Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Gặp may khi mơ thấy quạt giấy

Trên mỗi chiếc quạt giấy thường là một bức tranh nên mỗi khi xòe một chiếc quạt, như thể mở ra một cánh cửa với thế giới muôn màu, đem đến một sự thanh thoát,
Gặp may khi mơ thấy quạt giấy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  nhẹ nhàng cho tâm hồn. Có thể nói, giấc mơ về chiếc quạt giấy chính là cát mộng. 


Gap may khi mo thay quat giay hinh anh
Ảnh minh họa
Chiêm bao thấy chiếc quạt giấy là điềm báo bạn sắp vượt qua được những khó khăn thử thách nhờ có sự giúp đỡ tận tình từ người khác.    Chiêm bao thấy một người phụ nữ cầm chiếc quạt giấy là công việc kinh doanh gặp thuận lợi, công việc làm ăn thu được nhiều kết quả tốt.    Nếu mơ thấy quạt giấy mình đang quạt cho đối thủ thì điều này có nghĩa là mối quan hệ của 2 bạn đang dần được cải thiện, bớt căng thẳng hơn, biết đâu trong lương lai họ lại có thể trở thành bạn bè hoặc đối tác làm ăn của bạn đấy.    Mơ thấy một cái quạt cũng mang ý nghĩa báo hiểu cuộc sống của bạn sắp có những sự thay đổi mới, bạn cần bình tĩnh đối diện, không nên nóng vội hay bốc đồng.   Mơ thấy mình đang tự quạt cho mình ngụ ý rằng bạn đang thiếu tự tin, bạn cần sự giúp đỡ từ bạn bè.    Tuy nhiên, đôi khi giấc mơ về chiếc quạt chưa hẳn là cát mộng, nếu bạn mơ thấy chiếc quạt bị rách, cấp dưới của bạn đang thực hiện những ý đồ không tốt. Bạn nên cẩn trọng hơn trong công việc và nên cải thiện các mối quan hệ.
► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác

Tổng hợp
 
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Gặp may khi mơ thấy quạt giấy

Phân loại dựa vào vị trí, hình thức của thương phố –

Dựa vào vị trí hình thức của thương phố có thể phân thương phố ra làm hai loại phố diện phòng và phố vị. Dưới đây là giới thiệu khái niệm và khác biệt giữa chúng. Phố diện phòng (phòng mặt ngoài cửa hiệu) là chỉ các phòng của cửa hàng có mặt ngoài hư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dựa vào vị trí hình thức của thương phố có thể phân thương phố ra làm hai loại phố diện phòng và phố vị. Dưới đây là giới thiệu khái niệm và khác biệt giữa chúng.

Phố diện phòng (phòng mặt ngoài cửa hiệu) là chỉ các phòng của cửa hàng có mặt ngoài hướng gần đường phố, thường gọi là cửa hiệu hoặc cửa hàng mặt phố. Phố vị (vị trí nằm), thường là chỉnh thể các bách hoá tổng hợp lớn, thị trường mua bán lớn, phố đặc sắc chuyên nghiệp, trung tâm mua bán…Do bản thân thuộc tính vật nghiệp không giống nhau nên nhất thiết dẫn đến tồn tại sự khác biệt.

huongpho1

1. Khác biệt tính duy nhất

Phố diện phòng thông thường chiếm hữu khu đất ưu thế tính duy nhất không thế thay thế, phục chế được, mà phố vị thì có thể ít thi mấy chục, nhiều thì mấy trăm lần phục chế, cố nhiên thiếu ưu thế tính duy nhất. Đối với bất động sản mà nói, ưu thế tính duy nhất có ý nghĩa là giá trị đầu tư tốt.

2. Khác biệt tính hạn chế các loại thương nghiệp

Phố vị kinh doanh các sản phẩm hoàn toàn bị chế ước bởi môi trường lớn của các thương nghiệp. Ví dụ như trong thị trường buôn bán lớn các vật liệu xây dựng chuyên nghiệp mà lại đi kinh doanh quần áo thời trang hay thực phẩm thì không được phép. Còn phố diện phòng, ngoài việc các mặt hàng doanh đặc thù mà theo quy định pháp quy của chính phủ không cho phép kinh doanh ra, thì các thương nghiệp vẫn có thể chọn lựa linh hoạt loại hình và hình thái kinh doanh của mình.

3. Khác biệt về thời gian kinh doanh

Thời gian kinh doanh của phố vị không phải muốn thế nào cũng được. Ví dụ, nếu quy định là 9 giờ tối các cửa hàng bách hoá đóng cửa, mà quá 9 giờ tối các chủ cửa hàng vẫn muốn bán hàng thì cũng không được phép, nhưng phố diện phòng thì lại không bị  tình trạng đó, người kinh doanh buổi tối nếu làm việc rất muộn, hoàn toàn quyết định do ý muốn của bản thân mình.

4. Khác biệt mối nguy hiểm trong điều chỉnh quy hoạch hành nghề

Phạm vi kinh doanh phố vị và tính tiếp tục kinh doanh ngoài việc chịu quy hoạch xây dựng thiết kế của thị chính ra, còn phải chịu điều chỉnh quy hoạch thương nghiệp, cho nên nguy hiểm khá lớn. Các thành phố lớn và vừa trong nước phát sinh một con phố do yêu cầu điều chỉnh quy hoạch, thời gian đã muộn mà người ra vào vẫn nhộn nhịp rộn ràng không có gì là lạ.

5. Khác biệt chi phí vận hành vật nghiệp

Đối với toàn bộ chi phí vận hành của một thương nghiệp sử dụng như không gian vận hành, thống nhất hình tượng tuyên truyền, phát hành quảng cáo, hoạt động tổ chức tiêu thụ…việc chịu một phần phí tổn không phải là do một mình người chủ phố vị nói là xong. Do vậy, chi phí vận hành phố vị thường cao hơn phố diện phòng.

6. Khác biệt phạm vi lựa chọn vật nghiệp cho thuê

Phạm vi khách hàng thuê lựa chọn phố vị cho thuê khá hẹp, ít nhất đối với những người không thông thạo với loại hình và hình thái kinh doanh của phố vị thì sẽ không đến thuê phố vị này, loại  hình và hình thái doanh nghiệp của phố diện phòng có thể dựa theo khách hàng đến thuê mà tuỳ ý thay đổi, do vậy, phạm vi khách hàng lựa chọn thuê cũng khá nhiều.

7. Sự khác biệt đối với đầu tư mạo hiểm

Từ thời xưa đến nay, cái gọi là thương phố nóng, tỷ lệ đầu tư lại của thương phố cao, nói một cách triệt để thì là sự quá nóng của phố vị. Do giá cả của phố vị đã bị đẩy lên cao, cho nên trong quá trình xúc tác đó khiến cho người ta nhìn thấy “tiền” đổ, nếm trải vị ngọt của nó. Ví dụ như một thành phố, khai trương giá cả phố vị của một thị trường phục trang thời ký đầu là 1.000.000 đồng nay đã tăng lên đến 5.000.000 đồng.

Kỳ thực, bất kỳ một xúc tác nào tuy có nguy hiểm nhưng chỉ trong thời gian ngắn, xúc tác đó càng cao thì nguy hiểm càng cao. Không ít người, hoài mong nguyện vọng tốt “nhất phố dương tam đại” của đầu tư phố vị mà khó tránh khỏi rơi vào cạm bẫy “nhất phố đào tam đại”. Còn phố điện phòng, giá cả tăng không cao như phố vị, so sánh với phố diện phông, có thể nói, nguy hiểm trong đầu tư của phố vị là không ít.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phân loại dựa vào vị trí, hình thức của thương phố –

Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Mỗi vị trí nốt ruồi trên cơ thể mang một ý nghĩa khác nhau có ảnh hưởng tới cuộc đời hay vận mệnh của bạn. Có thể là một điềm báo xấu hoặc tốt đối với vận mệnh của bạn. Mỗi nốt ruồi ở chân mang một ý nghĩa khác nhau, có thể là mang ý nghĩa tốt hay xấ
Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nốt ruồi ở chân mang ý nghĩa gì? –

Nhìn tướng khuôn mặt đoán mọi phương diện cuộc sống

Nhìn mặt đoán tình duyên sự nghiệp: Phần gò má tượng trưng cho quyền lực của mỗi người. Người có gò má quá thấp thì sự nghiệp không bền vững, dễ bị kẻ xấu quấy
Nhìn tướng khuôn mặt đoán mọi phương diện cuộc sống

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Phần gò má tượng trưng cho quyền lực của mỗi người. Người có gò má quá thấp thì sự nghiệp không bền vững, dễ bị kẻ xấu quấy phá, tìm cách hãm hại. 
 

1. Mũi – Đoán tiền tài, danh vọng
 
Trong Nhân tướng học, người có mũi dày, đầy đặn thường nhiều tài vận. Người này lúc nào cũng gặp may mắn về tiền bạc, cả đời không phải lo cơm áo gạo tiền.   Ngược lại, tướng mũi gầy, nhỏ, khuyết hãm (có nốt ruồi hay vết sẹo) thì tài vận cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Chủ nhân của kiểu mũi này khó có được cuộc sống rủng rỉnh tiền bạc mà lại hay gặp phải những việc phải chi tiêu nhiều tiền.

Nhin khuon mat doan moi phuong dien cuoc song hinh anh
Nhìn khuôn mặt đoán mọi phương diện cuộc sống

2. Gò má – Đoán sự nghiệp   Phần gò má tượng trưng cho quyền lực của mỗi người. Người có gò má quá thấp thì sự nghiệp không bền vững, dễ bị kẻ xấu quấy phá, tìm cách hãm hại.    Ngoài ra, người có phần gò má quá cao thường nắm quyền lực trong tay, công danh sự nghiệp thành đạt nhưng chuyện tình cảm lại không thuận lợi.   3. Đôi mắt – Đoán tình duyên   Người sở hữu đôi mắt to có tình cảm phong phú, dễ đắm chìm vào tình yêu, nhưng cũng dễ tan biến vào hư không. Sở hữu đôi mắt nhỏ, bạn có phản ứng khá chậm với chuyện tình cảm.   Vị trí giữa hai mắt gọi là Sơn căn. Nếu Sơn căn quá cao, bạn có tính cách mạnh mẽ cả trong cuộc sống và tình yêu. Ngoài ra, nếu sống mũi gãy (phần Sơn căn thấp lõm) chứng tỏ chủ nhân sẽ gặp nhiều thử thách trong tình cảm.   4. Cằm – Đoán phúc lộc về già   Thông thường, những người cằm ngắn hoặc quá nhỏ thì ít hưởng phúc lộc, cuộc sống về già gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, chủ nhân của tướng cằm vuông tròn, đầy đặn lại được hưởng nhiều phúc lộc trời ban. Cuộc sống của họ càng về già càng an nhàn và sung sướng.   Ngoài ra, những người hai cằm hoặc có chiếc cằm chẻ cũng gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Nữ giới sẽ lấy được chồng giàu có, hưởng vinh hoa phú quý.   5. Đường Pháp lênh – Đoán may mắn trong cuộc sống   Đường Pháp lệnh là hai đường vân đối xứng từ hai bên cánh mũi kéo dài xuống hai bên khóe miệng. Người có đường vân này khi còn trẻ (không phụ thuộc vào tuổi tác) thì cần phải nỗ lực hết mình mới mong gặp được nhiều may mắn trong cuộc sống. Người này có số phải tự lực cánh sinh, ít được nhờ cậy vào mọi người xung quanh.
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Theo Ione    
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nhìn tướng khuôn mặt đoán mọi phương diện cuộc sống

SAO ĐỊA KHÔNG - ĐỊA KIẾP TRONG TỬ VI

Địa không (Hỏa) Địa kiếp (Hỏa) * * * 1. đặc tính đại cương của địa không, địa kiếp: a. Hiệu lực của Địa Không, Đị...
SAO ĐỊA KHÔNG - ĐỊA KIẾP TRONG TỬ VI

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Địa không (Hỏa) Địa kiếp (Hỏa)


* * *


1. đặc tính đại cương của địa không, địa kiếp:



a. Hiệu lực của Địa Không, Địa Kiếp:

Địa Không, Địa Kiếp là hai sát tinh nặng nhất, mạnh nhất trong các sao xấu. Tuy chỉ là phụ tinh nhưng ảnh hưởng của hai sao này mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc địa. Chỉ riêng một trong hai sao cũng đủ hóa giải hầu hết hiệu lực của sao tốt nhất là Tử Vi.

Ngay cả ở 4 vị trí đắc địa (Tỵ, Hợi, Dần, Thân), hai sao này cũng còn tiềm phục phá hoại tuy có góp phần gia tăng tài danh một cách nhanh chóng nhưng cái may thường đi liền với cái rủi: sự hoạnh phát đi liền với sự hoạnh phá hay một tai họa nặng nề khác (đau ốm, mất của, tang khó ...). Sự nguy hiểm bao giờ cũng tiềm tàng và sẵn sàng tác họa, nếu gặp hung tinh khác.

Vị trí tốt nhất của Không, Kiếp là Tỵ. Tại đây, chủ sự hoạnh phát mau chóng và bất ngờ về quan, tài, vận hội, cụ thể như trúng số lớn, thăng chức nhanh, kiêm nhiệm nhiều công việc lớn, uy quyền bộc phát chói lọi được một thời gian.

Tại cung Hợi, Không Kiếp cũng có nghĩa như vậy nhưng cường độ kém hơn nhưng cũng nhờ đó mà nếu có tai họa, suy trầm, sự xuống dốc không nhanh chóng như ở Tỵ. Tại Tỵ và Hợi, Kiếp Không bao giờ cùng đồng cung cho nên hệ số gia tăng gấp bội về lợi cũng như về bất lợi.

Còn ở Dần Thân, Kiếp Không độc thủ và xung chiếu nên sự phát đạt không mạnh bằng ở Tỵ hay Hợi. Vị trí Dần tốt hơn vị trí Thân.

Kiếp, Không đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ có nghĩa như hãm địa và những luận đoán phải đảo ngược. Trái lại, Kiếp hay Không hãm địa gặp Tuần hay Triệt án ngữ sẽ chế giảm hay triệt tiêu sức phá hoại của sát tinh này nhưng không hẳn biến thành tốt đẹp.



b. Phạm vi ảnh hưởng của Địa Không, Địa Kiếp:

Sức phá hoại của Kiếp Không hãm địa vốn rất mạnh, tai họa càng gia tăng cả về số lượng lẫn cường độ, cả cho mình lẫn cho người thân thuộc hoặc giả tai họa quá nặng có ảnh hưởng đến toàn thể cuộc đời. Nó đánh dấu một sự xuống dốc vĩnh quyết, không thắng được nếu bị hãm địa ở các cung quan yếu như Phúc, Mệnh, Thân.

Ngoài ra, càng về già, hai sao Kiếp Không càng tác họa mãnh liệt hơn.



c. Thể thức tác họa của Địa Không, Địa Kiếp:

Tốc độ tác họa của Không, Kiếp hãm địa rất nhanh chóng và bất ngờ. Nếu đắc địa, sức phù trợ cũng nhanh và bất ngờ như vậy. Không Kiếp tượng trưng cho những trường hợp bất khả kháng mà sức người khó lòng chế ngự. Gặp nó, con người hầu như bị tràn ngập bởi các yếu tố bất khả cưỡng, không còn chủ động được trên nhiều tình huống. Nếu thiếu nhiều sao cứu giải mạnh mẽ, Kiếp Không báo hiệu cho một cái chết nhanh chóng, bất ngờ và tàn bạo.





2. Ý nghĩa bệnh lý:



Hai sát tinh này có rất nhiều đặc tính bệnh lý, hầu hết là rất nặng. Nó gây thương tàn cho bộ phận cơ thể đi kèm, dù sao đó chỉ xung chiếu hay bàng chiếu.

- Không Kiếp đơn thủ báo hiệu những bệnh sau:

- đau phổi nặng như ho lao, ung thư phổi, suyễn

- nếu đắc địa thì ho lâu năm

- bệnh mụn nhọt, ghẻ lở nặng và lâu khỏi

- Không, Kiếp, Thiên Đồng: ruột dư phải mổ, hay bệnh thận phải mổ, bệnh mật có sạn

- Không, Kiếp, Đế Vượng: gãy xương sống, sái xương sống.

- Không, Kiếp, Hỷ Thần: bệnh trĩ kinh niên hay bệnh mụn nhọt lớn ở mông.

- Không, Kiếp, Phá Toái: đau yết hầu, ung thư cổ họng

- Không, Kiếp, Thai: bào thai chết trong bụng mẹ, mẹ cố ý phá thai.

- Không, Kiếp, Kỵ: ngộ độc, bị phục độc.





3. Ý nghĩa tính tình:



a. Nếu Kiếp, Không đắc địa:

- có mưu trí, thâm trầm và lợi hại

- rất can đảm, táo bạo, dám nói, dám làm

- rất kín đáo, bí mật, hay giấu giếm

- hay suy xét, mưu trí cao thâm

- có thủ đoạn cao, hay dùng thủ đoạn gian quyệt

- ích kỷ



b. Nếu Kiếp, Không hãm địa:

- ích kỷ tột độ trắng trợn và bất hạnh, dù hại đến công nghĩa hay quyền lợi kẻ khác cũng không lùi bước; chỉ biết mình, bất chấp kẻ khác.

- tự kỷ ám thị, suy tật xấu của người từ tật xấu của mình.

- xảo quyệt, gian tà, biển lận, tham lam, tóm lại tính nết của một lưu manh hạng nặng, tham nhũng, hối lộ, lường gạt, gian lận, trộm cướp, bất lương, hiếp dâm.

Nếu có thêm những sao xấu nữa thì càng chắc chắn.





4. Ý nghĩa công danh, tài lộc:

Cho dù đắc địa, Kiếp Không cũng không bảo đảm trọn vẹn và lâu dài công danh và tài lộc. Sự nghiệp sẽ hoạnh phát nhưng hoạnh phá. Uy quyền và tiền bạc gặp phải nhiều thăng trầm, lúc thịnh lúc suy, nếu có phú quý lớn thì hoặc không hưởng được lâu hoặc phải có lần phá sản, lụn bại.



Nếu hãm địa, nhất định phải cực kỳ nghèo khổ, vất vả, không có sự nghiệp và sinh kế.



Kiếp Không giáp Mệnh cũng liên lụy ít nhiều đến bản thân, công danh, tài lộc như phải vất vả, tha phương lập nghiệp, bị mưu hại, trộm cắp.





5. Ý nghĩa phúc thọ, tai họa:

Nếu đắc địa, cuộc đời phải vất vả cực nhọc, tuy tai họa tiềm tàng nhưng không mấy hung hiểm. Dù sao, phải chịu nhiều cảnh thăng trầm, khi vinh, khi nhục. Nếu gặp phải sát tinh thì sự phá hoại dễ dàng phát tác mau chóng.



Nếu hãm địa, Kiếp Không ví như một nghiệp chướng bám vào vận mệnh con người, có ảnh hưởng đa diện và nặng nề, cụ thể như:

- bị tật nguyền vĩnh viễn, bệnh nặng

- hung họa nhiều và nặng nề

- nghèo khổ, cô độc, vô sản, phải đi xa làm ăn

- yểu mạng

Riêng phụ nữ thì:

- sát phu, sát con

- bị tai nạn trinh tiết, ảnh hưởng đến suốt đời

- hồng nhan bạc mệnh và đa truân, hay lụy vì tình.



Đặc biệt, nếu gặp sát tinh, dù là đắc địa thì cũng phải gián đoạn phu thê (vợ/chồng chết sớm).



Nếu gặp Đào, Hồng thì ngoài việc yểu mạng, phụ nữ phải bị hãm hiếp, mất trinh, đàn bà thì thất tiết, gia đạo phải nhiều lần tan vỡ, bị ruồng bỏ hoặc có thể bị giết vì tình.





6. Ý nghĩa của kiếp không và một số sao khác:



a. Những sao chế giải Kiếp Không hãm địa:

Hãm địa, hai sao này tác họa rất mạnh, dù có gặp sao chế giải, hung họa vẫn tiềm tàng, chỉ giảm bớt được ít nhiều chứ không mất hẳn. Có thể nói Không Kiếp hãm địa làm giảm sự tốt đẹp của cát tinh nhiều hơn là cát tinh làm mất sự hung họa của Kiếp Không.

Về các chính tinh, chỉ có Tử Vi và Thiên Phủ miếu và vượng địa mới có nhiều hiệu lực đối với Kiếp Không.

Về các phụ tinh có: Tuần, Triệt, Thiên Giải và Hóa Khoa là 4 sao tương đối mạnh. Những sao giải khác không đủ sức chế ngự Kiếp Không hãm địa.

b. Những sao làm tăng thêm ác tính của Kiếp Không hãm địa:

Đi với võ tinh hãm địa như Sát, Phá, Liêm, Tham, Kiếp Không càng tác họa mạnh mẽ thêm gấp bội. Những sát tinh hãm địa khác như Kình, Đà, Linh, Hỏa hay Tả, Hữu cũng góp phần gây thêm hiểm họa cho Kiếp Không.



c. Kiếp Không và các sao khác:

- Kiếp Không đắc địa gặp Tướng, Mã, Khoa: thủ Mệnh, là người tài giỏi, lập được sự nghiệp lừng lẫy trong cảnh loạn ly.



- Kiếp Không đắc địa với phi thường cách (Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa, Sát Phá Liêm Tham đắc địa, được sự hội tụ của cát tinh đắc địa như Tả, Hữu, Khôi, Việt, Xương, Khúc, Long, Phượng, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc và của sát tinh đắc địa như Kình, Đà, Không, Kiếp, Hình, Hổ): cách nguyên thủ, đế vương, hội đủ tài đức và vận hội, có cả lương thần và hảo tướng trợ giúp, xây dựng chế độ, để danh tiếng lừng lẫy cho hậu thế.



- Kiếp Không Tử Phủ cùng đắc địa: gặp nhiều bước thăng trầm trong công danh, sự nghiệp, tài lộc. Nếu Tử Phủ bị Tuần, Triệt thì mối hung họa hiểm nghèo, khó tránh.



- Kiếp Không với Kình, Đà, Hỏa, Linh: nếu cùng đắc địa thì phú quý được một thời. Nếu cùng hãm địa thì rất nguy hiểm tính mạng, sự nghiệp, tài danh, suốt đời gặp nhiều chuyện đau lòng. Dù đắc hay hãm địa, cả trai lẫn gái đều khắc vợ, sát phu.



- Không, Kiếp, Đào, Hồng: gặp nhiều nghiệp chướng về ái tình, đau khổ điêu đứng trong tình duyên, phải cưới xin nhiều lần. Riêng phụ nữ, thì bị tai nạn trinh tiết (bị dụ dỗ, lường gạt, mất trinh, thất tiết, hoặc có thể bị hãm hiếp). Người có bộ sao này còn bị yểu mạng, hay mắc bệnh phong tình, phái nữ thì đa phu, hồng nhan bạc mệnh có thể là gái giang hồ, nếu chưa chồng thì rất lang chạ.



- Kiếp, Cơ (hay Hỏa): bị hỏa tai như cháy nhà, bỏng lửa.



- Kiếp Tham đồng cung: bị thủy tai (chết đuối, bị giết dưới nước), nếu không cũng chật vật lang thang độ nhật, dễ sa vào đường tù tội.



- Không (Kiếp), Binh, Hình, Kỵ: gian phi, trộm cướp, du đãng, côn đồ theo nghĩa toàn diện (ăn cắp, khảo của, hiếp dâm, giết người).



- Kiếp, Không, Tử, Tham: cách tu sĩ nhưng vì ảnh hưởng của Kiếp Không nên có thể kẻ tu hành có dịp phá giới, trở lại trần hoàn.



- Kiếp, Phù, Khốc, Khách, Cự, Nhật: biểu hiện cho tai họa, tang khó, đau buồn liên tiếp và chung thân bất hạnh.





7. Ý nghĩa của không kiếp ở các cung:

Hầu hết vị trí của Kiếp Không tại các cung đều có ý nghĩa bất lợi, xấu xa và nặng nề.



a. ở Bào:

- không có anh chị em hoặc anh chị em ly tán

- anh chị em toàn là côn đồ, đĩ điếm

- không nhờ vả được anh chị em mà còn phải bị liên lụy vì họ (vì Kiếp Không bấy giờ giáp Mệnh).



b. ở Phụ:

- cha mẹ mất sớm, chết sớm, chết thảm, bị hình tù, ly cách

- không nhờ vả được cha mẹ mà có khi phải gánh nợ di truyền của cha mẹ để lại



c. ở Phu Thê:

- sát phu, sát thê, góa bụa bất ngờ

- có thể không có gia đình

- nếu có gia đình thì sát hay phải xa cách lâu dài vì tai nạn xảy ra cho 1 trong 2 người

- phải 2, 3 lần lập gia đình, lần nào cũng nhanh chóng.



d. ở Tử:

- không con, hiếm muộn, ít con, phải ở xa con cái

- sát con rất nhiều

- con du đãng, đĩ điếm không nhờ vả được mà còn phải bị di lụy

- con phá sản nghiệp cha mẹ



e. ở Tài:

Nếu đắc địa thì hoạnh phát nhanh chóng một thời nhưng về sau phá sản cũng rất nhanh. Thường thường kiếm tiền bằng những phương cách táo bạo (buôn lậu, ăn cướp, sang đoạt) và ám muội (đầu cơ, oa trữ, buôn bán đồ quốc cấm).

Nếu hãm địa: vô sản, bần nông.



f. ở Di:

- bị chết xa nhà và chết thảm, nhanh chóng

- bị kẻ thù hãm hại (ám sát, phục kích)



g. ở Nô:

- tôi tớ phản chủ, hại chủ, giết chủ

- bạn bè xấu, tham lận, lường gạt

- nhân tình ám hại, bêu xấu, bòn của



i. ở Quan:

- công danh thấp kém, làm ăn rất chật vật

- bị khinh ghét, dèm pha, không thăng tiến

- bị mất chức ít ra một lần

Nếu đắc địa, có bộc phát được một thời nhưng sau cũng tàn lụi hoặc phải lên voi xuống chó.



k. ở Điền:

- nếu đắc địa, có điền sản một dạo nhưng phải mua đi bán lại luôn

- nếu hãm địa, vô sản, bị sang đoạt, bị phá sản, bị tai họa về điền sản (cháy nhà, nhà sập ... ) hoặc sang đoạt, tạo điền sản bằng phương tiện táo bạo, ám muội.



l. ở Phúc:

Trừ phi đắc địa thì được hưởng lộc một thời, Kiếp Không hãm địa chủ sự bất hạnh lớn về nhiều phương diện, dòng họ sa sút, lụn bại, vô lại, cường đạo, sự nghiệp tan tành, tuổi thọ bị chiết giảm, đau ốm triền miên vì một bệnh nan y.



m. ở Hạn:

Nếu đắc địa, sẽ bộc phát tài danh mau lẹ nhưng phải lâm bệnh nặng về phổi, mụn nhọt hoặc phải đi xa.

Nếu hãm địa, rất nhiều tai nguy về mọi mặt:

- bị bệnh nặng về vật chất và tinh thần (lo buồn)

- bị mất chức, đổi chỗ vì kỷ luật

- bị hao tài, mắc lừa, mất của, thất tình

- bị kiện cáo

- bị chết nếu gốc nhị Hạn xấu





8. những đặc lệ của kiếp không ở mệnh:



a. Mệnh vô chính diệu có Tứ hay Tam Không:

Đây là một cách rất tốt về phú quý nhưng vẫn không toàn vẹn, tức là:

- hoặc vất vả mới đạt danh tài

- hoặc thụ hưởng không lâu bền, bộc phát giai đoạn.



b. Mệnh Không, Thân Kiếp: là người khôn ngoan, sắc sảo nhưng trong đời vui ít buồn nhiều, thành bại thất thường, làm việc gì cũng chóng nhưng cũng mau tàn.

Nếu có Đại Tiểu Hao hội họp thì hóa giải được nhiều bất lợi và lập được công danh hiển hách.

Tuy nhiên, nếu có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân ở Mệnh hay Thân thì yểu mạng.



c. Mệnh Kiếp, Thân Không: người khôn ngoan, sắc sảo nhưng bại nhiều, thành ít, chóng lên chóng xuống, thăng trầm bất ngờ, thất thường.

Nếu Mệnh vô chính diệu có Đào Hồng thì yểu mạng, nếu không lúc nhỏ rất vất vả, gian truân. Nếu Mệnh, Thân có Nhật Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tốt đẹp thì đủ ăn đủ mặc.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: SAO ĐỊA KHÔNG - ĐỊA KIẾP TRONG TỬ VI

Tại sao phải có phù dâu trong lễ cưới?

Phù dâu hay còn gọi là dâu phụ là một tập tục có từ xưa trên thế giới, không chỉ riêng Việt Nam.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Người làm phù dâu mang ý nghĩa dẫn dắt cô dâu về nhà chồng, xem như là một người đi cùng quan tâm chăm sóc cho cô dâu mới.

Ở Việt Nam, có phong tục này là vì, người xưa lấy chồng thường là hôn ngân cưỡng ép, kiểu cha mẹ đặt đâu con nằm đấy. Nhiều nơi lại có nạn tảo hôn, thông thường thì "Nữ thập tam nam thập lục", con gái 13 tuổi về nhà chồng chưa biết gì. Do đó cô dâu phải có người dẫn dắt. Người dắt cô dâu gọi là phù dâu.

Ngày xưa phù dâu phải là người cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, có khả năng thuyết phục, bày vẽ cho cô dâu, được cô dâu kính nể, mến phục, được bố mẹ cô dâu ủy thác. Người phù dâu phải là người may mắn, tốt phúc, duyên ưa, phận đẹp, con gái lành mạnh ngoan ngoãn, gia đình êm ấm, đề huề có thể truyền kinh nghiệm làm dâu, làm mẹ, làm vợ cho em, cho cháu mình. Phù dâu nhiều khi còn phải ở lại năm bảy ngày sau để cho cô dâu đỡ buồn và để chỉ bảo kinh nghiệm. Thông thường phù dâu cũng trở lại với dâu rể trong lễ lại mặt.

 tai sao phai co phu dau trong le cuoi? - 1

Người làm phù dâu mang ý nghĩa dẫn dắt cô dâu về nhà chồng, xem như là một người đi cùng quan tâm chăm sóc cho cô dâu mới. (ảnh minh họa)

Ngày nay, phù dâu đã thay bằng những người bạn chứ không còn tập tục như xưa nữa. Nhiều nơi có cả phù dâu, phù rể, có đám mời đến năm sáu đôi phù đâu phù rể toàn là trai thanh, gái lịch, chưa vợ chưa chồng. Có lẽ chủ yếu để cô dâu thêm bạn, chú rể thêm bầu. Hay phải chăng ngày nay chàng rể bẽn lẽn e thẹn hơn xưa, nên phải có người dẫn dắt. Hay đám cưới trước thường sinh ra nhiều đám cưới sau nên phải chăm lo đào tạo những cô dâu, chú rể tương lai.

Tuy vậy, việc này không còn là việc bắt buộc trong những đám cưới nữa. Đó là sở thích của cô dâu, chú rể hoặc gia đình. Có người thì muốn có nhiều phù dâu, phù rể cho vui. Có người lại không cần phù dâu trong đám cưới của mình.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại sao phải có phù dâu trong lễ cưới?

Giải mật câu nói của Tào Tháo khiến Lưu Bị "buông bát, rơi đũa"

Một câu nói đã khiến Lưu Bị run sợ tới mức rơi bát, rơi đũa, sẵn sàng lực lượng tạo phản...

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Giai đoạn Lưu Bị "đào thoát" chạy về dưới trướng Tào Tháo, Bị được Tào đối đãi trọng hậu.

"Tam Quốc Chí - Tiên chủ truyện" có đoạn - "(Lưu Bị ) được phong Tả tướng quân.

Tào Tháo dùng lễ đối đãi, cùng đi cùng về, ngồi ăn cùng mâm".

Trong cuộc "nấu rượu luận anh hùng", Tào Tháo chỉ vào Lưu Bị mà nói - "Anh hùng thiên hạ ngày nay chỉ có Huyền Đức và Tháo ta.

Những kẻ như Bản Sơ (Viên Thiệu) không đáng nhắc tới".

Một câu "tán dương" của Tào Mạnh Đức ngay lập tức đã khiến Lưu Bị kinh sợ đến mức... buông bát, rơi đũa.

Câu thành ngữ Trung Quốc "nhanh như chớp" (Tấn lôi bất cập yểm nhĩ) cũng bắt nguồn từ điển cố này.

Ngày nay, người TQ đều biết thành ngữ nói trên, nhưng rất ít người tìm hiểu nguồn gốc vấn đề, rằng tại sao Tào Tháo lại bất ngờ "ca ngợi" Lưu Bị như vậy?

tào tháo - anh hùng đương thế chỉ có huyền đức và ta.

Tào Tháo - "Anh hùng đương thế chỉ có Huyền Đức và ta".

Hồ sơ "nhiều tỳ vết" của Lưu Bị

Giải thích cho việc Lưu Bị được Tào Tháo tán dương, các nhà nghiên cứu lật lại thời kỳ Bị mới dựng cờ.

Giai đoạn sơ khai, Lưu Bị không có "vốn liếng" về chính trị cũng như quân sự, ngoại trừ cái mác là hậu duệ của Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng.

Lưu Bị không đủ khả năng cát cứ độc lập tại một địa bàn, cho nên đã gia nhập lực lượng "chính quy" của Hán triều để trấn áp khởi nghĩa Hoàng Cân, nhờ đó được phong một số chức quan nhỏ "sống qua ngày".

Tuy nhiên, ngồi trên ghế quan chưa ấm chỗ thì Lưu Bị đã bị triều đình Đông Hán bãi miễn chức vụ "theo quy định".

Nhân vật nhiều tham vọng này buộc phải lựa chọn con đường "đào thoát", tìm cách dựa vào các thế lực quân phiệt để tìm cơ hội phát triển.

Đối tượng đầu tiên mà Lưu Bị nương tựa là Công Tôn Toản. Bị được Toản cho làm Biệt bộ tư mã, huyện lệnh Bình Nguyên; sau thăng làm Bình Nguyên tướng, theo Điền Khải tới Từ Châu cứu viện Đào Khiêm.

Khi xuất phát, Lưu Bị chỉ có hơn 1.000 nhân mã, lại phải dắt díu mấy nghìn dân đói. Được Đào Khiêm cấp cho 4.000 quân, Lưu Bị lập tức "trở cờ", bỏ Điền Khải để nhảy sang phe Đào Khiêm.

Nhờ Đào Khiêm chống lưng, Lưu Bị lấy được chức Thứ sử Dự Châu, thậm chí còn có được "miếng đất cắm dùi" ở Hạ Bì.

Đào Khiêm chính là "bến đỗ thứ 2" của Bị.

Khiêm chết, Lưu Bị theo di chúc nhận chức Châu mục Từ Châu, chỉ qua 1 đêm mà trở thành nhà quân phiệt hùng cứ một phương.

Sau đó, chiến tranh bùng phát giữa 2 thế lực của Lưu Bị và Viên Thuật.

Tướng Thuật là Lữ Bố nhờ Tào Báo làm nội ứng bên phe Lưu Bị mà đoạt được Từ Châu.

Lưu Bị rút khỏi tiền tuyến, nhưng vẫn không thoát khỏi sự truy đuổi của Viên Thuật, đến Hạ Bì lại tiếp tục bị đánh bại, khiến lực lượng tiêu tan.

Bị gom góp tàn binh "quyết chiến một phen" với Thuật, song vẫn chuốc lấy thất bại.

Rơi vào tình thế "lưỡng đầu thọ địch", Lưu Bị đành phải ngồi lại đàm phán với Lữ Bố. Bố chính là thế lực thứ 3 mà Lưu Bị "nương nhờ".

Giai đoạn "luồn cúi" ở cạnh Lữ Bố, Bị tranh thủ chỉnh đốn lực lượng, được hơn 10.000 binh mã thì bắt đầu có ý định "Đông Sơn tái khởi".

Tuy nhiên, ý đồ của Lưu Bị bị phát giác, khiến chiến sự nổ ra giữa Bị và Lữ Bố. Đương nhiên, Lưu Bị ở vào thế yếu, và đây là lúc ông tìm đến với "bến đỗ thứ 4" của mình - Tào Tháo.

Lưu Bị lập được không ít công lao cho sự nghiệp của Tào Ngụy.

Tào Tháo dẫn quân phối hợp cùng Lưu Bị vây công Lữ Bố ở Hạ Bì, diễn xuất sắc màn kịch "Bạch Môn lầu trảm Lữ Bố".

lưu bị có nhiều thành tích bất hảo khi năm lần bảy lượt đổi phe.

Lưu Bị có nhiều thành tích "bất hảo" khi năm lần bảy lượt đổi phe.

Là khen ngợi hay cảnh cáo?

Lịch sử "lừa lọc" của Lưu Bị đối với Công Tôn Toản, Điền Khải, Lữ Bố... chính là những biểu hiện rõ rệt nhất để Tào Tháo nhìn nhận về Bị trong bối cảnh xã hội đương thời.

Tào Tháo là nhân vật "có con mắt nhìn người tinh tế", chắc chắn đã có sự đề phòng khả năng Lưu Bị "bổn cũ soạn lại".

Việc Tào Tháo phong Bị làm tướng quân, luôn đồng hành cạnh mình, được cho là thực hiện chính xác theo quan điểm "giữ kẻ thù ở gần bên mình".

Màn kịch "nấu rượu luận anh hùng" mà Tào Tháo "diễn" trước Lưu Bị, cũng không ngoài toan tính của Tào.

Sử liệu Trung Quốc cũng như những người đọc Tam Quốc đều rõ, Lưu Bị "trong lòng có quỷ", cho nên mới có việc Bị thất kinh mà "rơi bát, rơi đũa".

Thực tế, dụng ý của Tào Tháo là gì khi "khen" Lưu Bị mới chính là vấn đề được các nhà nghiên cứu tranh luận hàng nghìn năm nay.

Nhiều ý kiến nhất trí rằng, Tào Tháo đặt Lưu Bị "ngang vai" với mình, đương nhiên không phải vì Tào thực sự tán thưởng tài "văn thao võ lược" của Bị, lại càng không phải đánh giá cao thực lực của Bị.

Tất nhiên, không thể phủ định tinh thần kiên trì bền bỉ của Lưu Bị, cũng như tài năng "giao tiếp xã hội" cao siêu đến mức đủ khiến hàng loạt danh tướng nguyện hy sinh vì mình.

Bản lĩnh này của Lưu Bị, trong lịch sử cũng được đánh giá là hiếm gặp, thậm chí còn là "phẩm chất không thể thiếu của chính trị gia".

Việc Tào Tháo không để Viên Thiệu trong mắt mà đề cao Lưu Bị, cho thấy nhiều khả năng Tào cũng đánh giá Bị cao nhất ở 2 điểm trên.

Nhiều học giả cho rằng, Tào Tháo đã có nhận thức đầy đủ và toàn diện về Lưu Bị, vì vậy mới có một câu "tán dương", mà thực chất chính là lời cảnh cáo rõ ràng, yêu cầu Bị "hãy biết điều, đừng nên làm bừa".

có thực tào tháo xem lưu bị là anh hùng?

Tào Tháo xem Lưu Bị là "anh hùng", hay chỉ là kẻ sẵn sàng trở mặt?

Đả thảo kinh xà - Lưu Bị "phản thùng"

Chiến thuật tâm lý của Tào Tháo lại dẫn tới kết quả đi ngược lại suy tính của Tào, đó là khiến cho Lưu Bị... đẩy nhanh kế hoạch tạo phản.

Kế sách "nằm gai nếm mật" bị vạch trần khiến Lưu Bị nhận thấy cơ hội dưỡng binh phát triển đã tiêu tan, trong khi nguy cơ bị thanh trừng đã xuất hiện trước mắt.

Đổng Thừa từng "bắt mối" với Lưu Bị để mưu sát Tào Tháo, nhưng Lưu Bị không theo vì tuân thủ chiến lược "nhẫn nhịn ẩn mình". Nhưng Bị cũng không báo với Tào, cho thấy ông vẫn có ý định "bắt cá hai tay".

Đến khi âm mưu bị lộ, Lưu Bị mới dứt khoát... đổi phe - "(Lưu Bị) cùng Đổng Thừa, Trường Thủy hiệu úy Chủng Tập, tướng quân Ngô Tử Lan, Vương Tử Phục... đồng mưu, hòng giết Tào Tháo".

Tuy nhiên, kế hoạch bị bại lộ, Đổng Thừa bị giết cả tộc. Lưu Bị mặc dù chưa bị lộ, nhưng cũng ở vào tình thế hiểm nghèo, và mong thoát khỏi phạm vi kiểm soát của Tào Tháo càng nhanh càng tốt.

Thời điểm này, chiến dịch Quan Độ đang tiếp diễn. Tào Tháo đối đầu với Viên Thiệu trong tình trạng lấy ít địch nhiều.

Trong khi đó, kế hoạch xưng đế ở Dương Châu của Viên Thuật bị thất bại, khiến Thuật phải chạy về nương nhờ Viên Thiệu. Cánh quân của Thuật phải vượt qua địa bàn Hạ Bì do lực lượng Tào Tháo kiểm soát.

Trước tình thế đó, Tào Tháo buộc phải cử Lưu Bị cùng Chu Linh, Lộ Chiêu lĩnh binh ngăn chặn.

Nhưng, động thái này của Tào Tháo đã đi ngược với tính toán ban đầu của ông là giữ Lưu Bị trong tầm kiểm soát.

Các nhà nghiên cứu cho rằng, không nhiều khả năng Tào Tháo cố ý đưa ra quyết định như vậy, mà có thể cục diện cấp bách đã buộc Tào phải điều động đến Lưu Bị, từ đó cho Bị cơ hội ngàn năm có một để "phản thùng".

Đến khi đám Trình Dục, Quách Gia biết tin Tào Tháo điều động Lưu Bị, nói với Tào rằng - "Không thể để Lưu Bị lại", thì Tào đã hối hận không kịp.

Lúc này, Lưu Bị đã thoát khỏi Tào doanh, một đi không trở lại.

theo Trí Thức Trẻ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải mật câu nói của Tào Tháo khiến Lưu Bị "buông bát, rơi đũa"

6 con giáp số giàu sang thiên bẩm

Những cái tên được lọt vào danh sách này là Tý, Sửu, Dần, Thìn...
6 con giáp số giàu sang thiên bẩm

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tuổi Tý

Người tuổi Tý thông minh lanh lợi, có khả năng thích ứng với môi trường tốt. Họ luôn lạc quan, vui tính nên đường đời gặp nhiều may mắn, có quý nhân phù trợ, đi đâu cũng được mọi người yêu mến.

tuoi-ty-4632-1406244354.jpg

Ngoài ra, con giáp này khá nhạy bén về chuyện tiền bạc. Họ biết nỗ lực bằng chính sức mình để đạt được tham vọng lớn lao về cuộc sống giàu sang, phú quý. 

Tuổi Sửu

Người sinh năm Sửu thường có sức chịu đựng bền bỉ, kiên trì đến cùng. Bình thường họ không thích nói chuyện khoa trương mà trầm tư như đang suy tính chuyện gì vô cùng quan trọng. Do vậy, rất khó nắm bắt được suy nghĩ của con giáp này. Người tuổi Sửu còn tỏ ra chín chắn, sẵn sàng chịu khổ để đạt được điều mình mong muốn.

suu-2448-1406244354.jpg

Tuy nhiên, phải trải qua nhiều trắc trở, người tuổi Sửu mới nhận ra khả năng của mình và áp dụng triệt để. Họ còn rất giỏi trong việc tích lũy, thực hiện tiết kiệm để có cuộc sống sung túc. Thường thì đến trung vận, người tuổi Sửu sẽ rất giàu có.

Tuổi Dần

Vốn phóng khoáng và có năng lực thực thụ, cộng với mối quan hệ rộng, nên người tuổi Dần dễ gặt hái được thành công. Đặc biệt, đến trung vận sự nghiệp của họ sẽ lên như diều gặp gió, mang lại nhiều tài lộc. 

dan-3122-1406244354.jpg

Có điều, tính khí người tuổi Dần nông nổi, dễ cáu giận. Nếu biết tiết chế tính cách này, con đường tới vinh hoa phú quý của họ sẽ thêm rộng mở.

Tuổi Thìn

Tuổi Thìn có bản lĩnh hơn người, phân biệt thiện ác rõ ràng và cách thức thực hiện mọi việc đâu ra đó, không làm tổn hại đến lợi ích của bất kỳ ai.

thin-5754-1406244354.jpg

Tuy nhiên, vì đôi lúc quá tự tin thành ra tự kiêu, làm bản thân người tuổi Thìn "mất điểm" trong  mắt mọi người xung quanh, cản trở con đường tài lộc của chính mình. Chỉ cần sửa được nhược điểm này này, tài vận của người tuổi Thìn càng tăng lên theo cấp số nhân.

Tuổi Ngọ

Là người có tính cách thẳng thắn, liêm khiết, chân thành, người tuổi Ngọ dễ dàng tạo dựng được rất nhiều mối quan hệ xã giao có ích cho sự nghiệp và tài đồ của họ. 

ngo-8876-1406244354.jpg

Tuy vậy, trước mắt họ cần có sự trợ giúp từ người thân và bạn bè để tìm cơ hội tiến hành đầu tư, kinh doanh thu lợi nhuận. Thường ngày họ cũng biết cách chi tiêu và tích lũy nên có nhiều cơ hội phấn đấu để cuộc sống đủ đầy.

Tuổi Dậu

Người tuổi Dậu có năng lực phán đoán và phân tích vấn đề khá giỏi, lại có biệt tài ăn nói và tạo dựng các mối quan hệ có lợi cho sự phát triển về tiền đồ và địa vị của bản thân. 

a69d5bb2-b388-41d9-9901-d08db6-6533-4364

Bản thân người tuổi Dậu cũng đặt ra những yêu cầu, quy tắc, chuẩn mực khá cao để bản thân luôn trong trạng thái phấn đấu không mệt mỏi. Vì lẽ đó, đời sống vật chất của họ khá dư giả, thậm chí có thể nói là giàu sang, phú quý.

Mr.Bull

iq-9714-1406253696.jpg

Xếp hạng IQ của 12 con giáp

Chỉ số IQ cao nhất giúp người tuổi Tỵ được vinh danh vị trí đầu bảng, đứng cuối cùng là người tuổi... Tuất ^^.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 6 con giáp số giàu sang thiên bẩm

Đàn ông có tướng mặt này, phúc mỏng vận xui

Đàn ông có đôi mắt mà ánh nhìn bất định, liếc ngang liếc dọc hoặc nhìn mà như không nhìn, vô thần thì phúc khí mỏng, vận khí cuộc đời ảm đạm. Người này thiếu tự tin hoặc quá dễ dãi, dễ bị người khác gây ảnh hưởng, thậm chí lừa gạt. Cuộc sống một đời nghèo khó, vất vả.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Ánh nhìn bất định, vô thần   Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, phản ánh phần nào nét đẹp nội tâm cũng như trí tuệ. Người có tướng mắt tinh anh, ánh nhìn sắc sảo luôn chủ động trong mọi việc, cơ hội gặt hái thành công không ít.   Ngược lại, đàn ông có đôi mắt mà ánh nhìn bất định, liếc ngang liếc dọc hoặc nhìn mà như không nhìn, vô thần thì phúc khí mỏng, vận khí cuộc đời ảm đạm. Người này thiếu tự tin hoặc quá dễ dãi, dễ bị người khác gây ảnh hưởng, thậm chí lừa gạt. Cuộc sống một đời nghèo khó, vất vả.  

Bat thop tuong mat dan ong phuc phan mong hinh anh
 
2. Ấn Đường thấp, hai lông mày giao nhau   Ấn Đường nằm ở vị trí giữa hai đầu lông mày, còn được gọi là cung Mệnh trong 12 cung tướng mặt. Ấn Đường rộng khoảng 2 ngón tay được coi là quý, là đẹp.   Trường hợp Ấn Đường quá thấp, chủ nhân dễ hút vận tiểu nhân, vướng vào họa khẩu thiệt thị phi. Nếu có thêm đặc điểm hai lông mày giao nhau, vận thế cả đời bất thuận, phúc phận mỏng, cuộc đời khốn khó.  
3. Thiên Đình lồi lõm không bằng phẳng
  Xem tướng đàn ông, thiên Đình chỉ vị trí trước trán, là phần ở ngay phía trên Ấn Đường. Bộ phận này lồi lõm không bằng phẳng, nghiêng vẹo khuyết hãm, cộng thêm nếp nhăn trán loạn, cho thấy cuộc sống chủ nhân vất vả, bôn ba khắp nơi để cầu tài mà chưa chắc đã thành công. Đây cũng là đặc điểm thường thấy ở tướng mặt đàn ông phúc phận mỏng, cuộc đời thăng trầm bất định.  
Bat thop tuong mat dan ong phuc phan mong hinh anh
 
4. Huyệt Thái Dương thấp lõm   Huyệt Thái Dương chính là vị trí cung Phu Thê, nằm cạnh 2 đuôi mắt. Nếu huyệt vị này đầy đặn thì tài phúc vẹn toàn, cuộc sống giàu có cả về vật chất và tinh thần. Ngược lại, huyệt Thái Dương thấp lõm thì công danh sự nghiệp trắc trở, thiếu may mắn trong cuộc sống, tài lộc đến rồi lại đi, khó tụ.  
5. Sơn Căn đứt đoạn, sống mũi xiên vẹo
  Sơn Căn là vị trí ở giữa hai phần mắt, vùng dưới Ấn Đường (khoảng cách giữa hai mắt) và là nơi cao nhất trên sống mũi.    Nếu Sơn Căn đứt đoạn, thấp lõm, nữ giới khắc phu, nam giới khắc vợ, tài lộc ảm đạm, phúc khí không nhiều. Nếu thêm đặc điểm sống mũi xiên vẹo, không thẳng, chủ nhân còn bị vận phá tài đeo đuổi.   6. Nhân trung bằng phẳng, mũi hếch   Nhân Trung là phần ngấn rãnh môi trên thẳng từ mũi xuống. Phần này quá bằng phẳng chứng tỏ vận khí cuộc đời chủ nhân bất thuận, khắc vợ/chồng hoặc con cái.    Nếu có thêm đặc điểm mũi hếch, chứng tỏ người này cả đời khó tích tiền bạc, kiếm bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, tiền đến rồi lại đội nón ra đi.    Việt Hoàng
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đàn ông có tướng mặt này, phúc mỏng vận xui

Ý nghĩa phong thủy của cây lộc vừng –

Lộc vừng có tên khoa học: Barringtoria Acutangula Gaertn – Barrtngtonia Ocutangulag. Còn gọi là cây Mưng, nằm trong bộ tam đa sinh vật cảnh (Vạn tuế ứng với thọ, Lộc vừng ứng với lộc và Sung ứng với sự sung túc) rất được ưa chuộng, ngày càng có mặt ở

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhiều khu hệ sinh vật cảnh từ gia đình tới cơ quan, công sở…

110214124429

Theo phong thuỷ, cây Lộc vừng còn là loại cây mang lại sự may mắn về Tài lộc. Vì vậy, loại cây này rất thích hợp để làm quà biếu tặng…

Lộc vừng là một loại cây cảnh rất đẹp và nhiều ý nghĩa .

Theo cha ông xưa thì Lộc ứng với Tài lộc – Vừng ngụ ý là nhỏ nhặt nhưng nhiều, thêm hoa của cây màu đỏ và rất đẹp mang lại ý nghĩa là sự thịnh vượng , phát lộc như vừng (mè ) nhỏ nhưng thật đẹp và rất nhiều .

Nó mang lại cảm giác bình yên , an toàn cho sự phát triển kinh tế .

Chính vì lẽ đó cây Lộc vừng hiện nay đang rất được ưa thích

Lộc vừng thân gốc lưu niên, có tuổi thọ hàng trăm năm, lộc tía, hoa đỏ có đỉnh sinh sản vô định thõng dài tha thướt…, dễ tạo dáng thế.

Trong điều kiện tự nhiên, vùng phân bố của cây này ở thượng nguồn sông Mã, sông Cả, sống ven bờ nước (bản thuỷ sinh), di thực về miền đồng bằng.

Tuy nhiên việc nhân giống rất dễ dàng bằng cả hai con đường vô tính: Giâm vào thu đông, chiết vào xuân hạ và hữu tính: Gieo quả đã chín cây (chín sinh lý) chuyển thành màu đỏ.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Ý nghĩa phong thủy của cây lộc vừng –

Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được, thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp.
Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình.  Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu không gián đoạn, hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm.

Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay.  Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dáng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.

Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Cư sĩ Bùi Dư Long dịch.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phương Pháp Tu Phúc Tích Đức cải tạo vận mệnh

Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Cửa chính trong phòng thủy có ảnh hưởng quan trọng trên nhiều phương diện. Vì thế, phong thủy cửa chính ảnh hưởng tới hôn nhân là điều đương nhiên.
Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Cửa chính trong phòng thủy có ảnh hưởng quan trọng tới mọi thành viên trong gia đình trên nhiều phương diện như sự nghiệp, tài lộc, nhân duyên. Vì thế, phong thủy cửa chính ảnh hưởng tới hôn nhân là điều đương nhiên.


Nhung loi phong thuy cua chinh khien hon nhan song gio hinh anh
 
Lỗi phong thủy cửa chính ảnh hưởng hôn nhân đầu tiên mà hầu như ai cũng biết là giường ngủ đối diện cửa. Trường hợp này sẽ mang tới họa đào hoa, xuất hiện người thứ ba chia rẽ tình cảm vợ chồng hoặc mối quan hệ hôn nhân có vấn đề khó giải quyết.   Cổng nhà chủ bên ngoài, cửa phòng chủ bên trong, những nơi riêng tư trong nhà như phòng ngủ của vợ chồng cần được giữ bí mật, không nên lộ ra ngoài. Nếu cửa chính và cửa phòng ngủ thông thẳng với nhau thì có thể mang tới những điều không hay trong cuộc sống vợ chồng.  Có câu rằng: “Tài không thể lộ, lộ ra tất thất tài”, giường ngủ cũng vậy, không nên để lộ ra ngoài, lộ ra nhất định sinh tình biến. Bước vào nhà đã nhìn thấy giường ngủ hoặc cửa chính thông thẳng với cửa phòng ngủ gây lộ giường thì vợ chồng bất an, đào hoa bên ngoài nở rộ, nhất định ảnh hưởng xấu tới tình cảm.

 
5 mẹo phong thủy đơn giản giúp hôn nhân viên mãn
Những mẹo phong thủy giúp hôn nhân hạnh phúc dưới đây sẽ phần nào chỉ ra cho bạn những việc cần làm trước, trong và sau khi kết hôn để có cuộc sống vui vẻ.

Trong phong thủy nhà ở, cửa chính đối hướng với cửa phòng ngủ của vợ chồng vừa ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe vừa gây rạn nứt tình cảm. Cửa chính là nơi hút năng lượng cho căn nhà, mà đối hướng với phòng ngủ thì khí xông thẳng hướng gia chủ khiến nội khí hỗ loạn, dễ cáu gắt, tâm tình bất ổn, vợ chồng thiếu hòa hợp.   Để hóa giải lỗi phong thủy cửa chính này, có thể bố trí một vài đồ vật ở cửa như đồ gốm sứ hình tròn, sản phẩm chế tác từ gỗ hay dùng bình phong ngăn cách cửa chính và cửa phòng ngủ để chắn khí. Nếu không gian cửa nhỏ, không thích hợp bài trí như trên thì chỉ nên mở một cánh cửa ra vào, cánh còn lại nên đóng. Ngoài ra, ở cửa phòng ngủ treo thất tinh đào mộc bình an cũng có thể hóa sát, giảm khí trường chiếu từ cửa chính vào.
Nhung loi phong thuy cua chinh khien hon nhan song gio hinh anh
 
Cửa chính trong phong thủy có quan hệ mật thiết với gia vận, vận trình hôn nhân của người trong nhà. Vì thế, khi xây dựng hoặc bố trí nhà cửa phải hết sức chú ý, điều chỉnh cho phù hợp thì mọi chuyện mới thuận buồm xuôi gió. 
 
  Trình Trình
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những lỗi phong thủy cửa chính khiến hôn nhân sóng gió

Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Xem bói tử vi 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu: công danh, sự nghiệp, tình duyên, tài lộc, vận hạn...diễn biến như thế nào? Cùng Lịch ngày Tốt tìm hiểu
Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

nhé!


Tháng Giêng - Giáp Dần


Thiên can: Giáp Mộc
Địa chi: Dần Mộc
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương hại
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu không tốt. Địa chi tương phá, mối quan hệ giao tiếp của bạn không tốt, dễ bị người xấu hãm hại và phá tài. Lời khuyên cho bạn là lên giữ mình, kiềm chế bản thân. Đời sống tình cảm không tốt, dễ phát sinh biến cố.
Phương vị tốt trong tháng: Tây, Nam
Màu sắc may mắn: Trắng, vàng

Tháng Hai - Ất Mão


Thiên can: Ất  Mộc
Địa chi : Mão Mộc
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương sinh, địa chi tương sinh
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu tốt. Sự  nghiệp, công việc bước vào giai đoạn phát triển, tài vận cũng thu được những khoản đáng kể. Tuy nhiên, lưu ý người đã có gia đình thận trọng trong quan hệ với người khác giới, tránh rơi vào cảnh dẫn lửa thiêu thân. Người chưa kết hôn dễ tìm được lương duyên, nhưng vẫn cần cân nhắc tình cảm của đối phương. Về sức khỏe, đề phòng bất trắc, phá tài do sức khỏe.
Phương vị tốt trong tháng: Chính Đông, Tây Nam
Màu sắc may mắn: Lục, vàng


 

tuoi ty (11)
 


Tháng Ba – Bính Thìn


Thiên can: Bính Hỏa
Địa chi: Thìn Thổ
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu bất lợi, gặp nhiều khó khăn đặc biệt, dễ gặp họa thương thân tổn tài. Đời sống tình cảm cũng gặp nhiều cản trở, dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đột. Người đơn thân hỷ sự khó thành. Quan vận tháng này bất lợi, công việc áp lực gia tăng, làm nhiều mà hưởng ít. Sức khỏe tháng này cũng không tốt.
Phương vị tốt trong tháng: Bắc, Tây
Màu sắc may mắn: Đen, vàng

Tháng Tư – Đinh Tỵ


Thiên can: Đinh Hỏa
Địa chi: Tị Hỏa
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi ngang vai
Tháng này vận thế của người tuổi Sửu có phần thuận lợi. Tỵ Sửu tương hợp, công việc, sự nghiệp nhờ đó có được sự phát triển tốt; tài vận có bước chuyển biến khả quan, là thời cơ để đầu tư làm ăn, lập nghiệp. Đời sống tình cảm vận đào hoa vượng, dễ đi đến hon nhân, tình cảm lứa đôi ổn định. Chú ý an toàn giao thông.
Phương vị may mắn: Chính Tây, Đông Bắc
Màu sắc  may mắn: Trắng, vàng

 

Tháng Năm – Mậu Ngọ


Thiên can: Mậu Thổ
Địa chi: Ngọ Hỏa
Đặc trưng: Âm dương quân bình
Vận Thái tuế: Thiên can tương hợp, đại chi kiếp phá
Tháng này, vận thế của người tuổi Sửu cát hung lẫn lộn, khó phân biệt. Tuy nhiên chỉ cần an thân thủ kỷ, chuyên tâm làm việc sẽ có thể vượt qua khó khăn. Tháng này Ngọ Sửu tương hại, cần chú ý đề phòng tiểu nhập làm hại hoặc họa phá tài, hành sự thận trọng. Đời sống tình cảm: đào hoa vượng nhưng lại chứa đựng nhiều rắc rối tốt xấu đan xem, bất ổn.
Phương vị may mắn: Chính Nam, Tây
Màu may mắn: Hồng, trắng

Tháng Sáu – Kỷ Mùi


Thiên can: Kỷ Thổ
Địa chi: Mùi Thổ
Đặc trưng: Âm khí vượng
Vận Thái tuế: Thiên can tương khắc, địa chi tương sinh
Tháng này Sửu Mùi tương xung, vận thế của bạn bất lợi. Chính tài không thông, không phải là thời gian tốt để tiến hành việc đầu tư làm ăn lập nghiệp. Đời sống tình cảm gặp nhiều mâu thuẫn, người đơn thân khó có cơ hội tìm được duyên lành hoặc có sự biến về tình cảm. Cần có gắng tu thân dưỡng tính, chủ động vượt qua giai đoạn khó khăn. Trong giao tiếp xã hội cần thận trọng, tránh những khúc mắc và kẻ xấu.
Phương vị may mắn: Tây Nam, chính Đông
Màu sắc may mắn: Vàng, lục

(Theo Jixiangwu)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem bói tử vi tháng 6 tháng đầu năm 2015 của người tuổi Sửu

Phong thủy thẩm mỹ theo tử vi để cải thiện vận thế

Theo các chuyên gia, ngoài dựa theo sở thích, phẩu thuật thẩm mỹ theo tử vi cũng nên được các gia chủ xem xét, cải thiện vận thế.
Phong thủy thẩm mỹ theo tử vi để cải thiện vận thế

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Theo các chuyên gia, ngoài dựa theo sở thích, phẩu thuật thẩm mỹ theo tử vi cũng nên được các gia chủ xem xét, không những nâng cao vẻ đẹp mà còn cải thiện vận thế.


phau thuat tham my theo tu vi hinh anh
 
Cùng với sự phát triển của ngành công nghiệp phẫu thuật thẩm mỹ, nhiều người có xu hướng tìm đến các thẩm mỹ viện để sử hữu khuôn mặt hoặc thân hình hoàn hảo hơn. Phẫu thuật có thể trợ giúp con người trong sự nghiệp, hôn nhân, sức khỏe, tuy nhiên cũng có thể làm giảm vận thế của họ. Phẫu thuật thẩm mỹ theo tử vi rất quan trọng do mỗi bộ phận của cơ thể người có mối quan hệ rất lớn đối với bát tự và Ngũ hành của gia chủ.

Ngũ hành Hỏa yếu: thích hợp cắt mí; xóa bớt, chàm và tàn nhang   Người có Ngũ hành Hỏa yếu do tính Hỏa không đủ nên tích cách đa phần là trầm lặng, không cởi mở, có nhiều tâm sự. Xem xét từ diện mạo và thể tạng, Hỏa đại diện cho mắt, vậy nên việc cắt mí mắt có thể làm thịnh Hỏa tính trong Bát tự mệnh cục của người đó, cải thiện vận thế. Trong khi đó, tàn nhanh, bớt, chàm là Thổ tính, làm tiêu tan tác dụng của Hỏa, vậy nên việc xóa bớt, chàm và tàng nhang sẽ khắc chế sự việc trên.
Lướt nhìn bàn tay, đoán trúng mùa vượng tài lộc nhất trong năm
– Muốn biết tài vận trong mùa hè có vượng hay không, chỉ cần quan sát phần phía dưới ngón tay trỏ và ngón giữa là thấy ngay.
Ngũ hành Thổ yếu: thích hợp nâng mũi, năng ngực   Tài vận của mỗi người và nhân tố Thổ trong Bát tự có mối liên hệ chặt chẽ. Trong nhân tướng học, mũi chính là Tài kho, người sở hữu chiếc mũi nhỏ có tài vận tương đối kém, thông  qua việc sửa mũi có thể nâng cao vận thể của gia chủ, bổ sung nguyên tố Thổ. Ngực chính là Cấn, là Thổ mạnh trong quẻ. Người có ngực lép thường có Thổ yếu, vậy nên việc nâng ngực cũng có thể tăng năng lượng Thổ cho thể tướng.
phau thuat tham my theo tu vi hinh anh 2
 
Ngũ hành Kim yếu: thích hợp làm trắng, xóa bớt chàm, tàn nhang, giảm cân
  Màu sắc da người và Kim luôn có tác động lẫn nhau, trong bát tự, người sinh vào mùa xuân thường có nguyên tố Kim yếu, việc làm sáng da có tác dụng lớn đến sự gia tăng của Kim. Bên cạnh đó, giảm cân có thể khống chế nhân tố Thổ, từ dó có tác dụng làm rõ nhân tố Kim.
Ngũ hành Mộc yếu: thích hợp gọt mặt, nuôi tóc   Năng lượng của nhân tố Mộc trong Ngũ hành có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của gan, ruột và túi mật. Điều cần đặc biệt chú ý là, người có Ngũ hành Mộc yếu có thể gọt mặt, nuôi tóc, bởi lẽ theo quan điểm của người phương Đông, khuôn mặt và vận thế có mối quan hệ mật thiết, việc điều chỉnh xương gò má làm gia tăng nhân tố Thổ. Ngoài ra, tóc đại diện cho hành Thổ, tăng độ dài của tóc cũng sẽ đem lại hiệu quả tốt.
phau thuat tham my theo tu vi hinh anh 3
 
Ngũ hành Thủy yếu: thích hợp sửa dáng tai, đường viền môi
  Người sinh vào mùa hè thường có nhân tố Thủy yếu, vậy nên cần gia tăng năng lượng của hành Thủy, đồng thời cải thiện sức khỏe và tình cảm. Trong thân thể của con người, đại diện cho Thủy chính là tai và môi là bộ phận để giúp uống nước, thay đổi kích thước của thùy tai, điều chính đường viền môi sẽ nạp thêm năng lượng Thủy cho cơ thể.
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh

Chi Nguyễn

Xem Clip để hiểu rõ nhân quả của Lòng ganh tỵ


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy thẩm mỹ theo tử vi để cải thiện vận thế

Chọn tủ bếp thế nào cho hợp lý(phần 2) –

(3) Điểm quan trọng khi chọn tủ bếp - Chọn bề mặt bàn bếp. Vật liệu làm mặt tủ bếp có rất nhiều, hiện nay trên thị trường có hàng chục loại khác nhau, vì vậy khi chọn không thể chỉ dựa vào hình thức bên ngoài và giá cả, phải xem xét đến tính thực dụn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

(3) Điểm quan trọng khi chọn tủ bếp

– Chọn bề mặt bàn bếp.

Vật liệu làm mặt tủ bếp có rất nhiều, hiện nay trên thị trường có hàng chục loại khác nhau, vì vậy khi chọn không thể chỉ dựa vào hình thức bên ngoài và giá cả, phải xem xét đến tính thực dụng của nó, nên có sự hiểu biết về các loại vật liệu làm ra nó.

86d59cefd515f30d13cf03ffd5971ca9_fb32c

– Chọn vật liệu như thế nào?

Chúng ta có thể thấy rất nhiều loại tủ bếp trên thị trường, giá của chúng có sự chênh lệch đáng kể. Vậy thì làm thế nào để phán đoán được tủ bếp tốt? Chủ yếu phải dựa vào tính bảo vệ môi trường của vật liệu, độ kín khít giữa các tấm vật liệu, các phối kiện bằng kim loại của tủ.

– Những điểm quan trọng khi chọn mua các phối kiện kim loại của tủ.

Các phôi kiện kim loại được chia làm hai loại lớn theo chức năng và yêu cầu trang trí. Môi trường bếp ẩm ướt, nhiều khói, kim loại chọn dùng phải qua kiểm nghiệm, chọn loại không dễ bị ăn mòn, han gỉ, đứt, gẫy. Phối kiện kim loại của tủ bếp có một số chức năng quan trọng như gắn nối linh kiện, làm bản lề, làm ray trượt. Trong đó, chức năng làm bản lề là loại cần phải được khảo nghiệm nhất, nó không những có tác dụng gắn chắc cánh cửa tủ với thân tủ mà còn độc lập chịu trọng lượng của cánh cửa. Ngoài ra, ray trượt ngăn kéo cũng không được xem nhẹ, nó đỡ toàn bộ trọng lượng ngăn kéo, chỉ có ray trượt có chất lượng tốt thì khi sứ dụng ngăn kéo mới không bị mất lực. Cho nên khi chọn các phối kiện kim loại nhất định phải quan tâm đến chất lượng.

(3) Tránh ngộ nhận khi chọn tủ bếp

– Tấm chống cháy không phải là vật chống được lửa hoàn toàn

Rất nhiều người cho rằng tấm chống cháy là thứ không thể cháy được. Trên thực tế, đây chỉ là một cách gọi mà thôi, kì thực, gọi là “tâm chịu lửa” có lẽ sẽ chính xác hơn. Bề mặt tấm này được phủ một lớp melamine, nguyên liệu này chỉ có thể chống cháy tạm thời do rang, nướng chứ không mang đầy đủ ý nghĩa chống lửa. Thông thường, thời gian chịu lửa của tâm vật liệu chống cháy này đạt từ 35 đến 40 giây, trong phạm vi thời gian này, nó không bị cháy, chỉ làm cho dầu mỡ bị đen và có thể cọ sạch được; nhưng nếu thời gian quá lâu sẽ xuất hiện hiện tượng các bon hoá, hoặc nguyên liệu bên trong bị cháy. Căn cứ vào đặc điểm này, cho thấy thời gian chịu lửa càng lâu, chất liệu tâm chống cháy càng tốt.
Trong quá trình thực tế sử dụng, nhiều người không hiểu tình trạng này, cứ để tâm chống cháy ở nhiệt độ cao trong thời gian dài, như vậy rất dễ có hiện tượng biến dạng và các bon hoá.

– Chống ẩm không có nghĩa ỉà chống được nước hoàn toàn

Trong quá trình thực tế sử dụng tủ bếp, có người cho rằng tâm chống ẩm có thể hoàn toàn chống được nước, thực tế thì quan niệm này hoàn toàn thiếu chính xác. Tấm chống ấm chỉ là tấm vật liệu bình thường được gia công thêm một lớp chất chống ẩm mặt ngoài mà thôi, tâm này hút hơi ẩm trong không khí nhưng nếu ngâm nó trong nước lâu nó có thể trương nở, dẫn đến bề mặt bị vỡ, làm giám tuổi thọ của tủ. Cho nên trong thực tế sử dụng phải cố giữ cho tủ luôn khô ráo, lau khô ngay những chỗ có nước, tránh để tủ bị thấm nước sinh biến dạng.

– Không nóng vội trong lắp đặt tủ bếp

Lắp đặt tủ bếp phải căn cứ vào kích thước phòng bếp, thường thì phải cân nhắc đến việc đo kích thước, cần hoàn tất việc này trước khi tiến hành chỉnh sửa bếp. Cho nên nếu cần chọn một chiếc tủ bếp hoàn chỉnh thì phải thiết kế nó trước khi sửa bếp, dự liệu trước đường dây điện nguồn, công tắc và đường ống nước v.v… Đo lần đcầu dựa vào mốc tường và nền bếp, lần thứ hai đo lại khi đã hoàn thành việc cải tạo bếp, tiếp theo căn cứ vào số đo chi tiết cuối cùng đế làm tủ, giữa việc lắp đặt và mua tủ cần có một khoảng thời gian nhất định, tránh bị thúc ép về thời gian dẫn đến sai kích thước hoặc lắp đặt không được chu đáo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chọn tủ bếp thế nào cho hợp lý(phần 2) –

Cách quý: Những sao làm Quan

1. Các chính tinh có nghĩa quan lộc trực tiếp: Tử Vi: Tử Vi đắc địa ở cung Quan có nghĩa quyền quý. Tử Vi chỉ người có dịp chỉ huy, điều khiển, giữ những chức vụ quan trọng trong công quyền, có nhiều thuộc hạ cao cấpl có tài lãnh đạo, có bản lãnh chế phục người khác. Ngôi thứ quan lộc cao thấp tùy thuộc vị trí miếu địa hay đắc địa: càng đắc địa thì ngạch trật càng cao. Nếu Tử Vi được nhiều quyền tinh, dũng tinh đi kèm thì chức quyền càng lớn, có nhiều thuộc hạ đông đảo trợ lực. Nếu thiếu trợ tinh, Tử Vi chỉ loại viên chức hay sĩ quan cao cấp làm việc tham mưu, phục vụ trong ngành chuyên môn, ít có dịp cầm quyền, cầm quân, hoặc nếu có, thì chỉ điều khiển một số thuộc hạ giới hạn và thời gian chỉ huy không lâu.
Cách quý: Những sao làm Quan

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thái Dương: Nam số có Thái Dương sáng sủa ở Quan lộc đều quý hiển, cụ thể là có phẩm trật cao, có chức vụ lớn, thành công trong sự nghiệp nhờ sự thông minh, tài năng và đạo đức của mình. Thông thường, Thái Dương chỉ ngành văn hơn là ngành võ.

Liêm Trinh: đắc địa trở lên chủ về quan lộc, giống như Thái Dương, cho nên tọa thủ ở Quan lộc rất hợp vị. Liêm Trinh chủ yếu chỉ về võ nghiệp nhưng cũng có khi kiêm nhiệm cả chính trị nếu đóng ở hai cung Dần và Thân. Cái hay của Liêm về quan lộc bắt nguồn trước hết từ khả năng toàn diện đó. Trong cả hai ngành đều sáng chói, hiển đạt trong thời bình lẫn thời chiến, nhờ ở tài thao lược, khả năng thích ứng với nhiều hoàn cảnh. Ngoài ra, Liêm Trinh đắc địa ở Dần và Thân còn ban cho san này những điều kiện tốt đẹp để thành công: sự liêm khiết, thẳng thắn, mực thước, rất trong sạch, có đạo đức, không chịu làm điều trái phép, trái lương tâm chức nghiệp. Nếu Liêm Trinh đi với Thiên Tướng thì sự chính trực càng nổi bật. Liêm Trinh hãm địa ở Quan báo hiệu chức vụ nhỏ, thấp, thường gặp hung sự trong công vụ, đặc biệt là hình tù.

Thiên Tướng: sao này là quyền tinh, dũng tinh, thích hợp với ngành võ. Càng đắc địa (ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân Sửu, Mùi, Tỵ và Hợi), công danh càng sáng chói. Thiên Tướng là người đảm đang, tháo vát, có chí khí lớn, nhất là có ý thức công bằng, bình đẳng rất cao, có hoài bão mang trật tự xã hội. Nếu Thiên Tướng đi kèm với Tử Vi ở cung Quan đó là người có tài lãnh đạo, có tài thừa hành, dám làm dám quyết, có khí phách hơn người, có hoài bão cao xa. Tuy nhiên, cặp sao này nói lên tính tự phụ và khuynh hướng á quyền (do sao Tử Vi). Tử Tướng đồng cung có tài và có tham vọng lãnh đạo chỉ huy. Nếu Thiên Tướng được Tướng Quân xung chiếu hay ngược lại thì rất hiển đạt trong võ nghiệp.

Thất Sát: ở Quan là quân nhân, đặc biệt thích hợp với quân nhân cầm binh xuất trận đi tiên phong, nghênh địch ở vùng hỏa tuyến. Sao này không thích hợp với trách nhiệm phòng thủ hậu phương và không đắc dụng ở ngành tham mưu, nhất là hành chính, chính trị. Đi với Hóa Quyền, là loại sĩ quan có binh lính dưới trướng, có khả năng tác chiến cao, lập được nhiều chiến công trên trận địa.

Thiên Phủ: là quyền tinh, chỉ cách làm quan văn đồng thời là nghề liên hệ đến tài chính. Nếu Phủ ở miếu và vượng địa, chức vụ tài chính sẽ cao hơn ở đắc địa. Nếu có thêm phụ tinh tốt, nhất là trợ tinh và tài tinh, đương số có thể là người đứng đầu cơ quan tài chính. Bằng không, sẽ có nghĩa là tiền bạc, giàu có hơn các đồng nghiệp khác.


2. Những chính tinh có nghĩa quan lộc gián tiếp

Vũ Khúc: Đắc quý cách ở Thìn Tuất Sửu Mùi (miếu địa), Dần Thân Tỵ Ngọ (vượng địa) và Mão Dậu (đắc địa). Trong trường hợp này, Vũ chỉ võ nghiệp đặc biệt nếu đi cùng với các sao võ như Tướng, Sát, Phá, Tham. Đi với Văn Khúc thì có tài về cả văn lẫn võ. Vũ là người có chí lớn, có tài thao lược, tính toán giỏi, dám mưu đại sự, lại can đảm, quả cảm. Đây là ngôi sao tham mưu, đánh giặc bằng mưu lược nhiều hơn là bằng binh đao và hỏa lực. Nếu Vũ đi cùng với Tướng hay Sát thì sĩ quan đó kiêm cả tham mưu lẫn tác chiến, và có dũng vừa có mưu. Nếu hãm địa, năng tài của Vũ Khúc bị phai mờ, hoặc kém cỏi, hoặc không có chỗ dụng, hoặc thất bại. Trong trường hợp đơn thủ hoặc đồng cung với Phủ, Vũ Khúc làm quan văn, coi về ngành kinh tế rất đắc dụng. Đó là người có tài kinh doanh mang lợi lộc cho quốc gia, vận dụng tiền bạc giỏi, biết bắt mạch và khai thác cơ hội. Trong bất cứ trường hợp đắc địa nào, Vũ cũng là người có tiền bạc dư dả.

Tham Lang: Trừ phi miếu địa ở Thìn Tuất, Tham Lang tầm thường, có thể nói là bất tài, hám lợi. Ngay trong trường hợp đắc dụng, sĩ quan có Tham Lang ở Quan có nhiều nét xấu: từ hiếu thắng, tự phụ cho đến tính hình thức, ham vui, bê trễ và nhất là lòng tham dưới nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, nếu Tham miếu địa đi với Linh hay Hỏa miếu địa thì lại rất hay cho võ nghiệp.

Phá Quân: Quan có Phá miếu (ở Tý, Ngọ), vượng (ở Sửu Mùi), đắc địa (ở Thìn, Tuất) thì can đảm, hoạt động nhưng hiếu thắng, tự kiêu, mưu cơ, gian trá và nhất là bất nhân. Bản chất của Phá Quân ở Quan là không được trung tín, hay lấn lướt người trên. Trong trường hợp hãm địa, quan cách của Phá Quân rất tầm thường, hay gặp tai nạn khó thoát, hay hại người và bị người hại.

Thái Âm: là phú tinh, chỉ điền trạch. Nếu sáng sủa, cũng có quan cách nhưng không rực rỡ bằng Thái Dương. Tuy nhiên, người tuổi Âm, sinh ban đêm, lúc trăng lên có Thái Âm sáng sủa ở Quan thì quý cách rực rỡ hơn người tuổi Dương, sinh ban ngày. Nếu có thêm trợ tinh thì càng sáng lạng: đó là trường hợp người sớm phát đạt, toại ý, vừa có danh, vừa có lợi. Nếu là tuổi Dương, sinh ban ngày thì công danh có ít, lợi lộc nhiều hơn. Thái Âm chỉ cách làm quan văn. Nếu hãm địa, quan cách tầm thường, chậm phát, thường gặp những hoàn cảnh không toại ý, thiếu cơ hội thi thố tài năng. Nếu Âm Dương đồng cung ở Sửu Mùi thì có lộc nhưng không quý hiển. Muốn đắc quý, phải có Tuần, Triệt án ngữ hay Hóa Kỵ đồng cung.

Thiên Đồng: chỉ có ý nghĩa quan lộc nếu đắc địa trở lên. Thông thường, sao này chỉ quan cách nhưng riêng ở Mão thì văn võ kiêm toàn. Đồng chỉ thực sự quý hiển nếu ở cung Tý, cung Dần và cung Thân. Trong mọi trường hợp, Đồng chỉ loại viên chức làm việc lưu động, thường hay đổi công việc, cụ thể như thanh tra, đại sứ, liên lạc viên, giao liên hoặc gặp hoàn cảnh phải đổi nghề, đổi chỗ làm tương đối mau chóng. Nếu đồng cung với Thiên Lương, Đồng rất xuất sắc trong các ngành chính trị, y khoa, sư phạm. Đồng cung với Nguyệt ở Tý, Đồng cũng lỗi lạc. Nếu hãm địa, quan cách nhỏ thấp, thăng giáng thất thường và bất đắc chí trong nghề nghiệp.

Thiên Lương: là cách quan văn. Đắc địa trở lên, Lương là người có tài mưu sĩ, cố vấn, khuyến cáo đường lối chiến lược, chính sách, đặc biệt khi đóng ở Thìn Tuất (đồng cung với Thiên Cơ) hay ở Mão (đồng cung với Thái Dương). Tại những vị trí này, Lương là người hay tìm tòi, hiếu học, có khả năng nghiên cứu và thiết kế các chương trình lớn, rất thích hợp với công việc tham mưu. Nếu có thêm các sao khoa bảng thì công danh rất sáng chói, được ở cạnh chức quyền cao cấp. Nếu Lương ở Sửu Mùi thì quan cách tầm thường còn hãm địa ở Tỵ Hợi thì chức vị càng thấp, tính tình phóng đãng, hay thay đổi chí hướng, ưa phiêu lưu, không toại chí, phải bôn ba lưu lạc, tha phương cầu thực. Trường hợp đồng cung với Nhật ở Dậu cũng có ý nghĩa tương tự.

Cự Môn: Miếu, vượng và đắc địa, sao này chỉ quan văn, đặc biệt là chính trị gia hay luật gia hoặc nhà ngoại giao. Sao này rất thích hợp cho quan tòa, trạng sư, giáo sư, dân biểu, nghị sĩ, những người có học lực uyên bác, năng khiếu hùng biện, thiên về chính trị. Viên chức có Cự Môn sáng sủa thường có hoài bão cải tạo xã hội, có ý chí muốn làm việc lớn, có xu hướng chính trị cấp tiến, muốn thay đổi hoàn cảnh chứ không bảo thủ, chấp nê hiện trạng. Do đó, Cự Môn đắc địa thường là người bất mãn hiện tại, nhưng lại không chịu thúc thủ chờ thời, trái lại muốn đóng góp để tạo thời thế. Chỉ khi nào hãm địa, Cự Môn mới là người bất đắc chí, bất mãn mà bất lực, thường bị tụng ngục, kìm hãm không hoạt động được. Đi chung với Thiên Cơ ở Mão Dậu, đi chung với Thái Dương ở Dần Thân thì quan chức cao, có cả phú lẫn quý cách. Nếu hãm địa ở Tỵ thì quan chức nhỏ, ở Hợi thì có cao vọng, thường bất mãn; ở Thìn Tuất tuy có tài và có chức phận trong hậu vận nhưng thường gặp thị phi, đố kỵ, cạnh tranh, gièm xiểm.

Thiên Cơ: là kỹ năng, kỹ thuật, sự tinh xảo trong ngành chuyên môn, đặc biệt là máy móc. Nghề của Thiên Cơ có thể là kỹ sư, kỹ nghệ. Ngoài ra, Cơ trong bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ nghề công chức, quan lại, cụ thể là ngành y khoa hay dược khoa. Đồng cung với Cự Môn ở Mão Dậu, đồng cung với Thiên Lương ở Thìn Tuất, Thiên Cơ là viên chức tham mưu, giỏi về kế hoạch, chính sách, chiến lược. Tại bất cứ vị trí đắc địa nào, Cơ cũng là viên chức khéo léo, tinh xảo, tinh thục, có lương tâm chức nghiệp cao.


3. Những phụ tinh có ý nghĩa quan lộc:

a. Phụ tinh chỉ quyền uy, chức phận:
Hóa Quyền: biểu tượng cho quyền hành và thế lực, đặc biệt nếu đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Nếu bình thường hoặc hãm địa (ở Tý, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi) thì quyền không cao, không nhiều, không quan trọng, hoặc chỉ có hư quyền hoặc quyền chỉ có trong bóng tối hoặc có thế lực mà không có quyền hoặc quyền tước hàm. Hóa Quyền có nhiều địa hạt: võ quyền, văn quyền, giáo quyền tùy theo cách làm quan nhưng cách nào có Quyền cũng đều hiển hách. Nếu đi với Hóa Kỵ trong bối cảnh cung Quan tốt đẹp thì hai sao này chỉ người có quyền và có mưu, hết sức quyền biến, không ngoan nhưng do có Kỵ nên thường bị người ta e ngại. Nếu đi với Kiếp Không ở Tỵ Hợi, Quyền càng phát nhanh và phát lớn do sự đưa đẩy của thời thế để tạo ra anh hùng nhưng vì có Kiếp Không nên có thể không lâu bền. Thông thường, người có Hóa Quyền hay tự đắc, tự tôn, kiêu căng, lấn lướt, hiếu thắng cho nên sao này tuy có lợi cho công danh nhưng không mấy hay về tính nết. Phải có thêm các sao đức hạnh thì Quyền mới hướng thiện. Nếu gặp hung tinh, vận xấu, Hóa Quyền tác họa cấp kỳ cho đương số. Hóa Quyền ở Quan tượng trưng cho sự tham chính, cho cách làm quan hiển đạt, đặc biệt là khi đi với Khoa và Lộc.

Quốc ấn: chỉ người có chính chức và có quyền vị. ý nghĩa của ấn giống như Quyền nhưng không mạnh bằng. Nếu ấn đi chung với Binh, Hình, Tướng thì võ nghiệp rất vinh hiển: đó là quân nhân có binh, có quyền, có uy. Người có ấn ở Quan là viên chức có công, được thưởng công bằng sự thăng chức, thăng trật, hoặc bằng sắc phong huy chương, tưởng lục. Nếu ấn ở vị trí các cung ban đêm, có thể là sự khen ngợi thông thường, cũng có thể là sự truy tặng (sau khi chết). Dù sao, Quốc ấn ở Quan, Mệnh, Thân là người dễ tiến đạt, được trọng vọng, được ghi công trên đường hoan lộ.

Long, Phượng, Hổ, Cái (tứ linh): là quý cách khá cao, do những biểu tượng đi kèm.

Thanh Long, Long Đức ở Thìn: tượng trưng cho quyền tước, tài năng được dùng đúng chỗ.

Phong Cáo, Thai Phụ, Đường Phù: chỉ bằng sắc, công trạng, huy chương, quyền hành nhưng không mạnh bằng Quyền hay ấn. Đường Phù có nghĩa kém nhất.

Tiền Cái hậu Mã: cung Quan trước giáp Hoa Cái sau giáp Thiên Mã là một biểu tượng của quyền uy, có lọng (Cái), có ngựa (Mã) theo chầu. Duy cách này nên đóng ở cung ban ngày mới rạng.

Quan Đới: biểu tượng cho chức vị, quyền hành (là cái đai). Chức quyền có thể cao.

Bạch Hổ, Tấu Thư: hai sao này họp thành cách hổi đội hòm sắt, cũng khá tốt cho công danh. Ngụ ý được tín nhiệm, trọng dụng, nhất là đồng cung và ở cung Dần (hổ cư hổ vị).

Bạch Hổ, Phi Liêm ở Dần: chỉ công danh thăng tiến dễ dàng, nhất là ngành võ.

Tướng Quân: chỉ cách làm quan võ có cầm quân nhưng thuộc loại thấp, chỉ huy đơn vị nhỏ. Nếu đi cùng với Thiên Tướng là võ quan cao cấp và có nắm quyền chỉ huy. Cách quan của Tướng Quân tuy có can đảm, hiên ngang nhưng táo bạo, có tinh thần sứ quân, tự tôn, tự phụ, sử dụng binh quyền đôi khi sai mục đích nên Tướng Quân gặp sao xấu dễ bị nguy kịch. Đi với cát tinh, Tướng Quân rất đắc dụng: đó là viên chức hay quân nhân rất tháo vát, có tinh thần xung phong, tình nguyện làm việc khó, có sáng kiến, đôi khi có quá nhiều sáng kiến nên đi sai lệch đường lối ở trên. Đi với Thiên Tướng, nhất là ở thế xung chiếu thì rất hiển hách trong binh nghiệp.

b. Phụ tinh chỉ tài năng tổng quát:
Thiên Mã: ngụ ý tháo vát, may mắn, đa năng, thao lược, xông pha. Người có Thiên Mã ở Quan hay Mệnh thường nhậm lẹ, lanh lợi, lăn lóc, từng trải nên đa hiệu, đa nhiệm. Đây là bộ sao rất cần cho công danh, rất lợi và rất hợp với các công việc có tính lưu động. Vì đa hiệu, Mã là sao có rất nhiều phối cách rất hay với một số phụ tinh khác để làm cho năng tài đắc dụng hơn. Ví dụ như cách Mã Tử Phủ, Mã Nhật Nguyệt, Mã Lộc Tồn, Mã Hỏa hay Linh, Mã Tướng, Mã Khốc Khách. Mặt khác, cách hay trên còn tùy vị trí của Thiên Mã. Nếu ở Dần (Mộc) và Tỵ (Hỏa) thì tốt đẹp thêm, ở Thân (Kim) thì vất vả, còn ở Hợi (Thủy) thì lu mờ. Tốt khi Mã ở Dần (Mộc) mà Bản Mệnh thuộc Mộc, Mã ở Tỵ (Hỏa) với Hỏa Mệnh, Mã ở Thân (Kim) với Kim Mệnh, Mã ở Hợi với (Thủy Mệnh). Bao giờ gặp nghịch khắc giữa hai hành thì kém hoặc xấu: tài năng sút kém, trở ngại gia tăng, công danh không rạng.

Lộc Tồn: chỉ tài năng, đặc biệt là tài tổ chức, tài thích ứng với hoàn cảnh. Lộc Tồn có nhiều sáng kiến, biết tùy theo nhu cầu mà quyền biến, xử sự tùy hoàn cảnh, lúc cương lúc nhu, một cách chừng mực. Đi với Thiên Mã, Lộc Tồn là người khai sơn phá thạch, mở đường cho kẻ khác đi theo, rất đắc dụng trong các trách nhiệm tiền phong, khai quang an vị, tổ chức cơ sở. Đặc biệt, sao này chỉ về tiền bạc nên rất lợi cho nhà kinh doanh khai thác tài nguyên kinh tế, tổ chức nền móng sản xuất. Đi với Hóa Lộc, Lộc Tồn chuyên đoán, có óc lãnh tụ, độc quyền và tập quyền. Gặp Tuần, Triệt hay sát tinh đồng cung, Lộc Tồn mất nhiều cơ hội hoạt động, bị khiếm dụng, bị dùng phí phạm, bị dùng không đúng chỗ, tài năng bị tiêu mòn hoặc bị dùng vào việc sái đạo đức. Trong lãnh vực tài chính, sao này chỉ sự tiết kiệm, xài kỹ, xài có quy tắc, sự chắt mót, giữ của, có lợi cho các chức vụ quản trị ngân sách.

Thiên Khôi, Thiên Việt: Miễn là đừng gặp Tuần, Triệt hay Hóa Kỵ, Khôi Việt chỉ năng tài xuất chúng, uy tín và hậu thuẫn, phần lớn nhờ ở tài văn học, mô phạm, tính tình cao thượng, thanh khiết, tinh thần cạnh tranh và thi đua.

Bạch Hổ, Tang Môn đắc địa ở Dần: chỉ sự tài giỏi, quyền biến, thao lược, ứng phó được nhiều nghịch cảnh, đồng thời cũng có khả năng xét đoán, lý luận, hùng biện phù hợp với các chức vị chính trị, ngoại giao, tư pháp, sư phạm. Ngoài ra Tang Hổ đắc địa còn có khả năng về võ, có khí phách lãnh đạo, chỉ huy nhất là khi được sao võ đi kèm. Do đó, Tang Hổ đặc biệt là Hổ có nhiều phối cách rất hay với Tấu Thư, với Phi Liêm, với Long Phượng Cái, với Kình Hình. Với Tấu Thư, Bạch Hổ chỉ năng tài hùng biện rất khích động, xuất sắc về tâm lý chiến, vận động quần chúng. Với Phi Liêm, Bạch Hổ rất tháo vát, lanh lợi như Thiên Mã lại được thời cơ thuận lợi. Với Kình hay Hình, Bạch Hổ có chí khí, mưu lược cả văn lẫn võ. Với Long Phượng Cái, Bạch Hổ chỉ sự hiển đạt về uy danh, sự nghiệp, khoa giáp.

Thiên Khốc, Thiên Hư đắc địa ở Tý, Ngọ: chỉ người có chí lớn, có văn tài hùng biện cùng năng khiếu hoạt động chính trị, đặc biệt là về hậu vận. Khốc Hình Mã thì hiển đạt võ nghiệp, nhất là ở Dần và Tỵ. Khốc Hư Sát hay Phá đắc địa thì có quyền cao chức trọng, uy danh lừng lẫy, được thiên hạ nể phục.

c. Phụ tinh chỉ thời thế, hoàn cảnh:
Ân Quang, Thiên Quý: Đóng ở Mệnh, Quan, Thân, Di viên chức được tín nhiệm, trong dụng nâng đỡ, che chở của người trên. Ngoài ra, Quang Quý có nghĩa là viên chức đó trung tín, hết lòng, có lương tâm chức nghiệp, xứng đáng với sự tín nhiệm của thượng cấp dành cho. Quang Quý có nghĩa gặp nhiều dịp may trong hoạn lộ, cụ thể như được thời thế thích hợp, được sử dụng đúng năng khiếu, làm việc vừa ý, được hạnh phúc trong nghề nghiệp.

Thanh Long, Lưu Hà hay Hóa Kỵ đồng cung: có vận may tốt, cơ may lớn để ra làm quan, không cần cầu cạnh và lúc ra làm quan thì đắc dụng, đắc thời theo ba ý nghĩa nêu trên của Quang Quý. Ngoài ra, Thanh Long gặp Long Đức ở Thìn cũng rất tốt đẹp vì rồng đóng ở cung Thìn chỉ đắc danh, đắc lộc mà không cần cầu cạnh, được nhiều may mắn trên hoạn lộ.

Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự phong phú; áp dụng vào quan trường, công danh sẽ dồi dào, năng tài đa diện trong nhiều lĩnh vực, chức quyền tương đối cao. Người có Sinh, Vượng ở Quan có nhiều sáng kiến trong công vụ, được giao phó nhiều trách nhiệm, dễ thăng tiến.

Thiên Mã, Tràng Sinh: gặp vận hội tốt, có ý nghĩa giống như hai bộ sao Thanh Long Hóa Kỵ và Thanh Long Lưu Hà. Cách này có ý nghĩa tiền bạc, cụ thể là đắc lợi trong quan trường. Nếu ở cung Hợi thì kém hay.

Phi Liêm, Bạch Hổ: gọi là hổ mọc cánh, rất tốt ở cung Dần, tượng trưng cho thời vận đang lên, sự may mắn đặc biệt, sự thăng chức, thăng cấp dễ dàng.

Đào Hoa, Hồng Loan: ở Quan, Đào Hoa và Hồng Loan rất hợp cách: chỉ làm quan lúc tuổi trẻ, tuổi trẻ tài cao, công danh tảo đạt, nhẹ bước thang mây, không phải bôn ba cầu cạnh.

d. Phụ tinh chỉ nhân sự trợ giúp:
Tả Phù, Hữu Bật: chủ sự giúp đỡ của người đời, đặc biệt là đồng sự, đồng song. Người có Tả Hữu ở Quan có tài giao tế nhân sự, có đức tính khéo léo thu được thiện cảm của người trên, có sự mềm mỏng cần thiết để được người ngang hàng cộng lực. Ngoài ra, cũng có nghĩa là quyền tước hiển vinh, nhờ có nhiều người phục tùng. Tả thuộc văn tinh nên hợp với Tử Phủ, Hữu chiếu vào Tử Phủ thì tốt hơn đồng cung. Trong cả hai trường hợp, Tả Hữu không nên đi chung với sát tinh. Tả Hữu còn có nghĩa là đa nghệ, là hệ số của tài năng, của quyền hành.

Thiên Quan, Thiên Phúc: chỉ sự giúp đỡ của ân nhân, bạn bè, cảm tình viên, cổ động viên ...

Tướng Quân, Phá Quân, Phục Binh: nếu cung Quan có Thiên Tướng mà được thêm ba sao này hội tụ thì sẽ tăng thêm uy quyền cho Thiên Tướng có có nghĩa như tướng có quân, cầm quân.

Thiên Mã, Tràng Sinh, Đế Vượng: là bộ sao phụ tùy cho quan cách.

Binh, Hình, Tướng, ấn: chỉ cộng sự đắc lực và có quyền, trợ uy cho võ cách.

Ân Quang, Thiên Quý: chỉ ân sủng của thượng cấp và sự hậu thuẫn trung kiên và lâu bền của thuộc hạ.


4. Sát, hung tinh trong quan cách:

a. Những loại võ cách:
Hung sát tinh đắc địa gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa hay Vũ Tướng đắc địa: báo hiệu sự hiển đạt của võ nghiệp trong thời loạn, nhờ đức tính táo bạo, mạo hiểm, bất khuất trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Bộ sao này có cả phú lẫn quý, tức là vừa có danh vừa có lợi. Nhưng công danh không được lâu bền, phát nhanh nhưng cũng tàn lẹ. Gặp bộ Vũ Tướng đắc địa thì toàn mỹ về cả công danh lẫn tiền bạc trong suốt thời gian sinh tiền, không bị ảnh hưởng của sự thăng trầm, hoạch phá. Nếu hai bộ này hãm địa, sát tinh dù có đắc địa cũng không quân bình được bất lợi: công danh nhỏ, chức vụ thấp, thăng giáng thất thường.

Hung sát tinh hãm gặp Sát Phá Liêm Tham hãm hoặc Vũ Tướng hãm: giảm chế công danh khiến quân nhân khó thăng tiến, trở thành bất đắc chí, càng tung hoành càng gặp hung họa lớn lao. Nếu bốn sao chính mà sáng sủa thì quan cách tương đối cao hơn, nhưng thiếu thuộc hạ đắc lực vì hung sát tinh hãm địa, thậm chí còn gây họa cho chính mình. Gặp Vũ Tướng hãm địa thì cũng dưới mức trung bình và gặp nhiều hung họa. Trái lại nếu Vũ Tướng đắc địa thì rất hay: chẳng những có uy danh mà còn khắc phục được trở ngại và những âm mưu bất chính của đối thủ.

b. Hung sát tinh với Tử Phủ Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương (văn cách): văn cách trong mỗi bộ sao này phải né tránh sát tinh thì mới hiển đạt. Gặp sát tinh, quan trường phải cạnh tranh, đối chọi, đấu trí, gian nan, chưa kể những hung họa hiểm nghèo khả hữu. Để thắng những sát tinh đó thì mỗi sao trong bộ phải đắc địa trở lên. Nếu chính tinh trong mỗi bộ sao mà hãm địa nốt thì quan cách chẳng những không ra gì mà còn gặp nhiều hiểm nguy đến bổn mạng.

c. Đặc điểm của hung sát tinh trong võ cách:
Địa Không, Địa Kiếp: chỉ khi nào đắc địa mới lợi cho công danh trong khuôn khổ võ cách. Không Kiếp giúp bộc phát rất nhanh, đặc biệt là trong thời loạn. Dù sao, võ nghiệp của Không Kiếp hết sức cực nhọc, khó khăn và nguy hiểm, phải đương đầu với nhiều địch thủ lợi hại trong môi trường đầy nguy hiểm. Tuy nhiên, Kiếp Không dù đắc địa cũng thăng trầm, chỉ giúp võ nghiệp hiển đạt một thời mà thôi. Trong giai đoạn hiển đạt, nếu Kiếp Không đắc địa được trợ lực bởi các sao khác, cụ thể như Tướng Quân, Thiên Mã hay Binh, Hình, Tướng, ấn thì quan cách thêm hiển hách. Thiếu những trợ tinh này, Kiếp Không đắc địa chỉ một tài năng cô độc. Mặc dù Kiếp Không đắc địa tương hợp với cách Sát Phá Liêm Tham đắc địa nhưng sự hoạnh phát không tránh được cảnh hoạnh tán: con người tuy có võ chức cao, có thành công lớn nhưng vẫn dễ bị phá sản trong một giai đoạn nào đó. Chỉ trừ phi đi chung với Vũ Tướng đắc địa thì quan toàn mỹ (rất hiếm). Nếu hãm địa, Kiếp Không chẳng những vất vả gian truân mà còn bất đắc chí và thường gặp hung sự hiểm nghèo, có hại đến tính mệnh hoặc bị bệnh tật nặng nề, tai họa về binh lửa. Có ba biệt lệ tốt đẹp cho trường hợp hãm địa: i) Không Kiếp hãm đi chung với Vũ Tướng đắc địa: trở lực nhiều nhưng con người khắc phục được, có công danh sự nghiệp lớn; ii) Không Kiếp hãm gặp Tử Phủ sáng sủa, Cự Nhật hay Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa: tài quan tuy lớn lao nhưng có nhiều bất trắc, vất vả, gian truân, chỉ được sự hậu thuẫn của người trên mà ít được sự trợ giúp của kẻ dưới; iii) Không Kiếp hãm gặp Sát Phá Liêm Tham đắc địa: công danh cao nhưng người còn bất đắc chí, được người trên giúp đỡ nhưng thiếu nhân sự ở dưới trợ lực, phần lớn hạ cấp đều bất tài, tham nhũng, sát chủ.

Kình Dương, Đà La: chỉ hay khi hai sao này miếu địa: Kình ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Đà thì đắc địa thêm ở Tý và Hợi. Kình Đà nếu đắc địa thì cương nghị, quả cảm, khí phách, cơ mưu, thủ đoạn, có tinh thần bất khuất, có tài và đắc dụng. Nếu được thêm Hỏa, Linh đắc địa hội tụ thì rất khét tiếng trong binh nghiệp, có khả năng chế phục địch quân. Được Tướng Quân, Thiên Mã, Khoa, Quyền, Lộc thì quan cách hết sức lẫy lừng, thường bách chiến bách thắng. Nếu gặp hung tinh như Không, Kiếp, Hình, Kỵ thì cũng tài giỏi nhưng phải gặp nhiều thăng trầm, hung họa lớn lao, chết thảm. Nếu hãm địa, Kình Đà là người rất bướng bỉnh, ngoan cố, ngỗ ngược, liều lĩnh và gian trá do đó tai họa dễ xảy đến từ hình tù cho đến thương phế và chết thảm. Kình Đà hãm ở Quan tượng trưng cho trở lực, khó khăn gặp phải, sự gian nan cơ cực và hiểm nghèo của công tác, có làm mà không được hưởng, chung quy dễ gặp nạn. Riêng sao Kình ở Ngọ thì rất hung hiểm, dễ chết bất đắc, trừ phi được cát tinh như Tướng, Mã, Khoa, Quyền, Lộc hội tụ mới hiển đạt. Nếu Kình (đắc hay hãm địa) đi chung với Lực Sỹ thì người đó khó tiến đạt, bị bỏ quên, bị đè nén. Đắc địa thì có tài mà không được biết hoặc biết mà không được dùng hoặc được dùng mà bị kiềm tỏa. Hãm địa thì là hạng vô dụng, bị bỏ xó, ngồi chơi xơi nước. Riêng Đà La ở Dần Thân, vô chính diệu thì đắc cách quý hiển cả về văn lẫn võ. Nếu bị Tuần Triệt án ngữ thì sẽ mất hết cái hay. Trong mọi trường hợp Kình Đà hãm địa mà bị thêm sát tinh khác hãm địa đi kèm thì hung họa, cơ cực không sao kể xiết: nghèo thì trộm cướp, hình tù, khá thì bất nhân bất nghĩa, thông thường thì yểu vong và chết không toàn thây.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: Tính tình Hỏa Linh giống như Kình Đà. Nếu đắc địa (ở những cung ban ngày), nhất là hội với Tham miếu địa, đều có tài năng, có chí khí, có uy danh và thường hiển đạt trong binh nghiệp. Nếu hãm địa thì công danh trắc trở, chậm lụt nhất là hay gặp tai nạn, thường phải bôn ba đâu đó. Có hai biệt lệ của Hỏa Linh hãm địa sau: ở Sửu Mùi có Tham Vũ Việt đồng cung t hì võ cách hết sức hiển hách nhất là về hậu vận nhưng kỵ hai sao Không Kiếp sẽ làm phá tán hết cái hay; ở Hợi, đồng cung với Tuyệt có Tham Hình hội chiếu cũng rất vang danh trong binh nghiệp.

Kiếp Sát: chỉ sự đa sát, chém giết, gieo họa, hay xuống tay mạnh, thường dùng biện pháp cứng rắn, cực đoan lúc xử thế, nóng tính, không chịu nổi những sự bất bằng, hay tầm thù. Kiếp Sát là người lợi hại và nguy hiểm, có thể ví như hung đồ nên nếu ở Quan dễ gặp ha và có nhiều kẻ thù. Đi với các sao hung khác rất dễ thành phiến loạn, cướp của giết người, bất lương, vô loại.

Thiên Không: rất kỵ cung Quan lộc vì tượng trưng cho sự cản trở. Có Thiên không, khó thăng tiến, chậm thăng, thăng chật vật, thăng không cao, bị đè nén, kìm chế trong hoạn lộ. Thiên Không ở Quan là người bất mãn, hay làm hỏng việc, giữ chức vụ gì lớn không bền vững, lên thì chậm, xuống thì nhanh, quan trường hay bị đó kỵ, ganh ghét và chính đương số cũng có bụng tiểu nhân, ganh hiềm, đâm thọt, xuyên tạc, phá phách, gây chia rẽ, ly gián.

Phục Binh: ở Quan, sao này chỉ sự đố kỵ, hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, có khi đi đến chỗ phục kích, ám sát để loại trừ địch thủ. Phục Binh có thể hoặc là nạn nhân của bọn tiểu nhân, hoặc chính mình là tiểu nhân, hoặc vừa là nạn nhân vừa là tiểu nhân, do sự trả đũa qua lại.

Hóa Kỵ: trước hết có nghĩa đố kỵ, ganh tỵ, thấy người hơn mình thì không thích. Thủ đoạn của Hóa Kỵ cũng bí mật, lén lút, thường là dùng miệng lưỡi để gièm pha, chỉ trích xuyên tạc, vu khống. Do đó, Hóa Kỵ ở Quan tượng trưng cho thị phi, khẩu thiệt, vạ miệng. Mặt khác, Hóa Kỵ hãm địa có nghĩa là nông nổi, xu thời, thiếu lập trường, ai mạnh thì theo, dễ bỏ bạn bè để theo danh lợi. Trong trường hợp đắc địa (ở Thìn, Tuất, Sửu và Mùi) thì là người có khuynh hướng cách mạng, muốn thay cũ đổi mới, ý nghĩa tương đối hướng thượng, quan cách dễ thành công nếu được cát tinh hỗ trợ.

Thiên Hình: đắc địa ở Dần, Thân, Mão, Dậu. Thiên Hình chuyên về quân sự, có dũng khí, có uy phong, có tài cầm binh, thiên về sát phạt. Nếu là quan văn thường là thẩm phán, trạng sư, có năng khiếu luật pháp, xét xử công minh. Nếu thêm Thiên Y đi kèm, có thể là bác sĩ giải phẫu, châm cứu. Thiên Hình là người nóng tính, khắt khe, cương nghị, làm việc theo nguyên tắc, không chấp nhận trái lệ, trái luật, có tinh thần liêm chính, công bình, có tinh thần chu đáo, tinh vi, kỹ lưỡng, hay chú ý đến chi tiết. Quân nhân có Thiên Hình đắc địa ở Quan thường rất mực thước, vô tư, ngay thẳng, có lương tâm chức nghiệp, có bản lĩnh hành xử trách nhiệm một cách khả quan. Đi với Binh, Tướng, ấn thì là võ cách tham mưu, có uy dũng và mưu lược, thường được giao phó trọng trách. Nếu Hình hãm địa thì quan cách hay gặp hung sự, tụng ngục, bị điều tra, bị tố cáo. Gặp Tuần, Triệt án ngữ thì có thể bị giáng chức, cách chức, ở tù, bị kiện.


5. Tuần, Triệt ở cung Quan:

Thông thường, Tuần Triệt là sao phá, đóng ở cung nào thì gây trở ngại cho cung đó: ở Mệnh, thì thiếu thời lận đận, ở Thân thì trắc trở, gian truân; ở Phu Thê thì hỏng một duyên nợ; ở Tử thì hao con; ở Tài thì kém tiền bạc. Chỉ có Tật, Tuần Triệt phá tán bệnh tật, họa, tạo sức khỏe cho đương số.

Vì vậy, Tuần Triệt đóng ở Quan tiên quyết gây trục trặc cho quan trường, thể hiện dưới nhiều hình thái: hoặc chậm công danh; hoặc công danh phải lận đận, chật vật; hoặc công danh không mấy cao, thăng giáng thất thường; hoặc không bền vững. Nếu gặp Triệt, cong danh chậm phát lúc thiếu thời, chỉ về già mới hanh thông. Nếu gặp Tuần, sự trục trặc có tính cách triền miên, tuy không nặng như Triệt nhưng kéo dài suốt đời.

a. Trường hợp cung Quan có chính tinh:
Nếu chính tinh sáng sủa, Tuần Triệt làm cho bớt sáng, có thể trở thành tối. Do đó, công danh có thể bị trở ngại, hoặc chậm phát hoặc trục trặc, hoặc không lâu bền, hoặc có nhiều hung sự xảy ra, có thể là mất chức, mất quyền, bị thay đổi, bằng không thì cũng bất toại, hay gặp những sự bực mình, bất mãn, tài năng không thi thố được. Nếu tại Quan mà có Thiên Tướng hay Tướng Quân thì càng bất lợi: vào công quyền ắt phải có lần mất chức, bị cách chức. Tuy nhiên, có hai chế giảm cho cung Quan bị Triệt, Tuần: i) cung Quan có Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh sáng sủa gặp Tuần Triệt thì tương đối bền vững, chức vụ tương đối cao, không đến nỗi phải lụn bại, thăng trầm. Những sao Tử Phủ, Cự Nhật, Cơ Nguyệt-Đồng Lương đi với sao sáng sủa khác gặp Tuần Triệt thì công danh thất thường, không bền, gặp hung sự; ii) cung Quan ở Sửu, Mùi có Âm Dương tọa thủ đồng cung: quan lộc được rực rỡ, đặc biệt là về sau vì tại Sửu Mùi, Âm Dương tương đối xấu, gặp Tuần, Triệt thì sáng lại và tại Sửu Mùi vốn là âm cung nên tốt cho hậu vận.
Nếu chính tinh ở Quan mà hãm địa, Tuần Triệt phục hồi sức sáng cho chính tinh, công danh sẽ quý hiển nhưng không tránh khỏi trắc trở: quan trường chỉ phát lúc hậu vận. Đặc biệt nếu Sát Phá Liêm Tham hay bại tinh hãm địa gặp Tuần Triệt đồng cung thì lại phát nhanh và mạnh hơn những bộ sao khác hãm địa. Duy đối với Thiên Tướng, dù đắc hay hãm địa, Tuần Triệt bao giờ cũng gây thảm tử, như quân nhân chết trận, viên chức bị cách, giáng.

b. Trường hợp cung Quan vô chính diệu:
Cung Quan vô chính diệu, dù được chính tinh đối diện sáng sủa chiếu vào, quan lộc cũng không toàn mỹ (công danh tầm thường, chức vị không mấy cao) huống hồ gặp chính tinh đối diện hãm địa. Duy có hai biệt lệ quan trọng làm khởi sắc cho cung Quan vô chính diệu:

Cung Quan có Tuần hoặc Triệt án ngữ: cách này nói chung không hoàn hảo nhưng cũng đỡ xấu. Quan trường tuy nhiều trở ngại nhưng vẫn có thể hiển đạt trong vãn vận. Nếu tảo đạt và phát nhanh thì lại sớm tàn và hoạnh tán.

Cung Quan được Nhật Nguyệt cùng sáng sủa hợp chiếu hay xung chiếu: cách này trở thành đắc lợi nhờ ánh sáng phối hợp của hai nguồn năng lực Nhật Nguyệt: công danh sáng lạn, chức vụ lớn, quyền hành cao, có triển vọng đắc phú, tóm lại vừa giàu vừa sang. Nếu cung Quan có Tuần hay Triệt trấn thủ tại đó thì phú quý sẽ tăng tiến nhiều hơn nữa.

(sưu tầm)  

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cách quý: Những sao làm Quan

Dị biệt chính, Nam phái

TÌM HIỂU THÊM VỀ LỊCH SỬ TỬ VI (Trích lục của Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ) Lịch sử khoa tử vi Trung hoa và Việt nam Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ Quay về | Xem tiếp
Dị biệt chính, Nam phái

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

VIII.- Dị biệt chính, Nam phái
1.- Sự khác biệt về số sao

1.1. Bộ Tử-vi chính nghĩa
     Được coi như là chính thư. Không nói về số sao. Song trong mục dạy an sao có 93 sao, đó là:

1.1.1. Các chòm.
Tử-vi: 6 sao là Thiên-cơ, Thái-dương, Vũ-khúc, Thiên-đồng, Liêm-trinh.
Thiên-phủ: 8 sao là Thiên-phủ, Thái-âm, Tham-lang, Cự-môn, Thiên-tướng, Thiên-lương, Thất-sát, Phá-quân.
Thái-tuế: 5 sao là Thái-tuế, Tang-môn, Điếu-khách, Bạch-hổ, Quan-phù.
Lộc-tồn: 17 sao là Lộc-tồn, Kình-dương, Đà-la, Quốc-ấn, Đường-phù, Bác-sĩ, Lực-sĩ, Thanh-long, Tiểu-hao, Tướng-quân, Tấu-thư, Phi-liêm, Hỉ-thần, Bệnh-phù, Đại-hao, Phụcbinh, Quan-phủ.
Trường-sinh: 12 sao là Trường-sinh, Mộc-dục, Quan-đới, Lâm-quan, Đế-vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai Dưỡng.
1.1.2. Các sao an theo tháng: 7 sao Tả-phụ, Hữu-bật, Tam-thai, Bát-tọa, Thiên-hình, Thiên-riêu, Đẩu-quân.
1.1.3. Các sao an theo giờ: 8 sao Văn-xương, Văn-khúc, Ấn-quang, Thiên-quý, Thai-phụ, Phong-cáo, Thiên-không, Địa-kiếp.
1.1.3. Tứ trợ tinh: 4 sao là Hóa-quyền, Hóa-lộc, Hóa-khoa, Hóa-Kî.
1.1.4. Các sao an theo chi: 17 sao là Long-trì, Phượng-các, thiên-đức, Nguyệt-đức, Hồngloan, Đào-hoa, Thiên-hỉ, Thiên-mã, Hoa-cái, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Hỏatinh, Linh-tinh, Thiên-khốc, Thiên-hư.
1.1.5. Các sao an theo can: 5 sao là Lưu-hà, Thiên-khôi, Thiên-việt, Tuần-không, Triệtkhông.
1.1.6. Các sao cố định: 4 sao là Thiên-thương, Thiên-sứ, Thiên-la, Địa-võng.

1.2.Bộ Triệu Thị Minh Thuyết Tử-vi kinh
      Đều ghi có 93 sao, giống như bộ Tử-vi chính nghĩa.

1.3.Bộ Tử-vi đại toàn
     Ghi rõ ràng rằng trong lá số phải có 93 sao như Hi-Di tiên sinh, kỳ dư an thiếu, đủ hay khác đi đều là tạp thư, ma thư của bọn đạo sĩ bịa đặt để lừa nhau, còn giả đạo đức, tỏ ra là người bác học, song chẳng qua là phường lưu manh!

1.4.Bộ Tử-vi Đẩu-số toàn thư
     Nói về số sao rất lờ mờ. Phần dạy cách an sao có ghi rõ 85 sao. Các sao cũng giống như ba bộ trên. Duy thiếu các sao sau đây: Đào-hoa, Phá-toái, Kiếp-sát, Cô-thần, Quả-tú, Lưu-hà. Nhưng khi đọc bài phú nói về các sao, thì lại thấy nói tới Đào-hoa, Ân-quang, Thiên-quý v.v...

1.5.Bộ Đông-a di sự
      Thấy ghi đúng 93 sao như bộ trên, nhưng khi xét các lá số để chiêm nghiệm thì thấy thiếu các sao: Bác-sĩ, Thiên-la, Địa-võng, Thiên-thương, Thiên-sứ. Có lẽ các Tử-vi gia đời Trần quan niệm rằng các sao trên đều ở vị trí cố định, nên không cần an vào như sao Bác-sĩ bao giờ cũng đóng chung với sao Lộc-tồn. Sao Thiên-thương bao giờ cũng ở cung Nô, sao Thiên-sứ bao giờ cũng ở cung Tật-ách và sao Thiên-la bao giờ cũng ở cung Thìn cũng như sao Địa-võng bao giờ cũng ở cung Tuất.
Trên đây là các bộ chính thư, dưới đây là các bộ tạp thư.

1.6.Bộ Tử-vi Âm-dương chính nghĩa Bắc-tông
     Thấy ghi đến 104 sao. Các sao cũng như giống như chính thư về số sao cũng như cách an sao, song thêm các sao sau đây: Thiên-tài, Thiên-thọ, Thiên-trù, Thiên-y, Thiên-giải, Địa giải, Giải-thần, Thiên-lộc, Lưu-niên văn tinh, Thiên-quan quý nhân, Thiên-phúc quý nhân.

1.7.Bộ Tử-vi âm-dương chính nghĩa Nam-tông
      Ghi tới 128 sao, các sao cũng giống như sao Bắc-tông, nhưng thêm 24 sao là Thái-túc, Niên-xá, Thiên-khôi, Nguyệt-khôi, Niên-thổ-khúc, Nguyệt-thổ-khúc, Thiên-thương (Nghĩa là kho lúa khác với Thiên-thương ở cung Nô, như vậy trong lá số có hai sao Thiên-thương). Thiên-phủ-khố, Thiên tiễn, Hồng-diệm, Địa-không, Phù-trầm, Sát-nhận. Vòng Thái-tuế được thêm vào 7 sao nữa cho đủ 12 sao, đó là các sao Thiếu-dương, Thiếu-âm, Tử-phù, Tuế-phá, Long-đức, Phúc đức, Trực-phù, Tứ-phi-tinh, Thiên-trượng, Thiên-dị, Mao-đầu, thiên-nhận.

1.8.Bộ Tử-vi thiển thuyết gồm 128 sao
     Giống như bộ Nam-tông nhưng thêm vào 13 sao nữa rất quái dị, không có trong thiên-văn mà chỉ có trong tiểu thuyết thần kỳ chí quái, ma trâu đầu rắn. Đó là các sao: Nam-cực, Đông-đẩu tinh-quân, Bắc-đẩu tinh-quân, Nam-đẩu tinh-quân, Cửu-thiên huyền nữ, Dao-trì kim mẩu, Vũ-tinh, Lôi-tinh, Thiên-vương tinh, Địa-tạng tinh, Thái-bạch kim tinh.

1.9.Lịch số Tử-vi toàn thư
     Số sao cũng giống như bộ Tử-vi thiển thuyết song dạy an sao ngược với các bộ trên. Như sao Trường-sinh không những chỉ an ở Dần, Thân, Tî, Hợi mà còn thấy ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Vòng Tử-vi an xuôi, vòng Thiên-phủ an ngược. Số sao cũng có 128 mà thôi.

2.- Sự khác biệt về sao lưu niên
2.1.Chính thư
     Các sao lưu niên đều an giống nhau, số sao cũng giống nhau:
-Vòng Lộc-tồn với 15 sao không có Quốc-ấn, Đường-phù. (Bộ Tử-vi đẩu số toàn thư chỉ nói đến hai sao Kình, Đà thôi)
- Thiên-khôi, Thiên-việt, Thiên-mã, Thiên-khốc, Thiên-hư và vòng Thái-tuế 5 sao, Vănxương, Văn-khúc. Tất cả 27 sao.

2.2.Tạp thư
     Vẫn gồm các sao như bộ chính thư nhưng thêm: Hỏa-huyết, Lan-can, Quân-sách, Quyện thiệt, Bạo-tinh, Thiên-ách, Thiên-cẩu, Huyết-nhận, Huyết-cổ, Ngũ-quỷ và vòng Trường sinh 12 sao.

3.- Sự khác biệt về đại hạn
Chính phái an đại hạn như sau:
- Từ lúc đẻ ra tới số cục thì đại hạn an tại cung Mệnh.
- Đại hạn thứ nhất sẽ an vào cung phụ mẫu, hoặc huynh đệ.

Tỷ như: Người Hỏa-lục-cục, thì từ 1 tới 5 tuổi thì đại hạn ở cung Mệnh. Từ 6 tuổi trở đi thì đại hạn ở cung Huynh đệ hoặc Phụ-mẫu.

- Nhưng Nam phái lại an ngay đại hạn thứ nhất ở cung Mệnh, rồi đại hạn thứ nhì ở cung Phụ mẫu hoặc Huynh đệ. Như vậy từ lúc đẻ ra tới số tuổi “số cục” không có đại hạn.
Sự khác biệt này, đã khiến cho Nam phái phải đi tìm nhiều sao khác, hoặc nhiều thuật khác, để đoán cho đúng, nhất là đoán vận hạn chết rất quan trọng. Bắc phái đoán rất trúng, nhưng theo Nam phái lại khó khăn. Sự khác nhau về hạn, khiến cho Nam phái không dùng bài phú đoán của Hy-Di tiên sinh được. Bởi phú đoán thì an đại hạn theo Bắc phái. Những người học theo Nam phái thường tỏ ý nghi ngờ các bài Phú. Họ phải dò dẫm, tìm hiểu lâu năm mới đưa ra lối giải quyết. Trong khi những người học theo Bắc phái, thì ngay sau khi học an sao, học có thể học cách giải đoán bằng cách xử dụng phú đoán được.

     Tỷ dụ: Chính phái đoán số Hạng Vũ, căn cứ vào phú đoán:
Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên-không nhi táng quốc. Thạch Sùng hào phú, vận phùng Địa-kiếp dĩ vong gia. Nghĩa là Hạng Vũ anh hùng nhưng hạn ngộ Thiên-không nên mất nước. Thạch Sùng giàu có nhưng hạn gặp Địa-kiếp nên tan nhà nát cửa. Nếu xét theo Nam phái thì câu phú trên không đúng được:

- Thứ nhất, theo Bắc phái chỉ có sao Thiên-không, Địa-kiếp đi đôi với nhau, không có sao Địa-không. Sao Thiên-không không đóng ở vị trí sao Địa-không của Nam phái và không
có sao Thiên-không trước Thái-tuế một cung. Hạng Vũ, đại hạn tới Dần gặp Địa-kiếp, tiểu hạn ở Thân gặp Thiên-không. Đại, tiểu hạn Kiếp, Không gặp nhau nên táng quốc. Dù đại hạn có Đồng, Lương, Quyền cũng không giải nổi. Bàn về số Thạch Sùng cũng tương tự. Nếu đoán theo Nam phái bài phú trên cũng không đúng:

- Đại hạn đang tới cung Mão, gặp Thái-tuế, mà Thiên-không đóng ở Thìn.
Như vậy không có vụ Hạng Võ chết về Kiếp, Không lâm nạn, Sở vương táng quốc. Mà chỉ có việc Hạng Võ gặp hạn Địa-không ở Thân mà thôi.
Hồi còn ở Việt-nam, chúng tôi dạy Tử-vi cho các vị yêu khoa này, thường thì những vị chưa biết gì học mau hơn. Còn các vị học theo Nam phái, học thêm mấy chục bài phú nữa, mất công chỉnh đốn lại. Bởi vậy chúng tôi có lời khuyên: Các vị học theo Nam phái thì không nên học những bài phú của Hy-Di, mà học các bài phú của Ma-Y thuộc Nam phái mà thôi. Nếu không đầu óc sẽ lộn tùng phèo.

4. Sự khác biệt về an sao
     Trong 93 tinh đẩu không có sự khác biệt. Nhưng duy sau này những bộ tạp thư đưa ra an những sao mới, hoàn toàn do họ đặt ra, có sự quái gở khi an vòng Trường-sinh: Họ khởi Trường-sinh ở cả Tý, Ngọ, Mão, Dậu.
Về an Khôi, Việt thì chính thư, tạp thư chỉ khác nhau có tuổi Canh mà thôi: Chính thư Khôi ở Sửu, Việt ở Mùi. Trong khi tạp thư thì cho ở Dần, Ngọ. Về an tứ hóa: Tuổi Canh cũng bị lộn như Hóa-lộc đi với Thái-dương, Hóa-quyền đi với Vũ-khúc, Hóa-khoa đi với Thiên-đồng, Hóa-kî đi với Thái-âm. Trong khi tạp thư Hóa-khoa đi với Thái-âm, trong khi Hóa-kî đi vối Thiên-đồng.

5. Đối với sách Tử-vi hiện tại
     Trừ bộ Tử-vi đẩu số toàn thư do Vũ Tài Lục lược dịch, một vài đoạn đúng với chính thư, còn các sách khác, chúng tôi không tiện phân tích xem sách của vị nào ảnh hưởng của phái nào bên Trung-quốc! Vân Điền Thái Thứ Lang là một đại đức Phật giáo, ông bị tử nạn xe hơi đã lâu, nên chúng tôi có thể bàn về sách của ông: Rất gần với chính phái. Ông Vũ Tài Lục là con của cụ Kép Nguyễn Huy Chiểu, hiện ở Hoa-kỳ. Còn ông Nguyễn Phát Lộc với chúng tôi có chút duyên văn nghệ, trước đây ông là phó Đặc-ủy trung ương tình báo VNCH, không rõ nay ở đâu, nếu ông còn ở Việt-nam thì có lẽ đã bị giết rồi.

     Chúng tôi quan niệm: Dù tất cả Tử-vi gia thuộc phái nào đi nữa, cũng cần có kinh nghiệm. Về phương diện nghề nghiệp, họ phải dùng Tử-vi làm kế sinh nhai là điều bất đắc dĩ, bới bỏ tâm não ra, an sao, chấm số, giải đoán một lá số Tử-vi không tiền nào, bạc nào trả họ nổi cả. Dù không trả tiền với tinh thần khoa học, họ cũng say mê nghiên cứu. Chính chúng tôi kiếm tiền rất dễ dàng, nhưng khi thấy một lá số kỳ lạ, cũng chẳng ngần ngại gì mà không bỏ ra cả ngày để nghiền ngẫm cho ra nguyên lý.

      1. Thư tịch về khoa Tử Vi
      2. Nguồn gốc khoa Tử Vi
      3. Khoa Tử Vi đời Tống
      4. Khoa Tử Vi sau Hi-Di
      5. Tử Vi vào Việt Nam
      6. Khoa Tử Vi đời Trần
      7. Khoa Tử Vi đời sau
      8. Dị biệt chính, Nam phái
      9. Kết luận

Quay về |Trở về đầu| Xem tiếp



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Dị biệt chính, Nam phái

Kỹ sảo trong phong thủy cơ bản trong chỉnh sửa phòng tắm –

Có thầy phong thuỷ nói rằng: Phòng tắm là nơi tượng trưng cho những thứ bỏ đi nên cần phải để nó ở xa bếp. Dù phòng tắm nhà bạn ở đâu thì đều phải bảo đảm để nó hoạt động bình thường, bởi vì nước lưu động trong phòng tắm vừa tượng trưng cho sự lưu độ

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ng khí trong cơ thể bạn, vừa tượng trưng cho sự lưu dộng tài phú và vận may trong cuộc sống của bạn. Rõ ràng vấn đề đường ông trong phòng tắm trực tiếp ảnh hưởng đến tình hình sức khoẻ và kinh tế của bạn.
Phòng tắm lắp gương là rất hợp, gương càng to càng tốt. Gương sẽ làm cho bạn tỉnh táo lên mỗi buối sáng ngủ dậy, làm cho năng lượng bạn thu được sau một đêm ngủ khuếch trương lên, từ đó làm cho tinh thần hưng phấn hơn khi bước vào một ngày mới.

1279511945-691078

Mỗi ngày chúng ta ai cũng soi gương mà chủ yếu là soi trong phòng tắm, cho nên bạn phải lắp một chiếc gương tốt trong phòng tắm. Chú ý giữ sạch mặt gương, đặt gương ở vị trí có thể soi nhìn thấy được toàn thân người, nếu không như vậy, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ, có thể làm đầu óc mê muội, nặng về quả đoán.
Gương hình vuông được gắn vào tường gạch men cùng với bồn tắm và đèn tạo nên sự cân bằng. Hình vuông và hình 4 cạnh tượng trưng cho sự thăng bằng và có thứ tự. Tố hợp vui mắt của hình vuồng với hình tròn tượng trưng cho sự cân bằng trời – đất. Trong phòng tắm không có cửa số thông ra ngoài, gương to sẽ làm cho phòng tắm như rộng hơn; trước gương treo một bức tranh hay một vật tự nhiên nào đó có thể làm cho phòng tắm gần gũi với thế giới tự nhiên bên ngoài hơn.
Phải bảo đảm mọi đường ông trong phòng tắm hoạt động bình thường, không bị rò, áp lực nước không có vấn đề gì, không có tiếng kêu. Nếu tự nhiên có hiện tượng vòi nước nhỏ giọt chảy rất chậm, có thể như vậy là biểu hiện cho tiền tài của bạn đang bị thất tán.
Trong phòng tắm tốt nhất khồng dùng đồ vật hình tam giác, không được để có góc nhọn, không được sử dụng vật liệu là kim loại lạnh, cứng, những thứ này đều gây cảm giác khó chịu, cảm thấy mệt mỏi và yếu ớt. Trong phòng tắm treo khăn mềm sẽ làm cho phòng tắm ấm áp lên, thoải mái hơn, làm cho ta cảm thấy an toàn.
Nếu nhà đi vệ sinh nằm bên cạnh phòng bếp, giữa hai phòng này đặt một đồ vật bằng sứ có thể chuyển động để cân bằng năng lượng hai phòng này. Không được chọn gạch men phản quang để trang trí, nó có thể cắt đôi hình bạn ra trên tường, làm cho bạn có cảm giác hỗn loạn.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kỹ sảo trong phong thủy cơ bản trong chỉnh sửa phòng tắm –

Hạc – biểu tượng của thanh xuân bất diệt –

Hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ, được gọi là ‘nhất phẩm điểu’ có tính cách của một người quân tử. Nếu đặt hạc trong vườn nhà, nó sẽ mang tới cho gia đình bạn sự êm ấm và hạnh phúc. Thời xưa, các vương hầu muốn cống tiến vật phẩm cho hoàng đế để

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ, được gọi là ‘nhất phẩm điểu’ có tính cách của một người quân tử. Nếu đặt hạc trong vườn nhà, nó sẽ mang tới cho gia đình bạn sự êm ấm và hạnh phúc.

Thời xưa, các vương hầu muốn cống tiến vật phẩm cho hoàng đế để lấy lòng tin thường sử dụng biểu tượng chim hạc, được gọi là “nhất phẩm điểu” hay là “nhất phẩm đương triều”. Hình dáng con hạc đứng trên phiến đá trước sóng triều ngụ ý tới phẩm chất cao quý, mạnh mẽ đối đầu với khó khăn, mang lại may mắn và ấm êm.

Sách cổ ghi lại rất nhiều điều liên quan tới đức tính của hạc, nhìn một cách tổng quát, hạc giống như một người quân tử, không dâm, không dục, trong sạch thuần khiết, tiếng kêu thánh thót, sánh với nhân tài.

chim-hac

Thời xưa hạc còn được dùng để ví với những người ưu tú nên sắc lệnh chiêu mộ hiền sỹ còn được gọi là “hạc bản”, những thứ trên “hạc bản” được gọi là “hạc thư” hoặc “hạc đầu thư”, những người tu hành và có tiếng tăm tốt được gọi là “hạc minh chi sĩ”. Liên hệ điều này, có thể thấy các bức tranh có vẽ hạc mang ý nghĩa thanh liêm, không tham lam, sa đọa.

Truyền thuyết nói rằng hạc là chim tiên sống rất thọ, trong cuốn “Tướng hạc kinh” đã gọi hạc là ” thọ bất khả lượng” (sống lâu không thể tính) hay “hạc thọ thiên tuế” (hạc sống nghìn năm). Vì thế người đời sau dùng hạc để chúc phúc trường thọ.

Có người còn đặt tên có chữ “hạc” để may mắn và trường thọ như: Hạc Thọ, Hạc Linh… và hình ảnh hạc được đưa vào tranh chúc thọ, bình phong chúc thọ, câu đối và đồ chạm khắc khác.

Ngoài ra mỗi hình dáng và vị trí đặt hạc còn tượng trưng cho một ý nghĩa riêng:

– Một chú hạc đang bay vút lên lên trời tượng trưng cho một thế giới bên kia tốt đẹp, phiêu du, bởi vì khi ai đó chết đi, linh hồn của người ấy sẽ ngồi trên lưng hạc và được hạc chở lên thiên đường. Cũng bởi lý do đó, trong đám tang của người Hoa, con hạc thường được đặt ở giữa nắp áo quan.

– Hình ảnh một chú hạc thấp thoáng giữa những đám mây lại tượng trưng cho tuổi thọ, sự uyên bác, sáng suốt và cuộc sống vương giả. Hình ảnh ấy còn hàm ý chủ nhân đang vươn tới một vị trí cao, đầy quyền lực.

– Hình ảnh hạc đang nô đùa xung quanh những cây thông tượng trưng cho sức chịu đựng dẻo dai, kiên cường của gia chủ để có được một cuộc sống danh tiếng, giàu sang.

– Một trong những món quà mừng tặng cho cha mẹ có thể là một tác phẩm nghệ thuật có hình hai chú hạc trắng nép mình vào nhau giữa nhánh cây thông. Hình ảnh thi vị đó như ước nguyện về một cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm, tượng trưng cho sự tiếp nối truyền thống các bậc tiền bối bảo vệ hạnh phúc gia đình.
hac4.jpg

– Con hạc trắng có lông đỏ trên đỉnh đầu được người Hoa cho là sẽ đem tới một sự hài hòa tuyệt vời cho gia đình và giúp cho mối quan hệ giữa các thành viên luôn bền vững.

– Tốt nhất là đặt con hạc ở hướng Nam, vì nó sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt.

– Hướng Tây sẽ đem lại sự may mắn cho con cái của bạn, trong khi hướng Tây Bắc là hướng nên chọn nếu gia đình bạn là tộc trưởng.

– Đặt hạc ở hướng Đông sẽ có lợi cho con trai và cháu trai.

– Những tấm bình phong với hoa văn có thêu hình con hạc là một vật trấn phong thủy khá tốt, giúp bạn chặn đứng những điều không may có thể lọt vào nhà.

– Những khu vực không nên trưng hạc là phòng bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh. Bạn cũng có thể bày hạc ở phòng ngủ, phòng ăn và phòng khách.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hạc – biểu tượng của thanh xuân bất diệt –

Mơ thấy bướm: Tượng trưng đời sống tình thần của con người –

Bướm xỉnh đẹp tượng trưng cho đời sống tinh thần của con người. Mơ thấy bướm đang lượn lờ đôi cánh trên cánh hoa, bạn sẽ có một cuộc sống ngập tràn hạnh phúc. Mơ thấy cánh bưởm bị gãy, nghĩa là bản thân mất đi niềm tin vào cuộc sống do thất bại, làm
Mơ thấy bướm: Tượng trưng đời sống tình thần của con người –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy bướm: Tượng trưng đời sống tình thần của con người –

Những 'chàng giáp' nữ tính hơn cả con gái

Theo các chàng tuổi Hợi, họ mít ướt là bởi trái tim yếu mềm và nhạy cảm với bất kỳ cảm xúc nào.
Những

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Chàng trai tuổi Hợi

Việc những anh chàng tuổi Hợi dễ rung động trước cái đẹp, nhạy cảm với mọi sự trên đời hoặc đôi khi mít ướt… không còn là chuyện xa lạ. Sở dĩ như vậy là do họ có trái tim yếu mềm, dễ bị ngoại cảnh tác động. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai

Chỉ cần xem bộ phim cảm động hay đơn giản là nghe câu chuyện tình cảm lâm li bi đát nào đó, anh chàng cầm tinh con Heo này lại xúc động nghẹn ngào, thậm chí hai mắt đỏ ửng lúc nào không hay. 

2. Chàng trai tuổi Dần

Ai cũng biết những anh chàng cầm tinh con Hổ tôn sùng chủ nghĩa anh hùng, chúa ghét việc khóc lóc, buồn rầu. Nhưng con giáp này lại rất thích chia sẻ mọi tâm tư tình cảm với bạn bè, thậm chí có thể “buôn dưa lê” thâu đêm suốt sáng hệt như con gái vậy. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai-1

Ngoài ra, việc chụp ảnh “tự sướng” và đăng tải mọi lúc mọi nơi như khi đi du lịch, học bài, ăn cơm, gặp gỡ bạn bè… cũng khiến không ít người cho rằng chàng trai này có sở thích hệt như con gái. 

3. Chàng trai tuổi Tý

Tôn sùng chủ nghĩa hoàn mĩ là đặc điểm nổi bật ở những anh chàng cầm tinh con Chuột. Khi làm bất cứ việc gì họ cũng tỉ mỉ, chau chuốt, kén cá chọn canh để có được kết quả ưng ý nhất. Chính tính cách này khiến họ hay để ý, soi mói, bới lông tìm vết chuyện của những người xung quanh nên bị cho là lặt vặt như con gái. 

nhung-chang-giap-nu-tinh-hon-ca-con-gai-2

Ngoài ra, anh chàng này cũng dễ xúc động, không thể kiểm soát được “cơn mít ướt” của mình khi nghe hoặc chứng kiến những câu chuyện xúc động. Những lúc này trông họ còn nữ tính, yếu đuối hơn cả hội tóc dài ấy chứ.

Mr.Bull (Theo Dyxz)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những 'chàng giáp' nữ tính hơn cả con gái

Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Một bài viết hay về kinh nghiệm của Tử Vân cho việc giải lá số Tử Vi. Mời các bạn tham khảo.
Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Bài viết chép lại của tác giả Quách Ngọc Bội trên tuvilyso.org

Phần 1: An sao của phái Tử Vân

Phép lập lá số tử vi đẩu số thủ công

1. Xét duyệt lại ngày sinh và giờ sinh.

a. Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc rất rộng lớn, đối với ngày giờ sinh ở những địa phương không thuộc Trung Nguyên, phương pháp là dùng ngày giờ âm lịch của địa phương nơi sinh ra.

b. Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, Quảng Châu là 113 độ kinh đông; mỗi độ 4 phút đồng hồ, như vậy người sinh ở Quảng Châu vào lúc 14h00, hoán chuyển thành thời gian Bắc Kinh thành ra 13h32'.

c. Theo Tử Vân tiên sinh nói, rất ít người sinh ra mà được đối chiếu chỉnh sửa ngày giờ cho chính xác, rõ hơn xin xem trong sách "Đẩu Số luận huynh đệ".

2. Vấn đề tháng Nhuận.

Tháng Nhuận đại thể lấy cùng tháng đó mà bài bố an sao, như tháng 10 Nhuận thì dựa vào tháng 10 mà bài bố; ngoai ra cứ phỏng theo như thế.

3. Định ngũ hành Dần thủ

Giáp Kỷ <Bính>; Ất Canh <Mậu>; Bính Tân <Canh>; Đinh Nhâm <Nhâm>; Mậu Quý <Giáp>.

4. An Mệnh Thân cung

Dần cung khởi tháng Giêng, đếm nghịch đến tháng sinh "Mệnh"; đếm thuận đến tháng sinh "Thân" (QNB chú: chắc ghi nhầm nhầm lẫn thuận với nghịch, tháng với giờ - tôi dịch nguyên văn.). An xong xuôi Mệnh Thân cung rồi sau đó có thể bài bố các cung vị khác.

5. Định ngũ hành Cục cùng với khởi Đại Hạn

Lấy Thiên Can Địa Chi của vị trí sở tại của Mệnh cung để tìm ra Ngũ hành Cục.

Ngũ hành Cục có tác dụng để khởi Đại Hạn: Dương nam âm nữ thuận đáo; âm nam dương nữ nghịch hành.

6. Định sao Tử Vi và Thiên Phủ

Định sao Tử Vi: phương pháp căn cứ vào ngày sinh chia cho số cục của ngũ hành cục.

[Ngũ hành cục số] ÷ [số ngày sinh] = thương số

6.1 Nếu chia chẵn, thì thương số tức là vị trí tọa lạc của sao Tử Vi. Như sinh ngày 27, Mộc tam Cục, thì thương số là 9, từ cung Dần khởi 1, đếm thuận đến 9 là cung Tuất, Tử Vi an tại Tuất.

6.2 Nếu không thể chia chẵn (tức là phép chia có số dư), thì lấy ngày sinh mà cộng thêm một số tự nhiên nhỏ nhất để có thể chia chẵn cho Cục số. Như sinh ngày 27, Kim tứ Cục, thì (27+1)÷4=7, lúc này từ Dần đếm thuận đến 7 là cung Thân, mà vốn dĩ sử dụng 27 cộng thêm 1, cho nên phải lùi lại 1 cung, tức là ngày 27 của Kim tứ Cục thì Tử Vi ở tại cung Mùi.

Chú: nếu như số tự nhiên mà được cộng thêm là số lẻ thì mới lùi ngược lại, còn là số chẵn thì tiến thuận, công thêm số nào thì lùi/tiến đúng bằng số ấy cung.

Định xong sao Tử Vi có thể định sao Thiên Phủ, mối quan hệ của chúng là 2 sao này đối xứng qua trục Dần Thân.

7. An các Chính Tinh cấp Giáp còn lại

Khẩu quyết:

Tử Vi, Thiên Cơ tinh nghịch hành,

Cách nhất Dương, Vũ, Thiên Đồng tình;

Hựu cách nhị vị Liêm Trinh đệ,

Không tam tiện thị Tử Vi tinh.

Thiên Phủ, Thái Âm thuận Tham Lang, (câu này viết nhầm chữ Âm thành Dương, QNB đã sửa lại)

Cự Môn, Thiên Tướng dữ Thiên Lương;

Thất Sát không tam Phá Quân vị,

Cách cung vọng kiến Thiên Phủ hương.

8. Miếu hãm của tinh diệu

(QNB chú: nguyên văn không ghi gì cả).

9. An lục sát cùng lục cát tinh

- Tả Phụ "Thìn" cung khởi chính nguyệt, thuận hành chí sinh nguyệt;

Hữu Bật "Tuất" cung khởi chính nguyệt, nghịch hành chí sinh nguyệt.

- Văn Xương "Tuất" cung khởi Tý thì, nghịch hành chí sinh thì;

Văn Khúc "Thìn" cung khởi Tý thì, thuận hành chí sinh thì.

- An Thiên Khôi, Thiên Việt

Khẩu quyết:

Giáp Mậu Canh ngưu dương < Việt >,

Ất Kỷ thử hầu < Việt > hương.

Bính Đinh trư kê < Việt > vị,

Nhâm Quý thỏ xà < Việt > tàng.

Lục Tân phùng mã < Việt > hổ,

Thử thị quý nhân hương.

- Kình Đà theo việc định Lộc Tồn của Thiên Can năm sinh rồi sau đó an bài, không nói rườm rà.

- An hai sao Hỏa Linh <lấy Địa Chi năm sinh và giờ sinh để tìm được>

Dần Ngọ Tuất: Hỏa < Sửu >, Linh < Mão > khởi giờ Tý thuận hành

Thân Tý Thìn: Hỏa < Dần >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Tị Dậu Sửu: Hỏa < Mão >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Hợi Mão Mùi: Hỏa < Mậu >, Linh < Tuất > khởi giờ Tý thuận hành

Quyết viết:

Dần Ngọ Tuất nhân sửu mão phương,

Thân Tý Thần nhân dần tuất dương;

Tị Dậu Sửu nhân mão tuất vị,

Hợi Mão Mùi nhân dậu tuất phòng.

(QNB chú: Hỏa Linh họ đều cho đi thuận cả, có khác biệt với Tử Vi Việt).

-

Địa Không từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, nghịch hành đến giờ sinh,

Địa Kiếp từ < Hợi > cung khởi giờ Tý, thuận hành đến giờ sinh.

10. Khởi an Tứ Hóa theo thiên can năm sinh, không nói rườm rà. Chú: phái Tử Vân dùng can Quý thì Thái Dương hóa Khoa (QNB chú: dịch nguyên văn, có lẽ viết nhầm chữ Âm thành Dương).

11. An các tạp diệu còn lại

-

Thiên Hình < Dậu > cung khởi tháng Giêng, thuận hành đến tháng sinh;

Thiên Diêu < Sửu > cung khởi chính nguyệt, thuận hành đến tháng sinh.

Quyết viết:

Thiên Diêu sửu thượng thuận chính nguyệt,

Thiên Hình dậu thượng chính nguyệt luân;

Đếm đến tháng sinh đều dừng bước, liền an Hình Diêu hai tinh thần.

-

Hồng Loan < Mão > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh;

Thiên Hỉ < Dậu > cung khởi Tý, nghịch hành tới Chi năm sinh.

Quyết viết:

Hồng Loan mão thượng Tý niên khởi,

Nghịch hành số chí sinh niên chỉ;

Đối cung ký thị Thiên Hỉ tinh,

Vận hạn mệnh phùng thiên hữu hỉ.

< Hai sao này vĩnh viễn ở tại đối cung >

- Hàm Trì < Đào Hoa sát >

lấy Chi năm sinh an bài, quyết viết:

Dần Ngọ Tuất, thỏ tòng mao lý xuất;

Thân Tý Thìn, kê khiếu loạn nhân luân;

Hợi Mão Mùi, thử tử đương đầu tọa;

Tị Dậu Sửu, dược mã nam phương tẩu.

- Thiên Mã

Căn cứ Chi năm sinh, quyết viết:

Thân Tý Thìn nhân mã cư dần,

Dần Ngọ Tuất nhân mã cư thân;

Hợi Mão Mùi nhân mã cư tị,

Tị Dậu Sửu nhân mã cư hợi.

- An Tam Thai, Bát Tọa

Lấy ngày sinh để an bài, quyết viết:

Tam Thai, Tả Phụ thuận sơ nhất,

Số chí sinh nhật thị Thai cung.

Bát Tọa, Hữu Bật nghịch sơ nhất,

Số chí sinh nhật định kỳ tung.

- An Long Trì, Phượng Các

Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Long Trì, khởi Tý thuận hành Thìn,

Sinh niên tiện thị phúc nguyên chân;

Phượng Các, Tuất thượng nghịch số Tý,

Ngộ chí sinh niên thị cát niên.

(Long trì từ Thìn khởi, hô Tý đếm thuận đến chi năm sinh. Phượng Các từ Tuất khởi, hô Tý đếm nghịch đến Chi năm sinh).

- An Thai Phụ, Phong Cáo

Khúc tiền tam vị thị Thai Phụ, Khúc hậu tam vị Phong Cáo hương.

(Vị trí thứ 3 trước Văn Khúc là Thai Phụ, Vị trí thứ 3 sau Văn Khúc là Phong Cáo).

Khởi lệ: Giả như Văn Khúc tai Tý thì cung Dần an Thai Phụ, vị trí thứ 3 sau Khúc chính là Tuất cung an Phong Cáo. Ngoài ra phỏng theo như thế, nhưng lấy bản cung của Văn Khúc mà khởi số.

- An Thiên Quý, Ân Quang

Quyết viết:

Văn Xương thuận số chí sinh nhật,

Thối hậu nhất bộ thị Ân Quang;

Văn Khúc thuận số chí sinh nhật,

Thối hậu nhất bộ Thiên Quý tràng.

QNB chú: không rõ là ở chỗ Thiên Quý bị chép nhầm chữ "nghịch" thành ra "thuận" hay là có sự khác biệt an sao với cách chúng ta vẫn dùng.

- An Cô Thần, Quả Tú

Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Dần Mão Thìn nhân an Tị Sửu < tị cô >

Tị Ngọ Mùi nhân phạ Thân Thìn < thân cô >

Thân Dậu Tuất nhân cư Hợi Mùi < hợi cô >

Hợi Tý Sửu nhân Dần Tuất điền < dần cô >

QNB chú: xem cách chú thích trong bài này để rõ hơn về cách chú thích của họ trong bài quyết an Khôi Việt.

- An Thiên Hư Thiên Khốc

Quyết viết:

Thiên Khốc, Thiên Hư, khởi ngọ cung,

Ngọ cung khởi Tý, lưỡng phân tung;

Khốc nghịch tị hành hư thuận vị,

Sinh niên tầm đáo tiện cư trung.

Khởi lệ: phàm mệnh đều lấy 12 Chi năm sinh làm chủ. Giả như người sinh năm Thìn, thì từ Ngọ cung khởi năm Tý, nghịch hành qua Tị cung, cho đến Dần cung là đếm tới Thìn, liền an Thiên Khốc. Lại từ Ngọ cung khởi năm Tý, thuận hành qua Mùi cung cho đến Tuất là đếm tới Thìn, liền an Thiên Hư. Ngoài ra phỏng theo như thế. Như người sinh năm Tý thì Khốc Hư nhị tinh đều liền an tại cung Ngọ.

- An Đại Hao sát

Lấy Chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Thử kỵ dương đầu thượng,

Ngưu sân mã bất canh.

Hổ hiềm kê uế đoản,

Thỏ oán hầu bất thanh.

Long tăng trư diện hắc,

Xà kinh khuyển ngọa khuẩn.

Hữu nhân phạm thử sát,

Tài thực tán linh đình.

=

Chuột ghét Dê trên đầu

Trâu giận Ngựa chẳng cày

Hổ ngại Gà mỏ ngắn

Mèo oán Khỉ không kêu

Rồng hận Lợn mặt xám

Rắn sợ Chó nằm thiu

Có người phạm Sát ấy

Của cải tiêu tán luôn.

QNB chú: sao Đại Hao này được an với Địa Chi tuổi, khác với Đại Hao theo vòng Lộc Tồn/Bác Sĩ, cũng khác với Đại Hao an theo Địa Chi trong môn Thất Chính Tứ Dư.

- An Tang Môn, Bạch Hổ, Điếu Khách, Quan Phù

Lấy chi năm sinh để an bài, quyết viết:

Thái tuế nhất niên nhất thế hoán,

Tuế tiền thủ tiên thị Hối Khí.

Tang Môn, Quán Sách cập Quan Phù,

Tiểu Hao, Đại Hao, Long Đức Kế.

Bạch Hổ, Thiên Đức liên Điếu Khách,

Bệnh Phù cư hậu tu đương ký.

Phần lời răn và quan niệm về đẩu số

* Phương pháp và nguyên tắc của việc định cung vị trọng điểm (lấy việc đầu tư làm thí dụ):

a, Muốn dùng việc đầu tư ròng để kiếm tiền, cung vị trọng điểm tất định tại cung Phúc Đức.

b, Xem xét thật kỹ mức độ cát hung của tam đại phúc đức cung, so sánh tính toán tương quan nặng nhẹ của chúng.

c, Tam đại Kị giao hội mạnh hơn so với lưỡng đại Kị, lưỡng đại Kị mạnh hơn so với nhất đại Kị.

Lộ trình tương tự, xem cho kỹ tác dụng mạnh yếu của Lộc tinh, cũng với so sánh như thế.

d, Bất luận là cát hay hung, miễn là tạo thành được "Cách cục", đều lấy tác dụng của "cách cục" mà so sánh sự mạnh mẽ. Bởi vì mức độ của cát hung, đầu tiên lấy cái việc thành cách của "cách cục" ra để mà luận. Khi không thành "các cục", sẽ tùy thuộc vào Lộc cát Kị hung để so sánh tính toán mức độ mạnh mẽ của chúng.

e, Mức độ của cát với hung, còn cần phải chú ý tới cung vị trọng điểm cùng các tình huống miếu vượng hãm nhược của các Tinh diệu ở tam phương. Tinh diệu ở vượng cung thì Lộc cát rất tốt đẹp, còn hãm địa thì Lộc cát cũng chỉ là hư phát. Ở vượng cung thì Kị hung là yếu tố xung kích, chỗ hãm địa thì Kị hung cực kỳ hiểm ác.

* Vận hạn của một người nào đó khi tiến nhập niên phần sáng sủa lại có đới hung sát thì <sự sáng sủa là do chỉ trông cậy vào mỗi cường vượng của chủ tinh mà nói> sẽ thường gặp phải những phán đoán sai lầm lớn.

* Đẩu số luận mệnh, khi gặp cát hung hỗn tạp, sẽ không vì cái hung mà làm tổn hại đến cái cát, cũng sẽ không vì cái cát mà làm giảm cái hung của nó. Bởi vậy mà mệnh bàn xuất hiện cát hung tương bạn thì nhất định phải "Cát hung phân đoạn" (Phân chia rõ cát hung mà phán đoán).

* Bản đại hạn mà hung ác, nhưng đại hạn sau lại tốt đẹp, sẽ khiến cho cuối đại hạn này có xu hướng chuyển sang tốt dần lên, lại tham chiếu tình huống của 3 năm lưu niên cuối cùng của bản đại hạn sẽ càng nghiệm.

* Luận đoán lưu niên của Đẩu số, nhất định phải căn cứ trên cát hung sở thuộc của đại hạn, coi như là căn cứ quyết định. Vừa lưu niên Tứ Hóa tinh, lại vừa lưu niên Kình Đà Lộc Tồn, thông thường đối với đại hạn sản sinh ra tác dụng dẫn động, mà tác dụng ấy thường thường hướng vào các tinh diệu của cung vị lưu niên (bao hàm tam hợp phương) làm ảnh hưởng càng thêm trọng yếu. Ngoài ra cần xem và xâu chuỗi mối quan hệ nhân quả của các năm liên tiếp gần hạn lưu niên đó để mà suy đoán cho kỹ tính chất liên quan trước sau. Dựa vào phân tích ở tại thời gian một năm nào đó trước đấy là "nhân" và ở tại thời gian một năm sau đó có khả năng phát sinh "quả".

Tiền nhân hậu quả của tính liên tục loại này, cùng với phép luận của lưu niên dẫn động đại hạn, có thể lấy mà phân tích mệnh bàn đẩu số, từ trạng thái tĩnh dẫn đến trạng thái động, từ đó có thể tìm hiểu sự tình diễn biến tiền nhân hậu quả.

* 30 năm đầu thì chú trọng vào tiên thiên Mệnh cung, 30 năm sau chú trọng vào Thân cung (ước chừng từ giữa đến nửa cuối đại hạn thứ 3 là bắt đầu tính).

* Ở trong đẩu số truyền thống, luận đoán nam mệnh, ngoại trừ các cách cục ở Mệnh Thân cung, thì còn phải lấy 2 cung Tài Quan làm trọng điểm. Nhưng với nữ mệnh, ngoại trừ Mệnh Thân cung thì lấy 2 cung Phu Tử làm trọng điểm.

* Nếu như muốn đi sâu vào nghiên cứu phán quyết đối với mệnh bàn, nhất thiết đầu tiên là bắt buộc phải thông thuộc và thấu triệt tính chất của tinh diệu, cùng với tác dụng "cách cục" của tổ hợp các tinh diệu đặc thù tạo thành. Nếu chỉ dùng sự dẫn động cát hung của Tứ Hóa, hiện tượng cát hung của sự suy luận thường giới hạn ở biểu hiện bên ngoài mà thôi, chứ đối với bản chất của nó thì rất khó mà thâm nhập lý giải.

* Người bình thường chỉ khán đại hạn mà không để ý đến khuyết tật thói xấu của tiên thiên Mệnh cung với các cung vị tiên thiên khác của nó, rồi cho rằng một ngày nào đó hành nhập đại hạn thì có thể bỏ mặc bàng quan với tương quan cung vị của tiên thiên, thì đó là quan điểm trái với thực tế khách quan.

* Diện tích lãnh thổ của Trung Quốc to lớn trải rộng, trong việc bài bố mệnh bàn của những người sinh ra ở các địa khu không thuộc Trung Nguyên thì phương pháp là: Đem thời gian tại địa phương nơi sinh ra, từ dương lịch hoán đổi thành âm lịch. Thời Thần của lúc sinh là hoán chuyển theo "giờ địa phương" (tức là Địa Chi giờ sinh lấy theo giờ địa phương nơi sinh).

Thêm một phương pháp: Bắc Kinh là 120 độ kinh đông, tra cứu xem độ số của địa phương nơi sinh ra là bao nhiêu độ kinh, sau đó lấy thời gian Bắc Kinh hoán chuyển thành thời gian địa phương nơi sinh. Như Quảng Châu là 113 độ kinh đông, thì giảm trừ đi 8 độ, mỗi độ là 4 phút đồng hồ, cho nên phải chậm đi 28 phút đồng hồ.

* Ở trong lý luận ứng dụng của Tứ Hóa tinh, cần phải chú ý đến: kết quả "liên Kị" mạnh hơn so với với "liên Lộc"; hay là "liên Lộc" mạnh hơn so với "liên Kị". Trong lý luận, đại hạn hiện tại cùng với song Kị của tiên thiên giao hội thì cung vị của song Kị giao hội sẽ có tác dụng rõ ràng mạnh mẽ. Cái đạo lý này, đồng dạng có thể ứng dụng đối với việc luận tam hóa "Khoa Quyền Lộc". Đặc biệt là hai sao Kị đó đối với cung vị nào đó của tiên thiên mà hình thành tác dụng giao hội thì, chính là hàm nghĩa, Kị tinh của đại hạn này xuất ra, tất nhiên sẽ phải đối với cung vị tiên thiên này tạo thành tác dụng kị hại rất rõ ràng mạnh mẽ. Lấy sự thụ hại tổn thất của cung vị tiên thiên đó để mà làm lúc phân biệt, nhưng cần khảo sát sự cường nhược của tinh diệu ở cung vị đó làm căn cứ luận đoán.

* Vận hạn nhập "cung không" thì, vận mệnh thông thường đều luận là nhược.

* Loại tác dụng tiếp diễn của hành vận <phép tắc dẫn động liên tục>, bất kể là tính lành hay tính ác, đều có thể hiện ra rõ ràng mạnh mẽ về tính xu thế của nó, vì vậy cũng đều lần lượt tham gia các bước phát triển về sau. Tính liên tục ấy tại hai đại hạn thì sẽ có tác dụng hiển lộ tính xu thế ở đại hạn đầu và kết quả cát hung thông thường biểu hiện tại đại hạn thứ hai. Nếu như tính liên tục tại ba đại hạn thì tính xu thế ảnh hưởng sẽ càng lớn, kết quả cát hung biểu hiện tại đại hạn thứ ba và biểu hiện mạnh hơn ở đại hạn thứ hai.

* Câu <Lộc phùng xung phá, cát xứ tàng hung> của Đẩu Số, hàm chứa cái sự xung chiếu của Sát tinh và Kị tinh đối với Lộc tinh, nhưng cát hung phía sau của Kị Sát tinh xung phá Lộc tinh thì thường là dựa vào <cung vị sự việc> mà có chỗ khác biệt: Bản hạn cung mà vượng, Kị <hàm Sát> xung hai cung <Tài Quan> thì không xung không... (QNB chú: chữ gì đó bị mất). Nếu bản cung mà nhược yếu thì <Tài Quan> đã bị Lộc Kị xung lại luận đoán là bất lợi. Nhưng Kị <Sát> Lộc xung chiếu các cung lục thân cùng với cung Nô Bộc, Tật Ách thì chủ nhân đều bất lợi.

* Trên mệnh bàn chỉ hội cát mà <lục sát hoàn toàn không hội chiếu>, loại tổ hợp mệnh bàn này, ảnh hưởng trực tiếp tích cực: là một dạng cả đời sự nghiệp bày ra không có trở ngại, cách cục không bị phiền nhiễu bởi các biến hóa; nhưng đối với mặt tiêu cực thì bởi vì không thấy chư sát kị tinh, khiến cho mệnh cách ở trong mệnh lý tiên thiên là không được trang bị <ý thức về sự gian khổ>. Dạng mệnh cách này nếu như ở vào những người với những công việc ổn định, khuôn phép, sáng cắp ô đi tối cắp về thì dần dần cũng tiến tới được thành quả nhất định; nhưng đối với những công việc mang tính khai phá hoặc chiếm lĩnh, sáng tạo, thì không phải khả năng mà mệnh cách này có được.

* Về tiêu chuẩn cách cục <cát hung tương bạn> nếu mà ứng với nó thì sẽ tiên thịnh hậu suy (trước thì tươi tốt thinh vượng nhưng càng về cuối càng suy vi sút kém).

* Đối với Thân cung tại vận hạn hậu thiên, một khi đã bị <dẫn động>, sẽ khiến cho tâm lý của đương số xuất hiện <sự điều chỉnh tác dụng> phù hợp.

* Trong luận đoán cát hung, mọi thứ đều cần lấy <cách cục> làm trọng, cũng chính là do <cách cục> hình thành sau cùng nên nhất định trước tiên phải khán cách cục. (Chú thích: cát cách > hung tượng; hung cách > cát tượng. Cát cách; hung cách cùng tồn tại là cát hung tham bán, sẽ cần phải khán sự dẫn động của Thiên Can vận hạn).

* Đẩu số <Tam Thai> lý luận, ngay trong hung hạn liên tục 3 cung: ba hạn lưu niên <hoặc đại hạn> thì thường hội tại cái cung hạn thứ hai dần biểu lộ hung tượng, trễ nhất thì ở cung hạn thứ ba sẽ hoàn toàn hiển lộ hung tượng.

* Các sao Bắc đẩu: cương (mạnh mẽ); khoái (nhanh chóng); nguyên lai (vốn dĩ sẵn có)

các sao Nam đẩu: nhu (mềm dẻo); mạn (chậm); tân lai (vừa mới xảy đến).

* Cách cục ở Mệnh Thân cung, chính thị đại biểu cho tình hình tính chất đặc biệt về mệnh lý của đương số đó, kết quả chính là thánh hiền, tài năng, ngu đần hay là bất tài.

* Lục sát, tuy rằng liệt vào nhóm hung tinh sát diệu, nhưng sáu sao này ngoài tính chất dẫn hung thành ác, hoặc là có thể chuyển hung thành cát, thường thường dựa vào các tinh diệu cấp Giáp, có thể không dựa vào sự cường vượng mà được <chế sát vi dụng> để mà luận định.

* Thân cung đối với vận thế sau thời kỳ trung niên, có ảnh hưởng điều chỉnh tương đối lớn. Một người nào đó suốt cuộc đời cho đến trước lúc già cuối đời, càng từng trải càng tốt hay càng hỗn tạp bó buộc càng hỏng, sự cường vượng hay yếu nhược và cát hung của Thân cung chính vốn có tác dụng điều chỉnh mạnh mẽ tương xứng.

* Căn cứ vào Mệnh cung làm lý luận đầu mối then chốt tổng quát cho mệnh bàn, sau khi một người nào đó đi vào vận trình đại hạn, cần phải suy luận ở bản cung vận hạn, cũng cần lấy cách cục của mệnh cung tiên thiên làm cơ sở, tiếp đó hãy đánh giá xem đại hạn đó tinh diệu có khả năng phát sinh ảnh hưởng hay không. Giả dụ như người "Sát Phá Lang" mà hạn vận hậu thiên lại đi đến cung cũng gặp cách cục loại ấy thì anh ta đương nhiên sẽ có những khuynh hướng lớn của sự thay đổi hoàn cảnh. Giả dụ như người "Cơ Nguyệt Đồng Lương" mà khi nhập hạn vận "Sát Phá Lang" thì anh ta trong loại hạn kiểu này sẽ có khuynh hướng chủ biến động ở trong vận trình, dù cho có cả sự thay đổi hoàn cảnh, nhưng biến động của anh ta sẽ gặp phải là rất ít. Cùng là loại hạn vận tại cung vị "Sát Phá Lang" nhưng mà do sự không giống nhau của đương số nên không thể có cùng một loại nhận định, chỉ cần hạn nhập cung vị loại nào, đều chủ có sự biến động hoàn cảnh lớn nhỏ tương ứng.

* "Phép tắc liên tục dẫn động" chẳng qua chỉ là một loại phương pháp suy đoán đối với một sự việc nào đó. Lợi dụng phương pháp này, có thể giúp lý giải quá trình và những động thái biến hóa của sự việc. Nhưng bản chất cát hung của sự việc lại không đơn giản chỉ là áp dụng phương pháp này mà có thể phân biệt rõ ràng được.

Mệnh Thân và ảnh hưởng của Thái Tuế

Có thể ứng dụng quan niệm [Biểu, Lý] trong lý luận của Đông Y để mà giải thích về Mệnh lý đẩu số đối với Mệnh Thân và tác dụng của Thái Tuế (QNB chú: theo Đông Y thì cặp [Biểu, Lý] gắn liền với lý luận cặp Âm Dương, Biểu là biểu lộ bày tỏ biểu hiện ra bên ngoài, Lý là nội tại ở bên trong). Cách cục của Mệnh Thân hình thành bộ khung và phong cách biểu hiện của một cá nhân, cho nên nó thuộc về [Biểu], còn cung vị Thái Tuế ví như sự ảnh hưởng mạnh tới mức độ nào đó, thường thường là động lực căn bản của các mưu đồ hành vi tư tưởng, mà cái động lực căn bản đó chính là thông qua biểu hiện tác phong hành sự của Mệnh Thân cung mà biểu lộ ra bên ngoài. Cho nên, ảnh hưởng của cung vị Thái Tuế thuộc về [Lý].

Trong kinh tế học có câu danh ngôn nói [sự vận động của kinh tế, chính là bị thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó], thực ra thì đối với mệnh lý mà nói, sự hưng suy khởi phục của cả cuộc đời một cá nhân, cũng là một phần thuộc về ở tự bản thân mình điều tiết, nhưng vừa tự điều tiết vừa có sự thao túng điều khiển bởi một bàn tay vô hình nào đó.

Tương tự thì loại [cung vị Thái Tuế] thuộc về cung vị có tính ẩn tàng của [Lý], cách cục tinh diệu của nó chính là như bàn tay vô hình tự điều tiết kia. Vô hình trung mưu chước thao túng lại thông qua Mệnh Thân cung và vận trình đại hạn mà xuất hiện phong cách hành sự. Đối với biểu hiện hành vi của một đương số thì cách cục cung vị Thái Tuế có ảnh hưởng tác dụng mang tính mấu chốt.

Đây là một hạng mục quan niệm, trên thực tế, cùng loại này thuộc về ảnh hưởng tác dụng của [Lý] lại vốn có ảnh hưởng của tính chất mấu chốt của cung vị có tính chất đặc biệt, [cung vị Thái Tuế] chỉ là một trong số đó, cũng không phải là cung vị duy nhất.

(Trích từ "Đẩu Số đàm Phụ Mẫu tình" của Tử Vân, P036)

Trước khi vận dụng "Thái Tuế nhập quái tượng", đối với với tính chất tác dụng của Thiên Can năm sinh và Thiên Can vốn có của cung vị, nếu sử dụng quan niệm "Biểu Lý" của Đông Y để mà thuyết minh, thì Thiên Can năm sinh chính là "Biểu", còn Thiên Can cung vị chính là "Lý". Tác dụng ảnh hưởng của "Biểu" thường thường biểu hiện qua những xử sự cá nhân của chỗ Thái Tuế của người ấy tọa thủ, còn biểu hiện của "Lý" chính là đem Thái Tuế nhập cung và giữa nó với mệnh tạo (đương số) sản sinh ra một mối quan hệ hỗ động lợi hại ghê gớm ở một mức độ nào đó thì biểu thị cho thấy tình hình.

Lấy mệnh bàn của ông chủ Lâm (nam mệnh, nông lịch năm 1936 tháng 2 ngày 7 giờ Tị) làm ví dụ để thuyết minh. Năm Giáp Thìn (1964) sinh con trai, cùng với phụ thân anh ta sống chung với nhau, thân tình giữa cha con không hề sút kém, chẳng qua là trong sự tham gia công việc nhà máy với phụ thân anh ta sau này thì cách xử sự e rằng hiếm khi thấy nhận được sự đồng thuận của cha anh ta. Rồi năm Bính Ngọ (1966) sinh con gái, vì năm sinh có can Bính khiến cho Liêm Trinh hóa Kị tại Tuất là Mệnh cung của cha cô ta, cung Tuất lại xung hội vào Ngọ và Thìn có chư sát tinh, hơn nữa lại có cả Kình Đà của năm Bính tại Ngọ và Thìn cung. Bởi vậy đối với mối quan hệ thân tình cha và con gái xem ra biểu hiện dường như không thể nào mà tốt đẹp được. Nhưng bởi vì cung Ngọ vốn có Thiên Can khiến cho Liêm Trinh hóa Lộc vào Tuất là Mệnh cung, và Phá Quân hóa Quyền tại Thân là Thân cung, còn Vũ Khúc hóa Khoa ở Dần cung là cung Quan Lộc. Bởi vậy mà cô ta đi làm ở nhà máy của cha mình, biểu hiện công tác của cô thường nhận được sự ưng thuận đồng tình trọn vẹn.

(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).

Thái Tuế của người khác nhập cung, nếu như các tinh diệu cấp Giáp ở chỗ sở tọa của Thái Tuế cùng với tinh diệu của cung Mệnh của đương số tạo thành hiện tượng sinh khắc khác biệt, tương sinh thì hợp, tương khắc thì không hợp.

(Trích từ "Đẩu số luận tử nữ" của Tử Vân, P256).

Quan niệm

Luận đoán mỗi một hiện tượng mệnh lý của các hạng mục cung vị, nhất định cần phải kết hợp tham khảo với Mệnh cung (hoặc bản cung Đại hạn) mà luận đoán. Cung Nô Bộc tiên thiên mà tốt, cung Nô Bộc đại hạn hội sát kị hung tinh, nhưng cung Mệnh tiên thiên ở trong vận trình này mà nhận được cát hóa khiến cho cách cục của cung Mệnh tăng cát, đồng thời bản cung đại hạn lại hội cát diệu, tự nhiên sẽ khiến cho tính hung của cung Nô Bộc đại hạn giảm hẳn đi.

Vẫn theo mệnh lý mà nói, vận trình lúc về già cao tuổi, trong trường hợp đi vào đại hạn có cách hung, nếu bất cập thì nên rút lui, còn xuất đầu lộ diện thì e rằng chẳng có gì tốt đẹp đâu.

Với mệnh lý mà nói, có thể trong hoàn cảnh thời thế tạo anh hùng với người bộc lộ tài năng, tự nhiên phải vốn có sẵn một chút điều kiện mệnh lý chính xác tương xứng. Một người thành công, dĩ nhiên có điều kiện mệnh lý của họ, nhưng cũng nhất định cùng với hoàn cảnh thời đại của xứ sở của anh ta có liên quan, chứ cũng chẳng phải là hoàn toàn do nhân tố mệnh lý tạo thành.

Tổ hợp tinh diệu của Mệnh Thân cung tạo thành cát cách, ở Thiên Di cung lại có nhóm cát tinh tụ tập, dạng đương số kiểu này cả một đời vận trình gặp được không chỉ là sự thuận lợi chẳng có sự ngăn trở, mà còn dễ dàng nhận được sự dìu dắt đề bạt của quý nhân. Nói cách khác, dẫu không được quý nhân đề bạt, chủ yếu là dựa vào sự phân định nghiên cứu những dấu hiệu mệnh lý biểu hiện ở Mệnh Thân cung và Thiên Di cung. Ngược lại, nếu như người mà tổ hợp ở Mệnh Thân với Thiên Di cung mà kém đẹp, trong đời khó mà gặp được quý nhân đề bạt, mà dẫu cho có may mắn gặp được quý nhân khen ngợi đề bạt thì cũng e rằng là chẳng dễ có được cách cư xử tốt đẹp.

Phần cung Phu Thê với tình cảm hôn nhân <<Tử Vân luận hôn nhân>>

Lời nói đầu

Cận đại có rất nhiều người tìm hiểu mệnh lý đẩu số, thường đem những bài ca phú của các bậc tiên hiền, mà họ thuộc như cháo chảy, mỗi khi gặp lúc suy đoán hoạt bàn mệnh lý là thường dẫn dụng các câu văn lời phú để mà làm căn cứ luận đoán.

Thí dụ như, đàm luận về phương diện Phu Thê cung, thì khả năng gặp sự viện dẫn:

"Thái Vi phú":

Thái Âm đồng Văn Xương vu Thê cung, thiềm cung chiết quế.

(Thái Âm cùng với Văn Xương ở cung Phu Thê thì như bẻ cành nguyệt quế cung trăng, ám chỉ việc lấy vợ đẹp lại là con nhà danh giá, được nhờ vợ mà công danh thăng tiến).

Hay là như:

Thái Âm hợp Văn Khúc vu Thê cung, hàn lâm thanh dị.

(Thái Âm hội hợp với Văn Khúc ở cung Thê thì như giới hàn lâm thanh cao khác thường, cũng ám chỉ tương tự như trên).

Dường như người mà cung Phu Thê có cách cục loại này, chẳng những trong đời sẽ lấy được vợ xinh đẹp như các mỹ nhân tiểu thư, mà sau khi cưới được người vợ vượng phu ích tử, khiến cho con đường quan lộ được đắc ý, từng bước thăng tiến cao, việc buôn bán cũng như sự nghiệp đều như chim hồng chim hộc bay cao, của cải sinh sôi dồi dào.

Lại như "Ngọc Thiềm phát vi luận":

Thiên Diêu Phu Thê cung tắc tà dâm nhi đam tửu;

Sát lâm Phu Thê cung, định Phu Thê bất hòa.

(Thiên Diêu đóng ở cung Phu Thê thì tà dâm và mê hoa luyến tửu; Sát tinh lâm vào cung Phu Thê thì xác định là vợ chồng bất hòa).

"Nữ Mệnh Cốt Tủy phú":

Tam phương tứ chính hiềm phùng sát,

Cánh tại Phu cung họa hoạn thâm

Nhược trị bản cung vô chính diệu,

Tất chủ sinh ly khắc hại chân.

(Tam phương tứ chính mà gặp sát tinh

Gặp thêm ở tại cung Phu là tai họa càng nặng

Nếu gặp bản cung mà vô chính diệu

Thì nhất định chủ sinh ly khắc hại).

Nếu căn cứ vào những thuyết pháp này, người nam mà có cách hung ở cung Phu Thê thì không những là kẻ phóng đãng tham luyến tửu sắc, mà hôn nhân cũng chắc chắn còn bị xáo trộn kiểu chó nhảy gà bay. Nữ mệnh thì không những trong quãng thời gian trung niên chủ bị hôn nhân có sự sinh ly tử biệt, mà còn cả một đời cũng phải trải qua những chuỗi ngày khó nhọc.

Bởi vì quan niệm mệnh lý truyền thống cho rằng, một cá nhân mà cung Phu Thê có dạng như thế nào thì nhất định là trong cuộc sống hôn nhân sẽ xuất hiện những trạng thái tình huống đúng với dạng đó. Nếu cung Phu Thê cát, tất nhiên cả đời hôn nhân sẽ mỹ mãn, tình thâm nghĩa nặng, sát cánh kề vai. Còn như cung Phu Thê hung, nếu không nửa đường đứt gánh vì phải chịu tang người phối ngẫu, thì cũng là chia lìa đôi ngả, đường ai nấy đi.

Nếu căn cứ quan niệm mệnh lý dạng này của Tử Vi truyền thống để mà luận đoán tình hình hôn nhân của một cá nhân thì hoàn toàn phụ thuộc vào cung Phu Thê. Như thế thì chỉ cần người nào đó có cùng mệnh bàn lá số (cùng năm cùng tháng cùng ngày giờ sinh, hoặc là người có tổ hợp mệnh bàn tương tự gần giống) sẽ gặp những tình huống phát sinh như sau:

Thứ nhất, lý ứng vào cùng năm (tuổi) kết hôn hoặc ly hôn.

Thứ nhì, lý ứng về tình hình hôn nhân tương đồng, hoặc đều có nhân duyên mỹ mãn, hoặc cùng là các đôi vợ chồng bất hòa.

Thứ ba, đều có sự tương đồng về sinh ly hay tử biệt, cũng đều có số lần tái hôn và kết quả tái hôn tương đồng với nhau.

Nhưng căn cứ vào kinh ngiệm tích lũy mà bút giả biết, ảnh hưởng của cung Phu Thê dĩ nhiên là cung vị trọng yếu của luận đoán cát hung về hôn nhân. Nhưng nên biết là nó không phải cung vị trọng điểm duy nhất của đời sống hôn nhân trên thực tế.

Bút giả cho rằng, cung Phu Thê ấy, lý ứng tiêu biểu cho một người đương số ấy. Trong một dạng "hình thái ý thức" của hôn nhân và tình cảm nam nữ, thường thường chi phối đương số ấy về phương diện hôn nhân và tình cảm, theo các tiêu chuẩn và quan niệm của đương số xử lý như thế nào. Cái cung vị này lại như một bàn tay vô hình nào đó âm thầm thao túng, tạo thành động lực gốc của cá nhân ấy xử lý vấn đề tình cảm hôn nhân như thế nào.

Nếu theo quan điểm này để mà tìm hiểu về cung Phu Thê, công năng của nó trong mệnh lý đẩu số chẳng qua là phản ứng của một cá nhân trong phương diện tâm lý hoặc ý nguyện về tình cảm với hôn nhân. Chứ không thể tiêu biểu cho trạng huống đời sống hôn nhân và tình cảm thực tế của một cá nhân.

Bởi vậy, trong truyền thống đối với nhận thức về tác dụng của cung Phu Thê, cũng không thể sử dụng để mô tả giải thích hết được về đời sống hôn nhân với tình cảm trên thực tế được.

Bút giả phát hiện nghiệm lý được qua vô số kinh nghiệm luận mệnh, có nhiều lá số với cung Phu Thê gần như là tương đồng về cát hung vậy mà xuất hiện kết quả về hôn nhân với tình cảm hoàn toàn không tương đồng. Một cung Phu Thê khán thấy dường như "đại cát", lý ra ứng với hôn nhân mỹ mãn, bạch đầu giai lão, nhưng mà kết quả cuối cùng thì lại là sinh ly với tử biệt. Ngược lại, cung Phu Thê có Kị sát giao xung khắp nơi đầy hung tượng, nhưng hôn nhân cả đời lại êm ả chẳng có sóng gió gì cả, thành tựu nhân duyên tốt đẹp. Cát hung của cung Phu Thê ấy, cùng với hôn nhân thực tế hình thành ví dụ thực tế trái ngược lại về mệnh lý. Phàm những người vốn có kinh nghiệm về mệnh lý, chắc cũng đều đã gặp những trường hợp như thế.

Nhưng đáng tiếc là đối với vấn đề mâu thuẫn này, trong các các tác phẩm cổ thư hình như chưa thấy đề cập, trong các tác phẩm mệnh lý đẩu số gần đây càng không thấy đàm luận. Thật không rõ là do các cao nhân tiền bối từ xưa tới giờ rốt cuộc là vì giữ kín không nói ra, hay là vì chưa từng suy nghĩ đến cái đó, hay là không có cách nào khai giải câu đố ấy mà không đi sâu hơn nữa?

Bởi vì, về cung Phu Thê, vừa không thể dùng trọn vẹn nhưng vừa phải dùng trên thực tế để khảo sát vấn đề của trạng huống đời sống hôn nhân chân thực, do đó mà trở thành thiên cổ huyền án.

Chỗ học về mệnh lý đẩu số truyền thống, dĩ nhiên có cái tinh túy của nó để khai thác lập luận, trong luận đoán mệnh lý cũng có sự mở rộng các chỗ độc đáo ở khắp nơi đều rất chuẩn tắc. Nhưng mà trong phương diện kỹ xảo suy diễn và lý luận cũng có nhiều sơ xuất thiếu xót, cứ như là cái kiểu hết giấy khó viết rõ ra được. Cái môn Đẩu Số bao nhiêu năm nay toàn là dậm chân tại chỗ mà đình trệ chẳng có bước tiến, nghiên cứu nguyên nhân của nó, thực chính là do bản thân chúng ta, không thể không khiến cho trong lòng than thở không nguôi!

Tại đây, bút giả đề xuất phương pháp ứng dụng và lý luận của "Thái Tuế nhập cung" hay là "Thái Tuế nhập quái" cùng với "Nguyên lý tương khế" (tương ứng tương hợp qua lại lẫn nhau). Khả dĩ sử dụng để giải quyết thiên cổ huyền án, nhưng một sự phát hiện với lý luận mới sơ khai thì khó mà tránh được những chỗ khiếm khuyết, do đó rất mong các tiền bối cao nhân đồng nghiệp có thể chỉ giáo, thì hậu học thật là may mắn! Môn học đẩu số cũng thật là may mắn!

Phu Thê cung và hôn nhân tình cảm

Mấy năm gần đây, tốc độ viết sách và ra sách liên tục vào mỗi năm một quyển, dù không dám nói ngoa là các công trình chắc chắn tinh tế sống động, nhưng độc giả cần hiểu cho là, trong khi đã đặt bút viết thì bút giả có thái độ rất cẩn thận tỉ mỉ.

Mỗi khi một bản sơ thảo của một quyển nào đó được hoàn thành, điều quan trọng đầu tiên là mang nhờ một hai vị chuyên gia cùng giới (đẩu số) trợ giúp duyệt bản thảo. Tra soát xem những ý chính luận đàm trong cách hành văn có gì khó hiểu, để tránh phạm vào cảnh vừa đá bóng vừa thổi còi (tự thuyết tự đạo, tức là cảnh vừa tự hát lại vừa tự khen) mà có thể gây khuyết điểm khiến độc giả không biết là đang nói những gì.

Khi bản sơ thảo của quyển "Đẩu Số luận nhân duyên" này hoàn thành, tôi cũng mời hai vị chuyên gia trong giới đẩu số là các tiên sinh Chu, Triệu trợ giúp duyệt bản thảo, nhằm mong nhận được những ý kiến khách quan. Nhân đây cũng đặc biệt xin gửi lời cảm tạ tới hai vị ấy.

Sau khi xem trọn vẹn tất cả bài viết, các ông ấy chẳng hẹn mà cùng bày tỏ rằng: Đây vừa là một quyển có lập luận so với truyền thống là mang luận điểm rất lạ mà cũng rất kỳ thú. Độc giả phổ thông, nếu như trước khi vào đọc tác phẩm mà không có một chút khái niệm nào, thì khi đọc sẽ có thể bị phương pháp suy diễn và lập luận của sự độc đáo này khiến cho xây xẩm mặt m*y, lăn quay ra đất.

Ngay sau đó, các ông ấy đưa ra một số vấn đề, yêu cầu tôi phải thuyết minh trước.

Vượt qua 12 cung vị (siêu việt thập nhị cung vị)

Triệu tiên sinh nói: "Trong cuốn <<Đẩu số luận cầu tài>> anh đã công khai xác nhận giải thích đầy đủ thông qua cái lý cung vị trọng điểm của việc đắc tài lộc không chỉ ở Tài Bạch cung mà còn ở Phúc Đức cung. Chuyện như thế khác với luận điểm truyền thống, sau đó khiến cho rất nhiều đồng đạo của giới đẩu số rất kinh ngạc. Rồi lần luận đàm này về tình cảm và hôn nhân, lại không lấy dùng <<cung Phu Thê>> như truyền thống, e rằng sắp tới sẽ tạo thành sự chấn động lớn hơn nữa. Nếu như mà không có những lời nhắn nhủ trước khi vào đàm luận các ví dụ mệnh lý thì e rằng khiến cho các độc giả theo luận điểm của quan niệm truyền thống sẽ đối với loại này sẽ cảm thấy mê hoặc, không thông suốt được!"

Chu tiên sinh cũng bổ sung nói: "Nghe qua anh giải thích mở ra về tác dụng và bản nghĩa của 12 cung vị hạng mục sự tình, cũng đã biết được rằng, với suy luận của anh về các cung vị hạng mục sự tình đó đã sớm thoát ly được ra khỏi cái vai trò khuôn mẫu vốn có 12 cung vị. Nhưng mà những điểm trọng yếu về suy luận và quan niệm dạng này, làm cho các đồng đạo mới ban đầu đọc đến cái tác phẩm này, e rằng không những là sự chấn động mà còn khiến cho cho đẩu số mệnh lý sinh ra sự hoài nghi triệt để, thậm chí vì nó mà có thể gây ra sự mất lòng tin!".

Đối với tôi (QNB chú: chữ "Tôi" ở đây tức là ông Tử Vân), mặc dù trong phương pháp suy luận và lý niệm về đẩu số có rất nhiều phương diện khác với truyền thống. Nhưng coi như là một người nghiên cứu nghiệp dư yêu thích đẩu số, trộm nghĩ truy cầu diện mạo thực sự của mệnh lý đẩu số chứ cũng bất kể là so với lý niệm và phương pháp suy luận có cái gì sai biệt lớn. Bởi vì văn minh của nhân loại vốn ngay trong quá trình tiếp diễn đều không ngừng mong muốn có những bước tiến bộ. Nếu như mà quá sùng cổ phi kim (yêu cái cổ xưa mà không lý gì đến cái hiện đại) thì là một trở ngại của sự tiến bộ, còn nếu mà quá phi cổ sùng kim (bỏ cái cổ mà sùng bái cái hiện đại) thì cũng khiến cho văn minh tạo thành sự đứt đoạn từng khúc.

Bởi vậy mà, với tôi mặc dù trong phương pháp suy luận mệnh lý đẩu số, có chút khác biệt với phương pháp truyền thống, nhưng trên cơ bản thì chút lý niệm mới của tôi vẫn là có nguồn gốc từ quan niệm đẩu số của truyền thống. Chẳng qua chỉ là đem cái quan niệm truyền thống này mà một lần nữa làm sự đột phá vào cái khuôn mẫu sẵn cũ đó để giải thích và vận dụng, khiến cho nó có thể thêm phù hợp để mà tìm hiểu cái đạo, cái lý của mệnh lý trong sự phức tạp đan xen lẫn lộn của đời người.

Ảnh hưởng tác dụng và bản ý của cung Phu Thê

Triệu tiên sinh: "Trong truyền thống, nắm cát hung của cung Phu Thê thì coi như nắm được căn cứ luận đoán về hôn nhân suốt đời của đương số. Anh hình như là không thực hiện theo khán pháp loại ấy?".

Quan niệm loại này, nói một cách nghiêm túc thì cũng chẳng có cái gì là sai khác lớn. Bất quá thì nếu như đem cung vị ấy khán được đương số ấy, nó khác với một dạng "hình thái ý thức" trong tình cảm và hôn nhân, có lẽ càng thêm bổ khuyết.

Chu tiên sinh: "Nếu được thì anh có thể nó cụ thể hơn chút nữa chăng?"

Thí dụ như nói, người mà cung Phu Thê có tổ hợp "Sát Phá Lang", vì ảnh hưởng tính chất được phú cho thuộc loại cương cường rõ rệt và ảnh hưởng về tính động của nó cũng rõ rệt. Do đó mà đương số dạng này, anh ta trong sự lựa chọn đối tượng tình cảm cho mình, thường hội khuy hướng ở sự lựa chọn những người mà có cá tính tương đối mạnh và có tính linh hoạt rõ rệt. Còn nếu như là cung Phu Thê lại thuộc loại "Cơ Nguyệt Đồng Lương", anh ta sẽ có khuynh hướng lựa chọn người có cá tính hòa nhã thuộc dạng ôn hòa rõ rệt.

Hành động và biểu hiện của một cá nhân, ngoại trừ chịu sự tác động ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài, thì chủ yếu nhất vẫn chính là chịu sự dẫn dắt của quan niệm và tư tưởng của người đó. Chuyện như thế thuộc về quan niệm và tư tưởng của cá nhân cũng chính là "hình thái ý thức" của anh ta. Đem vận dụng lý luận như thế vào cung Phu Thê, đối với ảnh hưởng tác dụng của cung vị này trên mệnh bàn vốn có thì có thể thu được thêm sự ứng dụng và giải thích hợp lý và trọn vẹn hơn nữa.

Chân tướng cát hung theo phản ánh của cung Phu Thê

Chu tiên sinh: "Có một số cung Phu Thê dường như cát, nhưng hôn nhân cũng không phải là rất tốt đẹp. Có một số cung Phu Thê dường như hung, nhưng hôn nhân cả đời lại chẳng có trở ngại. Rốt cuộc thì là do cái gì?"

Một cá nhân khi mà chưa kết hôn, thì không khỏi luôn mong chờ một cuộc hôn nhân mỹ mãn, do đó đều dựa vào cái lý tưởng trong "hình thái ý thức" để mà đi lựa chọn đối tượng. Nhưng "ý thức" của con người, trong cuộc đời thường gặp sự hiệu chỉnh và cải biến tùy rõ rệt theo tuổi tác và hoàn cảnh.

Thí dụ như nói, người ta lúc còn trẻ, gặp chuyện là hăng hái xông lên mạnh mẽ thập phần; đến khi trung niên thì xử sự ổn trọng, biết chỗ tiến thoái; đến lúc lão niên thì phong mang nội liễm (mũi kiếm đã tra vào trong bao, ý nói sống hướng nội hơn khi trẻ) chẳng mảy may chút nào với được mất. Diễn biến của thái độ xử sự dạng này, ngoại trừ do sự tăng trưởng của tuổi tác con người ra, thì thường cũng do sự biến hóa thay đổi của hoàn cảnh, khiến cho tâm thái, hình thái ý thức, của cá nhân đó nảy sinh ra sự biến hóa thay đổi hoặc là điều chỉnh cực lớn. Cho nên con người ta trong phương thức xử sự ở đời mới có những khác biệt quan trọng về giai đoạn tuổi tác.

"Hình thái ý thức" của một cá nhân trong phương diện hôn nhân cũng có những hiện tượng điều chỉnh hoặc là thay đổi theo tuổi tác kiểu đó.

Bởi vậy để mà nói, vì sao chỉ với mỗi mình cung Phu Thê tiên thiên cũng có lúc không thể xem được đối với đương số ấy về nguyên nhân của các trạng huống của hôn nhân thực tế.

Khi đem suy diễn các trạng huống hôn nhân thực tế, ngoại trừ quyết định bằng cách lấy hiên tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên ra, còn phải lưu ý đến những hình thưc biểu hiên cát hung của cung Phu Thê hậu thiên lúc hành hạn như thế nào, khả năng đối với hôn nhân tạo thành ảnh hưởng ra làm sao.

Thí dụ như nói:

Thứ nhất, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng trong đại hạn sau khi kết hôn lại không ngừng khiến cho Kị tinh xung kích từ Quan vị này, khiến cho cát tượng vốn có của cung Phu Thê tiên thiên chuyển thành hung, mà khiến cho hôn nhân phải chịu sự phá hoại.

Thứ hai, cung Phu Thê tiên thiên kém đẹp, nhưng liên tục mấy đại hạn sau khi kết hôn, lại thường xuyên có Hóa Lộc chiếu vào cung vị đó, cái sự hội tụ đó khiến cho sự kém đẹp ở cung Phu Thê tiên thiên lại chuyển từ hung thành cát.

Thứ ba, cung Phu Thê tiên thiên tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn liên tục biểu hiện hung tượng thì sự hòa hợp của vợ chồng mỗi ngày một giảm đi.

Thứ tư, cung Phu Thê tiên thiên không tốt đẹp, nhưng các cung Phu Thê đại hạn sau khi kết hôn lại liên tục biểu hiện cát tượng, thì sự tương hội của hôn nhân như là chuyển thành cảnh khổ tận cam lai, càng về sau càng ngọt ngào.

Hoàn cảnh có khi cũng hội những ảnh hưởng đến sự hài hòa hay không của hôn nhân. Tục ngữ vốn có câu nói "bần cùng phu thê bách sự ai" (nghèo khó thì vợ chồng trăm sự đều bi thương). Người như thế một khi cung Phu Thê tiên hậu thiên mà kém đẹp, lại vì gia cảnh quẫn bách, thì gặp sự hung ác hóa tăng nặng thêm về quan hệ hôn nhân. Do đó mà luận hôn nhân, có khi hoàn cảnh gia đình cũng là một điều kiện mà không thể bỏ qua được.

Tảo Hôn và Trì Hôn (kết hôn sớm / muộn)

Triệu tiên sinh: "Tảo hôn hoặc trì hôn thật rõ rệt (trên thực tế), từ xưa tới nay trong mệnh lý dường như cũng rất là trọng thị, cái đạo lý này là do đâu? Giới hạn tuổi tác của sự kết hôn sớm muộn là như thế nào?"

Thông thường đều theo hiện tượng cát hung của cung Phu Thê tiên thiên để mà phân định có hay không việc có thể kết hôn sớm hoặc là nên kết hôn muộn.

Trạng thái tâm lý của con người có thể tùy vào tuổi tác mà có sự điều chỉnh hoặc biến hóa thay đổi trước rõ rệt. Con người ta gần năm 20 tuổi đều đã có nhu cầu mạnh mẽ trong tâm lý và sinh lý về tình dục đối với người khác giới tính. Nhưng người trẻ tuổi ở cái độ tuổi này, khí huyết đương còn cương mãnh, sinh lý thì thành thục có thừa, mà tâm lý thì chưa đủ ổn định. Ở độ tuổi đó mà kết hôn thường khiến cho hai người vợ chồng trẻ đó thiếu sự tương kính với nhau, trong đời sống sinh hoạt chung thì phối hợp khó mà ăn ý.

Còn nếu kết hôn khi mà tuổi đã nhiều một chút, thì dầu cho hai vợ chồng trong sinh hoạt chung có chút khó khăn về sự ăn ý nhưng vì tuổi đã lớn một chút nên tâm lý đã chín chắn, thì cũng dễ dàng nhân nhượng mà thích ứng qua lại với nhau.

Cung Phu Thê tốt đẹp, vợ chồng cư xử với nhau dễ hòa hợp vui vẻ, tảo hôn sẽ không được như vậy. Nếu cung Phu Thê mà xui xẻo, rất cần phải kết hôn muộn mới hợp.

Tuổi của sự kết hôn sớm với kết hôn muộn, thời xưa và ngày nay có một sự chênh lệch rất lớn. Vào thời đại của lão tổ mẫu (bà cố), thông thường thì người trẻ tuổi ngoại trừ những ông có nguyên nhân đặc thù hoặc là hoàn cảnh hạn chế ra, thì thường thường vào khoảng 20 tuổi là kết hôn. Nhưng mà vào thời nay thì đâu đâu cũng thấy nam nữ đến 25, 26 tuổi mà vẫn chưa kết hôn. Xưa nay thì sự khác biệt về số tuổi kết hôn có nguyên nhân chính là do bối cảnh thời đại không giống nhau, chứ nó chẳng liên quan gì đến nhân tố mệnh lý cả.

Người xưa tảo hôn, người nay trì hôn.

Chu tiên sinh: "người xưa tảo hôn, người nay trì hôn, vì sao tình huống hôn nhân của người nay biến đổi nghiêm trọng hơn so với người xưa?"

Vào thời đại của bà cố ngoại thì hôn nhân của người nhi nữ là thường do mệnh lệnh của cha mẹ, theo lời mai mối mà thành hôn. Con cái được nàng dâu chính là dựa vào việc lo toan liệu làm hỉ sự thì con cái mới có vợ. Do đó hôn nhân đại sự của người nhi nữ, cũng chính là đại sự của gia đình. Cái chuyện hôn nhân như thế đã được quyết định bởi cha mẹ trong nhà, cho nên một khi có chuyện gì mà tình hình hôn biến xảy ra, dĩ nhiên là có sự định đoạt từ bàn tay quyền lực của cha mẹ ở trong nhà.

Nhưng thời đại gần đây, cái việc hôn nhân gần như là đều do người trẻ tuổi tự làm chủ đạo. Đôi thanh niên nam nữ, bất kể là trải qua một cuộc ái tình dài thượt lắm cảnh lâm li lệ rơi ướt áo trường bào hay là yêu nhau sét đánh từ cái nhìn đầu tiên, một khi đôi bên tình cảm đã ưng thuận thì có thể kết thành vợ chồng. Nhưng mà hôn nhân dạng này, cũng thường tồn tại cái sự không ưng thuận giữa đôi bên, và rồi xảy ra cái hiện tượng sống với nhau thì nảy sinh mâu thuẫn khiến cho vợ chồng đường ai nấy đi chia lìa đôi ngả.

Hôn nhân nếu nư thuộc về đại sự của gia đình, xả thân vì nó, thì người trẻ tuổi không được phép muốn làm cái gì thì làm, nên hôn nhân tự nhiên không dễ gì mà phát sinh biến đổi được. Nếu như hôn nhân chỉ dựa vào cảm tính của đương sự chỉ vì bản thân thì tính ổn định của hôn nhân rõ ràng là bạc nhược đó mà.

Cùng mệnh bàn, không cùng hôn nhân

Triệu tiên sinh: "Xưa nay, đối với việc cùng lá số mà không cùng hôn nhân, hình như chưa từng có sự giải thích rõ ràng hợp lý. Anh lần này có phát biểu sáng kiến mang tính đột phá, nhưng mà sự công bố đó của anh dường như vẫn chưa phải là toàn bộ phương pháp suy luận trọn vẹn. Vì sao lại có sự bảo lưu vậy?"

Lý luận "Thái Tuế nhập quái", có thể dùng để giải thích vì sao người cùng mệnh bàn lá số (cùng năm tháng ngày giờ sinh) và nguyên nhân vì sao hôn nhân của họ không giống nhau. Do đó cũng có thể lợi dụng lồng vào phương pháp và lý luận để mà giải quyết cái huyền án mà thiên cổ lưu lại này.

Tôi chẳng kiêng dè gì mà nói, đối với phương pháp suy luận và ứng dụng của bộ lý luận này, mặc dù cũng đã từng có rất nhiều bài viết đều dẫn dụng nói rõ, nhưng những phần đã công bố có lẽ chính là như hai phần ba chiêu thức của một bộ quyền thuật, chứ không phải là toàn bộ chiêu thức.

Chẳng qua tôi rất tin tưởng rằng, đối với những người có ý chí quyết tâm về đẩu số, phải biết thu nhận được sự khai mở gì sau khi đọc kỹ cuốn này, nếu như mà dụng tâm điều tra nghiên cứu thêm thì có thể từ lý luận này mà thâm nhập sâu rộng thêm vào mệnh lý đẩu số.

Vấn đề ly hôn

Chu tiên sinh: "Trong khi thảo luận kín và giảng giải phân tích bàn bạc về trường mệnh cách ly hôn, anh thường có những suy luận và dự đoán đúng trọng tâm. Nhưng trong cuốn sách này thì dường như có ý tránh mở ra sự thảo luận về phương diện này. Mà việc này cùng với lúc bình thường anh cùng với người ta luận mệnh, cũng cố ý tránh cái chỗ luận về việc thế nào cũng ly hôn. Hình như là có cái khéo của sự dị khúc đồng công (cùng nốt nhạc nhưng trong giai điệu khác nhau, ý nói về sự khéo biến tấu), rốt cuộc thì là do cái gì?"

Trong truyền thống, người Trung Quốc thường quan niệm là khuyến khích hòa hợp chứ chẳng khuyến khích ly tán. Năm đó ân sư của tôi cũng đã đem cái sự việc ly hôn mà liệt vào một trong ba điều đại răn của việc đàm luận mệnh lý. Có thể nghe theo mà chịu sự ảnh hưởng này, do đó mà ngoại trừ những lúc tham khảo bên lề về lý học ra, đối với những sự việc mà có khả năng xảy ra ly hôn, thì tôi luôn luôn chỉ là điểm trúng thì ngừng. Nhắc nhở người ta phải cẩn thận cư xử cho phải đạo trong phương diện hôn nhân, chứ nhìn chung là không đoán chắc là sẽ ly hôn.

Tôi mặc dù cũng đồng ý với cái thuyết của người phương Tây "Một đôi vợ chồng ly hôn, có thể sau đó sẽ tạo ra 2 đôi có nhân duyên mỹ mãn". Nhưng mà tôi lại cũng cho rằng, con người ta đến lúc trung niên, có sự việc liên quan tới ly hôn, vẫn cần phải biết suy xét lo toan và xử lý thật kỹ càng. Huống chi đối với cuộc tình thứ hai, đã chắc gì nhận được sự mỹ mãn? kết hợp có hạnh phúc? Chẳng có ai có thể dám đứng ra đảm bảo được.

Một cá nhân khi đến tuổi trung niên, một khi phát hiện ra hôn nhân không được mỹ mãn thì dĩ nhiên là bị giảm mất một nửa hạnh phúc đời người rồi, nên sẽ truy tìm quyền lợi ở cuộc tình thứ hai. Nhưng đối với con cái mà nói, thì đúng là cần phải có sự cùng chăm sóc giáo dưỡng của cả cha lẫn mẹ. Nếu như mà cha mẹ ly hôn, thường gieo vào trong tâm hồn của con cái một sự ảnh hưởng xấu mà không gì có thể bù đắp lại được.

Con cái vì cớ gì mà bị ruồng bỏ, vì cái gì buộc chúng phải chịu cái chuyện như thế đến từ sự ly hôn của cha mẹ mà khiến cho cả đời bị ám ảnh vào tâm hồn!

Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, càng không muốn xem nhẹ cái việc luận đoán về ly hôn. Mệnh lý thường gặp cái việc vì một câu nói mà có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc hay bất hạnh của người khác. Do đó làm thế nào để đàm luận về vấn đề ấy, thường thường thì do quan niệm của người luận số bó buộc mà thôi!

Phần luận sự nghiệp

* Tổ chức thương mại mậu dịch quốc tế sinh sôi nảy nở, nếu như vận hạn hoặc cung Thiên Di của bản Mệnh (cung Mệnh gốc) có Lộc tinh cát hóa, thì đúng là vừa vặn ứng với ảnh hưởng tác dụng của [phát tài ư viễn quận], do đó rất có lợi khi buôn bán ở phương xa.

* Trong suy luận về phương diện khởi đầu của một sự nghiệp mới (của đương số), ngoại trừ cung Sự Nghiệp (cung Quan Lộc) có cát tượng của Hóa Lộc dẫn động ra, khi bản cung đại hạn hoặc lưu niên được cường vượng, nếu mà khi có song Hóa Quyền hội vào cung sự nghiệp, thì cũng chủ tại vận hạn hoặc lưu niên đó sẽ khai sáng sự nghiệp mới.

* Cung vị của phía đối tác cộng sự, thông thường sẽ thấy xuất hiện tại cung Thiên Di của đại hạn hoặc lưu niên. Hoặc là ở trên hai phương vị của [Tài], [Quan]. Với sao Hóa mà có lợi cho việc hợp tác, lấy [Lộc] và [Quyền] làm trọng yếu.

* Về cơ bản, tại vận hạn mà đụng tới cung Thiên Di có Kị Sát đối xung thì không nên hợp tác sự nghiệp làm ăn.

* [Dị lộ công danh] - bắt tay vào kinh doanh và sáng lập sự nghiệp với đủ mọi thể loại mà có tính chất không giống nhau. (Hai sao Không Kiếp xuất hiện ở cung Sự Ngiệp).

* Nếu khi làm ăn buôn bán xuất hiện cạnh tranh, thì cung Thiên Di tiên hậu thiên chính là cung vị của đối thủ cạnh tranh. Cung Sự Nghiệp thì chính là cung vị quyết định sự nghiệp làm ăn được thông thuật trôi chảy hay không. Cung Tài Bạch trở thành cung vị then chốt quyết định có kiếm được tiền hay không. (Chú thích: Điền Trạch - chủ có tích trữ được tiền tài hay không; Phúc Đức - chủ có được thụ hưởng tiền tài hay không).

* Cung Thiên Di, chính là một cung vị trọng điểm của việc đàm luận về mối quan hệ nhân tế xã giao, cũng là hành động trong quan hệ nhân tế, đối với người lãnh đạo chóp bu thì chính là một mấu chốt rất trọng yếu.

* Cung Mệnh Thân tiên thiên mà cường vượng, đồng thời cung Sự Nghiệp lại thành cát cách, khi mà các Thiên Can của vận hạn liên tiếp được hóa cát lại vừa dẫn động cung Sự Nghiệp tiên thiên này, trong biểu hiện sự nghiệp của các vận trình ấy thường thường phải căn cứ vào cung sự nghiệp của tiên thiên để mà luận đoán.

* Sự nghiệp mới hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới của một người, rất khó trong khoảng dăm ba năm mà làm được thăng quan tiến chức vùn vụt, của cải thu nhập to lớn. Bởi vậy nhất định phải chú ý đến cát hung của vận hạn trong tương lai, mới có thể coi như là căn cứ trọng yếu để mà xem có hay không cái lợi về sự chuyển biến của tân sự nghiệp hoặc hoàn cảnh nghề nghiệp mới.

* Bắt đầu khởi công nhà máy, xưởng sản xuất đều cần đầu tư rất nhiều tiền bạc kinh phí, mà cái dạng tiền bạc đầu tư kiểu này thu hồi vốn cũng rất chậm. Bởi vậy, đối với sự nghiệp đầu tư sản xuất thì ngoại trừ chú trọng xem 2 cung Tài Quan trên mệnh bàn có vượng hay không, còn cần phải đồng thời xem cung Điền Trạch (Tài Khố) có miếu vượng sung túc hay không.

* Về phương diện luận đoán mệnh lý sự nghiệp:

A, Mệnh lý phản ánh về các loại nghề nghiệp khác nhau, chẳng qua là có khuynh hướng theo một loại nào, nhưng quyết chẳng phải nhất định là sẽ tham gia vào ngành nghề đó.

B, Trong khi luận đoán về ngành nghề hành vận biến hóa sự hưng suy khởi phục, thì nhất định phải dựa vào tính chất ngành nghề trong thực tế đương số tham gia, thậm chí phải dựa vào chức vụ đương số đang đảm đương hay tình trạng của chức vụ để mà làm căn cứ nghiên cứu suy luận.

C, Tính chất ngành nghề của đương số tham gia thường hội tụ ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình cũng như do bối cảnh thời đại.

D, Không được bỏ qua tài năng bẩm phú vốn có theo mệnh lý tiên thiên cũng như tình hình tài nghệ sở học hậu thiên của đương số, cái này gọi là sự thích nghi để sinh tồn, là cái lý vượt trội thì thắng mà yếu kém thì bại vậy.

* Đầu tư ròng có thể thu được lợi nhuận hay không, phải xem cung Phúc Đức tiên hậu thiên như thế nào? Cung vị tốt đẹp thì hiển nhiên có thể khiến cho việc đầu tư sẽ kiếm được tiền, nếu mà (các cung ấy) dở thì tiền vốn sẽ một đi không trở lại. Nhưng nếu tham dự kinh doanh, ngoài việc khán hai cung Tài Quan, còn cần phải khán cát hung của cung Thiên Di tiên hậu thiên của (người) hợp tác. Cát thì hợp tác tốt đẹp, hung thì hợp tác chẳng được hài hòa, chẳng chóng thì chày cũng sẽ cãi nhau mà không được thoải mái rồi giải tán, chứ nói gì đến việc kiếm tiền được hay không.

* Kị Lộc xung vào cung Sự Nghiệp, biểu thị một dạng sóng gió của sự nghiệp, vừa có nghĩa cát hung tham bán, khi mà bản cung đại hạn hoặc lưu niên cường thì kết quả chuyển hung thành cát; khi bản cung hãm nhược thì chẳng có cách gì chế ngự được sự mất ổn định của sự nghiệp, sau cùng sẽ chuyển cát thành hung.

* Tử Vi và Thiên Hình, ảnh hưởng tính chất vốn có của nó về dụng cụ khám chữa bệnh, nếu như hội nhập Thân Mệnh hay cung Sự Nghiệp thì sẽ khiến cho có khuynh hướng về nghề nghiệp là tham gia hay có liên quan đến Y Dược.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần Điền Trạch>

* Hung tượng của cung Điền Trạch trên mệnh bàn (lá số), chỉ cần không quá <ứng hung> thì không nhất định phát sinh hung tượng <ảnh hưởng làm tổn hại>. Miễn là không quá dấn thân thì đủ để giảm nhiều sự thảm bại trong đầu tư buôn bán làm ăn (tức, yếu mà không cố quá thì đỡ quá cố). Đối với chức nghiệp thì chỉ cần an phận thủ thường, sẽ không gặp phải phản ứng từ hung tượng trong cung Điền Trạch. Trong phương diện buôn bán bất động sản, ngoại trừ nhu cầu cư trú của mình, không nên có đầu tư vào bất động sản hoặc các hoạt động liên quan tới bất động sản để hòng thu lợi nhuận. Nếu không sẽ đem tiền đầu tư vào đất đai vô giá trị, chẳng những tiền vốn vì vậy mà bị ứ đọng, giam hãm, chẳng đem lại lợi gì, mà thậm chí còn khiến cho tiền vốn sẽ một đi không trở lại.

* Thiên Di vượng, Điền Trạch hung <phá>, thường có phát sinh tượng ly hương.

* Kị Sát cùng đến cung Điền Trạch, thông thường người ta gặp cách ấy mà đi mua nhà thì hầu hết đều gian khổ khó khăn, phần lớn số tiền mua nhà đều là do đi vay mượn mà có.

* Buôn bán bất động sản, nếu như lấy kiếm tiền làm mục đích, trong đẩu số mệnh lý và việc mua nhà thuần túy, là có sự phân biệt với mục đích dùng để tự mình ở hoặc dùng để làm bảo đảm giá trị tiền gửi.

Buôn bán bất động sản với mục đích kiếm tiền cần coi kỹ cùng với giao dịch làm ăn, trọng điểm của nó vẫn cùng giống như Sự Nghiệp một dạng, nhất định phải chú trọng đến hai cung <Tài> <Quan> phải đẹp mới hợp.

Nếu như với tư cách tự mình dùng để ở hoặc dùng để đảm bảo giá trị tiền gửi, thì trọng điểm lại ở cung Điền Trạch.

Không được lẫn lộn, không phân biện những điều ấy.

* Cung Điền Trạch có Lộc Kị xung thì thông thường chủ bất động sản được bán ra.

* Cung Điền Trạch có vững như bàn thạch hay không, có được như tường đồng vách sắt hay không, trong mệnh lý đẩu số dùng làm điều kiện trọng yếu của sự phân biện về vận thế có khuynh bại hoàn toàn hay không.

* Điền Trạch hung mà cát hung tương tạp, thường thường biểu thị đúng thực tế về bất động sản có cát hung tham bán. Nếu có sự đầu tư, thì tốt xấu đều có cả. Mà tỉ lệ của tốt/xấu thì lại quyết định ở cát hung của cung điền trạch của đại hạn và bản cung đại hạn, cùng với điều kiện cát hung của cung điền trạch của đại hạn kế tiếp.

* Hung tượng của cung Điền Trạch đại hạn, trong phân tích suy luận việc đầu tư hay mua sắm bất động sản, cũng có nghĩa là về mặt nguồn vốn cũng không được hùng hậu đâu. Do đó, trong phương diện xây dựng mua bán bất động sản thì ngoài ý nghĩa không có đủ vốn, nhất định cần phải dựa vào khoản vay bên ngoài. Nếu như lại hi vọng vào kế mua nhà để đảm bảo giá trị tiền gửi hay là muốn lợi dụng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận, thì thường thường đều gặp sự trái với nguyện vọng.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần cầu tài>

* Nếu hai cung [Tài] [Phúc] của đương số mà phá bại, trong đời sống thực thế là quân nhân, công chức, viên chức, giáo viên - những người không cần sử dụng đến nguồn tiền vốn lớn trong nghề nghiệp riêng của mình. Cũng có thể là thuộc tầng lớp đơn vị phục vụ trong dân gian, với lương bổng không cao, do túng bấn với kinh tế mà khiến cho cuộc sống tương đối nghèo khổ.

* Được hay mất của việc buôn bán cổ phiếu, ngoài khán bản cung vận hạn ra thì còn phải trọng thị hai cung [Tài] [Phúc], phải có cát nhập thì mới tốt đẹp.

* <Lý Tài> của cung Phúc Đức (QNB chú: tức là ám chỉ cái Lý về sự quản về tiền tài của cung Phúc Đức), chính là rốt cuộc về sau có được tiền tài hay không, khảo sát xem (nó) như thế nào để mà vận dụng. Còn tác dụng của cung Tài Bạch lại ở phương diện biểu thị phương pháp hay thủ đoạn được áp dụng để sự cầu tài (tức, đường lối mưu cầu kiếm chác về tiền tài vật chất), cho nên cung Tài Bạch chính là biểu hiện rõ rệt cho phương thức của hành động <cầu tài>.

* Cung Tài Bạch tiên thiên có Kị Sát <Kị hoặc Sát> đồng cung, một khi gặp cung Tài Bạch của vận hạn hậu thiên đi đến chỗ có Kị Sát đồng cung thì trong thu nhập của tiền tài sẽ có chứa khuynh hướng mang <tính chất đánh bạc>.

* Khi đem tiền cho bạn bè mượn hay là đem cho vai lấy lãi, ngoài việc cần phải lưu ý đến cung Phúc Đức có khuyết điểm gì hay không, còn cần phải chú ý đến cung Nô Bộc của vận hạn có hung tượng hay không. Cung Phúc Đức nếu như bị phá, gặp hung sát, thường sẽ khiến cho khoản tiền đã cho vay một đi không trở lại.

* Cung Phúc Đức có thể cho ta thấy được tâm tính căn bản của nhu cầu đối với tiền bạc và khả năng xoay xở xử lý nó như thế nào.

* Ông nào mà tích trữ được tiền hay không, có thể dựa vào công việc nghề nghiệp hay tiền lương được lĩnh khi đi làm. Loại tiền dạng này, nhiều hay ít, khó hay dễ, có thể căn cứ vào cung Tài Bạch để luận đoán.

* Tài Bạch cung là cung vị của chỗ phát sinh ra tiền tài lợi nhuận, còn sau khi thu tiền tài lợi nhuận thì cung vị của phương thức xử lý xoay xở cũng như cách tiêu dùng thì cần xem ở Phúc Đức cung.

* Đại hạn với cung Phúc Đức của tiên thiên mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.

* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).

* Cung Phúc Đức của tiên thiên và của đại hạn mà phá vào niên hạn, theo mệnh lý thì đó là chủ tiền tài lợi nhuận bị phá hao.

* Phá Quân hóa Lộc tại cung Tài Bạch, có tác dụng tính chất phú bẩm của cái mà gọi là <Điển đương chi tài> (Tiền tài của sự trông giữ cai quản / Tiền tài của sự cầm đồ / Tiền tài thông qua thế chấp), đương số có thể xứng đáng là tay lão luyện trong việc điều tiết tài chính (cung cấp vốn, tài trợ, cũng như huy động vốn,...).

* <Lợi nhuận tiền tài> của cung Tài Bạch, dường như có xu hướng từ sự từng trải qua vất vả cực nhọc của chính bản thân mà kiếm được. Nếu như là trải qua việc đầu tư, để người khác giúp mình kiếm tiền thì cung Phúc Đức lại trọng yếu hơn. Bởi vì cung vị này cũng đại biểu cho <phúc phận> của một cá nhân là lớn hay nhỏ, là dày hay mỏng.

* Đầu tư ròng là đã có tiền rồi, cũng là tiền của cung Phúc Đức. Bởi vậy, cung Phúc Đức mà hung thì chẳng có cách gì trông cậy vào việc từ đầu tư ròng mà thu được tiền tài lợi nhuận lớn được. Còn tiền của việc đầu tư tự kinh doanh lại đến từ tiền tài ở 2 cung Tài Quan, trường hợp này lại khó coi ở cung Phúc Đức. Những cái đó có sự khác biệt vậy!

* Luận đoán về mưu cầu tài lợi, ngoài cung Mệnh và cung Tài Bạch ra, một cung vị trong điểm khác chính là ở ngay cung Phúc Đức. Còn cung Tài Bạch thì coi như là cung vị luận đoán về <phương thức cầu tài> (phương thức gồm có: lương bổng, buôn bán, tay nghề khéo, cách kiếm tiền là chính hay bất chính,...). Cũng có thể nói cách khác: Mọi thứ lấy con người ta làm chủ, mà tích tượng mệnh lý của nó là lấy sự lao tâm lao lực để mà cầu đắc tài lợi, sẽ dùng tổ hợp tinh diệu của cung Tài Bạch để tiến hành phân định nghiên cứu. Mà tác dụng ảnh hưởng của cung Phúc Đức trên phương diện mưu cầu tiền tài lại <thuộc về dấu hiệu biểu hiện của một dạng dục vọng mạnh hay yếu đối với tiền tài>. Nếu như cung Phúc Đức mà đã cường với vượng, thì đương số có tâm thái tính nết đối với việc mưu cầu tiền tài vật chất sẽ là cực kỳ mãnh liệt. Do đó, sau khi anh ta có tiền vốn dư dả thì anh ta càng tích cực lợi dụng cái nền tảng tiền vốn này để mà sinh lợi nhuận. Người mà cung Phúc Đức nhược hãm, cho dù có tiền cũng dường nhu không có cái tâm tính mãnh liệt của dạng <dụng tài cầu tài> (dùng tiền để mưu cầu sinh ra thêm tiền).

* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.

* Thông thường, người có Mệnh cách mà tương tối cương cường mà lại hội sát tinh thành cách cục, thì đều vốn có sẵn cái tính mạo hiểm. Loại người này thường liều lĩnh, một khi có cơ hội là hành động đem tiền vốn tập trung đưa vào loại có <tính chất đầu cơ>.

Còn người mà Mệnh cách nhu nhược, lại không có sát tinh, cũng lại không thành cách cục, thì bản tính trời sinh là dường như rất bảo thủ. Do đó khi anh ta muốn lợi dụng <dùng tiền kiếm tiền> thì sẽ lựa chọn phương thức mà không mang tính chất vụt đến vụt đi. Cho nên phương pháp cầu tài của dạng người này là lựa chọn loại có <tính chất đầu tư>.

* Tiền tài của cung Tài Bạch, chủ về phương pháp của việc cầu tài, kiếm tiền khó hay dễ, đạt được nhiều hay ít.

Tiền tài của cung Phúc Đức, chủ về lợi dụng cái tiền tài sẵn có để lấy tiền mà đẻ ra tiền, cũng là một dạng bỏ tiền vốn ra để sinh lợi nhuận <đầu tư ròng>.

Tiền tài của cung Điền Trạch, là chủ về người đầu tư đem tiền vốn của mình có đầu nhập vào trong cái nghề kinh doanh của chính mình.

Nếu như Khố vượng thì tài tụ, biểu thị khả năng kinh tế hùng hậu giàu có của đương số, có thể thực hiện những việc đầu tư về đại ngạch mà mang tính chất lâu dài. Vì tiền vốn không ít cũng chẳng thiếu và không gặp phải lo ngại về khó khăn trong việc xoay vòng vốn, cho nên trong sự nghiệp kinh doanh thì đương số rất hiếm gặp phải khó khăn trong việc điều động tiền vốn.

Nếu như Khố vị mà bị phá mà lại muốn đầu tư sự nghiệp to lớn thì nhất định sẽ đến lúc sự nghiệp kinh doanh có xu hướng gặp phải tình huống khó khăn về xoay vòng vốn mà dẫn đến sụp đổ. Cho nên người mà Khố vị vận hạn hung sẽ không hợp với việc đầu tư kinh doanh quá lớn, càng bất lợi ở những ngành nghề sản xuất mà thu hồi vốn đầu tư quá chậm.

Hung tượng của <Mệnh với Tài cung cấu thành nên> của <Tài dữ tù cừu>, cùng với cung Phúc Đức và cung Điền Trạch bị phá tổn bại tài, là bị tài vụ ứ đọng gây ra nhưng chúng không quá giống nhau. Vấn đề tài vụ của <tài dữ tù cừu> có nguyên nhân từ mối tranh chấp kiểu <không từ thủ đoạn> gây ra. Còn cái việc Phúc Điền bị phá thì dường như thuộc về nguyên nhân do thiếu tài chính mà gây ra khốn cảnh.

Cùng một dạng vấn đề về quản lý tài sản nhưng mà lại có tính chất với nguyên nhân khác nhau rất lớn.

* Tài Bạch cung kém đẹp thì việc cầu tài của đương số nếu như mà trải qua các phương thức cầu tài phải lao tâm khó nhọc thì có lẽ cũng có thể trong gian khổ mà đắc tài đắc lộc, và càng được nhiều tài lộc thì càng phải trải qua gian khổ.

Lời răn của Tử Vân tiên sinh <phần tạp luận>

* Người mà Mệnh Thân kiến Sát Kị, được gọi là Mệnh lao lực (Lưu Vĩ Vũ).

* Người mà Mệnh Thân mà gặp nhiều sao trong số lục cát tinh, có Khoa Quyền Lộc cát hóa, có thể nói là quý khí ổn trọng rõ ràng (Đàm chú: Nếu mà Mệnh Thân cung có Đế tinh thì càng thêm nghiệm). Ngược lại, nếu người mà Mệnh Thân mà gặp ít sao trong số lục cát, lại tụ các sao thuộc lục sát, lại không có Khoa Quyền Lộc cát hóa, thì dù cho trong nhất thời có được lên vị trí cao phong vân tế hội, cũng không được bền lâu. (Lưu Vĩ Vũ)

* Với các câu phú liên quan đến chết chóc như:

A, Cự Hỏa Dương -- chung thân ải tử; (cuối đời tự vẫn)

B, Xương Linh La Vũ -- hạn chí đầu hà; (hạn đến thì đâm đầu xuống sông)

C, Xương (Khúc) Tham --- phấn thân toái cốt; (tan xương nát thịt)

D, Phá Khúc -- khủng lâm thủy dĩ sinh tai; (ngại gặp nước vì sẽ sinh tai họa)

E, Điếu Khách Tang Môn -- Lục Châu hữu trụy lâu chi ách (Nàng Lục Châu gặp tai ách phải nhảy lầu).

* Liên quan đến tự sát như:

A, cắt cổ tay, mổ rạch bụng, đâm đầu vào tường, mà thấy máu: Hồng Loan + Dương Nhận;

B, Nằm đường ray, sự cố giao thông: (không thấy ghi gì cả)

C, Uống thuốc/hóa chất: Cự Môn hội Kị Sát;

D, Ngạt khí gas, hơi độc: Kim hỏa tương khắc (Lưu Vĩ Vũ).

* Từ mệnh bàn đẩu số khán về tích tượng (dấu tích và hình tượng) của phương diện sự cố về sức khỏe. Ngoài cung Tật Ách ra, còn cần phải cân nhắc đến cung Mệnh Thân, trong kết cấu của các tinh diệu có các hung ác sát cách hay không. Rất nhiều người từ bé thì đã vì ác tật hoặc sự cố ngoài ý muốn, mà hình thành khuyết tật trở ngại cả đời, về đại thể thì cung Mệnh Thân và cung Tật Ách đều có xuất hiện kết cấu các cách hung sát và ác cách.

* Trên phương diện luận đoán về sức khỏe, cung Tật Ách tiên hậu thiên chỉ là một trong những cung vị trọng điểm, chứ không phải là căn cứ duy nhất về cung vị của vấn đề luận luận đoán sức khỏe. Các cung Mệnh Thân tiên hậu thiên và bản cung đại hạn, cũng thường có thể lấy làm căn cứ của luận đoán về tình trạng sức khỏe.

* Trên cơ bản, tinh diệu của cung lục thân, nếu mà có thể [nhu hòa] rõ rệt hay là [cương nhu tương tế] thì được coi như là lý tưởng.

* Cung Phúc Đức cũng hàm ý [Duyên Phúc] của một cá nhân là là dày hay mỏng.

* Cung Mệnh Thân tiên thiên nếu không hội cát diệu thì ít được trợ lực. Nếu như mà lại hội Kị Sát thì ứng với việc đời lại là:

A, Không chỉ thiếu đi sự trợ giúp, dìu dắt của quý nhân, mà ngay cả những người bằng vai phải lứa cũng như những thuộc hạ cũng chẳng có được nhiều trợ giúp. Loại này rất hay gây sự xích mích với lãnh đạo cũng như với đồng nghiệp.

B, Không hội cát mà chỉ hội sát, chỉ cần mệnh cung mà không cường vượng thì các Kị Sát sẽ phát huy tác dụng ảnh hưởng của kẻ tiểu nhân, loại tiểu nhân này thường sẽ những việc thành công thì chẳng đủ nhưng những việc phá bại thì có dư.

* Liêm Trinh hóa Kị viết [Tù], lại hội Lưu Hổ, lưu niên Quan Phù, thường sẽ khởi quan tụng. (Đàm chú: Cự Môn hóa Kị mà hội với hai sao Lưu đó cũng ứng nghiệm).

* Điêu khắc gia, bác sĩ ngoại khoa, thông thường thì ở Mệnh cách hội các sát diệu Kình Đà.

* Chính tinh phân làm 2 loại:

A, Tử Phủ Liêm Vũ Tướng Sát Phá Lang;

B, Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật.

Loại A thì đầu tiên coi trọng Tả Hữu, vì loại A có thể phân làm 2 loại là [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] và [Sát Phá Lang]. Đối với [Tử Phủ Liêm Vũ Tướng] nếu mà không có Tả Hữu thì không thành cách [Quân thần khánh hội] chỉ được luận là cô quân, chẳng có cách nào để mà phát huy trọn vẹn tính chất đặc biệt của Đẩu chủ chủ ti hiệu lệnh. Đối với loại [Sát Phá Lang] mà không thấy Tả Hữu thì không thể thi triển được trọn vẹn tính khai mở sáng tạo của nó, mà thành ra rối loạn không ổn định.

Loại B thì trước tiên coi trọng Xương Khúc. Về phần Khôi Việt thì bất kể tinh diệu như thế nào, bất kể cách cục ra làm sao, đều mừng tương hội hoặc đồng cung với chúng. (Loại B thực sự dễ cấu thành Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân)

* Cung Điền Trạch tiên thiên tốt đẹp, thì phương pháp phân biện cát hung của cung Điền Trạch hậu thiên là: quyết định ở cát hung của bản cung đại hạn như thế nào, nếu như bản cung đại hạn mà cát, thì cát tượng của Khố của Điền Trạch thì chính là trong gian khó có được sự tích lũy; nếu như bản cung đại hạn hung thì Điền khố biểu hiện tượng là có gian khổ nữa thì cũng không cách gì tích lũy được.

* Thảo luận suy xét về vận cần kiểm tra xem Mệnh cung trước tiên. Nếu như có Kị Sát giao xung nghiêm trọng lại không thấy cát diệu, đại khái từ nhỏ đã khó có được thành tựu tốt. Cái đó là đạo lý tự nhiên. Hơn nữa, chiểu theo việc kiểm tra sự biến hóa của đại hạn, nếu như vận hạn quá yếu nhược hoặc là có Kị Sát giao xung nghiêm trọng, cũng không dễ để mà hạ quyết tâm đọc sách. Hiểu rõ những cái này sẽ dựa vào sự dẫn động của lưu niên cùng các loại kiểm soát khác để mà suy luận. (Lưu Vĩ Vũ)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời răn và quan niệm về đẩu số của đại sư Tử Vân

Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Phòng ngủ là không gian ấm cúng dùng để nghỉ ngơi, phòng ngủ đặt cây xanh sẽ có tác dụng tô điểm, càng tăng thêm vẻ yên tĩnh, trang nhã cho căn phòng, làm tan
Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

  biến mệt mỏi, có lợi cho sức khỏe. 

Khi bố trí phòng cần lựa chọn những loài thực vật có màu sắc hài hòa, thế đẹp, tươi tốt… Để tạo môi trường nghỉ ngơi thật nhẹ nhàng, yên tĩnh, thoải mái.

Do thời gian chiếu sáng của phòng ngủ ngắn, vì vậy nên lựa chọn những loại cây ưa bóng râm như sơn tra, đỗ quyên …, những loại cây dễ trồng. Đồng thời, những cây trong phòng ngủ cần có ý nghĩa biểu trưng khác với những cây ở phòng khách, chủ yếu là dùng những cây có thể làm tăng thêm tình cảm vợ chồng.

Những cây được dùng để trang trí trong phòng ngủ có thể căn cứ vào tuổi của chủ nhà để chọn lựa.

Những người tuổi Sửu, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Tuất, đặc biệt là những người sinh vào mùa đông, lạnh thì ưa hòa, có thể chọn nhiều loại cây thuộc mệnh Hỏa như lan quân tử, sơn trà, hoa hồng…

Bai tri cay canh trong phong ngu hop tuoi cua gia chu hinh anh
Lan quân tử hợp với người tuổi Sửu, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Tuất

Những người tuổi Dậu, tuổi Thân thuộc mệnh Kim có thể chọn hoa hồng vàng, văn hương ngọc, cây dành dành… 

Những người tuổi Hợi, tuổi Tý thì thích mệnh Thủy có thể trồng những cây thuộc mệnh Kim và Thủy như : Thủy tiên, lan trắng … 

Những người thuộc tuổi Dần, tuổi Mão có thể trồng những loại cây thuộc mệnh Mộc như vạn tuế, lan …

Theo Sách Thuận phong thuận thủy, sổ tay tham khảo bài trí cây cảnh.  
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bài trí cây cảnh trong phòng ngủ hợp tuổi

Kiêng kỵ sôpha không chỗ dựa –

Hiện tượng: Lưng ghế sôpha không có chỗ dựa, khí trường vô cùng không ổn định, rất dễ dẫn đến tinh thần bất an, công tác, học hành không chuyên tâm. Phương pháp hóa giải:Phương thức hóa giải triệt để nhất là điều chỉnh vị trí ghê sôpha chỉnh sao cho

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Hiện tượng: Lưng ghế sôpha không có chỗ dựa, khí trường vô cùng không ổn định, rất dễ dẫn đến tinh thần bất an, công tác, học hành không chuyên tâm.

boc-ghe-sofa-da-dep

Phương pháp hóa giải:Phương thức hóa giải triệt để nhất là điều chỉnh vị trí ghê sôpha chỉnh sao cho lưng ghế dựa vào tường. Nếu trong trường hợp không thể dịch chuyển vị trí thì sau lưng ghế có thể đặt 36 đồng tiền cổ để tạo thành một tường khí giúp ổn định khí trường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Kiêng kỵ sôpha không chỗ dựa –

Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Việc được đi học, được đào tạo bài bảng ở trường lớp là niềm tự hào của bản thân. Hầu như ai lớn lên cũng được cắp sách đến trường, được vào các lớp học từ bé đến lớn. Đi học là chuyện bình thường diễn ra đối với mỗi người, nhưng khi ngủ nằm mơ thấy
Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Nằm mơ thấy mình đi học là điềm gì? –

Chuyện tử vi

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Trong những câu chuyện Tử vi ghi sau đây, chúng tôi cũng đi tìm các nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẵn của sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những cách có sẵn (những thế giao nhau giữa các chánh tinh, trung tinh, ác sát tinh…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm; mà chỉ có những nhà Tử vi có thật nhiều kinh nghiệm mới luận đúng. 

Tránh số và giữ được tiền

Chính bản thân người viết có một lá số Tử vi dở ẹc tại cung Tài bạch. Đã chẳng có Thiên Phủ, Lộc tồn…lại đèo bòng cặp Đại hao, Tiểu hao to tổ bố. Cái đó có nghĩa là kiếm được bao nhiêu, tiêu hết bấy nhiêu.

Mấy ông thầy Tử vi đều bảo kiếm khá lắm đấy và có cái đặc biệt là hết tiền rồi lại có ngay chứ không bị thiếu. Nhưng hễ có rồi lại có chuyện mà phải tiêu đi hết. Như có nhiều thì lại gặp chuyện phải tiêu sài nhiều mà hết…

-Nhưng nếu như tôi ráng không sài thì có được không?

-Đâu có được. Có cái chuyện nó bắt phải sài. Mình cố giữ để không sài mà không được. Song hao ở mão dậu đây là “chúng thủy triều đông” kiếm tiền khá lại tiêu nhiều, tránh không khỏi.

Mà thật nghiệm ra trong chung thân cuộc đời có những cái thật đúng như những lời giải đoán.

Tiền hết lại có, và có đều đều mất việc này lại có việc khác. Cứ kiếm ăn đều đều, và chi phí đều đều chuyện cơm nước, thì chẳng có biến cố nào trong đời buộc mình phải tiêu sài. Nghĩ lại như vậy lại hóa sướng, nghĩa là đỡ lo. Còn như có được món tiền khá, là tự nhiên có việc phải sài, có khi lại tai bay vạ gió nữa. Một lần có được món tiền, cả nhà sanh đau ốm. Một lần khác kiếm được món tiền khá, sanh rắc rối chốn công môn về chuyện chánh trị, thế là tiêu hết.

Và nếu cứ như vậy thì chẳng có cách nào để dành tiền mua được căn nhà hoặc tạo được cái nhà in hay cái trường nho nhỏ. Nhưng một bữa được cụ Hoàng Hạc cho hay cái vụ cải số để có một căn nhà ở yên lành (câu chuyện đã được thuật trong kỳ trước), chúng tôi bèn về nghiền ngẫm lại lá số của mình và các con. Có đứa con gái có cung Tài bạch giữ được tiền… thế là từ đó, mỗi khi kiếm được tiền dư, ngoài số tiền ăn hàng tháng, giao hết cho nó giữ. Quả nhiên, tiền giao cho nó giữ là không bị hao hụt, không bị những biến cố đến làm mình phải tiêu tiền. Nhờ giữ được đồng tiền mà dần dần đủ sức để mua một căn nhà.

Còn cái cộng nghiệp mà không được quên…

Tôi còn nhớ cụ Hoàng Hạc trong một cuộc thảo luận chỉ cho tôi thấy cái sự quan trọng của cộng nghiệp. Một lá số Tử vi không thể là một cái sự bất di bất dịch để cứ thấy sao là đoán như vậy còn phải tham bác cho rộng rãi sang đến phụ mẫu đến vợ chồng, con cái mà luận đoán về vận mạng và hạnh phúc con người. Nếu cứ đúng theo cung mạng Thân, Tài, Điền mà luôn đoán thì e rằng sai lầm. Cái điều này cũng phù hợp phần nào với chuyện cải số;

Có một ông lắc đầu lè lưỡi mà bảo rằng số trời thật là khủng khiếp an bài ra sao là đúng như vậy, ông kể

Thuở thanh niên, tôi thương một người con gái. Hai người giao kết với nhau. Cha mẹ hai bên cũng thuận nhận. Ấy thế mà vì một biến cố thật đặc biệt, hai bên không lấy được nhau là vì người con gái bị một kẻ oai quyền bức bách phải lấy hắn. Chỉ 2 năm sau, tên oai quyền đó lăn ra chết. Thế có phải là tại số tôi sống lâu và tại số cô đó góa chồng sớm mà thành ra Trời không se duyên chăng ?

-Thưa cụ: rất có thể như vậy

-Tôi xây dựng mối duyên khác. Cũng đến lúc sắp cưới thì cô gái bị chuyện bức bách mà chắp duyên với kẻ khác. Rồi vài năm sau, cô ấy mất. Thế chẳng phải là vì tôi không có số góa vợ và cô ấy không có số sống lâu, mà Trời không se duyên.

-Nhưng thưa cụ, số Tử vi có ghi như vậy?

-Có rõ ràng. Số tôi sống lâu và không thể góa vợ sớm, đường vợ con hoàn hảo. Còn số cô thứ nhất kia thì góa chồng sớm. Và số cô thứ hai thì đúng là yểu lạ thật chứ.

-Nhưng, thưa cụ, cũng có những sự kiện khiến hai vợ chồng ăn ở được với nhau lâu dài mà hai lá số không thật sự phù hợp với nhau. Tôi có được gặp cụ Hoàng Hạc chỉ dẫn cho về cái cộng nghiệp để đoán số Tử vi. Chỉ một cung tốt cũng tốt.

Và tôi đã kể lại những vụ đoán trúng phóc của cụ Hoàng Hạc, những lá số như còn ghi trong đầu óc.

Lá số của một cụ…mà nhìn vào cung Mạng, cung Tài, cung Điền, cung Quan lộc, là trông thấy tất cả sự nghèo hèn. Ông cụ khổ cả một đời, những ông thầy tử vi không thể đoán khác.

Cụ Hoàng Hạc, cách đây hơn chục năm, đã được ông Cụ nhờ coi lá số tử vi. Cụ Hoàng Hạc thấy cung Tử tức của lá số tốt quá đã quyết đoán rằng ông Cụ không thể suốt đời nghèo khổ:

-Cụ có con tốt, làm nên và lại có biến, thì làm sao cụ khổ mãi được. Sẽ có một đứa con lo hết cho hai Cụ.

Ông cụ còn bán tín bán nghi, vì đứa con mà Cụ thương nhất mà tánh tình của nó thì còn lang bạt kỳ hồ nơi hải ngoại, chưa nên danh phận. Ấy thế mà chỉ mấy năm sau, nó bỗng về nước, làm to, rồi tậu nhà cho hai cụ ở, và chăm lo mọi chuyện cơm nước. Hai cụ chẳng cần phải lo chi hết, dù rằng không phải là hai cụ nắm quyền.

Cộng nghiệp giữa hai vợ chồng

Và rồi cụ Hoàng Hạc chỉ cho tôi về việc quyết đoán về một cuộc đời không thể nhất thiết là sang hèn giầu nghèo theo các cung Mạng Thân Tài bạch,…mà phải coi đủ 12 cung. Cung nào cũng có phần quan trọng của nó, cung nào cũng có phần ảnh hưởng lớn của nó vào cuộc đời. Dù là Mạng Thân báo trước một cuộc đời hành khất nhưng được một cung tốt, chưa chắc gì dã phải sống hành khất.

Tôi mới nói:

-Phải rồi. Như sách vốn nói, xem số đàn bà quan trọng bậc nhất là cung phu. Bởi vì đàn bà thì vốn nhờ chồng, cung phu mà tốt là tốt.

-Nhưng ngược, đàn ông cung Thê mà tốt thì cũng tốt lắm nghe.

-Ủa, như vậy sao, thưa Cụ?

-Thì tại vợ chồng cuộc đời ra sao, là phải hai số hiệp lại. Thiếu gì người nhờ vợ mà sung sướng.

-Cũng như muốn biết số con bao nhiêu, phải coi số của cả hai vợ chồng mà đoán. Người có nhiều con, người có ít con, đem cộng lại mà chia đôi.

Cụ giải thích thêm:

- Các cung khác cũng vậy. Như số người chồng thật giầu và số người vợ thật nghèo, hoặc ngược lại, thì cũng cộng lại với nhau mà chia đôi ra để được biết về tài lộc của hai vợ chồng ra sao.

trích đăng (KHHB số 3)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chuyện tử vi

Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát

Điện thoại là vật không thể thiếu đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại. Theo góc nhìn phong thủy điện thoại để xác định hung cát đối với điện thoại của
Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Điện thoại là vật không thể thiếu đối với nhiều người trong cuộc sống hiện đại. Theo góc nhìn phong thủy, dựa theo nhiều yếu tố khác nhau để xác định hung cát đối với vận thế của gia chủ. 


Phong thuy dien thoai Xem dien thoai hung cat hinh anh
 

1. Hung cát với số điện thoại

 
Số điện thoại giống với mệnh lý trong phong thủy đều ảnh hưởng đến vận thế của con người, mỗi con số đều có liên quan đến cuộc sống của gia chủ.   Để dự đoán hung cát của số điện thoại cần phải làm theo các bước sau: lấy 4 số cuối chia cho 80, sau đó trừ đi phần nguyên, chỉ còn phần thập phân, tiếp tục lấy phần thập phân nhân với 8 sẽ được số vận mệnh của gia chủ. Ví dụ, 4 số cuối là 8888, ta có 8888:80=111.1, tiếp tục 111,1-111=0,1, sau đó 0,1x80=8, đây là số vận mệnh. 
Các con số vận mệnh đem lại may mắn cho gia chủ là: 1, 3, 5, 6, 7, 8, 11, 13, 15, 16, 17, 18, 21, 23, 24, 25, 28, 29, 31, 32, 33, 35, 37, 39, 41, 45, 47, 48, 52, 57, 63, 65, 67, 68, 73, 81
 
Các con số vận mệnh đem lại xui xẻo cho gia chủ là: 2, 4, 9, 10, 12, 14, 19, 20, 22, 26, 30, 34, 36, 44, 46, 49, 54, 56, 59, 60, 62, 64, 66, 69,70, 72, 74, 76, 79
 
Các con số vận mệnh trong cát có hung là: 40, 42, 43, 50, 51, 53, 55, 61, 71, 75, 77,78, 80
 
Các con số vận mệnh trong hung có cát là: 27, 38, 58  

2. Yếu tố nội tại của điện thoại


Phong thuy dien thoai Xem dien thoai hung cat hinh anh 2
 
Các yếu tố nội tại của điện thoại cũng ảnh hưởng đến vận thế của gia chủ, đó chính là: màu nền, hình dáng, màu sắc, nhạc chuông. Điều này phải dựa vào nguyên tắc ngũ hành mệnh lý để đưa ra kết luận hung cát   - Sinh tháng Dần, Mão, Thìn: màu trắng, vàng, bạc - Sinh tháng Tỵ : màu xanh lam, đen - Sinh tháng Ngọ, Mùi: màu xanh lam, đen, xanh sẫm - Sinh tháng Thân, Dậu, Tuất: màu xanh lá, vàng, cà phê - Sinh tháng Hợi, Tý, Sửu: màu đỏ, cam, hồng

Có thể bạn quan tâm: Chọn đuôi số điện thoại hợp mệnh, 12 con giáp tha hồ hốt bạc

Cẩm nang chọn số điện thoại vượng vận cho 12 con giáp Chọn điện thoại hợp mệnh tăng thêm may mắn Chọn smartphone chuẩn ngũ hành, sành điệu mà vẫn hợp phong thủy Chọn sim số đẹp, thuận phong thuận thủy
Chi Nguyễn

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy điện thoại: Xem điện thoại hung cát
Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd