáng tượng gió lớn.

(14) Kim tiếp nạp Mộc vậy.

(15) Quẻ Thiên Sơn Độn.

Posted Image

(Cấn dưới Càn trên) Độn

Hào âm đương quyền. Âm lay động dương lẩn trốn (độn), Kim Thổ thấy tượng, Sơn tại Thiên hạ vi Độn (núi ở dưới trời là Độn - lẩn trốn) (1). Âm tới dương lui vậy (âm lai dương thoái). Tiểu nhân quân tử, ô trọc bề thế khế hợp cái nghĩa ấy vậy. Dịch nói, "độn thế vô muộn" nghĩa là lánh thế tục chẳng còn thấy sầu muộn oi bức khó chịu. Cùng với Cấn là Phi Phục. Đại phu cư Thế, Kiến Tân Mùi là Nguyệt (2). Hào Lục Nhị được Ứng với vị trí của vua, ngộ kiến yên. Phụng sự cho vua toàn thân xa lánh tổn hại (3).

Kiến Tân Mùi tới Bính Tý. Âm dương độn khứ, cuối cùng mà Phục Vị (4). Tích toán khởi Bính Tý đến Ất Hợi, quay vòng trở lại ban đầu (5). Dương tiêu âm trưởng, không chuyên ư bại. Hệ nói, "năng tiêu tức giả [đương tác năng tiêu giả tức]" nghĩa là cái có thể tiêu tức [đương làm cái có thể tiêu đi xuất hiện ra], nhất định cái chuyên sẽ bại vậy.

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm, tú Quỷ nhập vị giáng Bính Thìn [đương làm Bính Ngọ] (6). Phối với nhân sự là lưng là tay (7), phối với các chủng loại là chó, là núi, đá. Nội ngoại thăng giáng, âm dương phân số 28 Hậu (8). Thổ nhập Kim là trì hoãn. Tích góp dương làm Trời, tích góp âm làm Đất. Chỗ của núi, nơi đất cao dốc, dồn thông với Trời, chính là âm trưởng dương tiêu, giáng nhập Bĩ (9).

(1) Độn, thoái lui vậy.

(2) Bính Ngọ hỏa, Bính [đương tác Giáp] Dần mộc.

(3) Độn (lánh, lui đi) mà chờ thời vậy.

(4) Theo tháng 6 tới tháng 11 vậy.

(5) Hỏa Thổ đồng cung, Thiên cùng với Sơn độn.

(6) Bính Ngọ lâm nguyên sĩ.

(7) Cấn là lưng, tay.

(8) Phân chia âm dương tiến thoái.

(9) Âm bức ép dương rời đi, nhập quẻ Thiên Địa Bĩ.

Posted Image

(Khôn dưới Càn trên) Bĩ

Nội tượng âm trưởng (1), Thiên khí bốc lên trên, Địa khí giáng xuống dưới, hai tượng phân ly, vạn vật chẳng giao kết vậy. Tiểu nhân đạo thì trưởng, quân tử đạo thì tiêu (2). Dịch nói, "Bĩ chi phỉ nhân" nghĩa là Bĩ đấy kẻ cướp. Cùng với Khôn là Phi Phục. Tam công cư Thế (3), Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Quân tử để chờ thời, tiểu nhân làm tai họa (4).

Kiến Nhâm Thân đến Đinh Sửu, âm khí từ từ trưởng (5). Tích toán khởi Đinh Sửu tới Bính Tý, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Liễu theo vị trí giáng vào Ất Mão (8), khí phân khí hậu ba mươi sáu (9).

Âm dương thăng giáng, dương đạo thì tiêu tổn, âm khí ngưng kết. Vua tôi cha con đều chẳng kịp cùng nhau đạt tới (10).

Dịch nói, "kỳ vong kỳ vong" nghĩa là mất rồi toi rồi, gắn với cái chồi cây dâu (11).

Thiên địa thanh trọc, âm bạc (12) dương tiêu, thiên địa đầy vơi, chờ thời tiêu tức. Cái thế của sự nguy nan, xu thế không thể lâu dài được. Ngũ vị đã phân chia, tứ thời lưu hành vậy (13).

Thượng cửu nói, "Bĩ cực tắc khuynh" nghĩa là Bĩ tới cực điểm thì sẽ suy sụp đi, làm sao mà có thể lâu dài được đâu (14). Âm trưởng giáng nhập vào Quan (15).

(1) Thuần dụng âm sự (toàn là dùng sự việc mang tính âm).

(2) Âm tiểu nhân, dương quân tử.

(3) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(4) Ất Mão thái lai (tới cực).

(5) Tháng 7 Lập Thu tới tháng 12 Đại Hàn.

(6) Kim Sửu Thổ đồng cung.

(7) Mộc tinh nhập quẻ đương quyền.

(8) Ất Mão lâm Tam Công.

(9) Sáu lần sáu là ba mươi sáu (6x6), tích toán cát hung.

(10) Âm đãng dương lai, đạo hành hĩ (âm lay động dương tới, đạo hạnh vậy).

(11) Chồi cây dâu thì theo khóm dâu vậy.

(12) Âm bác (âm đọ sức).

(13) Quân tử đang ở thế nguy nan, đơn độc đong đếm khó khăn, chẳng thể đứng lâu riêng chỗ, chẳng cải biến điều khiển chúng, sắp sửa thái lai.

(14) Bĩ cực tắc thái lai.

(15) Hào Cửu Tứ bị âm dồn ép nhập quẻ Quan.

Posted Image

(Khôn dưới Tốn trên) Quan/Quán

Nội tượng đạo âm đã thành, uy quyền ở tại kẻ bề tôi. Cho dù sự lộng lẫy ở trên, nhưng đạo âm dần dần lớn lên. Cùng với Tốn là Phi Phục. Chư hầu lâm Thế (1), phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ mà phụng sự cho Cửu Ngũ (2). Dịch nói, "Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương" (3) nghĩa là xem cái quang cảnh của quốc gia, lợi cho việc dùng khách ở ngôi Vương hầu.

Kiến Quý Dậu đến Mậu Dần, âm dương giao phục (4). Tích toán khởi Mậu Dần đến Đinh Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Kim Thổ Hỏa tương hỗ làm Thể. Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Tinh theo vị trí giáng vào Tân Mùi (7). Thổ Mộc phân chia khí nhị thập bát (8).

Âm dương thăng giáng, định cát hunh thành bại, lấy hào Lục Tứ. Còn như hào Cửu Ngũ, thành cái kết của quẻ vậy. Dịch nói, "Quan ngã sinh" (9) nghĩa là quan sát ta sinh trưởng. Lại nói, "Phong hành Địa thượng" (10) nghĩa là gió lướt đi bên trên của đất. Các tượng phân chia hào, lấy đạo của âm dương tiến thoái, thấy cát hung vậy. Địa thượng kiến Tốn (ở trên đất gặp nhún nhường, ám chỉ vị trí Khôn dưới Tốn trên), tích góp âm ngưng thịnh, giáng nhập vào Bác (11).

(1) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(2) Tức là vị trí của Vua vậy

(3) Tân xuất ra ở hào Lục Tứ vậy. (QNB chú: có lẽ đã có sự chơi chữ ẩn nghĩa của Kinh Phòng trong đoạn văn trên, cho nên mới viết chữ "Tân" 宾 với nghĩa "khách", còn tại mục chú thích 3 này thì Lục Tích đã dùng chữ "Tân" 辛với nghĩa "Thiên can thứ tám = Tân" để mà giải thích cho nó.

(4) Thu Phân đến Lập Xuân.

(5) Dùng Kim làm thủ lãnh đứng đầu.

(6) Hỏa tinh nhập vào quẻ, dụng sự cát hung.

(7) Chòm sao Tinh (tức Tú Tinh) nhập vào cung chư hầu, Mộc tinh cùng vị trí.

(8) Tích toán phân phối, lục vị cát hung, hào định số.

(9) Ta sinh trưởng tức là đạo vậy.

(10) Cái đức của quân tử - gió (phong) vậy, cái đức của tiểu nhân - cỏ (thảo) vậy.

(11) Hào Cửu Ngũ thoái âm nhập vào quẻ Bác.

Posted Image

(Khôn dưới Cấn trên) Bác

Nhu trưởng cương giảm, trời đất đầy vơi (1). Thể tượng Kim là gốc, tùy thời vận biến đổi, Thủy Thổ dụng sự (đương quyền). Thành Bác chi nghĩa (tạo thành nghĩa của bóc lột rơi rụng), xuất phát ở Thượng Cửu. Dịch nói "thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư" (2) nghĩa là quả lớn chẳng ăn, quân tử được xe cộ quần chúng, tiểu nhân đoạt mất nhà. (QNB chú: lời hào 6 quẻ Bác này cũng có thể dịch là "To lớn nếu không vơi bớt. Vua quan thì được đất đai, cương vực, còn dân đen lại bị bóc lột mất căn nhà đơn sơ". Xin xem thêm ở topic "Diễn dịch lại lời các quẻ hào Chu Dịch" ở tuvilyso.org và xem thêm phần chú thích của Lục Tích bên dưới đây).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thiên tử trì Thế, phản chuyển Ứng ở đại phu. Kiến Giáp Tuất đến Kỷ Mão. Âm dương định (khí) Hậu (4). Tích toán khởi Kỷ Mão mộc đến Mậu Dần mộc, quay vòng trở lại ban đầu (5). Thuần Thổ phối Kim dụng sự (đương quyền). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6), tú Trương theo vị trí giáng nhập Bính Tý (7). Kim Thổ phân chia khí tam thập lục (8).

Dịch tượng nói, "Sơn phụ ư Địa, Bác" nghĩa là núi kề trên đất, Bác vậy. Quân tử chờ thời, không thể tùy tiện biến đổi. Náu thân tránh tai nạn, cùng thời tiêu tức. Xuân Hạ mới sinh, thiên khí thịnh đại, Thu Đông nghiêm sát, thiên khí tiêu diệt. Cho nên khi đạo Bác đã thành, âm thịnh không thể chống lại được. Dương tức âm chuyên, thăng giáng 6 hào, phản chuyển làm du hồn, nhập Tấn (9).

(1) Kiến Tuất cho đến Kiến Hợi.

(2) Quân tử đều được đạo Bác, tiểu nhân cuối cùng chẳng thể được an ổn vậy.

(3) Bính Tý thủy, Nhâm Thân kim.

(4) Hàn Lộ cho đến Xuân Phân.

(5) điềm của cát hung xem ở trong tượng.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Trương (tú Trương) nhập thiên tử cung.

(8) Tích toán lục vị khởi cát hung, trời đất đầy vơi khí hậu.

(9) Tích âm phản nhập quẻ Tấn.

Posted Image

(Khôn dưới Ly trên) Tấn

Âm dương phản phục, tiến thoái không ngừng, tinh túy khí thuần, chính là Du Hồn (1). Phương Kim lấy Hỏa Thổ vận hành dụng sự (đương quyền). Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Chư hầu cư Thế, phản chuyển Ứng ở nguyên sĩ.

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân, âm dương kế Hậu (3). Tích toán khởi Giáp Thân kim cho đến Quý Mùi thổ, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Dực theo vị trí giáng vào Kỷ Dậu kim (6). Hai tượng phân chia Hậu là 28, vận phối Kim Thổ tích toán. Khí Hậu không sai biệt ở Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời), cát hung sắp bày, tượng ở trong chúng vậy. Trời đất vận chuyển, khí ở trong nó vậy. Đạo Càn biến hóa, vạn vật thông suốt vậy (7).

Sáu hào kết giao, đến mức lục quái, âm dương tương trợ tương phản, tương khắc tương sinh, cho đến Du Hồn quay về vị trí vị trí gốc, là Đại Hữu. Cho nên viết Hỏa tại phía trên của Thiên, là Quy Hồn. Quái định cát hung, phối với nhân sự ngũ hành, tượng Càn hướng về đây (8).

(1) Chính là âm cực thì Bác tận (cùng), đạo dương không thể bị tận diệt, cho nên phản chuyển về đạo dương [đương trở lại]. Không trở lại bản vị là chỗ Quy Hồn. Định là tám quái.

(2) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Du Hồn thủ tượng, phối với chính vị, cát hung cùng nhau vậy.

(5) Quẻ phối Kim tinh nhập dụng.

(6) Chòm sao Dực phương Bắc nhập quẻ Tấn hành sự (làm việc).

(7) Càn phân chia tám quẻ cho tới quay về quẻ Đại Hữu (Đại Hữu phục quái).

(8) Phàm Bát Quái phân chia làm 8 cung, mỗi cung 8 quẻ, tám lần tám là 64 quẻ, định cát hung phối nhân sự, trời đất, núi đầm, cây cỏ, ngày tháng, côn trùng,... bao hàm khí hậu đủ cả vậy.

Posted Image

(Càn dưới Ly trên) Đại Hữu

Quẻ trở lại bản cung viết Đại Hữu. Nội tượng thấy Càn là bản vị (vị trí gốc) (1), thuần Kim dụng sự (đương quyền), với Khôn là Phi Phục (2). Tam công lâm Thế, còn Ứng là Thượng Cửu là tông miếu.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi thổ cho tới Nhâm Ngọ hỏa, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn (6), Kim Thổ phân chi tượng. Ba mươi sáu Hậu, phối âm dương thăng giáng, lục vị tương đãng, phản phục kỳ đạo (7). Cát hung độ số với quẻ Càn cùng giống. Phân chia hào Lục Ngũ âm nhu làm Nhật, chiếu soi bốn phương, tượng thiên hành kiện (8). Cái ít là tông chỉ của cái nhiều, cho nên hào Lục Ngũ là tôn quý vậy (9).

Dịch viết, "Hỏa tại Thiên thượng, Đại Hữu" nghĩa là lửa ở trên của trời, Đại Hữu vậy (tức là nói về quái Ly ở vị trí bên trên quái Càn, tạo thành quẻ Đại Hữu) (10).

Âm dương kết giao xen lẫn, vạn vật thông suốt. Âm thoái dương phục, phản chuyển về gốc vậy. Càn tượng phân chia tám quẻ, nhập Đại Hữu kết thúc vậy. Càn sinh 3 nam, thứ tự tới nhập 8 quẻ cung Chấn (11).

(1) Bát quái theo cung Càn khởi, cho đến Đại Hữu là Quy Hồn.

(2) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(3) Lập Xuân tháng Giêng cho đến Đại Thử vậy.

(4) Cát hung với quẻ Càn cùng dùng.

(5) Thái Âm, Thủy Tinh nhập quẻ dụng sự (đương quyền).

(6) Nhị thập bát tú phân chia sao Chẩn nhập quẻ Đại Hữu, dụng sự (nắm quyền) hành độ, cát hung có thể thấy được.

(7) Quay trở lại vị trí gốc vậy.

(8) Lục long ngự thiên (sáu rồng quản trời).

(9) Nhu ở chỗ địa vị tôn quý, lấy nhu mà lý cương, lấy âm xử dương, có thể nhu thuận với vật, vạn vật quy thuận, cho nên viết "chiếu soi bốn phương".

(10) Ly là lửa (Hỏa) là mặt trời (Nhật), cho nên viết Đại Hữu.

(11) Càn sinh 3 nam, Khôn sinh 3 nữ. Dương lấy dương, Âm lấy âm, tìm đôi của nó, định số ở tượng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Chấn trên) Chấn

Phân âm dương, giao hỗ dụng sự, thuộc Mộc đức, thủ tượng là Lôi (sấm), xuất ra từ phương Đông. Chấn có tiếng động, cho nên viết Lôi. Lôi có thể nhắc nhở với vạn vật, làm khởi đầu phát sinh, cho nên lấy phía Đông vậy. Là chủ của động, là gốc của sinh sôi. Dịch nói, "Đế xuất hồ chấn" (1) nghĩa là Hoàng Đế xuất ra ở Chấn. Với Tốn là Phi Phục (2). Tông miếu ở chỗ hào Thượng Lục (3).

Vận số nhập Bính Tý tới Tân Tị (4). Tích toán khởi Tân Tị cho đến Canh Thìn, Thổ cung phối cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Giác theo vị trí giáng vào Canh Tuất thổ (7). Nội ngoại Mộc thượng hai tượng đều là Chấn. Dịch viết, "Chấn kinh bách lý" nghĩa là chấn động cả trăm dặm. Lại nói, "Úy lân giới dã" (8) nghĩa là úy kị cảnh cáo kề bên vậy.

Thủ tượng là dương, phối hào thuộc âm, cho nên viết âm dương giao kết đan xen mà làm Chấn. Khí Hậu phân số ba mươi sáu, định cát hung trong chốc lát, chi li đến cuối cùng, chẳng gì là không thông vậy, chẳng gì không chu đáo vậy (9). Âm dương giao hỗ, dương thành âm, âm thành dương, hai khí âm dương lay động mà thành tượng. Cho nên hào Sơ Cửu mà trở nên 3 âm thì thành Dự (10)

(1) Yên ổn chẳng động, chủ tĩnh, làm vua của nóng vội.

(2) Canh Tuất thổ, Tân Mão mộc.

(3) Âm làm chủ của dương, Chấn động, động cần phải do âm dương giao hỗ chấn động vậy.

(4) Đại Tuyết tới Tiểu Mãn.

(5) Cát hung phối với Mộc cung, lấy Thổ dụng sự (đương quyền).

(6) Thủy tinh nhập quẻ dụng sự.

(7) Canh Tuất nhập Chấn dụng sự, lâm hào Thượng Lục, Canh Tuất thổ vị là nguyên thủ.

(8) Chấn là tiếng sấm, vang động trăm dặm, Xuân thì phát, Thu lại thâu hồi, thuận trời mà đi vậy. Thủ tượng định cát hung.

(9) Định âm dương số, khảo xét hưu cữu (tốt xấu) của người, khởi với tích toán, cuối cùng ở lục vị vậy.

(10) Nhập vào quẻ Dự.

Posted Image

(Khôn dưới Chấn trên) Dự

Quẻ phối Hỏa Thủy Mộc, lấy dương dụng sự (đương quyền). Dịch nói, "lợi kiến hầu hành sư" nghĩa là lợi cho việc lập tước Hầu và tiến hành quân đội. Lại nói rằng, trời đất lấy thuận động, cho nên ngày tháng không vượt quá, bốn mùa chẳng sai khác (1). Thánh nhân lấy thuận động, thì hình phạt rõ ràng mà dân chúng tin phục.

Cùng với Khôn là Phi Phục (2). Thế lập ở nguyên sĩ, là Địa dịch. Phụng hào Cửu Tứ làm chính, chính Kiến Đinh Sửu cho tới Nhâm Ngọ (3). Tích toán khởi Nhâm Ngọ cho tới Tân Tị, lấy lục hào định cát hung, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Cang theo vị trí giáng Ất Mùi thổ (6). Trên mộc dưới gặp thổ, nội thuận ngoại động, cho nên là duyệt dự (vui mừng hớn hở). Thời hữu truân di, sự phi nhất quỹ (thời thế có lúc gian truân có lúc phẳng lặng, sự việc chẳng phải là chỉ nhất nhất theo một lối), hào tượng hợp thời, có hung có cát. Đời sống con người cũng trùng lặp như vậy. Hoặc gặp thời thịnh trị hoặc phùng thời loạn lạc, ra vào sống chết, đạo của chúng đều gắn liền với nhau.

Dịch nói, "đại hĩ tai" nghĩa là to lớn thay! Âm dương thăng giáng, phân chi chia số hai mươi tám, số cực lớn nhỏ, lấy mà xác định đạo của cát hung (7). Dự dùng dương hợp âm, làm nội thuận, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ hào Cửu Tứ. Còn dùng dương lay động âm, đạo của quân tử, biến sang quẻ Giải (8).

(1) Khôn thuận, Chấn động.

(2) Ất Mùi thổ, Canh Tý thủy.

(3) Đại Hàn, Mang Chủng.

(4) Hỏa Thổ toán hưu cữu (tốt xấu).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Cang phối Ất Mùi thổ.

(7) Tích toán Nhâm Ngọ nhập Ất Mùi suy đoán cát hung.

(8) Quẻ Dự lấy âm nhập dương thành cái đức của hào Cửu Tứ, biến nhập quẻ Giải, dương nhập âm thành cái đức của Giải.

Posted Image

(Dưới Khảm Chấn trên) Giải

Âm dương tích lũy khí, tụ tán theo thời. Nội hiểm ngoại động, tất sẽ tán. Dịch nói, "Giải giả, tán dã" nghĩa là cái sự phân giải tách rời, là tản ra phân tán vậy. Giải ấy, vật phẩm nứt nanh nảy mầm nhú ra, sấm mưa giao kết tác động (1). Tích khí vận động, trời đất phân tách chia ra, thành nghĩa của quẻ, tại chỗ của hào Cửu Nhị. Với Khảm là Phi Phục (2). Lập đại phu ở Thế, là người mà Lục Ngũ giáng Ứng, ủy quyền lệnh nơi thứ phẩm.

Kiến Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Suy đoán cát hung với âm dương, định vận số với tuế thời. Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Đê theo vị trí giáng vào Mậu Thìn (6).

Mộc hạ xuống gặp Thủy, động mà hiểm. Âm dương hội tán, vạn vật thông suốt. Thăng giáng thuộc dương đãng âm, lấy dương là tôn quý. Tôn quý thì cao mà ti tiện thì thấp. Biến Lục Tam làm Cửu Tam, quẻ Hằng vậy. Phân khí hậu định số, cực vị với ba mươi bảy (7). Biến Khảm nhập Tốn, cư nơi nội tượng. Là Lôi Phong vận động, cổ súy vạn vật, gọi là Hằng (8).

(1) (Chấn sấm, Khảm mưa.

(2) Mậu Thìn thổ, Canh Dần mộc.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Thổ Hỏa nhập số khởi cung.

(5) Trấn tinh thổ vị

(6) Chòm sao Đê nhập Mậu Thìn.

(7) Kim Thủy nhập số, hợp quái thành số, định ngày tháng giờ (mùa).

(8) Nhập vào quẻ Hằng.

Posted Image

(Tốn dưới Chấn trên) Hằng

Trường cửu ở tại đạo của nó, thành lập ở tại trời đất, Lôi dữ Phong hành (sấm và gió cùng lưu hành), âm dương tương đắc, đại vị tôn ti được xác định vậy. Hiệu lệnh phát mà vạn vật sinh sôi vậy (1). Lôi Phong vận hành mà 4 phương tề chỉnh vậy (2). Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Tam công trì Thế, còn Ứng ở Thượng Lục tông miếu (4).

Kiến Kỷ Mão cho tới Giáp Thân (5). Kim Mộc khởi độ số, tích toán khởi Giáp Thân cho tới Quý Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Phòng theo vị trí giáng Tân Dậu (8). Trên dưới hai tượng đều thấy mộc, phân chia âm dương ở trong ngoài (9). Khí hậu phân số ba mươi tám [đương làm hai mươi tám] (10).

Hào Cửu Tam còn đến mức như vị trí của dương truân, không thuận bước, chẳng xác định địa vị của nó (11). Dịch nói, "bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu" nghĩa là cái đức của nó chẳng hằng cửu có thể hứng chịu sự hổ thẹn. Âm dương thăng giáng, phản chuyển về âm, đạo quân vương tiến dần, bề tôi kẻ dưới tranh quyền, vận hành đến Thăng (12)

(1) Vạn vật được cái đạo của nó vậy. Đạo của cái sự sinh sôi [vừa thực hiện bước tiến lên] vậy.

(2) Cái ngay ngắn tề chỉnh, nghiêm túc.

(3) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(4) Hào tông miếu

(5) Xuân Phân, Lập Thu.

(6) Kim Mộc nhập cung.

(7) Thái Bạch Kim tinh nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(8) Chòm sao Phòng nhập quái, Lập Thu sử dụng.

(9) Nội Tốn âm, ngoại Chấn dương.

(10) Kim Mộc nhập quái phân chia Tiết Hậu.

(11) Cái hằng cửu, thường (luôn luôn không đổi) vậy. Mà hào Cửu Tam lấy dương cư vị, lập ở trên chỗ âm dương giao hỗ, chính là cho thấy đúng là cái chỗ không trường cửu vậy.

(12) Thứ tự giáng nhập quẻ Thăng.

Posted Image

(Tốn dưới Khôn trên) Thăng

Dương thăng lên âm mà đạo âm ngưng tụ thịnh vượng, chưa thể thuận lợi để tiến tới, từng bước đó viết Thăng. Cái Thăng ấy là tiến vậy. Quẻ mặc dù âm mà lại thủ tượng ở dương, cho nên viết lấy dương dụng sự (1). Với Khôn làm Phi Phục (2). Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng.

Hậu Kiến Canh Thìn cho đến Ất Dậu (3). Tích toán khởi Ất Dậu cho tới Giáp Thân, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Tâm nhập vị giáng Quý Sửu (6).

Thổ hạ xuống gặp Mộc, nội ngoại đều thuận. Động âm dương mà sinh trưởng, tuế thời, nhân sự, phối cát hung phát sinh ở động (7). Dịch nói, "cát hung hối lận sinh hồ động" nghĩa là cát hung hối lận đều sinh ra ở chỗ động vậy. Khí hậu phối tượng số là ba mươi sáu (8). Từ thấp thăng lên cao, thế cho nên cực. Tới cực điểm mà phản chuyển, lấy đạo tu thiện mà thành cái Thể của nó (9). Đạo âm thay đổi, nhập dương làm Khảm thủy, cùng với Phong thấy Tỉnh (10).

(1) Nội quẻ là Tốn âm, mộc dương vậy.

(2) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân.

(4) Kim Thủy hợp Mộc cung thấy tượng, phân định cát hung.

(5) Thái Âm, Thủy tinh nhập quái thủ tượng.

(6) Chòm sao Tâm nhập quái phối Thổ vị.

(7) Chiêm đoán về các điềm cát hung của tuế thời, nhân sự, thấy ở cái động.

(8) Phân chia số hào âm, phân số hào dương.

(9) Cây lớn phải ôm cả vòng 2 cánh tay, mới đầu nhỏ nhoi.

(10) Nhập quẻ Tỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Khảm trên) Tỉnh

Âm dương thông biến, cái không thể thay đổi, Tỉnh (giếng) vậy. Đạo Tỉnh lấy tượng của trong vắt lắng sạch chẳng cạn, mà thành cái đức của Tỉnh. Dịch nói, "Tỉnh giả, đức chi cơ" nghĩa là giếng ấy, cơ sở của đức hạnh. Lại nói, "vãng lai tỉnh tỉnh" nghĩa là qua lại giữa giếng này với giếng kia, thấy công lao sự nghiệp vậy. "Cải ấp bất cải tỉnh" nghĩa là thay đổi làng đổi ấp chẳng đổi được cái giếng (không dời chuyển giếng đi được), ấy là cái đức (phẩm hạnh) không thể biến đổi vậy (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Cửu Ngũ ở chỗ chí tôn, Ứng thì dùng trông tượng gốc. Kiến Tân Tị cho đến Bính Tuất (3). Tích toán khởi Bính Tuất cho đến Ất Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (4).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Vĩ theo vị trí giáng nhập Mậu Tuất (6). Khảm hạ xuống gặp Phong, hiểm thế ở trước đã qua, nội ngoại giúp đỡ qua lại, có ích lợi với vua (7). Người hiền tài có địa vị, kẻ quân tử chẳng đơn độc. Truyện viết, "đức bất cô, tất hữu lân" nghĩa là đức hạnh không đơn độc, nhất định có kẻ giúp ở lân cận (8).

Khí Hậu sở tượng định số với hai mươi tám (9). Số của Thiên Địa, phân vào Nhân sự (10), điềm của cát hung, xác định ở âm dương. Âm sinh dương tiêu, dương sinh âm diệt, hai khí giao hỗ trao đổi, vạn vật sinh sôi. Chấn cho đến Tỉnh, âm dương đổi thay vị trí, tới cực tắc phản chuyển, với Tốn làm cuối cùng. Thoái lui quay lại về gốc, cho nên viết Du Hồn là Đại Quá (11).

(1) Đạo Tỉnh lấy trong vắt lắng sạch mà "kiến dụng vi công" (thấy cái dụng làm công hiệu) vậy. Tượng Tỉnh mang cái đức không thể biến đổi vậy.

(2) Mậu Tuất thổ, Canh Thân kim.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa sĩ nhập quái khởi toán số.

(5) Mộc tinh nhập quái, phương Đông dụng sự (nắm quyền).

(6) Chòm sao Vĩ phối Mậu Tuất nhập quái cung.

(7) Tỉnh lấy đức lập dựng, vua chính trực thì dân tin tưởng, đức với đạo của nó vậy.

(8) Sáu hào chỗ nào cũng có sự vụ của chúng, phản phục âm dương biến hóa, đều có cái đạo của nó vậy.

(9) Hào phối âm dương, phân nhân sự, cát hung bày ra thấy được vậy.

(10) Gần thì áp dụng thân của chúng, xa thì áp dụng vật của chúng.

(11) Giáng nhập quẻ Đại Quá.

Posted Image

(Tốn dưới Đoài trên) Đại Quá

Âm dương luân phiên thay thế, cho tới chỗ Du Hồn. Hệ nói, "tinh khí vi vật, Du Hồn vi biến" nghĩa là cái khí tinh túy là sự vật, Du Hồn là biến đổi. Chính là vốn biết được tình trạng của quỷ thần. Hỗ thể tượng Càn, lấy Kim Thổ định cát hung. Bỏ đầu đuôi, lấy hai hào Nhị Ngũ làm công nghiệp của Quá (1). Với Khảm làm Phi Phục (2). Giáng chư hầu lập nguyên thủ, còn nguyên sĩ thì cư Ứng.

Trên Kiến Bính Tuất cho tới Tân Mão (3). Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Đinh Hợi (6). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, cho đến cực thì phản chuyển. Phản chuyển tới gốc và ngọn, với Du Hồn, phân Khí Hậu ba mươi sáu (7). Dương nhập âm, âm dương giao hỗ, phản quy về gốc viết Quy Hồn, giáng quẻ Tùy (8).

(1) Cái lớn (Đại) tư thế vượt quá (Quá).

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim.

(3) Khởi nguyên khí, theo Bình Tuất cho tới Tân Mão là quẻ thiết lập (Kiến). Cái Kiến ấy, tuân theo quy tắc chỗ sinh trưởng. Kim lập Kiến khởi tới Tân Mão, lấy âm dương tới chỗ cực vậy. Hàn Lộ cho đến Thu Phân.

(4) Thổ Mộc nhập quái dụng sự (nắm quyền).

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(6) Chòm sao Cơ phối Đinh Hợi thủy, hợp quái cung vậy.

(7) Số của sáu hào cực âm dương 36. Ngũ hành phân phối, xác định cát hung với tích toán.

(8) Nhập quẻ Trạch Lôi Tùy.

Posted Image

(Chấn dưới Đoài trên) Tùy

Chấn tượng trở lại gốc nên gọi là Tùy (1). Nội tượng gặp Chấn gọi là gốc (2), thuần Mộc dụng sự (đương quyền), cùng với Tốn là Phi Phục (3). Thế lập tại hào tam công, còn Ứng ở hào tông miếu. Kiến Ất Dậu cho đến Canh Dần (4). Tích toán khởi Canh Dần cho tới Kỷ Sửu (5), quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (7). Kế Đô theo vị trí giáng Canh Thìn (8). Khí hậu phân chia số hai mươi tám (9). Lục vị (sáu vị trí) dù có khác biệt, cát hung theo tượng Chấn, tiến thoái tùy thời, đều theo vị trí của chúng, không sai Quỹ Khắc (dụng cụ đo bóng mặt trời).

Hai tượng trong ngoài, vui mừng mà động, Tùy nương ở vật. Mối quan hệ thay đổi tại chỗ sáu hào (10). Cát hung xác định ở đầu mối của khởi toán, tiến thoái thấy ở cái nghĩa tùy thời. Kim Mộc giao hình hại, Thủy Hỏa đối kháng qua lại, ngưng bỏ ở thời, cát hung sinh sôi vậy.

Chấn lấy 1 vua 2 dân, động thì được phù hợp (11). Gốc ở Càn mà sinh ở Chấn, cho nên gọi là trưởng nam. Âm dương thăng giáng, làm 8 quẻ, cho đến Tùy là thể an định. Nương nhờ ở chỗ sơ khai mà thành ở chỗ chung cuộc. Khảm [đương làm thứ] giáng trung nam mà gọi là Khảm. Hỗ dương hào, cư trung là quẻ Khảm.

(1) Nội gặp Chấn vậy.

(2) Theo Chấn khởi cho đến Tùy là Quy Hồn.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Thổ Mộc nhập quái khí toán.

(6) Cát hung định ở toán số làm chuẩn.

(7) Trấn Tinh Thổ, nhập quái dụng sự.

(8) Kế Đô phối với Canh Thìn thổ, nhập quái phân chia cát hung.

(9) Định số ở lục vị.

(10) Dịch nói, gắn liền với trượng, lạc mất đứa trẻ nhỏ. Lại nói, gắn liền với đứa trẻ nhỏ, lạc mất trượng phu. Chính là cái này vậy.

(11) Chấn nhất dương nhị âm, dương vua âm dân, được cái chính của chúng vậy.

QNB chú: Độc giả lưu ý. Tôi đọc lại quẻ Tùy và chợt phát hiện ra một điểm không hợp lý là "tại sao lại phối Kế Đô vào hào Canh Thìn?", sau khi suy xét thì tôi cho rằng đây là một sự thất bản trong sao chép, người đời sau tùy tiện viết vào trong khi không hiểu rõ.

Thứ nhất, Kinh Phòng (77 – 37 TCN, tự là Quân Minh) sống thời Tây Hán, và thời này hầu như rất hiếm hoi có sự giao lưu văn hóa từ Ấn - Tạng với Trung Quốc, do đó việc Kinh Phòng đề cập đến sao Kế Đô là khả năng khó mà xảy ra được.

Thứ hai, việc phối các Tinh Thần vào vị trí các hào trong quẻ là dùng Ngũ Tinh (tức lấy Ngũ Vĩ làm vĩ độ) và dùng Nhị Thập Bát Tú (tức lấy Kinh Tinh làm kinh độ), mà Kế Đô thì không thuộc hệ thống của Ngũ Tinh và Nhị Thập Bát Tú.

Thứ ba, các Tú (chòm sao) trong 28 Tú, ở họ nhà Chấn (cung Chấn) lần lượt được phối lên hào Thế theo thứ tự, Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ (hết chòm Thanh Long ở Đông phương), tới quẻ Tùy, rồi sang họ nhà Khảm (cung Khảm) lần lượt hào Thế được phối Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích (thuộc chòm Huyền Vũ ở Bắc phương). Như vậy ở quẻ Tùy hẳn sẽ phải là tú Đẩu được phối hào Thế Canh Thìn thổ.

Thứ tư, chữ Đẩu của chòm sao Đẩu đó được viết là 斗 trong khi chữ Kế của Kế Đô được viết là 計 hoặc 计 (trong bản Hán ngữ cuốn "Kinh thị Dịch truyện" mà tôi dịch ở đây viết Kế Đô = 计都). Do đó, tôi có thể khẳng định rằng do chữ Đẩu bị mờ nhòe mà bị người đời sau đoán lầm sang chữ Kế rồi tùy tiện viết vào, ngay cả chỗ chú thích (8) của Lục Tích (người nước Ngô thời Tam Quốc) cũng bị làm sai đi như thế.

Posted Image

(Khảm dưới Khảm trên) Khảm

Tích lũy âm để dương ở giữa, nhu thuận không thể dẫm bước lên cái hiểm của cương. Cho nên lấy khắc chế. Nhu mà dẫm bước lên cái hiểm rồi gọi là dương, chính là lấy Khảm là thuộc trung nam, phân chia quẻ ở phương Bắc vậy. Cùng với Ly làm Phi Phục (1). Thế lập ở hào tông miếu, cư ở âm vị, cạnh ngay hào Cửu Ngũ. Kim ở tại đạo Khảm, xa lìa ở tại Họa Hại. Hào tam công cư Ứng, cũng là âm ám. Tạo thành cái đức của Khảm, ở tại chỗ hào Cửu Ngũ, Cửu Nhị vậy (2).

Kiến khởi Mậu Dần cho đến Quý Mùi (3). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Ngưu theo vị trí giáng Mậu Tý (6). Tuế số vận số ba mươi bảy (7) nội ngoại đều Khảm, chính là coi trọng vị trí của cương. Dịch viết, "Khảm, hãm dã" nghĩa là nơi đất trũng hố bẫy vậy (8). Chấn lấy dương cư sơ, có thể chấn động tới vật, có thể động chủ (9). Khảm lấy dương cư trung, là coi trọng chủ của cương, cho nên lấy khảm là hiểm. Dương biến âm, thành ra hiểm đạo, nay lấy âm biến dương, thành ra Tiết (10)

(1) Mậu Tý thủy, Kỷ Tị hỏa.

(2) Nội ngoại cư Khảm, dương ở giữa mà làm Khảm chủ. Thuần âm đắc dương, là bề tôi quang minh trong sáng. Được vua mà an ổn chỗ cư ngụ của nó vậy. [vua được tôi thần dốc lòng mà hiển cái đạo vậy].

(3) Đại Thử, Tiểu Tuyết.

(4) Kim Thủy nhập quẻ gốc đồng cung, khí hậu khởi toán nhật nguyệt cát hung.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập thủy cung.

(6) Nhị thập bát tú theo vị trí nhập quái quay vòng trở lại ban đầu.

(7) Phối lục vị, phân âm dương 365 lẻ 1/4 ngày, ngũ hành phối vận khí, cát hung thấy được vậy

(8) Khảm thủy, có thể hãm sâu ở vật. Chỗ hiểm của Khảm, không thể không am hiểu. Cho nên viết Tập Khảm. Tiện lợi để tập luyện cho quen mà am hiểu. Sau có thể bước vào chỗ hiểm mà không bị hãm chìm trong đó, chẳng lấy cương dấn bước vào nhu thì chẳng thể thành cái đạo của Khảm vậy.

(9) Càn sinh Chấn, nhất dương cư hào sơ, Chấn là trưởng nam.

(10) Thứ tự đến nhập vào quẻ Tiết.

Posted Image

(Đoài dưới Khảm trên) Tiết

Thủy cư Trạch thượng (nước ở bên trên của đầm). Đầm có thể tích nước, dương ngừng lại ở âm, cho nên cho nên là Tiết (có đoạn có chừng mực). Cái Tiết đó là ngừng vậy (Tiết giả chỉ dã). Dương lay động âm mà tích đầy ở giữa, vui mừng ở trong mà hiểm trở ở trước mặt, âm dương tiến thoái, Kim Thủy giao vận. Cùng với Đoài là Phi Phục (1). Nguyên sĩ lập nguyên thủ, gặp Ứng là chư hầu (2).

Kiến khởi Giáp Thân cho tới Kỷ Sửu (3). Tích toán khởi Kỷ Sửu cho tới Mậu Tý, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Đinh Tị (6).

Trên Kim thấy Thủy, cái gốc cung cấp qua lại, nhị khí giao tranh, thất tiết lại than vãn. Dịch nói, "bất tiết nhược, tắc ta nhược" nghĩa là nếu chẳng tiết chế kịp thời thì sẽ ca thán. Phân chia khí hậu hai mươi tám (7). Trung nam nhập đoài thiếu nữ, phân phối sự lay động nhập âm ở giữa, vị trí gặp dương thăng giáng. Thấy trưởng nam, theo thứ tự nhập Thủy Lôi Truân (8).

(1) Đinh Tị hỏa, Mậu Dần mộc.

(2) Kim Hỏa nhận cái khí của nó, nạp vào trong.

(3) Là bản thân Tiết Khí, Lập Thu, Đại Hàn.

(4) Kim Thủy Khảm Hỏa vận nhập quái, hỗn tạp định cát hung.

(5) Thái Âm thuộc thủy, nhập quái dụng sự.

(6) Phối tượng nhập tích toán

(7) Tích toán khởi số 28

(8) Chính là quy tắc tiết kiệm nhập dương, lay động hào Cửu Nhị, thể quy về dương (âm???!!!) nhập quẻ Truân.

Posted Image

(Chấn dưới Khảm trên) Truân

Nọi ngoại cương trưởng, âm dương thăng giáng, động mà hiểm. Phàm là khởi đầu của vật, đều xuất hiện cái sự trước khó sau dễ. Nay Truân thì âm dương giao tranh, trời đất mới bắt đầu phân chia, vạn vật manh nha nảy sinh điềm báo, ở chỗ động khó khăn, cho nên gọi là Truân (gian truân) (1). Cho nên Dịch viết "truân như chiên như" nghĩa là "gian truân tới khốn đốn đến", "thừa mã ban như" nghĩa là thắng ngựa vào xe rồi mà còn vướng vít chưa đi, "khấp huyết liên như" nghĩa là khóc chảy máu mắt (2). Khó mà định là thông được. Dịch nói, "nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự" nghĩa là người con gái kiên quyết không hứa hôn, mười năm sau mới có thể hứa hôn (3). Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4). Thế được thấy ở trên đó, còn đại phu Ứng

(QNB chú: dịch nguyên văn "Thế thượng kiến, đại phu ứng", không rõ là có sự thất bản nào đó không, chứ Kinh Phòng theo lệ ước định địa vị ngôi thứ cho các hào là Hào Sơ = nguyên sĩ, Hào Nhị = đại phu, Hào Tam = tam công, Hào Tứ = chư hầu, Hào Ngũ = Thiên Tử, Hào Lục = tông miếu; do quẻ Truân này là do quẻ Thuần Khảm biến lần 2 ở hào 2 mà thành, cho nên Thế ở hào 2 còn Ứng ở hào 5, như vậy phải gọi là Thiên tử Ứng mới phải, sao nói là Đại phu Ứng được. Độc giả lưu ý).

Chí tôn âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, có thể xác định khó khăn ở cái Thế của mông muội. Kiến Ất Dậu tới Canh Dần (5). Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Hư theo vị trí giáng Canh Dần (8), phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Dương thích âm, nhập trung nữ, Tý Ngọ tương địch (đối kháng qua lại), thấy cát hung (10).

(1) Thủy ở phía trên của Lôi, như mây sấm giao kết dấy lên, trời đất mông muội, sơ khai của kinh luân, chẳng xuất phát ở chỗ này vậy.

(2) Đang lúc của cảnh khó khăn gian truân, vẻ ngoài dùng dằng chẳng tiến.

(3) Tự, ái dã (Hứa hôn, yêu thích vậy). Thời thông thì đạo hanh, hợp chính thất vậy.

(4) Canh Dần mộc, Mậu Thìn thổ.

(5) Thu Phân, Lập Xuân.

(6) Thổ Mộc phối bản cung khởi tích toán.

(7) Mộc tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Hư nhập vị trí hào Lục Nhị Canh Dần.

(9) Xác định số của cát hung.

(10) Động nhập Ly tượng gặp Ký Tế.

QNB chú thêm:

- Trước đây tôi dịch không kỹ, đã bỏ sót câu “Thổ Mộc ứng tượng thấy cát hung, cùng với Chấn là Phi Phục (4).” Nay bổ xung thêm cho đầy đủ vậy, xin cáo lỗi cùng độc giả.

- Ở câu ngay sau đó “Thế thượng kiến…” tôi đọc lại thì phát hiện ra bản Hán ngữ mà tôi có bị lỗi ở cách dùng dấu ngắt câu, cho nên mới dẫn đến băn khoăn về Thế - Ứng quẻ này. Nay xin sửa lại như sau:

“Thế thượng kiến đại phu, Ứng chí tôn, âm dương đắc vị, quân thần tương ứng, khả dĩ định nan vu thảo muội chi thế”

nghĩa là

Thế được thấy ở trên hào Đại Phu (hào 2), còn Ứng là hào Chí Tôn (hào 5), âm dương đắc vị, vua và tôi thần tương ứng, có thể an định được cái khó khăn ở cái thế của mông muội.

Posted Image

(Ly dưới Khảm trên) Ký Tế

Hai khí không xung, âm dương đối kháng thể, Thế Ứng phân chia, quân thần cương nhu đắc vị, gọi là Ký Tế (đã được việc) (1). Cùng với Ly là Phi Phục (2). Thế tới gặp tam công, Ứng tới gặp tông miếu. Nội ngoại âm dương tương ứng, Khảm Ly tương nạp (tiếp nhận qua lại), trên dưới giao kết (3). Ngũ hành tương phối, cát hung dựa vào hào tượng (4).

Kiến Bính Tuất cho đến Tân Mão (5), quái khí phân chia Tiết Khí, mới đầu Bính Tuất thụ nhận khí, cho đến Tân Mão thành chính. Tượng khảo xét lục vị, phân chia cương nhu, xác định cát hung. Tích toán khởi Tân Mão cho đến Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu (6).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7). Tú Nguy theo vị trí giáng Kỷ Hợi (8). Phân khí hậu hai mươi tám (9). Khảm nhập Đoài, là tích âm, hai tượng phân chia, đều âm, thượng hạ phản phục quẻ biến Cách (10).

(1) Ly Khảm phân chia Tý Ngọ, nước trên lửa dưới, tính chất tương giao đối kháng, không xa cách nhau, cho nên gọi là Ký Tế vậy.

(2) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(3) Khảm thủy nhuận xuống, Ly hỏa bốc lên. Hai khí tương giao làm Ký Tế.

(4) Điềm của cát hung, thấy ở hào tượng.

(5) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(6) Thổ Mộc gặp vận nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Chòm sao Nguy nhập Kỷ Hợi.

(9) Xác định chủng loại của lục hào, khảo xét điềm của cát hung.

(10) Khảm nhập Cách, hào Lục Tứ lay động vậy, nhập dương biến thể làm âm vậy.

Posted Image

(Ly dưới Đoài trên) Cách

Hai âm tuy giao kết, cái chí chẳng tương hợp, cái thể tích lũy âm nhu, hào tượng cương kiện, có thể cải cách biến đổi. Đoài trên Ly dưới (1). Sự việc trên dưới tích âm, điềm của biến cải, thể của hình thành vật, cho nên gọi là Cách. Dịch nói, "quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện" nghĩa là người quân tử như con báo biến chuyển còn tiểu nhân thì thay đổi bộ mặt. Cùng với Đoài là Phi Phục (2).

Chư hầu đương Thế, gặp nguyên sĩ Ứng. Các hào Cửu Ngũ, Lục Nhị là dấn bước chính vị, trời đất thay đổi chuyển biến, nhân sự tùy theo mà thay đổi vậy (3).

Kiến thủy Đinh Hợi cho đến Nhâm Thìn (4). Thủy Thổ phối vị (5). Tích toán khởi Nhâm Thìn cho đến Tân Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (6). Tú Thất theo vị trí giáng Đinh Hợi (7). Phân chia khí hậu ba mươi sáu, số của nó khởi nguyên thủ (8).

Trên Kim dưới Hỏa, Kinh tích Thủy mà làm khí (9), Hỏa biến sinh mà làm cho thành thục. Sinh sôi thuần thục bẩm khí ở âm dương, phân cách ở vật, vật cũng biến hóa vậy (10). Dịch nói, "Kỷ nhật nãi phu" nghĩa là ngày kỷ chính là thành tín tin tưởng (11). Âm dương thay đổi từ đầu, động để mà thấy cát hung (12). Động mà nhu, đương vị cương, tụ hội vinh quang hiển hách, Cách biến tới Phong (13).

(1) Ở giữa rỗng trống.

(2) Đinh Hợi thủy, Mậu Thân kim

(3) Canh đó là biến đổi vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Thổ Thủy nhập quái.

(6) Thổ tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Thất nhập quẻ Cách, Đinh Hợi thổ.

(8) Phân tượng số của âm dương, cát hung sinh sôi vậy.

(9) Khí có thể thịnh nạo vào vật.

(10) Ngũ hành giống như ngũ sắc, ngũ sắc giống như vạn vật, bẩm hòa khí, khí tiết thuận, cương tức là nghịch, nghịch tức là phản, phản tức là bại.

(11) Tạo lòng tin từ sự thành tín vậy

(12) Chấn, chủ động vậy.

(13) Ngoại quái Đoài nhập Chấn làm quẻ Phong.

Posted Image

(Ly dưới Chấn trên) Phong

Sấm lửa giao động, cương nhu tán khí, tích thì ám, động là minh. Dịch nói, "phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, nãi hung" nghĩa là nhà to đẹp cao kín, ghé mắt dòm qua cửa chẳng thấy ai cả, ba năm chẳng gặp gỡ, chính là hung (1).

Hỏa Mộc phân tượng, phối với tích âm, cùng Chấn là Phi Phục (2). Âm ở chỗ chí tôn làm Thế, còn đại phu kiến Ứng. Quân thần tương ám, thế có thể biết được. Tôi thần mạnh mà quân vương yếu nhược, là khởi đầu của loạn thế.

Kiến Mậu Tý tới Quý Tị (3). Lôi với Hỏa chấn động gọi là Phong (phong phú to lớn). Thích hợp với giữa trưa mặt trời ở chính giữa, Hạ Chí tích âm sinh Phong, làm nên ngay chính ứng đáp, cát hung có thể thấy vậy (4). Tích toán khởi Quý Tị cho đến Nhâm Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (5).

Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Bích theo vị trí giáng Canh Thân (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8). Trên mộc dưới hỏa, khí bẩm thuần dương, âm sinh ở bên trong, dương khí tạp, tính ngay chính bị tan vỡ, loạn cực chính là phản chuyển, làm Du Hồn, nhập tích âm (9). Âm dương thăng giáng, phản chuyển quay về gốc, biến thể với hữu vô, điềm của cát hung hoặc thấy có (hữu) hoặc thấy không (vô). Thể của âm dương, không thể chấp nhất cứng nhắc làm quy định. Tượng với bát quái, dương lay động âm, âm lay động dương, hai khí tương cảm mà thành thể, hoặc ẩn hoặc hiện. Cho nên Hệ nói, "Nhất âm nhất dương chi vị đạo" nghĩa là một âm một dương gọi là đạo (10). Ngoại quái Chấn giáng nhập Minh Di (11).

(1) Hào Thượng Lục tích ám mà động, hung. Hướng ở trên phản chuyển xuống, gặp điềm của âm.

(2) Canh Thân kim, Mậu Tuất thổ.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Mặt trời ở giữa trời vậy.

(5) Hỏa Thổ khởi toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Chòm sao Bích nhập Khảm cho tới Phong, Canh Thân nhập Thổ.

(8) Tích toán định lục vị, khởi số 28.

(9) Chấn nhập Khôn vậy.

(10) Cái Một là đạo vậy.

(11) Thứ tự nhập quẻ Minh Di.

Posted Image

(Ly dưới Khôn trên) Minh Di

Tích âm lay động dương, lục vị tổn thương lẫn nhau. Ngoại thuận mà ngăn cách với cái quang minh, chốn ám tối chẳng phân biệt được (1), tổn thương đối với chính đạo, gọi là Minh Di (ánh sáng bị diệt) (2). Ngũ hành thăng giáng, bát quái lay động lẫn nhau, biến dương nhập thuần âm (3), đạo âm nguy, đạo dương an ổn, cho nên với Chấn là Phi Phục (4). Tổn thương cái quang minh mà động chính là thấy cái chí nguyện (5), thoái vị nhập hào Lục Tứ. Chư hầu tại Thế, nguyên sĩ làm Ứng. Vua ám tôi thần minh, chảng thể ngăn cản (6).

Kiến khởi Lục Tứ Quý Tị cho đến Mậu Tuất (7). Tích toán khởi Mậu Tuất đến Đinh Dậu, quay vong trở lại ban đầu (8). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (9), tú Khuê theo vị trí giáng Quý Sửu (10). Phân chia khí hậu số ba mươi sáu (11). Địa có Hỏa, minh ở bên trong, ám ở bên ngoài, người quan trọng từ quan ở ẩn, làm mọi người nghi hoặc, cái đó và tổn thương với sự quang minh. Dịch viết, "tam nhật bất thực, chủ nhân hữu ngôn" nghĩa là ba ngày chẳng ăn uống, người chủ có nói tới. Âm dương tiến thoái, Kim Thủy gặp Hỏa, khí chẳng tương hợp, sáu vị trí lay động qua lại, bốn mùa vận động, tĩnh chính là quay về gốc, cho nên viết Du Hồn (12). Thứ tự giáng Quy Hồn nhập quẻ Sư.

(1) [chuyên nhất làm quang minh]

(2) Cái Di ấy, bị tổn thương vậy.

(3) Xuân Hạ hướng tới Thu Đông vậy.

(4) Quý Sửu thổ, Canh Ngọ hỏa.

(5) Chấn động vậy.

(6) Cơ Tử với Trụ vậy.

(7) Du Hồn và số hào Lục Tứ, khởi Tiểu Mãn cho đến Hàn Lộ.

(8) Thổ Kim nhập quái khởi toán số.

(9) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái.

(10) Chòm sao Khuê nhập Minh Di, phối trên hào Lục Tứ Quý Sửu thổ.

(11) Số 36 nhập quái, khởi toán suy đoán cát hung.

(12) Vỗn dĩ lấy cung nhập quái tương đãng lay động lẫn nhau, sáu vị trí đùn đẩy chuyển dời vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Khôn trên) Sư

Biến Ly nhập âm, dương ở chính đạo, quay về gốc quy Khảm, dương tại chỗ giữa vậy (1). Chỗ giữa của hạ quái, là chủ của âm, lợi với việc xuất quân. Dịch nói, "Sư giả, chúng dã" nghĩa là cái quân đội đó, đông đúc vậy. Nhiều âm mà tông chỉ ở tại một, một dương được điềm của nó, chính trực vậy. Cùng với Ly là Phi Phục (2). Âm dương lạnh nhạt với nhau, cương nhu thay đổi vị trí (3). Thế chủ tam công, Ứng là tông miếu.

Kiến thủy Nhâm Thìn cho tới Đinh Dậu (4). Tích toán khởi Đinh Dậu cho đến Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ (7). Phân chia khí hậu hai mươi tám (8).

Dưới đất (Địa) có nước (Thủy), quay về vị trí gốc, Lục Ngũ cư âm ở chỗ vị trí của dương, Cửu Nhị trinh chính, có thể làm vua của đám đông, chẳng tan rã đám dông. Dịch nói, "Sư trinh, trượng nhân cát" nghĩa là xuất quân phải kiên trì tiết hạnh, người lão trượng tốt lành. Nhập quái mới đầu ở Khảm, âm dương lay động lẫn nhau, phản chuyển cho đến chỗ cực, thì quy về gốc Khảm trung nam (9). Thăng giáng được mất, cát hung hối lận, trù tính ở lục hào. Cái thiết lập trù tính của lục hào, xuất ra ở cỏ Thi, cỏ Thi đó được tượng mà quẻ sinh ra. Tích toán khởi với ngũ hành, ngũ hành chính thì cát, còn cực thì hung. Tượng của cát hung, hiển hiện ở thiên địa nhân sự nhật nguyệt tuế thời.

Cái biến của Khảm quay về Cấn, Cấn là thiếu nam, thiếu nam ngụ ở ngọn của quái, là cực vậy (10). Theo thứ tự nhập quẻ Cấn.

(1) Nội quái Khảm là bản cung.

(2) Ly nhập Khảm vậy.

(3) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Mùi thủy.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Kim Hỏa nhập quái khởi toán.

(6) Tuế Tinh Mộc nhập quái.

(7) Chòm sao Lâu nhập quẻ Khảm Quy Hồn ở hào Lục Tam.

(8) Khởi toán nhập quái cát hung.

(9) Dương cư Cửu Nhị gọi là trung nam.

(10) Chấn nhất dương cư ở hào Sơ, Khảm hào nhị dương ở giữa, Cấn hào tam dương ở chỗ ngọn của quái, cho nên viết dương cực là thiếu nam, lại nói ngừng nghỉ vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Cấn trên) Cấn

Càn phân thành tam dương là Trưởng Trung Thiếu, cho đến Cấn là Thiếu Nam, bản thể thuộc dương, dương cực thì ngừng, phản sinh âm tượng. Dịch nói, "Cấn, chỉ dã" nghĩa là ngưng bền, ngừng lại vậy. Ở người là tay, là lưng, thủ tượng (áp dụng tượng) là núi, là đá, là chó.

Thượng Cấn hạ Cấn, hai tượng đều thuộc Thổ Mộc (còn có nghĩa là những công trình có thiết kế bằng gỗ), phân chia khí hậu, cùng với Đoài là Phi Phục (1). Thế gặp ở trên tông miếu, còn tam công là Ứng. Âm dương chuyển dời thứ tự, lớn nhỏ phân chia hình hài (2). Canh Dần cho đến Ất Mùi (3). Âm trưởng dương cực, thăng giáng lục vị, tiến thoái thuận thời, tiêu tức đầy vơi. Tích toán khởi Canh Dần cho đến Kỷ Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Vị theo vị trí biên cương của Dần (ám chỉ phối hào ở tận trên cùng) (6). Phân số vị ba mươi sáu (7). Kim Mộc đối kháng qua lại, thăng giáng với thời (/mùa). Cấn ngưng nghỉ với vật, gách vác với vật. Dịch nói, "thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành" nghĩa là thời điểm ngừng thì ngừng mà thời điểm đi thì đi. Cương cực dương phản chuyển, âm trưởng tích khí, ngừng lại ở hào Cửu Tam. Hào Sơ Lục biến dương, dẫn đến ở giữa rỗng trống, văn minh ở bên trong, thành ra Bí. Theo thứ tự giáng nhập quẻ Bí.

(1) Bính Dần mộc, Đinh Mùi [thổ]. Là Thiếu Nam, chọn thiếu nữ mà phối qua lại.

(2) Càn sinh 3 con trai, đến tới Cấn cực, Thiếu với Trưởng phân chia hình dạng, Trưởng với Trung cũng phân chia, cùng thấy được vật.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Mộc thượng nhập quái.

(5) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái

(6) Chòm sao vị nhập quái phân chia vị trí.

(7) Phối vị lục quái, phân cát hung.

Posted Image

(Ly dưới Cấn trên) Bí

To lớn, hanh thông. Lấy tượng trên/trước đó [trên/trước đó đương làm Sơ] Lục nhu tới phản chuyển dương. Cửu Nhị [Cửu Nhị đương làm Thượng Cửu] cương ở trên che đậy nhu, thành cái thể của Bí (trang sức đẹp đẽ), ngưng lại ở văn minh. Cái Bí đó, trang sức tô điểm vậy (Bí giả, sức dã). Ngũ sắc chẳng thành, nên gọi là Bí, lụa màu hoa văn lẫn lộn vậy.

Dưới núi có lửa, áp dụng tượng văn minh, Hỏa Thổ phân chia tượng, cùng với Ly là Phi Phục (1). Thế lập ở nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Âm nhu cư tôn quý, che đậy cái nhu đương thời, sắc tố trắng trên cao, vương hầu không mệt mỏi. Dịch nói, "Bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên" nghĩa là trang sức tô điểm cho gò đồi lăng tẩm, bó lụa nhỏ bé còn dư lại.

Thiết lập khởi đầu Tân Mão cho tới Bính Thân (2). Tích toán khởi Bính Thân cho đến Ất Mùi, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (4), tú Mão theo vị trí giáng Kỷ Mão (5). Phân chia khí hậu hai mươi tám (6). Thổ Hỏa Mộc phân chia, âm dương tương ứng là đối kháng, thể Thượng Cửu, tích dương sắc trắng ở trên, toàn thân xa rời tổn hại, chính đạo của sang quý, khởi từ tiềm ẩn cho đến dụng cửu (7). Âm dương thăng giáng, thông biến tùy thời, Ly nhập Càn, sinh ra Đại Súc, thứ tự giáng Lục Nhị rỗng giữa thành ra 3 vạch liền, nhập quẻ Đại Súc (8).

(1) Kỷ Mão mộc, Bính Thìn thổ.

(2) Xuân Phân, Lập Thu.

(3) Kim Thổ nhập quái khởi toán.

(4) Trấn tinh nhập quái.

(5) Chòm sao Mão phối quẻ Bí ở Sơ Cửu, dương vị khởi toán.

(6) Khởi lục vị ngũ hành, toán cát hung.

(7) Giả lập Càn sơ thượng làm ví dụ vậy.

(8) Âm tiêu dương trưởng.

Posted Image

(Càn dưới Cấn trên) Đại Súc

Dương trưởng âm tiêu, tích khí ngưng thịnh, ngoại ngưng nghỉ nội tráng kiện, hai âm hãy còn thịnh, tạo thành cái nghĩa Súc (vật nuôi). Dịch nói, "ký xử" nghĩa là đã thực hiện. Súc tiêu lưu hành hợp thời, dương vị có thể tiến, áp dụng ở hạ quái, trọn vẹn cái đạo tráng kiện của nó, quân tử theo thời, thuận cát hung của nó. Cùng với Càn là Phi Phục (1).

Kiến thủy Nhâm Thìn cho đến Đinh Dậu (2). Tích toán khởi Đinh Dậu cho tới Bính Thân, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4). Tú Tất theo vị trí giáng Giáp Dần (5). Cửu nhị đại phu ứng Thế, còn Ứng ở Lục Ngũ làm chí tôn, âm dương tương ứng, lấy nhu cư tôn quý, là chủ của Súc.

Phân khí hậu hai mươi tám (6). Dưới Sơn (núi) có Càn (trời), Kim Thổ cung cấp trợ giúp qua lại, dương tiến âm dừng, tích mưa nhuận xuống, đạo Súc có lợi vậy. Càn tượng nội tiến, đạo vua lưu hành vậy. Cát hung thăng giáng, âm dương đắc vị. Nhị khí tương ứng, dương ở trên lạnh nhạt với âm, đạo âm ngưng kết, bên trên dương trưởng làm mưa, phản chuyển xuống 9, cư cao vị, cực ở đạo Súc. Phản dương là âm, nhập vào Đoài tượng. Lục Tam ứng Thượng Cửu, trên có dương cửu phản ứng Lục Tam, thành đạo Tổn. Thứ tự giáng quẻ Tổn (7).

(1) Giáp Dần mộc, Bính Ngọ hỏa.

(2) Thanh Minh, Thu Phân.

(3) Kim Thổ nhập quái, phân cát hung khởi toán.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái suy đoán cát hung.

(5) Chòm sao Tất nhập quẻ Đại Súc trên hào Cửu Nhị Giáp Dần.

(6) Số của cực âm dương, định điềm của cát hung.

(7) Càn nhập Đoài, Cửu Tam chi biến Lục Nhị [Lục Nhị đương tác Lục Tam].

Posted Image

(Đoài dưới Cấn trên) Tổn

Trạch tại Sơn hạ (Đầm ở dưới Núi), thấp hèn với núi, núi cao ở trên, tổn hại đầm mà tăng thêm cho núi. Thành cái nghĩa của độ cao, quyết định ở hào Lục Tam. Ở đạo của tôi thần, phụng sự vua lập thành. Dịch nói, "Tổn hạ ích thượng" nghĩa là giảm bên dưới mà tăng thêm bên trên (1). Cùng với Đoài làm Phi Phục (2). Tam công cư Thế, tông miếu Ứng (3).

Thiết lập bắt đầu Quý Tị cho đến Mậu Tuất (4). Tích toán khởi Mậu Tuất cho đến Đinh Dậu, quay vòng trở lại ban đầu (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Chủy theo vị trí giáng Đinh Sửu (7). Thổ tinh nhập quái phối cát hung, âm dương lay động qua lại các vị trí không ngừng (8). Sáu hào có cát hung, bốn mùa biến đổi, chẳng thể chấp nhất hành động khuôn phép (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Âm dương thăng giáng, thứ đến Cấn nhập Ly, gặp tượng của Khuê. Tổn tăng thêm sáu hào, cương trưởng tiếp đến nhập quẻ Hỏa Trạch Khuê.

(1) Càn Cửu Tam biến Lục Tam, âm nhu ích lợi tăng thêm Thượng Cửu, cái nghĩa của tôi thần phụng sự cho vua.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Lục Tam, Thượng Cửu.

(4) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(5) Thổ Hỏa nhập cung khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy Tinh nhập quái dụng sự.

(7) Nhị thập bát tú phối tú Chủy nhập quẻ Tổn lục hào tam [lục hào tam, đương tác lục tam hào], khởi toán năm tháng ngày giờ.

(8) Thổ Kim nhập quẻ Tổn khởi toán, âm dương tương sinh, lục vị biến động không ngừng vậy.

(9) Lục hào cát hung tùy thời thay đổi, hoặc Xuân hoặc Hạ, hoặc Thu hoặc Đông, Tuế Thời vận động.

(10) Hai mươi tám khởi số toán cát hung nhập quái.

Posted Image

(Đoài dưới Ly trên) Khuê

Hai tượng lửa đầm, khí vận (1) không hợp, âm tiêu dương trưởng, áp dụng tượng như thế nào? Duy chỉ có dương là thuận theo. Âm dương động tĩnh, cương nhu phân chia. Trước tiên cách biệt phân ly (Khuê) sau mới hội hợp, cái tiêu tán của nó là thông suốt vậy. Văn minh ở trên chiếu, u ám phân chia vậy (2).

Dịch nói, "kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa, tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ" nghĩa là thấy con heo đội bùn, một xe chở quỷ, đầu tiên giương cung lên, sau lại bỏ cung xuống. Lại nói, "Ngộ vũ tắc cát, quần nghi vong dã" nghĩa là gặp được cát lành của mưa, đám nghi ngờ tiêu vong đi vậy (3).

Cùng với Ly là Phi Phục (4). Chư hầu lập Cửu Tứ làm Thế, hào Sơ nguyên sĩ làm Ứng. Thiết lập mới đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (5). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho tới Mậu Tuất (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Sâm theo vị trí giáng Kỷ Dậu (8). Phân chia khí hậu ba mươi sáu (9). Kim Hỏa nhị vận hợp Thổ cung, phối cát hung với tuế thời. Lục Ngũ âm nhu, ở chỗ văn minh. Cửu nhị [cửu] tứ đắc lập, quyền thần (bề tôi tiếm quyền). Âm dương lay động lẫn nhau, lục vị nghịch chuyển, biến Ly nhập Càn, cương kiện ở tượng ngoài. Khảm [đương làm thứ] nhập Lý (10). Kế đến giáng nhập quẻ Thiên Trạch Lý.

(1) [vừa mới chuyển]

(2) Đoài ở dưới, là tượng của tích âm vậy. Ly ở trên, là minh chiếu xuống dưới.

(3) Trước tiên nghi ngờ, ám vậy; sau được giải thích, sáng tỏ vậy.

(4) Kỷ Dậu kim, Bính Tuất thổ.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Thủy Thổ nhập quái.

(7) Tuế Mộc Tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú phối tú Sâm nhập quái Kỷ Dậu thổ.

(9) Khởi số tích toán.

(10) Âm dương đùn đẩy chuyển dời, biến hóa lục hào, điềm của cát hung, áp vào hào quan trọng. Như tôi thần phụng sự vua, kề cận nhiều âu lo vậy.

Posted Image

(Đoài dưới Càn trên) Lý

Dưới trời có đầm gọi là Lý (dẫm lên, dấn tới, thực hiện, lễ) (1). Đắc vị cát lợi, thất vị hung hiểm (2). Vốn thường thượng cát. Dịch nói, "thị lý khảo tường, kỳ toàn nguyên cát" nghĩa là nhìn cho kỹ việc thực hiện tìm tòi cát tường, cái vòng xoay của nó vốn cát lợi. Cùng với Càn là Phi Phục (3). Lục Bính thuộc bát quái (4), hào Cửu Ngũ đắc vị là Thế, hào Cửu Nhị đại phu hợp Ứng tượng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (5). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Ất Hợi (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tỉnh theo vị trí giáng Nhâm Thân (8). Phân khí hậu, Kim Hỏa nhập quái, khởi ở cực số hai mươi tám (9). Dương nhiều âm ít, tôn chỉ ít là quý, được chỗ dẫm lên của nó mất cái chỗ dẫm lên thì ti tiện. Dịch nói, "miễu năng thị, bả năng lý" nghĩa là chột thường nhìn, què thường dẫm (10). Cát hung lấy văn ấy làm chuẩn. Lục vị đùn đẩy chuyển dời, gom cái thiếu hụt khởi toán số, hưu vượng tướng phá tư ích, có thể định cát hung vậy. Thăng giáng phản vị, quay về dừng ở hào Lục Tứ, nhập âm là quẻ Du Hồn Trung Phu (11).

(1) Cái Lý ấy, lễ nghi vậy.

(2) Đang thời của Lý.

(3) Nhâm Thân kim, Bính Tý thủy.

(4) Cấn, Lục Bính vậy.

(5) Đại Thử, Đại Tuyết.

(6) Kim Thủy nhập quái phối lục vị toán cát hung.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú nhập quái, chòm sao Tỉnh nhập Nhâm Thân.

(9) Số 28 khởi Bình Thìn đoán cát hung.

(10) Lý ấy chẳng phải vị trí của nó, Lục Tam vậy.

(11) Theo thứ tự nhập quẻ Trung Phu.

Posted Image

(Đoài dưới Tốn trên) Trung Phu

Âm dương biến động, lục vị xoay vòng, phản chuyển đến quẻ của Du Hồn (1). Hỗ thể thấy dân [dân đang làm Cấn], ngừng ở tín nghĩa (2). Cùng với Càn là Phi Phục (3). Đạo Cấn thay đổi thăng giáng đều vâng chịu cái tính chính, hào Lục Tứ chư hầu lập Thế, Ứng ở Sơ Cửu nguyên sĩ. Cửu Ngũ thực hiện tin tưởng, Cửu Nhị phản ứng. Khí hậu tương hợp, nội ngoại đối kháng qua lại (4).

Thiết lập ban đầu Canh Tý cho đến Ất Tị (5). Tích toán khởi Ất Tị cho đến Giáp Thìn, quay vòng trở lại ban đầu (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi trấn tinh (7), tú Quỷ theo vị trí giáng Tân Mùi (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Phong với Trạch, nhị khí tương hợp, nhún nhường mà có chủ trương, tin tưởng vào vật. Vật cũng [một lòng chắc chắn] thuận vậy. Dịch nói, "Tín cập đồn ngư" nghĩa là sự thành tín đến cùng với heo sữa và cá (10). Đoài nhập Cấn hào Lục Tam nhập dương nội, nhị dương quy âm, âm dương giao hỗ, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Thứ tụ giáng quẻ Quy Hồn Phong Sơn Tiệm (11).

(1) Kim Mộc hợp Thổ vận nhập quái tượng.

(2) Trung Phu, sự thành tín vậy.

(3) Tân Mùi thổ, Nhâm Ngọ hỏa.

(4) Âm thắng dương, dương thắng âm, cương nhu lạnh nhạt với nhau, lục hào phản ứng, nhu thuận tương hợp, cát hung thấy được vậy.

(5) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(6) Hỏa Thổ nhập quái khởi tích toán.

(7) Trấn Tinh Thổ tinh.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Quỷ nhập quái, suy đoán cát hung.

(9) Phối quái toán vị trí của cát hung.

(10) Heo sữa và cá là những vật của U Vi (sâu sắc tinh vi thâm thúy), sự thành tín còn tới nữa là huống hồ người ta.

(11) Nội kiến Cấn.

Posted Image

(Cấn dưới Tốn trên) Tiệm

Âm dương thăng giáng, quay về gốc gọi là Quy Hồn. Tượng của nó, thấy Cấn ở dưới Tốn, âm trưởng dương tiêu, đạo nhu tiến đến (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2) hào Cửu Tam tam công cư Thế, lấy tông miếu làm Ứng.

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (3). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Liễu theo vị trí gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu hai mươi tám (7).

Trên mộc dưới thổ, Phong nhập vào Cấn tượng, tượng của thoái lui dần dần (Tiệm) vậy. Hỗ thể gặp Ly, chủ giữa có văn minh. Hào Cửu Ngũ truyền vị, được đạo tiến lên sáng tỏ vậy (8). Lục Nhị âm nhu đắc vị, Ứng chí tôn. Dịch nói, "Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản" nghĩa là chim Hồng từ từ lượn quanh tới, ăn uống vui vẻ (9). Âm dương thăng giáng, bát quái tương tận, sáu mươi tám hào âm dương lẫn lộn nhau, đạo thuận tiến thoái, lần lượt với thời (mùa) vậy. Vị trí của thiếu nam, phân tại bát quái, cuối cùng cực đạo dương vậy. Dương cực thì âm sinh, đạo nhu tiến vậy. Giáng nhập tám quẻ cung Khôn (10).

(1) Cấn biến tám quẻ cuối cùng ở Tiệm, Tiệm cuối cùng giáng nhập Khôn, phân trưởng nữ, điềm của tam âm vậy, đạo nhu tiến hành vậy.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(4) Thổ Mộc gặp vận nhập quái toán cát hung.

(5) Quẻ của Thái Bạch tây phương định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, chòm sao Liễu nhập quái định cát hung.

(7) Định số phối cát hung nhập quái khởi toán.

(8) Cửu Ngũ ở trên của quẻ hỗ thể, tiến tới văn minh vậy.

(9) Người hiền tài tiến lên vị trí vậy.

(10) Quẻ dương 32 cung là dương, Càn Chấn Khảm Cấn vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển trung)

Posted Image

(Khôn dưới Khôn trên) Khôn

Thuần âm dụng sự (đương quyền), tượng phối địa, thuộc thổ, đạo nhu rạng rỡ vậy. Âm ngưng cảm, cùng với Càn tương nạp, tôi thần phụng sự quân vương vậy. Dịch nói, "Hoàng thường, nguyên cát" nghĩa là y phục đế vương, thuận lợi lớn. Lục Nhị nội quái, âm ở giữa, đạo tôi thần chính trực vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tông miếu cư Thế, tam công là Ứng. Vị miễn long chiến chi tai (khó tránh cái tai họa của rồng chiến đấu), vô thành hữu chung (chẳng trọn vẹn đến cuối được) (2). Sơ lục bắt đầu dầm sương (khởi lý sương), cho tới chỗ băng cứng (kiên băng). Âm tuy nhu thuận, khí cũng kiên cường, là không có tà khí vậy.

Thiết lập ban đầu Giáp Ngọ cho đến Kỷ Hợi (3). Tích toán khởi Kỷ Hợi cho đến Mậu Tuất, quay vòng trở lại ban đầu (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tây Nam phương của quẻ (6). Tú Tinh theo vị trí giáng Quý Dậu kim (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Trong âm có dương khí, tích vạn tượng, cho nên viết, âm trong âm. Âm dương nhị khí, thiên địa tương tiếp (tiếp cận qua lại), nhân sự cát hung, thấy ở tượng của nó. Lục vị thích hợp biến hóa, bát quái phân chia vậy (9). Âm dù hư nạp, ở chỗ dương vị lại xứng với thực (10). Thăng giáng phản phục, chẳng thể trường cửu một chỗ. Thiên biến vạn hóa, cho nên gọi là Dịch. Cái Dịch ấy, biến hóa vậy. Âm cực thì dương đến, âm tiêu thì dương trưởng, suy thì thoái, thịnh thì chiến. Dịch nói, "thượng lục, long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng, dương thuộc" nghĩa là hào Thượng Lục, rồng đánh nhau ngoài đồng, máu của chúng đen vàng đan lẫn, dương thuộc (11). Dương lay động âm, nội quái Khôn hào Sơ Lục vừa biến nhập dương, viết Chấn. Âm thịnh dương suy, cái nghĩa của tiệm lai (dần dần đến), cho nên gọi là Phục. Theo thứ tự dương nhập quẻ Địa Lôi Phục.

(1) Quý Dậu kim, Nhâm Tuất thổ.

(2) Âm thành dương vua tôi chẳng dám làm chỗ khởi đầu của vật, dương xướng âm hòa theo, cái sự việc vua lệnh thần chết vậy (quân mệnh thần chung kỳ sự dã).

(3) Mang Chủng, Tiểu Mãn.

(4) Thuần Thổ dụng sự, nhập tích toán, định cát hung.

(5) Thái Âm Thủy tinh nhập quái.

(6) Trấn tinh nhập quái, phối Khôn tây nam.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Tinh nhập quái giáng Khôn thượng lục Quý Dậu kim.

(8) Khởi tích laf số 36.

(9) Lục vị biến động, bát quái hiển lộ theo.

(10) Các loại của Lục Ngũ, Lục Tam vậy.

(11) Càn phối Tây Bắc, chỗ tích âm, âm thịnh, cho nên chiến. Càn Khôn cũng cư trú, khí tạp của trời đất, gọi là huyền hoàng vậy.

Posted Image

(Chấn dưới Khôn trên) Phục

Âm cực tắc phản, đạo dương lưu hành vậy (1). Dịch nói, "quân tử đạo trưởng, tiểu nhân đạo tiêu" nghĩa là đạo của quân tử lớn mạnh lên, đạo của tiểu nhân tiêu tán đi. Lại nói rằng "thất nhật lai phục" nghĩa là bảy ngày quay trở lại (2). Danh xưng của việc lục hào phản phục (3). Dịch nói, "sơ cửu, bất viễn, phục, vô kỳ hối" nghĩa là hào Sơ Cửu, chưa xa, quay trở lại, không có gì hối hận (4). Lục hào, cái tên gọi tổng thể của quẻ thịnh hành vậy. Nguyệt nhất dương là chủ của một quẻ, với Chấn là Phi Phục (5). Thế ở hào Sơ Cửu nguyên sĩ, hào Lục Tứ chư hầu thấy Ứng.

Thiết lập ban đầu Ất Mùi cho tới Canh Tý (6). Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy thấy ở Hậu, Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Trương theo vị trí giáng Canh Tý (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10).

Khôn ở trên, Chấn ở dưới, động mà thuận, chính là dương đến lay động âm, âm nhu phản chuyển mất đi, cương dương trở lại vị trí cũ, quân tử tiến, tiểu nhân thoái. Dịch nói, "hưu phục, nguyên cát" nghĩa là trở lại tốt lành, cát lợi lớn. Dương thăng âm giáng, biến Lục Nhị nhập Đoài tượng. Theo thứ tự lâm 2 dương cùng tiến, nội là vui vẻ (duyệt, đoài), âm đi dương tới, khí dần dần to lớn (11). Nhập quẻ Địa Trạch Lâm.

(1) [một lòng chính trực].

(2) Thất nhật danh xưng của dương vậy. Thất cửu, số của dương vậy. Nói là Khôn thượng lục âm cực, chỗ của dương chiến đấu, âm dù chẳng thể thắng dương, nhưng mà trong lúc thịnh thì dương chẳng thể coi thường mà trái phép. Lục dương biến đổi lục âm, phản chuyển xuống hào 7, tại chỗ Sơ, cho nên gọi là thất nhật. Mà nhật cũng là dương vậy.

(3) Chú phía trước.

(4) Phản chuyển tới Sơ Cửu, dương tới âm lại đi vậy.

(5) Canh Tý thủy, Ất Mùi thổ.

(6) Đại Thử, Tiểu Tuyết thấy ở Hậu, khởi Khôn tháng sáu cho đến tháng mười một, Mậu Tý là Chính Sóc, thấy điềm của Phục.

(7) Tích toán khởi Canh Tý cho đến Kỷ Hợi, tháng mười đến tháng mười một, năm cũng như vậy.

(8) Tuế Tinh Mộc Tinh nhập quẻ Phục, hợp Thủy Thổ phối cát hung.

(9) Nhị thập bát tú phân tú Trương nhập quẻ Phục trên Canh Tý thủy.

(10) Tích toán khởi số 28, định cát hung lục hào.

(11) Âm chẳng dám cự dương, phụng mệnh mà thôi.

Posted Image

(Đoài dưới Khôn trên) Lâm

Dương trưởng âm tiêu, vui vẻ mà thuận, Kim Thổ ứng Hậu, cương nhu phân chia, Chấn nhập Đoài, Nhị dương cương, bản thể âm nhu, giáng nhập Lâm (đến, tới nơi, gặp). Cái lâm ấy, thời gian/thời tiết/thiên nhiên vậy. Hào dương sung sức thuận, âm thoái lui tản mát. Dịch viết, "Quân tử chi đạo" nghĩa là đạo của người quân tử. Dịch nói, "chí vu bát nguyệt hung" nghĩa là đến tháng Tám hung (1). Dương trưởng, lục hào phản phục, cái đường lối của cát hung có thấy vậy (2).

Cùng với Đoài là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị đại phu lập Thế, hào Lục Ngũ chí tôn Ứng ở vị trí bên trên. Thiết lập mới đầu Bính Thân cho tới Tân Sửu (4). Bảy tháng tích khí, cho đến tháng 6, cát hung tùy hào mà khảo sát ô trọc hay bề thế (5). Tích toán khởi Tân Sửu cho đến Canh Tý (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Dực theo vị trí tại Đinh Mão (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Khôn hạ xuống gặp Đoài, vui sướng thấm nhuần (duyệt trạch) tới gặp, dương thăng âm giáng, nhập tam dương thành Càn tượng. Nhập Khôn tức quẻ Thái (10). Ngoại Khôn tích âm, nội Đoài cũng là âm, hai âm hợp thể, đạo của nhu thuận, không thể xem quẻ (trinh). Cát hung theo thời (mùa), phối ở lục vị, dụng ở hào của dương trưởng. Thành cái nghĩa của Lâm, hào Lục Tam biến hào dương, tới giáng nhập quẻ Thái (11).

(1) Kiến Sửu cho tới Mùi vậy.

(2) Tới tháng tám nhập Độn.

(3) Đinh Mão mộc, Ất Tị hỏa.

(4) Lập Thu, Đại Hàn.

(5) Vượng thì bề thế, suy thì ô trọc.

(6) Tích toán khởi Kim Thổ nhập quái.

(7) Huỳnh Hoặc Hỏa Tinh nhập quái dụng sự.

(8) Nhị thập bát tú, chòm sao Dực nhập quái trên hào Cửu Nhị mộc.

(9) Đinh số của âm dương, khởi ở 36 tích toán.

(10) Quẻ Lâm có nội tượng đầu tiên dương trưởng, bức ép âm mà thành Càn, là tượng của Thái.

(11) Thứ tự đến nhập quẻ Địa Thiên Thái.

Posted Image

(Càn dưới Khôn trên) Thái

Hai tượng Càn Khôn hợp làm một vận. Thiên nhập địa giao, an ổn (Thái) vạn vật sinh sôi vậy. Tiểu qua đại tới, dương trưởng âm suy, hai khí Kim Thổ giao hợp. Dịch nói, cái Thái ấy, hanh thông vậy. Thông ở trời đất, sinh trưởng ở phẩm vật. Dương khí nội quái tiến lên, âm khí giáng xuống, đường lối của thăng giáng, thành ra tượng Thái.

Cùng với Càn là Phi Phục (1). Tam công lập Thế, Thượng Lục tông miếu làm Ứng hậu. Thiết lập ban đầu Đinh Dậu cho đến Nhâm Dần (2). Tích toán khởi Nhâm Dần cho đến Tân Sửu, quay vòng trở lại ban đầu (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (4), tú Chẩn theo vị trí giáng Giáp Thìn. Phân khí hậu hai mươi tám (5).

Dưới đất có trời, đạo dương dần dần trưởng, chẳng thể cực. Cực thì không thành (6). Tồn dư cái nghĩa của Thái, tại chỗ hào Lục Ngũ, âm cư dương vị, có thể thuận với dương. Âm dương tương nạp, nhị khí tương cảm, cuối cùng ở đạo Thái. Ngoại quái thuần âm, dương tới, cương nhu thành ra tượng Chấn giáng, dương thăng cư bên trên Càn thành ra quẻ Đại Tráng (7).

(1) Giáp Thìn thổ, Ất Mão mộc.

(2) Thu Phân, Lập Xuân.

(3) Trên vị trí của Kim Thổ khởi tích toán cát hung.

(4) Thổ inh nhập quái.

(5) Tích toán khởi số 28 ở vị trí Giáp Thìn.

(6) Tam dương ắt phải bốc lên, Khôn xuôi thuận mà đi qua, đi qua mà chẳng dứt, hỏng đạo.

(7) Thứ tự giáng âm thăng dương, nhập quẻ Lôi Thiên Đại Tráng.

Posted Image

(Càn dưới Chấn trên) Đại Tráng

Hai tượng nọi ngoại, động mà tráng kiện. Dương thắng âm mà làm Tráng (1). Dịch viết, "đê dương xúc phiên, luy kỳ giác" nghĩa là dê đực húc rào bị mắc cái sừng của nó. Tiến thoái khó khăn vậy. Tráng chẳng thể cực, cực thì bại, vật chẳng thể cực, cực thì phản. Cho nên viết, "quân tử dụng võng, tiểu nhân dụng tráng" nghĩa là quân tử thì dùng mưu trí, tiểu nhân thì dùng sức lực.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu là Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Tuất cho đến Quý Mão (3). Tích toán khởi Quý Mão cho đến Nhâm Dần (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Giác theo vị trí giáng Canh Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Sấm ở trên trời, tráng kiện mà động. Dương thăng âm giáng, dương đến lay động âm, cát hung tùy hào, kế sách ở bốn mùa. Hào Cửu Tứ Canh Ngọ, vị trí của hỏa, nhập Khôn là gốc của quẻ, khởi ở Tý, diệt ở Dần. Âm dương tiến thoái, lục vị chẳng cư, xoay vòng khắp lục hư. Ngoại tượng Chấn nhập Đoài, là âm vui vẻ, thích hợp hào làm cương trưởng, thứ đến giáng nhập quẻ Quải. Dương đinh đoạt tượng của âm, nhập quẻ Trạch Thiên Quải.

(1) Nội dương thăng giáng, hai tượng đều dương gọi là Đại Tráng.

(2) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(3) Hàn Lộ cho tới Xuân Phân.

(4) Thổ Mùi nhập quái khởi tích toán.

(5) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái phối tú Giác nhập quẻ Đại Tráng tại Canh Ngọ hào Cửu Tứ.

(7) Tích toán khởi số Canh Ngọ hỏa, định cát hung.

Posted Image

(Càn dưới Đoài trên) Quải/Quái

Cương quyết định nhu, đạo âm diệt vong. Năm dương theo đuổi ở dưới, một âm nguy hại bên trên, tương phản với Du Hồn, hào Cửu Tú hối hận vậy. Đầm ở trên Trời, đạo vua lưu hành vậy (1). Cùng với Đoài là Phi Phục (2). Cửu Ngũ lập Thế, Cửu Nhị đại phu làm Ứng (3).

Thiết lập ban đầu Kỷ Hợi cho đến Giáp Thìn (4). Tích toán khởi Giáp Thìn cho đến Quý Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Mộc phân chia Càn Đoài nhập Khôn tượng (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Cang theo vị trí giáng Đinh Dậu (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8).

Dịch nói, "trạch thượng vu thiên, quải" nghĩa là đầm ở bên trên trời, quyết định (Quải). "Dương vu vương đình" nghĩa là bốc lên tận cung đình của vua. Đạo nhu tiêu, tiêu chẳng thể cực, phản chuyển ở Du Hồn. Hào Cửu Tứ nhu đến làm dịu cái cương, đạo âm tồn tại vậy. Đạo của âm chẳng thể hết nhẵn, cương nhu tương tế giúp đỡ qua lại, nhật nguyệt sáng tỏ vậy. Thiên địa định vị, nhân sự thông vậy (9). Cho nên viết, "Lôi động Phong hành, Sơn Trạch thông khí, nhân chi vận động, thể ti hợp hĩ" nghĩa là Sấm động, Gió thổi, Núi Đầm thông khí, vận động của con người, cái thể vì thế phù hợp vậy (10). Âm dương thăng giáng, phản phục đạo vậy. Thứ tự giáng nhập quẻ Du Hồn Thủy Thiên Nhu.

(1) Quẻ Ngũ Thế, lục vị quay trở lại là Du Hồn. Đến Cửu Tứ thành âm, nhập Khảm là Nhu.

(2) Đinh Dậu kim, Quý Hợi thủy.

(3) Cửu Ngũ tại tượng Đoài là Thế, đầm nhỏ ở trời vậy.

(4) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(5) Nhập cung Khôn khởi tích toán.

(6) Thái Âm Thủy tinh nhập quái khởi toán.

(7) Nhị thập bát tú, phối chòm sao Cang nhập quái ở trên Đinh Dậu kim.

(8) Tích toán khởi cung số 28 nhập quái, Giáp Thìn trở lại Đinh Dậu kim mà định cát hung.

(9) Phàm quái âm cực dương sinh, dương cực âm sinh, cái nghĩa sinh sôi, diện mạo bất diệt, nhật nguyệt tuần hoàn, thiên địa giao thái. Âm dương tương đãng, lục vị giao phân, vạn vật sinh sôi vậy.

(10) Người thì bẩm thụ ngũ thường, tam tiêu, cửu khiếu, gió lửa chuyển qua lại trợ giúp lẫn nhau, vì một vị trí mà khuyết thiếu thì tứ chi đều mệt mỏi vậy.

Posted Image

(Càn dưới Khảm trên) Nhu

Mây ở trên của trời, ngưng ở âm mà chờ đợi ở dương, cho nên gọi là Nhu (nhu cầu, chờ đợi). Cái Nhu ấy, là chờ đợi, là chiêu đãi vậy. Tam dương theo đuổi lên phía trên, mà ngăn cách ở hào Lục Tứ, cái hiểm của lộ trình vậy (1). Phản phục của Khôn, thích dương nhập âm (2). Âm dương giao hội, vận động âm vũ, tích mà ngưng trệ ở dương thông suốt chính là hợp vậy (3).

Cùng với Đoài là Phi Phục (4). Du Hồn lập Thế ở chư hầu, Ứng tại Sơ Cửu nguyên sĩ. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn cho đến Kỷ Dậu (5). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Càn Khảm (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (7), tú Đê theo vị trí giáng Mậu Thân (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Càn ra ngoài gặp Khảm, tráng kiện mà tiến, nơi hiểm yếu phía rước vậy. Nhu với ẩm thực, giành giật ở Khảm vậy. Âm dương kích động qua lại lẫn nhau, thắng được chỗ dựa, phản chuyển ra chẳng nhanh. Tôn kính cuối cùng được mừng vui, âm dương dần dần tiêu, đạo dương lưu hành, hành phản phục vị trí của nó, chẳng xằng bậy ở âm. Khảm giáng nhập Quy Hồn, quẻ Thủy Địa Tỉ, Quy Hồn của Khôn vậy.

(1) Ngoại quái Khảm thủy là hiểm, cũng là âm gọi là máu huyết vậy.

(2) Hào Cửu Tứ quẻ Quải nhập quẻ Nhu thành Lục Tứ, vị trí của dương vậy.

(3) Bọn dương theo đuổi lên trên, một âm đáp lại, cho nên ngưng trệ mưa chính là hợp vậy.

(4) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(5) Thanh Minh, Thu Phân.

(6) Tích toán khởi cung định cát hung.

(7) Tuế Tinh Mộc tinh nhập quái.

(8) Nhị thập bát tú, giáng tú Đê nhập cung Khôn quẻ Du Hồn, hào Lục Tứ Mậu Thân kim, thổ [đương tác thổ cung] khởi tích toán cát hung.

(9) Định cát hung, tổng 36 vị khởi toán.

Posted Image

(Khôn dưới Khảm trên) Tỉ

Phản bản phục vị, âm dương tương định, lục hào giao hỗ, một mạch sinh tồn vậy. Thủy ở trên của đất, hào Cửu Ngũ cư tôn quý, vạn dân phục tùng vậy (1). Tỉ thân cận với vật, vật cũng phụ họa cùng. Vốn là Phệ ở tông chỉ, quy về với quần chúng, chư hầu bài bố đất đai, vua được tôn sùng. Phụng sự dòng tộc, liên minh giao ước không sai, nước nhất định hưng thịnh vậy.

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Quy Hồn hào Lục Tam cư Thế, Ứng ở Thượng Lục tông miếu. Thiết lập ban đầu Quý Mão tới Mậu Thân (3). Tích toán khởi Huỳnh Hoặc (4). tú Phòng theo vị trí giáng Ất Mão (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6). Đạo âm quay trở lại, lấy dương làm chủ, một dương cư tôn quý, bầy âm là phe phái. Lục hào giao kết phân chia, cát hung định vậy. Nghĩa của đạo đất cũng giống với đạo vợ vậy. Tôi thần kề bên vua, đạo Tỉ thành vậy. Quy Hồn phục bản, âm dương tương thành, vạn vật sinh sôi vậy. Cho nên viết "khôn sinh tam nữ, tốn ly đoài, phân trưởng trung hạ" nghĩa là Khôn sinh 3 con gái là Tốn Ly Đoài, phân thành Trưởng nữ, Trung nữ, Thiếu nữ (7). Lấy dương cầu âm, Tốn làm Trưởng nữ.

(1) Quẻ Tỉ một dương năm âm, cái ít là quý, cái chỗ tôn quý của quần chúng vậy.

(2) Ất Mão mộc, Giáp Thìn thổ.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Hỏa Tinh nhập quái.

(5) Nhị thập bát tú phối chòm sao Phòng nhập quẻ Quy Hồn ở trên vị trí Ất Mão mộc.

(6) Tích toán khởi số 28

(7) Tốn trưởng nữ, Ly trung nữ, Đoài thiếu nữ.

Posted Image

(Tốn trên Tốn dưới) Tốn

Trong dương tích âm mà nhún thuận (1). Phong theo huyệt nhập vào vật, hiệu lệnh tề chỉnh, thuận thiên địa, sáng tỏ vậy. Nội ngoại bẩm tại nhất âm, thuận tại trời đất, đạo vậy. Thanh âm nghe thấy ở ngoài, khen ngợi ở xa nhu thuận, âm dương thăng giáng, nhu ở tại cương vậy. Gốc ở kiên cường, âm tới lại nhu, hướng đông nam sáng tỏ, âm dương tề chỉnh cung kính.

Cùng với Chấn là Phi Phục (2). Tông miếu cư Thế, tam công tại Ứng (3). Thiết lập ban đầu Tân Sửu cho đến Bính Ngọ (4). Tích toán khởi Bính Ngọ cho đến Ất Tị, quay vòng trở lại ban đầu (5). Phân khí hậu số ba mươi sáu (6), âm khí khởi dương, dương thuận ở âm, âm dương hòa nhu, thăng giáng đắc vị, cương nhu phân chia vậy. Âm chẳng thể đầy, quỹ khắc nghiêng lệch vậy. Sơ Lục thích biến đổi, dương tới âm lui, đạo tráng kiện lưu hành vậy. Tam dương theo đuổi tiến tới ngoại âm (nội) dương vậy, biến ở nội, vị trí ngoại tòng theo vậy. Thứ tự giáng âm giao ở dương cửu là quẻ Tiểu Súc.

(1) Gốc Càn tượng, âm tới lay động, thành ra Tốn, cái Tốn ấy, thuận vậy.

(2) Tân Mão mộc, Canh Tuất thổ.

(3) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hỏa Mộc với nhị thập bát tú phân phối chòm sao Hư nhập trên quẻ Tốn hào Thượng Cửu Tân Mão mộc Thổ.

(6) Phân số 36 nhập quái khởi toán.

(7) Sơ Lục biến Sơ Cửu vậy.

Posted Image

(Càn dưới Tốn trên) Tiểu Súc

Dịch nói, "mật vân bất vũ, tự ngã tây giao" nghĩa là mây dày đặc mà chẳng mưa, tự bản thân nơi ngoại thành phía tây. Cái nghĩa của Tiểu Súc ở tại tại hào Lục Tứ, ba vạch dương liền tiến, tại một (âm) nguy vậy. Ngoại (quái) Tốn thể âm, đạo của Súc (vật nuôi) lưu hành vậy. Hào Sơ Lục của Tốn, âm lay động dương khí, cảm mà tích âm, chẳng thể cố thủ, thoái lui quay về bản vị, tam liên cùng nhau hướng đến mà chẳng thể gặp, thành ra cái nghĩa của Súc, ngoại tượng sáng tỏ vậy (1). Dịch nói, "ký vũ ký xử dã" nghĩa là đã mưa rồi đã xử lý rồi vậy. Cùng với Càn là Phi Phục (2).

Sơ Cửu nguyên sĩ cư Thế, còn Lục Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Nhâm Dần cho tới Đinh Mùi (3). Tích toán khởi Đinh Mùi cho đến Bính Ngọ, quay vòng trở lại ban đầu. Mộc Thổ nhập Càn Tốn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (5), tú Vĩ theo vị trí giáng Giáp Tý (6). Phân khí hậu, số của nó hai mươi tám (7). Một âm cư Lục Tứ, Kiến Tý nhập cung dương, suy đoán tốt xấu của nó, xử lý cát hung, cương kiện lập tại hào dương, âm ngưng tại thể của Tốn. Dịch nói, "dư thoát phúc, phu thê phản mục" nghĩa là cái xe bị long mất trục, vợ chồng chẳng hòa thuận (8). Hạ Chí khởi thuần âm, vị trí hào dương tàng phục, Đông Chí hào dương động, âm khí ngưng tụ, âm dương thăng giáng, lấy nhu làm cương. Thấy rỗng giữa văn minh, tích khí cư nội tượng (9), thứ tự giáng nhập quẻ Phong Hỏa Gia Nhân.

(1) Nhất âm non nớt, chẳng thể kiên cố dương, chính là đã qua vậy. Ngoại Tốn tích âm, có thể củng cố đạo dương, thành tại hào Thượng Cửu, khuôn phép của một hào vậy.

(2) Giáp Tý thủy, Tân Sửu thổ.

(3) Lập Xuân, Đại Thử.

(4) Nhập cung khởi toán pháp.

(5) Kim tinh nhập quái khởi toán cát hung.

(6) Nhị thập bát tú nhập quái, phân tú Vĩ lấy bắt đầu trên hào Giáp Tý của Tiểu Súc mà khởi toán.

(7) Phân số 28 khởi cung suy tính.

(8) Điềm của sự bất nghĩa.

(9) Cửu Nhị thích biến nhập quái Ly.

Posted Image

(Ly dưới Tốn trên) Gia Nhân

Càn cương, đều biến văn minh, nội ngoại tương ứng (1). Âm dương đắc vị, cư trung dẫm chính, trên lửa thấy gió, tượng của Gia Nhân (người nhà). Rảnh rang tà quái tồn chứa thành tín, đốc thúc nghiêm ngặt đắc trung. Đắp đổi tương hỗ cho thể thấy văn minh, đạo nhà sáng tỏ vậy. Trong bình lặng lại gặp hiểm trở, tượng người nhà (Gia Nhân) khó khăn vậy. Cái nghĩa của sự cân nhắc phù hợp (chước trung), ở tại hào Lục Nhị. Cùng với Ly là Phi Phục (2).

Thiết lập ban đầu Quý Mão cho đến Mậu Thân (3). Tích toán khởi Mậu Thân cho đến Đinh Mùi, Kim Thổ nhập Ly Tốn (4). Đại phu cư Thế, còn Ứng ở Cửu Ngũ, lập vị trí vua. Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Cơ theo vị trí giáng Kỷ Sửu (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7).

Hỏa Mộc phân chia hình dạng, âm dương đắc vị, nội ngoại cùng giúp đỡ, nhị khí cùng tương hợp. Vua vua tôi tôi, cha cha con con, anh anh em em. Dịch viết, "gia nhân hạc hạc, phụ tử hi hi" nghĩa là người nhà đốc thúc nghiêm ngặt, cha con cười hi hi. Đạo của việc sửa trị nếp nhà, phân rõ ở chỗ này vậy. Nghĩa của cát hung, phối ngũ hành tiến thoái (8). Văn minh vận động, tượng của biến hóa, hào Cửu Tam thích âm nhập Chấn, Phong với Lôi, hợp viết Ích, thứ tự giáng quẻ Phong Lôi Ích.

(1) Cửu Ngũ ứng hào Lục Nhị.

(2) Kỷ Sửu thổ, Tân Hợi thủy.

(3) Xuân Phân, Lập Thu.

(4) Kim Thổ nhập quái cùng tích toán.

(5) Thái Âm phương Bắc nhập quái khởi cung suy toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Cơ nhập quẻ Gia Nhân trên hào Kỷ Sửu thổ.

(7) Khởi số 36, quẻ Gia Nhân suy đoán tích toán tốt xấu.

(8) Lục Ngũ tiến thoái, cát hung ở âm dương, âm dương đắc khởi tại 4 mùa vận động, cát hung thấy được vậy, phân chia trong ngoài vậy. Hai tượng phối thiên địa tinh thần hợp mệnh, định cát hung.

Posted Image

(Chấn dưới Tốn trên) Ích

Trời đất chẳng giao kết gọi là xấu. Hào Lục Nhị âm, bên trên là nhu, cái cương của hào Cửu Tú giáng xuống tích âm, cho nên gọi là Ích (ích lợi, tăng thêm). Dịch nói, "tổn thượng ích hạ" nghĩa là giảm cái bên trên mà thêm cho bên dưới. Sấm động gió lay (Lôi động phong hành), nam dưới nữ trên (1), dương ích lợi cho âm, vua ích lợi cho dân, [dân] ngưỡng mộ vậy. Tương hỗ gặp Khôn. Đạo Khôn nhu thuận, lại ra ngoài gặp Cấn, Cấn ngừng nghỉ, dương ích lợi cho âm, dừng ở chỗ dương. Đạo nhu lưu hành vậy (2).

Cùng với Chấn là Phi Phục (3). Hào Lục Tam tam công cư Thế, hào Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Thìn tới Kỷ Dậu (4). Tích toán khởi Kỷ Dậu cho tới Mậu Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Kim nhập Chấn Tốn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (6), tú Đẩu theo vị trí giáng Canh Thìn (7). Phân khí hậu số hai mươi tám (8). Âm dương hai Mộc kết hợp, Kim Thổ phối tượng, bốn mùa vận chuyển, sáu vị trí giao kết phân chia, hưu - phế - vượng - sinh, cát hung thấy ở động. Hào phối nhật nguyệt tinh thần, tiến thoái vận khí thăng giáng, quay lại đảm đương vị trí nào (9). Thích biến ở ngoài, âm nhập hào dương, nhị tượng cương kiện mà động, thuộc về trời đất vậy (10). Âm dương tương đãng lay động lẫn nhau, theo thứ tự giáng nhập quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.

(1) Chấn nam Tốn nữ.

(2) Trong ngoài thuận động, Phong Lôi Ích. Tứ tượng phân minh, cương nhu định vậy.

(3) Canh Thìn thổ, Tân Dậu kim.

(4) Thanh Minh, Thu Phân.

(5) Khởi tích phối quẻ Phong Lôi Ích khởi cung.

(6) Mộc tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân tú Đẩu nhập quẻ Phong Lôi Ích trên hào Lục Nhị Canh Thìn thổ (QNB chú: có lẽ do sao chép thất bản hoặc mờ/mất nét nên chỗ này mới nói là "hào Lục Nhị Canh Thìn thổ", nhẽ ra phải là "hào Lục Tam Canh Thìn thổ" mới đúng, tức là nhầm chữ Tam thành chữ Nhị).

Posted Image

(Chấn dưới Càn trên) Vô Vọng

Càn cương, Chấn động, hai khí vận chuyển, trời hạ xuống gặp sấm lưu hành, đạo của chính trực. Cương chính dương trưởng, vật không xằng bậy vậy. Nội hỗ gặp Cấn, ngưng ở thuần dương, ngoại hỗ gặp Tốn, thuận ở đạo dương. Trời lưu hành cương kiện mà động, cương chính ở tại vật, vật thuận theo vậy. Kim Mộc phối tượng, cát hung sáng tỏ vậy (1).

Cùng với Càn là Phi Phục (2). Hào Cửu Tứ chư hầu tại Thế, hào Sơ Cửu nguyên sĩ lập Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Tị đến Canh Tuất (3). Tích toán khởi Canh Tuất cho đến Kỷ Dậu, quay vòng trở lại ban đầu, Hỏa Thổ nhập Càn Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5). Tú Ngưu theo vị trí giáng Nhâm Ngọ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên Kim dưới Mộc, hai tượng tương xung, âm dương thăng giáng, tráng kiên mà động, trong gặp một dương ứng động cương, ngũ hành phân phối cát hung tương bán vậy (8). Cửu Ngũ thích biến nhập văn nhu, âm lay động dương, hào quy phục vị. Cương nhu dẫm bước, chỗ sáng tỏ ở bên ngoài, tiến thoái cát hung, thấy rỗng ở giữa, thứ tự giáng nhập quẻ Phệ Hạp.

(1) Kim Mộc phối Càn Chấn nhập quái.

(2) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(3) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(4) Hỏa Thổ phân Càn Chấn nhập quẻ Vô Vọng khởi tích toán.

(5) Hỏa tinh nhập quái định cát hung.

(6) Nhị thập bát tú, phân tú Ngưu nhập quẻ Vô Vọng trên vị trí Nhâm Ngọ hỏa.

(7) Số 36 khởi quái tích toán.

(8) Hai khí đều giành giật.

Posted Image

(Chấn dưới Ly trên) Phệ Hạp

Nhu lạm dụng che đậy cương, tích khí cư ở giữa, đạo âm sáng tỏ minh bạch, sử dụng gặp gỡ văn minh, sấm chớp hợp phân, ánh quang uy lực mà cắn gặm (Phệ Hạp) vậy. Dịch viết, "di trung hữu vật viết phệ hạp" nghĩa là trong mép má có vật gọi là cắn gặm. Âm dương phân chia, trong động mà sáng tỏ (1). Vật nọ chẳng ngay ngắn, ngậm mà cắn, đạo của cát hung, tượng ở ngũ hành. Thuận thì cát, nghịch thì hung.

Hỏa Mộc hợp quái, phối thăng giáng, cùng với Ly là Phi Phục (2). Hào Lục Ngũ cư tôn quý, còn Ứng ở Lục Nhị đại phu. Thiết lập ban đầu Bính Ngọ đến Tân Hợi (3). Tích toán khởi Tân Hợi cho đến Canh Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Ly Chấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5). Tú Nữ theo vị trí giáng Kỷ Mùi thổ (6). Phân khí hậu số hai mươi tám (7).

Lửa cư ở trên nước (QNB chú: dịch nguyên văn "hỏa cư thủy thượng"), trong dương gặp âm, dương tạp khí đục mà hỗn độn, cát hung biến đổi, tùy thời (/mùa) mà thấy vậy. Phản phục âm, Du Hồn nhập quái (8). Ngũ hành tiến thoái, đạo của thủy chung, vì thế có thể nghiệm xét vậy. Thăng giáng lục hào, cực phản, cuối cùng giáng quẻ Sơn Lôi Di.

(1) Tượng sấm sét vậy.

(2) Kỷ Mùi hỏa Tân Tị thổ (QNB chú: để nguyên văn, có lẽ bị lẫn lộ 2 vị trí Hỏa - Thổ).

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia hai vị trí Hỏa Thổ nhập quẻ Phệ Hạp khởi tích toán, hào phát triển phối Tinh, Thần, Tuế, Nguyệt, Nhật, Thời, tiến thoái, cát hung.

(5) Thổ tinh nhập quái.

(6) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Nữ nhập quái ở vị trí Lục Ngũ thổ vậy.

(7) Theo vị trí số 28 khởi bát quái, toán cát hung.

(8) Giáng xuống hào Cửu Tứ, dương nhập âm.

Posted Image

(Chấn dưới Cấn trên) Di

Sáu vị trí (lục vị) trên dưới, quay vòng trở lại ban đầu. Nội ngoại giao hỗ, giáng nhập thuần âm (1). Khí của đất tụ họp ở bên trong của nó (2). Tích cái khí của sự thuần hòa, gặp đạo của chính trực ngay thẳng, sáng tỏ vậy.

Thổ Mộc phối tượng, cát hung theo lục hư (3). Cùng với Chấn là Phi Phục (4). Hào Lục Tứ chư hầu tại Thế, nguyên sĩ tại Sơ Cửu gặp Ứng. Thiết lập ban đầu Tân Hợi cho đến Bình Thìn (5). Tích toán khởi Bính Thìn đến Ất Mão, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Chấn (6). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (7). Tú Hư theo vị trí biên giới Tuất thổ (8). Phân khí hậu ba mươi sáu [đương làm hai mươi tám] (9).

Dưới núi có sấm, ngưng mà động, âm dương thông biến phân khí hậu, nội ngoại cương kiện mà tích nhu bên trong, thăng giáng Du Hồn, hạ xuống cư vị trí hào Lục Tứ, chuyên phận, quay trở lại ở gốc (10). Cát hung khởi ở hào Lục Tứ, kế đến vòng quanh khắp lục vị, tinh tú triền thứ vậy. Cực thì phản chuyển về gốc, giáng nhập quẻ Quy Hồn Sơn Phong Cổ.

(1) Gặp tượng Khôn ở giữa.

(2) Vị trí trên dưới đều có dương bao bọc lấy âm.

(3) Lục hư tức là lục hào vậy.

(4) Bính Tuất thổ, Kỷ Dậu kim

(5) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(6) Phân Thổ Mộc nhị tượng nhập quái toán cát hung.

(7) Kim Tinh tây phương nhập quẻ tháng tám, thượng xung.

(8) Nhị thập bát tú, phân chòm sao Hư nhập quẻ Di trên hào Lục Tứ Bính Tuất.

(9) Khởi số 28, suy đoán vị trí của lục hào cát hung.

(10) Du Hồn phản cư Lục Tứ, nhập [/bát] quái vòng quanh điểm đầu, vị trí của hào chuyển dời chỗ trọ, sáng tỏ vậy.

Posted Image

(Tốn dưới Cấn trên) Cổ

Sáu hào âm dương trên dưới, đạo gốc tồn tại vậy. Khí vận quay vòng trở lại ban đầu, dưới núi gặp gió, ngưng mà thuận, tương hỗ bên trong vui vẻ mà động. Dịch nói, "cổ giả sự dã" nghĩa là cái Cổ đó, sực việc vậy. Lại nói "tiên giáp hậu giáp" nghĩa là trước ngày Giáp với sau ngày Giáp. Sự việc phân công mà theo lệnh thi hành. Kim Thổ hợp Mộc, tượng quay về gốc, viết Quy Hồn.

Cùng với Chấn là Phi Phục (1). Hào Cửu Tam Quy Hồn lập tam công tại Thế, còn Ứng Thượng Cửu gặp tông miếu. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (2). Tích toán khởi ẤT Mão tới Canh Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Cấn Tốn (3). Ngũ tinh theo vị trí Thái Âm (4), tú Nguy theo vị trí giáng Tân Dậu kim (5). Phân khí hậu hai mươi tám (6).

Trên Mộc gặp Thổ, gió lưu lại núi, điềm liên quan tới sự việc cha ông (phụ sự). Âm dương phục vị, trưởng thành và non trẻ phân chia vậy. Tám quẻ tuần hoàn, sơ khai ở Tốn, Quy Hồn nội tượng được hoàn nguyên, sáu hào tiến thoái, cát hung tại 4 mùa, tích toán khởi cung, tuân theo mà thiết lập ban đầu (7). Thăng âm dương, cung Tốn vừa biến nhập Ly, nghi lễ nhu thuận phân chia vậy. Âm đến dương lui, để rỗng ở giữa. Kế đến là trung nữ, tám quẻ lay động qua lại lẫn nhau, âm dương định vị, chuyển biến nhập tám quẻ cung Ly, thuần Hỏa lấy Nhật dụng sự (nắm quyền).

(1) Tân Dậu kim, Canh Thìn thổ.

(2) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(3) Thổ Mộc phân chia cung Cấn Tốn.

(4) Thái Âm Thủy tinh nhập quái dụng sự.

(5) Nhị thập bát tú, chòm sao Nguy nhập quẻ Quy Hồn của Tốn là Sơn Phong Cổ trên hào Cửu Tam Tân Dậu kim.

(6) Khởi tích toán số 28 định cát hung.

(7) Quẻ dùng cùng người thân vậy.

Posted Image

(Ly dưới Ly trên) Ly

Gốc ở thuần dương, âm khí nối ở giữa, chịu nhận với cương kiện, thấy được văn minh. Cho nên Dịch viết, "quân tử dĩ kế minh chiếu vu tứ phương" nghĩa là người quân tử dùng cái việc liên tục quang minh chính đại soi sáng bốn phương (1) (QNB chú: có nhiều bản Dịch chép câu của Đại Tượng truyện này là "đại nhân dĩ kế minh chiếu vu tứ phương"). Dương làm chủ của âm, dương náu ở chỗ âm vậy (dương vi âm chủ, dương phục vu âm dã) (2). Chính là lấy cái thể Ly, là mặt trời, là lửa, mới đầu ở dương tượng mà mượn giả tá với âm khí, thuần dụng cương kiện chẳng thể sáng soi, cho nên lấy âm khí nhập dương, nhu ở tại cương, tráng kiện mà có thể thuận, nhu rỗng giữa hiện ra tượng lửa vậy (3).

Cùng với Khàm là Phi Phục (4). Tông miếu làm Thế, còn Ứng được thấy trên hào tam công (5). Thiết lập ban đầu Mậu Thân tới Quý Sửu (6). Tích toán khởi Quý Sửu tới Nhâm Tý (7), quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhị tượng nhập vị trí Ly hỏa (8), Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (9), tú Thất theo vị trí giáng Kỷ Tị hỏa (10). Phân khí hậu ba mươi sáu (11). Hai tượng nội ngoại phối ở hỏa với thổ là cát lợi (12). Cùng nhau vui mừng, thuận mà sáng tỏ cả đôi (13). Âm dương thăng giáng, nhập Sơ Cửu để đi biến, theo âm ngưng ở tượng của Cấn (14). Cát hung theo vị trí mà khởi, tới Lục Ngũ xem hay dở ở hào nào (15). Kế đến giáng nhập quẻ Hỏa Sơn Lữ (16).

(1) Quẻ Ly ở giữa rỗng, mới đầu ở Càn tượng. Thuần thì tráng kiện, chẳng thể nhu hòa soi sáng, cho nên lấy khí âm phương bắc xâu nói ở giữa, nhu hòa cái cương kiện mà văn minh vậy.

(2) Thành ra cái nghĩa của quẻ ở tại hào Lục Ngũ.

(3) Chính là lấy Ly áp dụng rỗng giữa, khí nóng bốc lên mới có thể chiếu soi cho vật được. Mặt Trời sáng sủa, gốc lửa, tượng của dương vậy. Thuần dùng âm lại chẳng thể ác với vật, thuần dùng dương lại hung bạo với vật, cho nên áp dụng âm nhu tại trung nữ, có thể thành tựu với vật vậy.

(4) Kỷ Tị hỏa, Mậu Tý thổ (QNB chú: dịch nguyên văn).

(5) Thượng Cửu, Cửu Tam.

(6) Lập Thu cho đến Đại Hàn.

(7) Hỏa thủ thai nguyệt cho đến bản nguyệt.

(8) Thổ Thủy hai vị nhập quái khởi toán.

(9) Mộc Tinh nhập cung hỏa của quẻ.

(10) Nhị thập bát tú, phân công tú Thất nhập cung Ly trên hào Kỷ Tị hỏa vậy.

(11) Tích toán khởi số 36, lập vị định cát hung.

(12) Thổ Mộc nhập Ly là cát tường.

(13) Hai tượng Đoài Tốn.

(14) Nội quái biến vậy.

(15) Xem đang ở vị trí nào, Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ và bản cung hình cung.

(16) Hào Sơ Cửu biến.

Posted Image

(Cấn dưới Ly trên) Lữ

Trong âm thấy dương, lay động chuyển nhập dương. Hai khí âm dương, giao hỗ mà được cái tượng này. Lửa ở trên núi, là nghĩa của Lữ (hành trình, lữ hành) (1). Dịch nói, "lữ nhân tiên tiếu hậu hào đào" nghĩa là người lữ khách trước thì cười sau thì gào khóc. Lại nói, "đắc kỳ tư phủ" nghĩa là được lộ phí được của cải. Trọng Ni (Khổng Tử) là lữ nhân, cho nên có thể biết thấu vậy (2).

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thế cư ở hào Sơ Lục nguyên sĩ, còn hào Cửu Tứ chư hầu là Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Dậu cho đến Giáp Dần (4). Tích toán khởi Giáp Dần tới Quý Sửu, quay vòng trở lại ban đầu. Kim nhập Mộc Thổ Ly Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6). Tú Bích theo vị trí tại gianh giới Thìn (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8).

Hỏa Thổ đồng cung, hai khí hợp ứng, âm dương đối đãi lẫn nhau, cát hung phân ở vị trí âm. Thượng Cửu dương cư tông miếu, đắc táng vu dịch (QNB chú: nguyên văn 得丧于易, không rõ nghĩa. Tôi cho rằng đây là nói về cái ý "phải chôn/bị mất con trâu một cách dễ dàng" = táng ngưu vu dị, trong Hào Từ và Lời Tượng của hào Thượng Cửu quẻ Lữ). Hào Lục Ngũ là chủ của quẻ, không ràng buộc chuyên nhất, hèn gì mà hung vậy. Nội tượng vừa biến, lay động âm nhập dương, Tốn thuận với vật, tiến thoái tâm ý và danh hiệu tước vị, ngoại tượng sáng tỏ, ứng với bên trong là cái đỉnh, kế đến giáng Hỏa theo Phong nhập quẻ Đỉnh (9).

(1) Ly là âm, Sơ Cửu là dương. Cấn là dương, Sơ Lục là âm. Hai khí giao hỗ trên dưới, được Mộc vậy. Hỏa ở bên trên, tượng không ngừng nghỉ, nghĩa của Lữ vậy.

(2) Quẻ Lữ được áp dụng tượng Lửa ở trên Núi, hiển lộ chẳng ngừng, ngũ hành bát quái, tiêu tức phải trở về chỗ này vậy.

(3) Bính Thìn thổ, Kỷ Mão mộc.

(4) Thu Phân, Lập Xuân.

(5) Kim Mộc Thổ nhập quái khởi tích toán.

(6) Hỏa Tinh nhập quái kiến bản tượng.

(7) Nhị thập bát tú, chòm sao Bích nhập quẻ Lữ trên hào Sơ Lục Bình Thìn thổ khởi toán.

(8) Phân số 36 khởi quái suy đoán.

(9) Sơ Lục của Sơ Cửu, Cửu Nhị của Lục Nhị, Tốn là phong (gió), hai tượng đó gọi là Đỉnh.

Posted Image

(Tốn dưới Ly trên) Đỉnh.

Mộc có công năng của Tốn hỏa [đương làm Tốn mộc tạo ra năng lượng hỏa], cho nên có tượng của Đỉnh (cái vạc, cái đỉnh), thuận lợi cho nấu nướng tu sửa cúng tế quang minh vậy. Dịch nói, "đỉnh thủ tân" nghĩa là cái đỉnh dẫn tới cái mới (1). Âm dương đắc ứng, ở giữa dẫm lên chỗ thuận, nghĩa của tam công, nối theo vua vậy (2). Âm huyệt gặp hỏa, thuận ở trên vậy. Ở giữa trống rỗng gặp được sự tiếp nạp, nhận cái vất vả ở trong vậy. Cái tai đỉnh nạm vàng nạm ngọc, tại chỗ dương, hưởng cái mới thụ đồ ăn, ở tại chỗ âm.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Hào Cửu Nhị lập đại phu làm Thế, hào Lục Ngũ cư chí tôn làm Ứng. Thiết lập ban đầu Canh Tuất cho đến Ất Mão (4). Tích toán khởi Ất Mão cho đến Giáp Dần, quay vòng trở lại ban đầu. Phân thổ mộc nhập Ly Tốn (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn tinh (6), tú Khuê theo vị trí giáng Tân Hợi thủy (7). Phân khí hậu 36 (8). Lửa cư ở trên gỗ, hai khí giao hợp, âm dương nhún thuận, khí cụ hình thàn tồn tại, vàng ngọc vững bền, phối tượng âm dương, thăng giáng lục vị, theo thứ tự dịch chuyển, hào Cửu Tam biến, lấy dương nhập âm, gặp Khảm hiểm (9), giáng nhập quẻ Thủy Hỏa Vị Tế.

(1) Gỗ ở trong đám lửa bùng phát, hỏa mộc cung cấp cho nhau, tượng là cái Đỉnh, Vạc. Dưới đáy là chân, trong lòng rỗng để chứa nạp, cái nghĩa của nấu nướng thức ăn sáng tỏ vậy. Phàm nấu nướng, dâng lên cúng tế trước tiên, cho nên nói "cung tế minh hĩ" nghĩa là cúng tế công khai vậy. Biến đổi sinh ra vậy.

(2) Cửu Tam thành các đước của Đỉnh, Lục Ngũ ủy nhiệm được vị trí của hiền thần giả tá [?], nhằm tách biệt rõ ràng vậy.

(3) Tân Hợi thủy, Kỷ Sửu thổ.

(4) Hàn Lộ, Xuân Phân.

(5) Phân hai tượng Thổ Mộc nhập với Tốn, phối quẻ Đỉnh.

(6) Thổ tinh nhập hỏa cung.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Khuê nhập quẻ Đỉnh trên hào Cửu Nhị Tân Hợi.

(8) Khởi cung số 36 phối quái toán cát hung.

(9) Nghĩa của hào Cửu Tam quẻ Đỉnh, âm thành quẻ Khảm, nội tượng Khảm ngoại Ly, hai khí không giao với nhau, gặp quẻ Vị Tế.

Posted Image

(Khảm dưới Ly trên) Vị Tế.

Âm dương nhị vị, đều trở về bản thể. Lục hào giao hỗ, khác với chính tượng (1), cho nên áp dụng cái tên Vị Tế. Thế Ứng đắc vị, âm dương dứt đường (2), tính mệnh chẳng giao, cát hung phân bày vậy (3).

Cùng với Khảm là Phi Phục (4). Hào Lục Tam tam công làm Thế, còn Ứng ở tông miếu (5). Kiến lập ban đầu Tân hợi cho đến Bính Thìn (6). Tích toán khởi Bính Thìn cho đến Đinh Mão. Hai tượng Thủy Thổ nhập Ly Khảm (7).

Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (8), tú Lâu theo vị trí giáng Mậu Ngọ hỏa (9). Phân khí hậu hai mươi tám (10). Hai tượng thủy hỏa, Khảm Ly tương nạp, cái tính chất vốn khác nhau từ gốc, chỗ đứng ngăn chia, cách biệt trên dưới, cát hung sinh ra vậy (11). Nhận hình gặp hại, khí chẳng hợp vậy. Âm dương thăng giáng, nhập với ngoại quái, biến Ly thành Cấn, biểu thị ở tượng (12), trời đất đầy vơi, cùng thời tiêu tức, rất to lớn vậy, kế đến nhập quẻ Sơn Thủy Mông.

(1) Ly bốc lên trên, Khảm ắt phải xuống dưới, hai tượng chẳng hợp, đều khác biệt âm dương giao nạp, chính là áp dụng cái khác với bản tượng vậy.

(2) Cửu Nhị, Lục Ngũ.

(3) Khảm tính Ly mệnh.

(4) Mậu Ngọ hỏa, Kỷ Hợi thủy.

(5) Thượng Cửu.

(6) Tiểu Tuyết, Thanh Minh.

(7) Phân Thủy Thổ nhập quái.

(8) Kim Tinh nhập quái phận 6 hào cung Ly.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Lâu nhập vị trí hào Lục Nhị Mậu Ngọ hỏa của quẻ Vị Tế, Thổ định cát hung nhập tích toán.

(10) Tích toán số 28, đến chỗ cát hung.

(11) Vị trí của Tý Ngọ.

(12) Cấn ở trên vậy.

Posted Image

(Khảm dưới Cấn trên) Mông

Tích dương cư âm, ngưng ở Khảm hãm. Nuôi dưỡng sẵn thế thuần chính, cư trung đắc vị, Dịch nói, "sơn hạ xuất tuyền, mông" nghĩa là dưới núi xuất hiện con suối, bị che lấp / con trẻ. Hai tượng gắn chặt với chính trực, thiên hạ thông thuận vậy. Đuổi cái ám mà xua tan nghi ngờ, đạo dương lưu hành vậy. Nội thực ngoại chính, ám tối được sáng tỏ ra, âm bám vào dương, đạo trẻ thơ hanh thông vậy. Cho nên viết, "mông, dưỡng chính" nghĩa là con trẻ, nuôi dưỡng cái chính trực.

Cùng với Cấn là Phi Phục (1). Chư hầu lập Thế, nguyên sĩ làm Ứng (2). Thiết lập ban đầu Nhâm Tý cho đến Đinh Tị (3). Tích toán khởi Đinh Tị cho tới Bính Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Khảm (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5). Tú Vị theo vị trí giáng Bính Tuất thổ (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7).

Dưới núi gặp nước, lưu lại ở giữa, phân chia thành nhiều dòng vạn phái. Lục vị bất cư, cát hung thích biến, thủy thổ phân chia vậy (8). Âm dương tiến thoái, tuế thời vật vậy. Hào Lục Ngũ dương trung tích âm nhập Tốn, gặp âm trong dương, hai khí lay động qua lại lẫn nhau, chẳng thể đầy tròn, kế đến giáng nhập quẻ Phong Thủy Hoán (9).

(1) Bính Tuất thổ, Ất Dậu kim.

(2) Lục Tứ, Sơ Lục.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Hai tượng Hỏa Thổ nhập quái cùng đoán.

(5) Thủy Tinh phương bắc nhập cung khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Vị nhập quẻ Mông trên hào Lục Tứ Bính Tuất thổ.

(7) Khởi số 28 [đang làm 36], theo lục vị suy đoán.

(8) Ngũ hành nhập quái toán cát hung, lần lượt 4 mùa, người đi phế vua, cát thì làm vua, hung thì bị phế.

(9) Lục Ngũ biến nhập Cửu Ngũ, dương trong âm, nhập dương trong dương, vừa biến đến cung đó, vị trí không ra khỏi cung gốc.

Posted Image

(Khảm dưới Tốn trên) Hoán

Trên nước gặp cây, tiêu tán rồi hợp (1). Nội ngoại cương kiện mà thuận, nạp đầy ở trung chính, cùng tương hỗ động mà đến (2). Hai tượng âm dương, giúp đỡ mà tăng thêm vậy. Gió (Phong) thổi trên Nước (Thủy), chỗ hiểm mà chẳng chìm vậy (3). Hào Cửu Ngũ dẫm chỗ chính, tâm tư thuận theo mà không phải ép buộc vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (4). Cửu Ngũ cư chí tôn, đại phu Ứng (5). Thiết lập ban đầu Quý Sửu cho đến Mậu Ngọ (6). Tích toán khởi Mậu Ngọ cho đến Đinh Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn (7). Ngũ tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (8), tú Mão theo vị trí giáng Tân Tị hỏa (9). Phân khí hậu số của nó hai mươi tám (10).

Nội quái Khảm đầy ở giữa, một dương ở giữa, tích đầy ở trong. Phong ở bên ngoài, tiến hành hư thanh. Ngoài thuận theo vị trí cát hung, khảo xét ở cái đạo của thịnh suy 4 bước, lưu ý cơ yếu, âm dương cố định tại vị trí, sinh theo thời, tử theo thời, sinh ở vị trí. Tiến toán chẳng thể cấm đoán cái chính, thình thì suy đến, chính suy thì thịnh đến. Dịch viết, "tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hưu dư ương" nghĩa là nhà nào tích thiện thì nhất định có thừa mừng vui, còn nhà nào không tích thiện thì nhất đinh có thừa tai ương. Tám quẻ trước sau, lục hư phản phục, Du Hồn sinh Tốn, nhập Càn thành quẻ Thiên Thủy Tụng.

(1) Cái Hoán ấy, phân tán vậy.

(2) Thuyền rỗng lưu hành vậy.

(3) Cây nổi trên nước vậy.

(4) Tân Tị hỏa, Kỷ Mùi thổ.

(5) Hào Cửu Nhị vậy.

(6) Đại Hàn, Mang Chủng.

(7) Hai tượng Hỏa Thổ nhập Khảm Tốn, phối Hỏa cung quẻ Hóan khởi toán.

(8) Mộc Tinh nhập Hỏa cung, Mộc tượng.

(9) Nhị thập bát tú, chòm sao Mão nhập quẻ Hỏa trên hào Cửu Ngũ Tân Tị hỏa.

(10) Khởi toán theo số hai mươi tám, trên lục hào suy đoán cát hung năm tháng ngày giờ với Hậu.

Posted Image

(Khảm dưới Càn trên) Tụng

Sinh sôi chẳng diệt gọi là đạo. Lục vị chẳng ngừng, phản chuyển về Du Hồn. Cung Ly có tám quẻ lấy quẻ Tụng làm "phản tứ" (1). Thiên với Thủy được gọi là Tụng (tranh cãi) (2). Ngũ hành để chiêm bốc, lục vị định cát hung, chứ chẳng phải quay lưng với nhu thuận, vì chính Kim với Thủy, hai khí tương tư giúp đỡ nhau, vị trí của cha con. Tráng kiện và hiểm nguy, trong ngoài tương kích lẫn nhau, nghĩa của nhà nước. Xuất tượng cho nên dùng phéo tắc, thì mới có thể nghiệm vậy.

Cùng với Tốn là Phi Phục (3). Chư hầu cư Thế, nguyên sĩ được Ứng (4). Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (5). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thủy nhập quái (6). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (7), tú Tất theo vị trí giáng Nhâm Ngọ hỏa (8). Phân khí hậu ba mươi sáu (9). Dươí trời gặp nước, âm dương quay lưng với nhau, hai khí chẳng giao, vật sinh từ đâu. Cát hung tôn chỉ ở hào Thượng Cửu, tiến thoái thấy ở hào Cửu Tứ. Hai ở giữa hành vi chính trực, được cái sự thích hợp vậy. Âm dương thăng giáng, trở về nội tượng (10). Kế tiếp giáng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân.

(1) Năm tới Bốn vậy.

(2) Đạo Trời (Thiên) lưu chuyển về Tây, còn Nước (Thủy) thì chảy về Đông, con đường của chúng quay lưng với nhau vậy. Ngoại tượng Càn, quái của phương Tây Bắc. Nội Khảm thủy, quái của phương Chính Bắc, chảy về Đông vậy. Hai khí chẳng giao gọi là Tụng (tranh cãi).

(3) Nhâm Ngọ hỏa, Tân Mùi thổ.

(4) Cửu Tứ, Sơ Lục.

(5) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(6) Hai tượng Hỏa Thủy nhập cung Ly, phối lcuj vị, tích toán suy đoán năm tháng ngày giờ.

(7) Hỏa Tinh nhập cung Hỏa, cùng khởi tích toán.

(8) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tất nhập quẻ Du Hồn của Ly là Thiên Thủy Tụng trên hào Cửu Tứ Nhâm Ngọ hỏa, thổ vậy.

(9) Khởi cung theo 36, toán cát hung.

(10) Âm đi dương đến, quay về vị trí gốc, trong gặp Ly, Đồng Nhân.

(11) Kế đến 2 hào dương ở bên trên bên dưới hào nhị, âm thích biến, theo Ly vậy.

Posted Image

(Ly dưới Càn trên) Đồng Nhân

Hai khí cùng tiến, tráng kiện mà bốc lên trên (1). Cùng con đường như khác về ý trí, tính chất thì hợp vậy. Dịch nói, "Xuất môn Đồng Nhân. Hựu thùy cữu dã" nghĩa là rời nhà cùng người, còn ai trách nữa. Cửu Nhị đắc vị ở giữa, Lục Tam tích âm đối đãi. Dịch nói, "tiên hào đào nhi hậu tiếu" nghĩa là trước thì than khóc, sau lại cười tươi (2). Bát quái phục vị, lục hào chuyển biến thứ tự, quay vòng trở lại ban đầu. Trên dưới không ngừng lại, cái nghĩa sinh sôi, đạo dịch noi theo vậy. Trời và Lửa, sáng tỏ mà tráng kiện, đạo dương chính, khí âm hòa vậy (3). Cát hung vốn có tượng, ngũ hành rất rõ ràng (4).

Cùng với Khảm là Phi Phục (5). Quy Hồn lập tam công làm Thế, còn Thượng Cửu tông miếu làm Ứng. (Khí) Hậu thiết lập ban đầu Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất (6). Tích toán khởi Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Càn Ly (7). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (8), tú Chủy theo vị trí giáng Kỷ Hợi thủy (9). Phân chia khí hậu số hai mươi tám (10). Trên Hỏa thấy Kim, hai khí tuy tương đồng, nhưng ngũ hành thì tương phản. Lục hào định vị, điềm của cát hung ở tại Năm Hai (ngũ nhị), đắc thì thuận, thất thì nghịch. Âm dương thăng giáng, năm tháng phân chia vậy. Hào tượng tương đãng lay động lẫn nhua, nội ngoại thích biến, bát quái tuần hoàn, Quy Hồn quay về gốc. Gốc tĩnh thì tượng sinh ra, cho nên biến Ly làm Đoài, nhập Thiếu Nữ, phân chia tám quẻ tượng Đoài (11).

(1) Càn vụ thượng, Khảm vụ hạ.

(2) Phân chia ở dương vị, chẳng thể quyết thắng, trước đó gọi là khóc lóc. Sau cười tươi, hợp nơi vui vẻ vậy, cho nên gọi là sau thì cười vậy.

(3) Lục Nhị ở giữa nội quái, có thể phụng dưỡng với dương.

(4) Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ phối lục vị tương sinh.

(5) Kỷ Hợi thủy, Mậu Ngọ hỏa.

(6) Tiểu Mãn, Hàn Lộ.

(7) Hỏa Thổ phối hai tượng nhập Càn Ly, phối sáu cung khởi tích toán.

(8) Thổ tinh nhập quái, định cát hung của nó.

(9) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chủy nhập Ly Quy Hồn, phối quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trên hào Cửu Tam Kỷ Hợi thủy.

(10) Khởi tích toán số hai mươi tám, số tuần lục hào, có cát hung nhập vị trí nào.

(11) Khảm nhập tám quẻ cung Đoài.

Posted Image

(Đoài dưới Đoài trên) Đoài

Tích âm thành đầm (Trạch), thuần Kim dụng thể, chứa thủy ngưng sương, đạo âm giống như vậy. Thượng Lục âm sinh, cùng với Cấn là hợp (1). Thổ Mộc nhập Đoài, Thủy Hỏa tương ứng, hai âm hợp thể, tích lũy ở bên ngoài thành Tây (2). Trùng Chấn nhập Càn, khí loại âm vậy. Phối tượng là dương, vật loại cũng giống như vậy.

Cùng với Cấn là Phi Phục (3). Thượng Lục tông miếu tại Thế, còn Lục Tam tam công là Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Mão cho tới Canh Thân (4). Tích toán khởi Canh Thân tới Kỷ Mùi, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập cung Đoài (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (6), tú Sâm theo vị trí giáng Đinh Mùi thổ (7). Phân khí hậu số ba mươi sáu (8). Nội quái hỗ thể gặp Ly Tốn, phối Hỏa Mộc nhập cung Kim, phân chia quý tiện ở nơi cường nhược (9). Cát hung tùy theo hào toán năm tháng, vận khí lần lượt hưu vượng. Âm dương thăng giáng, biến Sơ Cửu nhập Sơ Lục, dương nhập âm, là Khảm tượng. Chính thể gặp dương vị, cương nhu phân chia, cát hung thấy được vậy. Vừa biến nội tượng nhập Khảm là quẻ Khốn (10).

(1) Đoài dưới lục âm ngưng tụ, Cấn trên nơi dương tráng kiện, nạp Đoài làm vợ, hai khí hợp.

(2) Mùa Thu thịnh vượng.

(3) Đinh Mùi thổ, Bính Dần mộc.

(4) Xuân Phân, Lập Thu.

(5) Kim Thổ nhập cung Đoài khởi tích toán.

(6) Thái Bạch Kim tinh nhập quái.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Sâm nhập quẻ Đoài trên hào Thượng Lục Đinh Mùi thổ.

(8) Khởi cung toán theo số 36, khởi định cát hung.

(9) Hỏa cường Mộc nhược.

(10) Đoài nội quái hào Sơ Cửu biến mà nhập Khảm.

Posted Image

(Khảm dưới Đoài trên) Khốn

Trạch nhập Khảm hiểm, nước chẳng thông, khốn đốn vậy. Ngoại vâng chịu nội cương mãnh, đạo âm lớn lên vậy. Âm dương chẳng thuận, cát hung sinh ra vậy. Trên dưới chẳng ứng, âm dương không giao, nhị khí chẳng hợp (1). Ngũ hành phối lục vị, sinh hối lận, bốn mùa hưu vượng, Kim Mộc giao tranh, tình của vạn vật ở tại chỗ nhỏ bé.

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Sơ Lục nguyên sĩ là Thế, Cửu Tứ chư hầu tại Ứng. Thiết lập ban đầu Bính Thìn cho tới Tân Dậu (3). Tích toán khởi Tân Dậu cho đến Canh Thân, quay vòng trở lại ban đầu. Kim Thổ nhập Khảm Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Âm (5), chòm sao Tỉnh theo vị trí khởi Thái Âm giáng Mậu Dần (6). Phân chia khí hậu, số của nó laf hai mươi tám (7). Khảm tượng hỗ kiến, ly hỏa nhập Đoài, Kim Thủy gặp vận phối cát hung. Âm dương thăng giáng, Khảm nhập Khôn, âm khí ngưng thịnh, giáng nhập quẻ Tụy (8).

(1) Quể Khốn trên dưới không tương ứng, âm dương chẳng giao kết. Lục Tam âm, Thượng Lục cũng âm, chẳng mất mát đi dược, nhập Cửu Ngũ cầu dương, dương cũng không nạp vậy.

(2) Mậu Dần mộc, Đinh Tị hỏa.

(3) Thanh Minh, Thu Phân,

(4) Phân phối Thổ Kim nhập Khảm Đoài, phối cung Kim khởi toán.

(5) Thủy tú, [đương là Tinh] nhập quẻ Đoài khởi toán.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối chòm sao Tỉnh nhập quẻ Khốn trên hào Sơ Lục Mậu Dần mộc.

(7) Hai mươi tám khởi cung nhập tích toán, định cát hung.

(8) Biến thông nhập quẻ Tụy.

Posted Image

(Khôn dưới Đoài trên) Tụy

Kim Hỏa phân khí hậu, Thổ Mộc nhập Đoài cung thăng giáng. Âm khí thịnh cường, nhu tương ứng hợp, Cửu Ngũ quy định bầy âm, hai khí vui vẻ mà thuận (1). Đầm (Trạch) ở trên Đất (Địa), tích âm mà thành ra Tụy (tụ hợp). Dịch viết, "Tụy giả, tụ dã" nghĩa là cái Tụy ấy là tụ hợp vậy. Cát hung sinh, dương khí hợp mà vui vẻ (2).

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Lục Nhị đại phu cư Thế, còn Ứng tại Cửu Ngũ chí tôn. Thiết lập ban đầu Mậu Dần cho đến Quý Mùi [đương là Đinh Tị cho đến Nhâm Tuất] (4). Tích toán khởi Quý Mùi cho đến Nhâm Ngọ [đương là Nhâm Tuất cho đến Tân Dậu], quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Mộc nhập Khôn Đoài (5). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (6), tú Dực theo vị trí giáng Ất Tị (7). Phân khí hậu hai mươi tám (8). Trạch hạ xuống gặp Khôn, hai khí thuận, Mộc Thổ nhập cung, có yêu ghét (9). Âm dương thăng giáng, dương khí đến sắp ngưng, ở trên Khôn gặp Cấn tượng hỗ kiến (10) Đoài tượng chứa nạp Cấn, âm khí mạnh (11), thứ đến giáng nhập quẻ Trạch Sơn Hàm.

(1) Quẻ Tụy Đinh Dậu kim, Ất Tị hỏa, hai tượng hình nhau mà lại hợp vậy.

(2) Phàm tụ hợp đám đông nhất định đề phòng nhàn rỗi, giả tá dương là chủ, thành cái nghĩa của Tụy, phục quân tất có sự chuẩn bị trước, tụ chúng loại bỏ cái tâm nghi ngại.

(3) Ất Tị hỏa, Đinh Mão mộc.

(4) Lập Xuân, Đại Thử.

(5) Phân chia Thổ Mộc nhập cung Đoài khởi toán.

(6) Hỏa Tinh nhập Kim Thủy cung suy đoán cát hung vậy.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập quẻ Tụy trên hào Lục Nhị.

(8) Tích toán khởi 28, số lục hào, thấy cát hung.

(9) Mộc ghét thổ yêu vậy.

(10) Cấn là dương.

(11) Nam dưới nữ.

Posted Image

(Cấn dưới Đoài trên) Hàm

Dưới núi có đầm, vơi thiếu đi bản thân mà chứa vật, trong dương tích âm, cảm ở vật vậy. Dương hạ xuống dưới âm, đạo của nam nữ, nội ngoại tương ứng, cảm loại ở tượng vậy. Lục Nhị chờ đợi tìm hỏi, Cửu Ngũ thấy điềm, hai khí giao cảm, đạo của vợ chồng, thể ấy hợp vậy. Dịch viết, "hàm, cảm dã" nghĩa là quẻ Hàm ấy, cảm tưởng vậy. Lại nói, "lợi thủ nữ, cát" nghĩa là thuận lợi tuyển chọn cô gái, tốt lành (1).

Cùng với Cần là Phi Phục (2). Cửu Tam tam công cư Thế, còn Thượng Lục tông miếu là Ứng. Thiết lập ban đầu Mậu Ngọ cho đến Quý Hợi (3). Tích toán khởi Quý Hợi cho đến Nhâm Tuất, quay vòng trở lại ban đầu. Hỏa Thổ nhập Cấn Đoài (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Huỳnh Hoặc (5), tú Liễu theo vị trí tới gianh giới của Thân (6). Phân khí hậu ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp Kim, mẹ con hợp sức, âm dương tương ứng, cương nhu định vị, cát hung tùy hào thụ khí, xuất sinh thì cát mà hình hại thì hung. Âm dương thăng giáng, nhập ngoại hiểm, ngưng nghỉ ở nội tượng, là quẻ Thủy Sơn Kiển (8).

(1) Cấn thiếu nam, Đoài thiếu nữ, nam xuống dưới nữ, áp dụng tượng của người phụ nữ.

(2) Bính Thân kim, Đinh Sửu thổ.

(3) Mang Chủng, Tiểu Tuyết.

(4) Phân chia Hỏa Thổ tượng nhập vào Cấn Đoài vậy.

(5) Hỏa Tinh nam phương nhập cung Kim

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Liễu nhập quẻ Hàm trên hào Cửu Tam Bính Thân kim.

(7) Tích toán khởi số, phân phối số 36 khởi cát hung.

(8) Hào Cửu Tứ nhập âm trong cương.

Posted Image

(Cấn dưới Khảm trên) Kiển.

Lợi ở Tây Nam. Đạo Cấn thông suốt vậy. Nước ở trên núi, không thuận lợi (Kiển). Hiểm khó tiến, hai khí âm dương xấu vậy. Âm đối đãi với dương, đạo nhu dẫn dắt vậy. Hiểm mà nghịch lại ngừng nghỉ, dương cố âm trưởng thì có thể tận lực đến lúc với vật là hợp, đạo Kiển sẽ hanh thông vậy. Dịch viết. vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố" nghĩa là vua tôi gặp khó khăn, chẳng phải nguyên cớ ở tại bản thân (1).

Cùng với Khảm là Phi Phục (2). Hào Lục Tứ chư hầu cư Thế, hào Sơ Lục nguyên sĩ tại Ứng. Thiết lập ban đầu Kỷ Mùi cho đến Giáp Tý (3). Tích toán khởi Giáp Tý cho đến Quý Hợi, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Thủy nhập Khảm Cấn (4). Ngũ tinh theo vị trí khởi Trấn Tinh (5), tú Tinh theo vị trí giáng Mậu Thân (6). Phân khí hậu, số của nó ba mươi sáu (7). Trên thổ gặp thủy, nhu mà hòa, ngũ hành ấy cùng đùn đẩy qua lại, hai khí hợp, áp dụng tượng thì âm dương quay lưng với nhau (8). Khảm giáng nhập Địa Sơn Khiêm.

(1) Lục Nhị.

(2) Mậu Thân kim, Đinh Hợi thủy.

(3) Đại Thử, Đại hàn.

(4) Hai tượng Thủy Thổ nhập Cấn phối cung Kim khởi toán.

(5) Thổ tinh nhập Kim cung

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Tinh nhập quẻ Kiển trên hào Lục Tứ Mậu Thân kim.

(7) Tích toán khởi số 36, theo lcuj vị ngũ hành.

(8) Ngoại quái hào Cửu Ngũ biến nhập Khôn, nội gọi là Cấn, cho nên gọi là đắc bằng vậy. Kế đến nhập quẻ Khiêm.

Posted Image

(Cấn dưới Khôn trên) Khiêm

Sáu vị trí khiêm tốn nhún thuận, bốn tượng chẳng hung, một dương cư ở trên cao của nội quái, làm chủ của Khiêm (khiêm tốn, nhún nhường). Dịch viết, "khiêm khiêm quân tử, lợi thiệp đại xuyên" nghĩa là người quân tử khiêm tốn, lợi cho việc vượt qua sông lớn. Âm dương không tranh giành, vị trí nơi trú ngụ khiêm nhu, trong âm thấy dương, ngừng thuận với khiếm, vị trí của hữu và vô, trên dưới đều thông suốt. Dịch viết, "huy khiêm, vô bất thuận dã" nghĩa là kẻ chỉ huy khiêm tốn, chẳng có gì là không thuận cả.

Cùng với Khôn là Phi Phục (1). Lục vị cư Thế, đại phu tại Ứng (QNB chú: dịch nguyên văn. Theo tôi có nhầm lẫn, vì quẻ Khiêm hào thế ở hào Lục Ngũ thiên tử chí tôn). Thiết lập ban đầu Canh Thân cho đến Ất Sửu (2). Tích toán khởi Ất Sửu cho tới Giáp Tý, quay vòng trở lại ban đầu. Kim thổ nhập Khôn Cấn (3). Ngũ tinh theo vị trí khởi Thái Bạch (4), tú Trương theo vị trí giáng Quý Hợi (5). Phân khí hậu hai mưới tám (6). Khôn ở trên của Cấn, thuận mà ngừng, ngũ hành nhập vị, tượng khiêm tốn nhu thuận (7). Âm dương thăng giáng tới vị trí Lục Ngũ, phản chuyển nhập Du Hồn, biến quay về Lục Tứ (8). Bát quái chia tách, tứ tượng phân chia. Kế đến giáng nhập quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

(1) Quý Hợi thủy, Đinh Dậu kim

(2) Lập Thu, Đại Hàn.

(3) Hai tượng Kim Thổ nhập cung Đoài khởi toán vậy.

(4) Thái Bạch Kim tinh nhập quái cung Đoài.

(5) Nhị thập bát tú, phân phối tú Trương nhập quẻ Khiêm trên hào Lục Ngũ Quý Hợi.

(6) Tích toán khởi số 28.

(7) Cát hung tùy hào thích biến.

(8) Lay động hào Lục Tứ, hào này chuyển nhập dương vậy.

Posted Image

(Cấn dưới Chấn trên) Tiểu Quá

Hào Lục Tứ thích biến, huyết mạch thông suốt vậy. Dương nhập âm, âm nhập dương, hai khí giáng tượng nội ngoại, trên dưới phản ứng, hai hào dương cương tương thích (1). Thổ Mộc nhập quái phân chia tại hai tượng (2), Sấm ở trên cao của Núi, chỗ cực của vượt quá vậy. Nội nhu mà không chính, tính nguy cấp với ngoại. Dịch viết, "phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ" nghĩa là cái âm thanh lưu lại của con chim bay đi, chẳng hợp với trên cao mà hợp với dưới thấp.

Cùng với Khôn là Phi Phục (3). Phản chuyển quay về hào Cửu Tứ chư hầu lập Thế, nguyên sĩ kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Ất Sửu cho đến Canh Ngọ (4). Tích toán khởi Canh Ngọ cho tới Kỷ Tị, quay vòng trở lại ban đầu. Thổ Hỏa nhập Chấn Cấn (5). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Thái Âm (6), tú Dực theo vị trí giáng Canh Ngọ (7). Phân khí hậu ba mươi sáu (8). Mộc hạ xuống gặp Thổ, hai dương tích súc âm, sáu vị trí tương hình, cát vị sinh sôi vậy. Thượng thăng hạ, âm dương phản ứng, đều riêng bè đảng của chúng. Sáu hào thích biến, đạo âm trái lẽ vậy. Thang giáng tiến thoái, đạo của chúng tương đồng vậy. Cấn này nhập Đoài, âm nạo với dương vậy. Phản phục vị trí của nó, kế đến giáng nhập quẻ Quy Hồn Lôi Trạch Quy Muội.

(1) Cửu Tam, Cửu Tứ.

(2) Nội Cấn ngoại Chấn.

(3) Canh Ngọ hỏa, Quý Sửu thổ.

(4) Đại Hàn, Mang Chủng.

(5) Hai tượng Thổ Hỏa nhập cung Đoài.

(6) Thủy Tinh nhập quẻ Du Hồn.

(7) Nhị thập bát tú, phân phối tú Dực nhập cung Đoài trên hào Cửu Tứ Canh Ngọ hỏa của quẻ Du Hồn Tiểu Quá.

Posted Image

(Đoài dưới Chấn trên) Quy Muội.

Âm quay về gốc, vui mừng động ở ngoài, hai khí chẳng giao kết, cho nên gọi là Quy Muội (1). Cùng gặp Ly Khảm, cùng với Vị Tế, thích dương theo âm, cương theo bên ngoài đến, Cửu Tứ rất cương kiện, Lục Tam vui vẻ nhu thuận, trở lại không ứng đáp, hung. Đồng thời dương ở cuối của ngoại quái, sinh ra cát ở chỗ nào.

Cùng với Cấn là Phi Phục (2). Tam công là Thế của Quy Hồn, còn Thượng Lục tông miếu kiến Ứng. Thiết lập ban đầu Giáp Tý cho đến Kỷ Tị (3). Tích toán khởi Kỷ Tị cho tới Mậu Thìn, quay vòng trở lại ban đầu. Thủy Thổ nhập Chấn Đoài (4). Ngũ Tinh theo vị trí khởi Tuế Tinh (5), tú Chẩn theo vị trí giáng Đinh Sửu thổ (6). Phân khí hậu ba mươi tám [đương làm ba mươi sáu, như trên] (7). Lôi ở trên của Trạch, khí cương rất thịnh, âm dương chẳng hợp, tiến thoái nguy vậy (8). Cát hung tại Thượng Lục, nơi động cực, thích biến đổi vị trí đã định. Thời chẳng thể [thoát khỏi chữ Dịch], đạo của của Dịch vậy, Ngũ hành khảo tượng, chẳng hợp cái nghĩa riêng. Âm dương vận động, thỏa đáng ở hào nào, hoặc âm hoặc dương, hoặc nhu hoặc cương, thăng giáng lục vị, chẳng thể thủ ở Một vậy (9).

(1) Cái gọi là Quy ấy, là lấy chồng vu quy vậy.

(2) Đinh Sửu thổ, Bính Thân kim.

(3) Đại Tuyết, Tiểu Mãn.

(4) Phân hai tượng Thủy Thổ nhập cung Đoài.

(5) Mộc tinh đông phương nhập Quy Hồn của cung Đoài.

(6) Nhị thập bát tú, phân phối tú Chẩn nhập quẻ Quy Hồn của cung Đoài trên hào Lục Nhị Đinh Sửu thổ, phân cát hung khởi toán.

(7) Tích toán khởi ba mươi tám, số lục vị, suy xét ngũ hành, số cát hung.

(8) Chấn trưởng nam, Đoài thiếu nữ. Thiếu nữ sánh với trưởng nam, khí chẳng hợp vậy.

(9) Quẻ Quy Hồn của cung Đoài phối tận cùng của 64 quẻ vậy.

Kinh thị Dịch truyện

(Quyển hạ)

Nói tới Dịch ấy, là Tượng vậy. Hào ấy là công hiệu vậy. Thánh nhân sở dĩ ngẩng mặt lên xem, cúi mặt xuống xét, tượng của Trời Đất Nhật Nguyệt Tinh Thần và cỏ cây vạn vật, thuận thì hòa, nghịch thì loạn. Nói đến tường tận thì chẳng thể hết được, thâm sâu chẳng thể có cùng cực, cho nên đếm cỏ Thi bài bố Hào dùng ở Bốc Phệ phân chia 64 quẻ, phối 384 hào, xếp thứ tự một vạn một ngàn năm trăm hai mươi thẻ (11.520 sách), xác định tình trạng của thiên địa vạn vật. Vì thế, khí của cát hung, thuận theo sáu hào trên dưới, thứ đến Số của tám chín sáu bảy (8 9 6 7), Tượng của kế thừa nối tiếp nội ngoại, do đó mà gọi là gồm cả Tam Tài và Lưỡng.

Khổng Tử nói, "dương tam âm tứ, vị chi chính dã" nghĩa là dương 3 âm 4 thì gọi là Chính vậy. Cái Tam ấy là số của phương Đông, là nơi sở xuất của Mặt Trời ở phía Đông, lại vừa là cái chu vi hình tròn lấy đường kính khai triển ra 3 lần vậy (hựu viên giả kính nhất nhi khai tam dã). Cái Tứ ấy là số của phương Tây, là nơi sở nhập của Mặt Trời tại phía Tây, lại vừa là cái chu vi hình vuông lấy một cạnh mà áp dụng 4 lần vậy (hựu phương giả kính nhất nhi thủ tứ dã).

(QNB chú: Ở đây ta thấy vào thời Tây Hán thì Kinh Phòng dùng số π = 3, và tính chu vi hình tròn là 3 lần đường kính, sau này tính được số pi chính xác là ~ 3,14159... nên tính chu vi hình tròn = π.[đường kính] = 2.π.[bán kính r]. Còn tính chu vi hình vuông thì thời Tây Hán dùng đã chính xác = 4.[độ dài 1 cạnh]. Cái gọi là Vuông-Tròn ở đây còn ám chỉ "Trời tròn đất vuông" trong thuyết Cái Thiên của Thiên Văn Học vũ trụ quan thời ấy).

Nói về đạo của Nhật Nguyệt trọn đời, cho nên quẻ Dịch phân chia thượng hạ 64 quẻ, tượng của Âm Dương vậy. Số của Cơ Ngẫu áp dụng với Càn Khôn. Cái Càn Khôn ấy, là căn bản cội gốc của Âm Dương, cái Khảm Ly ấy, là tính mệnh của Âm Dương.

Phân chia Tứ Doanh mà thành Dịch, trọn vẹn mười phần có 8 biến mà thành quẻ (thập hữu bát nhi thành quái). Quái tượng định cát hung, mà sáng tỏ sự được mất. Giáng Ngũ Hành, phân Tứ Tượng, thuận thì cát, nghịch thì hung. Cho nên nói là cát hung hối lận sinh ở "động" (thay đổi, biến động). Lại nói sáng tỏ sự được mất ở "tứ tự" (bốn bước/bốn thứ tự) (1). Vận chuyển cơ biến phân bố số hạn độ, chuyển dịch cái khí của chúng. Cái chủ cũng chịu đảm đương nhận quy tắc của trời mà vận hành, cùng với thời tiêu tức. An ổn mà chẳng lãng quên mất, rồi mới lấy cái lý thuận tính mệnh, cực của phép dùng cỏ Thi có gốc ở bói bằng mai rùa, trọng ba thành sáu, có thể hoàn tất vậy.

Phân chia tượng của Thiên Địa Càn Khôn, thêm vào dùng Giáp Ất Nhâm Quý (2), tượng của Chấn Tốn phối Canh Tân (3), tượng của Khảm Ly phối Mậu Kỷ (4), tượng của Cấn Đoài phối Bính Đinh (5).

Bát quái phân âm dương, lục vị, ngũ hành, quang minh 4 cái thông suốt, biến dịch lập Tiết. Trời đất nếu mà không biến dịch, chẳng thể thông khí. Ngũ hành đắp đổi tới cuối, bốn mùa thay đổi suy tàn, biến động chẳng ngừng, lưu hành quanh lục hư. Thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch (biến đổi qua lại lẫn nhau), chẳng thể lấy làm yêu cầu chuẩn mực, duy chỉ có biến đổi thích hợp. Cát hung cùng bày xếp với các vị trí, tiến thoái sáng tỏ ở cơ yếu. Biến hóa của DỊch, lục hào chẳng thể ngừng, lấy tùy theo mùa mà chiêm đoán.

Chu Lễ, Thái Bốc một gọi là Liên Sơn, hai gọi là Quy Tàng, Ba gọi là Chu Dịch. Sơ là dương, Nhị là âm, Tam là dương, Tứ là âm, Ngũ là dương, Lục là âm. Số của dương là 1 3 5 7 9, số của âm là 2 4 6 8 (6).

Âm theo Ngọ, Dương theo Tý. Tý Ngọ phân chia vận hành, Tý đi về phía trái, Ngọ đi về phía phải. Đạo của trái phải, hung cát, cát hung.

Tý Ngọ phân mùa,

Lập Xuân tháng Giêng, Tiết tại Dần, quẻ Khảm hào Sơ Lục; Lập Thu cùng dụng giống thế.

Vũ Thủy, tháng Giêng, Trung tại Sửu, quẻ Tốn hào Sơ Lục; Xử Thử cùng dụng giống thế (QNB chú: chữ Trung 中 ở đây là để ám chỉ Trung Khí).

Kinh Chập tháng Hai, Tiết tại Tý, quẻ Chấn hào Sơ Cửu; Bạch Lộ cùng dụng như thế.

Xuân Phân tháng Hai, Trung tại Hợi, quẻ Đoài hào Cửu Tứ; Xuân Thu Phân cùng dụng giống thế.

Thanh Minh tháng Ba, Tiết tại Tuất, quẻ Cấn hào Lục Tứ; Hàn Lộ cùng dụng như thế.

Cốc Vũ tháng Ba, Trung tại Dậu, quẻ Ly hào Cửu Tứ; Sương Giáng cùng dụng như thế.

Lập Hạ tháng Tư, Tiết tại Thân, quẻ Khảm hào Lục Tứ; Lập Đông cùng dụng như thế.

Tiểu Mãn tháng Tư, Trung tại Mùi, quẻ Tốn hào Lục Tứ; Tiểu Tuyết cùng dụng như thế.

Mang Chủng tháng Năm, Tiết tại Ngọ, quẻ Càn hào Cửu Tứ; Đại Tuyết cùng dụng như thế.

Hạ Chí tháng Năm, Trung tại Tị, quẻ Đoài hào Sơ Cửu; Đông Chí cùng dụng như thế.

Tiểu Thử tháng Sáu, Tiết tại Thìn, quẻ Cấn hào Sơ Lục; Tiểu Hàn cùng dụng như thế.

Đại Thử tháng Sáu, Trung tại Mão, quẻ Ly hào Sơ Cửu, Đại Hàn cùng dụng như thế.

Khổng Tử Dịch nói, có 4 loại Dịch, Nhất Thế Nhị Thế là Địa Dịch, Tam Thế Tứ Thế là Nhân Dịch, Ngũ Thế Lục Thế là Thiên Dịch, Du Hồn Quy Hồn là Quỷ Dịch. Tám quẻ Quỷ là Hệ Hào, Tài là Chế Hào, Thiên Địa là Nghĩa Hào (7), Phúc Đức là Bảo Hào (8), Đồng Khí là Chuyên Hào (9).

Long đức tháng 11, tại Tý ở quẻ Khảm đi về bên trái. Hổ hình tháng 5, tại Ngọ tại quẻ Ly đi về bên phải.

Giáp Ất Canh Tân, Thiên Quan, Thân Dậu Địa Quan.

Bính Đinh Nhâm Quý, Thiên Quan, Hợi Tý Địa Quan.

Mậu Kỷ Giáp Ất, Thiên Quan, Dần Mão Địa Quan.

Nhâm Quý Mậu Kỷ, Thiên Quan, Thìn Tuất Địa Quan.

Tĩnh lặng là Hối (lỗi), Phát động là Trinh (chính trung). Trinh là gốc, Hối là ngọn.

Sơ Hào thượng, Nhị Hào trung, Tam Hào hạ, số của ba tháng để thành công.

Một tháng Sơ Hào 3 ngày, Nhị Hào 3 ngày, Tam Hào 3 ngày, tên là Cửu Nhật (9 ngày). Dư có 1 ngày, tên gọi là Nhuận Dư. Sơ Hào 10 ngày làm Thượng Tuần, Nhị Hào 10 ngày làm Trung Tuần, Tam Hào 10 ngày làm Hạ Tuần. Ba Tuần 30 ngày, tích Tuần thành Tháng, tích Tháng thành Năm. Tám lần tám (8x8) là 64 quẻ phân chia 64 quẻ phối 384 hào, thành 11520 thẻ (vạn nhất thiên ngũ bách nhị thập sách).

Định Khí Hậu 24, khảo xét Ngũ Hành ở vận mệnh. Nhân sự, Thiên đạo, Nhật Nguyệt, Tinh Thần cục ở trong bàn tay. Cát hung thấy ở vị trí của chúng, gắn liền ở cát hung hối lận, sinh ở động.

Trong Dần có Sinh Hỏa, trong Hợi có Sinh Mộc, trong Tị có Sinh Kim (10), trong Thân có Sinh Thủy.

Trong Sửu có Tử Kim, trong Tuất có Tử Hỏa, trong Mùi có Tử Mộc, trong Thìn có Tử Thủy. Thổ kiêm gồm đủ cả ở giữa. Thiết lập Tý dương sinh, thiết lập Ngọ âm sinh, hai khí tương xung, cát hung sáng tỏ vậy.

Tích toán. Tùy theo quẻ khởi cung, Càn Khôn Chấn Tốn Khảm Ly Cấn Đoài, bát quái tương đãng lay động lẫn nhau, nhị khí dương nhập âm, âm nhập dương. Nhị khí giao kết đắp đổi lẫn nhau chẳng ngừng nghỉ, cho nên nói rằng "sinh sinh chi vị Dịch". Bên trong khoảng trời đất, không có gì không thông vậy. Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Ngọ, Tốn khởi Thìn, Khảm khởi Tý, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi... [chỗ này bị khuyết thiếu, theo như quyển thượng và quyển trung bản gốc, quy ước khởi tích toán, Càn khởi Tị, Khôn khởi Hợi, Chấn khởi Tị, Tốn khởi Ngọ, Khảm khởi Mùi, Ly khởi Sửu, Cấn khởi Dần, Đoài khởi Thân. Cái này nghi vấn có sự sai lệch], ở tại 64 quẻ, gặp vượng thì cát, gặp phế thì hung. Xung thì phá, Hình thì bại, Tử thì nguy, Sinh thì tươi tốt vậy. Khảo xét cái nghĩa lý của chúng, có thể thông vậy.

Phân chia 30 là trung, 60 là thượng, 30 là hạ, tổng là 120, thông đạt số của âm dương vậy. Liên tục đổi mới chẳng ngừng, liên tục sinh sôi kế tục, cho nên lạnh nhạt cũng chẳng thay đổi mất cái chỗ chân thực mách bảo cho người ta. Âm dương vận hành, một lạnh một nóng. Ngũ hành tương hỗ lẫn nhau [chỗ này bị mất 1 chữ]. Theo cái đức của thần minh thông tỏ, theo cái tình của vạn vật các chủng loại. Cho nên Dịch có thể đoán cái lý của thiên hạ, có thể định theo luân lý làm người mà sáng tỏ cái đạo của bực cai trị.

Bát quái thiết lập (Kiến) ngũ khí, xây dựng (Lập) ngũ thường, pháp tượng càn khôn, thuận ở âm dương, lấy cái nghĩa của chính vua tôi cha con. Cho nên Dịch nói, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.

Nói tới viết Dịch làm theo Dịch, sở dĩ là để lưu truyền lại răn dạy. Răn dạy về cái nơi chốn, gốc gác ở Hữu - Vô. Vả lại, cái Dịch ấy bao trùm cả Hữu - Vô, có cát thì có hung, có hung thì có cát. Sinh ra cái nghĩa của cát hung, bắt đầu ở Ngũ Hành, cuối cùng ở Bát Quái. Theo cái Vô mà nhập Hữu, thấy cái tai vạ ở các Tinh Thần vậy. Theo cái Hữu mà nhập Vô, thấy cái tượng ở Âm Dương vậy. Cái nghĩa của Âm Dương, năm tháng phân chia vậy. Năm tháng đã phân chia, cát hung định được vậy. Cho nên nói "bát quái thành liệt, tượng tại kỳ trung" nghĩa là bát quái đã bày ra xong, thì tượng ở trong chúng vậy.

Lục hào thượng hạ, thiên địa âm dương, vận chuyển tượng của Hữu - Vô, phối vào nơi nhân sự. Bát quái ngẩng mặt lên xem cúi mặt xuống xét (ngưỡng quan phủ sát), ở tại chỗ con người ta vậy. Ẩn - Hiện tai vạ với tốt lành, ở tại trời vậy. Khảo xét thiên thời, quan sát nhân sự, ở tại các quái. Trọng yếu của Bát Quái, ban đầu ở Càn Khôn, thông suốt ở vạn vật, cho nên nói "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu" nghĩa là Dịch đến cùng thì sẽ biến đổi chuyển hóa, biến hóa thì sẽ thông suốt, mà thông thì sẽ lâu bền. Cái bền ở đạo của chúng, lý của chúng mà đạt được vậy. Bốc Phệ chẳng phải rập theo khuôn sáo với cát lợi, chỉ có biến hóa thay đổi, tới cùng của lý tới tận của tính ấy vậy.

(1) Nói cát hung sinh ở động, ngũ hành ngưng nghỉ suy tàn, nội phạm thai dưỡng hợp ngũ hành.

(2) Càn Khôn phân đôi thiên địa âm dương của Mộc, cho nên phân Giáp Ất Nhâm Quý, sơ khởi vào kết cuộc của âm dương.

(3) Canh dương nhập Chấn, Tân âm nhập Tốn.

(4) Mậu dương nhập Khảm, Kỷ âm nhập Ly.

(5) Bính dương nhập Cấn, Đinh âm nhập Đoài.

(6) Âm chủ ti tiện, Dương chủ sang quý.

(7) Thiên Địa tức là Phụ Mẫu vậy.

(8) Phúc Đức tức Tử Tôn vậy.

(9) Hào Huynh Đệ vậy.

(10) Cũng nói đến vị trí của Sinh.

- HẾT -

(trọn bộ 3 quyển)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kinh thị Dịch truyện

Những tên hay dành cho các bé gái –

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.Ái HồngÁi KhanhÁi LinhÁi NhânÁi NhiÁi ThiÁi ThyÁi VânAn BìnhAn DiAn HạAn HằngAn NhànAn NhiênAnh ChiAnh ÐàoÁnh DươngÁnh HoaÁnh HồngAnh H

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dưới đây là hơn một nghìn cái tên dành cho bé gái sẽ giúp bạn đỡ căng thẳng trong việc tìm tên cho bé yêu của mình.

05145313_1

Ái Hồng

Ái Khanh

Ái Linh

Ái Nhân

Ái Nhi

Ái Thi

Ái Thy

Ái Vân

An Bình

An Di

An Hạ

An Hằng

An Nhàn

An Nhiên

Anh Chi

Anh Ðào

Ánh Dương

Ánh Hoa

Ánh Hồng

Anh Hương

Ánh Lệ

Ánh Linh

Anh Mai

Ánh Mai

Ánh Ngọc

Ánh Nguyệt

Anh Phương

Anh Thảo

Anh Thi

Anh Thơ

Ánh Thơ

Anh Thư

Anh Thy

Ánh Trang

Ánh Tuyết

Ánh Xuân

Bạch Cúc

Bạch Hoa

Bạch Kim

Bạch Liên

Bạch Loan

Bạch Mai

Bạch Quỳnh

Bạch Trà

Bạch Tuyết

Bạch Vân

Bạch Yến

Ban Mai

Băng Băng

Băng Tâm

Bảo Anh

Bảo Bình

Bảo Châu

Bảo Hà

Bảo Hân

Bảo Huệ

Bảo Lan

Bảo Lễ

Bảo Ngọc

Bảo Phương

Bảo Quyên

Bảo Quỳnh

Bảo Thoa

Bảo Thúy

Bảo Tiên

Bảo Trâm

Bảo Trân

Bảo Trúc

Bảo Uyên

Bảo Vân

Bảo Vy

Bích Châu

Bích Chiêu

Bích Ðào

Bích Ðiệp

Bích Duyên

Bích Hà

Bích Hải

Bích Hằng

Bích Hạnh

Bích Hảo

Bích Hậu

Bích Hiền

Bích Hồng

Bích Hợp

Bích Huệ

Bích Lam

Bích Liên

Bích Loan

Bích Nga

Bích Ngà

Bích Ngân

Bích Ngọc

Bích Như

Bích Phượng

Bích Quân

Bích Quyên

Bích San

Bích Thảo

Bích Thoa

Bích Thu

Bích Thủy

Bích Trâm

Bích Trang

Bích Ty

Bích Vân

Bội Linh

Cẩm Hạnh

Cẩm Hiền

Cẩm Hường

Cẩm Liên

Cẩm Linh

Cẩm Ly

Cẩm Nhi

Cẩm Nhung

Cam Thảo

Cẩm Thúy

Cẩm Tú

Cẩm Vân

Cẩm Yến

Cát Cát

Cát Linh

Cát Ly

Cát Tiên

Chi Lan

Chi Mai

Chiêu Dương

Dạ Hương

Dã Lâm

Dã Lan

Dạ Lan

Dạ Nguyệt

Dã Thảo

Dạ Thảo

Dạ Thi

Dạ Yến

Ðài Trang

Ðan Khanh

Đan Linh

Ðan Quỳnh

Đan Thanh

Đan Thư

Ðan Thu

Di Nhiên

Diễm Châu

Diễm Chi

Diễm Hằng

Diễm Hạnh

Diễm Hương

Diễm Khuê

Diễm Kiều

Diễm Liên

Diễm Lộc

Diễm My

Diễm Phúc

Diễm Phước

Diễm Phương

Diễm Phượng

Diễm Quyên

Diễm Quỳnh

Diễm Thảo

Diễm Thư

Diễm Thúy

Diễm Trang

Diễm Trinh

Diễm Uyên

Diên Vỹ

Diệp Anh

Diệp Vy

Diệu Ái

Diệu Anh

Diệu Hằng

Diệu Hạnh

Diệu Hiền

Diệu Hoa

Diệu Hồng

Diệu Hương

Diệu Huyền

Diệu Lan

Diệu Linh

Diệu Loan

Diệu Nga

Diệu Ngà

Diệu Ngọc

Diệu Nương

Diệu Thiện

Diệu Thúy

Diệu Vân

Ðinh Hương

Ðoan Thanh

Đoan Trang

Ðoan Trang

Ðông Ðào

Ðồng Dao

Ðông Nghi

Ðông Nhi

Ðông Trà

Ðông Tuyền

Ðông Vy

Duy Hạnh

Duy Mỹ

Duy Uyên

Duyên Hồng

Duyên My

Duyên Mỹ

Duyên Nương

Gia Hân

Gia Khanh

Gia Linh

Gia Nhi

Gia Quỳnh

Giáng Ngọc

Giang Thanh

Giáng Tiên

Giáng Uyên

Giao Kiều

Giao Linh

Hà Giang

Hà Liên

Hà Mi

Hà My

Hà Nhi

Hà Phương

Hạ Phương

Hà Thanh

Hà Tiên

Hạ Tiên

Hạ Uyên

Hạ Vy

Hạc Cúc

Hải Ân

Hải Anh

Hải Châu

Hải Ðường

Hải Duyên

Hải Miên

Hải My

Hải Mỹ

Hải Ngân

Hải Nhi

Hải Phương

Hải Phượng

Hải San

Hải Sinh

Hải Thanh

Hải Thảo

Hải Uyên

Hải Vân

Hải Vy

Hải Yến

Hàm Duyên

Hàm Nghi

Hàm Thơ

Hàm Ý

Hằng Anh

Hạnh Chi

Hạnh Dung

Hạnh Linh

Hạnh My

Hạnh Nga

Hạnh Phương

Hạnh San

Hạnh Thảo

Hạnh Trang

Hạnh Vi

Hảo Nhi

Hiền Chung

Hiền Hòa

Hiền Mai

Hiền Nhi

Hiền Nương

Hiền Thục

Hiếu Giang

Hiếu Hạnh

Hiếu Khanh

Hiếu Minh

Hiểu Vân

Hồ Diệp

Hoa Liên

Hoa Lý

Họa Mi

Hoa Thiên

Hoa Tiên

Hoài An

Hoài Giang

Hoài Hương

Hoài Phương

Hoài Thương

Hoài Trang

Hoàn Châu

Hoàn Vi

Hoàng Cúc

Hoàng Hà

Hoàng Kim

Hoàng Lan

Hoàng Mai

Hoàng Miên

Hoàng Oanh

Hoàng Sa

Hoàng Thư

Hoàng Yến

Hồng Anh

Hồng Bạch Thảo

Hồng Châu

Hồng Ðào

Hồng Diễm

Hồng Ðiệp

Hồng Hà

Hồng Hạnh

Hồng Hoa

Hồng Khanh

Hồng Khôi

Hồng Khuê

Hồng Lâm

Hồng Liên

Hồng Linh

Hồng Mai

Hồng Nga

Hồng Ngân

Hồng Ngọc

Hồng Như

Hồng Nhung

Hồng Oanh

Hồng Phúc

Hồng Phương

Hồng Quế

Hồng Tâm

Hồng Thắm

Hồng Thảo

Hồng Thu

Hồng Thư

Hồng Thúy

Hồng Thủy

Hồng Trúc

Hồng Vân

Hồng Xuân

Huệ An

Huệ Ân

Huệ Hồng

Huệ Hương

Huệ Lâm

Huệ Lan

Huệ Linh

Huệ My

Huệ Phương

Huệ Thương

Hương Chi

Hương Giang

Hương Lâm

Hương Lan

Hương Liên

Hương Ly

Hương Mai

Hương Nhi

Hương Thảo

Hương Thu

Hương Thủy

Hương Tiên

Hương Trà

Hương Trang

Hương Xuân

Huyền Anh

Huyền Diệu

Huyền Linh

Huyền Ngọc

Huyền Nhi

Huyền Thoại

Huyền Thư

Huyền Trâm

Huyền Trân

Huyền Trang

Huỳnh Anh

Khả Ái

Khả Khanh

Khả Tú

Khải Hà

Khánh Chi

Khánh Giao

Khánh Hà

Khánh Hằng

Khánh Huyền

Khánh Linh

Khánh Ly

Khánh Mai

Khánh My

Khánh Ngân

Khánh Ngọc

Khánh Quyên

Khánh Quỳnh

Khánh Thủy

Khánh Trang

Khánh Vân

Khánh Vi

Khánh Vy

Khiết Linh

Khiết Tâm

Khúc Lan

Khuê Trung

Kiết Hồng

Kiết Trinh

Kiều Anh

Kiều Diễm

Kiều Dung

Kiều Giang

Kiều Hạnh

Kiều Hoa

Kiều Khanh

Kiều Loan

Kiều Mai

Kiều Minh

Kiều Mỹ

Kiều Nga

Kiều Nguyệt

Kiều Nương

Kiều Thu

Kiều Trang

Kiều Trinh

Kim Anh

Kim Ánh

Kim Chi

Kim Cương

Kim Dung

Kim Duyên

Kim Hoa

Kim Hương

Kim Khanh

Kim Khánh

Kim Khuyên

Kim Lan

Kim Liên

Kim Loan

Kim Ly

Kim Mai

Kim Ngân

Kim Ngọc

Kim Oanh

Kim Phượng

Kim Quyên

Kim Sa

Kim Thanh

Kim Thảo

Kim Thoa

Kim Thu

Kim Thư

Kim Thủy

Kim Thy

Kim Trang

Kim Tuyến

Kim Tuyền

Kim Tuyết

Kim Xuân

Kim Xuyến

Kim Yến

Kỳ Anh

Kỳ Duyên

Lam Hà

Lam Khê

Lam Ngọc

Lâm Nhi

Lâm Oanh

Lam Tuyền

Lâm Tuyền

Lâm Uyên

Lan Anh

Lan Chi

Lan Hương

Lan Khuê

Lan Ngọc

Lan Nhi

Lan Phương

Lan Thương

Lan Trúc

Lan Vy

Lệ Băng

Lệ Chi

Lệ Hoa

Lệ Huyền

Lệ Khanh

Lệ Nga

Lệ Nhi

Lệ Quân

Lệ Quyên

Lê Quỳnh

Lệ Thanh

Lệ Thu

Lệ Thủy

Liên Chi

Liên Hoa

Liên Hương

Liên Như

Liên Phương

Liên Trân

Liễu Oanh

Linh Châu

Linh Chi

Linh Ðan

Linh Duyên

Linh Giang

Linh Hà

Linh Lan

Linh Nhi

Linh Phương

Linh Phượng

Linh San

Linh Trang

Loan Châu

Lộc Uyên

Lục Bình

Lưu Ly

Ly Châu

Mai Anh

Mai Châu

Mai Chi

Mai Hà

Mai Hạ

Mai Hiền

Mai Hương

Mai Khanh

Mai Khôi

Mai Lan

Mai Liên

Mai Linh

Mai Loan

Mai Ly

Mai Nhi

Mai Phương

Mai Quyên

Mai Tâm

Mai Thanh

Mai Thảo

Mai Thu

Mai Thy

Mai Trinh

Mai Vy

Mậu Xuân

Minh An

Minh Châu

Minh Duyên

Minh Hà

Minh Hằng

Minh Hạnh

Minh Hiền

Minh Hồng

Minh Huệ

Minh Hương

Minh Huyền

Minh Khai

Minh Khuê

Minh Loan

Minh Minh

Minh Ngọc

Minh Nguyệt

Minh Nhi

Minh Như

Minh Phương

Minh Phượng

Minh Tâm

Minh Thảo

Minh Thu

Minh Thư

Minh Thương

Minh Thúy

Minh Thủy

Minh Trang

Minh Tuệ

Minh Tuyết

Minh Uyên

Minh Vy

Minh Xuân

Minh Yến

Mộc Miên

Mộng Ðiệp

Mộng Hằng

Mộng Hoa

Mộng Hương

Mộng Lan

Mộng Liễu

Mộng Nguyệt

Mộng Nhi

Mộng Quỳnh

Mộng Thi

Mộng Thu

Mộng Tuyền

Mộng Vân

Mộng Vi

Mộng Vy

Mỹ Anh

Mỹ Diễm

Mỹ Dung

Mỹ Duyên

Mỹ Hạnh

Mỹ Hiệp

Mỹ Hoàn

Mỹ Huệ

Mỹ Hường

Mỹ Huyền

Mỹ Khuyên

Mỹ Kiều

Mỹ Lan

Mỹ Lệ

Mỹ Loan

Mỹ Lợi

Mỹ Nga

Mỹ Ngọc

Mỹ Nhi

Mỹ Nương

Mỹ Phụng

Mỹ Phương

Mỹ Phượng

Mỹ Tâm

Mỹ Thuần

Mỹ Thuận

Mỹ Trâm

Mỹ Trang

Mỹ Uyên

Mỹ Vân

Mỹ Xuân

Mỹ Yến

Ngân Anh

Ngân Hà

Ngân Thanh

Ngân Trúc

Nghi Dung

Nghi Minh

Nghi Xuân

Ngọc Ái

Ngọc Anh

Ngọc Ánh

Ngọc Bích

Ngọc Cầm

Ngọc Ðàn

Ngọc Ðào

Ngọc Diệp

Ngọc Ðiệp

Ngọc Dung

Ngọc Hà

Ngọc Hạ

Ngọc Hân

Ngọc Hằng

Ngọc Hạnh

Ngọc Hiền

Ngọc Hoa

Ngọc Hoan

Ngọc Hoàn

Ngọc Huệ

Ngọc Huyền

Ngọc Khanh

Ngọc Khánh

Ngọc Khuê

Ngọc Lam

Ngọc Lâm

Ngọc Lan

Ngọc Lệ

Ngọc Liên

Ngọc Linh

Ngọc Loan

Ngọc Ly

Ngọc Lý

Ngọc Mai

Ngọc Nhi

Ngọc Nữ

Ngọc Oanh

Ngọc Phụng

Ngọc Quế

Ngọc Quyên

Ngọc Quỳnh

Ngọc San

Ngọc Sương

Ngọc Tâm

Ngọc Thi

Ngọc Thơ

Ngọc Thy

Ngọc Trâm

Ngọc Trinh

Ngọc Tú

Ngọc Tuyết

Ngọc Uyên

Ngọc Uyển

Ngọc Vân

Ngọc Vy

Ngọc Yến

Nguyên Hồng

Nguyên Thảo

Nguyết Ánh

Nguyệt Anh

Nguyệt Ánh

Nguyệt Cầm

Nguyệt Cát

Nguyệt Hà

Nguyệt Hồng

Nguyệt Lan

Nguyệt Minh

Nguyệt Nga

Nguyệt Quế

Nguyệt Uyển

Nhã Hồng

Nhã Hương

Nhã Khanh

Nhã Lý

Nhã Mai

Nhã Sương

Nhã Thanh

Nhã Trang

Nhã Trúc

Nhã Uyên

Nhã Ý

Nhã Yến

Nhan Hồng

Nhật Ánh

Nhật Hà

Nhật Hạ

Nhật Lan

Nhật Linh

Nhật Mai

Nhật Phương

Nhất Thương

Như Anh

Như Bảo

Như Hảo

Như Hoa

Như Hồng

Như Loan

Như Mai

Như Ngà

Như Ngọc

Như Phương

Như Quân

Như Quỳnh

Như Tâm

Như Thảo

Như Trân

Như Ý

Oanh Thơ

Oanh Vũ

Phi Khanh

Phi Nhung

Phi Phi

Phi Phượng

Phong Lan

Phụng Yến

Phước Bình

Phước Huệ

Phương An

Phương Anh

Phượng Bích

Phương Châu

Phương Chi

Phương Diễm

Phương Dung

Phương Giang

Phương Hạnh

Phương Hiền

Phương Hoa

Phương Lan

Phượng Lệ

Phương Liên

Phượng Liên

Phương Linh

Phương Loan

Phượng Loan

Phương Mai

Phượng Nga

Phương Nghi

Phương Ngọc

Phương Nhi

Phương Nhung

Phương Quân

Phương Quế

Phương Quyên

Phương Quỳnh

Phương Tâm

Phương Thanh

Phương Thảo

Phương Thi

Phương Thùy

Phương Thủy

Phượng Tiên

Phương Trà

Phương Trâm

Phương Trang

Phương Trinh

Phương Uyên

Phượng Uyên

Phượng Vũ

Phượng Vy

Phương Yến

Quế Anh

Quế Chi

Quế Lâm

Quế Linh

Quế Phương

Quế Thu

Quỳnh Anh

Quỳnh Chi

Quỳnh Dung

Quỳnh Giang

Quỳnh Giao

Quỳnh Hà

Quỳnh Hoa

Quỳnh Hương

Quỳnh Lam

Quỳnh Lâm

Quỳnh Liên

Quỳnh Nga

Quỳnh Ngân

Quỳnh Nhi

Quỳnh Như

Quỳnh Nhung

Quỳnh Phương

Quỳnh Sa

Quỳnh Thanh

Quỳnh Thơ

Quỳnh Tiên

Quỳnh Trâm

Quỳnh Trang

Quỳnh Vân

Sao Băng

Sao Mai

Sơn Ca

Sơn Tuyền

Sông Hà

Sông Hương

Song Oanh

Song Thư

Sương Sương

Tâm Đan

Tâm Ðoan

Tâm Hằng

Tâm Hạnh

Tâm Hiền

Tâm Khanh

Tâm Linh

Tâm Nguyên

Tâm Nguyệt

Tâm Nhi

Tâm Như

Tâm Thanh

Tâm Trang

Thạch Thảo

Thái Chi

Thái Hà

Thái Hồng

Thái Lâm

Thái Lan

Thái Tâm

Thái Thanh

Thái Thảo

Thái Vân

Thanh Bình

Thanh Dân

Thanh Đan

Thanh Giang

Thanh Hà

Thanh Hằng

Thanh Hạnh

Thanh Hảo

Thanh Hiền

Thanh Hiếu

Thanh Hoa

Thanh Hồng

Thanh Hương

Thanh Hường

Thanh Huyền

Thanh Kiều

Thanh Lam

Thanh Lâm

Thanh Lan

Thanh Loan

Thanh Mai

Thanh Mẫn

Thanh Nga

Thanh Ngân

Thanh Ngọc

Thanh Nguyên

Thanh Nhã

Thanh Nhàn

Thanh Nhung

Thanh Phương

Thanh Tâm

Thanh Thanh

Thanh Thảo

Thanh Thu

Thanh Thư

Thanh Thúy

Thanh Thủy

Thanh Trang

Thanh Trúc

Thanh Tuyền

Thanh Tuyết

Thanh Uyên

Thanh Vân

Thanh Vy

Thanh Xuân

Thanh Yến

Thảo Hồng

Thảo Hương

Thảo Linh

Thảo Ly

Thảo Mai

Thảo My

Thảo Nghi

Thảo Nguyên

Thảo Nhi

Thảo Quyên

Thảo Trang

Thảo Uyên

Thảo Vân

Thảo Vy

Thi Cầm

Thi Ngôn

Thi Thi

Thi Xuân

Thi Yến

Thiên Di

Thiên Duyên

Thiên Giang

Thiên Hà

Thiên Hương

Thiên Khánh

Thiên Kim

Thiên Lam

Thiên Lan

Thiên Mai

Thiên Mỹ

Thiện Mỹ

Thiên Nga

Thiên Nương

Thiên Phương

Thiên Thanh

Thiên Thảo

Thiên Thêu

Thiên Thư

Thiện Tiên

Thiên Trang

Thiên Tuyền

Thiều Ly

Thiếu Mai

Thơ Thơ

Thu Duyên

Thu Giang

Thu Hà

Thu Hằng

Thu Hậu

Thu Hiền

Thu Hoài

Thu Hồng

Thu Huệ

Thu Huyền

Thư Lâm

Thu Liên

Thu Linh

Thu Loan

Thu Mai

Thu Minh

Thu Nga

Thu Ngà

Thu Ngân

Thu Ngọc

Thu Nguyệt

Thu Nhiên

Thu Oanh

Thu Phong

Thu Phương

Thu Phượng

Thu Sương

Thư Sương

Thu Thảo

Thu Thuận

Thu Thủy

Thu Trang

Thu Vân

Thu Việt

Thu Vọng

Thu Yến

Thuần Hậu

Thục Anh

Thục Ðào

Thục Ðình

Thục Ðoan

Thục Khuê

Thục Nhi

Thục Oanh

Thục Quyên

Thục Tâm

Thục Trang

Thục Trinh

Thục Uyên

Thục Vân

Thương Huyền

Thương Nga

Thương Thương

Thúy Anh

Thùy Anh

Thụy Ðào

Thúy Diễm

Thùy Dung

Thùy Dương

Thùy Giang

Thúy Hà

Thúy Hằng

Thủy Hằng

Thúy Hạnh

Thúy Hiền

Thủy Hồng

Thúy Hương

Thúy Hường

Thúy Huyền

Thụy Khanh

Thúy Kiều

Thụy Lâm

Thúy Liên

Thúy Liễu

Thùy Linh

Thủy Linh

Thụy Linh

Thúy Loan

Thúy Mai

Thùy Mi

Thúy Minh

Thủy Minh

Thúy My

Thùy My

Thúy Nga

Thúy Ngà

Thúy Ngân

Thúy Ngọc

Thủy Nguyệt

Thùy Nhi

Thùy Như

Thụy Nương

Thùy Oanh

Thúy Phượng

Thúy Quỳnh

Thủy Quỳnh

Thủy Tâm

Thủy Tiên

Thụy Trâm

Thủy Trang

Thụy Trinh

Thùy Uyên

Thụy Uyên

Thúy Vân

Thùy Vân

Thụy Vân

Thúy Vi

Thúy Vy

Thy Khanh

Thy Oanh

Thy Trúc

Thy Vân

Tiên Phương

Tiểu Mi

Tiểu My

Tiểu Quỳnh

Tịnh Lâm

Tịnh Nhi

Tịnh Như

Tịnh Tâm

Tịnh Yên

Tố Loan

Tố Nga

Tố Nhi

Tố Quyên

Tố Tâm

Tố Uyên

Trà Giang

Trà My

Trâm Anh

Trầm Hương

Trâm Oanh

Trân Châu

Trang Anh

Trang Ðài

Trang Linh

Trang Nhã

Trang Tâm

Triệu Mẫn

Triều Nguyệt

Triều Thanh

Trúc Chi

Trúc Ðào

Trúc Lam

Trúc Lâm

Trúc Lan

Trúc Liên

Trúc Linh

Trúc Loan

Trúc Ly

Trúc Mai

Trúc Phương

Trúc Quân

Trúc Quỳnh

Trúc Vân

Trúc Vy

Từ Ân

Tú Anh

Từ Dung

Tú Ly

Tú Nguyệt

Tú Quyên

Tú Quỳnh

Tú Sương

Tú Tâm

Tú Trinh

Tú Uyên

Tuệ Lâm

Tuệ Mẫn

Tuệ Nhi

Tùng Quân

Tường Chinh

Tường Vân

Tường Vi

Tường Vy

Tùy Anh

Tùy Linh

Túy Loan

Tuyết Anh

Tuyết Băng

Tuyết Chi

Tuyết Hân

Tuyết Hoa

Tuyết Hồng

Tuyết Hương

Tuyết Lâm

Tuyết Lan

Tuyết Loan

Tuyết Mai

Tuyết Nga

Tuyết Nhi

Tuyết Nhung

Tuyết Oanh

Tuyết Tâm

Tuyết Thanh

Tuyết Trầm

Tuyết Trinh

Tuyết Vân

Tuyết Vy

Tuyết Xuân

Uyển Khanh

Uyên Minh

Uyên My

Uyển My

Uyển Nghi

Uyển Nhã

Uyên Nhi

Uyển Nhi

Uyển Như

Uyên Phương

Uyên Thi

Uyên Thơ

Uyên Thy

Uyên Trâm

Uyên Vi

Vân Anh

Vân Chi

Vân Du

Vân Hà

Vân Hương

Vân Khanh

Vân Khánh

Vân Linh

Vân Ngọc

Vân Nhi

Vân Phi

Vân Phương

Vân Quyên

Vân Quỳnh

Vân Thanh

Vân Thường

Vân Thúy

Vân Tiên

Vân Trang

Vân Trinh

Vàng Anh

Vành Khuyên

Vi Quyên

Việt Hà

Việt Hương

Việt Khuê

Việt Mi

Việt Nga

Việt Nhi

Việt Thi

Việt Trinh

Việt Tuyết

Việt Yến

Vũ Hồng

Vy Lam

Vy Lan

Xuân Bảo

Xuân Dung

Xuân Hân

Xuân Hạnh

Xuân Hiền

Xuân Hoa

Xuân Hương

Xuân Lâm

Xuân Lan

Xuân Lan

Xuân Liễu

Xuân Linh

Xuân Loan

Xuân Mai

Xuân Nghi

Xuân Ngọc

Xuân Nhi

Xuân Nhiên

Xuân Nương

Xuân Phương

Xuân Phượng

Xuân Tâm

Xuân Thanh

Xuân Thảo

Xuân Thu

Xuân Thủy

Xuân Trang

Xuân Uyên

Xuân Vân

Xuân Yến

Xuyến Chi

Ý Bình

Ý Lan

Ý Nhi

Yến Anh

Yên Ðan

Yến Ðan

Yến Hồng

Yến Loan

Yên Mai

Yến Mai

Yến My

Yên Nhi

Yến Nhi

Yến Oanh

Yến Phương

Yến Phượng

Yến Thanh

Yến Thảo

Yến Trâm

Yến Trang

Yến Trinh

     


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những tên hay dành cho các bé gái –

Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Phong thủy quan niệm lối đi và đường vào nhà là vấn đề rất quan trọng. Theo phong thủy, lối đi là phần đầu tiên của ngôi nhà, đón những vận may đến cho gia đình.
Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi trở về ngôi nhà, chúng ta phải cảm thấy bị cuốn hút vào không gian sống của riêng mình khi bước qua khung cảnh dễ thương dù nó chật hẹp.

Nếu gia đình bạn sống ở chung cư, chúng ta cần tạo ra sự khác biệt cho không gian sống, biến nó thành một nơi mang vẻ độc đáo riêng: Chỉ với một tấm thảm chùi chân có màu sặc sỡ, một vài chậu kiểng, hay vài chi tiết trang trí nào đó.

Khu vực dẫn vào nhà

Nếu không cẩn thận, mảnh vườn trước nhà rất có thể trở thành nơi tích giữ năng lượng ứ đọng. Ở những khu nhà ở tạm thời, khi phần sân chung không được ai quan tâm, điều này có thể trở nên khó giải quyết vì không ai chịu chăm sóc khu vườn. Kết quả là các loại đồ đạc, vật dụng cũ và vô số các thứ rác rưởi khác đều được dồn hết ra đây. Các thùng rác được đặt ở vườn phía trước nên việc không dọn dẹp có thể ảnh hưởng nặng nề đến cảm xúc của chúng ta khi trở về nhà.

Do đó, thùng rác cần phải được đặt xa đường dẫn vào nhà, cách tốt nhất là nên giấu chúng sau hàng rào hay bờ giậu. Nếu một người có ý thức và làm việc đó thì những người khác cũng có thể bắt chước làm theo.

Lối đi vào nhà

Lối đi cần được thiết kế uốn lượn qua khu vườn để khi về nhà, chúng ta có thể xả bớt sự căng thẳng sau ngày dài làm việc hoặc cảm thấy được nghênh đón sau một chuyến đi xa.

Lối đi nếu được thiết kế chạy thẳng tắp từ ngoài đường vào đến cửa trước sẽ dẫn khí đi quá nhanh, vì vậy, chúng ta không có thời gian để chuyển đổi tâm trạng.

Một lối đi hoàn hảo là lối đi có một khoảng rộng thoáng ngay đầu ngõ để khí có thể ngưng tụ. Tuy nhiên, đây thường lại là nơi người ta đậu xe nên chẳng phân biệt được đây là nhà ở hay văn phòng làm việc.

Khi phải ép người để lách qua cái xe mới vào được nhà sẽ gây ra cảm giác ức chế, khó chịu như bị nhốt vào trong một không gian nhỏ bé và những hàng hiên chật hẹp bị vây kín cũng như tạo ra cảm giác bị kìm hãm. Tâm trạng này có thể được phản chiếu vào trong cách sống của chúng ta.

Cửa trước nhà

Cửa trước phải được giữ sạch sẽ và chăm sóc kỹ lưỡng. Các chậu cảnh nên đặt hai bên cửa nhưng không được lấn chiếm đường ra vào. Số nhà phải rõ ràng để có thể nhìn thấy vào ban ngày cũng như ban đêm, chuông cửa cần phải hoạt động tốt để giữ giao hảo với người gọi.

Màu sắc của cửa ra vào nên tuân theo màu của hướng la bàn mà cửa hướng đến và phải được cân bằng theo quy luật ngũ hành.

Ra khỏi nhà

Những gì chúng ta thấy khi bước chân ra khỏi nhà cũng có thể tác động đến chúng ta suốt một ngày. Những vật lớn thẳng hàng với cửa ra vào như cột điện và cây xanh là những xạ thủ bắn “khí độc” vào nhà chúng ta.

Góc của những tòa nhà kế cận cũng vậy. Nếu từ nhà nhìn ra ngoài mà tầm nhìn bị cản lại bởi bờ giậu hay tường rào cao, chúng ta có thể trở nên hẹp hòi, ích kỷ và cảm thấy chán chường.

Nếu sống trong môi trường hợp lý, chúng ta sẽ khỏe mạnh, vui vẻ, làm ăn phát đạt. Còn sống ở nơi luộm thuộm, thiếu hòa hợp thì sẽ dễ cáu gắt, khó chịu …

(Theo Báo Xây dựng Online)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách bố trí đường vào nhà, lối đi và cửa trước hợp phong thủy

Phong thủy phòng bếp: Những yếu tố màu sắc và vật liệu bạn cần biết

Có thể nói, phòng bếp là một trong những không gian quan trọng nhất của ngôi nhà, vì vậy gia chủ không thể không biết các yếu tố phong thủy dưới đây.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phòng bếp được xem như là trái tim của ngôi nhà, là nơi “giữ lửa” cho mỗi gia đình. Chính vì thế, phong thủy phòng bếp được đánh giá quan trọng không kém các khu vực khác. Trong đó, màu sắc và vật liệu tạo thành góp phần tạo nên sự hài hòa, nuôi dưỡng và duy trì sự phát triển mối quan hệ của các thành viên.
Dưới đây là những lưu ý khi lựa chọn màu sắc cũng như vật liệu cho phòng bếp mà bạn cần biết.

1. Yếu tố màu sắc

Phòng bếp là nơi để nấu nướng, theo phong thủy nó mang yếu tố Hỏa. Vì thế, màu sơn thuộc yếu tố Mộc như xanh lá cây được xem là phù hợp hơn cả. Gam màu này không chỉ nhẹ nhàng, mềm mại, giúp không gian thư giãn mà còn thúc đẩy tương sinh cho căn bếp. Nếu được, hãy tăng cường bố trí thêm một vài chậu cây cảnh trong không gian này nhé!
 Màu xanh lá cây thúc đẩy tương sinh cho căn bếp. Ngoài xanh lá, màu trắng cũng thường xuyên được lựa chọn cho bếp vì chúng mang lại cảm giác sạch sẽ, là phông nên hoàn hảo để phối hợp với nội thất và phụ kiện. Màu trắng giúp đánh thức các giác quan, thích hợp cho nền tường, tủ bếp. Bên cạnh trắng là gam màu vàng, nó đem đến sự tươi mới, gắn kết vui vẻ giữa các thành viên trong bữa ăn. Tuy nhiên nên chọn tông vàng nhạt, tránh chọn tông quá chói chang dễ làm bầu không khí căng thẳng.  Màu trắng và vàng nhạt mang lại sự sạch sẽ, tươi mới và tạo không khí vui vẻ.
Các gam màu như nâu đất, mà be,… thuộc nhóm màu trung tính nên cũng thích hợp dùng cho khu vực này. Theo quan niệm phong thủy, những màu này mang đến sự bền vững, ổn định, giúp bếp lúc nào cũng có cảm giác ấm áp và sung túc.
 Các gam màu trung tính cũng khá phù hợp cho khu vực nấu nướng.
Hai màu sắc thường xuyên được sử dụng nhưng theo phong thủy nên hạn chế chính là màu xanh nước biển và màu đỏ. Bởi lẽ, màu xanh nước biển (thuộc Thủy, Thủy khắc Hỏa) tuy nhẹ nhàng thư thái những nếu sử dụng nhiều sẽ lấn át sự hấp dẫn của thức ăn, khiến người dùng cảm thấy không ngon miệng và làm giảm bớt sự vui vẻ nhộn nhịp của bếp. Màu đỏ thì cùng thuộc yếu tố Hỏa nên nếu lạm dụng sẽ khiến phòng ăn bị mất cân bằng, mang cảm giác bực bội, nặng nề cho gia chủ.
  Màu xanh nước biển và màu đỏ cần hạn chế chọn lựa cho phòng bếp.
2. Vật liệu trong phòng bếp

Như trên đã đề cập, phòng bếp theo ngũ hành thuộc Hỏa, do đó, vật liệu được lựa chọn cho bề mặt ốp tường, lát sàn nhà hay hệ thống tủ bếp cũng cần được lựa chọn sao cho phù hợp với yếu tố phong thủy.

Chúng ta sẽ xem xét một vài ví dụ về các vật liệu để chọn ra loại phù hợp nhất cho gia chủ. Bởi lẽ, gạch ốp tường hay kính ốp bếp phải phù hợp với mệnh ngũ hành của gia chủ.
  Vật liệu được lựa chọn cho bề mặt ốp tường, lát sàn nhà hay hệ thống tủ bếp cũng cần được lựa chọn sao cho phù hợp với yếu tố phong thủy.
Chẳng hạn như: Gạch, đá granite có màu xanh biển, màu đen là thuộc Thủy, nếu có ánh kim loại thì thêm tính Kim). Đá granite đỏ là thuộc Hỏa, nếu có thêm các sắc độ vàng thì tăng thêm tính Thổ. Đá trắng và đá xám thuộc tính Kim. Các loại gỗ từ màu vàng cam đến nâu đậm thuộc 3 hành liên hoàn Mộc - Hỏa -Thổ. Nếu chọn hệ thống tủ làm bằng inox thì vật liệu này thuộc Kim. Bạn chọn lớp sơn phủ bề mặt tủ màu gì thì cộng thêm yếu tố của hành đó (chẳng hạn đỏ thì thuộc Hỏa, xanh lá thuộc Mộc, xanh nước biển thuộc Thủy...).
 Mỗi loại vật liệu như gỗ, đá, kim loại,... đều mang trong mình yếu tố phong thủy đặc trưng.
Sau khi đã xác định được tính chất phong thủy của vật liệu thì bạn sẽ dễ dàng hơn trong việc chọn ra loại vật liệu như thế nào là hài hòa với bản mệnh của gia chủ. Bạn thuộc mệnh nào thì sẽ chọn loại vật liệu tương sinh (Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc), tránh vật liệu mang tính tương khắc (Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc).
  Gia chủ thuộc mệnh nào thì sẽ chọn loại vật liệu tương sinh cho phòng bếp.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy phòng bếp: Những yếu tố màu sắc và vật liệu bạn cần biết

Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Các phương thức bí truyền chữa bệnh bằng bùa chú, đọc niệm, cúng khấn để chữa bệnh đến ngày nay vẫn được sử dụng. Hãy cùng tìm hiểu phương pháp chữa bệnh tâm
Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Sử dụng pháp thuật chữa bệnh đã tồn tại từ lâu trong dân gian. Các phương thức bí truyền như bùa chú, đọc niệm, cúng khấn để chữa bệnh đến ngày nay, khi khoa học và y học phát triển vượt bậc vẫn được sử dụng ở không ít nơi. Cùng tìm hiểu phương pháp chữa bệnh tâm linh này qua bài viết dưới đây.


Thuc hu phuong phap dung bua thuat tri benh trong dan gian hinh anh 2
 
Các thầy mo, thầy cúng được coi là nhân vật quan trọng trong văn hóa dân gian của người Việt từ xa xưa. Họ không chỉ đảm đương công việc của một nhà tâm linh mà còn như một thầy thuốc của cộng đồng. Chỉ với một chén nước, đọc chú ngữ là người bệnh có thể thuyên giảm hay thông qua một lễ cúng với hàng loạt các nghi thức là có thể giải trừ mọi bệnh tật.   Khi Đạo giáo bắt đầu có chỗ đứng ở Việt nam thì nghi thức chữa bệnh bằng bùa chú phổ biến nhất là thắp hương, niệm bát tiên chú, lấy nước cho người bệnh uống. Hay là viết bùa, luyện ngải rồi đốt hòa với nước làm thuốc chữa bệnh. Thậm chí, dòng Đạo giáo thần tiên còn có những bài phép thuật riêng để chữa bệnh, cải lão hoàn đồng, cải tử hoàn sinh. Thực hư hầu như chưa rõ ràng nhưng sau đó bị liệt vào hàng tà giáo, cấm lưu truyền.
Bí ẩn giấc mơ về bùa chú Tìm hiểu văn hóa bùa chú trong tâm linh người Việt Khu chợ bày bán tâm linh công khai ở Tây Phi

Phật giáo không khuyến khích bùa chú, bản thân Phật giáo cũng không có bùa chú nhưng khi truyền vào dân gian, tích hợp với văn hóa bản địa cũng như đời sống tâm linh tín ngưỡng ăn sâu bắt rễ trong lòng người Việt, Phật giáo cũng xuất hiện các phương pháp chữa bệnh tâm linh.
  Đó không phải là các nghi lễ bài bản hay những bài bùa chú hiệu nghiệm như các tín ngưỡng dân gian mà chủ yếu là trì tụng, niệm kinh và hướng Phật. Điển hình là tâm lý lên chùa dâng hương lễ Phật, niệm kinh, niệm chú để mong giải trừ bệnh tật, tai ách. 
Thuc hu phuong phap dung bua thuat tri benh trong dan gian hinh anh 2
 
Giải thích cho vấn đề này, các nhà khoa học đã đưa ra giả thuyết chú ngữ là một loại âm thanh sóng âm mà khi cộng hưởng với cơ thể sẽ nảy sinh tác dụng chữa bệnh. Tuy nhiên, luận cứ này có phần khiên cưỡng và thiếu hợp lý vì hầu hết khi niệm chú đều phát ra tiếng và thực chất chưa phát hiện ra trường hợp con người có thể tạo ra sóng âm chữa bệnh.
  Nếu niệm chú có thể khỏi bệnh thì con người bách bệnh tiêu tan, vì thế phương pháp này chỉ có tác dụng về mặt tinh thần chứ chưa có chứng minh khoa học về mặt chữa bệnh. Cũng như vậy, niệm Phật là để tâm an, tinh thần khỏe khoắn, hướng thiện chứ không thể chữa khỏi bệnh. Các hình thức chữa bệnh bằng tâm linh hầu hết đều bị cho là mê tín dị đoan và cấm lưu hành.
 
► Xem phong thủy và những điều ảnh hưởng đến vận mệnh của bạn
  Bùa ngải và bản chất của huyền thuật Người Chăm yểm kho báu trên đảo Lý Sơn Ly kì chuyện mỹ nhân Sài Gòn dùng bùa yêu chài đại gia Tâm Lan
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Thực hư phương pháp dùng bùa thuật trị bệnh trong dân gian

Xem phong thủy nhà bếp, chọn hướng đại cát đại lợi

Hướng nhà bếp tốt, phong thủy nhà bếp lành sẽ mang tới cực kì nhiều điều may mắn cho ngôi nhà
Xem phong thủy nhà bếp, chọn hướng đại cát đại lợi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Rất nhiều người khi bố trí nhà cửa thường quan tâm tới phong thủy phòng ngủ, phòng khách nhưng lại bỏ qua nhà bếp vì cho rằng nó không quan trọng. Nhầm to nhé, hướng nhà bếp tốt, phong thủy nhà bếp lành sẽ mang tới cực kì nhiều điều may mắn cho ngôi nhà đấy.

Xem phong thuy nha bep, chon huong dai cat dai loi hinh anh 2
 
Trong phong thủy nhà bếp, việc quan trọng nhất, cần thiết nhất là chọn được hướng đẹp. Hướng bếp thích hợp không chỉ có thể đón lành tránh dữ mà còn phát vận, chiêu tài, hóa giải một số điểm không hay, bổ sung vận khí cho toàn gia trạch.   Ngược lại, đặt bếp ở hướng xấu, hướng hung thì hai phương diện bị ảnh hưởng nặng nề nhất là sức khỏe và tài lộc của người trong nhà. Cùng điểm qua một số hướng nhà bếp tốt và những hướng xấu không nên đặt bếp để có thêm hiểu biết áp dụng vào chính ngôi nhà của mình nhé.  

1. Hướng nhà bếp xấu

  Phương Nam đối với nhà bếp là phương vị hung. Theo ngũ hành, phương Nam thuộc Hỏa, bếp cũng tính Hỏa, Hỏa càng thêm Hỏa, quá vượng lại sinh khắc chế với Thủy – chủ quản tài chính nên cực kì hung. Hỏa vượng nhiệt cao dễ dẫn tới hỏa hoạn, cháy nổ, rủi ro lại thêm gió Nam nhiệt khí khiến bụi bặm, ô uế thổi tung từ bếp tới tất cả các phòng trong nhà.   Phương Tây Nam là hung vị, tuyệt đối không nên đặt bếp. Tây Nam thuộc ngũ hành Thổ, Hỏa sinh Thổ tiêu hao, không hề tốt. Xét trên phương diện khí hậu, sau giờ Ngọ (từ 11h đến 13h) thì nhiệt khí mạnh bắt đầu giảm, lực của ánh mặt trời yếu đi, hướng mặt trời lặn trong sách cổ gọi là “quỷ môn”, vừa không may mắn lại không tốt cho việc bảo quản thực phẩm.   Trung tâm ngôi nhà là nơi không tốt để đặt bếp. Xét về phong thủy nhà ở, chính giữa nhà là nơi tụ khí, cần có sự sạch sẽ trang nghiêm và thông thoáng. Bếp là nơi nấu nướng, thường xuyên có mùi, thức ăn thừa, dầu mỡ mắm muối, tuyệt đối không thể duy trì yêu cầu phong thủy ở vị trí này.   Lý luận phong thủy cổ đại cho rằng nhà bếp có hỏa khí nếu thiết lập tại trung tuyến (phương Tý, Ngọ, Mão, Dậu) hoặc tứ ngung tuyến (Càn, Tốn, Cấn, Khôn) sẽ dễ phát sinh hỏa hoạn, cần đặc biệt chú ý. Nên mời thầy xem hoặc tự tính toán, xác định phương hướng bằng la bàn trước khi quyết định đặt bếp.  

2. Hướng nhà bếp tốt

  Từ bát quái ngũ hành xem xét, phương Đông là cung Chấn, thuộc Mộc, Mộc sinh Hỏa, đại cát. Mặt trời mọc từ phía Đông, ánh sáng ôn hòa ấm áp, không khí tươi tắn mới mẻ, đặt bếp sẽ rất hợp vệ sinh, đẹp phong thủy.   Đông Nam cũng là hướng mặt trời nhô lên, đặc biệt là vào mùa đông, ánh mặt trời ấm áp, bốn mùa đều sung túc sáng sủa, đông không quá lạnh, hè không quá nóng, có lợi cho việc duy trì độ tươi mới của thực phẩm lại giữ vệ sinh nhà bếp, đảm bảo độ thông thoáng, sạch sẽ nên là hướng tốt để đặt bếp.   Phong thủy nhà bếp còn nhắc nhở, nếu đặt bếp ở hướng Bắc – một hướng không cát không hung thì cần lưu ý tới màu sắc. Nơi này hãy bố trí màu ấm, mang tới cảm giác mạnh. Nếu nhà bếp hướng Đông Nam, sử dụng màu mát lạnh để giảm nhiệt, mang tới cảm giác dễ chịu cho người sử dụng. Màu trắng là sắc thái cát tường, nếu bố trí màu này trong bếp sẽ có nhiều điểm thuận lợi. Một là sạch sẽ, vệ sinh; hai là bình ổn tâm tình, tạo sự thu giãn thoải mái, thả lỏng hoàn toàn. Điều này rất có lợi cho tiêu hóa, sức khỏe và tinh thần của người trong nhà.
Xem phong thuy nha bep, chon huong dai cat dai loi hinh anh 2
 
Nguyên tắc bố trí phong thủy phòng bếp khá đơn giản, nhà bếp hẹp thì dùng màu nhạt và lạnh để tăng độ sáng sủa; nhà bệp rộng thì ưu tiên màu ấm nóng để tạo không khí thân thiện, đầm ấm, nhiệt tình, gia tăng cảm giác muốn ăn, kích thích ngon miệng.   Như vậy, gia chủ cần quan tâm tới việc chọn hướng bếp tốt, tránh hướng bếp xấu dựa trên bố cục gia cư, từ đó chọn màu sắc thích hợp để bày trí. Càng dụng tâm bỏ công sức để gia tăng phong thủy nhà bếp sẽ càng thuận lợi trong việc thúc đẩy vận khí, tài khí của toàn gia.
13 mẹo đơn giản để nhà bếp hợp phong thủy Vì sao phong thủy nhà ở cấm kị nhà bếp và nhà vệ sinh gần nhau? Gặp họa khôn lường với 7 kiểu nhà bếp
Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem phong thủy nhà bếp, chọn hướng đại cát đại lợi

Những con giáp tài lộc vượng nhất 6 tháng đầu năm 2015

Vận thế của người tuổi Dần trong 6 tháng đầu năm 2015 có nhiều khởi sắc đáng kinh ngạc. Đường công danh, sự nghiệp của họ rộng mở.
Những con giáp tài lộc vượng nhất 6 tháng đầu năm 2015

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tỵ

ty-1501-1429602793.jpg

Tài lộc, sự nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Tỵ khá vượng. Dù đi tới nơi đâu, làm ở cương vị nào, con giáp này cũng gặp được nhiều cơ hội, đặc biệt là cơ hội làm giàu. Tuy nhiên, bạn nên nhớ rằng, cơ hội đồng nghĩa với thách thức. Mấu chốt vấn đề là họ phải biết nắm bắt thời cơ để tận dụng triệt để lợi thế đó. Nếu làm được điều đó, người tuổi Tỵ sẽ thực sự bội thu trong nửa năm 2015. 

Tuổi Dần

Khi bản thân họ chưa nghĩ ra cách kiếm tiền hiệu quả thì đã có người giúp đỡ và hướng dẫn họ đầu tư. Hơn ai hết, bản thân người tuổi Dần cũng xác định rõ mục tiêu của họ trong năm nay. Họ biết rõ nguồn lực tài chính cũng như cách chi tiêu hợp lý.

dan-7116-1429602793.jpg

Điều duy nhất mà con giáp này cần lưu ý đó là kiểm soát tốt cảm xúc của mình. Tránh nghe theo lời xúi giục của kẻ tiểu nhân mà làm những việc sai trái, đi theo “tà phái”. Điều đó không chỉ khiến họ thất bại trong sự nghiệp mà còn thân bại danh liệt, không thể phát triển sự nghiệp sau này. 

Tuổi Thân

than-8856-1429602793.jpg

Vận quý nhân phù trợ sẽ theo người tuổi Thân suốt năm 2015, đặc biệt là nửa đầu năm. Sau thời gian dài tìm kiếm con đường công danh sự nghiệp, đây là thời điểm họ tìm thấy chính mình cũng như hướng đi yêu thích, hứa hẹn sẽ bùng nổ trong khoảng 2 năm tiếp theo. Trước mắt, người tuổi Thân nên tận dụng triệt để lợi thế có quý nhân phù trợ và vận thế vượng trong nửa đầu năm nay để tạo bước đệm vững chắc cho sự nghiệp lớn lao trong tương lai gần.

Tuổi Hợi

Nằm trong mối quan hệ tam hợp với năm Ất Mùi, tài lộc của người tuổi Hợi cứ thế khởi sắc rõ ràng. Đường công danh sự nghiệp ngày càng rộng mở, tiền bạc rủng rỉnh trong túi, tinh thần thoải mái tận hưởng thành quả của mình.

hoi-9329-1429602794.jpg

Tuy nhiên cần lưu ý, tài lộc này dễ đến và cũng nhanh đi, người tuổi Hợi nên lập kế hoạch chi tiêu và kinh doanh rõ ràng, tránh tình trạng đầu tháng dư giả, cuối tháng “viêm màng túi” nhé.

Mr.Bull (theo Dyxz) 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những con giáp tài lộc vượng nhất 6 tháng đầu năm 2015

Ý nghĩa của bữa cơm Tất niên ngày Tết

Bữa cơm tết niên ngày tết không chỉ là lúc cả gia đình quây quần, sum họp bên nhau. Mà đây là còn dịp con cháu tri ân đến ông bà, tổ tiên đã phù hộ suốt một năm qua làm ăn phát đạt, học hành thuận lợi. Thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bữa cơm tết niên ngày tết không chỉ là lúc cả gia đình quây quần, sum họp bên nhau. Mà đây là còn dịp con cháu tri ân đến ông bà, tổ tiên đã phù hộ suốt một năm qua làm ăn phát đạt, học hành thuận lợi. Thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta.

Ý nghĩa bữa cơm Tất niên

Bữa cơm tất niên vào chiều cuối năm còn là khoảnh khắc thiêng liêng của tất cả gia đình. Sau một năm làm ăn, học hành vất vả thì mọi người lại quây quần bên nhau, dù ai đi đâu, làm gì thì cũng đoàn tụ lại, sum họp vào ngày hôm nay. Không chỉ là một bữa cơm bình thường, bữa cơm tất niên còn là lục mọi người cùng nhau chia sẻ những khó khăn, những vui buồn của năm cũ, cùng nhau chúc phúc cho một năm mới sắp đến.

Ý nghĩa của bữa cơm Tất niên ngày Tết

Vào chiều 30, mọi gia đình đều đã chuẩn bị xong việc đón Tết, đặc biệt bữa cơm Tất niên càng đông đủ thì càng tốt. Với quan niệm gia đình nào càng có nhiều thành viên, càng có nhiều thế hệ đoạn tụ trong bữa cơm tất niên ngày Tết thì chứng tỏ gia đình đó có “phúc lộc đề đa” nhiều may mắn, hạnh phúc.

Từ thời bao cấp khó khăn, thiếu thốn trăm bề những tới bữa cơm tất niên ngày Tết, ai ai cũng cố gắng lo đủ một mâm cơm với đầy đủ, nhiều món ăn thể mong muốn năm sau được no đủ, sum vầy hơn nữa. Trên mâm cỗ cúng mỗi nơi một khác, nhưng không thể thiếu những món ăn như bánh chưng, bánh tét, gà luộc, xôi, …. Ngoài mâm cơm cúng thì không thể thiếu mâm ngũ quả, những loại quả thường được sử dụng là chuối, bưởi, sung, táo, … Tùy từng gia đình mà có thêm câu đối đỏ, “gậy ông vải” (là 2 đôi mía còn đủ cả ngọn, lá tươi tốt, buộc khum vào nhau ở hai bên bàn thờ).

Ngày nay, tuy nhịp sống gấp gáp hơn, cuộc sống vội vã nhưng mọi gia đình vẫn duy trì cúng cỗ chiều 30 tết như một phong tục đẹp. Có một thực tế là bên cạnh những người thực hiện nghi thức này theo đúng lệ xưa, đáng chê trách có nhiều người vẫn còn mua nhiều vàng mã đốt trong ngày lễ tất niên mà chưa chắc đã hiểu hết ý nghĩa của nghi thức đó, hoặc chọn những món ăn quá cầu kỳ tốn kém, không hợp khẩu vị và phong tục người Việt. Sự thành kính đâu cốt bởi đồ cúng lễ hay mâm cao cỗ đầy mà điều chính là phải ở tâm của mỗi người. Bữa cơm tất niên cần để lại ấn trong mỗi người một cảm xúc khó quên, đến nỗi dù có đi đâu xa, người Việt vẫn thường nhớ đến bữa cơm đặc biệt này, và cùng hướng về nơi có những người thân đang quây quần bên mâm cơm tiễn biệt năm cũ, chuẩn bị đón xuân sang nơi quê hương yêu dấu.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác như: Giải mã hiện tượng nháy mắt phải, giật mắt trái hay hắt xì hơi nhiều lần.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa của bữa cơm Tất niên ngày Tết

Top 3 chòm sao nữ hấp dẫn nhất khiến đàn ông đổ gục

Thông thường, cô gái càng trẻ tuổi thì càng xinh đẹp và được chú ý, nhưng 4 chòm sao nữ hấp dẫn dưới đây càng lớn tuổi lại càng mặn mà, hấp dẫn.
Top 3 chòm sao nữ hấp dẫn nhất khiến đàn ông đổ gục

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thời xưa, cô gái càng trẻ tuổi thì càng xinh đẹp và được chú ý, nhưng ngày nay, khi nữ quyền lên ngôi, những cô gái giỏi giang, bản lĩnh và trưởng thành mới chính là tiêu điểm. Vì thế, 4 chòm sao nữ thu hút dưới đây càng lớn tuổi lại càng mặn mà, khiến người khác giới phải rung động.


Top 3 chom sao nu hap dan nhat khien dan ong do guc hinh anh
 

Thiên Bình

  Chòm sao nữ Thiên Bình tao nhã như nước, thanh thuần nồng đậm nên không ít đàn ông phải quỳ gối dưới chân. Mà vẻ tao nhã như vậy thì càng trưởng thành lại càng biểu hiện rõ nét, thành thục, thần khí thanh nhàn, bình tĩnh vì đã trải qua mưa nắng. Nội tâm lạnh nhạt, khí chất cao sang của chòm sao nữ hấp dẫn này khiến không ít người phải mê mẩn, càng lớn tuổi càng hấp dẫn.   Mà cô nàng Thiên Bình cũng rất biết chăm sóc nhan sắc, dưỡng khí chất nên có cảm giác trẻ trung hơn tuổi, lúc nào cũng thanh nhã như một nàng công chúa.

Xem thêm: Nhắc nhỏ Thiên Bình 3 bí kíp cho sự nghiệp mỹ mãn
 

Song Ngư

  Song Ngư là chòm sao nữ ôn nhu, ngọt ngào, tuổi trẻ thì còn mơ mộng và ảo tưởng nhưng tuổi tác càng lớn thì càng đằm thắm, mặn mà, có sự biến chuyển trong tính cách. Vẫn giữ được nét đáng yêu nhưng đã biết khống chế bản thân, có tinh thần kiên định của phụ nữ trưởng thành, độc lập nên người khác phái lúc nào cũng phải ngoái nhìn.   Nàng Song vừa biết nũng nịu lại biết quyết đoán, có nét trẻ con lại có nét cương nghị nên nét đẹp rất dung hòa, không có cảm giác cứng nhắc của người trưởng thành.

Có thể bạn quan tâm: Cung Song Ngư hợp với cung nào trong tình yêu và hôn nhân? 

Top 3 chom sao nu hap dan nhat khien dan ong do guc hinh anh
 

Nhân Mã

  Dù trưởng thành đến bao nhiêu thì cung hoàng đạo Nhân Mã vẫn không bao giờ mất đi vẻ tự nhiên, phóng khoáng và thân thiện. Nét đẹp của chòm sao nữ đào hoa này nằm ở thần thái, tính cách và tấm lòng. Càng lớn tuổi, họ lại càng bộc lộ sự tự tin, tinh thần trẻ trung và nét hoang dại đầy mê hoặc. Dẫu cho đã có dấu vết của thời gian lên nhan sắc thì vẫn không thể lu mờ vẻ đẹp nội hàm sâu sắc, cuốn hút và độc đáo của Nhân Mã.    Nhân Mã bổ sung bản thân bằng những câu chuyện thú vị, những kiến thức mới mẻ và sống rất bản năng, rất sảng khoái nên lạc quan và trẻ lâu hơn hẳn những người phụ nữ khác. 

Đâu mới là một nửa đích thực của Nhân Mã ham vui?

Thái Vân

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 3 chòm sao nữ hấp dẫn nhất khiến đàn ông đổ gục

Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm

Có câu chọn mặt gửi vàng, điều đó khá đúng trong nhân tướng học. Bởi khi xem tướng mặt phụ nữ thấy có những nét tướng cách tốt, chứng tỏ vận mệnh cũng tốt.
Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Có câu “chọn mặt gửi vàng”, điều đó khá đúng trong nhân tướng học. Bởi khi xem tướng mặt thấy có những nét tướng cách tốt, chứng tỏ vận mệnh người ấy cũng tươi sáng, đáng để kết thân lâu dài.
 

  Dưới đây là những tướng mặt phụ nữ được đàn ông săn đón, nhất là những anh chàng vừa đẹp trai vừa đẹp cả nết.   1. Mặt quý cô nhỏ nhắn, thanh tú   Chẳng ai có thể phủ nhận được rằng, cô nàng sở hữu gương mặt nhỏ, thanh tú vô cùng xinh xắn, đáng yêu và có mê lực lôi cuốn mạnh mẽ, nhất là với cánh mày râu.   Nếu quan sát kỹ, bạn thấy những ngôi sao truyền hình cũng đều có khuôn mặt sở hữu các nét tương tự như thế. Họ là mỹ nhân tuyệt thế, là mẫu phụ nữ đáng để đàn ông theo đuổi, nhất là những soái ca, để có thể “đôi lứa xứng đôi”, nắm tay đi trọn quãng đời còn lại.   Ngay lần đầu gặp gỡ cô gái có nét tướng cách này, cánh mày râu cứ gọi là “đổ như ngả rạ”, khó mà kiềm chế được cảm xúc.   
Khuon mat cua nhung quy co duoc soai ca tim kiem hinh anh
 
2. Các nàng có đôi mắt sáng, eo thon, dáng người mảnh khảnh   Xem tướng mặt phụ nữ, những đặc điểm này thường hội tụ ở người con gái có tâm hồn ngây thơ, lối sống tao nhã, dường như không vướng bụi trần, ai thấy cũng muốn che chở, bảo vệ.    Cô nàng này chẳng quan tâm tới việc ai đó nghĩ gì về mình, hay phải làm thế nào để vừa lòng người khác. Họ cứ sống thật với chính mình, vui tươi nhí nhảnh, không làm gì trái với lương tâm là được.    Chính những nét đáng yêu ấy đã trở thành điểm mạnh, điểm lôi cuốn của cô nàng này, khiến các đấng nam nhi chú ý hoài không thôi.   Quan sát tướng mặt của người khó thành công, dễ thất bại Chớp mắt chọn đúng đối tượng phù hợp qua tướng mặt Lật tẩy tướng mặt đàn ông ham hố “chuyện ấy”
3. Phụ nữ có tướng mũi cao, cằm đầy đặn
  Nữ giới có tướng mũi cao, chiếc cằm đầy đặn được coi là quý tướng, nhiều phúc khí, vận mệnh sung sướng, cao sang.    Cho dù cô nàng này không quá xuất sắc trong công việc, học hành, nhưng cách cư xử khéo léo, cộng thêm với tính nhẫn nại cao, họ vẫn đạt được thành công nhất định trong cuộc sống, được hàng tá anh chàng theo đuổi.    Trong đó có những soái ca, vừa đẹp trai lại tài giỏi mong muốn kết thân với cô nàng này để cả hai cùng nương tựa, đồng tâm hiệp lực để đi tới hết cuộc đời.  
Khuon mat cua nhung quy co duoc soai ca tim kiem hinh anh
 
4. Cô nàng miệng nhỏ xinh, môi hồng, nhiều vân đậm   Phụ nữ có miệng nhỏ xinh, môi hồng hào, nhiều vân đậm thường đi kèm khuôn mặt xinh xắn. Đây cũng được coi là có số phú quý, chủ nhân luôn biết cách hưởng thụ cuộc sống.    Hơn thế, cô nàng này không có quá nhiều tham vọng, chỉ thích sống an yên, bình ổn nên hứa hẹn sẽ là mẫu phụ nữ của gia đình, hết lòng hết dạ vì chồng vì con.    Đó là lý do giải thích tại sao, hàng loạt soái ca lại thích theo đuổi cô nàng có những đặc điểm tướng cách như thế. Bởi họ mong rằng, sau này sẽ có người vợ hiền mẹ đảm để chăm sóc, vun vén gia đình, để họ yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp.   Ngọc Diệp  
Tướng mặt quý cô có phúc phận làm phu nhân của chính trị gia
– Có câu: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành đạt là một người phụ nữ đảm đang”. Người phụ nữ ấy có tướng mạo và phúc phận ra sao, hãy cùng

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Khuôn mặt của những quý cô được soái ca tìm kiếm

5 cách giúp bạn vượt qua nỗi buồn trong cuộc sống

5 cánh vượt qua nỗi buồn là những phương thưc hữu hiệu để bạn áp dụng mỗi khi gặp những trở ngại, khổ đau và những điều không vui trong cuộc sống.
5 cách giúp bạn vượt qua nỗi buồn trong cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều khó khăn, những nỗi buồn…? Bạn làm gì để cân bằng cuộc sống của mình, vượt qua tất cả ? Sau đây là những chia sẻ những cách vượt qua nỗi buồn trong cuộc sống :

Thứ 1:

Những lúc gặp chuyện buồn bạn đừng nên quá bi quan, nếu bạn muốn khóc thì hãy khóc cho xong đi. Khóc xong rồi bạn sẽ thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn. Khóc xong rồi bạn hãy đi ngủ một giấc. Khi tỉnh lại bạn sẽ cảm thấy trong lòng mình nhẹ nhàng hơn, mặc dù là lúc này bạn có mệt mỏi, nhưng dù sao thì vẫn tốt hơn là lúc đầu. ngủ dậy cơ thể lại trở về trạng thái tự vệ. Đây là cách giúp bạn cảm thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn, dễ dàng vượt qua nỗi buồn trong cuộc sống.

Thứ 2:

Tiếp sau đó khi bạn đã bình tĩnh lại rồi thì hãy suy nghĩ cho thật kĩ, mình nên làm như thế nào, hãy tự hỏi bản thân mình làm như thế nào thì tốt, làm thế nào là đúng. Bạn hãy vạch ra từng bước trong kế hoạc của mình, từng bước một sẽ làm như thế nào. Bạn sẽ cảm thấy mình có định hướng rõ ràng hơn cho những công việc và dự định sắp tới cho tương lai cũng là một trong các cách vượt qua nỗi buồn hiệu quả.

Thứ 3:

Bạn có thể trò chuyện tâm sự vói những người thân, những người hiểu và quan tâm đến bạn, hay là những người mà bạn thích nghe những lời an ủi, động viên, lời khuyên của họ. Và có thể là cả những lời nói không dễ nghe cho lắm nhưng bạn hãy lắng nghe, vì điều đó tốt cho bạn, cuộc sống không hề dễ dàng, và đơn giảm mà. Bạn cần có một hàng trang vững vàng để có thể đi tiếp con đường mà bạn đã chọn.

Thứ 4:

Hãy nghĩ về những điều tốt đẹp sẽ đến, nghĩ về người thân, gia đình thân yêu của bạn những người luôn chờ bạn đợi bạn, mong bạn thành công và sống tốt. Hãy nghĩ về những người mà yêu nhất sẽ giúp bạn có thêm động lực. Mọi người thân của bạn sẽ rất buồn khi bạn sống không tốt đó!

Thứ 5:

Hãy lấy lại tinh thần nhé, bạn hãy vui vẻ lên, hãy tự hát một bài, làm một món ăn mà bạn thích, hay nghe những bài hát mà bạn thường nghe, nói chuyện vui vẻ vói những người bạn yêu. Bạn sẽ thấy cuộc sống này vẫn còn có những điều ý nghĩa, và sẽ có rất nhiều niềm vui đang chờ bạn nếu như bạn nỗ lực và cố gắng hết mình.

Những điều tốt đẹp không tự nhiên mà đến, bạn hãy sống nỗ lực hết mình rồi bạn sẽ tìm thấy những niềm vui thật sự, những điều thú vị và ý nghĩa mà cuộc sống này đang chờ bạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 cách giúp bạn vượt qua nỗi buồn trong cuộc sống

Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Đàn bà có gò má ngang, gò má cao, tai nhỏ, đầu nhọn, mặt vênh, bàn tay cực lớn, sắc mặt xanh lam, mặt gẫy, nổi gân, mày lớn trán bóng…là tướng khắc chồng. Tướng trinh tiết Là phụ nữ có đôi mắt to đen và rất sáng, không nhìn lấm lét, dáng người thon
Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn bà khắc chồng –

Tướng người phụ nữ giàu –

1. Mũi to: Trong dân gian, mũi này được xem là mũi giàu. Theo tử vi, mũi to đại diện cho khả năng tài chính tốt 2. Tai vừa to vừa dày: Phái nữ có tai này là người khoẻ mạnh, sống thọ và thông minh 3. Mông mẩy, hông to: Tướng này đại diện cho phái nữ
Tướng người phụ nữ giàu –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tướng người phụ nữ giàu –

Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Dần

Tử vi trọn đời người sinh ngày Mậu Dần có mệnh bình an cát tường, cả đời được quý nhân phù trợ. Họ gặp nhiều đau khổ về tình duyên, nữ mệnh cẩn thận chồng
Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Dần

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tử vi trọn đời người sinh ngày Mậu Dần có mệnh bình an cát tường, cả đời được quý nhân phù trợ. Họ gặp nhiều đau khổ về tình duyên, nam mệnh hôn nhân hạnh phúc, nữ mệnh cẩn thận chồng ngoại tình.


Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Dan hinh anh
 
Ngày Mậu Dần có Dần Mộc tàng khí Thất Sát, Giáp Mộc độc lập, Mậu Thổ có bản tính thuộc Thổ. Đường đời mệnh chủ tất gặp Sửu Thổ, nên kết hợp Quý Hợi.
  Trụ ngày Mậu Dần có tính cách thiện lương, khoan dung. Dù là nam hay nữ đều mộc mạc giản dị và đôi phần cố chấp. Chính vì tính thực tế, có mục đích sống rõ ràng nên khiến trong cuộc sống nhiều lúc phải chịu đựng sự cô đơn. 
Những chàng giáp phải chịu kiếp FA dài dài
Ai cũng mong muốn hạnh phúc, vui vẻ trong chuyện tình cảm. Tuy nhiên, với tính cách của các chàng giáp dưới đây sẽ khiến họ phải chịu kiếp FA dài dài.

Người sinh ngày Mậu Dần có mệnh bình an cát tường, từ trung niên có tài năng xuất chúng, cả đời được quý nhân phù trợ. Đối với công việc, họ đặc biệt tài giỏi, thành thục, có nhiều cơ hội thăng cấp làm lãnh đạo
  Tử vi trọn đời người sinh ngày Mậu Dần thấy nhiều đau khổ vì tình. Nam mệnh hôn nhân hạnh phúc; nữ mệnh cẩn thận bản tính phong lưu của chồng, trước và sau khi mang thai chồng có "người thứ ba".
Xem tu vi tron doi cho nguoi sinh ngay Mau Dan hinh anh 2
 
Bát tự trụ ngày Mậu Dần thích hợp kết hôn với người sinh ngày: Giáp Tý, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Dần, Ất Hợi, Ất Mão, Ất Mùi, Ất Tỵ, Bính Dần, Bính Ngọ, Bính Thìn, Bính Tuất, Đinh Mão, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Sơur, Mậu Tý, Mậu Ngọ, Mậu Tuất, Mậu Thìn, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Canh Thân, Canh Tý, Canh Dần, Tân Hợi, Tân Mão, Tân Dậu, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Quý Hợi, Quý Mão
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh

Chi Nguyễn
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tử vi trọn đời cho người sinh ngày Mậu Dần

Top 4 con giáp sống ảo, thích khoe của

Trong danh sách con giáp sống ảo, phải nhắc tới người tuổi Dần. Vốn coi trọng thể diện, ưa sĩ dĩ và rất hay giả vờ giàu sang kiểu như dát vàng lên mặt.
Top 4 con giáp sống ảo, thích khoe của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Sở thích khoe khoang của những con giáp dưới đây khiến họ bị liệt vào danh sách con giáp sống ảo. Liệu có thật như thế hay không, hãy cùng tìm hiểu bạn sẽ tìm ra câu trả lời.


Nhập hội cùng những con giáp quá coi trọng “nước sơn” Những cô nàng khiến phái mạnh “hồn xiêu phách lạc” trong 12 con giáp Không cần làm gì, 4 con giáp này cũng bị tiền rơi vỡ đầu trong 3 năm tới No1. Tuổi Thìn
 
Tự hào mang dòng dõi rồng thiêng, người tuổi Thìn luôn chứng tỏ mình thuộc tầng lớp đại gia bằng sở thích dùng hàng hiệu và những thiết bị điện tử thông minh. Nhìn những thứ họ sở hữu, ai cũng phải một lần ước ao và thầm nghĩ, chắc hẳn cho rằng con giáp sống ảo ày phải siêu giàu.    Thêm nữa, độ hào phóng của tuổi Thìn cũng không hề kém cạnh so với độ phô trương của họ. Họ có thể chi mạnh tay cho các cuộc vui chung, sẵn sàng viện trợ cho bạn bè cả cục tiền để trợ giúp lúc hoạn nạn.    Đôi khi những người xung quanh cảm thấy ghen tị, khó chịu với thái độ ngạo mạn cũng như cuộc sống như trải hoa hồng, đầy đủ tiện nghi, viên mãn và quý phái. Tuổi Thìn vờ như giàu sang hay không, điều đó để mỗi người tự cảm nhận. Nhưng ai cũng không thể phủ nhận rằng, sự giàu có của họ đến từ cốt cách cao quý, sang trọng, có giấu cũng không được.  
Top 4 con giap song ao, thich khoe cua hinh anh 2
 
No2. Tuổi Dần   Trong danh sách con giáp sống ảo, không thể không nhắc tới người tuổi Dần. Vốn coi trọng thể diện, ưa sĩ dĩ và rất hay giả vờ giàu sang kiểu như dát vàng lên mặt. Tính khoe khoang dường như đã ngấm vào bản chất của họ, chẳng thể nói sửa là sửa được ngay.   Những người cầm tinh con Hổ luôn có niềm đam mê bất tận với đồ hàng hiệu, những vật phẩm xa xỉ. Dù cho điều kiện kinh tế chưa thể đáp ứng mọi nhu cầu, họ sẵn sàng săn lùng hàng “fake” để thỏa mãn thói ham hư vinh của mình.    Lúc nào cũng vỗ tay ra oai, khẳng định ta đây là người giàu sang, nên khi bạn bè gặp trục trặc về tài chính, đối tượng đầu tiên mà họ nhắc đến chính là tuổi Dần. Còn việc con giáp này có giúp đỡ hay không, nhiều hay ít còn phụ thuộc vào từng người, từng hoàn cảnh cụ thể.

Luận bàn những con giáp KHỐN ĐỐN trong ngày Tam Phục 3 nàng giáp giật mình đối diện với nguy cơ ế dài Khai vận ngày Lục tà xâm chiếm cho 12 con giáp
 
Top 4 con giap song ao, thich khoe cua hinh anh 2
 
No3. Tuổi Tuất   Người tuổi Tuất có khả năng “ẩn mình” rất giỏi. Bề ngoài họ tỏ ra khiêm tốn, nhã nhặn để dễ đánh lạc hướng mọi người, trên thực tế họ cũng chuộng vật chất, ham hư vinh và là con giáp sống ảo lắm.   Sở hữu khả năng quản lý tài chính nhạy bén, tuổi Tuất biết cách chi tiêu hợp lý, nên tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, trong ví có tiền triệu âu cũng là lẽ thường.    Thêm nữa, vốn là con giáp có tinh thần trách nhiệm, lý tưởng cuộc sống phong phú, tuổi Tuất không ngừng phấn đấu để công thành danh toại, phát triển sự nghiệp theo hướng đi riêng, ngày càng vững mạnh.    Vì thế, cho dù kinh tế bản thân vẫn chưa thực sự dư dả gì, nhưng họ khá xông xênh, sẵn sàng giúp đỡ bạn bè, người thân lúc nguy khốn. Do đó, khi con giáp này ra vẻ giàu sang, sẵn sàng rút tiền túi cho bạn bè, có thể họ là người giàu có thực thụ chứ không hề giả tạo.   
► Tham khảo thêm các thông tin về: Mười hai con giáp và Tử vi trọn đời của bạn

Ngân Hà
Vén màn bí mật những cô nàng “vịt hóa thiên nga” trong 12 con giáp
Vì không ngừng học hỏi và tiếp thu những điều mới lạ, rất chăm chỉ nắm bắt xu hướng thời trang trong và ngoài nước, nên chỉ cần bẵng đi một thời gian không gặp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Top 4 con giáp sống ảo, thích khoe của

Chùa Châu Long - Hà Nội

Chùa Châu Long còn có tên gọi là Châu Long Tự. Chùa gắn liền với vị công chúa thời Trần, con gái vua Trần Nhân Tông tuổi nhỏ tu ở đây
Chùa Châu Long - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Châu Long còn có tên gọi là Châu Long Tự. Chùa tọa lạc tại số 44 phố Châu Long, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, Hà Nội (Địa chỉ mới số 112 phố Trấn Vũ – Trúc bạch – Ba Đình – Hà Nội).

Chùa gắn liền với vị công chúa thời Trần, con gái vua Trần Nhân Tông tuổi nhỏ tu ở đây. Sau khi mất có xây tháp Môn đồ ở Châu Long tự. Về sau chùa có dựng tượng thờ bà và được các vương triều sắc phong: Linh Thông Công Chúa.

Tấm Bia còn lại trong chùa khắc vào đời Thành Thái năm Tân sửu (1901) có đề ” Long Châu sơn cổ danh thắng dã, sơn thượng hữu tự, nhân danh yên cựu vô bi ký, bất tri sáng tự hà đại ” nghĩa là: Núi Châu Long xưa là một danh thắng, trên núi có ngôi chùa, cũng từ đó chùa mang tên Châu Long.

Chùa đã qua trùng tu nhiều lần.Ở thời Nguyễn, chùa đã trùng tu lớn vào năm Mậu Thìn (1808) đời vua Gia Long. Năm Tân Sửu đời vua Thành Thái (1901) và năm Nhâm Thân đời vua Bảo Đại (1932).

Trong chùa có nhiều cổ vật điêu khắc đẹp như các trụ biểu, hệ thống cửa võng chạm thủng hình tứ linh “Long, Ly, Quy, Phượng” hoa điểu, văn mây hình học… riêng pho tượng Thích ca sơ sinh là một sáng tạo khá độc đáo. Tượng Đức Thế Tôn cũng là pho tượng cao hiếm thấy trong hệ thống tượng cùng loại ở các chùa nước ta. Chùa Châu Long như là một bảo tàng mỹ thuật cổ ở kinh thành Thăng Long phản ánh tài hoa của người nghệ nhân trong lịch sử.

Chùa Châu Long vừa thơ mộng lại trang nghiêm u tịch và huyền ảo. Chùa là một trong những chốn danh lam bậc nhất của đất thành Thăng Long ngày nay.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Châu Long - Hà Nội

Nhân vật đứng sau chiến lược thông minh nhất của Tào Tháo là ai?

Chiến lược "phò tá Thiên tử hiệu lệnh chư hầu" giúp Tào Tháo giành được vị thế chính thống để hoàn thành bá nghiệp, song ít người biết đến tác giả thực của sách lược này.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

"Phò tá Thiên tử hiệu lệnh chư hầu" là chiến lược mấu chốt đưa Tào Tháo tới thành công. Ý nghĩa của sách lược này được đánh giá là không hề thua kém "Long Trung đối sách" mà Gia Cát Lượng vạch ra cho Lưu Bị.

Tuy nhiên, ít người biết tới cao nhân thực sự đứng sau sách lược tuyệt đỉnh này.

Xét theo trí tuệ cũng như danh tiếng của đội ngũ quân sư đông đảo dưới trướng của Tào Tháo, đa phần độc giả "Tam Quốc diễn nghĩa" sẽ đoán rằng các nhân vật kỳ cựu như Tuân Úc, Quách GIa, Trình Dục hay Tuân Du là người hoạch định chiến lược thông minh này cho Tào Tháo.

Tác giả chiến lược "thành đại nghiệp" của Tào Tháo

Trên thực tế, người khởi xướng chủ ý này là Mao Giới - đại thần Tào Ngụy, người ở Trần Lưu (tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).

Mao Giới chủ trương "phụng Thiên tử dĩ lệnh bất thần". Ở đây, "phụng" có nghĩa và vâng lệnh Hoàng đế Hán triều chứ không phải "phò tá", còn đối tượng "bất thần" phiếm chỉ những người không tôn trọng Hán thất.

Thông tin về việc Mao Giới là tác giả sách lược chính trị của Tào Tháo chỉ được ghi chép trong bộ sử "Tam Quốc Chí" của Trần Thọ.

Theo "Tam Quốc Chí", cống hiến lớn nhất của Mao Giới cũng chính là việc đề xướng sách lược "phụng Thiên tử dĩ lệnh bất thần".

Trong "Tam Quốc diễn nghĩa", Mao Giới chỉ để lại ấn tượng khi xuất hiện bên cạnh đại tướng Vu Cấm, đảm nhiệm chức Thủy sư Đô đốc của thủy quân Tào Tháo trong đại chiến Xích Bích sau khi Thái Mạo, Trương Doãn bị giết oan.

Mao Giới vốn định tới Kinh Châu gia nhập lực lượng của Lưu Biểu, tuy nhiên khi nghe nói Lưu Biểu công tư bất minh, ông phán đoán người này khó thành đại sự, bèn chuyển hướng sang Duyện Châu đầu quân cho Tào Mạnh Đức.

Dưới trướng Tào Ngụy, Mao giới được Tào Tháo cho làm Trị trung tòng sự - tương đương với chức thư ký trưởng hay chủ nhiệm văn phòng.

Cũng nhờ vị trí công tác mang tính chất khá riêng tư này, ông có nhiều cơ hội thể hiện quan điểm thời cuộc của mình trước Ngụy Vương.

dù mao giới không được xếp vào hàng mưu sĩ, nhưng tào tháo vô hình trung tiếp thu rất nhiều kiến giải từ ông.

Dù Mao Giới không được xếp vào hàng mưu sĩ, nhưng Tào Tháo vô hình trung tiếp thu rất nhiều kiến giải từ ông.

Mao Giới chỉ ra - "Muốn thành đại sự, đầu tiên phải có lý tưởng và tầm nhìn xa.

Viên Thiệu, Lưu Biểu tuy có đông mưu sĩ, binh hùng tướng mạnh, dân số đông đúc, nhưng bọn họ không có hoài bão xa xôi, không phải là mẫu người biết dựng đại nghiệp

Để hoàn thành đại nghiệp, khi xuất sư dứt khoát phải danh chính ngôn thuận, chiếm được ưu thế 'chính nghĩa' tuyệt đối. Vì vậy, chủ công (Tào Tháo) nên tôn phụng Thiên tử để hiệu lệnh những kẻ không giữ đạo quân thần.

Ngoài ra, muốn giữ vững địa vị thì buộc phải dựa vào tài lực, chỉnh đốn canh tác nông nghiệp, tích trữ quân trang vật tư. Có vậy bá nghiệp mới thành!"

Tào Tháo nghe kiến nghị của Mao Giới thì vô cùng hài lòng, lập tức phong ông làm Mạc Phủ công tào - đứng đầu Mạc Phủ (nội các) của Tào Tháo.

Ưu điểm lớn nhất của Mao Giới là ông chấp pháp nghiêm minh, thiết diện vô tư. Sau khi Tào Tháo lên làm Thừa tướng đã để ông nhậm chức Đông Tào Duyện, cùng Thôi Diễm phụ trách việc tuyển lựa quan lại.

Ở bất kỳ thời đại nào, công tác nhân sự luôn là "miếng bánh béo bở". Thế nhưng Mao Giới chọn người không nhìn danh tiếng, không hỏi quan hệ xã hội.

Những người được ông tiến cử đều thanh liêm chính trực, trong khi những người có danh vọng mà hành vi bất chính cũng không được Mao Giới trọng dụng.

Tào Phi từng yêu cầu Mao "chăm sóc" thân tín của mình, song ông thẳng thừng cự tuyệt - "Người công tử tiến cử không đủ tư cách, hạ quan không thể tuân mệnh".

Tác phong hành sự của Mao Giới khiến ông đắc tội với không ít nhân vật. Khi Tào Tháo muốn "tinh giản biên chế", nhiều người đã đề nghị giải thể Đông Tào - cơ quan do Mao Giới chưởng quản.

May mắn cho Mao Giới là Tào Tháo vẫn còn anh minh, ông nói - "Mặt trời mọc từ đằng Đông, mặt trăng khi tròn nhất cũng ở phía Đông. Mọi người khi nói phương hướng cũng nhắc đến phía Đông trước, vậy tại sao phải giải thể Đông Tào?"

Kết quả không phải Đông Tào mà là Tây Tào bị giải thể.

Tào Tháo từng khen Mao Giới - "Biết lấy thân làm gương, dùng tiêu chuẩn liêm khiết chọn người, khiến ta rất yên long!".

Sau khi Tào Tháo công hạ Liễu Thành và chia chiến lợi phẩm, ông tặng cho Mao Giới một bộ bình phong và bình kỷ.

Tào Mạnh Đức vốn yêu chuộng nghệ thuật và cuộc sống, những bức họa trứ danh như Xuân Cung Đồ đều được ông giữ lại cho bản thân.

Song Tào cũng hiểu phong cách của Mao Giới - "Lão Mao có tác phong của cổ nhân, nên ta mới tặng ông những món đồ này".

Tính cách công tâm của Mao Giới đôi khi khiến ông không giữ được giới hạn quân thần. Khi nhận ra Tào Tháo có ý lập Tào Thực làm người thừa kế, Mao đã lập tức can ngăn, thậm chí chỉ trích việc phế trưởng lập ấu sẽ gây ra hỗn loạn.

Trên thực tế, hành động của Mao Giới không khác nào đứng ra nói tốt cho Tào Phi, mặc dù ông không có ý định đó, cũng giống như ông không ngại đắc tội với Phi.

Chính Tào Tháo phải cảm thán trước thái độ của ông mà nói - "Mao Giới chính là Chu Xương (Hán triều khai quốc công thần) của ta đó".

Ít người biết chiến lược mà Tào Tháo áp dụng cả đời xuất phát từ sự khởi xướng của Mao Giới.

Ít người biết chiến lược mà Tào Tháo áp dụng cả đời xuất phát từ sự khởi xướng của Mao Giới.

Kết cục của Mao Giới

Mặc dù được Tào Tháo tín nhiệm, song cuối cùng Mao Giới lại có kết cục thê thảm bởi tay của bè lũ gièm pha.

Sự việc được cho là xuất phát từ mối quan hệ giữa Mao và Thôi Diễm. Hai ông chính là 2 người phụ trách việc tuyển chọn nhân tài cho Tào Ngụy.

Trong công việc, Mao Giới và Thôi Diễm thường có những bất đồng quan điểm. Nhưng điều này đã bị kẻ xấu lợi dụng tố với Tào Tháo. Tào vốn đa nghi, lại thêm uy tín Mao Giới rất cao nên ông lập tức khép Thôi Diễm tội bất trung và cho xử tử.

Thực ra, Thôi Diễm và Mao Giới có quan hệ tốt. Cái chết của Diễm khiến Mao có phần bất mãn. Điều này lại bị những kẻ ghen ghét thừa cơ tố cáo.

"Mao Giới ra đường thấy những kẻ phản loạn bị thích chữ lên mặt, vợ con bị đưa vào nhà quan làm nô tì, bèn nói - 'Trời không làm mưa chính vì cách làm này của triều đình đó'."

Sự việc khiến Tào Tháo nổi giận, lập tức ra lệnh bắt giam thẩm vấn Mao Giới.

Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng, hành động của Ngụy Vương có phần khó hiểu, nhất là đối với một nhân vật đang nắm quyền cao và có danh tiếng tốt như Mao Giới.

Có ý kiến nói rằng việc Mao bất mãn với cái chết của Thôi Diễm cộng thêm tính cách cương trực của ông khiến Tào Tháo nhận định rằng "những lời gièm pha là có căn cứ".

Bản thân Mao Giới cũng không chấp nhận hàm oan,mà ông quyết liệt yêu cầu những kẻ tố cáo mình ra đối chất. Hành động này của ông có lẽ đã khiến Tào Tháo phải xét lại.

Tuy nhiên, địa vị Thừa tướng khó cho phép Ngụy Vương thừa nhận sai lầm trong việc thanh trừng một quan chức cấp cao như Mao Giới, cho nên cuối cùng Tào vẫn buộc Mao phải chết và bãi miễn chức quan của ông.

Sau khi Mao Giới chết đi, Tào Tháo mới "bù đắp lại" bằng cách đề bạt con trai ông là Mao Cơ làm quan.

theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhân vật đứng sau chiến lược thông minh nhất của Tào Tháo là ai?

Coi nét tướng chân của người lắm tiền nhiều của

Nếu sở hữu móng chân dài nhưng đầu móng có xu hướng dốc về phía trước thì không cần phải lao động vất vả để kiếm sống mà tự khắc có người nuôi dưỡng, chăm
Coi nét tướng chân của người lắm tiền nhiều của

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

chút, hưởng cuộc sống an nhàn, có kẻ hầu người hạ.

Net tuong chan cua nguoi lam tien nhieu cua hinh anh
 
1. Màu sắc móng chân

Người sở hữu đôi chân mà có móng màu trắng sữa, khá trong có vận thế tốt, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống, làm việc dễ thuận lợi và gặt hái được thành công. Nhưng những ai có móng chân màu xám thì vận mệnh trái ngược, gặp nhiều xui xẻo, vận khí kém.

Ngoài ra, nếu móng chân có sắc hồng hào chứng tỏ người này có mệnh phú quý, số sung sướng, hưởng nhiều phúc lộc trời ban. Bên cạnh đó sức khỏe của họ cũng rất tốt, tuổi thọ cao.

2. Hình dáng móng chân


Trong nhân tướng học, người có móng chân hình tròn thường điềm tính, biết kiểm soát tốt cảm xúc nên luôn giữ được thái độ khách quan và bình tĩnh trước khó khăn. Theo đó, cuộc sống của người này khá bình yên, điều kiện vật chất dồi dào, không bao giờ phải lo cái ăn cái mặc.

Hơn thế, họ rất biết cách hưởng thụ cuộc sống, kiếm được nhiều tiền đồng thời cũng biết tiêu tiền sao cho xứng đáng với công sức mình bỏ ra.

Ngoài ra, nếu ai đó sở hữu móng chân dài nhưng đầu móng có xu hướng dốc về phía trước thì không cần phải lao động vất vả để kiếm sống mà tự khắc có người nuôi dưỡng, chăm chút, hưởng cuộc sống an nhàn, có kẻ hầu người hạ.

3. Dưới bàn chân có đường vân hình chữ “Nhân”

Nếu trong lòng bàn chân xuất hiện đường vân hình chữ “Nhân” (人) là dấu hiệu cho thấy cuộc sống giàu sang phú quý, đại phúc đại đức, thậm chí còn có số làm tỉ phú, đại gia.

4. Bàn chân đầy đặn, nhiều thịt

Những người có tướng bàn chân này thường sống sung túc, làm việc nhàn hạ, không phải vất vả chạy đôn chạy đáo. Ngược lại, nếu bàn chân mỏng, lộ xương thì công việc vất vả, cuộc sống nhiều thăng trầm, khó được an nhàn, sung sướng.

5. Trên bàn chân có nốt ruồi son

Nốt ruồi son dưới lòng bàn chân hay mu bàn chân đều là nốt ruồi phú quý. Chủ nhân của tướng chân này không những giàu có mà còn giúp đỡ nhiều người về mặt vật chất. Tuy nhiên, người này thành công là nhờ chính sự nỗ lực của bản thân chứ ít gặp được người giúp đỡ.

6. Ngón chân cái to và nhiều thịt

Người có ngón chân cái to và nhiều thịt sở hữu trong tay khối tài sản lớn, đời sống vật chất giàu sang, không phải lo gánh nặng tiền bạc.

► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Khắc Minh (Theo MGSP)

 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Coi nét tướng chân của người lắm tiền nhiều của

Nghệ thuật xem tướng mũi đẹp và tốt –

Tướng mũi ngắn, người nhạy cảm, dễ bắt chước, nhanh nhẹn, sống mũi cong ở phần giữa, người thông minh, nhanh trí, mũi khum, người đa dâm, … Chúng ta nhận thấy ở người nữ, mũi tương đối nhỏ hơn ở người nam về hình thức, nghĩa là chiều dài, chiều rộng
Nghệ thuật xem tướng mũi đẹp và tốt –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nghệ thuật xem tướng mũi đẹp và tốt –

Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn

Tháng 7 âm lịch, tháng cô hồn đã tới ngoài ngưỡng cửa. Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn là gì, đó có lẽ là điều mà nhiều độc giả quan tâm.
Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hôm nay, Lịch ngày tốt sẽ chia sẻ đôi lời với các bạn về những điều cần chú ý và phòng tránh trong tháng 7 âm lịch này nhé.
Mời bạn click vào Mục lục dưới đây để tới nội dung cần tìm nhanh hơn.

MỤC LỤC

Vận hạn tuổi Tý trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Sửu trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Dần trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Mão trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Thìn trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Tị trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Ngọ trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Mùi trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Thân trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Dậu trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Tuất trong tháng cô hồn
Vận hạn tuổi Hợi trong tháng cô hồn

 

Vận hạn tuổi Tý: Tình cảm bất ổn, sức khỏe giảm sút

 

1 van han cua tuoi Ty trong thang co hon
 

Tình cảm nhiều mâu thuẫn 

  Trong tháng 7 âm lịch, vận trình tình cảm của người tuổi Tý có khá nhiều biến động, nhất là khoảng đầu tháng và giữa tháng. Đặc biệt, bản mệnh có điềm tiểu nhân phá hoại, kẻ thứ 3 muốn chen chân vào hạnh phúc lứa đôi.   “Bát đũa còn có lúc xô”, dù yêu thương rất nhiều nhưng giữa hai bạn vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, bất đồng. Những ngày đầu nồng thắm trôi mau, đôi lứa bên nhau nhưng tranh cãi liên miên không hồi kết. Đây chính là lỗ hổng trong chuyện tình cảm, dễ bị kẻ thứ 3 ở bên ngoài lợi dụng thời cơ phá hoại hạnh phúc của người tuổi Tý.   Tuy nhiên, mọi chuyện vẫn còn có thể hóa giải được. Vượt qua những mâu thuẫn, bất đồng, đôi lứa sẽ càng thêm gắn kết, tình cảm hài hòa như dòng nước chảy xuôi. Điều quan trọng là thái độ của bạn. Bạn chính là người quyết định đoạn tình cảm của mình đi tiếp hay dừng lại chứ không phải bất cứ ai.  

Sức khỏe giảm sút

  Trong tháng cô hồn, bản mệnh thường cảm thấy mệt mỏi, vận trình sức khỏe xuống dốc rõ rệt. Công việc bận rộn, bạn cần nghỉ ngơi điều độ và ăn uống có khoa học. Ngoài ra, thời điểm này tốt nhất bạn nên hạn chế đi xa, tránh đường sông nước, có thể gặp phải hung họa. Nếu việc cực chẳng đã, bắt buộc phải xuất hành thì nên thận trọng giữ mình, cân nhắc các tình huống có thể xảy ra và có phương án đề phòng.  

Vận hạn tuổi Sửu: Tiểu nhân quấy phá, đào hoa sát

 

2 van han tuoi suu trong thang co hon
 

Công việc bị cản trở

  Tháng 7 âm lịch, người tuổi Sửu gặt hái được khá nhiều thành công trong công việc, tìm được những cơ hội để phát triển sự nghiệp. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó, nếu không chú ý, chúng ta rất dễ bị đánh úp từ phía sau.   Thành công đến dồn dập, con giáp này có thể sẽ trở nên chủ quan và ngủ quên trên chiến thắng. Bạn tự tin vào bản thân mình quá mức, mất tập trung nên thiếu phần chú ý đề phòng, để lộ ra điểm yếu. Đó cũng chính là lý do bản mệnh có thể bị kẻ tiểu nhân hãm hại.    Thậm chí ngay cả khi bị kẻ xấu giở trò, bạn vẫn không mảy may hay biết mà đang mải mê ăn mừng chiến thắng ở một nơi nào đó. “Phơi lưng cho người ta đánh”, con đường quan lộ của người tuổi Sửu đang thẳng tắp bỗng xuất hiện vật cản là vì thái độ chủ quan, coi thường kẻ địch này. Hơn nữa, “dĩ hòa vi quý” không phải lúc nào cũng được quý, khi cần cứng rắn thị uy thì chớ nên sợ mất lòng mà mềm mỏng quá mức, dễ phản tác dụng.   Sang tháng 7 âm lịch, sức khỏe của người tuổi Sửu có phầm giảm sút. Bản mệnh sinh cho tháng, lực khí hư hao, cơ thể dễ bị suy nhược do căng thẳng thần kinh, áp lực cuộc sống. Bản mệnh vốn tham công tiếc việc, lại tham vọng và coi trọng sự nghiệp, sẵn sàng vì công việc mà lơ là việc chăm sóc sức khỏe.  

Tình duyên vượng quá hóa không lành

  Tháng cô hồn tuy xấu nhưng người tuổi Sửu lại đón vận thế tình cảm cực kì hưng vượng, người độc thân có cơ hội tìm được một nửa của mình. Tuy nhiên, với những người đã có đôi thì đào hoa vượng quá mức lại chẳng phải điềm lành.   Đào hoa cực vượng dễ biến thành đào hoa sát, thúc giục tham vọng bùng cháy, khơi gợi những ngọn lửa tình đã ủ lại từ lâu. Con người vốn tham sân si, hiếm khi biết khi nào là đủ. Vào một giây phút nào đó, khi bạn thiếu kiểm soát bản thân thì chắc chắn sẽ dễ mắc sai lầm.    Khi đã có đôi thì chuyện thay lòng đổi dạ có thể nói là “sai một ly đi một dặm”. Chuyện tình cảm kị nhất là phản bội, nó như gương đã vỡ, dù có gắn lại thì vẫn còn vết nứt. Cuộc sống với nhiều cám dỗ rình rập, tốt nhất bản mệnh nên chú ý giữ mình hơn trong các mối quan hệ. Đừng tự tạo cho mình cơ hội thân thiết quá mức với người khác giới và để cho mối quan hệ đi quá xa, vượt mức mà nó nên trở thành.  

Vận hạn tuổi Dần: Tài lộc kém vượng, tình cảm phai nhạt

 

3 van han cua tuoi dan trong thang co hon
 

Tài vận trung bình

  Trong tháng cô hồn, người tuổi Dần không có duyên lắm với tiền bạc. Không có điềm tài lộc về nhà, nhiều biến động có thể xảy ra với vận trình tài lộc của con giáp này. Dù bạn đau đầu tính toán đủ kiểu nhưng mọi chuyện vẫn rối như mớ bòng bong, tiền đâu không thấy mà nợ nần khắp chốn.   Chuyện kinh doanh buôn bán không mấy lý tưởng, bạn có thể thử sức với lĩnh vực đầu tư, tuy nhiên cần xem xét kĩ càng mọi sự, chớ mạo hiểm lao đầu theo số đông. Đặc biệt, có tiền trong tay cũng chớ khoe mẽ, chẳng mang lại ích lợi gì mà có thể còn rước họa vào thân nữa.   Từ đầu tháng đến giữa tháng 7 âm lịch không phải là khoảng thời gian thuận lợi cho người tuổi Dần, tốt nhất nên lấy tĩnh chế động để bảo toàn lực lượng. Dù làm bất cứ chuyện gì liên quan đến tiền bạc, ngoài việc tính toán kĩ càng trước khi hành động thì cũng đều phải cân nhắc hết những trường hợp có thể xảy ra để có phương án dự phòng thích hợp.  

Tình cảm phôi phai

  Xem vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn này, người tuổi Dần nên đặc biệt lưu ý đến chuyện tình cảm. Quá nhiều mâu thuẫn xảy ra, song bản mệnh không có cách giải quyết triệt để mà thay vào đó lại lựa chọn im lặng. Chiến tranh lạnh kéo dài dễ khiến cho tình cảm cũng trở nên nguội lạnh, chẳng còn sự nồng nàn cháy bỏng mà tình yêu nên có.   Tình cảm khi tan khi hợp khiến bản mệnh cảm thấy nản lòng và nghi ngờ bản thân liệu có phải đã lựa chọn sai. Tinh thần của bạn trong thời điểm này không được tốt càng khiến cho những suy nghĩ tiêu cực xuất hiện nhiều, người tuổi Dần có thể làm ra những hành động tổn thương đến nửa kia của mình mà khó bề kiểm soát được. Điều đó càng khiến cho mối quan hệ bị đóng băng, hố sâu ngăn cách ngày càng mở rộng. Nếu có thể kiềm chế cảm xúc và tiết chế năng lượng tiêu cực thì chắc chắn mọi chuyện có thể rẽ sang một hướng hoàn toàn khác, có thể sẽ dần tích cực lên.  

Vận hạn tuổi Mão: Tiểu nhân ném đá giấu tay, tình cảm thăng trầm bất định

 

4 van han cua tuoi mao trong thang co hon
 

Sự nghiệp gặp trở ngại

 

Có thể nói, trong tháng 7 âm lịch, người tuổi Mão vẫn có thể gặt hái được thành quả nếu thực sự dành tâm huyết cho việc mình làm. Trở ngại là điều khó có thể tránh khỏi, song chính trở ngại lại đem tới thách thức và cơ hội cho ta tiến bước.   Đôi lời nhắc nhở người tuổi Mão trong tháng cô hồn, chớ nên cố chấp, mọi sự nên linh hoạt thì mới suôn sẻ, dễ thành. Kẻ tiểu nhân ở trong chỗ tối, rất dễ tấn công bạn vào bất cứ lúc nào. Chỉ một phút sơ sảy, bạn tự mình tạo ra kẻ thù, cũng lộ rõ điểm yếu để kẻ đó thừa cơ hãm hại. Trong tháng, nên cư xử mềm mỏng hơn, chớ gây mâu thuẫn, bất đồng nội bộ, tránh xa những đấu đá ngầm trong tập thể kẻo nhẹ vướng họa thị phi, nặng thì rối ren kiện tụng, tiền mất tật mang. Đây không phải là điều con giáp này nên làm trong tháng cô hồn.  

Đào hoa dữ ngáng đường tình duyên

  Vận trình tình cảm của người tuổi Mão có khá nhiều biến động, cần vững tâm bền chí thì mới có thể duy trì mối quan hệ. Nam mệnh thời gian này đào hoa nở rộ, chỉ cần bạn đôi chút buông thả, không rõ ràng trong các mối quan hệ thì rất dễ vướng phải tam giác tình cảm rắc rối, đe dọa đến hạnh phúc mình đang có. Vốn thân thiện và khá được lòng phái nữ, hãy biết cách giữ khoảng cách với người khác giới, đừng để sự thân thiện trở thành mầm mống của bất hạnh.   Với nữ mệnh, bạn nên sống thực tế và lý trí hơn. Không phải trí tưởng tượng bay bổng lúc nào cũng tốt, nhất là khi kết hợp với sự đa nghi, khiến cho những điều tích cực bị che lấp, thổi phồng những điều tiêu cực. Đám mây hồng tình cảm mới bay đến đã bị những suy nghĩ phức tạp của bạn đẩy lùi, hãy kiểm soát cảm xúc của mình tốt hơn.  

Vận hạn tuổi Thìn: Tiểu nhân quấy nhiễu, có điềm phá tài

 

5 van han cua tuoi Thin trong thang co hon
 

Sự nghiệp trong vượng có suy

  Tháng 7 âm lịch tới, đường công danh sự nghiệp của người tuổi Thìn vô cùng khởi sắc. Tuy nhiên, giữa những thành công nối tiếp nhau đến vẫn ẩn chứa nhiều nguy cơ do kẻ tiểu nhân vẫn đang rình rập, chỉ chờ cơ hội để ra tay.   Càng ở trên đỉnh cao chiến thắng thì gió càng lộng, nếu không vững vàng, bản mệnh rất dễ bị xô đổ khỏi ngôi cao mới tại vị. Những lời nịnh bợ vốn chẳng tốt đẹp gì, bạn hãy thận trọng trước những lời khen không thực tế. Hãy tập trung tinh thần vào công việc, có thái độ cầu tiến, khiêm nhường, tiếp thu những lời góp ý của mọi người.   Với những rắc rối thị phi, chớ nên để nó cuốn theo mình. Bạn không tham gia vào nó, chắc chắn thị phi cũng sẽ chẳng thể bám mãi theo. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hãy giữ bình tĩnh để suy xét, chớ nên để cảm xúc dẫn đường.  

Họa phá tài rình rập

  Vận trình tài lộc của người tuổi Thìn trong tháng khá tốt. Tuy nhiên, xem bói vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn thì bản mệnh đang có điềm báo phá tài. Tiền bạc rủng rỉnh có thể biến bạn thành mục tiêu của những kẻ hay đố kị.   Chớ đua theo đám đông, bất cứ chuyện gì cũng phải có chính kiến của mình. Kẻ xấu biết bạn tài lộc dồi dào nên ghen ghét, có thể gài bẫy bày mưu để bạn đổ tiền bạc vào nơi không đáng. Chẳng có ai có thể quyết định thay mình, đừng chủ quan khinh suất, dễ dàng tin lời người khác, chỉ có bạn mới có thể phòng tránh được những mối nguy đó.  

Vận hạnh tuổi Tị: Sức khỏe sa sút, hôn nhân cần vun đắp

 

6 van han cua tuoi Ti trong thang co hon
 

Vận trình sức khỏe kém lý tưởng

  Với những con giáp khác, tháng 7 âm lịch là tháng khá đen đủi. Song người tuổi Tị lại có vận trình tháng khá ổn định với nhiều thành công liên tiếp tới. Duy có vấn đề sức khỏe là chuyện mà con giáp này cần phải lưu tâm.   Tuy có điềm lành báo công việc suôn sẻ, song bản mệnh trong tháng chẳng nhờ cậy được ai, việc gì cũng phải tự tay làm. Công việc ngày càng nhiều, bạn lại tham công tiếc việc nên khó tránh khỏi căng thẳng, mệt mỏi vì áp lực luôn đè nặng lên vai. Suy nghĩ quá nhiều cũng khiến cho việc nghỉ ngơi hay tiêu hóa không tốt, cơ thể cứ thế mà dần suy nhược.   Dù làm gì đi chăng nữa thì cũng cần chăm sóc sức khỏe cẩn thận. Đặc biệt, trong tháng này người tuổi Tị nên đặc biệt chú ý phòng ngừa các bệnh về đường hô hấp. Cái gì cũng phải làm từ gốc, khi sức khỏe yếu thì sức đề kháng cũng giảm xuống, nguy cơ mắc bệnh càng tăng cao hơn bao giờ hết. Tháng cô hồn âm khí nặng, chớ nên đi sớm về khuya, đây là điều đại kị với con giáp này trong tháng cô hồn. Ban đêm hạn chế ra ngoài kẻo dễ bị nhiễm lạnh, cảm phong hàn.  

Hôn nhân phải luôn được hâm nóng

  Thực ra vận trình tình cảm của người tuổi Tị trong tháng cô hồn khá ổn, song Lịch ngày tốt vẫn muốn nhắc nhở thêm một chút tới những chú Rắn đã lập gia đình. Có thể sự ổn định của hôn nhân khiến các bạn dần quên đi việc phải vun đắp tình cảm mỗi ngày, song tình yêu như dây leo, luôn cần cái gì đó để quấn quýt vào.   Với nữ mệnh, con cái chiếm quá nhiều thời gian, khiến các bạn không còn chăm chút bản thân như trước nữa. Nhan sắc phai tàn là chuyện dễ thấy, còn chuyện sâu xa hơn đó là tình cảm vợ chồng dần biến thành tình thân, thiếu đi những phút giây yêu đương nồng thắm.   Nam mệnh nên quan tâm chăm chút đến gia đình nhiều hơn, gánh đỡ bớt những vất vả cho một nửa của mình. Thi thoảng hãy để cho người phụ nữ của bạn có cảm giác được nâng niu như lúc mới yêu, một món quà nho nhỏ, một bó hoa xinh xắn… cũng đủ để phụ nữ cảm thấy thỏa mãn và có thêm động lực chăm sóc cho gia đình nhỏ của mình. Bạn cũng có thể tham khảo thêm Mẹo phong thủy hâm nóng tình cảm hôn nhân cho 12 con giáp để có thêm ý tưởng nhé.  

Vận hạn tuổi Ngọ: Nguy cơ phá tài, đào hoa kiếp đe dọa chuyện tình cảm

 

7 van han cua tuoi ngo trong thang co hon
 

Vận trình tài lộc sa sút

  Đón chào tháng 7 âm lịch, người tuổi Ngọ không mấy may mắn trong chuyện tiền bạc, cần đề phòng kẻ tiểu nhân hãm hại, họa phá tài xảy ra. Đây không phải là lúc để bạn dốc tiền vào đầu tư, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Những lời mồi chài ngon ngọt hấp dẫn dễ khiến ta yếu lòng, nếu không đủ tỉnh táo và bản lĩnh thì chuyện thua lỗ xảy ra cũng không có gì đáng ngạc nhiên.   Ngoài ra, bản mệnh nên làm tốt việc của mình, hành sự thận trọng, hạn chế vướng vào những chuyện thị phi, lo chuyện bao đồng, dễ xảy ra những tai họa từ trên trời rơi xuống. Công việc cũng phát sinh một số vấn đề khiến bản mệnh bắt buộc phải chi tiền, tình hình tài chính đã eo hẹp lại càng thêm túng thiếu. Về nửa cuối tháng có điềm báo vay nợ, hãy kiểm soát túi tiền của mình tốt hơn.  

Vận trình tình cảm đi xuống

  Tháng cô hồn, người tuổi Ngọ đào hoa vượng phát, tuy nhiên đó lại là đào hoa dữ, đào hoa kiếp. Cái gì quá cũng đều không tốt, đào hoa quá mạnh dễ khiến cho bản mệnh vướng phải những rắc rối trong chuyện tình cảm. Người độc thân, nhất là nữ mệnh cần đặc biệt thận trọng trong các mối quan hệ. Ngoài chuyện dùng Mẹo phong thủy để hóa giải đào hoa dữ thì bản mệnh cũng cần luôn nhắc nhở bản thân đừng quá dễ tin người, cũng đừng vội trao tình cảm cho người khác, bạn có thể sẽ bị lợi dụng và lừa gạt, tổn thương cả về vật chất lẫn tinh thần.    Với người đã có đôi, người đã lập gia đình, đào hoa kiếp mang theo những nguy cơ đe dọa mối quan hệ của bạn. Hãy luôn luôn bồi dưỡng tình cảm đôi lứa, hâm nóng mối quan hệ bất cứ lúc nào có thể. Lạc lõng trong cuộc tình, cô đơn trong cuộc hôn nhân… bạn rất dễ sa đà vào những cảm xúc bên ngoài, để tình cảm nhất thời lấn át lý trí, cuối cùng gây ra những chuyện sai lầm, đánh mất hạnh phúc mình đang có.  

Vận hạn tuổi Mùi: Biến động trong sự nghiệp, tình cảm phôi phai

 

8 van han cua tuoi suu trong thang co hon
 

Sự nghiệp trong vượng có suy

  Xem tử vi vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn, người tuổi Mùi thời điểm này có những sa sút trong vận trình công việc. Cơ hội phát triển không có nhiều, bản mệnh cần tỉnh táo để nắm bắt thời cơ, do dự e ngại chỉ khiến cho thất bại đến ngày một nhiều hơn.   Nhiều chuyện bề ngoài tưởng khó mà lại dễ, chỉ khi ta bắt tay vào việc thì mới có thể thành công. Bản mệnh cần quyết đoán hơn, dám nghĩ thì phải dám làm, đừng để kế hoạch nằm mãi trên giấy. Đặc biệt, nam mệnh hãy dũng cảm làm theo những gì mình muốn, quý nhân sẽ ở bên trợ lực cho bạn hoàn thành công việc đúng như mong muốn.   Áp lực là điều ai cũng phải đối mặt, song đừng để áp lực khiến cho ta bị nản lòng thối chí. Những khi cảm thấy muốn suy sụp, hãy tìm đến sự giúp đỡ của bạn bè và người thân. Đừng nghĩ đó là sự yếu đuối, bởi không ai có thể mạnh mẽ mãi được, quan trọng là bạn có ý chí và nỗ lực để thành công, chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào sự giúp đỡ của người khác.  

Vận trình tình cảm giảm sút

  Tuy không quá đáng ngại nhưng Lịch ngày tốt vẫn muốn nhắc nhở thêm người tuổi Mùi về những nguy cơ trong chuyện tình cảm. Con đê lớn đến thế vẫn có thể vỡ sụp vì con mối bé nhỏ làm tổ trong thân đê, những sự tan vỡ cũng bắt đầu từ vết rạn nứt ban đầu khó có thể nhận thấy.   Thời gian trôi qua, tình yêu không còn quá nồng nàn, các cặp đôi quen với việc có nhau mà không nhớ cần phải làm mới tình cảm, khiến cho tình yêu phai nhạt dần. Buông lỏng quản lý, khiến cho người kia cảm thấy mình không được trân trọng. Quản thúc quá chặt, khiến cho đối phương thấy ngột ngạt trong tình yêu. Tất cả những điều đó đều có thể khiến cho tình yêu tan vỡ, “lạt mềm buộc chặt”, hãy lấy đó làm tôn chỉ trong tình yêu.  

Vận hạn tuổi Thân: Công việc vấp váp, thu nhập giảm sút, tình cảm phai nhạt

 

9 van han cua tuoi Than trong thang co hon
 

Sự nghiệp nhiều điều ngáng trở

  Tháng cô hồn dường như ảnh hưởng khá lớn đến người tuổi Thân. Công việc có quá điều vướng mắc, bạn liên tục gặp phải những sự cố bất ngờ. Dù đã cố gắng vận dụng mọi khả năng mình có nhưng những mối họa từ trên trời rơi xuống vẫn không buông tha cho con giáp này.   Tinh thần sa sút, bạn dần cảm thấy nản lòng và bất lực, công sức bỏ ra không được hồi đáp, bản mệnh có lúc muốn bỏ cuộc giữa chừng. Suy nghĩ tiêu cực càng khiến cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Thái độ quyết định hành động, bạn cần chấn chỉnh lại tinh thần nếu không muốn một lần vấp ngã kéo theo những cú trượt dài trong sự nghiệp.  

Tài lộc hư hao, tiền bạc thất thoát

  Nguồn thu nhập chính có phần chững lại, bản mệnh không được hưởng lộc từ công việc chính của mình trong khi vẫn có biết bao khoản phải chi tiêu. Nguồn thu phụ không có, người tuổi Thân xoay sở đủ mọi cách nhưng vận may chưa tới. Thêm vào đó, bạn e ngại thất bại nên từ những bước đầu đã rụt rè không dám tiến lên, chuyện kinh doanh đổ bể từ trong trứng nước.   Bản mệnh còn hành động theo cảm tính, không chịu nghe theo lời góp ý của mọi người mà cứ khăng khăng làm theo ý mình, một bước sai lầm kéo theo ngàn bước sai lớn hơn, càng đi càng xa vạch đích, bao công sức nỗ lực bỏ ra chẳng thu lại được điều gì.  

Tình duyên kém sắc, yêu thương phai nhạt

  Tính tình vốn cứng nhắc, do ảnh hưởng của công việc, bạn lại càng thêm lạnh lùng vô cảm, khiến cho tình yêu mất đi màu sắc lãng mạn ban đầu. Tâm tính thay đổi thất thường, khi thế này, lúc thế khác, người tuổi Thân khiến cho đối phương mất dần kiên nhẫn, chẳng đủ bao dung chiều chuộng nữa.   Bản mệnh bảo thủ và cố chấp, dù với người mình yêu cũng không chịu mềm lòng, sẵn sàng tranh cãi đến cùng. Dù bạn giành phần thắng nhưng tới lúc đó thì tình cảm cũng dần nhạt phai, mối quan hệ rạn nứt, mâu thuẫn không ngừng xảy ra, khi mới làm lành thì lập tức quay sang đối đầu cãi lộn.   Người còn độc thân thì không chịu thay đổi suy nghĩ mà vẫn cứ khăng khăng giữ mình trong vòng an toàn. Quá khứ như một sợi dây thòng lọng, bạn càng nắm chặt thì nó càng thít lại. Hãy mở rộng lòng mình để đón nhận những cơ hội tình cảm mới, bạn càng thu mình thì tình yêu càng thêm xa lánh. Buông bỏ phiền não, chắc chắn bạn sẽ thấy yêu đời hơn.  

Vận hạn tuổi Dậu: Tài lộc tổn hao, tình cảm trục trặc

 

10 van han cua tuoi dau trong thang co hon
 

Tiểu nhân đeo bám, hao tài tốn của

  Xem tử vi vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn, người tuổi Dậu cần quản lý tiền bạc chặt chẽ hơn nếu không muốn rơi vào tình trạng vay mượn, nợ nần chồng chất. Trong tháng có trăm việc phải dùng đến tiền, vận tài lộc giảm sút đáng kể, tiền bạc về tay như gió vào nhà trống.   Đặc biệt, bản mệnh cần tỉnh táo hơn trong những chuyện liên quan đến tiền bạc. Bạn dễ tin người, cũng rất hào phóng, thoáng tính trong chuyện chi tiêu. Đó là điểm yếu mà rất có thể kẻ xấu sẽ lợi dụng để lừa gạt tiền của, lấy mất những gì bạn phải tốn bao công sức mới có được.   Với chuyện đầu tư, bản thân cần tìm hiểu rõ ràng trước khi đổ vốn vào, chớ nghe lời kẻ xu nịnh mà dâng tiền vào miệng cọp. Cầu tài khó khăn, nên đón lành tránh dữ, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, chớ phạm phải những điều cấm kị trong tháng cô hồn.  

Tình duyên nhiều ngáng trở, hạnh phúc khó tìm

  Tuy được đào hoa chiếu mệnh song người độc thân rất dễ vướng phải chuyện rắc rối tình cảm. Đó là bởi đào hoa vượng dễ hóa đào hoa dữ, bản mệnh nếu không cân bằng các mối quan hệ, thận trọng và hài hòa trong giao tiếp thì dễ đuổi mất tình duyên. Chuyện gì cũng nên chuyên tâm, tình cảm chỉ nên hướng về người xứng đáng, người phù hợp, chớ tham lam để rồi “lắm mối tối nằm không”.   Đặc biệt nữ mệnh tuổi Dậu cần làm rõ tình cảm của mình, đừng mải mê thể hiện sự quyến rũ mà vơ rắc rối vào mình. Cũng có nhiều kẻ tiếp cận bản mệnh vì những mục đích ngoài tình cảm, cần tỉnh táo để biết ai là người thực lòng yêu thương mình.   Đôi lứa cũng kém hòa thuận, mâu thuẫn xảy ra không ngừng. Cái tôi quá lớn khiến cho ai cũng muốn bảo vệ quan điểm của mình, không chịu chia sẻ hay dung hòa với đối phương, có thể sẽ khiến cho tình cảm dần phai nhạt, hai người lạnh lùng trở mặt với nhau.  

Vận hạn tuổi Tuất: Tài vận kém sắc, sức khỏe giảm sút, gặp họa trong công việc 

 

11 van han cua tuoi Tuat trong thang co hon
 

Tài lộc không được lý tưởng

  Trong tháng 7 âm lịch, người tuổi Tuất khá đau đầu về chuyện tiền bạc. Tất cả mọi khoản chỉ có thể trông chờ vào thu nhập chính, nguồn thu phụ chẳng có là bao nên kinh tế khá eo hẹp. Nếu muốn cải thiện tình hình tài chính thì chỉ có thể lợi dụng thời gian này để học hỏi và tích lũy thêm kinh nghiệm cho mình, chờ khi thời cơ đến là lập tức chuyển mình.   Đây không phải là thời điểm để bản mệnh tiến hành những chuyện đầu tư mạo hiểm, bởi thực lực chưa đủ, nguồn vốn nghèo nàn, không cẩn thận càng làm thì vốn càng mòn, thua lỗ là chuyện khó tránh. Trong tháng cô hồn, con giáp này nên lấy tĩnh chế động, chủ động rèn luyện bản thân để chờ thời cơ hành động.   Tất nhiên trời không tuyệt đường sống của ai, nếu bạn đủ kiên trì và nỗ lực, thành công vẫn sẽ tới, dù không được lớn như mong muốn. Trong chuyện hợp tác làm ăn, có thể kết giao với người tuổi Mão, tuổi Dần hay tuổi Ngọ thì khả năng thành công sẽ cao hơn. Đơn thương độc mã trong khoảng thời gian này không phải là một quyết định sáng suốt, chớ nên tự tin thái quá mà rước lấy thất bại đau thương.  

Tình hình sức khỏe suy giảm nghiêm trọng

  Tháng cô hồn có nhiều điều phải kiêng kị, đặc biệt với người tuổi Tuất thì đây càng là khoảng thời gian phải cẩn trọng, bởi có điềm báo bản mệnh sẽ gặp phải sự cố bất ngờ, có thể nguy hiểm đến tính mạng.   Nên đặc biệt chú ý trong vấn đề ăn uống, “họa từ miệng mà ra, bệnh từ miệng mà vào”, các chứng bệnh liên quan đến tỳ vị hay đường tiêu hóa tuy nhỏ nhưng chẳng thể coi thường.  

Công việc gặp nhiều cản trở

  Càng về cuối tháng, bản mệnh càng gặp nhiều khó khăn trong công việc. Dù vất vả ngược xuôi nhưng bạn chẳng thể hưởng niềm vui chiến thắng. Thêm vào đó, người tuổi Tuất sống thực tế, đặt công việc lên trên tình cảm, song khó tránh khỏi những lúc áp lực đè nặng lên vai, đánh mất lý trí của mình.   Xem vận hạn của 12 con giáp trong tháng 7 âm lịch, người sinh năm Tuất nên chú ý, để tình cảm sai chỗ là chuyện vô cùng nguy hiểm, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, mượn tay bạn để làm chuyện sai quấy, tới cuối cùng bao nhiêu tai vạ một mình bạn hứng chịu. Làm chuyện gì cũng phải cẩn trọng, ăn nói có chừng, có điềm báo thị phi, kiện tụng có thể xảy ra trong tháng.  

Vận hạn tuổi Hợi: Thị phi ập xuống, tình cảm bị ngăn cách

 

12 van han cua tuoi hoi trong thang co hon
 

Tiểu nhân quấy phá, vận trình sự nghiệp sa sút

  Xem vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn, công việc của người tuổi Hợi không được suôn sẻ. Họa thị phi bủa vây, bản mệnh bị kẻ xấu lập mưu hãm hại, lời ăn tiếng nói không cẩn trong thì rất dễ bị ảnh hưởng đến uy tín.   Cần giữ mối quan hệ hài hòa với đồng nghiệp, tránh gây mâu thuẫn bất đồng nội bộ. Suy cho cùng chúng ta đi làm không phải để tranh cãi, hãy giữ sự chuyên nghiệp trong công việc, đừng để tình cảm cá nhân ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. Lợi danh ai cũng muốn, nhưng đừng để nó lấn át lý trí mà làm ra những chuyện trái với lương tâm.  

Tình cảm gặp nhiều ngăn cách

  Tinh thần không được tốt, mệt mỏi trong công việc dễ khiến bản mệnh trở nên nóng nảy, mất bình tĩnh. Những áp lực trong cuộc sống đến dồn dập, bạn không thể cân bằng giữa công việc và tình cảm, có những hành động tổn thương đến tình cảm lứa đôi.   Thêm vào đó, người tuổi Hợi trong tháng cô hồn có điềm báo ngăn cách trong tình cảm. Chuyện của bạn và người ấy có thể nảy sinh mâu thuẫn ngay trong mối quan hệ, cũng có thể bị gia đình hai bên và bạn bè phản đối. Nếu thực sự đó là tình yêu chân thành thì hãy cố gắng đấu tranh để giữ lấy hạnh phúc cho mình.   Người đã kết hôn có thể phải đối mặt với nguy cơ bị kẻ thứ ba chen chân vào gia đình. Hãy hâm nóng tình cảm vợ chồng bất cứ lúc nào có thể. Bản thân bạn cũng cần chú ý hơn trong các mối quan hệ với người khác giới, đừng để những hiểu lầm không đáng có xảy ra, vừa ảnh hưởng đến thanh danh mà vừa gây rạn nứt tình cảm gia đình.   An An

Thứ tự làm 4 lễ cúng rằm tháng 7 tại nhà để hóa giải mọi tai ương Infographic: Những bài văn khấn cúng cô hồn tháng 7 âm lịch phổ biến và chuẩn xác Muốn ma quỷ tránh xa, tháng cô hồn đừng quên những điều này

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Vận hạn của 12 con giáp trong tháng cô hồn
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd