Xem tướng đàn ông trán chữ M là người như thế nào? –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Tướng tai phú quý ở nữ giới |
Mãi đến đầu thế kỷ 18, sau gần 900 năm xảy ra sự kiện Cao Biền trấn yểm long mạch nước ta, một tài liệu của Trung Quốc với tựa đề Cao Biền di cảo (cùng một số cuốn khác trước kia như An Nam cửu long kinh chẳng hạn), nhắc việc Cao Biền sau khi đem 5.000 quân vượt biển tiến về hướng Nam năm 865 (được chi viện thêm 7.000 quân nữa vào năm sau 866) đã đánh chiếm nước ta và lập bàn đồng giữa trời, dùng thuật phong thủy lẫn những phương pháp thần bí để “tầm long” ráo riết.
Vậy “tầm long” là gì? Tầm long là phép tìm kiếm long mạch ngoài đất trống, như cụ Tả Ao chỉ rõ: “Chẳng qua ra đến ngoài đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường” và được học giả Cao Trung qua hằng chục năm nghiên cứu sách địa lý của Tả Ao giải thích rõ đại ý dưới đây:
Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây có chứa nhựa cây, nó có thể chạy qua những dãy đồi núi cao, cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như hình con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó (gọi là long nhập thủ).
Nơi đó có thể hạ huyệt chôn cất, hoặc cải táng mồ mả cha ông để con cháu đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý. Trước huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có gò bao quanh kết hình ấn kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).
“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ dãy Himalaya, phải biết Minh đường là nơi nước tụ trước huyệt để nuôi khí lành, biết Thanh long là thớ đất bên trái huyệt và Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, biết về long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang phóng tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng lờ như sóng nhỏ lăn tăn).
Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi nước ta để trấn yểm, nhưng đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt lên ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).
Phát vương trên đất kết
Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa hoàng thái tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm (và Lưu Ba) đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt sử ký toàn thư”.
Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.
Trần Hấp sinh được 2 con trai là Trần Lý (lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa địa lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “thầy Phùng”.
Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: “Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.
Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía trước gò ấy có ba gò lớn là Tam thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất hậu sinh phát đế”.
Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ ông bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình? Theo thầy và nhiều nhà phong thủy khác, người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng mệnh số nữa.
Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến câu chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu (cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi.
Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng biết chuyện. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.
Sau cuộc lễ chưa lâu, vào giữa một đêm rằm sáng trăng, thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc ấy mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp đó để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
Một tay bán dầu tên Bùi Độ (đời vua Hán Cảnh Đế) nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì có hai đường chỉ chạy xéo từ cằm lên mép miệng. Ngày kia Bùi Độ gặp một thiếu nữ ngồi khóc bên giếng sâu. Hỏi ra sự tình mới biết thiếu nữ mang vàng đi để chuộc tội oan của cha, chẳng may bị đánh rơi xuống giếng. Ai cũng nói dưới giếng có con trăn to. Thiếu nữ đang tuyệt vọng muốn quyên sinh. Bùi Độ thương tình, nghĩ mình trước sau cũng chết đói nên liều mạng leo xuống tìm được vàng cho thiếu nữ. Nhờ đó gia đình thiếu nữ được phục hồi danh dự và quyền thế. Một lần gặp lại, nhà tướng số kinh ngạc nói rằng tướng chết đói của Bùi Độ đã biến mất mà thay vào đó là tướng công khanh phú quý rực rỡ. Đúng vậy, sau này thiếu nữ tên Ngọc Hà đền ơn, đem Bùi Độ về dạy học và giao ước vợ chồng rồi mới thưa với phụ thân. Cha nàng gửi gắm Bùi Độ sang một người bạn khác để nhờ tiến cử. Thời gian xa cách Ngọc Hà, Bùi Độ đã lạc lòng với những hình bóng giai nhân khác. Trên bước đường tiến quan, Bùi Độ ghé vào thăm nhà tướng số cũ để tạ ơn, nhưng ông bảo Bùi Độ đã hiện lại tướng chết đói. Bùi Độ tức giận bỏ đi. Sau khi được làm quan, Bùi Độ đánh mất nhân cách, chỉ lục lạo, cưỡng bức các cô gái đẹp, bị triều đình hạ lệnh bắt về kinh trị tội. Bùi Độ sợ hãi trốn vào rừng rồi chết đói cạnh một mỏm đá. Ngọc Hà đau khổ tìm chồng, trông thấy bộ xương và cũng gục chết bên cạnh. Cái phước của Bùi Độ xuất hiện do tâm niệm liều mạng tìm vàng cứu cô gái. Phước đó quá lớn đến nỗi chuyển hẳn tướng mạo và số mệnh để cho Bùi Độ trở thành quan chức vinh hiển. Nhưng rồi, tư cách tầm thường tham dục đã phá vỡ phước cũ để cho nghiệp chết đói đủ cơ duyên xuất hiện trở lại. Như vậy, tướng mạo tùy thuộc vào nghiệp chứ không cố định. Nếu chúng ta thường xuyên biết “liều mạng” cứu giúp mọi người, ắt hẳn tướng mạo và số kiếp chúng ta sẽ thay đổi một cách tốt đẹp lắm !!!
Vận mạng có thể thay đổi
Viên LiễuTrang là một nhà tướng số danh tiếng. Nhìn chỉ tay hay cái mũi của một người nam hoặc nữ, ông có thể đoán biết trước vận mạng tương lai của họ. Một hôm có một vị đại thần dắt con đến nhờ ông xem tướng. Viên Trang coi tướng xong biết đứa bé này vài năm sau sẽ chết. Ông liền bảo cho vị quan kia hay.
Nghe nói vậy, vị quan ấy rất đau khổ. Trên đường về nhà ông đến gặp một vị sư. Vị tăng hỏi: “Có việc gì xảy ra mà trông ngài sầu não như thế?” Vị quan đáp rằng ông vừa mới nghe nhà tướng số báo cho biết một tin chẳng lành.
Hòa Thượng liền xem tướng đứa nhỏ để tìm hiểu vận mạng của nó. Ngài nói với cha em bé: “Chỉ có phước đức mới cứu được mạng sống của cháu. Nhưng cơ duyên làm phước không phải dễ. Nếu ngài muốn có phước đức thì cách tốt nhất là nên phóng sinh. Tạo phước đức bằng hành động thiện không giết hại sinh vật mới có thể bảo vệ mạng sống cho con ông.Nghe lời Hòa Thượng, vị quan kia liền phát nguyện không bao giờ sát sanh mà lại còn phóng sanh. Ông tinh tấn làm lành như vậy được ít năm; sau đó gặp lại cha con ông, Hòa Thượng bảo: “Chưa đủ! Ông cố gắng tạo thêm nhiều thiện nghiệp nữa mới có thể cứu được mạng sống của con ông”.
Viên quan lại nỗ lực cứu thoát nhiều sinh vật nữa. Khi gặp dịp làm phước giúp đỡ ai, người cũng như thú vật; ông luôn luôn sẵn sàng đóng góp thời giờ lẫn tiền bạc. Nhờ vậy, viên quan đã cứu độ vô số sinh linh, và người con đến năm bị chết yểu nó vẫn sống và biến đổi trở thành một thanh niên khỏe mạnh.
Nhà tướng số Viên Liễu Trang biết sự việc này. Từ đó về sau, mỗi khi coi thấy người nào có vận mạng xấu, ông liền khuyên bảo họ nên cố gắng làm việc phước đức và đừng bao giờ sát sanh. Nhờ tu nhân tích đức mà nhiều người đáng lý sẽ phải chết sớm khổ đau, họ lại sống trường thọ; nhiều kẻ nghèo khó trở nên giàu sang.
(Theo Thư viện Hoa Sen)
CHUYỂN TƯỚNG XẤU THÀNH TỐT
Tào Bân là vị đại tướng nổi tiếng triều Tống, giúp Tống Thái Tổ bình định thiên hạ, có công lao chinh chiến rất lớn. Có một lần, Tào Bân gặp Trần Hi Di là một người có học vấn rất uyên bác, giỏi xem tướng thuật. Ông này xem qua tướng mạo của Tào Bân rồi nói:
– Hai bên thành xương của ông lồi lên, ấn đường rộng, mắt dài phóng ánh sáng, chắc chắn sớm trở nên giàu có, song có tướng xấu là quai hàm cao, miệng trệ, xem ra ông không được hưởng phước khi tuổi già. Cứ theo đây mà nói, mỗi khi xuất binh chinh chiến ông nên đối xử khoan hồng, gieo trồng phước đức cho lúc tuổi già.
Tào Bân nghe Trần Hi Di nói liền cúi đầu cảm tạ, ghi nhớ lời ấy.
Một lần, khi Tào Bân xuất trận, phó tướng Toại Ninh và rất nhiều tướng sĩ thuộc hạ đều chủ trương giết sạch dân trong thành để thị uy. Tào Bân biết được liền ra lệnh nghiêm cấm giết hại dân lành, cấm xâm hại phụ nữ hoặc cướp bóc tài sản của dân. Sau khi chiến sự kết thúc, ông còn cấp lương thực cho những người xa quê muốn trở về, dân chúng không ai không cảm tạ tấm lòng nhân đức của ông.
Sau đó, Tào Bân nhận lệnh dẫn binh đánh Giang Nam. Bởi không nỡ nhìn thấy cảnh dân tình khốn khổ lầm than vì chiến cuộc nên ông cáo bệnh không đi. Các võ tướng dưới quyền ông lúc đó đều kéo đến thăm hỏi bệnh tình của ông trước khi xuất chinh. Tào Bân nói với tất cả những người đến thăm bệnh:
– Bệnh của tôi không thuốc gì chữa khỏi, nhưng chỉ cần tất cả anh em thành tâm thành ý cùng thề rằng ngày tiến công Giang Nam tuyệt đối không được tùy tiện giết hại dân lành, như thế thì bệnh của tôi sẽ tự nhiên thuyên giảm thôi.
Các tướng sĩ vốn hết sức kính trọng Tào Bân, nên họ liền cùng nhau phát lời thệ nguyện đúng như vậy. Đến ngày đánh Giang Nam, nhờ đó mà có vô số dân thường được thoát khỏi sự lạm sát. Tấm lòng từ bi của vị tướng quân họ Tào được truyền rộng khắp Giang Nam, dân chúng ai nấy đều cảm kích. Vì thế, mọi người cùng rủ nhau mang lương thực đi đón quân triều đình. Sức chống cự của phản quân vì thế rất yếu ớt. Nhờ vậy mà trận chiến này không phải tốn hao nhiều nhân mạng, hơn nữa còn bảo vệ được tài sản của nhân dân không bị tàn phá.
Sau đó ít lâu, Tào Bân có dịp tình cờ gặp lại Trần Hi Di. Ông ta nhìn tiên sinh một lúc rồi nói:
– Lạ thật! Năm trước tôi xem tướng của ông thấy quai hàm cao miệng trệ, lúc đó tôi khẳng định ông không có phước về già, nhưng hiện tại đã biến đổi, miệng mép đầy đặn xinh đẹp, ánh kim quang thù diệu nhìn thấy khắp mặt và râu tóc, nhất định sẽ được sống lâu nhiều phước lộc.
Tào Bân hỏi lại:
– Sao gọi là kim quang?
– Đó là ánh sáng hiển hiện của phước đức, nếu người có âm đức thì mặt hiện ánh sáng màu vàng y, mắt sáng, cả khuôn mặt đều tỏa ra khí sắc tốt lành. Người như vậy không chỉ tăng tuổi thọ, con cháu nhiều đời về sau cũng đều hưởng nhờ phước đức.
Quả nhiên, về già Tào Bân sống trong cảnh an nhàn thư thái, lúc ra đi cũng hết sức nhẹ nhàng, thọ 69 tuổi, sau khi chết được truy phong tước hiệu Tể Dương quận vương. Tiên sinh có cả thảy 9 người con trai, con trưởng là Vĩ, con thứ là Tông, con thứ ba là Xán, đều là những tướng lãnh nổi tiếng; nhiều đời con cháu về sau đều vinh hiển không ai sánh.
(Trích Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký, Đức Dục Cổ Giám và Pháp Tướng Bí Truyện)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
=> Xem thêm: Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |
Gia đình là tế bào của xã hội, gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới ổn định và phát triển phồn vinh, thịnh vượng. Nghiên cứu về vấn đề hòa hợp trong gia đạo giữa hai thế hệ cha mẹ và con cái, nên người ta đã nghiệm lý trong thực tiễn và chứng minh mức độ hòa hợp ở tuổi của con cái và tuổi của cha mẹ.
Con cái tuổi Tý: Một nhà hòa thuận
Con cái tuổi Sửu: Rất tốt, bởi tuổi Sửu rất hiếu thuận
Con cái tuổi Dần: Không hòa thuận lắm bởi quan niệm bất đồng
Con cãi tuổi Mão: Con cái không thích ở nhà, hay cãi lại ý cha mẹ
Con cái tuổi Thìn: Con cái quá tài giỏi nên đôi khi khiến cha mẹ buồn lòng
Con cái tuổi Tị: Con cái có cơ hội phát triển tự do
Con cái tuổi Ngọ: thường tìm cách thoát ly gia đình sớm
Con cái tuổi Mùi: Không hòa thuận lắm
Con cái tuổi Thân: Luôn được cha mẹ nuông chiều dẫn tới hư hỏng
Con cái tuổi Dậu: Có nhiều ý kiến ngược chiều nhưng cuối cùng vẫn tiếp thu ý kiến của cha mẹ
Con cái tuổi Tuất: Bất đồng về quan điểm và hành động, biểu hiện bên ngoài, tuy nhiên tuổi Tuất rất hiếu thuận
Con cái tuổi Hợi: Quan hệ gia đình rất tốt, luôn hòa thuận, đầm ấm
Bói tên con cái xem phù hợp với tên của cha mẹ.
Con cái tuổi Tý: Không hòa thuận vì cha mẹ quá nghiêm khắc
Con cái tuổi Sửu: Luôn làm trái ý cha mẹ
Con cái tuổi Dần: Con cái sớm thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Mão: Con cái chỉ nghe lời bên ngoài, trong lòng ngầm chống đối
Con cái tuổi Thìn: Chống đối ra mặt
Con cái tuổi Tị: Bọn trẻ chỉ ra vẻ hiếu thuận để lấy lòng cha mẹ
Con cái tuổi Ngọ: Bọn trẻ có tính độc lập rất cao, sẽ thoát ly gia đình sớm
Con cái tuổi Mùi: Gia đình ít vui vẻ, hòa thuận
Con cái tuổi Thân: Quan hệ rất tốt
Con cái tuổi Dậu: Con cái sẽ nghe lời nếu cha mẹ đừng quá nghiêm khắc
Con cái tuổi Tuất: Ngoài mặt hiếu thảo, trong bụng có ý riêng
Con cái tuổi Hợi: Con cái luôn phụ giúp cha mẹ nhưng đôi lúc sẽ bất đồng
Con cái tuổi Tý: Con cái sẽ được quan tâm chăm sóc rất kỹ
Con cái tuổi Sửu: Con cái làm trái ý cha mẹ
Con cái tuổi Dần: Cả nhà luôn xung khắc, không yên ổn, đầm ấm
Con cái tuổi Mão: Con cái ngấm ngầm chống lại cha mẹ, dù bề ngoài luôn tỏ ra hiếu thuận
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hạnh phúc, con cái khiến cha mẹ tự hào
Con cái tuổi Tị: Cha mẹ và con cái không hiểu nhau
Con cái tuổi Ngọ: Tuy có mâu thuẫn , xung đột, song mọi thành viên đều yêu thương, đùm bọc lẫn nhau
Con cái tuổi Mùi: Cha mẹ luôn rầy la con cái
Con cái tuổi Thân: Luôn xung khắc với cha mẹ
Con cái tuổi Dậu: Con cái luôn có xu hướng muốn thoát ly khỏi gia đình
Con cái tuổi Tuất: Gia đình đầm ấm, yên vui
Con cái tuổi Hợi: Con cái luôn chiều lòng cha mẹ
Con cái tuổi Tý: Không được hòa thuận lắm
Con cái tuổi Sửu: Mối quan hệ lạnh nhạt, luôn đi tới chỗ bế tắc
Con cái tuổi Dần: Quan hệ bình thường, song tuổi Dần có tính tự ái rất cao
Con cái tuổi Mão: Gia đình luôn ngập tràn tiếng cười
Con cái tuổi Thìn: Gia đình hạnh phúc
Con cái tuổi Tị: Gia đình hòa hợp
Con cái tuổi Ngọ: Cha mẹ nên để con cái phát triển tự nhiên, không nên quá nghiêm khắc
Con cái tuổi Mùi: Gia đình hòa thuận, cũng giúp đỡ, hiểu biết và thông cảm lẫn nhau
Con cái tuổi Thân: Con cái vừa sợ, vừa tìm cách nói dối cha mẹ
Con cái tuổi Dậu: Cha mẹ không có điều kiện chăm lo đầy đủ cho con cái
Con cái tuổi Tuất: Cuộc sống bình lặng, hạnh phúc nhất là mẹ tuổi Mão, luôn cưng chiều con tuổi Tuất
Con cái tuổi Hợi: Quan hệ bình thường
Con cái tuổi Tý: Cha mẹ có yêu cầu quá cáo đối với con cái
Con cái tuổi Sửu: Dù cố gắng hết sức vẫn không làm vừa lòng cha mẹ
Con cái tuổi Dần: Cha mẹ hài lòng với sự tải giỏi và thành đạt của con cái
Con cái tuổi Mão: Cha mẹ thường thất vọng vì con cái, nhưng vẫn yêu thương con
Con cái tuổi Thìn: Đôi bên cùng tự hào về nhau
Con cái tuổi Tỵ: Quan hệ khá tốt, vì con cái thông minh
Con cái tuổi Ngọ: Con cái bướng bỉnh nhưng vẫn thành đạt
Con cái tuổi Mùi: Con cái có tài nghệ thuật và làm cha mẹ hài lòng
Con cái tuổi Thân: Quan hệ khá tốt
Con cái tuổi Dậu: Dù muốn hay không cũng phải phục tùng cha mẹ
Con cái tuổi Tuất: không hòa hợp, luôn xung khắc
Con cái tuổi Hợi: khá tốt, cha mẹ quan tâm và chăm sóc con cái rất chu đáo
Con cái tuổi Tý: Quan hệ đôi ben đều tốt
Con cái tuổi Sửu: Cha mẹ luôn quan tâm con cái
Con cái tuổi Dần: Sẽ xảy ra xung đột
Con cái tuổi Mão: Quan hệ khá tốt
Con cái tuổi Thìn: Cha mẹ luôn hiểu con cái
Con cái tuổi Tị: Luôn có xung đột, tranh chấp
Con cái tuổi Ngọ: Con cái luôn muốn thoát ly gia đình sớm khiến cha mẹ phiền lòng
Con cái tuổi Mùi: Gia đình luôn hòa thuận
Con cái tuổi Thân: Hai thế hệ quá khác nhau về quan niệm sống, nên nhiều xung đột
Con cái tuổi Dậu: Hai bên cùng hiểu nhau, cha mẹ luôn quan tâm, chăm sóc tốt cho con, còn con thì luôn vâng lời
Con cái tuổi Tuất: Gia đình luôn xung đột, không yên ấm
Con cái tuổi Hợi: Cha mẹ quá nghiêm khắc với con cái
>>> Xem tiếp phần 2: Xem tuổi con cái và cha mẹ có hợp nhau hay không?
Ngô Bạch
Với họ, tình yêu được thể hiện bằng những lời âu yếm, ngọt ngào. Tuy nhiên điều này có thể sẽ khiến người yêu khó cảm nhận được sự chân thành và niềm tin ở một nửa của mình.
Một số người tuổi tuổi Ngọ thuộc nhóm máu B thường thích kiếm tìm nhiều đối tượng ngay cả khi đã lập gia đình. Với họ mái ấm gia đình không phải là tất cả. Họ có thể tìm thấy nhiều niềm vui trong các mối quan hệ với người khác giới. Cũng chính điều này khiến cho cuộc sống vợ chồng của họ càng khó hòa hợp, hạnh phúc.
Do chưa một lòng xây dựng hạnh phúc lứa đôi nên không ít người phải chia tay bạn đời và tiến đến một cuộc hôn nhân khác. Tuy nhiên, ngay cả khi bước tiếp trên con đường tình, hạnh phúc cũng chưa hẳn đã mỉm cười với họ. Quan niệm sống đúng đắn và coi trọng giá trị của đời sống gia đình có thể sẽ giúp họ dễ dàng tìm đến bến bờ hạnh phúc hơn.
(Theo 12 con giáp về tình yêu hôn nhân)
Câu hỏi 1: Tôi đang thích một người tuổi Ngọ, không biết trong tương lai chúng tôi có thể đến được với nhau không, tôi muốn biết để mình sớm dứt bỏ mối tình đơn phương này
Trả lời:
Câu hỏi 2: Xin cho biet năm nay tôi có thành công trong việc đầu tư cổ phiếu hoặc thay đổi chỗ làm không ạ ?
Trả lời:
Câu hỏi 3: Câu hỏi của tôi là tôi chuẩn bị tham gia kì thi cuối kì vào ngày 9,10,13/5 dương lịch. Liệu tôi có thể làm tốt bài thi và được ở lại trường tôi thích hay khong? Xin cảm ơn.
Trả lời:
Câu hỏi 4: My name is Ly Thy Nga, Please let me know if I can survive my cancer?
Trả lời:
Câu hỏi 5: Tôi tên Phương Lan, sinh ngày 20 tháng 2 năm Đinh Tỵ, sinh giờ Tỵ (âm lịch) hiện nay tôi đang xây dựng 4 khách sạn, xin hỏi tôi xây xong và muốn bán bớt đi 2 cái, xin hỏi việc này có thành công không?
Xin cảm ơn
Trả lời:
Câu hỏi 6: Tôi xin hỏi là chuyến đi VN của tôi có thành công trong phương diện làm lành với vợ tôi hay không?
Trả lời:
Câu hỏi 7: Cong viec trong nam 2015 co tot khong?
Trả lời:
Câu hỏi 8: Tôi và một người bạn tên Trần Minh Hùng sinh ngày 30/11/1970 hợp tác mở Business. Tôi muốn biết rằng tôi và người này có thể hợp tác lâu dài và có kết quả tốt đẹp không?
Trả lời:
Câu hỏi 9: Tôi có di coi tướng và thây coi tướng cho tôi biết răng tôi không nên sử dụng đồ trang sức là kim cương vì tuổi của tôi kỵ với kim cương. Tôi rất thích xài kim cương, vậy xin các thầy giải đáp cho tôi biết có đúng là tôi kỵ với kim cương?
Trả lời:
Câu hỏi 10: Tôi đang được cân nhắc bổ nhiệm làm phó giám đốc, liệu kết quả có thành trong năm nay hay sang năm
Trả lời:
Xem tiếp trả lời mẫu 3.
Ô nhiễm do hoàn thiện nhà là một trong những nguồn gốc chủ yếu dẫn đến ô nhiễm trong nhà ở. Trong những vật liệu dùng để hoàn thiện nhà ở như sơn, vật liệu sơn, tấm gỗ dán, nilon dán tường, đá lát… đều có chứa các chất có hại như Formaldehvde (Metal), benzen. Radon. Những chất độc hại này chính là “sát thủ vô hình” tiềm ẩn trong không khí, có mùi làm cay mũi, cay mắt, có mùi dẫn đến đau đầu, tức ngực, thậm chí trúng độc mãn tính.
Là một người dân bình thường, ô nhiễm không khí nhà ở của mình có vượt quá chỉ tiêu hay không chúng ta cũng khó biết chính xác, nhưng chúng ta có thể thông qua một số hiện tượng thường thấv để bước đầu phán đoán có phải không khí trong nhà mình đã ô nhiễm hay không. Những hiện tượng thường gặp này được chia thành:
Vào mỗi buổi sáng sớm, sau khi thức dậy bạn cảm thấy ngột ngạt khó chịu, buồn nôn, thậm chí hoa mắt chóng mặt.
Sau khi mới chuyển nhà, bỗng nhiên con vật cưng bị chét.Tất cả mọi người trong nhà đều mắc chứng một căn bệnh, nhưng sau khi rời khỏi môi trường đó, triệu chứng bệnh tật sẽ có chuyển biến rõ rệt và tốt lên.
Người trong nhà thường có triệu chứng dị ứng trên da, hơn nữa dị ứng còn có tính phát tán rộng theo từng cụm.
Tuy không hút thuốc lá, cũng rất ít khi tiếp xúc với môi trường có khói thuốc, nhưng lại thường xuyên cảm thấy khó chịu nơi cổ họng, cảm giác có dị vật trong họng, hô hấp không thông suốt.
Vợ chồng mới cưới sống với nhau thời gian khá dài mà vẫn chưa có con, hơn nửa tìm không ra nguyên nhân, hoặc phụ nữ mang thai trong tình trạng mang thai bình thường nhưng lại phát hiện ra thai nhi dị hình.
Trồng cây trong nhà không dễ sóng, lá dễ bị vàng, khô héo, đặc biệt là một số loài thực vật có sức sống rất mạnh cũng khó sinh trường bình thường.
Người trong nhà đặc biệt là trẻ nhỏ rất dễ bị cảm mạo, ho, hăt hơi, khả năng miễn dịch kém, trẻ con không chịu về nhà.
Vật nuôi trong nhà như chó, mèo, thậm chí là loài cá nhiệt đới cũng chết một cách vô lý.
Nhà mới xây hoặc vật dụng mới mua có dị mùi gây khó chịu cho mũi, hơn nữa sau hơn một năm mà những mùi đó vẫn không bay hết.
Dương nhiên, nếu muốn đưa ra đánh giá chính xác xem không khí môi trường trong nhà mình ô nhiễm vượt quá chỉ tiêu hay không thì cần phải thông qua cơ quan kiểm định môi trường do kiểm định mới có thể biết được.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
1. Dáng đi hình chữ (V) hai đầu bàn chân hướng ra 2 phía, hai gót chụm lại: là người bảo thủ, cố chấp nhưng lại có óc văn nghệ.
► Mời các bạn tham khảo thêm: Xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác |
Bạn có biết số lượng hoa tay nói lên điều gì? Mỗi người có số lượng hoa tay khác nhau, người có 1 hoa tay, người thì có 2 hoa tay, .. cũng có những người có tới 10 hoa tay. Vậy ý nghĩa của số lượng hoa tay nói lên điều gì? Bài viết dưới đây của Phong thủy số sẽ giới thiệu tới bạn:
Ý nghĩa của hoa tay:
Dân gian ta có câu:
1 hoa nghèo
2 hoa giàu
3 hòa 4 hoa bán đậu hũ
5 hoa 6 hoa mở hiệu cầm đồ
7 hoa 8 hoa làm quan
9 hoa thanh nhàn
10 hoa thanh nhàn phúc phận
Người có 1 hoa tay thường có thời vận không tốt, thông thường phải tự thân vận động thì mới đạt được thành công
Với những người có 2 hoa tay thường là những người duyên dáng, thu hút những người khác giới, nhưng khá kén chọn, khó tìm được người ưng ý. Những người này phù hợp với nghè văn nghệ hoặc biểu diễn.
Với những người có 3 hoa thường là người chịu khó, thông minh, họ cũng là những người mẫu của gia đình, luôn hết lòng về gia đình.
Đây là nhóm người có bền ngoài khá cởi mở, thấu tình đạt lí. Họ là những người hoàn mỹ, được những người xung quanh ưa thích.
Họ là những người hiền lành, nhưng mạnh mẽ, có chí tiến thủ. Trong tình yêu, những người này thường có yêu cầu không cao đối với người yêu, không những thế họ còn có xu hướng thần tượng người yêu của mình.
Với những người có 6 hoa tay thường là người khá tình cảm và có các ý nghĩ kỳ quái. Những người này thường ở quê nhà phát triển sự nghiệp thì tốt hơn là đi xa. Tình yêu của họ khá nhẹ nhãng và yên bình.
Họ là người sống khá nội tâm, tính tình cổ quái. Thường biết phấn đấu cho mục tiêu của mình. Trong tình yêu họ thường khó chọn được người tâm đồng ý hợp với mình.
8 hoa tay là người lương thiện, vào thời trung niên thường có vận khí tốt nhất. Trong tình cảm khá đào hoa, lãng mạn. Với những người có 8 hoa tay thường cần nhiều nỗ lực mới vượt qua được những khó khăn.
Người có 9 hoa tay là người nhiệt tình, tích cực. Họ thường có khả năng trong việc giỏi ứng biến, biết các tổ chức. Trong tình yêu, họ là những người khá kiêu ngạo, tự cao.
Những người có 10 hoa tay nói lên điều gì? Thông thường họ là những người lương thiện, cố chấp. Trong cuộc sống thì vận khí những người này tốt lên từ thời trung niên và khi đến già lại càng vượng.
Cùng tìm hiểu: Nếu không có hoa tày nào thì sao?
Tìm kiếm liên quan: hoa tay nói lên điều gì, hoa tay là gì, ý nghĩa của hoa tay, số lượng hoa tay nói lên điều gì, 10 hoa tay nói lên điều gì, người có 10 hoa tay
: Hoa tay ngón áp út
Gương là thứ nhà ai cũng cần có để soi vào làm đẹp, chỉnh trang bản thân trước khi ra đường, không chỉ thế còn giúp ta theo dõi cơ thể mình tốt hơn, sớm nhận ra được những dấu hiệu đáng ngại nếu chẳng may mắc phải. Nhưng bên cạnh đó, gương cũng là một thứ rất quyền năng trong phong thủy.
Vị trí để gương mà nhiều người chọn nhất là trong phòng ngủ vì cho rằng đây là nơi kín đáo, dễ soi mà không ngại ngùng; tuy nhiên, vị trí này lại bị rất nhiều chuyên gia phản đối, nhất là nếu chiếc gương đối diện với giường ngủ. Lý do là theo thuyết phong thủy, không nên để bất cứ sự phản xạ ánh sáng nào chiếu trực tiếp vào giường, dù là gương hay màn hình TV, vì sẽ dễ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ và mối quan hệ của chủ nhân, không chỉ thế một số người yếu bóng vía, dễ giật mình cũng sẽ dễ bị tưởng tượng khi thức giấc nửa đêm và vô tình nhìn vào gương.
(Ảnh: Internet)
Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách sử dụng gương di động hoặc gương ở mặt sau cánh cửa tủ. Nhưng nhìn chung, theo các chuyên gia, vị trí tốt nhất cho gương kia ngự ở trên tường vẫn là trong phòng khách hay khu vực phòng ăn, vì nhiều lý do:
- Để mở rộng không gian phòng, tăng thêm độ sáng, vì hiệu ứng trực quan mà gương có thể tạo ra là rất đáng kể;
- Đặt gương lớn ở những vị trí phản chiếu góc nhìn, cảnh quan đẹp (chẳng hạn như khu vườn, bầu trời…) sẽ vừa đưa thêm sự sống động của thiên nhiên vào nhà vừa thu hút năng lượng tích cực;
- Gương được treo đối diện với bàn ăn và khu vực sinh hoạt của gia đình cũng là việc được khuyên làm, vì đây là những khu vực đại diện cho sự đầm ấm, no đủ, đặt gương thế này sẽ như cách nhân đôi những điều tốt đó. Cũng vì tác dụng “nhân đôi” mà nhiều người còn đặt gương trước biểu tượng của tiền bạc và sự sung túc; và ngược lại, tránh để đối diện gương những thứ cũ kỹ, tồn đọng, những thứ tượng trưng cho tiền bạc phải chi ra, như hóa đơn;
- Gương cũng là món đồ trang trí tinh tế dễ khiến khách đến nhà phải thốt lời khen ngợi, nếu bạn biết cách sắp xếp hợp lý, có gu.
(Ảnh: Internet)
Có những vị trí tốt thì cũng có những vị trí nhất thiết nên tránh, ngoài đối diện giường ngủ thì bạn cũng tránh treo, đặt gương ở:
- Đối diện với cửa chính, vì đây được cho là nơi thu hút năng lượng vào nhà, và chiếc gương sẽ gây cản trở điều này;
- Đối diện nhà vệ sinh (nơi bị cho là có những nguồn khí tiêu cực), đối diện bếp (bởi gương mang yếu tố nước, kỵ với lửa hồng của bếp);
- Đặt gương đối diện, phản chiếu nhau cũng không phải là điều tốt vì bị cho sẽ làm suy yếu năng lượng;
- Nếu trong gia đình có trẻ nhỏ, các chuyên gia khuyên nên có ít nhất một tấm gương mà bé có thể soi được cả người, để bé học được đầy đủ về bản thân, ý thức về mình và củng cố sự tự tin, tự trọng. Tuy vậy cần lưu ý cần bắt chắc gương vào tường để phòng tránh tai nạn gương đổ vào người bé, vỡ ra, rất nguy hiểm.
(Ảnh: Internet)
- Và cuối cùng, rất dễ hiểu là bạn không nên giữ gương vỡ, gương mẻ trong nhà, không chỉ làm tán khí, nhiễu năng lượng mà đó cũng là những mối nguy rất hiển nhiên cho sự an toàn.
Hãy dùng gương, bao gồm việc xếp đặt gương, một cách hợp lý, đúng cách để vừa tiện dụng, vừa an toàn, lại đảm bảo vượng khí nhé!
Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
► Mời bạn đọc: Những câu nói hay về tình yêu và suy ngẫm |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
► Xem thêm: Phong thủy phòng ngủ giúp vợ chồng hạnh phúc, yên ấm |
Bài của Ân Quang
Tôi xin tiếp tục loạt bài nói về Ý nghĩa Kình Dương và Đà La. Trong tử vi không có vị sao nào giống nhau, Văn Xương không thể nào giống y như Văn Khúc. Linh Tinh phải khác Hỏa Tinh. Kình Dương cũng không thể giống Đà La. Muốn tìm hiểu sự dị biệt này thì phải xét đến Ý nghĩa tên các vị sao. Mà muốn tìm hiểu Ý nghĩa các vị sao thì phải tìm hiểu cách viết tên các vị sao ấy bằng chữ Hán.
Tử-Vi và chữ Hán
Bài này có vẻ hơi khô khan, nặng nề đối với một vài bạn mới nhập môn Tử-Vi, nhưng tôi cũng xin viết ra, mong rằng đó sẽ là khởi điểm cho một điều hướng nghiên cứu mới có Ý thức, có quan niệm rõ ràng hơn. Chứ không phải chỉ mơ hồ, nhìn vào một cung nào đó, thấy một lô các sao Dương Đà Không Kiếp, Hỏa Linh, Hình Kị, Phục Binh, Tang Hổ … nghe một tràng những tên gọi rùng rợn … rồi kết luận là cung đó xấu lắm, hạn đến đó xấu lắm.
Đoán như vậy là dựa vào sức “nhạy cảm”. Nghe một tràng những tên gọi ghê tai, rồi rùng mình, đóan rằng xấu.
Đó là phương pháp lưng chừng. Lúc thì dựa vào một vài công thức nghe có vẻ khoa học. Lúc nào kẹt qúa thì lại buông thả theo trực giác mường tượng như cách phát âm tên vị sao để luận đoán (như dựa vào cách phát âm Trực-Phù mà đóan là đánh trống, bắn súng ….)
Phương pháp này không đưa người nghiên cứu vào con đường lập luận mạch lạc, hướng đến chân trời Lý Học, mà đặt người nghiên cứu vào tình trạng mờ mờ ảo ảo; lúc thì dùng lý trí phán đóan, lúc lại buông xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh mách bảo. Mục đích của Khoa Học Huyền Bí là đem những vấn đề Huyền Bí ra trước ánh sáng Khoa Học, chứ không phải là xô đẩy Khoa Học rơi vào tình trạng hỗn độn, mờ ảo huyền bí.
Tử-vi là một khoa học phát xuất từ Trung Hoa.
Để có một quan niệm rõ rệt về công dụng của Tử-Vi để đi tìm một đường lối nghiên cứu đúng đắn, mạch lạc, cần phải gác qua một bên những sở thích, những thành kiến, những nhân sinh quan riêng của mình, để tìm hiểu cái vũ trụ quan, cái nhân sinh quan của Trung Hoa vào thời mà Tử-Vi phát sinh và trưởng thành. Và dĩ nhiên là cần tìm hiểu Ý nghĩa chữ Hán để biết điểm dị biệt giữa các vị sao.
Khốn nỗi, lấy tiêu chuẩn nào để bảo đảm rằng cuốn sách chữ Hán mà chúng ta đang cầm trong tay, là một cuốn sách chân truyền. Chằng lẽ, cứ thấy một cuốn sách Tử-Vi bằng chữ Hán có vẻ cũ cũ, xưa xưa truyền lại từ nhiều đời trước, trong đó có một số bài phú thâm thúy, một vài cách luận giải khác lạ hay hay rối chóa mắt suy tôn gía trị tòan bộ sách, hãnh diện rằng mình có trong tay một bảo vật, tự mãn rằng sách đó chân truyền từ đời Nhà Tống, đời Trần Đòan, đời cụ Lê Qúi Đôn. Rồi thôi! Không cần xét lại những điểm tối nghĩa hay sao. Lỡ trong sách ấy có một vài đọan “tam sao thất bản” thì sao? Có lẽ cũng chỉ vì thế mà không những, không có phát minh, cải tiến trong Tử-Vi, trái lại khoa này càng ngày càng bị thất truyền.
Một vài vị nghiên cứu Tử-Vi khá lâu có tìm gặp tôi bàn luận và mong mỏi có một nền Tử-Vi Việt Nam, chẳng lẽ mình cứ mãi mãi lệ thuộc vào văn hóa Trung Hoa hay sao? Thỉnh thỏang lại nghe đồn có nhà Tử-Vi tài ba này, nhà Tử-Vi siêu việt nọ, mà rốt cuộc không thấy ai làm gì cho một nền Tử-Vi Việt Nam. Có lúc lại thấy có dư luận hướng về Tử-Vi Trung Hoa Đài Loan. Có người lại đón cả thầy Tử-Vi bên Trung Hoa Hồng Kông về xem.
Tôi xin thưa rằng tôi không đi ngược lại ý nghĩa xây dựng một khoa Tử-Vi Việt Nam. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng tìm hiểu những nguyên lý cũ, những điểm tối nghĩa cũ còn chưa xong, mà vội xây dựng một cái gì khác lên trên thì e rằng thiếu căn bản. Nền nhà bên dưới chưa hòan tòan chắc chắn mà vội xây một cái nhà khác lên bên trên thì e rằng dễ sụp đổ.
Tôi thiển nghĩ làm việc gì cũng cần có từng giai đọan. Hiện nay thì cần làm sáng tỏ những nguyên lý cũ, giải quyết những điểm tối nghĩa cũ lần lần sẽ tính đến những sự cải tiến khác, thì việc làm sẽ được chắc chắn hơn.
Nếu cứ vội vã thông qua, không tìm hiểu kỹ những điểm căn bản, mà xây dựng một cái gì khác lên bên trên thì dễ tạo nên một sự rối lọan một sự sụp đỗ mới.
Nếu cứ vội vã thông qua Đà cũng như Kình, Kình cũng như Đà, Hỏa cũng như Linh, Linh cũng như Hỏa, thì người nghiên cứu dễ vô tình trở thành một tay “thợ Tử-Vi”, một chuyên viên “Cơ-Khí Tử-Vi”. Lối giải đoán như vậy chỉ có thể thỏa mãn một vài hiếu kỳ, thắc mắc cấp thời, chỉ đưa người nghiên cứu vào vòng làm việc thiếu ý thức sâu xa, không thể áp dụng Lý Học một cách mạch lạc. Làm việc như vậy, người nghiên cứu rất dễ hiểu lầm các câu phú như những công thức máy móc và không sao chế hóa được khi gặp trường hợp công thức này chống ngược lại công thức kia.
Chính vì thế mà trong giai đọan sơ khởi chúng ta phải tìm hiểu chữ Hán, để tìm hiểu, để giải quyết những điểm tối nghĩa cũ.
Đến đây tôi cũng xin thưa thực rằng số vốn chữ Hán của tôi không có gì uyên thâm. Chỉ học lại chút ít của các cụ trong họ hàng. Số vốn chữ Hán thì ít mà khát vọng tìm hiểu, tra cứu lại nhiều. Thế cho nên cứ có một điểm nào đó hơi tối nghĩa một chút là tôi liền thắc mắc, tra cứu, so sánh, đối chiếu các tài liệu, tìm tòi hỏi các cụ đi trước, cân nhắc các lời luận giải. Vì thế mà tôi thấy có nhiều trường hợp thất truyền hoặc tam sao thất bản.
Tôi buộc lòng phải viết hơi dài dòng, kể qua một vài trường hợp tam sao thất bản để quý bạn Tử-Vi có thể nhận định dễ dàng những điểm tế nhị của bộ sao Kình, Đà.
Một vài trường hợp tam sao thất bản
Có nhiều nguyên nhân khiến cho có sự “tam sao thất bản”, nhưng tôi trộm nghĩ là có bốn nguyên nhân đáng kể sau đây:
– Vì chữ Hán, nhòe một nét có thể đọc thành chữ khác
– Về chữ Hán có nhiều chữ đồng âm, nghe người khác đọc rồi chép lại sau và chép sai chữ.
– Người trước viết tắt để cho tiện (hoặc có ẩn Ý dấu nghề chăng?). Người sau chép lại, vì không hiểu thấu ý nghĩa sâu xa, nên chỉ biết nhìn vào chữ viết tắt mà chép lại, thành ra tối nghĩa.
– Cũng có thể là vì người chép lại, không hiểu hết Ý nghĩa của người trước đã thêm ý riêng của mình vào.
Tôi xin kể vài thí dụ:
Như câu “ Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn bá” thì chữ Bá, viết với bộ Thủ có nghĩa là gieo rắc ra xa. Thế mà có sách lại chép ”Liêm Trinh, sát bất gia, thanh danh viễn phan” có lẽ bộ Thủ đã bị nhòe, người đọc tưởng là bộ Thủy, đã chép lại là chữ Phan, có nghĩa là Họ Phan, hay là …. Nước vo gạo.
Như câu “Quan phù, Thái Tuế, Công Dã hữu hy tiết chi ưu”. Gặp Quan Phù, Thái Tuế thì có thể như chàng Công Dã có sự ưu phiền về giây xích trói buộc.
Thế mà sách chép lại là Công Trị, rồi mới đây lại có một cuốn sách Tử-Vi đã (vô tình hay cố Ý) xếp chữ lại là Công Trự. Từ Công Dã, biến thành Công Trị, rồi nói đến Công Trự!
Công Dã đây là họ Công Dã (có ghi trong tài liệu “Bá gia tánh sách”) và có liên hệ đền điển tích anh thợ săn Công Dã Tràng. Vì vậy cung có câu phú diễn nôm:
Dã Tràng không tội phải tù.
Trong năm Thái Tuế, Quan Phù đi qua
Họ Công Dã, chữ Dã viết với bộ Băng, có một chấm, người đọc vì không hiểu họ Công Dã, tưởng chữ giả là chữ Trị, viết với bộ Thủy có hai chấm.
Ở đây tôi cũng xin mở ngoặc nói thêm là mỗi câu phú chữ Nôm hay chữ Hán không phải là một công thức hay là một cái đinh ốc trong bộ máy Tử-Vi. Các câu phú chữ Nôm hay chữ Hán do cổ nhân lập ra, chỉ là cách đặt câu có vần, cho chúng ta dễ nhớ về một trong nhiều tính cách mà một vị Sao có thể đem lại.
Mỗi vị sao trong Tử-Vi không phải là cái đinh ốc của một bộ máy mà là một khí lực biến hóa vô lường. Như chúng ta đã biết Tử-Vi không đi ra ngòai căn bản Dịch Lý, mà Dịch lý thì cát biến hung, hung biến cát. Một vị sao có thể có nhiều ảnh hưởng tương phản tùy theo vị trí miếu, hãm … hoặc tùy theo ảnh hưởng trợ lực của một vị sao khác. Không thể vội gán cho mỗi câu phú một gía trị công thức máy móc. Vì vậy mà cần hiểu ý nghĩa, hiểu những ảnh hưởng tương phản của một vị sao, để có thể luận giải chế hóa khi gặp hai, ba câu phú, hai, ba công thức đối chọi nhau.
Trở lại với câu chuyện chữ Hán. Có sách chép câu: “Mệnh trung ngộ Kiếp, Tham như lãng l ý hành thuyền” dịch đại ý là Mệnh có Địa Kiếp, Tham Lang thì bấp bênh như đi thuyền trên sóng.
Có sách lại chép là: ”Mệnh trung ngộ Kiếp, kháp như lãng lý hành thuyền” cho rằng “kháp như” là giống y như “đi thuyền trên sóng”
Có sách lại chép là: “Mệnh trung ngộ Kiếp hợp như lãng lý hành thuyền” cũng dịch tổng quát là Mệnh có Địa Kiếp lại thêm Sát Kỵ, thì như đi thuyền trên sóng.
Mỗi người một ý; lý đều xuôi tai. Thôi thì đành chiêm nghiệm vậy. Thật là …. “ lắc lư còn tàu đi”.
Lại như nói về Văn tinh ám củng Cổ Nghị, duẩn hỉ đăng khoa.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Mãi Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”.
Có sách chép là: ”Văn tinh ám củng Giả Nghị, duẩn hỉ đăng khoa”
Vậy thì cái ông đó là ai? Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị?
Ông này qua đời đã lâu lắm rồi. Tôi có hỏi một vài cụ để tìm lời dẫn giải thì cũng thấy mơ hồ. Bí kế phải tìm đến học giả Đào Duy Anh và Cụ Thiều Chữu qua hai bộ Tự Điển thì thấy giải thích rằng chữ Cổ có nghĩa là cửa hàng, buôn bán ngay tại tại cửa tiệm là Cổ. Chữ Cổ này cũng có một âm là Giả, họ Giả, Học giả Đào Duy Anh giải thích rõ thêm là Giả Nghị, tên một học giả có tiếng đời Hán, từng làm quan Đại trung đại phu (200-168 trước Kỷ Nguyên).
Vẫn biết rằng chữ Hán là một phức âm tự, viết cùng một cách nhưng có thể đọc nhiều cách khác nhau như chữ Tử là con, có thể đọc là TÝ (địa chi là TÝ) tùy trường hợp, hoặc có trường hợp đọc trệch đi một chút như Vũ và Võ, Huỳnh và Hòang. Nhưng tên riêng của một học giả mà có đến ba cách phát âm khác nhau qúa như: Cổ Nghị, Mãi Nghị hay Giả Nghị. Mãi Nghị thì chắc là chỉ có một cách đọc đúng.
Lại như cách đóan có sao Thiên Cơ hoặc Vũ Khúc ở cung Giải thì “Cưỡng bao đa tai” là có chửa ngòai dạ con.
Tôi có gặp cách đoán “Cưỡng bao đa tai” này trong một cuốn sách Tử Vi xuất bản tại Đài Loan. Chữ Cưỡng và chữ Bao đều viết có bộ y là áo. Chữ Cưỡng chỉ về cái túi vải (xưa còn gọi là cái địu) để đeo trẻ nhỏ sau lưng. Chữ Bao chỉ về cái tã lót. Chữ Cưỡng Bao là chỉ về thời gian còn bé nhỏ, còn dùng tã lót, còn được đeo ở sau lưng. Chữ “Cưỡng bao đa tai” là nói rằng lúc còn bé nhỏ như vậy dễ có lắm tai ách. Còn chữ Cưỡng Bao viết như thế nào (bằng chữ Hán) để có thể hiểu là “có chửa ngòai dạ con” thì tôi đã cố công tra cứu mà chưa tìm ra được.
Lại như câu ca để tìm Cục cho nhanh: ” Bính, Tân, đê, liễu, ba, ngân, trúc”. Nói rằng chữ Trúc là ứng vào Hỏa Cục, nhưng chữ Trúc lại viết trên có bộ Trúc, dưới có bộ Mộc (như chữ kiến trúc) thì sao lại ứng vào Hỏa Cục được. Nếu nói rằng bộ Mộc đó là ám chỉ, Mộc sẽ sinh được Hỏa thì đó là giải thích loanh quanh, thêm phần phức tạp. Tôi thiển nghĩ đó là chữ Chúc. Chúc là cái đuốc, viết với bộ Hỏa, ứng vào Hỏa Cục thì dễ hiểu hơn. Có lẽ đây là do sự phát âm lẫn lộn TR và CH của một vài điạ phương tại miền Bắc. Một người đọc một người chép, cho nên thay vì dùng chữ Chúc là đuốc có bộ Hỏa, để ứng vào Hỏa Cục, thì lại dùng chữ Trúc có bộ Mộc.
Đến như cách viết tên các vị sao bằng chữ Hán thì lại có lắm sự phức tạp, mơ hồ. Tôi xin tạm lấy một thí dụ như chữ Phi Liêm. Người thì viết chữ Phi là bay. Người thì viết chữ Phi là không. Người lại viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới. Theo cụ Thiều Chữu thì viết chữ Phi có bộ Trùng bên dưới là chữ Phi, tên một loài sâu. Lại có một lòai sâu tên là Phi Liêm (cả hai chữ đều có bộ Trùng)
Dường như không mấy ai đặt vấn đề tra cứu luận giải để có một quan niệm rõ rệt về ngôi Phi Liêm nằm trong vòng Thiên can (một trong ba vòng quan trọng của Tử-Vi: Thiên can, Cục và Địa chi). Phần đông chỉ thích một công thức giản dị, đỡ mất thời giờ: Phi Liêm chủ thế này, chủ thế nọ.
Cách viết tên một vị sao bằng chữ Hán đem lại rất nhiều ý nghĩa. Cần phải xét kỹ, không thể thản nhiên tự mãn rằng sách này sách chân truyền, có nhiều bài phú cao siêu, không được khởi ý thắc mắc, phải sùng kính sách xưa, cứ mặc nhiên chấp nhận tên các vị sao như vậy đi.
Ngay trong cách viết, ngay trong tên gọi mà còn mơ hồ thì đến khi luận giải chắc là phải làm việc lưng chừng; khi thì dùng lý trí phán đóan; lúc thì tưởng tượng ra một hình ảnh nào đó, hoặc lại buống xuôi nhờ trực giác, nhờ thần linh. Quan niệm căn bản còn lỏng lẻo thì làm sao có thể suy luận mạch lạc.
Tôi luôn luôn dành nhiều sự cảm phục đối với quÝ vị đã dày công sưu tầm tài liệu bằng chữ Hán để sọan sách Tử-Vi. Đó qủa là một công trình lớn lao nặng nề và qúy vị đã tiến được một bước đường rất dài trong việc rọi thêm tia sáng để chấn chỉnh khoa Tử-Vi.
Tôi chỉ muốn nêu lên một vài điểm tối nghĩa như kể trên để giúp qúy bạn Tử-Vi để nhận định rằng chính bộ sao Kình Đà cũng nằm trong trường hợp đó.
Ý nghĩa Kình & Đà. Dương Nhẫn, Dương & La
Tôi đã gặp nhiều tài liệu Tử-Vi đứng đắn, nhưng trong đó vẫn có nhiều sách viết khác nhau. Có tìm hiểu kỹ cách viết thì mới có thể đạt đến cái tinh thần của bộ sao Kình Đà. Từ đó mới có thể tiến đến chỗ luận giải có ý thức, có quan niệm rõ ràng, chứ không phải chỉ áp dụng công thức, thiếu suy luận phân minh, rồi có khi vô tình rơi vào trường hợp đóan đúng nhờ “nhạy cảm”, “linh cảm”. Nếu như vậy thì là đi từ ánh sáng Khoa Học vào trong Huyền Bí, chứ không phải là nghiên cứu những vấn đề Huyền Bí một cách khoa học.
Có đạt đến cái tinh thần thì mới xét đến điểm dị biệt giữa Kình và Đà, Dương và La thì mới có thể chiêm nghiệm, mới hiểu được trường hợp người tuổi Dương Nữ, âm Nam an Kình Đà khác với người tuổi Dương Nam, âm Nữ. Điều này cụ Ba La có tiết lộ sơ sơ với cụ Thiên Lương (KHHB số B2 ra ngày 19/02/1973). Đây không phải là quan điểm, phương pháp của riêng Cụ Ba La, mà là của phần lớn các cụ thuộc thế hệ trước. Vì vậy, chúng ta mới thấy trong các sách Tử-Vi xuất bản trước đây trên hai mươi, ba mươi năm, các tác giả có thu nhập tài liệu để luận về Kinh Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi; còn Đà La ở TÝ Ngọ Mão Dậu, chỉ vì diễn không hết lý, trình bày không mạch lạc cho nên mới có sự mâu thuẫn giữa chương giữa cuốn sách luận về ảnh hưởng Kình Dương ở Dần Thân Tỵ Hợi, và chương đầu cuốn sách chỉ dẫn an sao.
Tôi thiển nghĩ rằng cụ Ba La, cụ Song An hoặc một số các cụ xưa kia không đến nỗi hẹp hòi dấu nghề. Có lẽ đó là do quan niệm thời ấy, chỉ nói sơ qua một số nguyên lý, một số nguyên tắc người đi sau chịu khó ra sức suy gẫm, tìm hiểu, nếu thành công thì sẽ thấu đáo hơn, thấm thía hơn. Ráng tu thì đắc đạo. Không ai đắc đạo dùm mình. Không ai làm cho mình đắc đạo được. Chỉ cần biết một số nguyên lý rồi dựa vào đó mà hành động. Nếu các Cụ có chỉ dạy sẵn, thì người đi sau lại có thể lười suy nghĩ, không cố gắng tìm hiểu sâu xa, hoặc có thể là vì thấy đáp số dễ qúa mà không quý trọng lời chỉ dẫn, còn hỏi tới hỏi lui, mất thì giờ của các cụ mà chẳng có lợi gì cho đôi bên.
Nay, xin đi vào Kình hay Đà – Dương hay La – Dương Nhẫn hóa Hình – Hóa Kị
Tất cả các tài liệu Tử-Vi xưa mà tôi gặp đều viết chữ Kình với bộ Thủ bên dưới ngụ ý chống lên, chỏi lên, giơ lên, dậy lên.
Kình Dương nhập miếu thì phú qúy thanh dương – Dương đây là tỏ ra, bốc lên. Ngộ nhận là chữ thanh danh thì cũng có nghĩa nhưng không sát với tinh thần của Kình Dương.
Trong tinh thần Dịch Lý, cát biến hung, nếu gặp cách xấu, thì Kình bị đảo, và có thể hình dung một cái gì khó vươn lên, ráng sức làm mà người khác hưởng (Lý Quảng)
Trong ngụ ý chống lên, vươn lên dậy lên mà cũng có quan niệm luận Kình Dương là Dương Tinh hạp với người Dương hơn (tác giả Đắc Lộc đã thu thập quan niệm này trong cuốn Tự Điển Tử-Vi xuất bản tại Hà Nội năm 1952).
Cũng trong cái khí lực đó chống lên, hồi lên này mà khi hãm thì Kình hóa Hình, là Nhẫn (cũng có âm là Nhận) là mũi nhọn của dao là cái gai. Khi xấu thì Kình hóa Hình là mũi (Nhẫn) lại gặp Thiên Hình nữa thì có thể độc lắm. Bởi thế mới có câu phú:
Hạn bởi gặp Nhẫn Hình Đà Hổ
Phải ngừa loài hùm chó mới yên.
Nếu chữ Kình đã được các sách Tử-Vi viết một cách thống nhất, thì chữ Dương đã có lắm cách viết khác nhau cũng có cách viết tối nghĩa mơ hồ.
Sau đây là là những cách viết chữ Dương mà tôi đã gặp trong một số tài liệu Tử-Vi.
– Chữ Dương viết với bộ Phụ, là Khí Dương cũng có nghĩa là tỏ ra.
– Chữ Dương viết với bộ Thủ, có nghĩa là giơ lên, bốc lên, dậy lên.
Viết chữ Dương với bộ Phụ hay bộ Thủ, ngó gần giống nhau, cách viết có hơi cầu kỳ.
– Còn một chữ Dương nữa mà tôi cũng đã gặp trong một số đáng kể tài liệu Tử-Vi. Chữ Dương là con Dê!. Cách viết thì có giản dị hơn, nhưng ý nghĩa thì thật mơ hồ. Chữ Dương là con Dê này trong cổ tự Trung Hoa cũng dùng như chữ Tường có nghĩa là điềm tốt lành. Nhưng đó cũng chỉ là một cách viết tắt chứ không có Ý nghĩa xúc tích.
Nhất là có tài liệu còn viết chữ Dương Nhẫn với cách viết chữ Dương là con Dê; Nhẫn là mũi dao. Vậy thì đó là Mũi Dao con Dê hay mũi dao tốt lành. Viết chữ Dương với bộ Thủ hay bộ Phụ có Ý nghĩa hơn, hạp với chữ Kình hơn.
Có lẽ viết chữ Dương là Dê, chỉ, chỉ là dựa vào cách phát âm, viết tạm cho tiện, cho gọn, lâu ngày thành thói quen, cũng như chữ “Không” ngày nay thành ra “O”.
Viết chữ Dương là con Dê (dù có luận rằng nghĩa như chữ Tường ngày xưa) thì thật là thiếu ý nghĩa.
Điều quan trọng trong Khoa học là những quan niệm sáng tỏ, mạch lạc làm sao cho Khoa học càng ngày càng tiến thêm, chứ không phải là nhiều người hay ít người viết như thế, Việt hay không Việt, Hán hay không Hán, chân truyền hay không chân truyền.
Khi đã hiểu Kình là ngụ ý cái gì chống lên, bốc lên …. Dương là dậy lên, tỏ ra … rồi xét đến Đà La, thì mới thấy được cái tiểu dị giữa Kình & Đà.
Chữ Đà có người viết với bộ Thủ, có người viết với bộ Phụ.
– Viết với bộ Thủ có nghĩa là kéo lại, kéo ra, kéo đến; ngụ Ý một cái Lực chuyển động theo chiều ngang (trong khí đó Kình ngụ ý một cái Lực chuyển động theo chiều thẳng đứng)
– Viết với bộ Phụ thì có nghĩa là chỗ đất gập ghềnh, hiểm trở.
– Chữ La là cái lưỡi và cũng có nghĩa là dăng rộng ra, dăng bày ra cũng có thể ngụ ý một cái gì bao la, bát ngát theo chiều ngang.
– La mà hãm thì không phát triển rộng ra, có khi mình lại bị gói vào trong lưỡi, mình bị động, bị che đi.
Đà mà hãm thì kéo co nhiều chuyện vướng mắc lôi thôi. Đà La mà hãm thì hóa thành Kị, nhiều chuyện trắc trở, mờ ám, che lấp.
Đà La mà nhập miếu thì có thể kéo rộng, mở rộng bao la, lan rộng ra, giăng rộng ra (theo chiều ngang).
Người xưa đã có quan niệm về Thiên, Nhân, Địa. Mà trong lá số Tử-Vi thì “Thiên” đây là Thiên Can (đầu mối trên trời) thể hiện qua vòng Lộc Tồn. “Nhân” thì đã thể hiện qua Vòng Tràng Sinh, vòng Cục, Cục đây là cuộc diện chứ không phải cục đá hay cục đất, “Địa” thể hiện qua vòng Địa Chi (ngành dưới đất) vòng Thái Tuế. Tôi sẽ xin nói thêm về các vòng này.
Trong thế giới hữu hình, trong hiện tượng giới, thì lúc nào cũng có sự đối tỷ, tương đối, có âm, có Dương, có cương có nhu, có nóng có lạnh, có trên dưới, trong ngòai, có cái bộc lộ, có cái tiềm tàng.
Ở một người ham họat động thì Kình Dương là hùng dũng hăng hái bộc lộ ra ngòai, hướng ngọai nhiều hơn, giải quyết bằng sức mạnh hoặc mau chóng hơn. Vì vậy ngôi Lực Sĩ luôn luôn đi chung với Kình Dương. Sự xếp đặt, viết tên Lực Sĩ vào chung với Kình Dương để nhắc nhở rằng đây là một lực hướng ngoại nhiều hơn.
Ở một người ham họat động thì Đà La là sự hăng hái nội tâm, hướng nội giải quyết bằng Tâm nhiều hơn băng Lực vì thế mà có lời luận là thâm trầm. Vì thế mà an đúng tiền Kình hậu Đà thì Kình bao giờ cũng đi với Lực. Đà La hướng về chiều ngang kín đáo, hướng nội, cho nên mới có quan niệm Đà La là âm Tinh.
Ở một người đa tình thì Kình Dương là tình nồng cháy ào ạt bộc lộc cấp bách. Đà La là tình âm ỷ tầm ngẩm tầm ngầm, nung nấu lâu dài, vì thế mới có quan niệm cho Đà La là dâm tinh (đây phải xét theo các sao khác đi cùng với Đà La mà luận)
Ở một người bướng bỉnh thì Kình Dương là ngang bướng chống trả ra mặt, mà Đà La là bướng ngầm kiên trì, chờ ngày thực hiện ý chí.
Kình là chống lên, Đà là kéo. Hạn có Kình Đà, tốt thì cũng có sự kéo co, lùng nhùng, trong phạm vi tốt, xấu thì cũng lại cũng có sự chống lên, kéo lại trong phạm vi xấu.
Gặp cách xấu thì Kình Dương là Nhẫn, là mũi dao, là cái gai xóc đến bất ngờ. Đà La là đa đoan lăng xăng vướng víu như mắc lưới.
Còn nhiều điểm tối hỷ nữa, nhưng tôi thiết tưởng rằng những dòng trình bày kể trên đã tạm đủ để đưa ra một Ý tưởng suy gẫm vấn đề. Tôi chỉ cố gắng trình bày một cách vô tư những gì mà tôi đã tra cứu, sưu tầm, học hỏi được.
Trong kỳ tới tôi sẽ trình bày vì đâu lại có câu chuyện Lộc tồn ở Thìn Tuất Sửu Mùi cũng là quan niệm về Mệnh chủ, Thân chủ, Lưu niên văn tinh
KHHB số 40
► Xem bói năm 2016 để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Phòng ngủ đúng phong thủy giúp bạn có giấc ngủ ngon, cuộc sống hạnh phúc và nhiều tài lộc nhưng để bố trí phòng như thế nào cho đúng thì không phải ai cũng biết.
Ngoài việc xác định phương hướng bài trí từng đồ vật trong phòng ngủ để thu hút tài vận thì theo phong thủy thì, đặt giường như thế nào được xem là vị trí tốt?
Vì giường là đồ nội thất lớn và quan trọng nhất trong phòng ngủ nên để bài trí phòng ngủ hợp phong thủy đồng nghĩa với việc bố trí vị trí phù hợp cho giường ngủ. Xác định lại vị trí giường đúng theo phong thủy không chỉ mang lại năng lượng tốt cho không gian nhà bạn mà còn mang lại may mắn, tài lộc cho bạn và các thành viên trong gia đình. Vậy, làm thế nào để xác định được vị trí phong thủy tốt để đặt giường trong phòng ngủ? Sau đây là 3 mẫu gợi ý bạn có thể áp dụng ngay cho nhà mình.
Tuy mỗi phòng ngủ năng lượng phong thủy thường khác nhau do vị trí, kích thước của các cửa sổ và cửa ra vào của mỗi phòng không giống nhau, nhưng vẫn có những cách bố trí chung cho phòng ngủ hợp phong thủy. Qua 3 mẫu này bạn có thể hiểu được bản chất của vấn đề và có thể áp dụng 1 trong 3 cách phù hợp và dần nhận ra những thay đổi tích cực trong cuộc sống nhờ những việc đơn giản này. Những chỉ dẫn này hết sức đơn giản, thậm chí khi bạn không thể xác định vị trí chiếc giường chính xác như trong hình ảnh dưới đây, nhưng bạn sẽ hiểu cách cơ bản để sửa đổi dần với mục đích phòng ngủ đúng phong thủy.
Đi lễ chùa đầu năm mọi người đều mong muốn năm nay được tốt tươi hơn năm trước. Người buôn bán kinh doanh đi chùa cầu tiền tài, người có chức vụ thì lễ bái cầu lộc, những đôi uyên ương thì cầu hạnh phúc, còn người chưa có bóng yêu thương thì cầu duyên.
Sau đây là những ngôi chùa, ngôi đền, phủ, miếu mà đa số mọi người đến cầu khấn rất linh nghiệm. Hàng năm ngay sau dịp nghỉ tết nguyên đán thì các cá nhân hay đoàn thể đều cố gắng sắp xếp công việc và thời gian để hành nguyện đến những nơi linh thiêng như thế này.
Chùa Hương đã trở thành một ngôi chùa nổi tiếng và luôn đông đúc người đi lễ vào những ngày đầu năm mới.
Chùa Hương nằm ngay ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. Tại nơi đây du khách còn được ngồi đò xuôi dòng suối Yến để cảm nhận không gian thanh bình của miền đất Phật.
Với du khách gần Hà Nội, có thể trẩy hội chùa Hương trong ngày nhưng nên đi từ sớm để tránh đông đúc. Khách ở xa nên dành 2 ngày và nghỉ lại một đêm, sáng hôm sau vào động Hương Tích sớm.
Hội chùa Hương hay Trẩy hội chùa Hương là một lễ hội nằm trong khu thắng cảnh Hương Sơn, được xem hành trình về một miền đất Phật – nơi Quan Thế Âm Bồ Tát ứng hiện tu hành.
Trong 3 tháng, lễ hội chùa hương bắt đầu từ mùng 6 tháng 1 đến tháng 3 âm lịch, đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch.
Yên Tử được xem là nơi đất Phật – nơi để những phật tử đổ về hành hương vào ngày mùng một Tết hàng năm, và Tết Bính Thân năm nay cũng không phải ngoại lệ.
Yên Tử nằm tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, nơi có suối Giải Oan, chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, tượng đá An Kỳ Sinh và chùa Đồng.
Nằm ở độ cao chót vót với đường đi hiểm trở cùng giá trị lịch sử lâu đời đã trở thành nét thu hút khiến nhiều du khách tìm đến đến để chiêm ngưỡng và tìm hiểu nét độc đáo của lịch sử chùa Yên Tử.
Ngôi chùa Đồng Yên Tử cùng với Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử Quảng Ninh đã tạo nên quần thể kiến trúc Yên Tử đồ sộ và cũng là đại diện cho nền móng và sự phát triển của phái Phật Giáo Trúc Lâm Yên Tử.
Du khách tìm về chùa Đồng Yên Tử không chỉ bởi nghệ thuật kiến trúc độc đáo với lịch sử lâu đời, mà còn tìm về thế giới tâm linh để thanh tịnh tâm hồn, thấu hiểu những triết lý Phật Giáo sâu xa, để nghe những lời răn dạy nơi cửa Phật.
Khu tâm linh núi chùa Bái Đính nằm trong Quần thể Danh thắng Tràng An, cách thành phố Ninh Bình khoảng 15 km, nằm ở phía Tây khu di tích lịch sử cố đô Hoa Lư.
Nơi đây còn được biết đến với nhiều kỷ lục như tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á, chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á, hành lang có nhiều tượng Phật nhất…
Ngoài ra, nơi đây cũng lưu giữ nhiều viên ngọc xá lợi, báu vật quý của Phật.
Chùa Bái Đính là khu chùa linh thiêng lớn nhất Việt Nam nên luôn là địa điểm được hàng vạn phật tử lựa chọn làm nơi hành hương đầu tiên trong năm.
Chùa Trấn Quốc là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, nằm cạnh Hồ Tây, ở cuối đường Thanh Niên, quận Ba Đình, Hà Nội. Chùa được xây từ thời Lý Nam Đế (541-547) ở gần sông Hồng, đến năm 1615, được dời vào vị trí ngày nay. Chùa có vườn tháp cổ u tịch, có nhiều tượng Phật giá trị, đặc biệt là tượng Thích Ca nhập Niết Bàn. Chùa là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Hà Nội có khá nhiều đền, chùa, song riêng ngôi chùa Trấn Quốc vẫn thuộc loại chùa cổ nhất, như đã đắc đạo trên đường tu luyện mà mặt nước Hồ Tây đầy huyền thoại làm chứng quả. Chùa không nhiều bậc đá rêu phong, hay núi non trùng điệp, nhưng thật yên bình cùng sóng nước ngân nga, vẫn có thể cho hồn ta giọt nước cành dương, rửa đi một phần thế tục, để làm Lành làm Thiện với nhân gian…
Chùa Ba Vàng có tên cổ là Bảo Quang Tự (có nghĩa là “ánh sáng quý”) được xây dựng vào năm Ất Dậu, (năm 1676). Chùa toạ lạc trên lưng chừng núi Thành Đẳng, ở độ cao 340m so với mặt nước biển. Chùa nằm trên một vị trí rất đẹp ở phía tây thành phố Uông Bí, phía trước là sông, phía sau tựa lưng vào núi, hai bên là rừng thông xanh ngát. Chùa Ba Vàng có mạch phong thủy bắt nguồn từ chùa Đồng (Yên Tử) với địa hình hạ đoạn tạo thành thế thanh long trùng điệp chầu về bên trái, bạch hổ hùng vĩ phục xuống bên phải.
Cứ ngày 14 tháng riêng âm lịch hàng năm, Nam Định tổ chức lễ khai ấn Đền Trần, nơi thờ các vị vua đời Trần. Dù chỉ đêm 14 tháng Giêng mới khai ấn đền Trần nhưng mới mùng 7, mùng 8 Tết, phủ Thiên Trường Nam Định đã tấp nập du khách thắp hương, vãn cảnh đầu xuân. Đền Trần là công trình thờ tự có từ lâu đời, thờ 14 vị vua triều Trần.
Thế nên, dù Đền Trần có hơn hai chục ngày lễ nhưng Lễ khai ấn là đại lễ được mong đợi nhất trong năm. Theo tương truyền, ấn chỉ linh thiêng khi được lấy đúng vào 23 – 24h của ngày 14 tháng giêng. Vì vậy hàng vạn, hàng triệu người khắp nơi đổ về Đền Trần chen chúc, xô đẩy nhau cũng chỉ mong xin được ấn vào thời khắc thiêng liêng ấy. Để xin được ấn vua ban lúc nửa đêm, người ta phải xếp hàng, xin thẻ từ trước đó rất lâu, hoặc đến thời điểm khai ấn.
Theo dân gian truyền miệng thì, người đi lễ chùa cầu may đầu năm đến đền Bà Chúa Kho để vay tiền làm ăn kinh doanh trong năm mới. Các thương gia, các nhà doanh nghiệp ai cũng cố vào được cửa Bà. Bằng mọi giá, mọi cách, họ phải khấn vái và đặt lễ được trước… mặt Bà. Có vậy Bà mới cho lộc, mới mở kho xuất tiền cho vay. Mọi người lên lễ Bà Chúa Kho để vay tiền hoặc xin “lộc rơi lộc vãi”. Vay thì thủ tục khá rắc rối, phải qua nhiều ban bệ. Đa số mọi người lên xin lộc rơi lộc vãi nhưng năm nào cũng lên tạ lễ Bà đã phù hộ cho.
Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giới kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lễ bà Chúa kho, cầu mong một năm mới an lạc thịnh vượng và hạnh phúc.
Đền Chử Đổng Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) gắn liền với mối tình giữa nàng công chúa Tiên Dung lá ngọc cành vàng với chàng trai nghèo khó nhưng rất mực hiếu thảo Chử Đồng Tử.
Mối lương duyên của Chử Đồng Tử và nàng công chúa Tiên Dung vẫn còn mãi với thời gian. Chính vì thế nhiều người đến đây không chỉ để dâng nén nhang tưởng nhớ tới một trong những “tứ bất tử” của Việt Nam cùng hai vị phu nhân xinh đẹp là Tiên Dung công chúa và Tây Sa công chúa mà còn để cầu mong tìm được tình yêu chân chính, gia đình yên ấm.
Đó là địa chỉ tâm linh của cộng đồng người Hoa và cả người Việt tìm đến để cầu nguyện mỗi ngày. Chùa Minh Hương còn được gọi là chùa Ông hay chùa Quan Đế Thánh quân, tức theo tục thờ Quan Vân Trường thuở trước đã in vào lối sống của người Hoa và cả người Việt hiện nay. Dù không thuộc loại nhất nhì về quy mô, nhưng theo khẳng định của nhiều người thì sự linh thiêng của chùa đã nức tiếng xa gần. Rất nhiều bạn trẻ đã đến đây để mong tìm được mối nhân duyên cho mình.
Phủ Tây Hồ được coi là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất trong hệ thống đình chùa của Hà Nội. Không chỉ những người dân Hà Nội, mà đa số du khách khắp nơi khi đến thăm Hà Nội thì đều đến thắp hương cầu phúc ở Phủ Tây Hồ.
Phủ Tây Hồ nằm trên một bán đảo nhô ra giữa Hồ Tây, trước là một làng cổ của kinh thành Thăng Long nằm ở phía đông của Hồ Tây. Ở ngay đầu làng có một ngôi đền thờ bà chúa Liễu Hạnh, một người đàn bà tài hoa, giỏi đàn ca, thơ phú, đức độ nên đã được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu (Thánh Mẹ). Hàng năm cứ sau thời khắc giao thừa, khách hành hương về đây rất đông, vừa đi lễ Mẫu ban cho điều lành và mọi sự may mắn, vừa đi thưởng ngoạn cảnh đẹp Hồ Tây.
Tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám – Hà Nội những ngày đầu năm khách ra vào nườm nượp. Khách chủ yếu là học sinh. Sáng mồng Một đi xin chữ thánh hiền, lòng người như phơi phới và thanh tao, cả người cho lẫn người xin. Nhiều bậc cha mẹ cùng con cái ríu rít tới xin chữ. Ấy vậy nên, các thầy đồ lấy bao nhiêu tiền một chữ, ai nấy đều vui vẻ rút hầu bao, không mặc cả thêm bớt như đi mua sắm món hàng hóa thông thường.
Đền nằm trong khu vực Thác Bờ giữa dòng sông Đà thuộc xã Vầy Nưa, huyện Đà Bắc, đền thờ Chúa Thác Bờ bao gồm có đền Trình (đền Chúa) và đền Chầu (đền ông Chẩu). Đền Chúa Thác Bờ tuy không hoành tráng, đồ sộ như nhiều nơi khác nhưng nổi tiếng linh thiêng.
Lễ hội Đền Bờ diễn ra từ ngày 7 tháng Giêng và kéo dài tới hết tháng 3 âm lịch. Tuy nhiên, ngay từ tháng Chạp, nơi đây đã tấp nập dòng người đổ về lễ tạ.
Nằm trên địa bàn huyện Sóc Sơn, cách trung tâm Hà Nội 35km về phía Bắc, khu di tích đền Sóc dưới chân núi Vệ Linh là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng đã được Bộ VHTT xếp hạng từ năm 1962. Nơi đây tương truyền còn in đậm dấu vó ngựa sắt của vị anh hùng thánh Gióng, nhân vật đầy tính huyền thoại tượng trưng cho tinh thần quật cường chống ngoại xâm của dân tộc.
Khu đền thờ thánh Gióng được xây dựng từ hơn nghìn năm trước với nhiều công trình lớn như đền Hạ, đền Mẫu, đền Thượng, nhà bia và văn bia, chùa Đại Bi, khu vực hành lễ và tiếp khách. Đền Hạ hay đền Trình thờ một tượng sơn thần bằng đồng nặng 7 tấn trong thế ngồi, hai tay đặt ở đầu gối, nét mặt uy nghi, oai vệ. Tương truyền đó là thần Nứa, vị thần đã cho phép thánh Gióng chọn nơi đây để bay về trời nên nhân dân tôn xưng ông là “Thánh Thần Vương”, danh hiệu này được khắc ở trên đỉnh mũ bức tượng.
Đền Sái nằm trên đỉnh Thất Diệu Sơn ở thôn Thụy Lôi, xã Thụy Lâm (Đông Anh, Hà Nội). Nơi đây vẫn đang lưu giữ được bản gốc tượng Đức Huyền Thiên Trấn Vũ. Sự tích bắt nguồn từ việc An Dương Vương xây thành Cổ Loa, được các tiên nữ đêm đêm xuống trần gánh đất đắp hộ nhưng thần ma gà tác yêu giả tiếng gà gáy sáng làm các tiên cô bỏ cuộc bay về trời, nên đắp mãi chưa xong thành.
Dầu nhà nghèo hay nhà giàu, ai trong mỗi chúng ta cũng đều mong muốn cho con em chúng ta được học hành tấn tới, thi cử gặp nhiều may mắn để đổ đạt.
Đó là ước nguyện chung của bậc làm cha làm mẹ, nhưng nếu chúng ta có con em chỉ biết ham chơi hơn ham học, với nhiều lý do, trong đó có lý do con em chúng ta lười học vì không đủ khả năng tiếp thu bài vở và không hứng thú với việc học.
Mặc dầu cha mẹ đã nhắc nhỡ nhiều lần, nhưng vẩn không khắc phục được, thì thật là buồn phiền cho các bậc phụ huynh của chúng ta !
Từ ngàn xưa, các đại sư phong thủy cũng như các vị Thánh hiền đã từng nói: “ Nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích âm đức, ngũ độc thủ “. Có nghĩa là: Thứ nhất là sinh mệnh, thứ hai là vận khí, thứ ba là phong thủy, thứ tư là tích công đức và thứ năm là đọc sách Thánh hiền.
Năm yếu tố này là nguyên nhân chủ yếu ảnh hưởng đến sự thành đạt trong cuộc đời của mỗi con người.Tuy rằng mọi người khi mới sinh ra thì vận mệnh đã được định rồi và rất khó thay đổi, nhưng trên một phương diện tích cực tiến hành nghiên cứu, chúng ta có thể thay đổi được phần nào nhờ vào phong thủy.
Ngày nay người ta rất coi trọng việc học hành, sự được mất trong thành tựu của mỗi người chịu sự tác động mạnh mẽ của thành tích và quá trình học tập.
Trong phong thủy có một loại sao, gọi là sao Văn Xương, chủ về đầu óc nhanh nhẹn linh hoạt. Mỗi người được chiếu bởi sao Văn Xương, ở những phương hướng khác nhau.
Nếu bàn học được đặt ở vị trí sao Văn Xương, thì nghiệp học và công việc đều có được kết quả tốt đẹp.Phương pháp này phối hợp với mệnh để tìm ra vị trí Văn Xương.Phương pháp này dựa vào Thiên Can của năm sinh để tính ra vị trí Văn Xương, mà sắp xếp bàn học cho con em chúng ta.
Và nếu làm được như vậy thì thành tích đạt được sẽ vượt xa so với những gì chúng ta mong đợi.
Sau đây là vị trí Văn Xương của từng tuổi theo “Thiên Can”:
1- Tuổi: Giáp Tý, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân, Giáp Tuất.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Đông-Nam.
2- Tuổi: Ất Sửu, Ất Mảo, Ất Tỵ, Ất Mùi, Ất Dậu, Ất Hợi.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Nam.
3- Tuổi: Bính Tý, Bính Dần, Bính Thìn, Bính Ngọ, Bính Thân, Bính Tuất.
Tuổi: Mậu Tý, Mậu Dần, Mậu Thìn, Mậu Ngọ, Mậu Thân, Mậu Tuất.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Tây-Nam.
4- Tuổi: Đinh Sửu, Đinh Mảo, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Hợi.
Tuổi: Kỷ Sửu, Kỷ Mảo, Kỷ Tỵ, Kỷ Mùi, Kỷ Dậu, Kỷ Hợi.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Tây.
5- Tuổi: Canh Tý, Canh Dần, Canh Thìn, Canh Ngọ, Canh Thân, Canh Tuất.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Tây-Bắc.
6- Tuổi: Tân Sửu, Tân Mảo, Tân Tỵ, Tân Mùi, Tân Dậu, Tân Hợi.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Bắc.
7-Tuổi: Nhâm Tý, Nhâm Dần, Nhâm Thìn, Nhâm Ngọ, Nhâm Thân,Nhâm Tuất. Thì vị trí Văn Xương ở hướng Đông-Bắc.
8- Tuổi: Quý Sửu, Quý Mảo, Quý Tỵ, Quý Mùi, Quý Dậu, Quý Hợi.
Thì vị trí Văn Xương ở hướng Đông.
(Chú ý: Lấy trung tâm ngôi nhà, để chọn ra hướng có vị trí Văn Xương.)
Những vật cát tường làm thông minh:
Về mặt phong thủy có cách làm cho con người thông minh hơn theo từng tuổi thuộc “Thiên Can “ như trên.
Bên cạnh đó việc đặt các đồ vật cát tường cùng trên vị trí Văn Xương, để làm cho trẻ thông minh hơn,thì những đồ vật cát tường đó là gì ?
1- Tháp Văn Xương:
– Muốn thúc đẩy nghiệp văn, làm mọi người trở nên thông minh.Thông thường tháp Văn Xương cao 7 hoặc 9 tầng, nếu đặt tháp Văn Xương có thể làm cho đầu óc mẫn tiệp. Nếu đặt trên bàn thì lợi cho con đường văn nghiệp, chủ công việc nhanh, đặt ở giá sách thì thành tích học tập của con trẻ sẽ tăng.
2- Bút lông:
– Đầu bút thì nhọn, mình bút thì dài, giống quẻ Văn Xương, sao tử bạch và cửu tử là sao văn chương, quẻ chấn là trưởng mộc. Nếu trên bàn hoặc giá sách đặt 4 chiếc bút, mọi người sữ trở nên thông minh.
3- Ngọc thiền:
– Thiền là một loại côn trùng. Con ve đực ở dưới bụng có một bộ phận phát ra âm thanh rất lớn, thời xưa nó đại biểu cho thanh thuần, mà tiếng ve tượng trưng cho sự triền miên.
Nếu trên bàn học đặt Ngọc thiền, có thể làm cho con trẻ phấn đấu học tập, giành vị trí cao trong học tập, không ngừng tiến bộ.Nếu cho trẻ đeo Ngọc thiền ( Con ve bằng ngọc ) thì cũng có thể đạt được hiệu quả tương tự như vậy, nếu có con gái lười thì nên tìm Ngọc thiền cho nó đeo, nó sẽ trở nên chăm chỉ và có chí hướng.
4- Ngọc áp xuyên liên:
– Được điêu khắc trên đá và ngọc, thường xuyên xuất hiện “Ngọc áp xuyên liên”. Liên là từ thay cho liêm khiết, thuần khiết, trong chử áp có chử giáp và điểu thực chất là nói đến giáp bảng, vì vậy ngọc áp xuyên liên mang ý nghĩa liêm khiết, khoa bảng.
Trên miếng ngọc nhỏ khắc lên “Ngọc áp xuyên liên” cho trẻ nhỏ đeo, miếng ngọc to có thể để trong bàn hoặc trong phòng học sẽ làm thành tích của con trẻ tăng lên.
Chuyện kể rằng trên cây cầu trong ngôi thành nọ có một người hành khất. Ông ta không biết kéo đàn, cũng không biết hát, thậm chí còn chẳng biết viết ra cảnh ngộ bi thảm của mình lên giấy, rải xuống đất để mong nhận sự thương xót của khách qua lại.
Mỗi ngày, ông chỉ biết ngồi chồm hỗm dựa vào thành cầu, co ro rúc mặt vào trong đầu gối, bên cạnh đôi chân gày gò để một cái bát mẻ cũ kỹ. May mà người qua lại chiếc cầu rất đông, thi thoảng cũng có người đem vài đồng bạc lẻ vứt vào trong bát.
Khi đêm đến, người hành khất sẽ trở về chỗ trú ngụ của ông – một cái vườn rau ở ngoại ô, bị bỏ hoang đã lâu. Một hàng rào xiêu vẹo bao lấy vườn rau bỏ hoang, bên trong có một túp lều nát, người hành khất già đã lánh rét ở đó được mấy mùa đông lạnh giá.
Trong vườn rau còn có một miệng giếng khô, bên giếng có một gốc cây già. Gió mùa đông bắc ùa về, thành phố đón trận tuyết đầu tiên của mùa đông. Người trên cầu thưa thớt hẳn đi, lão hành khất đang định sẽ về nghỉ, bỗng từ đâu chạy tới một con chó nhỏ.
Con chó bị lạnh tới nỗi run lên từng chập, trõ mõm hít hít cái bát sứt của người ăn mày, thì ra là vì đêm hôm trước ông đã dùng cái bát này để thức ăn. Lão hành khất trong lòng thương xót, liền lấy trong người ra một chiếc bánh bao, khẽ khàng bỏ vào trong bát.
Con chó nhỏ ngước lên nhìn ông hồi lâu, như thể cảm động lắm, rồi gục mặt vào bát ăn lấy ăn để. Người ăn mày mang con chó về “nhà” của mình, từ đó người chó quấn quít không rời. Con chó rất thông minh, hễ đói là biết ngoạm cái bát chạy nhắng quanh chủ đòi ăn. Những người đi qua nhìn thấy thế rất ngạc nhiên thích thú, liền thi nhau ném tiền vào trong bát.
Người ăn mày phát hiện ra đây là cơ hội lớn, liền huấn luyện cho con chó. Qua một thời gian, nó đã biết đứng bằng hai chân sau, ngoạm bát xin ăn nhảy tới nhảy lui trước mặt những người qua đường. Vậy là người ăn mày lại càng thu được nhiều tiền thêm.
Người ăn mày bỗng dưng ” phát tài”, liền lấy tiền đi đánh xổ số. Thật là nằm mơ cũng không tưởng được vận số ông lại tốt đến vậy, không lâu sau ông trúng giải độc đắc. Cứ như là số mệnh vậy. Người ăn mày mua lại vườn rau bỏ hoang, rồi từ mảnh đất đó xây lên một ngôi nhà lộng lẫy, nhưng ông vẫn giữ lại túp lều nát, miệng giếng khô cùng gốc cây già và nếp hàng rào lưa thưa ngày nào ở vườn sau khu nhà mình.
Trong phòng của người ăn mày bày biện đầy những đồ xa xỉ, ông bỗng chốc mê mẩn việc sưu tầm đồ cổ, thích cung phụng những mỹ nhân chân dài, lại càng thích ánh mắt kinh ngạc, ngưỡng mộ của mọi người khi ông rút trong túi ra cả xập tiền lớn.
“Quý ngài ăn mày” bắt đầu đi gặp gỡ giới thượng lưu, dĩ nhiên lúc nào ông cũng mang theo con chó nhỏ của mình. Các bà mệnh phụ ra sức ủng hộ nhiệt liệt quí ông ăn chơi mạnh tay này, và dĩ nhiên chẳng ai biết xuất thân ông ra sao. Điều duy nhất làm cho “quý ngài ăn mày” cảm thấy khó xử chính là chú chó nhỏ, bởi những người thượng lưu khác đều nuôi những con chó giống quý, thuần chủng kia!
Cho tới một hôm, con chó con bướng bỉnh của ông cắn rách tai một con chó cái giống quí, ngay giữa bữa tiệc. Chủ nhân con chó nổi trận lôi đình, làm cho ngài ăn mày cảm thấy lòng tự tôn của mình bị tổn thương nghiêm trọng.
Về tới nhà, ông lạnh lùng mang con chó ra vườn sau, cạnh cái giếng cũ. Sau đó cho nó vào một chiếc thùng gỗ, buộc vào một sợi dây thừng dài và thả xuống cái giếng khô. Người ăn mày quyết tâm giết chết con chó, giống như tiêu diệt hoàn toàn cái quá khứ khốn khổ vẫn ám ảnh ông ta.
Từ đó, bên cạnh người hành khất thiếu đi con chó nhỏ trung thành, ông ta có thể thoải mái một mình đi gặp các cô em phục vụ dễ thương ở quán rượu, hoặc đi dự những bữa tiệc thượng lưu xa hoa.May mà dù thế nào ông cũng không quên mỗi ngày thả xuống giếng vài miếng thịt, vì tiếng sủa của con chó cho ông biết rằng người bạn ngày khốn khó xưa kia vẫn còn sống.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, người hành khất ngược lại cảm thấy không hề vui vẻ, chó nhỏ đi rồi, bạn bè quý tộc của ông ta cũng không hề nhiều hơn, vả lại có một hôm, nhằm lúc ông uống rượu say lướt khướt, đã buột miệng để lộ ra cái thân phận thấp hèn ngày xưa. Lũ người kia bỗng chốc chế nhạo và quay mặt lạnh nhạt với ông ta.
Người ăn mày cuối cùng hiểu ra rằng, trên đời này chỉ có chú chó nhỏ đã từng trải qua hoạn nạn với mình mới là người bạn chân chính nhất. Thế mà ông nỡ vứt nó xuống dưới giếng khô.Người ăn mày chạy thật mau đến bên giếng, thả cái cũi gỗ xuống. Nhưng chó con chỉ đi quanh cái thùng gỗ mà không dám nhảy vào trong.Người ăn mày chạy đi tìm một cái dây to, một đầu cột vào gốc cây, tự mình trèo xuống đáy giếng cứu chó con. Giếng rất sâu, nhưng ông không sợ hãi chút nào. Đáy giếng tối om om, lại bốc lên mùi thum thủm, ông vội cắp con chó rồi trèo lên.Chó con chẳng hề oán trách chủ mình, vui mừng liếm mặt người chủ lâu ngày mới gặp lại. Bác sỹ giỏi nhất trong thành cũng không thể trị nổi bệnh của chó nhỏ. Người hành khất vì muốn bù đắp lỗi lầm của mình, mỗi ngày đều cho nó đồ ăn ngon nhất, đi đâu cũng dắt theo. Con chó nhỏ vui lắm, lúc lắc cái đuôi nhỏ, nhưng đầu nó chỉ có thể quay nhìn đằng sau, đôi mắt lúc nào cũng ngước nhìn trời cao.
Người ăn mày mang chó nhỏ đi khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, ông cầm tiền bỏ vào tân tay những người hành khất khác. Thấy những người ấy cảm kích cầm tiền của mình, ông cảm thấy thật là mãn nguyện. Rồi ông bắt đầu có dự định mới, ông báo cho những người ăn mày trong cả thành tới nhà ông lĩnh tiền.
Tin tức truyền đi rất nhanh, đội ngũ ăn mày tới lĩnh tiền càng lúc càng đông. Những người được tiền rồi dùng mọi lời lẽ hoa mỹ nhất trên đời để tán tụng ông, khiến ông hưng phấn khôn tả. Đài truyền hình tới, bản tin buổi tối cũng có phóng sự nói về ông.
Ngày thứ hai, mọi người như nước thủy triều xông tới nhà ông, có những người chẳng phải ăn mày cũng gia nhập vào đội quân lĩnh tiền. Người hành khất cứ chìm đắm trong cảm giác vinh dự vui sướng, ngày nào cũng bận rộn chạy qua chạy lại giữa ngân hàng và nhà mình.
Cho đến một hôm, ngân hàng báo cho ông biết tiền trong tài khoản đã hết, ông đành phải nói với hàng dài những người xếp hàng rằng : Hết tiền để phát mất rồi!
Đám người xếp hàng lập tức biến thành một đoàn hỗn loạn.
Chúng bắt đầu mắng chửi : ” Đồ ti tiện!” “Sao đến lượt tao lại không phát nữa!” ” Dạy cho nó một bài học!”.
Bọn chúng xông vào nhà ông, ném gạch tới tấp làm vỡ hết cửa sổ. Ông chốt cửa nhà lại, nhưng cũng sắp bị đám người xô đổ đến nơi rồi.
Sợ quá, ông chạy ra vườn sau. Trông thấy sợi dây thừng còn buộc bên miệng giếng, ông vội vã leo xuống. Lúc sắp xuống tới đáy giếng, bất ngờ đầu dây thừng buộc ở miệng giếng bị rơi ra, người hành khất cùng sợi dây vẫn nắm chắc trong tay rơi xuống đáy giếng tối om.
Cảnh sát mất rất nhiều công sức mới giải tán được đám người hung hãn, nhưng ngôi nhà gần như đã biến thành một bãi hoang tàn, những thứ có thể lấy được, người ta đều cướp đi hết.
Thời gian mỗi ngày một qua đi, người ăn mày chỉ đành trú lại ở đáy giếng vừa tối vừa lạnh, ông ta ngóc mặt lên gào với trời, với trăng, chẳng ai nghe thấy. Chó con mỗi ngày chạy đi khắp nơi kiếm thức ăn ném xuống giếng, lúc thì là chiếc bánh bao đã mốc meo, khi thì miếng xương đã biến mùi. Chó con kiếm thức ăn rất khó khăn, vì đầu nó chỉ có thể nhìn ngược đằng sau.
Không làm thế nào được, nó chỉ biết nằm dài ra mà hít hà dưới đất, vớ được miếng thịt hỏng hay gì đó là ngóc dậy chạy về miệng giếng khô ngay. Có một lần, chó con còn vứt xuống cả xác một con mèo chết.
Chớp mắt hơn một tháng trôi qua, chó con thậm chí còn không để dành thức ăn cho bản thân, người nó gầy chỉ còn da bọc xương, thế rồi nó yếu đến mức sức lực để đi cũng không còn. Người ăn mày ngày nào cũng gào thét khản cả cổ, chẳng có ai tới cứu ông ta.
Vài ngày liên tiếp chó con không thả đồ ăn xuống nữa, người ăn mày không biết con chó đã xảy chuyện gì. Ông đau đáu nhìn lên mảnh trời hình tròn nhỏ bé trên miệng giếng, biết rằng mình sắp chết.
Một buổi sớm, những tiếng người nói chuyện rầm rì trên miệng giếng đánh thức người hành khất khỏi cơn mê sảng, ông thu hết chút sức tàn hô lên một tiếng.
Ông được mọi người dùng dây thừng đưa lên, ánh sáng mặt trời chói lọi làm ông không mở nổi mắt. Mọi người săm soi người đàn ông lem luốc hôi thối trước mặt:“Nếu không phải thấy có xác con chó con chết ở miệng giếng này, thì chẳng có ai nghe được tiếng kêu của ông.”
Người ăn mày nhìn cái xác gầy guộc của chó nhỏ, nước mắt rơi ướt cả bộ lông dính đầy đất bẩn của nó.
Theo Bài Học Cuộc Sống
Ngoài các khu quy hoạch mới có thiết kế không gian nghiêm chỉnh, lề thông hè thoáng, hạ tầng ngầm hoá, vẫn có rất nhiều các khu dân cư cũ, khu ngoại ô có hiện trạng phức tạp, trước nhà khấp khểnh đủ thứ cột đèn ống cống gốc cây vừa thiếu thẩm mỹ và không an toàn. Điều này hình thành trong giới kinh doanh nhà đất các đánh giá thấp về nhà bị “dị vật” xuất hiện, cản trở ở phía trước, cộng thêm các truyền tụng trong dân gian mang màu sắc mê tín khiến nhiều gia chủ hoang mang, lo ngại. Cần nhìn nhận vấn đề này dưới khía cạnh phong thuỷ và thẩm mỹ như thế nào?
Có thể bố trí tiểu cảnh trên nắp cống.
Xét về quan điểm hình và thế của một cuộc đất – ngôi nhà, phần phía trước của chủ thể luôn cần quang đãng (mà phong thuỷ truyền thống gọi là khu vực Minh đường), tránh các vật che chắn làm giảm tầm nhìn, ngăn cản sự lưu thông của sinh khí vào đại môn (cửa chính).
Nếu có cây to trước nhà thì phong thuỷ xưa lập luận rằng đó là thế mộc khắc thổ, cây to ắt sẽ có rễ lớn ăn vào làm hỏng nền sân, đi lại dễ bị va vấp, lá rụng đầy sân, bóng râm che khuất khiến nhà thiếu độ sáng sủa, âm tính nhiều, nhất là những cây có hình dáng um tùm rũ rượi.
Vì đa phần nhà ở truyền thống xưa kia đều quay về hướng nam để đón gió mát, cây to trước nhà sẽ chắn mất gió, nên ta thấy quan niệm “trước cau sau chuối” của kiến trúc truyền thống chính là để giữ cho phần minh đường được quang đãng.
Một miệng cống, trụ điện… nếu nằm ngay trước cửa nhà thì cũng gây nhiều khó chịu về thẩm mỹ và sử dụng hàng ngày. Vì thế, các khu dân cư mới hiện nay luôn bố trí hố ga, gốc cây, cột điện… tại điểm giữa của hai nhà. Còn nếu như hiện trạng sẵn có cây to án ngữ giữa cửa mà cây đó thực sự ảnh hưởng đến đi lại thì có thể xử lý bằng cách chuyển bộ cửa chính về một bên sao cho lối đi ra vào và tầm nhìn không bị cản trở là được.
Dị vật trước nhà là cái cột điện với dây nhợ chằng chịt.
Tuy nhiên, đừng “quan trọng hóa” vấn đề khi cho rằng nhà bị như thế thì giảm giá trị, vì thực chất khoảng lùi, hướng nhà, mức độ ồn ào bụi bặm của con đường bên ngoài… vẫn quan trọng và ưu tiên xem xét hơn là chỉ một trụ điện, gốc cây hay miệng cống.
Thực tế có không ít nhà biến nhược thành ưu, tận dụng những cây cối, trụ điện phía trước để làm điểm “mốc” nhằm xác định, phân biệt nhà mình với nhà khác, hoặc làm thành một dạng bình phong để che chắn bớt tác động xấu từ ngoài vào nhà mình bằng cách đặt thêm cây cối, tạo lối vào không trực diện với cửa hay cổng, thậm chí có thể bố trí tiểu cảnh dạng linh động trên nắp cống.
Tóm lại, phần “dị vật” trước nhà xấu hay tốt không quan trọng bằng cơ cấu sử dụng, quan hệ với đường sá và công trình lân cận. Tốt nhất là mỗi nhà (nhất là dạng nhà phố) nên xác lập cho mình một khoảng lùi và cấu trúc phần tiếp cận sau cửa cổng đủ kín đáo, tiện dụng (chỗ để xe, sân nhỏ, bậc thềm lùi sâu, khoảng đón tiếp khách…) để cho dù có gì trước nhà thì cũng không ảnh hưởng đến sinh hoạt và tính chất phong thuỷ của nhà. Đôi lúc gặp trường hợp bất khả kháng thì việc dùng vật phẩm phong thuỷ như hồ nước nhỏ, cây cảnh, tượng đá… cũng có thể giải quyết phần nào tâm lý bất an.
Ảnh: Khánh Phương
Bài: KTS Vọng Bình
Theo trực giác, hãy chọn ra một hình bạn thấy ấn tượng nhất và click vào hình để xem đáp án:
Maruko (theo Sina)
► Lịch ngày tốt gửi tới độc giả công cụ tra cứu Tử vi trọn đời theo ngày tháng năm sinh |