Cách xem tướng hình dáng bàn tay nam giới bộc lộ tính cách –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Đoan Trang(##)
Lễ Thất Tịch bắt nguồn từ Trung Quốc và từ đó lan truyền sang một số nước châu Á khác. Bạn có biết ở nơi khởi nguồn của Thất tịch có những phong tục truyền thống như thế nào để đón ngày lễ này không, cùng theo dõi nhé. Có lẽ hầu hết chúng ta đều biết rằng lễ Thất tịch là ngày lễ bắt nguồn từ Trung Quốc, cũng biết rõ câu chuyện phía sau nó là chuyện tình cảm động giữa chàng Ngưu Lang và nàng Chức Nữ, biết đó là ngày lễ tình yêu lãng mạn của Trung Quốc.
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
1. Mùa xuân
nhưng Kim không nên quá Thịnh; muốn hòa hợp với Hỏa, nhưng Hỏa không nên quá nóng bức. Gặp Mộc sẽ phát huy công lực, không có Thổ thì thong dong, thoải mái.
![]() |
| (Ảnh minh họa) |
2. Mùa hạ
Thủy của tháng mùa hạ bên ngoài thực mà bên trong hư, nhằm lúc khô hạn cần có Thủy giúp sức. Mong có Kim trợ giúp, kỵ gặp Hỏa quá thịnh. Mộc thịnh sẽ làm tổn hao khí; Thổ thịnh thì khắc chế nguồn của Thủy.
3. Mùa thu
Thủy của tháng mùa thu, mẹ vượng con tướng. Được Kim giúp đỡ thì trong xanh, gặp Thổ hưng thịnh thì vẩn đục. Hỏa nhiều thì tiền tài hưng thịnh, nhưng quá nhiều cũng bất lợi; Mộc nhiều thì thân vinh hiển, trung hòa thì sang trọng. Nếu Thủy xuất hiện nhiều sẽ tăng thêm mối lo chìm ngập, gặp Thổ là dấu hiệu thanh bình.
4. Mùa đông
Thủy của tháng mùa đông, đúng vào lúc đang có quyền lực. Gặp Hỏa sẽ xua tan cái lạnh, gặp Thổ sẽ quy tụ lại. Kim quá nhiều dẫn đến chỗ vô nghĩa, Mộc thịnh cũng hợp tình. Thủy quá yếu thì cần thêm Thủy trợ giúp, Thủy quá mạnh thì cần có Thổ làm bờ đê.
(Theo Thuật tướng số cổ đại Trung Quốc)
Trẻ em da hồng hào, đầu tròn, tai và miệng lớn, nôi hồng, … là tướng dễ nuôi. ngược lại trẻ em…
Khi con chào đời, nhiều bậc cha mẹ hớn hở khoe ‘trộm vía’ con dễ nuôi, nhưng ngược lại, không ít phụ huynh ‘than vắn, thở dài’ con khó nuôi mà không hiểu nguyên nhân tại sao.
Dưới đây là các nét chính về tướng trẻ em dễ nuôi và khó nuôi, chị em xem và test thử xem sao nhé!
1 – Tướng trẻ em dễ nuôi:
Hầu hết trẻ em dễ nuôi và sống đến tuổi thành niên, trong hoàn cảnh bình thường đều có bảy nét tướng chính yếu sau:
– Mới sinh ra tóc dài tới sát lông mày.
– Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen.

Tướng trẻ dễ nuôi thường da hồng hoặc ngăm đen
– Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh, lúc ngủ ngậm miệng.
– Mắt có thần, khi cất tiếng khóc mới đầu giọng cao, tiếng lớn có âm lượng.
– Con trai, hai bên tinh hoàn đàn hồi và có nhiều nếp xếp.
– Tai và miệng lớn.
– Mũi cao, môi hồng và dầy cân xứng.
2 – Tướng trẻ em khó nuôi:
– Da đầu trông có vẻ quá mỏng và căng.
– Lông mày quá lớn so với đầu và mũi quá thấp chỉ thấy có phần chuẩn đầu.
– Mắt thay vì có màu đen lại có màu nhạt như đậu đỏ.
– Tai nhỏ và quá mềm
– Không có bắp chân.

– Khi cất tiếng khóc mới đầu rất lớn, về sau nhỏ dần.
– Thịt nhiều, bệu
– Môi mỏng như giấy và phía sau tai không có nhĩ căn nổi rõ.
– Đầu lớn, cổ quá nhỏ.
– Hai mắt lờ đờ không thần.
– Mắt lúc nào cũng ướt như khóc.
– Đầu nhỏ, nhọn.
– Bụng lớn, rốn nhỏ.
– Tóc vàng khè và thưa, ngắn.
– Chưa tới sáu tháng mà đã sớm mọc răng, trong khi lông mày hầu như không có.
Sự dễ nuôi và có khả năng sống đến tuổi thành niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của trẻ em ta cần đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây:
– Xương chẩm (phía sau đầu, trên xương gáy)
– Sơn căn (phần giữa 2 mắt)
– Tỵ lương (sống mũi )
Xương chẩm nổi rõ và rộng, sơn căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của lưỡng quyền, sống mũi ở ngay giữa khuôn mặt và không lệch là dấu hiệu bề ngoài về mặt hình thể cho biết đó là cát tướng. Ngược lại là yểu tướng.
Cung con cái ở hưu, tù, tử, tuyệt, bệnh là có con cũng như không.
Trong Tứ trụ có quan sát , khi hành đến vận thương, thực thì sẽ làm tổn thương con cái, qua vận đó mới bình thường.
Trong trụ cung con cái gặp mộ thì con cái không bệnh tật nhiều cũng bị lao ngục, hoặc tàn phế khó nuôi.
Mệnh nữ không có quan tinh mà thân vượng, ấn lại nhiều thì chắc chắn tổn thương con cái.
Tứ trụ của con tài nhiều thì sẽ khắc cha mẹ, hoặc đó là đứa con nuôi.
Trong Tứ trụ có thiên tài, thiên quan, thiên ấn thì dó là con nuôi, nếu không thì cũng là con thứ 3, thứ tư về cuối.
Vận hành đến đất thương quan thì sẽ khắc con cái.
Thương quan làm hại con cái, không có phúc về sau.
Trong trụ có sát lẫn với tam hình là có đẻ không nuôi.
Trong trụ mẹ sáng, cha mờ phần nhiều là con đẻ trộm ( con hoang)
Nguyệt lệnh gặp xung là con xa rời tổ nghiệp.
Thân không có nương tựa là con nuôi.
Mệnh nữ phạm thương quan, thiên ấn thì con chết, hại chồng.
Ngày giờ tương xung nhau thì không lợi cho con cái.
Quan gặp tử tuyệt là khó có con.
Trụ năm làm thương tổn can ngày là cha và con không thân nhau.
Thực gặp kiêu ấn là khắc con.
Tuy thân mạnh nhưng bị sát hoặc xì hơi, hoặc thân nhược là con cái ít và không phát đạt.
Thìn, tuất của ngày giờ tương xung nhau thì tuy có con nhưng con học hành không đỗ đạt.
Trong trụ có kiêu, thực lại còn có thương quan là con chết, chồng chết.
Trong trụ gặp cả thực lẫn kiêu là không có lợi cho con cái, nếu không tuyệt tú thì đứa con cũng thấp bé, gầy yếu.
Mệnh nữ trụ giờ gặp hoa cái, gặp không vong là suốt đời không sinh đẻ.
Hoa cái nếu ở trụ giờ và thai là con nuôi.
Người có vong thần, thất sát là khắc con, hình phạt chồng.
Trong trụ thai bị hình phạt, lại còn có cách góc, nhiều sát, tam hình, không vong,ngũ hành không có khí thì phần nhiều sinh con hưn hỏng.
Trong trụ thực nhiều là thương quan tức ít con cái.
Trẻ em thân nhược lại gặp sát vượng thì không chết cũng tàn phế.
Trong trụ thần nhiều, kiêu thần quá vượng là mẹ không có sữa.
Thực gặp kiêu là trẻ con gặp phải thì đói sữa, người lớn gặp phải thì thiếu ăn.
Mệnh nữ quan tinh ở tử địa lại xì hơi thái quá là khắc con hoặc không có con.
Tài quan tử tuyệt là có con nuôi.
Trong ấn nhiều thì mãi đến già vẫn không có con.
Mệnh nữ phạm mão, dậu là phần nhiều sẩy thai khắc con.
Tứ trụ thuần dương, thuần âm thì khó có con.
Mệnh nữ trong trụ có đủ thìn, tuất, sửu, mùi thì vừa khắc chồng lại không sinh con.
Trong trụ có thìn, tuất, sửu mùi là khắc cha mẹ, thìn tuất khắc cha, sửu mùi khắc mẹ.
Người trong trụ tị, ngọ nhiều thì trước năm 18, 19 tuổi phải đề phòng khắc cha me.
Năm tháng tương xung nhau nếu không phải là con nuôi thì cũng là con đỡ đầu.
Giờ sinh ở thìn, tuất , sửu mùi phần nhiều là con nuôi.
Trụ ngày có tài, trụ giờ có kiếp thì cha mẹ hưng thình, con suy bại.
Mệnh nữ gặp mộc dục nếu là con đầu thì phải đề phòng dễ chết.
Trụ ngày lâm phá, hình, xung, hoặc gặp kình dương là chủ khắc con cái.
Người trong trụ có tam hợp, tam kỳ thì người đẹp mà béo, nếu không là con nuôi thì cũng là con riêng của mẹ.
Năm, tháng thương quan, kiếp tài là đứa con sinh ra ở nhà nghèo, hoặc con nuôi.
Quan, ấn gặp thiên quan là con nuôi.
Ngày giờ tương hình nhau thì tuổi trẻ chưa có con, nếu trụ giờ được quý nhân của trụ ngày phù trợ thì về già vẫn có thêm con.
Trong trụ có quả tú, cô thần là có con cái nhu nhược.
Quan hưu còn gặp thương là khó có con trai.
Thương quan vượng quá thì nuôi con của chị em ruột.
Trong trụ thất sát ở hai đầu là đến già vẫn không có con.
Cả bốn chi đều có thương quan thì thường khóc lóc vì con.
Kiêu gặp trường sinh lại gặp thực thần là đến già vẫn không có con.
Thực phá dụng thần là con làm bại gia.
Thương thực nhập mộ là khắc con cái.
Trụ ngày vượng, thực, thương , quan, sát rơi vào tuần không là không có con.
Thương quan bị chế ngự là cháu họ thừa tự.
Tài tinh của trụ năm, trụ tháng khắc ấn của trụ giờ thì con không chết cũng tàn taatn.
Trong trụ hàm trì nhiều là đứa con không được cha mẹ nuôi nấng.
Trụ giờ phạm tuần không , vong là khắc cha mẹ, người trụ ngày lâm tử tuyệt là trước 7 tuổi bệnh nhiều, sau 7 tuổi mới đỡ.
Giờ sinh gặp tang môn thì mẹ khó đẻ hoặc lúc có thai bị nhiều bệnh.
Trụ giờ quan tinh không có khí thì sinh con nhưng khó nuôi.
Trụ giờ gặp thương quan thì có con nhưng học hành dốt nát.
Trụ giờ đóng ở thiên ấn thì con cái tính hung dữ.
Tỉ kiếp đóng ở trụ giờ thì con cái nhiều nhưng gia đình suy sụp ; thất sát đóng ở trụ giờ thì con cái tính hung bạo, không nghe lời.
Kình dương đóng ở trụ giờ thì con cái ngỗ ngược bất hiếu.
Trụ giờ có hình hại thì không có lợi cho con, hoặc con nhiều bệnh . Trụ giờ gặp kình dương hoặc thương quan là làm tổn hại con cái.
Trụ giờ ở tuyệt địa thì phải đề phòng không có người thừa tự.
Giờ khắc can ngày là con không kính trọng cha.
Chi giờ là thương thực, là cô thần hoặc quả tú là không có con.
Trụ giờ gặp hoa cái là người thân cô, có con nhưng cuối đời bị thương mà chết.
Trong trụ có kim thuỷ thì đứa con chậm nói, có mộc là sớm biết nói.
Thổ vượng mà táo là không có con.
Trong trụ có đào hoa lẫn với hợp là có con lang thang.
Trong trụ thất sát nhiều lại không bị chế ngự là không có con.
Thê tài ở tuyệt địa bị khắc thì khó có con.
Trong trụ sát ở ngôi tý thì con ngỗ ngược.
Thiên ấn đóng ở trụ ngày là vợ nhiều mà đẻ ít.
Trụ ngày có sát, kiêu là vợ nhiều đẻ ít.
Tử tinh rơi vào suy, tuỵệt, tử, mộ là hỏng thai không có con.
Trụ tháng có tài thì tuy đứa con giàu có nhưng là con nuôi.
Trụ ngày gặp tài, trụ giờ gặp kiếp thì cha hưng con nhược.
Giờ sinh của trẻ em trong bảng nạp âm không được khắc năm , nếu phạm điều đó thì phải đề phòng chết yểu lúc chưa đầy tháng.
Can giờ khắc can năm hoặc can năm gặp thực thần, nếu sinh con trai thì không thuận.
Thương quan vượng quá là nuôi con chị em gái.
Trụ giờ gặp thai, hoặc mộ, tuần không , tuyệt nếu không phải là sinh đôi tức do mẹ mình sinh ra, thì là con nuôi.
Trụ giờ bính đinh nhiều bị khắc xung phá thì đầu gáo chân hương, chết yểu.
Mão dậu đóng ở trụ giờ thì mắt to hoặc là mắt hiếng, bình thường hay lêu lỏng chơi bời, thích xa rời cha mẹ. Nếu trong trụ có hình khắc thì có thể chột mắt.
Sinh vào các giờ : thìn, tuất, sửu, mùi lại không vong thì đó là con nuôi.
Giờ sinh gặp quan phù là cha đang có kiện, hoặc mẹ có việc lo sợ.
Tài mệnh có khí lại gặp kiêu thần , là khóc vì con.
Chi ngày gặp lục xung lại không có cứu trợ thì tuổi trung niên dễ chết non.
Tứ trụ tài tinh nhiều là khó có con.
Trẻ em trong trụ tài nhiều là lúc đẻ khó.
Người đàn bà này sinh 4 lần đều chết yểu. Năm 1981 sinh lần thứ nhất, vừa sinh đã chết ; năm 1983 sinh lần thứ hai được 3 ngày thì con chết ; năm 1987 sinh lần thứ ba con cũng chết ngay; năm 1988 sinh lần thứ tư được 47 này con lại cũng mất. Ðúng là sinh nhiều mà không nuôi được , ai nghe cũng đau lòng.
Tháng 7 năm 1989 hai vợ chồng ông ta qua dò hỏi nhiều lần cuối cùng tìm đến tôi , nước mắt giọt ngắn, giọt dài khẩn thiết nhờ tôi giải hạn cho bà vợ. Tôi sắp xếp Tứ trụ của hai vợ chồng, thấy cung con cái của họ và sao con đều gặp tuyệt địa lại còn bị lệnh tháng hình xung khắc hại. Ví dụ Tứ trụ của bà cung con cái giáp dần bị trụ tháng thiên khắc địa xung, sao con cái lại tập trung ở dần. Thân kim vượng, dần mộc ở tuyệt địa bị hình xung khắc phá , nên chỉ sinh mà không sống nổi.
Vì hai vợ chồng rất thành tâm đã làm theo cách hóa giải tôi bày cho một cách cẩn thận chu đáo, kết quả tháng giêng năm 1991 sinh được một cháu gái. Sau khi hai ông bà thấy con sống được hơn 40 ngày bình an vô sự, mạnh khỏe , hoạt bát, nên họ đã tặng cho tôi một bức trướng thêu rất công phu các chữ " Trắc thiên, trắc địa càn khôn" để tỏ lòng cảm ơn. Nay cháu bé đó đã hơn 1 tuổi, thông minh khỏe mạnh, tất nhiên họ coi như có được hòn ngọc quý trong tay.
Con cái đời sau bệnh nhiều, tàn tật hoặc khó nuôi, thứ nhất là tổ hợp Tứ trụ của cha mẹ không tốt tạo thành, còn một nguyên nhân khác cũng rất then chốt là Tứ trụ của người đó và vận khí không hòa hợp nhau, một điểm nữa là phần mộ của tổ tiên hoặc phong thuỷ của nhà ở không tốt tạo nên. Ngày xưa có câu : " nhất mộ, nhì phòng, ba Tứ trụ". Tức là nói âm phúc của tổ tiên , phong thủy của nhà ở và tổ hợp Tứ trụ phải tốt. Do đó xây nhà, cất mộ, phong thuỷ âm dương không thể không chú ý đến.
Tháng 8 năm 1987 có một chuyên gia người Mỹ con trai đã hơn 10 tuổi nhưng tứ chi hoạt động rất khó khăn. Vị chuyên gia này không tiếc tiền đi nhiều nước trên thế giới để tìm thầy chữa. Nhưng không có hiệu quả. Về sau, qua một vị lãnh đạo nào đó giới thiệu đến với tôi. Tôi nói, với ông ta: Phần mộ của nhà ông trên đó có 1 cái hốc, nước chảy qua đó tưới thẳng vào mộ, nên nhanh về sửa sang lại. Nghe xong ông ta vô cùng kinh ngạc nói: đúng, năm ngoái tôi nhận được thư nhà từ Ðài Loan gửi đến nói : "Mộ tổ có một cái hang, yêu cầu tôi trở về Ðài Loan để sửa".Tháng 5 năm 1991 khi tôi trên đường về nước nghỉ lại ở Hồng Kông để đoán cho một người bạn, phát hiện thấy mộ nhà ông ấy, ở bên cạnh một rãnh nước, nước chảy thẳng vào mộ. Sau khi nghe tôi nói việc ấy, ông ta hỏi: như thế thì có hại gì? Tôi nói : điều đó không có lợi cho đời sau. Ông ta liền hoảng hốt kêu to : Ðúng ! chẳng trách gì con tôi bị bệnh, nằm trên giường nhiều năm mà không khỏi.
Về việc con cái không vượng, hoặc bị khắc, hoặc không lợi cho con cái trửơng thành, thành đạt, chỉ cần đoán để biết trước rồi sau đó mới có thai, hoặc sau khi sinh con lập tức dự đoán ngay thì có một số em bé trong Tứ trụ ngũ hành không đầy đủ hoặc có quan sát hành nào đó mạnh quá, sau khi dự đoán biết được , khi đặt tên có thể thêm vào tên những chữ mang hành con thiếu để bù đắp. Ví dụ trong Tứ trụ thiếu hoả thì trong tên con cho thêm chữ "hỏa", hoặc những chữ bên cạnh có chữ "hỏa" ; thiếu hành kim thì thêm chữ kim, nếu chờ khi đã lớn tuổi mới đổi tên thì rất phiền phức. Những hành cho thêm không những có thể giúp vượt tránh được tai hoạ mà còn có lợi cho cả cuộc đời. Cho nên không phải cứ hễ thấy trong Tứ trụ có tai hoạ, tổ hợp không tốt thì sợ hãi và lo không có cách gì tránh được, như thế là không nên.
1. Sát nặng thân nhẹ, nên dùng ấn hóa sắt; thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dũng kiếp Gọi là "Sát nặng thân nhẹ", ví dụ nhật nguyên thuộc Mộc, thân nhẹ là chỉ thân nhược, sát nặng tức Kim cường vượng. Kim mạnh mẽ chặt vào Mộc yếu ớt, làm sao có thể cứu được Mộc? Nên lấy Ấn hóa sát. Thủy sinh Mộc,Thủy là Ấn của Mộc, tức là mẹ của Mộc. Thủy sinh Mộc, Mộc sẽ trở nên cường tráng. Khi Thủy xuất hiện, Kim mạnh sinh Thủy, Thủy nhiều có thể tiết bớt sức mạnh của Kim, khiến Kim bị tổn thương nguyên khí, không còn sức lực để khắc Mộc. Vì vậy, Thủy lúc này có hai công dụng, một là tiết khí của Kim mạnh, hai là sinh vượng Mộc của nhật nguyên. "Thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dùng Kiếp", ý nói là Mộc này rất yếu, nhưng Tài lại cực vượng. Mộc khắc Thổ là Tài, vậy phải dùng cách nào để vận tài? Tốt nhất dùng Kiếp, tức anh chị em, cũng là Mộc. Dùng Mộc mạnh để tiếp nhận Thổ mạnh, tự nhiên có thể cân bằng. Chắc hẳn sẽ có một số người cảm thấy nghi hoặc: "Tại sao không dùng Thủy để sinh Mộc"? Vì Ấn tinh là Thủy, mà Thổ rất mạnh, Thổ có thể khác Thủy, tức Thổ sẽ khắc chế Ấn tinh. Khi có Thủy đến sinh Mộc, Mộc đã rất yếu ớt rồi, cho dù có gặp Thủy cũng không thể tiếp tục sinh trưởng được nữa, vì vậy không thể dùng Ấn để cứu. Giả dụ bạn muốn trúng xổ số, nhưng bạn lại là thân nhược, muốn tìm một người mang tiền đi mua giúp, nhưng không nên tìm mẹ. Vì tôi đã nói với bạn rằng, thân nhược mà muốn kiếm được nhiều tiền, nếu tìm mẹ để hợp tác, sẽ không thể thành công. Bạn cần phải tìm anh chị em để hợp tác, mới có thể kiếm được món tiền lớn. Theo nguyên lý này, người thân nhược muốn kiếm nhiều tiền, cẩn phải tìm người hợp tác. Giả dụ bản thân thuộc Kim, người Kim vượng sẽ là đối tác tốt của bạn, người này có thể sinh vượng cho ngũ hành của bạn. Trên đây lấy Mộc làm ví dụ, những ngũ hành khác cũng tương tự như vậy. Trong Bát tự, thứ mà nam giới khắc sẽ là vợ, nếu như bạn chưa lập gia đình, bạn sẽ tìm được vợ trong tình huống nào? Không được tìm mẹ để giúp đỡ, mặc dù mẹ cũng rất sốt ruột. Muốn tìm vợ, phải nhờ anh em, bạn bè giới thiệu, mới có cơ hội gặp được người thích hợp. Áp dụng nguyên lý "Sát nặng thân nhẹ, nên dùng Ấn hóa Sát; thân nhược tài vượng, tốt nhất nên dùng Kiếp" này vào trong quan hệ giao tiếp thường ngày, bạn sẽ hiểu rằng, tại sao mẹ và vợ bạn luôn xung khắc với nhau. Người thân cường có thể quản chế được vợ, còn người thân nhược sẽ không thể. Lúc này phải tìm ai để thuyết phục vợ? Có thể tìm anh chị em, nhưng không được tìm mẹ. Bạn là Mộc, mẹ là Thủy, Mộc khắc Thổ là vợ, mà Thổ khắc Thủy, mẹ bạn sẽ bị vợ khắc. Tại sao mẹ và vợ lại thường xuyên xung khắc nhau, có thể giải thích được từ nguyên lý Bát tự. Nếu như bạn thân nhược, lại tìm mẹ để hòa giải cho bạn và vợ, chắc chắn sê thất bại. Xuất phát từ Bát tự có thể lý giải mối quan hệ của rất nhiều người, bạn cứ tìm hiểu từng bước, bạn sẽ phát hiện được nhiều bí mật cuộc đời. 2. Nhật chủ cường vượng, ấn gặp nhiều, phải lấy tài tinh làm dụng Câu nói có nghĩa là, khi nhật nguyên được sinh quá nhiều, nhất thiết không được dùng Quan Sát dể hóa giải, mà nên dùng Tài tinh. Ví dụ nhật nguyên là Mộc, Ấn đến nhiều, tức có rất nhiều Thủy sinh Mộc. "Lấy Tài tinh làm dụng" có nghĩa là, phải lất ngũ hành Thổ để khắc chế Thủy, khiến Thủy không tiếp tục lộng hành nữa. Giả dụ Mộc vượng mà dùng Sát, kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại, vì Kim khắc Mộc là Sát, nhưng Kim có thể sinh Thủy, sẽ tăng vượng cho Chính Ấn, vì vậy nhất định phải dùng Tài. Nói cách khác, khi cha có rất nhiều vợ, sẽ khiến con cái muốn rời khỏi nhà. Khi mẹ hung dữ, con cái sẽ mong sớm kết hôn. Mọi người hãy tiếp tục suy ngẫm, để tự lĩnh ngộ ra được huyền cơ trong đó. 3. Nhật vượng quan khinh, tài tinh là dụng Nhật nguyên thuộc Mộc vốn dĩ rất vượng, nhưng không có Kim, tức Quan Sát rất nhẹ, thì lấy dụng thần là Thổ, vì Thổ có thể sinh Kim, có thể tăng cường Quan Sát. 4. Nhật vượng tỷ kiếp nhiều, nếu không có tài tinh, lấy thực thương làm dụng Câu này có nghĩa là, nếu như bạn là Mộc, làm cách nào để giúp bạn có được thân cường? Đương nhiên phải dựa vào Thuỷ! Sau khi bạn đã trở nên cường tráng, Mộc khắc Thổ là Tài. Giả dụ trong Bát tự có tài, tức có rất nhiều Thổ, cho thấy bạn sẽ phát tài, nhưng tình huống này ít khi xảy ra. Làm cách nào mới có thể đại phát? Không phải gặp được Tài tinh, mà là gặp được ngũ hành sinh vượng Tài tinh. Loại ngũ hành nào càng vượng, thì càng có nhiều Hỏa để sinh vượng Thổ đó, liên tục ra sức trợ giúp, mới có thể khiến tài phú không bao giờ cạn, đậy mới là đại phát. Giả dụ đây là Bát tự của nữ giới, con cái sinh ra có thể làm tráng vượng Tài tinh, vì Mộc sinh Hỏa là con cái, Hỏa có thể sinh Thổ, Thổ là Tài tinh. Phụ nữ phải sinh con, chồng mới đem lại cho tài phú, bố chồng mới cho ruộng đất. Vì vậy phụ nữ phải sinh con mới có thể phát đạt. Giải thích dựa theo lý luận Bát tự, con cái có thể liên tục sinh vượng cho tài tinh của mẹ. Nguyên lý của Bát tự học là: Khi bản thân minh thân cường, điều cần làm trước tiên là cố gắng động não và sáng tạo, mới có thể liền tục có được tài phú. Nếu như là nam giới, Mộc sinh Hỏa tượng trưng cho sự nghiệp và sáng tạo, tượng trưng cho sự phấn đấu trong công việc. Nếu không cần cù làm việc và sản xuất, bao gồm cả việc sinh con cái, thì sẽ không thể có được tài phú. 5. Nhật chủ nhược, quan sát trọng, dùng ấn để cứu Nhật nguyên rất yếu, có rất nhiều thị phi khắc chế nhật nguyên, phải dùng Ấn để giải cứu, tức tìm mẹ nhờ giúp đỡ. Giả dụ bạn thân nhược mà thường xuyên gặp kiện tụng thị phi, thậm chí thường xuyên gặp sự cố ngoài ý muốn. Bạn phải cố gắng luôn ở bên mẹ, cũng phải ngủ nhiều, ăn nhiều và tích cực lao động, tu dưỡng. 6. Nhật chủ nhược, thực thương nhiều, dùng ấn để cứu Nhật nguyên rất yếu. Thực Thương nhiều, sẽ phải thường xuyên làm nhiều công việc, khiến cơ thể mệt mỏi quá độ tự nhiên thân sẽ yếu ớt. Nếu như thân quá nhược, sẽ rất khó tìm được chồng hoặc vợ. Phương pháp là dùng Ấn để cứu, thường xuyên ở bên cạnh mẹ, tốt nhất là ở cùng với mẹ. Rất nhiều người đã khá lớn tuổi mà vẫn còn ở cùng với mẹ, nguyên nhân rất lớn là do thân nhược, lại thường xuyên bận bịu với công việc, vì vậy cần phải ở chung với mẹ để trợ vượng cho bản thân mình. 7. Nhật chủ nhược, tài tinh nhiều, dùng tỷ kiếp trợ giúp Anh em bạn bè là Tỷ Kiếp. Nhật chủ rất nhược, nhưng Tài tính lại nhiều, muốn tìm người để kết hôn, phải nhờ anh chị em giúp đỡ, mới có thể có được "thê tài". 8. Nhật chủ và quan sát tương đình, lấy thực thương làm dụng "Tương đình" chỉ sức mạnh của hai bên ngang nhau. Nếu như nhật nguyên thuộc Mộc, bên cạnh có rất nhiều Kim, tức có rất nhiều Quan Sát, phải lấy Thực Thương làm dụng thần, tức lấy Thực Thương để khắc chế Quan Sát Chỉ cẩn chăm chỉ làm việc, tự nhiên có thể sinh Hỏa, Hỏa nhiều tự nhiên có thể thiêu đốt vào Kim của nhật nguyên, khiến Kim không tiếp tục lộng hành được nữa. Nếu như bạn là nữ thuộc Mộc, bạn hãy sinh con, như vậy sẽ không sợ bị chồng ức hiếp nữa, vì Kim khắc Mộc là chồng của bạn. Làm cách nào để tránh bị chồng khắc chế? Đó là hãy sinh ra một em bé để dịch chuyển sự chú ý của người chồng, tự nhiên chồng bạn sẽ đối xử với bạn khác trước, đây là điều kỳ diệu của Bát tự, tức từ nhật nguyên sinh ra một Hỏa để cân bằng Kim. 9. Nhật chủ và tài tinh mạnh ngang nhau, lấy tỷ kiếp làm dụng Thân cường mà Tài tinh cũng cường vượng, phải tìm đến thật nhiều anh em, tức hợp tác với Tỷ Kiếp, mới có đủ khá năng để gánh vác tài. 10. Chi ngày hợp hóa, hóa thần không đủ, lấy thần trợ giúp hóa thần làm dụng; hóa thần dư thừa, lấy thần tiết khí hóa thần làm dụng Giả dụ Bát tự dụng thần là Kim, trong Bát tự có hợp Kim đương nhiên sẽ là hợp cục tốt, Nhưng nếu như hợp cục thuộc Mộc mà không phải thuộc Kim, Mộc không phải là dụng thần, hợp cục Mộc đương nhiên sẽ có hại đối với bạn, vì vậy ban phải hóa tiết nó, khiến nó không thể hợp thành cục.
Nguồn: Lý Cư Minh
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Họ có thể phát huy được hết khả năng của mình ở những công việc như: học giả, nhà soạn nhạc, nhà phê bình, nhà nghiên cứu, diễn viên, kinh doanh, kế toán…
Người tuổi Tý nếu được làm việc độc lập thì công việc sẽ luôn thuận lợi. Nếu phải phối hợp làm việc với một người khác thì dễ khiến họ mất hứng thú, hiệu quả công việc sẽ không cao. Chính vì vậy mà họ cần học cách hợp tác với mọi người và điều chỉnh mình trong mọi mối quan hệ.
Những người này có trực giác nhạy bén, có thể nắm bắt rất tốt các sự việc, luôn biết lắng nghe và phân biệt phải trái. Do vậy, họ cũng rất phù hợp với các công việc mang tính chất cải biến và đòi hỏi tính sáng tạo, tỷ mỉ. Một số công việc như quản lý, kỹ thuật, gia công, quay phim, chụp ảnh nghệ thuật cũng giúp họ phát huy được hết khả năng của mình và dễ đạt được thành tích cao.
Bên cạnh những ưu điểm đó, người tuổi Tý còn có khả năng quan sát và diễn thuyết tốt nên cũng rất phù hợp với công việc mang tính tuyên truyền.
Tuy rất dễ nổi bật trong mắt mọi người nhưng họ lại không phù hợp để làm các công việc đòi hỏi sự cương nghị, nghiêm khắc như cảnh sát, quân đội hay bất kỳ công việc nào có liên quan đến chính trị.
Theo 12 con giáp về sự nghiệp cuộc đời
2. Mục hồng ngữ kết hiếu sắc vô cùng (Mắt pha màu hồng, hiếu sắc)
3. Viên tiểu đoản thâm, kỳ tướng bất thiện (mắt tròn và nhỏ, xấu, là tâm không tốt)
4. Đoản tiểu chủ ngu tiện (mắt ngắn mà nhỏ, chủ hèn đần)
5. Xích ngân xâm đồng, quan sự trùng trùng (Mắt nhiều tia đỏ, dễ vướng vào lao lý)
6. Mục vĩ tương thuỳ, phu thê tương ly (Đuôi mắt cụp xuống, vợ chồng xung khắc, phân ly)
7. Mục xích tinh hoàng, tất chủ yểu vong (Mắt đỏ, con ngươi có sắc vàng, chết yểu)
8. Nhãn thâm định, thị phiếm tư lương, đới khấp phương phu tử bất cương (Mắt lúc nào cũng thâm quần lại ướt, làm khổ chồng con)
9. Lưỡng nhãn phù quang, song luân phún hoả, hung ác đại gian chi đồ (Mắt đỏ lại sáng quắc, háo sát tàn nhẫn, lạnh máu)
10. Thượng bạch đa tất gian, hạ bạch đa tất hình (Thượng hạ tam bạch đều là mắt xấu, vừa dâm vừa gian và dễ bị tù tội)
11. Nhãn nội đa mạch, nữ sát phu (Mắt bình thường có nhiều gân máu là tướng sát phu).
Nguồn: Tổng hợp
Hiện tượng: Nhà vệ sinh nằm ờ giữa nhà là một trong đại kỵ của dương trạch, bời vì đó là nơi bài ô nạp uế. Nếu đặt nhà vệ sinh chính giữa nhà ở thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định khí trường trong nhà.

Nhìn từ phong thủy hiện đại, như vậy còn có thể làm cho chất lượng không khí của cả ngôi nhà bị xấu đi, ảnh hường đến sức khỏe người sống trong nhà.
Phương pháp hóa giải:
Phương pháp hóa giải là trong nhà vệ sinh đặt hoàng Kim Cát hoặc đèn chiếu để hoạt hóa khí trường, đồng thời trên cửa treo một tấm rèm vải dài vì chuỗi đồng tiền Lục Đế để cản trở uế khí bay ra ngoài. Tốt nhất là trong nhà vệ sinh đặt một bát muối biển để tịnh hóa khí trường.
* Điều nên biết:
Công hiệu của Kỳ lân dẫm Bát quái là:
1. Hóa giải Xuyên tâm sát: dầm ngang từ cửa xuyên thẳng vào hình thành Xuyên tâm sát khí, có thể treo một con Kỳ lân dẫm Bát quái để hóa giảo.
2. Dầm ngang ép bếp: Dầm ngang ép bếp gây tổn hại rất lớn đế người trong nhà, còn có hiệu ứng như dao làm chảy máu, có thể treo một con Kỳ lân dẫm Bát quái và quả hồ lô đồng để hóa giải.
3. Cầu thang ở giữa nhà: có thể treo một con Kỳ lân dẫm Bát quái phía trên cầu thang là có thể hóa giải.
4. Thiên tinh sát: có thể hóa giải sát khí của Thiên Tinh (giếng trời) ở giữa nhà và nằm trên phương Ngũ Quỷ.
5. Trong phòng có tường cắt cũng có thế dùng Kỳ lân dẫm Bát Quái để hóa giải.
Nếu tranh trang trí và không gian phòng được phối hợp một cách khéo léo, phù hợp vói cảm thụ tâm lý và thị giác của con người thì có thể khiến cho căn phòng tăng thêm bầu không hhí tốt lành, khiến cho tâm lý những người trong gia đình cảm nhận được sự thoải mái và hạnh phúc. Nếu tranh treo trang trí khiến cho cảm thụ tâm lý và cảm thụ thị giác của người ở phát sinh xung đột thì sẽ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực, phá võ sự cân bằng của căn phòng, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.

1.Treo tranh trang trí phải phối hợp hài hòa với kết cấu không gian
Tại không gian lớn như phòng khách, nếu treo một bức tranh có kích thước lớn một chút thì có thể khiến cho không gian được mở rộng. Cũng có thể dùng hình thức đối xứng bằng cách treo 2-4 bức tranh nằm ngang theo hình chữ “—” (Nhất), cũng có thể treo song song 4 bức để biểu thị một vượng khí. Gian phòng nhỏ hơn như phòng ngủ thì có thể treo một bức tranh hơi nhỏ một chút để khiến cho bức tranh và không gian có sự phối hợp hài hòa với nhau. Cũng có thể sử dụng hình thức phi đối xứng, treo một vài bức tranh cao thấp so le nhau theo hình tam giác hoặc hình thoi để tăng cường sự sống động cho không gian.
Cho dù là bố cục theo hình thức đối xứng hay không đối xứng cũng không thể cùng treo những bức tranh có phong cách hoàn toàn khác nhau. Ví dụ như, đem treo một bức tranh sơn thủy Trung Quốc với một bức tranh hội họa phương Tây liền với nhau thì sẽ mất mỹ quan. Đặc biệt, trong cùng một không gian không nên treo quá nhiều tranh vì sẽ khiến cho không gian căn phòng trở nên mất cân đối, phá vỡ linh khí của cả căn phòng.
2. Treo tranh trang trí phải phối hợp hài hòa với nội thất
Tranh treo trang trí với nội thất trong căn phòng phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Lựa chọn tranh trang trí có màu sắc hòa hợp, chủ thể không xung đột mới có thể cùng với nội thất và phong cách trang trí trong căn phòng hình thành sự hô ứng mang lại hiệu quả thẩm mỹ. Các loại tranh trang trí phổ biến là: Tranh khảm nạm, tranh chụp, tranh thảm thêu, tranh đồng, tranh pha lê, tranh trúc, tranh gốm sứ, tranh ngọc thạch, tranh rút sợi, tranh cắt giấy, tranh khắc gỗ, tranh kết thừng, tranh sơn mài... Trong số đó tranh khảm nạm, tranh pha lê có màu sắc tươi sáng, rực rỡ, dễ thể hiện được sức sống tươi mới và tình cảm nồng nhiệt, thích hợp bài trí trong gia đình trẻ. Tranh thảm thêu, tranh trúc, tranh kết thừng là những loại tranh theo phong cách cổ xưa đoan trang, giàu ý vị, thấm đẫm không khí nghệ thuật, thích hợp với nội thất có màu sắc tương đối nhạt. Tranh chụp có đầy đủ sự tươi sáng, tầng thứ rõ ràng, đặc biệt là những bức tranh chụp cỡ lớn thích hợp để làm nền cho nội thất trong gian phòng, có thể tăng cường cảm quan thời đại cho gia đình.
3. Treo tranh trang trí phải kết hợp hài hòa với nguồn sáng
Nếu treo một bức tranh trong thời gian dài dưới ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp thì trải qua thời gian chất liệu và màu sắc của bức tranh sẽ bị hư tổn làm giảm linh khí của bức tranh. Một bức tranh treo trên tường phải có nguồn ánh sáng chiếu rọi vừa phải mới có thể thể hiện được linh khí của bức tranh. Do vậy, tranh trang trí nên phối hợp sử dụng hợp lý nguồn sáng gián tiếp và nguồn ánh sáng trực tiếp. Nguồn sáng gián tiếp chủ yếu chỉ các bóng đèn điện và màu sắc có độ nóng thấp, ánh sáng trắng như đèn huỳnh quang, đèn PL, đèn tiết kiệm điện năng... Nguồn ánh sáng trực tiếp chỉ đèn chân không. Nguồn ánh sáng gián tiếp độ thiên về màu trắng, xanh lam; nguồn ánh sáng trực tiếp thiên về màu vàng, màu hồng. Khi chúng cùng chiếu sáng thì trở thành màu sắc hài hòa, tạo ra cảm giác ánh sáng dễ chịu, có thể biểu hiện được một cách trung thực đường nét trong bức tranh.
4. Treo tranh trang trí phải trong tầm nhìn
Phạm vi mọi người thường nhìn thấy là chỉ trong khoảng tầm nhìn thông thường của con người. Thích hợp nhất là nên treo trên tường có độ cao cách mặt đất từ 1.5 - 2m. Nếu tranh treo quá thấp sẽ không có lợi đối với việc bảo quản và thưởng thức tranh, nếu treo quá cao sẽ bất tiện cho người thưởng thức, đồng thời nhìn bức tranh sẽ bị biến hình gây ảnh hưởng đến hiệu quả thưởng thức.
Khung của bức tranh trang trí lớn tốt nhất là nên tạo một góc hẹp 15 - 30° so vói tường, khiến cho bức tranh hơi nghiêng xuống đất. Nếu là bức tranh đặt trên tủ tương đối thấp so vói tầm nhìn bình thường thì nên đặt tranh hơi ngửa lên trên, như vậy sẽ khiến cho mọi người có thể thưởng thức được bức tranh một cách hoàn chỉnh.
5. Khung tranh trang trí nên kết hợp hài hòa với chủ đề bức tranh
Khung tranh có thể làm tăng thêm vẻ đẹp cho bức tranh, chính là “hoa đỏ trên thảm lá xanh”. Khung có hình dạng và loại hình khác nhau có thể mang lại những hiệu ứng thẩm mỹ khác nhau. Khung hình vuông thể hiện vẻ đẹp đối xứng. Khi dùng khung hình vuông, mỗi bên phải để thừa lại một khoảng trống để tránh khiến cho chủ đề bức tranh bị khung vây hãm quá chặt.
Khung hình chữ nhật thể hiện khí thế khoáng đạt. Đem một cặp hoặc hai bức trở lên có khổ nhỏ đặt trong một khung lớn hình chữ nhật khiến cho người thưởng thức có cảm giác trong sáng, giản dị. Có thể sắp đặt theo bố cục ngang hoặc theo bố cục đứng nhưng nên để lại một khoảng trống xung quanh làm nổi bật hình tượng của mỗi bức tranh.
Khung hình thô thể hiện một khái khái mạnh mẽ. Đặt bức tranh vào trong một chiếc khung thô có thể khiến cho bức tranh thêm vẻ mạnh mẽ, ngụ ý trong bức tranh sẽ càng sâu sắc hơn.
Song khung (một bức tranh hai khung) có tác dụng kích thích trí tưởng tượng của mỗi người, biểu đạt một không gian có chiều sâu. Song khung chính là bên ngoài khung lại có một khung nữa, hai khung có thể đều là hình vuông, cũng có thể có hình dạng khác nhau. Tranh song khung tạo ra cảm quan không gian rất mạnh, có thể phát huy được óc tưởng tượng của người thưởng thức.
Tranh không khung thể hiện sự nhẹ nhàng, thanh thoát, không bị bó buộc. Tranh chỉ có phần hình ảnh không có khung trông rất đơn giản, nhẹ nhàng. Tranh không khung nên chú ý bốn bên phải có thể hiện khung hình, nếu không thì bức tường phía sau sẽ biến thành chiếc khung khổng lồ làm giảm hiệu quả thẩm mỹ.
![]() |
3 chòm sao nam dễ dàng yêu lại người cũ![]() |
Hành: Hỏa
Loại: Phù Tinh, Hình Tinh
Đặc Tính: Lý luận, quan tụng, thông minh, sắc bén
Phụ tinh. Là sao thuộc vòng Lộc tồn - 17 sao là Lộc tồn, Kình dương, Đà la, Quốc ấn, Đường phù, Bác sĩ, Lực sĩ, Thanh long, Tiểu hao, Tướng quân, Tấu thư, Phi liêm, Hỷ thần, Bệnh phù, Đại hao, Phục binh, Quan phủ.
Sao Quan Phủ có ý nghĩa giống sao Quan Phù, tuy nhiên không hội chiếu với Thái Tuế. Chính vì điều này mà có thể phân biệt điểm khác biệt giữa Quan Phủ - Quan Phù.
Ngoài các ý nghĩa tương tự sao Quan Phù, sao Quan Phủ nếu đồng cung (hội chiếu) với Thái Tuế sẽ khiến việc khiếu kiện, việc công vô cùng trắc trở, đặc biệt là kiện tụng, đấu tranh pháp lý...
Quan Phủ Thái Tuế một cung
Đêm ngày chầu chực cửa công mỏi mòn
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
Những câu nói hay về thái độ đối với cuộc sống. Trong cuộc đời của mỗi con người yếu tố quyết định to lớn nhất đối với cuộc đời mỗi người đó chính là thái độ sống.
Bạn sẽ lựa chọn cho mình thái độ đối với cuộc sống như thế nào đây?
Một thái độ vui tươi, lạc quan sẽ làm cho cuộc sống của bạn tràn ngập tiếng cười và niềm vui và ngược lại với thái độ bi quan, chán nản và buông xuôi đối với cuộc sống bạn sẽ nhận lại cho mình một cuộc sống thất bại, buồn tẻ. Tổng hợp những câu nói hay về thái độ đối với cuộc sống cho bạn suy ngẫm là những câu nói hay về thái độ sống, từ đó mỗi người hãy suy nghĩ và rút ra những thái độ sống cho riêng mình nhé.
1.“Thái độ sống của bạn sẽ quyết định là bạn có trưởng thành hơn hay mãi mãi không thể trưởng thành được, cho dù bạn có già đi.”
2. “Không gì có thể ngăn cản được người có thái độ đúng đắn vươn tới mục tiêu của mình; và cũng không có gì trên thế gian này có thể giúp được một người có thái độ sống sai lầm.”
3. “10% cuộc sống của bạn là do những gì bạn tạo ra, còn 90% còn lại tùy thuộc vào cách bạn suy nghĩ và cảm nhận.”
4. Lo lắng chính là điều vô bổ nhất trên đời. Nó giống như việc bạn cầm một chiếc ô và chạy vòng vòng đợi trời mưa xuống.
5. “Đừng nhầm lẫn tính cách tôi và thái độ tôi. Tính cách của tôi nói lên con người tôi, còn thái độ của tôi tuỳ thuộc vào con người bạn”.
6. Thành công không phải là đích đến cuối cùng, thất bại cũng chẳng phải vực sâu thăm thẳm, đó chỉ là động lực để bạn vững vàng hơn trên con đường sắp bước.
7. Sự khác biệt duy nhất giữa một ngày tốt đẹp và một ngày tồi tệ nằm ở chính thái độ của bạn.
8. Khi cuộc sống dồn bạn vào bước đường cùng, đừng hỏi: tại sao là tôi? Mà hãy nói rằng: cứ thử tôi đi!
9. Đừng bao giờ giao bí mật của bạn cho một ai, bởi vì, tự bạn còn không giữ được thì còn trông mong vào ai kia chứ?
10. Giống như hoa dại, hãy học cách sinh tồn trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, ngay cả khi người đời cho rằng bạn không thể.
11. Khi bạn muốn tìm một người thay đổi được cuộc đời bạn, hãy nhìn vào gương.
12. Hãy mạnh mẽ lên đi, mọi thứ rồi sẽ ổn thôi. Bầu trời có thể bão bùng, nhưng mưa không thể rơi mãi được đâu.
13. Nếu người khác tôn trọng bạn, hãy tôn trọng họ. Nếu họ không tôn trọng bạn, vẫn cứ tôn trọng họ, đừng để hành động của người khác ảnh hưởng đến nhân cách tốt đẹp của bạn. Bởi lẽ, bạn chính là bạn chứ không phải là một ai khác.
14. Đại dương mênh mông sẽ không thể đánh chìm một con tàu nếu nước không tràn vào bên trong nó. Cũng tương tự như thế, những khó khăn sẽ không thể quật ngã bạn nếu bạn không cho phép chúng làm thế.
15. Cuộc đời chỉ có một, vì thế hãy làm những gì khiến bạn hạnh phúc và ở bên người khiến bạn luôn mỉm cười.
16. Nếu như bạn mong đợi người đời sẽ tử tế với bạn chỉ vì bạn tử tế với họ, thì cũng giống như việc bạn trông chờ một con sư tử không ăn thịt mình chỉ vì mình không ăn thịt nó. Cuộc sống vốn dĩ không công bằng, hãy học cách thích ứng đi.
17. Nếu kẻ khác nói xấu bạn, phán xét bạn mặc dù không biết gì về bạn. Đừng buồn, hãy nhớ kĩ một điều: “chó sủa khi gặp người lạ”
18. Đôi khi, không phải là một người đã thay đổi, chỉ là mặt nạ của họ đã rơi xuống mà thôi.
19.Ai không có mục đích thì không thể thấy niềm vui trong bất kỳ công việc gì.
20. Ngoài ta ra không ai có thể hại ta được.Thánh Ganhi
21. Đừng bao giờ than vãn trước một việc đã rồi, nhìn thẳng vào vấn đề và tự hỏi mình có thể làm được gì.
22. Học mà không suy nghĩ thì luôn luôn u tối.
Suy nghĩ mà không học thì luôn luôn nghi ngờ.
23. Dùng người như dùng gỗ, đừng vì một vài chỗ mục mà bỏ cả cây lớn.
24. Không một quyền lực nào có thể ngăn cản được một người có thái độ, tinh thần đúng đạt được mục đích của mình. Và không gì trên đời có thể giúp một người có thái độ, tinh thần không đúng đạt được thành công – Thomas Jefferson
25. Khám phá vĩ đại nhất của thời đại chúng ta chính là việc con người có thể thay đổi cuộc sống của mình chính bằng cách thay đổi thái độ sống – William James
26. Khi bạn nghĩ mình là ai, bạn chính là người ấy – Norman Vincent Peale
27. Thành công là một trạng thái tinh thần. Nếu bạn muốn thành công, hãy bắt đầu suy nghĩ như mình là một người thành công – Joyce Brother
28. Thái độ sống là một sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người. Nó có thể đúng đắn hay sai lầm, tất cả phụ thuộc vào cách bạn suy nghĩ – Khuyết danh
29. Bạn không thể kiểm soát được mọi tình huống xảy ra. Nhưng bạn hoàn toàn có thể kiểm soát được suy nghĩ và thái độ của mình – Charles Popplestone
30., Mọi việc trở nên tốt đẹp hơn hay tồi tệ đi đều bắt nguồn từ suy nghĩ của bạn – William Shakepeare
31.Người hạnh phúc không phải là người được sống trong hoàn cảnh thuận lợi nào mà là một người có thái độ sống tốt trước bất kỳ hoàn cảnh nào – Hugh Downs
32. Dù bạn nghĩ là mình có khả năng hay không có khả năng – bạn đều đúng – Henry Ford
33. Không ai có thể hoàn thành những mục tiêu táo bạo của mình mà không bắt đầu bằng những ước mơ táo bạo – Ralph Charell
34. Chỉ khi bạn định hình mục tiêu một cách rõ ràng trong tâm trí, bạn mới có thể hành động để đạt được mục tiêu ấy – Alex Morrison
35. Chỉ với một tài năng bình thường cộng với niềm tin kiên định, mọi người đều có thể đạt được kỳ tích – Thomas Buxton
36.Thành công sẽ đến với những ai biết rõ mình muốn điều gì và không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi đạt được điều đó – Alexander Graham Bell
37. Mọi khó khăn, trở ngại sẽ khơi dậy khả năng tiềm ẩn trong mỗi chúng ta – Jeff Keller
38. Nếu tôi có thể ước mơ cho mình một cuộc sống không gặp trở ngại nào thì hấp dẫn thật đấy, nhưng tôi sẽ khước từ vì khi ấy tôi sẽ không học được điều nào khác từ cuộc sống. – Allyson
39. Không quan trọng bạn phạm bao nhiêu sai lầm, không quan trọng bạn bước đi chậm chạp đến đâu, bạn vẫn chiến thắng những kẻ không bao giờ biết đến 2 từ “cố gắng”.
Chúc bạn xác định được cho mình một thái độ sống tích cực nhất. Bên cạnh đó bạn có thể tham khảo những câu nói hay về cuộc sống để cho cảm nhận cuộc sống của mình có nhiều sắc màu và niềm vui hơn. Chúc bạn thành công trong cuộc sống.
Thông thường, quạt giấy dùng để trang trí có kích thước khá lớn, được bố trí các hình vẽ rực rỡ và thường được nhuộm màu đỏ. Vậy bày quạt giấy trong nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không?
Rất nhiều gia đình thích bày quạt giấy trong nhà như một món đồ trang trí tô điểm thêm cho căn phòng. Thông thường, quạt giấy dùng để trang trí có kích thước khá lớn, được bố trí các hình vẽ rực rỡ và thường được nhuộm màu đỏ. Vậy bày quạt giấy trong nhà có ảnh hưởng đến phong thủy không?

Tiếng Hán quạt giấy gọi là “chỉ phiến”, chữ “phiến” ở đây có âm đọc giống chữ “thiện” nghĩa là từ thiện, tốt đẹp giỏi giang. Do vậy nhiều người treo quạt giấy trong nhà, tục ngữ có câu: “Nhà làm nhiều việc thiện, thế nào cũng có lúc phát đạt”. Vì vậy treo quạt giấy có ý khuyến khích tu nhân tích đức.
Những người theo đạo giáo thường vẽ bùa chú trên quạt giấy cũ, rồi treo trước cửa, có khả năng trừ tà ma, giải vận hạn.
Đa số quạt giấy dùng để trang trí được nhuộm màu đỏ, vì theo quan niệm của người Á Đông, màu đỏ là màu may mắn, tốt lành. Tuy nhiên, điều cần chú ý là quạt giấy khi được nhuộm màu đỏ sẽ thuộc hành Hỏa.
Đặt Hỏa ở 8 phương vị khác nhau sẽ gây ra những ảnh hưởng riêng biệt. Nếu không hòa hợp về ngũ hành của phương vị thì có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt.
– Nếu đặt tại hướng Đông hoặc Đông Nam (thuộc Mộc), theo ngũ hành, Hỏa khắc Mộc nên sẽ không tốt cho gia chủ.
– Nếu đặt tại hướng Nam (thuộc Hỏa), sẽ khiến Hỏa khí quá mạnh nên không tốt.
– Nếu đặt tại hướng Tây Nam hoặc Đông Bắc (thuộc Thổ), theo ngũ hành Hỏa sinh Thổ nên rất tốt.
– Nếu đặt tại hướng Tây hoặc Tây Bắc (thuộc Kim), hành Hỏa của quạt giấy sẽ khắc hành Kim của phương vị nên cũng bất lợi.
– Nếu đặt tại hướng Bắc (thuộc Thủy), hành Thủy của phương vị sẽ khắc chế hành Hỏa của quạt giấy. Treo quạt ở vị trí này không tốt cũng không xấu.
Quạt giấy nếu được đặt ở đúng phương vị sẽ rất có lợi cho gia chủ, giúp tinh thần minh mẫn và công việc được thuận lợi.
GS. LÊ TRUNG HƯNG
Trong công trình làm sang tỏ khoa lý học tử vi, những lúc gần đây người ta không thể quên tên của những loạt bài “Thần Kê định số”, của nguồn gốc khoa tử vi, của hình tượng của Nhật Nguyệt và những tác giả thâm lý vô cầu Võ Văn Châu, Vi Nhật, Phong Nguyên trên KHHB của năm cũ Giáp Dần 1974. Trước thềm xuân niên tuế Ất Mão, kẻ viết xin khai bút gọi là chút đóng góp (trong muôn một và đa diện của khoa Tử vi) với tâm ý: 1 ngày nào đó tử vi trở thành 1 học khoa của sinh hoạt đại học (trên các lĩnh vực nhân văn và quản trị). Chiều hướng trên có thể là 1 tham vọng, một khi những ai dấn than vào tử vi để hủ hóa thêm cho ngành này (bằng thái độ tự tôn, thành kiến, cố chấp, bảo thủ), mà cũng có thể là cao vọng khả chấp, một khi mọi giới thức giả trong vị thế và lãnh vực của mình, áp dụng tử vi trong sự cảnh giác: vừa nghiệm lý, vừa khai phóng. Có nghiệm lý mới thấy rõ hậu quả của bản số và thế tương quan cơ cấu giữa các tinh đẩu. Có khai phóng mới cập nhật hóa được những dữ hiện xưa trong hình thái hiện hữu, bới cung cách cổ điển vẫn tồn tại ẩn kín trong văn hóa kim thời.
Bài viết kỳ này xin triển khai “Mười Liên Đới Cơ Cấu của Tử Vi” – gọi là mở ngõ và gợi ý cho lĩnh vực xã hội học…
Tử vi có tất cả 14 chính diệu, được coi là các giới tinh “đỡ đầu cho cung trấn đóng và ai cũng phải nhìn nhận cặp Thái Dương – Thái Âm chủ về sự soi sang. Trực chiếu (hay còn gọi là xung chiếu thì mạnh mẽ hơn là tam hợp chiếu. Đại vận vào ngay cung của Nhật Nguyệt (vị thế sáng sủa) bị lòa sáng làm đẹp và không tốt bằng Đại vận ở cung được Nhật Nguyệt chiếu. thế nên khi Cự môn (là cửa thành, cửa nhà quan: nếu đóng ở Ngọ thì nên gọi là ngọ môn, cho chính danh nơi vua ở, và bên trong hẳn phải chất chứa bao điều bí mật về tài sản, về phong cách), đóng ở cung Tý luôn có Thái Dương ở cung Thìn rọi sang (tam hợp chiếu). Đèn chiếu tới cửa, nhưng cửa cài, then đóng, làm sao thấy được gì ở trong? Vậy cần phải có những yếu tố mở ngỏ (nội công thì ngoại kích mới hữu hiệu) nằm vùng ngay tại cung của Cự Môn, như Tuần Triệt, Song Hao, Kình Dương – nỗ lực làm sao cho cửa thành được mở ra, lúc ấy, đèn trời (Thái Dương) mới tỏa rạng ở cung của Cự môn, phơi bày cả 1 kho tang mà Cao chu Thần tướng cao hứng ngâm vịnh: "Kho trời chung mà vô tận của mình riêng".
Biện chứng tương tự cho trường hợp Cự Môn ở cung Ngọ (ngọ môn – khó khăn lắm mới mở được cửa nhà vua), luôn luôn có Thái Dương ở cung Tuất (lâm vào vị thế kém sang), nhưng nếu Thái Dương (ở Tuất) gặp Hóa Kị hay Thiên tài, hoặc giả được đám sao Đào hồng Linh Hỏa hội nhập (nhị hợp, tam hợp….) tiếp sức cho sao anh rọi sáng cung Ngọ, đồng thời Cự môn tại Ngọ bị Tuần Triệt, Song Hao, Kình đục phá thì rồi núi cũng phải lở huống chi chỉ là cửa thành? Mà khi cửa nhà vua bật mở tung, chắc chắn đèn trời Thái Dương còn được chói rạng hơn (vì trân châu, hột xoàn của kho vua lấp lánh). Thành ra “thạch trung ẩn ngọc” chỉ là 1 cách nói tượng trưng của người xưa (ý tại ngôn ngoại). Trong chiều hướng biện giải này, lá số của vị nguyên thủ quốc gia (đăng trong Tử vi Tổng hợp của ông Nguyễn Phát Lộc) có cách “Thạch trung ẩn ngọc” đặc biệt (tạm gọi là đệ tam cách) là Thái Dương ở Tị rọi sang (ngon lành) cho Cự Môn ở hợi (có Tuần, Đại Hao, Không Kiếp), hiệu lực của đệ tam cách chưa biết nghiệm lý ra sao? Có điều chắc chắn: Những bản số nào thuộc cách Cự môn tại Ngọ thiếu thời tân khổ lắm (đục cửa nhà vua tất nhiên phải vất vả)., qua trung niên và hậu vận lại phong túc, vẻ vang tột cùng
Căn bản của tử vi thuyết Thiên Lương là vòng Thái Tuế. Cho đến nay, tuy có nhiều gười hâm mộ sự phát kiến của cụ nhưng rất ít người hiểu rõ những hiệu lực nền tảng của vòng sao chất chứa mệnh tính này, thành ra ngộ nhận 1 cách bất thuận lợi cho khoa tử vi (chứ không phải cho người phát kiến) như tác giả 1 cuốn sách tử vi mới phát hành vào đầu năm 1975
Vòng Thái Tuế là tam giác liên kết 3 cung mạng năm sinh của tuổi (Ví dụ sinh năm Mão thì vòng Thái tuế là tam giác nối 3 cung Hợi Mão Mùi). Vòng này thiết lập ra để đối chiếu tính cách sinh khắc với tam giác của 3 cung Mệnh Quan Tài (được coi là vòng tha nhân, đã trình bày ở bài “10 điều tâm niệm khi đoán số tử vi”. Cụ Thiên Lương gọi vòng Thái tếu là vòng Thiên thời, để tìm xem đại vận nào tốt nhất trong đời (ông Trần VIệt Sơn đã khai triển nhiều lần). Nhưng có 1 khía cạnh tối quan trọng của vòng Thái tuế mà ít người lưu tâm là tính chất phẩm hạnh và tác phong của bản số tử vi. Một cách dễ hiểu hơn, người viết xin đặt tên cho vòng Thái Tuế là “Vòng Quản Trị” (Cycle of managerial functions), để góp phần hệ thống hóa mô thức điều hành xã hội trên thuật hướng vương đạo của tiền nhân. Mô thức phân quyền của Montesquieu tiên sinh nếu lồng vào Vòng Quản trị của khoa tử vi, sẽ diễn tiến như sau:
3 đỉnh của tam giác vòng quản trị là Thái Tuế - Quan Phù – Bạch hổ, mỗi đỉnh là 1 cục bộ của chủ quyền quốc gia: Lập pháp – Hành Pháp và Tư Pháp. Ý nghĩa dân chủ của thể chế chính trị tiến bộ là hình thái phân quyền để chủ quyền quốc gia được lành mạnh và quốc dân phú cường. hình thái học của khảo hướng phân quyền là như thế, nhưng động lực thực hiện được phân quyền tốt đẹp thuộc khoa quản trị học. Dùng người đúng chỗ là ưu điểm của nhà lãnh đạo, áp dụng vào mô thức vòng quản trị của tử vi, ta có ngay sự sắp xếp thích nghi:
Phép đối ngẫu của cổ văn chương Việt Hoa đối âm, đối tiếng và đối nghĩa. Trọng bộ Lục bại tinh của tử vi có đôi sao Địa Kiếp – Địa Không được an theo giờ sinh, xuất phát từ cung Hợi theo chiều Âm Dương (là căn bản của thuật số huyền học Đông phương). Sự hiệu nghiệm của 2 sao này đã quá rõ rang: Chúng đóng ở cung nào là y như có chuyện lình xình ở cung đó; chiến lược của phản trắc tính Không Kiếp không thể phủ nhận, tất yếu sự hiện hữu là 1 mặc nhiên. Nhưng có vị trí giả đề nghị hủy giải sao Địa Không vì cho rằng tính lý không hạp đôi với Địa Kiếp và thay vào đó bằng sao Thiên Không. Kẻ viết vốn rất ngưỡng mộ sự canh cải, để phục hồi giá trị cho khoa nhân văn tử vi, nhưng không thể vì định kiến chỉ nam ấy mà quên giá trị nghiệm lý của cơ cấu các sao trên lá số. Xin trình làng 2 lý do:
”Tuế tiền nhất vị thị thiên thiếu
Hậu nhất vị quán sách, Trực phù
(Thiên Không và Thiếu Dương ở cung đằng trước Thái Tuế và Quán Sách, Trực Phù ở cung đàng sau Thái Tuế). Người rành luật “bi sắc tư phong” (lý thừa trừ) của Vòng Thái Tuế, càng không thể phủ nhận sự đóng góp của sao Thiên Không khi nó luôn xuất hiện với “tam giác thiên tả” là Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (1 hệ phái thoát ly của vòng Thái Tuế), để thử thách người đời. Bởi vì vào đại vận của tam giác thiên tả, đương số lọt ngay vào sự bảo bọc của bộ sao tứ đức (Phúc Đức, Nguyệt Đức, Thiên Đức, Long Đức) hợp chiếu, chưa kể các phúc tinh khác như Quan Phúc, Quang Quý, Khóa Khoa, luôn luôn là như vậy mà tại sao cứ vào Đại vận hay Tiểu vận này, thiên hạ long đong lận đận khôn cùng? Sự kiện này chỉ có thể hiểu được khi có bộ mặt Thiên Không phá đám, khuấy đảo và dụ dỗ đám hư tinh Đào hồng vào chỗ tuyệt lộ.
Vậy thì xin trả cái gì của César cho César để tử vi khỏi mất mát cái chính lý của nó
Khoa lý học Đông Á coi lẽ Âm Dương như định lý biến dịch, và lấy ngũ hành làm hệ luận sinh khắc. Chu trình Ngũ hành sinh và Ngũ hành khắc đều là 1 chu trình khép kín.
Ai nấy đều thông lý rõ rang và không có gì thắc mắc. Nhưng trường hợp đồng hành của Ngũ hành thì thật là phức tạp, nhiều ý kiến trái ngược: tốt có và xấu cũng có. Theo sách hồng Vũ cẩm Thư của Dương Quân Tùng (Trung Hoa) thì trường hợp Ngũ hành tương ngộ tạo ra 3 hình thái: Thắng – hòa và bại như sau:
Việc này đem áp dụng vào công dụng lý đoán các sao và các cung trên tính cách bản hành nhất là Đại vận của Thái Tuế sẽ thấy rõ hiệu lực của mức độ thành- bại mỗi người.
Ví dụ: người mạng Thổ nhập hạn Thái Tuế ở cung Mùi (Thổ) không thể thoải mái, vẻ vang bằng người mạng Kim mà lại nhập hạn Thái tuế ở cung Thân hay Dậu (Kim).
………………………..
(Còn 6 điểm quan trọng – kỳ sau)
![]() |
| A | B | C |
Mộc Trà (theo Buzz)
![]() |
| Không nên treo di ảnh người đã khuất trong phòng ngủ |
![]() |
| ► Xem thêm: Phong thủy nhà ở chuẩn giúp phát tài phát lộc, tránh tai ương |
Tuyển tập những câu nói hay của Alexander Hamilton. Alexander Hamilton (11/1/1757 – 12/7/1804) là một trong những Nhà Khai quốc của Hoa kỳ. Ông là một trong những người lãnh đạo trong Hội nghị Lập hiến Hoa Kỳ năm 1787, đồng thời cũng là người thiết lập hệ thống tài chính – ngân hàng Mỹ, trở thành Bộ trưởng Ngân khố đầu tiên khi ông mới 32 tuổi.
Sự nghiệp chính trị của Hamilton có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Mỹ. Ông là một trong những người thành lập Đảng Liên bang, một đảng phái chính trị đầu tiên của Mỹ, tiền thân của đảng Cộng hòa sau này.
Tác phẩm xuất sắc nhất của Hamilton, Người liên bang – The Federalist Papers, được viết chung với James Madison, chứa đựng những tư tưởng lớn lao làm nền tảng, giải thích rõ ràng về ý nghĩa và mục đích của Hiến pháp Hoa Kỳ, lột tả chính xác bản chất của chính quyền khi gắn nó với bản chất của con người và những quyền lợi cá nhân. Tác phẩm được coi sánh ngang với những danh tác chính trị của nhân loại như Nền cộng hoà – Republic của Plato, Khoa học chính trị – Politics của Aristotle, Uy quyền tối cao – Leviathan của Thomas Hobbes.
Nghệ thuật đọc là lướt qua một cách khôn ngoan.
The art of reading is to skip judiciously.
Có sự nhiệt huyết rõ ràng đối với tự do, khiến bản tính con người vượt lên trên chính nó, trong những hành động can đảm và anh hùng.
There is a certain enthusiasm in liberty, that makes human nature rise above itself, in acts of bravery and heroism.
Khi thanh kiếm đã được rút ra, cơn cuồng nộ của con người không có giới hạn kiềm chế.
When the sword is once drawn, the passions of men observe no bounds of moderation.
Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước.
There are seasons in every country when noise and impudence pass current for worth; and in popular commotions especially, the clamors of interested and factious men are often mistaken for patriotism.
Trao tất cả quyền lực cho số đông, họ sẽ đàn áp số ít. Trao tất cả quyền lực cho số ít, họ sẽ đàn áp số đông.
Give all the power to the many, they will oppress the few. Give all the power to the few, they will oppress the many.
Tôi cho rằng nghĩa vụ đầu tiên của xã hội là công lý.
I think the first duty of society is justice.
Tôi không bao giờ chờ đợi thấy được công việc hoàn hảo từ người không hoàn hảo.
I never expect to see a perfect work from imperfect man.
Người không đứng lên vì điều gì không sụp đổ vì điều gì.
Those who stand for nothing fall for anything.
Giọng của nhân dân được coi là giọng của Chúa; và, cho dù câu cách ngôn này được lặp lại và tin tưởng rộng rãi tới như thế nào, nó không đúng với sự thật. Nhân dân hỗn loạn và thay đổi, họ hiếm khi phán đoán hay quyết định đúng.
The voice of the people has been said to be the voice of God; and, however generally this maxim has been quoted and believed, it is not true to fact. The people are turbulent and changing, they seldom judge or determine right.
Một quốc gia ưa chuộng sự hổ thẹn hơn là nguy hiểm đã chuẩn bị để đón kẻ thống trị, và đáng như thế.
A nation which can prefer disgrace to danger is prepared for a master, and deserves one.
Lời nói dữ dội hiếm khi hữu dụng. Sự kiên quyết thực sự tốt cho mọi thứ. Vẻ khệnh khạng chẳng tốt cho điều gì cả.
Hard words are very rarely useful. Real firmness is good for every thing. Strut is good for nothing.
Thứ quyền lực chi phối sinh kế của một người là thứ quyền lực chi phối ý chí của anh ta.
Power over a man’s subsistence is power over his will.
ư nên xem xét kỹ cả giờ, ngày sinh và tháng sinh của con trước khi đặt tên cho con.
Theo phong thủy, tất cả vạn vật trong vũ trụ đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Theo nguyên lý cơ bản, năm ngũ hành này tương sinh, tương khắc với nhau.

– Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.
– Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Với mệnh Mộc cha mẹ có thể đặt tên con liên quan đến kim loại (Kim), cây (Mộc) hay nước (Thủy) bởi Kim sinh ra Thủy, Thủy sinh ra Mộc.
Con bạn sinh ra thuộc mệnh Thủy và bạn đang phân vân không biết chọn tên cho con như thế nào mới là tốt nhất. Thủy chỉ mùa đông và nước nói chung như những cơn mưa lất phất hay mưa bão, Thủy cũng chỉ bản ngã, vẻ đẹp và nghệ thuật và Thủy có liên quan đến mọi thứ trong cuộc sống.
– Tích cực: Có khuynh hướng nghệ thuật, thích kết bạn và biết cảm thông.
– Tiêu cực: Nhạy cảm, mau thay đổi và gây phiền nhiễu.
Đặt tên cho bé theo mệnh Thủy, bố mẹ có thể chọn:

– Cho bé gái, có những cái tên hay như:

– Cho bé trai, có những cái tên đẹp như:
Đó là những cái tên thật ý nghĩa để các bạn có thể lựa chọn và đặt tên phong thủy mệnh Thủy cho bé. Những cái tên này sẽ đơn giản hóa cho các mẹ mỗi khi phải bỏ nhiều thời gian để lựa chọn một cái tên phù hợp với con yêu của mình.
Lời tựa của Trần Danh Lâm, tự Khiêm Trai, người làng Bảo Triện (Bắc Ninh), tiến sĩ khoa Tân Hợi 1691.
Vân đài loại ngữ chia làm chín quyển, phân loại rành mạch, nghị luận rõ ràng: Trên từ thiên văn, dưới đến địa lý, giữa là nhân luân, cái học cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ đều có đủ cả, có thể phát minh được nghĩa sâu xa của các bậc hiền thánh và bắc cầu chỉ bến cho kẻ hậu học. Sau Lục Kinh, và Luận Ngữ, Mạnh Tử, ông thật là người biết lập ngôn chăng?...
1. Đạo Trời hư không, đạo Đất tĩnh mịch, người ta vừa hư vừa tĩnh mới hợp được với đạo Trời - Đất. Vì, hư thì tự minh, tĩnh thì tự định. Tâm có minh, tính có định, thì cái công hiệu tham tán trời đất mới là ở đó.
2. Đức của trời to lớn thay! Vạn vật nhờ ở trời mà bắt đầu, ấy là nói về Khí. Đức của đất mẫu mực thay! Vạn vật nhờ ở đó mà sinh nở ra, ấy là nói về Hình. Nói về trời đất, thì đều có hình có khí cả; nói về vạn vật, đều bẩm Khí ở trời mà thụ Hình ở đất.
3. Đầy rãy trong khoảng trời đất đều là Khí cả. Còn chữ "Lý" chỉ là để mà biện luận rằng đó là cái thực hữu chứ không phải hư vô. Lý không có hình tích, nhân Khí mà hiện ra, vậy Lý ở trong Khí. Âm Dương, cơ ngẫu, tri và hành, thể và dụng, thì có thể nói là đối nhau, còn như Lý và Khí thì không thể nói là đối nhau được.
4. Thái Cực là một, là một khí hỗn nguyên (lúc ban đầu hỗn độn). Từ Một sinh Hai, Hai sinh Bốn, thành ra vạn vật; thế thì Thái Cực vốn chỉ có Một.
Sách Đại Diễn dùng 50 cỏ thi để bói, mà chỗ Một thì bỏ trống không dùng để tượng trưng cho thái cực. Thế không phải là "thực", " hữu" thì là gì.
Khi mở ra khi đóng lại thì gọi là biến, qua lại khôn cùng gọi là thông; đóng lại là "không", mở ra là "có"; đi qua là "không", trở lại là "có"; cứ vậy "không" với "có" theo nhau, người và vật đều như vậy cả. Từ xưa đến nay Lý luôn luôn tồn tại, xem thế đủ biết trong chỗ hư không tĩnh lặng, nguyên vẫn có cái Lý ấy. Như thế mà Lão Tử lại bảo rằng "cái Hữu được sinh ra từ cái Vô" thì liệu có được chăng?
5. Phân tách ra mà nói thì Trời thuộc dương, Đất thuộc âm; dương chủ động, âm chủ tĩnh. Dụng của trời thường động nhưng Thể của trời vẫn tĩnh. Thể của đất vốn tĩnh nhưng Dụng của đất thường động.
Thể của Trời mà không tĩnh thì Tứ Duy (4 góc "tứ sinh", các cung Càn Khôn Cấn Tốn) sao được yên lặng vững bền, và Thất Chính (ngũ tinh & nhật, nguyệt) biết tựa vào đâu được. Dụng của Đất mà không động thì chỉ là một khối trùng trục mà sinh ý hầu như mất hết cả.
Trời thì Hình động và Khí tĩnh, đất thì Hình tĩnh và Khí động.
6. Liệt tử nói: Trời chỉ là Khí tích lại, không có định chỗ, không có hình tượng. Còn Nhật, Nguyệt và các tinh đẩu cũng chỉ là các Khí tích lại mà có ánh sáng đó thôi.
7. Kỷ Bá nói: Đất ở bên dưới người ta và ở giữa khoảng hư không, do có Khí lớn nâng lên. Như thế thì không những trời (khí dương) trong nhẹ mà nổi lên trên, mà đất (khí âm) cũng có thể nổi lên trên. Trời nổi thì bao bọc lấy cả nước và đất; còn đất nổi ở trên nước và ở giữa trời. Ấy là thuyết Hồn Thiên.
8. Sách Khôn dư đồ thuyết của người phương Tây nói: "Nếu không có Khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?"
Sách ấy lại nói "Loài chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước để mà nổi lên". Cũng lại nói "người ta hướng vào chỗ không mà vỗ tay tất thấy tiếng vang, nếu ở trong đó không có Khí thì chắc chắn chẳng có gì để mà sinh âm thanh ấy được".
Sách ấy lại nói "Trong kho đang im lặng, không có tiếng, ta thấy trong luồng ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắn chắn là do Khí gây nên như thế".
Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà một số người còn nghi ngờ cho là lạ!
Nay xét lại sách Thông Luận của Tiết Huyên đời Minh (1368-1643) có nói: "Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất này không có chỗ nào là không có Khí". Sách ấy lại nói "Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra như thế. Xem ánh mặt trời chiếu qua cửa sổ thì biết". Thuyết này cũng giống như đoạn trên (thuyết của người phương Tây). Sách Tố Vấn cũng nói "Khi lên khi xuống, khi ra khi vào, ta thấy đâu cũng đều có Khí cả".
9. Dưới vòm trời, trên mặt đất, đều là gió với Khí cả, chỗ gần người không thấy gió vì nhiều vật ngăn trở và sinh khí làm tan đi. Lên cao vừa thì gió to vừa, càng cao thì gió càng to mà làm cho mọi vật trở nên ráo và cứng. Vả lại, như chỗ đất sâu dưới chân núi, nếu đào sâu xuống khoảng hơn 1 trượng (2m) mà lấy đất lên, lúc đầu còn thấy nó mềm và ướt, đem lên khỏi mặt đất thì khô cứng như đá, đấy chẳng phải là do nó gặp gió thì cứng và ráo lại đó sao?
Đứa hài nhi ở trong bụng mẹ chỉ là khối huyết bào, khi đẻ ra thì rắn chắc, cũng là lẽ ấy. Khí trên trời sa xuống, khí dưới đất bốc lên, những khí ấy đều là sinh ý của trời đất. Gió với khí quanh quẩn trong khoảng ấy, chứ chẳng phải là lúc động thì mới có còn lúc tĩnh thì không có đâu.
10. Khí trời đất vận động không gì mạnh hơn gió và sấm. Bão táp (cụ) là âm còn sấm sét là dương. Khi bão mới bốc lên mà có sấm thì bão tan vì âm bị dương át đi. Khi bão sắp tạnh thì chắc chắn có sấm cũng là dương làm tan âm đi.
11. Ở miền núi của Trung Châu ít sấm, vì đất nước ở đấy vừa sâu vừa dày, dương khí bền vững. Cho nên mùa Đông mà có sấm thì người ta coi là điềm lạ. Ở miền biển của Lĩnh Nam có nhiều sấm vì đất nước ở đây vừa nông vừa mỏng, dương khí phát tiết, cho nên mùa Đông có sấm là chuyện thường.
12. Khí táo (khô, ráo) sinh ra gió, gió tan thì trời sáng tạnh; Khí thấp (ẩm, ướt) sinh ra mây, mây bốc lên rồi làm thành ra mưa; đó đều là hòa khí tuyên dương. Khí thấp – táo lẫn lộn thì sinh ra sương mù, mà mù nhiều thì sinh ra chướng khí bốc lên, đó là độc khí uất tắc.
13. Chữ “Cụ” nghĩa là bão, trong nó thì một bên có chữ “cụ” nghĩa là đủ, tức là ý nói đủ cả bốn thứ gió đông, tây, nam, bắc. Nếu bão bắt đầu vào buổi sáng thì sẽ kéo dài tới 3 ngày, bão bắt đầu vào buổi chiều thì sẽ kéo dài 7 ngày, bão bắt đầu vào buổi trưa thì chỉ kéo dài 1 ngày. Lúc bão mới nổi lên, nếu gió từ đông bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang tây. Nếu gió thổi từ tây bắc lại thì tất sẽ đi từ bắc sang đông. Rồi đều quay sang hướng nam mà tắt, gọi là “lạc tây” và “hồi nam”. Nếu không “lạc tây” không “hồi nam” thì 1 tháng sau lại có bão. Bão rất đúng giờ, nếu nổi ban ngày thì sẽ tắt ban ngày, nếu nổi ban đêm thì tắt ban đêm. Cụ phong là gió bất chính, là khí không thuận, thế mà còn có thường độ (mức độ - quy luật) như vậy!
14. Trời cao cách đất không biết mấy vạn dặm; môn thiên văn học đo lường ngang dọc thuận nghịch, thêm bớt nhân chia, chẳng qua cũng chỉ cần bỏ vào 1 nắm con toán mà biết đường đi của Thất Chính (Nhật, Nguyệt và các sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) và Nhị Thập Bát Tú. Như thế chẳng phải là cái Thể thì to lớn, cái Dụng thì rất nhiệm màu, mà đường đi thì có phép “thường” (tính quy luật) hay sao? Nếu không “thường” thì sao được yên, nếu không yên thì sao được lâu dài?
Xem như gió là do Khí trời tụ lại, tán ra mà phát ra tiếng. Đời xưa có truyền lại các phép xem khí hậu, ấy là nói xem ở lục địa; còn như ngoài biển cả mênh mông không biết đâu là đâu thế mà các lái thuyền, chân sào cũng biết được ngày giờ nào không có bão thì cho thuyền đi. Như thế chẳng qua cũng do kinh nghiệm đó thôi. Trang Tử nói “Gió khởi từ phương bắc rồi sang phương đông hay tây, lại có khi lơ lửng bay trên không. Ấy ai thở ra hít vào như vậy, ấy ai ăn ngồi vô sự mà phe phẩy như vậy?” Lời nói đó có sở kiến chăng?
15. Phương Bắc nhiều âm ít dương, phương Nam nhiều dương ít âm. Cho nên ở phương Bắc trời chưa rét lắm mà nước đã thành băng, đó là vì dương thì tránh âm mà âm thì kết ở dưới vậy. Mùa đông rét, mưa tuyết là vì âm bức dương mà dương bị thúc lại ở trên.
Ở phương Nam, phần lớn âm khí bị tan ở dưới, cho nên nước không thành giá được. Phần lớn dương phát tiết ở trên, cho nên mưa không thành tuyết được.
16. Đất lấy thổ làm thịt, lấy đá làm xương, cây cỏ làm lông, sông ngòi làm mạch. Cây cỏ tươi tốt thì đó là Khí thịnh, sông ngòi đầy dãy thì đó là khí thuần, còn đất như mỡ và đá như vóc là vì có sinh khí rót vào. (Nếu) Cây khô già mà thấy vẫn còn mọc rêu, đá bị đập bị đẽo mà ở chân hòn đá tảng còn ướt thì do Khí của chúng chưa hề mất vậy.
17. Người ta cùng với trời đất là một gốc, suốt ngày cộng tác, ăn uống, càng cùng với khí đất chung đụng. Cho nên sách Gia Ngữ nói “Người sinh ở đất rắn thì tính cương cường, sinh ở đất mềm thì nhút nhát, sinh ở đất rắn đen thì tính tỉ mỉ, sinh ở đất nở thì người đẹp, sinh ở đất sưa mỏng thì người xấu”.
Sách Nhĩ Nhã nói “Người sinh ở đất Thái Bình (TQ) thì nhân hậu, sinh ở đất Đan huyệt thì khôn ngoan, sinh ở đất Thái Mông thì chắc chắn, sinh ở đất Không Động thì vũ dũng”.
Sách Hoài Nam Tử (Lưu An – Hoài Nam Vương) nói “Khí núi sinh nhiều con trai, khí đầm sinh nhiều con gái, khí nước sinh nhiều người câm, khí gió sinh nhiều người điếc, khí rừng sinh nhiều người yếu ớt, khí cây sinh nhiều người còng, khí đá sinh nhiều người khỏe, khí ở dưới thấp sinh nhiều người phù thũng, khí âm sinh nhiều người rũ tay chân, khí hang hốc sinh nhiều người có chứng tê liệt, khí đồi bốc lên sinh nhiều người cuồng, khí thoáng sinh nhiều người nhân (hậu), khí ở gò to sinh nhiều người tham, khí nắng sinh nhiều người yểu, khí lạnh sinh nhiều người thọ. Sinh ở nơi đất nhẹ thì người nhanh, sinh ở nơi đất nặng thì người chậm chạp, sinh ở nơi nước đục thì tiếng cười thô, sinh nơi nước chảy xiết thì người nhẹ, sinh nơi nước chảy chậm thì người nặng. Đất trung châu sinh nhiều thánh hiền”.
Thái sử tập đời Tống nói “Dân vùng rừng rú thì da xanh mà gầy là vì hấp nhiều khí cây, dân vùng biển sông đầm thì da đen nhuần vì hấp nhiều khí nước, dân vùng nhiều gò đống thì người lẳn mà dài vì nhiều hỏa khí, dân vùng bờ sông và đất phẳng thì khôn mà bướng vì nhiều khí kim, dân vùng ẩm thấp thì to béo mà bệu vì nhiều thổ khí”. Ấy là đều nghiên cứu vật lý (cái lý của vạn vật) đến cùng, cứ thế suy diễn ra thì không chỗ nào sai cả.
18. Nắng to thì nước nổi bọt vẩn đục 1 đêm, hễ nổi cơn gió bấc thì nước lại trong suốt muôn khoảng một màu biếc, ấy là do khí sinh ra thế. Ở chỗ núi tạnh trời đã lâu, mây khói mờ mịt, bỗng có trận mưa to làm tan nhạt hết, trời lại sáng ra và muôn cảnh đều đổi mới cả, ấy cũng là do khí. Đương lúc tối tăm, ai trông thấy mà chẳng phẫn uất, đến khi cơ trời chuyển vận, một lát trời lại trong sáng ngay, ai chẳng vui sướng; mà nào có biết đâu là trong đó có chứa biết bao sựu nhiệm màu! Cơ trời bĩ rồi lại thái, loạn rồi lại trị, chính là như thế.
19. Sấm sét vang động, gió mưa thấm nhuần, Nhật Nguyệt vẫn hành, rét rồi lại nực, phấn phát sự sinh dưỡng của vạn vật, vận động mở đóng đều là có việc cả. Suy xét cho đến cùng mà nói, chẳng qua chỉ có giản dị (thuộc tính của Dịch) mà thôi. Tính tình của trời đất, sự nghiệp của thánh hiền, đều không ngoài hai chữ giản dị ấy. Trong hai chương Thượng Truyện, Hạ Truyện đấng thánh nhân đã hai ba lần chú ý đến vấn đề đó. Vậy, bọn Nho ta theo đuổi sự học tập và đem áp dụng vào chính trị, sao lại thích làm sự hiểm lạ, chuộng phiền toái làm gì?
20. Khí rất thần diệu, rất tinh vi: Khí mà thịnh tất nhiên thư thái, khí mà suy thì phải co rút, xem nơi cây cối tươi hay khô thì biết. Khí trong thì thông, khí đục thì tắc, xem ở lòng người sáng hay mờ thì biết. Khí đầy thì lớn lên, vơi thì tiêu mòn, xem thủy triều thì biết. Hòa thì hợp, trái thì lìa tan, xem thời cục trị hay loạn thì biết.
21. Nhật thực có thường độ; nhưng việc người biến đổi cùng với nhật thực thường có liên quan. Người ta sắp làm điều bất thiện, gặp lúc mặt trăng đi vào triền độ chỗ ăn nhau, bèn che lấp mặt trời; đó là Khí của người động đến trời. Lại như, trời sắp mưa dầm, thì ngưòi nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt; đó là khí trời động đến ngưòi. Điều đó có thể chứng nghiệm rõ trời với người cùng một lẽ.
22. Sách Tịch thượng đàm của Du Diễm nói; "Muôn biết thời giờ âm dương nên phân biệt bằng mũi": hơi trong lỗ mũi, dương thưòng ở bên tả, âm thường ỏ bên hữu. Cứ đến giữa giờ Hợi, giờ Tý thì hai lỗ mũi đều thông, vì người ta cũng là một bầu trời đất nhỏ (nhân thân nhất tiểu thiên địa).
23. Sách Thiên đạo luận của Nhân Loan đời Chu có dẫn sách Tê khổ kinh,nói rằng: "Tròi đất đến kiếp vận bị cháy thiêu đi hết thì người và vạn vật không còn gì nữa". Sách ấy lại nói: "Đến lúc mạt kiếp, trời đất thay đổi, mặt trời, mặt trăng cùng các vì sao cũng không còn". Thuyết ấy cùng giống với thuyết "Tuất hội, Hợi hội" của Khang Tiết. Nhưng, những điều nói trong sách của Đạo giáo hoang đưòng không có căn cứ, chỉ có thưvết của Khang Tiết lấy hai quẻ "Cấu" và "Phục” suy tính là đúng.
24. Sách Trường lịch của Từ Chỉnh nói: "Trời đất hỗn độn như quả trứng gà. Bàn Cổ sinh ở trong ấy, thọ một vạn tám nghìn năm. Lúc khai thiên lập địa, Khí dương trong là trời, Khí âm đục là đất. Bàn Cổ ỏ trong đó, mỗi ngày biến đổi chín lần, ở trên trời là thần, ỏ dưới đất là thánh; mỗi ngày trời cao thêm một trượng, đất dày thêm một trượng, Bàn Cổ cao thêm một trượng. Vì đó, biết Bàn cổ sóng một vạn tám nghìn năm, trời rất cao, đất rất sâu, Bàn Cổ rất lớn. Sau đó kế đến Ba đời Hoàng (Thiên hoàng, Địa hoàng và Nhân hoàng). Số bắt đầu từ 1,lập ở 3,thành ở 5, thịnh ở 7,cùng cực đến số 9. Cho nên nói tròi cách đất 9 vạn dặm". Đó là thuyết hoang đường không thể tin được.
Còn như thuyết Nguyên Hội Vận Thế của Thiệu Tử thì lấy mấy quẻ Cấu, Phục, Kiền, Khôn trong đồ Tiên thiên (của Thiệu tử,theo quái hoạch Phục Hi), căn cứ vào chỗ sinh, tiêu, tiền, hậu, suy ra mà biết được.
25. Sách Quyết nghi yếu chú của Ngu chí đời Tấn nói: "Đời Hán Vũ Đế đào hồ Côn Minh rất sâu, chỉ thấy tro đen mà không thấy đất, cả triều đình không ai hiểu ra sao, mới đem việc ấy hỏi Đông Phương Sóc. Sóc tâu: ”Kẻ hạ thần ngu không biết được,xin thử hỏi đạo sĩ ở nước Tây Vực". Vua Vũ đê cho rằng Đông Phương Sóc còn không biết thì hỏi người khác cũng khó lòng biết. Đến đời Hán Minh đế có đạo sĩ ngoại quốc đến Lạc Dương, có ngưòi nhớ lời Đông Phương Sóc, bèn đem việc đào hồ thấy tro đen ra hỏi thử, thì người đạo sĩ ấy đáp rằng: "Trong kinh Phật có nói lúc trời đất sắp tan rã, thì lửa cháy thiêu hết, cái tro đen ấy là tro thừa của "kiếp thiêu”.
Cứ theo thuyết ấy thì trước đây một nguyên, mười hai hội (theo Hoàng cực kinh thế của Thiệu Khang Tiết thì 1 nguyên = 12 hội = 129600 năm), sao lại không có một lần trời đất biến đổi hỗn hợp, rồi sau lại khai sáng ra?
Chu tử nóí: "Thường thấy ở trên núi cao có xác sò hến, hoặc sinh ra ỏ trong đá, Đá ấy là đất cũ từ đời xưa; sò hến là vật ở trong nước. Vật ở dưới thấp biến làm ở trên cao, vật mềm lại biến ra rắn". Do việc đó mà suy nghĩ kỹ, thì nó có thế chứng nghiệm được lời nói trên.
26. Sách Tố vấn có bàn về Ngũ vận, Lục Khí. Chử Trừng bác thuyết ấy là không phải, ông cho là: "Nam, Tháng, Ngày, Giờ, kể từ Giáp Tí, Ất Sửu lần lượt mà tính; trời đất ngũ hành, rét, nắng, gió, mưa, thoăn thoắt biến đổi; ngưòi ta cảm phải cái Khí ấy sinh ra tật bệnh; Khí trời thay đổi không biết trước được, cho nên tật bệnh cũng khó dự định; Khí không phải cái mà ngưòi làm ra được,cho nên tật bệnh người ta cũng khó lường được; suy nghiệm phần nhiều bị sai, nên cứu chữa dễ lầm". Chử Trừng nói thế chưa hẳn là phải.
Riêng tôi thì cho là Khí của trời đất chẳng qua chỉ là âm, dương, ngũ hành mà thôi, xung khắc hay hòa hợp không đều, làm chủ hay làm khách thay đổi, coi giữ ngày tháng lưu chuyển trong tiết hậu, biến hóa rất nhiều, người ta cảm phải, chưa chắc đã ứng hết; nhưng đại khái không sai mấy. Xem ngay như chứng ôn dịch, tùy từng năm rét hay nóng, mà hình thể khác nhau. Lại như, cũng là một bệnh mà khi táo, khi thấp sinh chứng khác nhau. Như thế thì sao có thể bảo thuyết Khí vận là không nghiệm?
27. Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ hưóng Mão (tháng hai) chính là tiết Xuân phân,cho đến tiết Lập hạ, giữa tháng Tị (tháng tư), là lúc Thiếu dương quân hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy sáng sủa, là đức của vua chúa.
Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Tị (tháng tư) chính là tiết Tiểu mãn, cho đến tiết Tiểu thử vào giữa tháng Mùi (tháng sáu) là lúc Thiếu âm tướng hỏa làm chủ khí, tiết trời lúc ấy nóng dữ, là lúc tướng hỏa làm việc.
Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Mùi (tháng sáu) chính là tiết Đại thử, cho đến tiết Bạch lộ vào giữa tháng tám, là Thái âm thấp thổ làm chủ khí, tiết tròi lúc ấy mây, mưa nhiều, Khí ẩm thấp bốc lên.
Từ khi chuôi sao Bấc đẩu chỉ vào hướng Dậu (tháng tám) chính là tiết Thu phân cho đến tiết Lập đông vào giữa tháng mười, là lúc Dương minh táo kim làm chủ khí, tiết trời đến lúc ấy thì vạn vật đều khô ráo.
Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Hợi (tháng mười) chính là tiết Tiểu tuyết cho đến tiết Đại tuyết (vào giữa tháng mưòi hai) là Thái dương hàn thủy làm chủ khí, lúc ấy tiết trời rét quá.
Từ khi chuôi sao Bắc đẩu chỉ vào hướng Sửu (tháng mười hai) chính là tiết Đại hàn cho đến tiết Kinh trập (vào giữa tháng hai) là lúc quyết âm phong mộc làm chủ khí, tiết trời lúc ấy gió nhiều. Ấy là, mỗi một Khí tiết ở trong khoảng hơn 60 ngày, quanh khắp vòng trời, hết rồi lại quay lại.
28. Sách Thái bình quảng ký chép rằng "sách Luận hành nói: Kính Dương Toại để lấy lửa, kính Phương Chư đê lấy nước. Hai thứ kính ấy được chế ra theo hình thể khác nhau. Đúc kính Dương Toại phải chọn giờ ngọ, ngày bính ngọ tháng năm, luyện đá ngũ sắc mà làm hình như cái kính tròn, chiếu vào mặt trời thì lấy được lửa. Đúc kính Phương Chư thì chọn giò tí、nửa đêm ngày nhâm tí tháng 11, luyện đá ngũ sắc làm hình như cái chén đất, chiếu vào mặt trăng thì lấy được nước".
Sách Hoài nam tử nói: Kính Dương Toại chiếu vào mặt trời thì cháy và bốc lửa; kính Phương Chư chiếu vào mặt trăng thì ướt mà chảy nước, Sách ấy có chua nghĩa "Hai thứ kính ấy đều là tinh của đá ngũ sắc". Giữa khoảng trời đất huyền vi hoảng hốt, lấy một thứ vật trong tay đem chiếu lên trên không mà lấy được nước, lấy được lửa, đó là do sự cảm ứng của âm dương vậy.
Rượu là chất do người ta cất ra, thế mà hơi rượu cũng cảm ứng với mặt trời, vì trong đó có lý do. Sách Thái bình quảng ký chép: khi rượu cất được rồi, nước trong ở trên hũ thường chuyển theo phía mặt trời; buổi sáng thì trong ở góc đông; buổi trưa thì trong ở góc nam; khi mặt trời xế về chiều thì trong ỏ góc tây; nửa đêm thì trong ở góc bắc. Còn nước rượu trong luôn cả ngày thì không theo hướng mặt trời.
29. Phùng Triệu Trương làm sách Cẩm nang bí lục, nói: "Nhà làm nghề đánh cá sinh con tất phần nhiều có gân xương cứng rắn, vì trong khi có mang, mẹ rét con cũng rét, mẹ nóng con cũng nóng, đứa hài nhi đã từng trải gió sương, nắng nóng từ lúc còn ỏ trong bào thai. Khi nó đã được sinh ra, da thịt dày dặn, gân xương cứng rắn, tà Khí không nhiễm vào được". Thuyết ấy rất phải, vì khí còn luyện mà bền được, huống chi là tính. Cổ nhân dạy con từ trong thai, cũng là nuôi con thành tính tốt đó.
30. Ngưòi ta lúc ngủ say, hễ gọi thì tỉnh ngay; đó là Khí gọi thần hồn về. Trong lúc chiêm bao, phàm những sự gặp gỡ, nói năng, làm lụng, mừng giận khi tỉnh dậy nhớ hết cả; đó là thần động đến khí. Thần và Khí của người ta thường như thế, thì đủ biết thần và Khí của trời đất từ xưa đến nay vẫn lưu thông, không chỗ nào là không thấy có; cho nên bậc hiền đời xưa có nói rằng: "Thiên tri, địa tri” (trời biết, đất biết) là thế đó.
Lòng ngưòi bao la rộng rãi,trên thông cảm được trời đất, giữa trắc lượng được quỉ thần, dưới xét được muôn vật. Sự huyền diệu của ”tướng” và ”sô'",tản ra Hình Khí, từ chỗ không ra chỗ có, từ chỗ có vào chỗ không, trong khoảng mờ mịt hay sáng tỏ đều là đạo cả. Lòng có ngay thẳng mớí biết được đạo, mới thấy biết được cơ vi; thấy biết được cơ vi mối làm được mọi việc; làm nên được mọi việc mới thông đạt quyền biến. Người ta tạo ra vận mệnh, chứ không phải vận mệnh tạo ra người. Cái lẽ trời với người hợp nhất, chẳng qua như thế.
31. Kinh Dịch nói: “Người nhân thấy Đạo thì gọi nó là nhân; người trí thấy Đạo thì gọi nó là trí. Đạo là những điều hàng ngày nhân dân thường dùng, mằ không biết”.
Âm phù kinh nói: “Của cải và tư cơ của nó, thiên hạ không ai biết, không ai thấy. Người quân tử nắm được nó thì chịu kiên trì trong cảnh cùng khổ; kẻ tiểu nhân nắm được nó thì xem nhẹ mạng trời”.
Ý nghĩa lời nói ấy cũng là một. Cái nghĩa lý sâu xa đối nhất của Lý và Khí đã tóm hết ở trong ấy. Cái hiệu dụng đóng hay mở, quyền cổ vũ tinh vi mà bậc thánh nhân được trời trao cho, bậc thánh nhân lấy đó mà thuận theo đạo trời, làm nên muôn vật (việc) hoàn thành muôn hóa, định muôn dân, khuất phục muôn nước.
32. Chu tử nói: “Co duỗi, đi lại, là khí: Khí của người với của trời đất là cùng liên tiếp với nhau, không đứt quãng. Người ta động lòng thì động đến khí, cùng cảm thông ngay với cái Khí ấy, mà Khí ấy do co duỗi đi lại ấy mà cảm thông. Xem như việc bốc phệ (bói toán) hễ trong lòng nghĩ đến việc gì là vẫn đã có nó, chỉ cần nói động đến cái mình muốn là nó ứng ngay”.
Chu tử lại nói: "Người ta bẩm thụ Khí ngũ hành của trời đất, thì Khí ấy phải qua khắp thân thể người. Nay lấy Can Chi ngũ hành để suy tính số mệnh người, cũng như nhà địa lý (phong thủy) suy chọn phường hưổng của rừng núi, hợp hay là trái, cũng cùng một lẽ”.
Riêng tôi cho rằng, hợp cả hai thuyết ấy mà xem thì Chư tử không những chỉ trọng bốc phệ mà cả đến số mệnh, hình tượng cũng không bỏ qua. Những kẻ hiếu biện thường bác bỏ hai thuyết ấy, nhưng xét ra cũng có quan thiết với Lý, Khí, không nên lơ là.
33. Theo thuyết của nhà địa lý học (phong thủy), những người biện sĩ phần nhiều họ không tin (thuyết Lý Khí), vì họ cho là những vật đã hủ nát biến hóa đi rồi thì không biết gì nũa. Nói cho đúng, người ta với trời đất cùng một nguồn, cùng một mạch với tổ tiên. Sinh Khí của trời đất thường được thông, thì tự nhiên có thể tư nhuận được xương khô; tinh thần của tổ khảo thường được tụ, thì tự nhiên có thể giáng phúc cho con cháu.
Thanh Ô Tử (một nhà phong thủy) nói: “Tinh thần (của tổ tiên) trở về nhà, hài cốt trở về đất", Thế nghĩa là: Khí lành cảm ứng, quỷ thần giáng phúc cho người. Lý ấy rất rõ. Người lại nói: “Có Khí ở trong, (vạn vật) mới phát sinh được, còn Khí ngoài thì làm cho thành hình; trong với ngoài giao hòa nhau thành ra phong thủy (địa lý)".
Xem mấy điều ấy, không còn ngờ gì nữa.
34. Hoành Cừ vốn không tin phong thủy, nhưng người lại nói: "Người phương nam tin dùng thuyết Thanh nang kinh (pho sách phong thủy) còn có thể tin được. Họ thử đất huyệt táng tốt hay xấu, họ dùng chỉ (lụa) ngũ sắc đem chôn xuống đất độ mấy năm, rồi đào lên xem. Hễ đất tốt thì sắc chỉ không phai, đất xấu thì sắc chỉ biến màu hết. Họ lại cũng lấy đồ đựng nước, đem thả cá con vào nuôi, rồi chôn xuông đất vài năm, hễ cá sống thì là đất tốt, cá chết thì là đất xấu".
Cho nên xem cây cỏ tươi hay héo cũng biết được đất tốt hay xấu.
35. Ngày giờ có ngày tốt, ngày xấu; nếu cứ mập mờ mà không kén chọn tất có khi gặp ngày giờ bất lợi; nhưng cũng không sao, vì mình vô tâm. Người đã vô tâm thì không liên quan với quỉ thần. Nếu đã có xem ngày thì phải chọn cho cẩn thận, ngày tốt thì dùng, ngày xấu thì tránh. Nếu đã biết là ngày xấu mà cô ý phạm thì quỉ thần sẽ phạt.
Kinh Dịch nói: Thần đạo không tác động gì, không nghĩ ngợi gì, im lặng không động, có cảm thì mới thông. Việc thiên hạ, nêu không cảm thì sao có ứng. Phép bói bằng cỏ thi hay phép bói bằng mai rùa cũng đều đợi sự vật (việc) có đến thì mới có ứng. Ví như cái gương, không soi thì không thấy gì.
Các phép bói khác cũng thế.
36. Đạo Dịch biến động luôn luôn, không ở một chỗ, đi khắp lục hư (4 phía và trên dưới, hoặc nghĩa khác là 6 hào của quẻ Dịch) lên xuống không thường (không quy luật), cho nên có thể cùng tận được sự mầu nhiệm của lý số. Lý ngụ ở khí, số do ở Lý, lý số ở tâm sinh ra mà tác động đến mọi việc, đó là sự xô đẩy của khí.
Có yên định rồi sau mới lo, lo rồi sau mới được, đó là sự tài thành (làm nên) của khí. Việc đến thì đón lấy để biết ngay từ trước; việc đã qua thì theo dõi để xét về mãi sau; chỉ có đạo Dịch mới thế được. Xưa nay, trị, loạn, thay đổi đều do ở người; những điều người làm đều là những điều trời làm. Khí hòa thì lành, lành thì có điềm hay; Khí trái (gở) thì ác, ác thì có điềm gở”. Hòa hay trái đều có thời đã định mà đến với ta: cho nên đạo Dịch không ngoài một chủ Thời.
Khí có “Cơ” (then máy), nhân ở “Cơ” thấy thời. Khí nào "Cơ” hòa báo trước thì các điều thiện hợp lại làm được các việc thiện, tâm thông, chí đồng, không khó nhọc mà bình trị được. Khi nào "Cơ” trái báo trước, thì mọi điều ác xúm cả lại, làm cho tâm chí chống chọi nhau, mọi việc tơi bời, không phải một người có thể cứu vớt được.
Cho nên, biết Dịch quí ở chỗ biết đạo đầy vơi, tiêu mòn hay nẩy nở, lành hay dữ, hối hay lận, tiến hay thoái, còn hay mất, mà cốt yếu ở chỗ không mất chính nghĩa.
37. Sách Dĩ ngược biên nói: "Về thuật xem sao để đoán số mệnh thì có sổ Tử Bình, số Ngũ tinh và số* Tử vi tiền định. Các sĩ phu thích xem số Tử Bình vì nó ám hợp với lý, nó đoán cho người ta biết số giàu sang, nghèo hèn, phần nhiều được đúng. Nghe như Từ Tử Bình là một ẩn giả, người đời Ngũ quí thường cùng với Ma y đạo giả là Trần Đồ Nam, và Lã Đồng Tân cùng ẩn ở núi Hoa Sơn. Thế thì Tử Bình cũng là một người khác thường vậy.
38. Sách Tử vi đẩu số theo bài tựa của La Luân nói, mới được của Tăng Liễu Nhiên ở núi Hoa Sơn truyền cho. La Luân lại tự xưng là cháu xa đời của Hi Di (Trần Đoàn tức Đồ Nam). Nhưng xét trong sách Hoạch mạn lục của Trương Thuấn Dân, đời Tống, thì Hi Dí chỉ có sách Nhân luân phong giám lưu hành ở đời bấy giờ, là sách mà hậu nhân góp nhặt những lời nói của người làm thành ra; không nói gì đến sách Tử vi đẩu số cả. Những lý số nói trong sách Tử vi đẩu số ấy cũng hẹp hòi, hẳn là hậu nho gán nó cho của Hi Di, không phải là bản thật. Nếu quả là sách Hi Di, thì sao từ Tống đến Nguyên, trong khoảng bốn, năm trăm năm, không truyền ra đời, mà mãi đến đời Minh mới thấy xuất hiện? Những người hiểu biết nên xét kỹ lại.
39. Sách Giáp ất thặng của một nho giả đời Minh nói rằng: “Ở Kinh đô có bản sao sách số Tiền định, bàng lối thơ thất ngôn lòi lẽ quê mùa, giống như kẻ nhắm mắt nói mò ở chỗ chợ búa đời nay. Trong sách đó nói đủ các việc về cha mẹ, vợ con, anh em, sang hèn, ai nghe cũng kinh hãi cho là thần dị, dù các bậc công khanh (quan to trong triều) cũng đều tin phục, cho là Thiệu Nghiêu phu phục sinh! Có biết đâu sách ấy là của một ông thầy bói ở Kinh đô soạn tập để lừa bịp người ta: hắn dò la ngày sinh tháng đẻ và lý lịch của người ta, rồi chép sẵn thành tập, khiến người ta tự tra tìm được sang hèn, thọ yểu, khiến người ta kinh hãi đó thôi!” Nói thế rất đúng, vì trời phú mệnh cho mồi người một khác, lẽ nào chỉ đem năm nào, giờ nào ra mà tham hợp phán đoán rồi lấy một vài câu ca, định dược lành dữ, họa phúc của thiên hạ. Không nói gì văn lý thô bỉ, mà đến cả cách đoán số mệnh cũng chưa thấy ai nói lỗ mỗ như thế bao giờ! Nhưng trong sách nói đến danh lợi được hay mất, tính Khí hoãn hay cấp đường đời hiểm hay bằng, phúc đức hậu hay bạc của người ta, đều là những câu nói đầu lưỡi, người đời không chịu suy xét, cho ngay là thực mà vội quá tin.
40. Sách Thạch lâm yến ngữ nói: 'Tống Thái Tổ khi còn hàn vi, thường vào miếu thờ Cao Tân, thấy trên hương án, có một bộ chén tre xem bói, nhân lấy xuống để bói xem danh vị của mình ngày sau thế nào”. Người đời thường cho là, khi gieo quẻ thấy một cái chén sấp, một cái chén ngửa (tức là xin âm dương), gọi là thanh hào.
Sách Tính lý gia lễ nói, ngày xem bói, phải đốt hương rồi hơ bộ chén ấy vào khói hương, khấn xong gieo quẻ xuống mâm, hễ thấy cái sấp cái ngửa là tốt.
Ngày nay gọi bói thế là xin âm dương cũng vậy.
41. Sách Tựu nhật lục nói, Đào Tiềm có nói: "Trước mặt người ngây (si) không nên nói chuyện mộng; trước mặt người trí thức (đạt lý) không nên nói chuyện mệnh; phàm người ta có bụng càn dở thì bị ngũ hành làm mê hoặc, có bụng thiên tư thì bị quỉ thần kiềm chế". Nhời nói ấy rất đúng. Khi mơ mộng, điều gì trông thấy đều ảo cảnh (hão huyền) chưa hẳn tin cả được; nhưng cũng có khi sự lành sự dữ được báo cho biết trước, linh nghiêm như tiếng vang, một lời chiêm đoán, quỉ thần đã ứng ngay, quan hệ không phải là nhỏ. Nếu đem chuyện mộng nói với người ngây, lỡ họ đoán càn, tất sinh ra việc không hay. Đến như mệnh số là sự huyền diệu, người bậc trung trở xuống vị tất đã hiểu thấu được.
Sách Luận ngữ có nói: Đạo hưng hay suy đều do ở mệnh. Nghiêm Quân Bình xem bói ở chợ đô thị chỉ bảo người ta lấy điều trung hiếu. Người thường không biết sửa mình, chỉ mơ màng vào sự ích lợi mà khổ tâm cầu cạnh, không được thì đổ cho tại số" mệnh mà không xét lại mình; đối với người hiểu biết mà nói, chỉ tổ cho người ta cười.
42. Việc ở trên trời, không tiếng không hơi, nhưng khi giáng lâm rất chói lọi, mệnh lệnh không thường, mà việc lớn việc nhỏ đều định trước cả. Cái thuyết tiền định, cổ nhân đã từng nói. Những điều mà ta thấy trong Kinh, Sử; thì trên từ Vương, Công, dưới đến làng nước (nhân dân), hoặc mộng, hoặc bói, cùng là câu hát của nhi đồng, lúc mới nghe có vẻ như huyền hoặc, nhưng sau đều thấy ứng nghiệm. Ấy là Số nhưng cũng là Lý.
Sách Tả truyện chép, khi vua Thành Vương nhà Chu đóng đô ở đất Giáp Nhục, bói xem nhà Chu sẽ tồn tại được bao lâu, thì bói thấy được 30 đời và 800 năm, thế mà Vương nghiệp nhà Chu được quá lịch số đã định trưóc.
Ý Thị nước Trần bói, được câu ”Hữu vỉ chi hậu, Tương dục vu khương, Ngũ thế kì xương, Tịnh vu chính khanh, Bát thế chi hậu, Mạc chi dữ kinh"; nghĩa là: "Con cháu họ Hữu Vỉ nước Trần sẽ sinh dục ở họ Khương (nước Tề), đến năm đời thì phồn thịnh, đều làm đến chính khanh. Sau tám đời thì không ai đọ được”. Quả nhiên về sau Trần Kinh Trọng chạy sang nước Tề, rồi con cháu thôn tính nước Tề.
Thúc Tôn Trang Thúc nước Lỗ bói xem con trai là Báo sau này ra sao, bói được mấy câu sau này: “Tương hành nhi qui chủ tự, dĩ sàm nhân nhập, kỳ danh viết Ngưu, tốt dĩ trấm tử. Nghĩa là: Sắp đi mà lại quay về chủ việc tế tự, nghe đứa xiểm nịnh, tên gọi là Ngưu, rồi đến chết vì kẻ nói gièm” về sau quả nhiên như thế.
Hoàn công nước Lỗ xem bói thấy đẻ con trai, tên là Hữu phò giúp công thất. Đến khi sinh, trong bàn tay đứa bé quả có chữ Hữu, lớn lên làm đến chính khanh, đời đời cầm vận mệnh nước.
Bà Ấp Khương nhà Chu mới có mang, Thái Thúc nằm mộng thấy Thượng đế bảo rằng: “Ta cho ngươi một đứa con, đặt tên là Ngu sẽ phong cho đất Đường, thuộc về phân dã sao Sâm, con cháu sẽ phồn thịnh”. Đến lúc đẻ ra, tay đứa bé quả có chữ Ngu, rồi vua Thành vương phong làm Đường hầu, đời đời làm minh chủ các nước hoa hạ (Trung Quốc); hoa hạ là các nước có văn hóa ỏ Trung Châu so với Man Di.
Khổng Văn Tử nước Vệ nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình nên lập con là Nguyên (Bấy giờ Nguyên chưa đẻ) rồi ta sẽ sai cháu của Cơ là Khổng Ngữ và Sử Cẩu giúp việc cho. Sử Triều cũng nằm mộng thấy Khang Thúc bảo mình: "Ta sẽ sai con nhà ngươi là cẩu và Khổng Ngữ giúp Nguyên”. Sau người thiếp yêu của Tương công đẻ con đặt tên là Nguyên, nối ngôi, Cẩu và Ngữ đều làm thượng khanh.
Nàng hầu Trịnh Văn công tên là Yến Cật, nằm mộng thấy sứ trời cho một cành lan và bảo rằng “Đó là ta cho mày làm con”Sau nàng ấy đẻ con đặt tên là Lan, tức là Trịnh Mục công, con cháu phồn thịnh.
Có người nước Tào nằm mộng thấy: Một bọn công tử đứng ở cung mới bàn mưu làm mất nước Tào; Tào Thúc, Chấn Đạc bàn xin đợi, Công Tôn Cương bằng lòng đã. Đến khi Tào Bá Dương lên ngôi, Công Tôn Cương là người nước Trịnh làm quan Tư thành cầm quyền chính, bội nước Tào mà thông với nước Tống, nước Tống bèn diệt nước Tào.
Đời Hiến công nước Tấn, trẻ con thường hát rằng: ”Bính chi thìn, long vĩ phục thìn, quân phục chân chân, thủ Quắc chi cân; thuần chi bôn bôn, thiên sách đôn đôn; hỏa cân thành quân, Quắc công kỳ bôn”. Nghĩa là: Sáng ngày Bính Thìn, mặt trời mặt trăng gặp nhau ở phân dã sao Vĩ, cho nên sao Vĩ không hiện; quân đội ăn mặc một màu, trông rất oai vệ, đi lấy cờ cân của nước Quắc. Sao Thuần nhấp nháy sao Thiên Sách tờ mờ, sao Hỏa cân thì nên quân, Quắc công phải bỏ nước chạy, về sau Tấn Hiến công đánh nước Quắc, ngày tháng đúng như lời đồng dao trên đây.
Đời Văn Công nước Lỗ, trẻ con hát rằng: “Cồ dục chi vũ, công tại ngoại dã, vãng quĩ chi mã; cổ dục thù thù, công tại Can hầu, trưng kiến dữ nhu; cồ dục lai sào, viễn tai dao dao, Trù phủ táng lao, Tống phủ dĩ kiêu”. Nghĩa là: “Cánh chim sáo tung bay, Chiêu công ở ngoài đồng, tặng công con ngựa. Chim sáo nhảy nhót, công ở Can hầu, đòi xiêm (quần) cùng áo cánh; chim sáo làm tổ, xa lắc xa lơ. Trù phủ (Chiêu công) nhọc nhằn, Tống phủ (Định công) kiêu căng”. Rồi sau, quả có giống chim sáo đến làm tổ ở nước Lỗ, Chiêu Công (Trù Phủ) bỏ nước chạy, Định Công lên nôi ngôi, đúng như lời trẻ hát.
Cuối đời Chu Định Vương, có người nước Tấn bị yêu giáng, nói: “Chu kỳ hữu tỳ vương, diệc khắc tu kỳ chức chư hầu phục hưởng, nhị tế cung chức vương thất, kỳ hữu gián vương vị, chư hầu bất đồ nhi thụ kỳ loạn tai". Nghĩa là: Nhà Chu có ông vua, sinh ra đã có râu, cũng làm trọn chức vụ, chư hầu đều phục theo hai đời cung chức nhà Chu; có kẻ dòm ngôi vua, chư hầu không nghĩ đến, mà chịu tai loạn. Về sau, quả nhiên vua Linh Vương sinh ra đã có râu, mà chư hầu đều kính mến; con là Cảnh Vương cũng được trọn đời (ứng vào câu nhị thế...). Đến khi Kinh Vương lên ngôi thì Vương Tử Triều quả nhiên tiếm vị (ứng vào câu gián Vương vị) bị đánh bại chạy sang nước Sở.
Sách Sử ký chép: “Mục công nước Tần bị bệnh quyết (bệnh chân tay lạnh buốt) ngủ suốt năm ngày, khi mới tỉnh dậy, nói rằng: Ồng nằm mộng thấy đấng Thượng đế sai ông bình loạn nước Tấn. Rồi sau, quả nhiên ba lần Mục công lập vua cho nước Tấn.
Cuối đời Tuyên Vương nhà Chu, trẻ con hát rằng: ”Yểm hồ, cơ phục, thực vong Chu quốc”. Nghĩa là: Cung làm bằng gỗ dâu trên núi, túi đựng tên làm bằng gỗ cơ, thực làm mất nước nhà Chu. Đến sau quả nhiên có hai người bán hai thứ cung và bao tên ấy, vua sai bắt, thì họ chạy sang đất Bao, nhận nuôi nàng Bao Tự, tiến cho U Vương gây nên cái họa ở Ly Sơn.
Căn cứ nhũng việc kể trên mà nhận định, thì không những số vận lớn của nhà nưóc, hưng hay suy, mà phận mệnh thường của sĩ phu, cùng hay đạt, cũng được dự định ở trong chỗ u minh. Đến cả như họ tên, tướng mạo, đi đứng, động tĩnh cũng đều có định trước, không phải người ta được tự do muốn sao được vậy.
Sách Trung dung nói: "Đạo chi thành có thể biết trước được". Nhà nước sắp thịnh, tất có điềm lành; nhà nước sấp mất, tất có điềm dữ (yêu nghiệt), hiện ra trên quẻ bói thi hay bói rùa (thi qui), động ở chân tay. Họa phúc sắp đến, điềm lành hay không lành tất nhiên biết trước, vì một điểm linh tâm của người, quỉ thần đã cảm thông mà báo cho biết trưóc.
Cuối đời Tây Hán, các thuật sĩ truyền lại các sách Sấm Vĩ, sách ấy đoán nhà Hán sẽ lại phục hưng chép rõ tên vua Quang Vũ. Lại nói: ''Vận mệnh họ Xích Lưu đến đời thứ 9 (từ Hán Cao tổ đến Quang Vũ là 9 đời) lại thụ mệnh ở núi Đại Tông” (Thái Sơn), sách Sấm Vi nói thế thực là rõ rệt. Những người thông thái biết trước xét sau làm ra sách vở để dạy đời sau, vẫn có nhiều điều nói đúng. Duy các vua chúa thì nên giữ gìn lòng thường, đức thường không nên nói những điềm lành và thuật sô để thêm sự ngu hoặc cho dân chúng. Cho nên Lý Nghiệp Hầu nói rằng: "Người thường còn có thể nói về số mệnh trời được; đến như vua chúa và tể tướng thì không nên nói đến”.
Đó chính là Lý.
43. Trong khoảng vũ trụ chỉ có một Lý mà thôi; cái gì người ta thường thấy thì tin, cái gì chưa thấy bao giờ thì ngờ.
Sách Trúc phả của Đái Khải Chi đòi Tấn nói: "Trời đất vô biên, thương sinh vô lượng. Ngưòi ta nghe-thấy cái gì, nhân theo nếp cũ mà làm rồi mới biết”. Nói thế không đúng. Nếu cái gì mà tai không nghe thấy, mắt không trông thấy đều cho là không phải, chẳng hóa ra là ngu xuẩn lắm ru!
Sách Gia huấn của Nhan Chi Thôi đời Tề nói: "Vua Vũ đế không tin có thứ keo có thể nối liền được dây cung; Ngụy Văn hầu không tin rằng lấy lửa giặt được vải, người rợ Hồ thấy gấm mà không tin có thứ sâu ăn lá cây nhả ra tơ, tơ ấy dệt thành gấm. Xưa kia ở đất Giang Nam, người ta không tin có thứ màn bằng chiên có thể để cho hàng nghìn ngưòi nầm vừa; đến khi tới Hà Bắc lại không tin có thứ thuyền chở được hai vạn thạch (hộc).
Đó là chứng cớ rõ ràng.
Lấy thuyết ấy mà suy, ta có thể biết rằng sự vật không thể biết hết được. Trên từ bầu trời, dưới đến bờ cõi, có hình có tượng, quái lạ muôn vẻ, lấy ý mà lường thì uổng phí tinh thần, lấy lời nói mà biện bạch thì thêm điều miệng lưỡi đến chỗ thực tế thì không ăn thua gì cả.
Cho nên cái học của người quân tử chỉ noi theo lẽ thưòng mà thôi.
44. Người đời xưa bảo: ở biển Nam, Bắc, Đông, Tây có thánh nhân ra đời, bụng ai cũng nghĩ như nhau, cũng lý luận như nhau. Quốc vương nước Hồi Hồi là Mặc Đức Na dựng nước vào đời Khai hoàng nhà Tùy, có làm ra một pho sách dạy làm lịch và xem thiên văn. Người các nước Âu La Ba (Europe) ở Tây dương như Lợi Mã Đậu (tên giáo sĩ Mateo Ricci) Nam Hoài Nhân (giáo sĩ Ferdinandus Verbiest) và Ngải Nho Lược (Guiles Aleni) có sang Trung Quốc vào đời Vạn Lịch nhà Minh. Họ đàm luận về trời đất một cách sâu sắc mới lạ vô cùng, lý luận chính trị và lịch pháp của họ cũng có nhiều điều mà tiền nho ta chưa tìm ra nói ra được. Tuy tiếng nói và chữ nghĩa của hai bên không thông hiểu nhau, nhưng nghĩa lý uẩn súc ở trong tâm thân, tài thức đầy đủ về học hỏi, thì không khác gì với Trung Quốc.
45. Học thuyết của tiên gia, chuyên nói về luyện Hình; học thuyết của Phật gia, chuyên nói về luyện Thần. Hình với Thần đều nhờ có Khí mới đứng vững được: Khí tụ thì đạo mới thành, Khí tán thì đạo không thành. Lấy mặt trời, mặt trăng làm thí dụ: Tiên gia thì như chất của nó, Phật gia thì như bóng của nó, chất đi ở trên không, hạn là có; bóng tan ở trong nước, hẳn là vẫn còn.
46. Trương Trạm đời Tấn, làm bài tựa sách Liệt tử có nói: “Đại lược sách ấy nói rõ mọi tồn tại (hữu) đều lấy chỗ rất hư không làm chủ; mọi phẩm vật đều lấy chỗ tiêu diệt hết làm thể nghiệm; thần tuệ thì lấy ngưng tịch mà thường toàn, tưởng niệm thì lấy chấp nê vào vật mà tự nhiên hỏng mất; còn những tri giác và hóa mộng thì ý nghĩa cùng tham bác với kinh Phật”.
Thật đúng như vậy. Xem trong Liệt tử có chép chuyện Lâm Loại đáp Tử Cống rằng: “Cái chết với cái sống một đàng đi một đàng về; chết ở nơi này, biết đâu chẳng sinh ra ở nơi kia”. Vậy thuyết luân hồi đã có từ trước đời Hán, chứ không phải mới thấy trong kinh Phật (Trúc điển). Thánh nhân (Khổng Tử) không nói đến việc thần quái, ngài lại nói: "Chưa biết sự sống, sao biết sự chết?”. Vậy những thuyết về loại sống, chết ấy hãy cứ để đó mà không bàn đến cũng được.
47. Kinh Phật có thuyết Luân hồi mà nhà Nho thường không tin; nhưng xưa nay những sự mà người ta tai nghe mắt thấy, ghi chép cũng nhiều, thì không kể hết được, thực ra không phải không có lý ấy. Khổng Tử nói: “Đức quỉ thần rất thịnh, trông không thấy, lắng cũng không nghe, mà rờn rợn như ở trên, như ở bên tả bên hữu". Thuyết âm ti địa giới tựa như hoang đường, nhưng tóm lại là do ở sự huyền bí của tạo hóa sự chia cách giữa âm dương làm cho người ta không trông thấy, không nghe thấy đó mà thôi. Lúc tế lễ, quỉ thần giáng lâm, thể phách tuy tán đi, nhưng thần thức vẫn còn tụ lại. Những chuyện bẩm thụ hình thể, đầu thai làm người, nói trong kinh Phật, cũng là thần thức đó thôi.
Tinh mặt trời, mặt trăng giáng xuống thành nước lửa, khí nước lửa bốc lên thành sấm gió, diệu dụng biến hóa của trời, đất, đi đi lại lại không lường được, huống chi là người ta.
48. Bộ sách Tả truyện chép nhiều việc thần quái, như là Cung Thái Tử nước Cung thác vào lời đồng bóng quở phạt Huệ công, tức là thuyết “Thiên Tào phán sự". Trung Hằng Yên nằm mộng thấy kiện nhau với Lệ Công tức là thuyết "Địa ngục câu đối”. Tề hầu nằm mộng thấy con lợn to, Tấn hầu nằm mộng thấy con là ác quỉ, cùng với việc Lương Tiêu và Hồn Lương Phu làm ma về quấy, tức là thuyết "Oan quỉ đến báo thù”. Tử Dư đem mộng ra nói để bảo tồn cho Hàn Quyết. Một ông lão nhờ Ngụy Khỏa gả chồng fho con gái mình mà kết cỏ đền ơn đó là Khí với mạch của hai ngưòi cùng cảm thông với nhau. Vệ hầu nằm mộng thấy Khang Thúc cho biết Đế Tướng cướp mất sự hưởng tự, Tấn hầu nằm mộng thấy ông Cổn nhà Hạ (Bố ông Hạ Vũ) hóa làm con gấu vàng vào cửa phòng ngủ. Thế thì những người tiên viễn (tiền bố rất xa xưa) cũng còn để lại có bóng cái vang. Những việc cũ đời Chu, nay còn khảo sát được cả.
Trong khoảng vũ trụ, âm dương, tối sáng, tuy khác đường, nhưng tình vẫn là một, lẽ ấy thực có.
49. Kinh Dịch nói: Tinh Khí là vạch, Du Hồn là biến, thế cho nên biết được tình trạng của quỉ thần. Nghĩa chữ “quỉ” là khuất (co lại), nghĩa chữ “thần” là thân (duỗi ra). Co mà hay duỗi, vì thế thiêng liêng mà làm thần. Cho nên Lão Tử nói: ''Lấy đạo mà trị thiên hạ, quỉ sẽ không thiêng là nói âm với dương, tối với sáng, đều có định vị, không xâm lấn nhau".
50. Thánh nhân biết rộng, không gì là không xét rõ. Xem như sách Khổng Tử gia ngữ chép những chuyện sau này:
Tiết chuyện xa là biết được bộ xương chở đầy xe (Chuyện này thuật trong chương Biện Vạt: Lúc Ngô Phù Sai đem quân đánh nước Việt, phá núi Cối Kê, gặp một bộ xương phải chở đầy một cỗ xe mới hết. Phù Sai lấy làm lạ bèn đem hỏi Khổng Tử thì được biết đó là xương của Phòng Phong. Nguyên do là khi vua Hạ Vũ hội quần thần ở Cối Kê, Phòng Phong đến muộn nên bị chém).
Đạo khổ thỉ là nói được điển tích cái tên làm bằng gỗ khổ (Chuyện về chim duẩn - một loài cắt, ưng – đến đậu ở sân nhà Trần hầu thì chết do mũi tên gỗ khổ cắm xuyên mình. Người nhà Trần hầu hỏi Khổng Tử thì được biết đó là loại tên của Túc Thận đem cống cho Vũ vương).
Biện Quì Võng Phần Dương là biết được cái tên quái vật là Quì Võng và Phần Dương (Chuyện là, Quý Tương đào giếng nhặt được vật lạ, đem hỏi Khổng Tử thì biết đó là giống quái Mộc Thạch gọi là Quỷ Võng và thổ quái gọi là Phần Dương).
Khổng Tử không phải là không nói những sự kỳ quái, nhưng ngày thường không muốn nói đến, là không muốn làm học giả mê hoặc. Thật ra có phải những chuyện ấy cho là không có đâu.
Đáng khen Quách Phác khi làm tựa sách Sơn hải kinh có nói; ''Giữa khoảng vũ trụ mênh mông, quần sinh đầy dẫy, âm dương hun bốc, vạn vật phân biệt, tinh khí hỗn độn phun xát lẫn nhau, du hồn, linh quái xúc động mà thành tượng, lưu hình ở núi sông, để dạng ở gỗ đá, không kể xiết được”. Bài tựa ấy lại nói: “Vật gì cũng vậy, tự nó không lạ, đợi người nói đến mới hóa ra lạ; vậy cái lạ là tự ta, chứ không tự vật; vì cái gì thấy luôn thì tin, còn cái gì ít khi nghe thấy, nói đến thì cho là lạ. Đó là cái mà thường tình thường bị che lấp”. Lời nói ấy là lời bàn xác đáng cho nghìn đời.
51. Trình tử nói: "Ngày xưa xem bói là để quyết sự nghi ngờ, đời sau thì không thế: họ xem bói chỉ cốt cho biết bệnh của mình sẽ cùng hay thông, thân của mình có đạt hay không mà thôi". Riêng tôi nghĩ rằng thánh nhân đặt ra bói toán, cốt để cho người ta quyết hiềm nghi, định do dự chứ không phải để dạy người ta cầu cạnh lợi đạt. Cho nên thánh nhân đặt ra kinh Dịch, không phải để cho kẻ tiểu nhân mưu lợi. Nhưng, cũng có khi, nghi ngờ điều gì muốn hỏi quỉ thần, như Tất Vạn bói việc làm quan ở nước Tấn. Trùng Nhĩ bói việc ở ngoài về nước, tuy vì mình, nhưng không hại gì chính nghĩa.
52. Làm nhà cửa kỵ phương hướng Thái Tuế. Tông Thái Tổ nói: “Phía tây cửa đông gia tức là phía đông cửa tây gia, thế thì sao Thái tuế ở chỗ nào?” Nói thế là không phải. Thần trong một năm là một Khí thiêng; Khí thì đi trên trời, chứ không phải ở dưới đất. Cứ theo thuyết của Tống Thái Tổ thì gọi phía tây có lẽ đến tận Tây Hải mới thôi. Thế thì ngoài Tây Hải lại còn có đất nước nữa, lại phải lấy đấy làm phía đông. Làng nước dân cư đều có giới hạn: có đông, tây, nam, bắc của cả thiên hạ, có đông, tây, nam, bắc của cả một nhà.
Việc tu tạo nhà cửa, vô tâm thì thôi; nếu đã xem phương hướng, mà thấy mình phạm thần sát, hay là ngưòi ta nói phạm hướng thần sát, mà cứ làm bừa đi thế là bất kính, sao gặp được sự hay?
53. Lưu Khang Công nói: “Nhân dân được Khí trung hòa của trời đất mà sinh ra, thế gọi là mệnh; cho nên có những phép tắc về động tác, uy nghi để an định mệnh trời”. Kinh Dịch nói: "Cùng lẽ hết tính rồi đến mệnh, chữ mệnh ấy tức là Giáng trung (trời phú cho sự lành), cũng gọi là bỉnh gi (giữ đạo thường) và là minh đức (đức sáng). Còn đời sau nói đến chữ Mệnh thì họ chỉ nghĩ đến sự cùng hay đạt, được hay mất, vinh hay nhục mà thôi.
Cổ nhân xem bói, không những chỉ dùng cỏ thi. Sách Ly tao (của Khuất Nguyên nước Sở) có câu rằng: ”Sách quỳnh mao dĩ đình chuyên hề mệnh Linh Phân vi dư chiêm”… Nghĩa là: Tìm cỏ quỳnh mao để xem bói cỏ tre, sai ngươi Linh Phân bói cho ta xem.,, Sách chua: “Linh Phân là tên một thầy bói hay thời bấy giờ. Đình là tre chẻ nhỏ. Ngưòi nưỏc Sở hay kết cỏ, chẻ tre, để xem bói; gọi là chuyện”.
Nghiệm sự đã qua, xét sự sắp tới, trong đó có thần linh thông giải; đừng tưởng một thứ cỏ nhỏ nhặt là không quan hệ gì!
Kinh Phòng lấy tiền gieo quẻ, chia ra âm dương, để lấy "thế, ứng" đời sau bắt chước. Còn ỏ những nơi phương xa, tục lạ lại có cách bói ngói (gõ vào đồ gốm, sành để nghe tiếng kêu mà bói điều lành dữ - ngõa bốc), bói gà, bói quạ, bói nghe tiếng ngưòi nói (Hưởng bốc – nghe âm vang tiếng người nói đêm 30 Tết để xem điềm) cũng đều biết trước được sự lành dữ; vì rằng không có cái gì là không có lý ở trong cả.
1. Về thuyết “Trời xoay về bên tả, mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh (năm sao Thổ, Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) chuyển về bên hữu, xưa nay cãi lộn nhau đã nhiều. Nhưng theo câu trong kinh Dịch: "Trời đất thuận chiều mà chuyển động, cho nên mặt trời, mặt trăng đi không quá độ, bốn mùa không sai” ta cho rằng cứ lấy câu ấy mà đoán cùng đủ.
Ở trên mặt đất mà xem, ta chỉ thấy thất diệu (Nhật nguyệt và ngũ tinh) đi về phía tả, chứ có thấy chuyển về phía hữu đâu? Bây giờ trở ngược lại mà suy đoán, cho hợp với trời, thì không chỗ nào không có thể bảo là thuận động.
2. Sách Chu lễ nói, họ Bảo chương lấy đất thuộc các phận sao mà phân biệt đất chín châu; mỗi khu vực phong cho chư hầu đều có địa phận từng sao để xem điềm lành dữ; nhưng sách ấy không còn truyền lại. Ban Cố đời Hán theo lịch Tam thống (phép làm lịch trong sách Tam Thống lịch phả của Lưu Hâm từ thời Thái Sơ -104BC - nhà Hán) lấy 12 triền thứ (trạm nghỉ, cung độ) phối hợp với 12 phân dã các vì sao. Trần Trác là quan thái sử nước Ngụy lại nói rõ: quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn Vũ to như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở Trung Châu đương hết được không?
3. Sao Giốc, sao Trương, sao Cang chiếm ít độ thì phân dã hẹp. Sao Đẩu, sao Ngưu, sao Cơ, sao Tỉnh chiếm nhiều độ thì phân dã rộng. Đó là lẽ tất nhiên. Đến như Tây Vực, Bắc Minh không biết đến đâu cùng tận. Ngoài phía đông nam Minh Hải, Bột Hải còn có nhiều đất nước cách Trung châu đến mấy vạn dặm, sao không ứng vào một vì sao nào trên trời?
Cho nên, Nhan Chi Thôi nói rằng: “Lúc mới thành lập trời đất đã có tinh tú; lúc đó chưa vạch ra chín châu, chưa chia ra các nước, cất đặt ra cương giới, khu dã, có chỗ gọi là triền thứ của các sao. Từ đời Phong kiến (nghĩa cổ từ thời Hạ Thương Chu lấy đất mà phong tước Công, Hầu được 100 dặm, tước Bá được 70 dặm, tước Tử, Nam được 50 dặm) về sau, mới có qui chế cắt đặt (đến đời Tần thì đặt ra quận huyện). Số các nước có tăng có giảm, nhưng các vì tinh tú không hơn không kém. Còn sự ứng hiện của điềm lành dữ, họa hay phúc, nếu như không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế, phân dã từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung quôc mà thôi? Sao Mã là sao Mao đầu (nghĩa đen là kẻ tiên phong) triền thứ của nó là nước Hung Nô. Còn các nước Tây vực, Đông Di, Điêu Đề, Giao Chỉ, thì sao lại bị bỏ rơi, không nói đến?
Cứ thế mà suy xét tìm tòi, không bao giờ xong được.
Nhà sư Nhất Hành nói rằng: “Sông núi trong thiên hạ, ỏ về phía Nam phía Bắc còn thấy mênh mông. Nay xem như Bắc Định thì thuộc vào phân dã sao Mão, Triều Tiên thì thuộc vào phân dã sao Cơ, Giao Chỉ thì thuộc vào phân dã sao Chẩn sao Quỉ, còn các bộ lạc ngoài ải xa thì tùy chỗ tính tú gặp nhau". Nói thế cũng là phỏng theo thuyết cũ mà thôi.
4. Nhà Thành Chu trước đóng đô đất Mân, đất Kỳ, sau đóng ở đất Phong, đất Cảo. Địa phận nước Tần, sau này là đất của nhà Chu. Bấy giờ nhà Chu chia đất, phong cho 18 nước chư hầu: các nước Tống, Tề, Tấn, Vệ, Hàn, Yên đều là các nước lớn cũ; các nước Tần, Trịnh đều là nước lớn mới; Ngô, Sở, Việt, Vệ, Thục đều là nươc nhỏ cũ, sau này mới lớn lên. Còn nước Triệu là một quan khanh nước Tấn, sau mới được phong, mới lấy tên họ đặt làm tên nước Tạo Phủ, nước Triệu, khi mới lập ấp ở thành chẳng qua là một nước phụ dung (phụ thuộc, do nước nhỏ, diện tích < 50 dặm vuông) mà thôi. Hai ông họ Cam, họ Thạch làm Tinh kinh (Sách xem các vì sao), trong đó có nói: “Trên Thiên Viên có các vì sao ứng vào địa phận nhà Chu và các nước Tần, Trịnh, Việt, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề, Yên, Vệ, Thục, Ba, Lương, Sở; nước nào thấy phân dã sao có sự biến động xâm phạm thì nước ấy có sự không lành". Không biết nói thế có đúng không?
5. Trước thời Xuân Thu, các nước lớn nhỏ lẫn lộn; vua nhà Chu đóng đô hai nơi; vậy thì sách của Tinh quan (quan coi thiên văn) căn cứ vào đâu mà xem?
Theo ý riêng ta: lúc bấy giờ, họ Bảo chương lấy tinh thổ (đất thuộc các phân dã sao) chia rõ phong vực chín châu; mỗi châu đều có tinh phận nhất định, có sách ghi chép. Sách ấy nay bị mất rồi. Nhưng, cổ nhân xem Khí hậu đã có phép hay, cho nên Sĩ Văn Bá thưa với Tấn Hầu rằng: "Sáu vật (Tuế, thời, nhật, nguyệt, tinh, thần) không giống nhau; nhân dân mỗi người một dạ; thứ tự việc làm không cùng một loại; chức vụ các quan không phải có một qui tắc; trước thì giống nhau rồi sau khác hẳn, sao có bình thường được”. Vòng trời 365 độ với 1/4 độ, chia làm 12 vi thứ, dưới ứng với chín châu; muôn nghiệm lành dữ thì phải xem chỗ đất "thượng đức" và “thừa vượng" mà tiên vương đã đóng đô.
Các nước chư hầu đã được nhà Chu phong cho, lúc mới nhận chức và tên họ, dựa vào độ số, hành trình của năm vì sao Ngũ Vĩ (năm đường ngang mà ngũ tinh hành vận) mà suy tìm so đọ để làm cho cõi đất hợp với vị thứ các sao trên trời.
Xem các sách Tả truyện và Quốc ngữ (2 cuốn của Tả Khâu Minh đời Xuân Thu) ta sẽ biết được đại lược việc nói trên. Như nói: ''Vua Nghiêu dời Át bá ra đất Thương Khâu, chủ vể sao Thần. Người nhà Thương nhân đó mà theo, cho nên Thần là sao thuộc vê đất Thương. Đổi Thực Trầm ra đất Đại Hạ, chủ về sao Sâm (thuộc phân dã sao Sâm). Người nhà Đường nhân đó mà theo, cho nên Sâm là sao thuộc về nước Tấn.
Các sách lại nói: Vị thứ sao Đại Thần (ba sao Phòng, Tâm, Vĩ) thuộc nước Tống, sao Thái hiệu thuộc nước Trần, sao Chúc Dung thuộc nước Trịnh, đều là Hỏa Phòng, Vị thứ của sao Chuyên Húc ở nước Vệ, tinh của sao này là hư không, vì nó vượng về thủy".
Cũng các sách ấy lại cho biết: chức hỏa chính đời Đào Đường, là Át Bá, ở đất Thương Khâu, giữ việc thờ thần Đại hỏa, mà lấy đức hỏa chép tuế thời; ông Tướng thổ, nhân đó mà theo, cho nên nhà Thương lấy Đại hỏa làm chủ.
Lại cho biết: Tuê vận ở tinh Kỷ (tên tinh thứ ngang với sao Nam đẩu, sao Khiên Ngưu va sao Tú Nữ) mà đi trái đường vào vị thứ Huyền Hiệu, là tinh phận của nước Tống, nước Trịnh, thì đất sẽ bị nạn đói. Lại nói: Tuế tinh năm nào bỏ vị thứ mà trọ ở vị thứ năm sau, phạm vào triền thứ Điểu nô, là điềm không hay cho nhà Chu và nước Sở. Lại nói rằng: "Họ Chuyên Húc nước Trần, mà tuế tinh là Thần hỏa, thì mất nước; Tuế tinh ở vị thứ Tích mộc, thì có cơ Phục hưng. Mặt trời chiếu vào vị thứ sao Thuần hỏa thì nước Trần sẽ mất, mặt trời ra khỏi vị thứ sao Vụ, sao Nữ thì vua Tấn sắp chết; Tuế tinh ở Đai Lương thì nước Thái phục lại, nước Sở mắc nạn. Vua Vũ Vương đánh được nhà Thương vì tuế tinh ở Thuần hỏa; Văn công nước Tấn lấy lại được nước là vi tuế tinh ở vị thứ Thực trầm”.
Tất cả mọi việc kể trên đều ứng với thiên tượng cả, có phải như đời sau xuyên tạc nói dựa đâu?
6. Năm thứ ba, đời vua Nhị thế nhà Tần, (207 BC), năm sao Ngũ hành tụ họp ở vị thứ sao Đông Tỉnh, quay lưng về phía Nam đẩu, Có người nhận xét rằng: Đông Tỉnh ở về phận dã nước Tần tức là phận dã Mùi, sao Nam đẩu ở về phận dã nước Việt tức là phận dã Sửu. Sửu xung khắc với Mùi; Tần mất vượng khí, thì Việt được Bá khí; cho nên Triệu úy Đà ứng vào thiên tượng ấy mà làm nổi lên (Triệu Đà làm quan Úy nhà Tần, sau khi chiếm nước Nam Việt, thấy nhà Tần mất liền xưng là Nam Việt Vũ Vương).
7. Các nhà làm lịch xưa nay, đều có căn cứ cả: lịch Thái sơ (lịch do Đặng Bình làm, còn gọi là Luật Lịch, làm năm Thái sơ nhà Hán, 104 BC) căn cứ vào âm luật (âm nhạc); lịch Đại diễn (tăng Nhất Hành, đời Đường, làm) căn cứ vào phép bói bằng cỏ thi; lịch Thụ thời (do Hứa Hành và Quách Thủ Kính làm thời Hán Nguyên đế) căn cứ vào bóng mặt trời.
Mỗi nhà trên này chủ trương một thuyết riêng; nhưng, tóm lại, thì lịch Thụ thời hơn cả, vì tượng có trước số, số ở sau tượng; tham khảo âm luật và bói thi (chung luật, thi sách) để nghiệm tượng trời thì được, nhưng khảo sát thiên tượng để phối hợp vối âm luật và phép bói bằng cỏ thi thì không khỏi khiên cưỡng. Quĩ ảnh, lấy cọc đánh dấu, đo bóng mặt trời là thiên tượng rõ ràng nhất; dựa vào đó, lượng đo kỹ càng, để lấy Khí trung bình của trời, không nương tựa xê xích vào đâu, thế mới đúng với độ trời.
Thuyết trung tinh cơ hành (sao nào đi đến giữa trời gọi là trung tinh, còn cơ hành là 2 dụng cụ làm bằng ngọc của vua Thuấn để đo lường thiên tượng) trong Ngu thư (năm chương trong Kinh thư chép về đời Ngu, từ chương Nghiêu điển đến chương Ích Tắc) cũng suy tính dựa theo bóng mặt trời.
8. Các nhà làm lịch đều lấy nửa đêm ngày Giáp Tí, mồng một tháng Tý (Một, 11) là tiết Đông Chí làm đầu lịch. Thiệu Khang Tiết lấy ngày Giáp, tháng Tý, sao Giáp, giờ Thân làm số Nguyên hội vận thế; không kể gì ngày sóc hư và tháng nhuận, mà lấy 360 ngày làm một năm, thế là nói có chỗ căn cứ.
Hoài nam tử nói: “Mỗi luật có 5 tiếng, 12 luật là 60 tiếng, lại nhân với 6, thành 360 tiếng để đương đốì vói số ngày trong một năm”. Phép làm lịch của người Tây Dương (Âu châu) cũng lấy số 360 làm độ chu thiên, có 96 khắc làm một ngày, khiến cho mỗi giờ đều tám khắc, không có số lẻ, để tiện suy tính; phép ấy rất là giản tắt.
9. Thuyết Thanh đạo Xích đạo xuất xứ ở sách Vĩ thư Dịch kê lãm đồ (sách nói về thiên văn lịch toán, quái khí kinh Dịch và phép suy bộ mặt trời, sau tăng Nhất Hành dựa vào đó mà làm lịch). Thuyết Địa hữu tứ du xuất xứ ở sách Vĩ thư khảo linh diệu (tên một bộ sách về địa học. Sách này nói đất có tứ du thường động mà ngưới ta không biết. Nhưng sách Nhĩ nhã, chuyên nói vê thiên vẳn lại chép; ngoài nhị thập bát tú, lại có trên dưới, đông, tây mỗi phương 15.000 dặm, gọi là tứ du).
10. Trong thiên Qui tâm, Nhan Chi Thôi nói ràng: "Trời là tinh khí, mặt trời là tinh của Dương khí, mặt trăng là tinh của Âm khí, các vì sao là tinh của muôn vật. Cái mà nho gia hiểu được: mảnh ngôi sao rơi xuống là đá rơi xuống đó. Một vật ở xa và to mà người ta không đo lường được, không gì bằng trời. Sao sa xuống, nếu là đá thì không có sáng, chỉ có chất nặng, bấu víu vào đâu? Đường kính một vị sao, to đến trăm dặm; một chùm sao, đầu đuôi cách nhau đến vài vạn trăm dặm; mấy vạn ngôi sao chi chít với nhau, rộng hẹp dọc chếch thường không co nở. Vả lại, mặt trời, mặt trăng với các ngôi sao cũng một sắc sáng, chỉ có lớn nhỏ khác nhau mà thôi, thế thì mặt trời, mặt trăng cũng là đá ư? Đá đã rắn chắc, thì Kim Ô, Ngọc Thố (quan niệm xưa trên mặt trời có Quạ vàng, trên mặt trăng có Thỏ ngọc) ở vào đâu? Đá ở trong không khí, tự nó vận động sao được.
Ta thì cho rằng: sao ở trên có sáng, cái sáng đó là khí; khi vừa sa xuống bị gió lạnh buốt ở lưng chừng trời táp vào mối đọng lại thành đá, chứ không phải sẵn là đá ở trên trời rồi.
Mặt trời, mặt trăng cũng là tinh Khí tích lại mà có sáng, và to lớn đó thôi. Sao là tinh Khí của vạn vật, cho nên sa xuống hóa ra đá. Mặt trời là hỏa tinh thái dương, mặt trăng là thủy tinh thái âm; không thể viện lệ ấy mà cho cũng là đá được. Đến như phép đo lường vòng tròn, đường kính rộng hẹp của các vì sao, thì trong sách lịch tây dương nói rất tinh tưòng.
Nhan Chi Thôi lại nói: "Mặt trời, mặt trăng, các sao, đều là khí; Khí thể nhẹ mà nổi, nên liền với trời, đi lại, xoay chuyển không hề sai lẫn, mà sự mau chậm cũng phải nhất luật. Cớ sao mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, nhị thập bát tú, đều có độ số, di chuyển không đều, lẽ nào Khí sa xuống lại hóa đá”.
Ta xét Hách Manh đời Hán có nói: “Trời không có chất; ngửa lên mà trông, chỉ thấy cao rộng không cùng cực. Mặt trời, mặt trăng, và các vì sao, tự nhiên quây quần ở trong khoảng hư không; lúc đi lúc đứng đều nhờ có Khí cả; cho nên thất diệu lúc ẩn lúc hiện không thường, lúc tiến lúc lui không giống nhau; vì không bám bíu vào đâu cho nên thế. Cho nên chỗ không có sao, Thần Cực ở yên một chỗ, mà sao Bắc đẩu không cùng với các sao khác lăn về phía Tây. Các vì sao Nhiếp Đề (chỗ cạnh Đế đình có 3 ngôi sao như cái chân vạc), Trấn Tinh (sao Thổ) đều đi về phía Đông, mỗi ngày đi một độ, một tháng đi 30 độ, Vậy xem thế đủ biết các sao không bấu bíu vào đâu". Cát Trĩ Xuyên (Cát Hồng) nghe nói thế, chê rằng: "Nêu tinh tú không bấu víu vào trời thì trời vô dụng”.
11. Người học về thuyết Hồn Thiên (thuyết này nói hình trời như quả trứng gà, đất là lòng đỏ, trời bọc ngoài đất) lại cho rằng Tam viên (ba chòm Tử vi, Thái vi, Thiên thị) và nhị thập bát tú, cùng với trời chuyển vận nhất định, không di dịch; đó là Kinh tinh (Sao ở kinh tuyến không thay đổi vị trí); còn mặt trời, mặt trăng, năm sao Ngũ hành, cùng vận hành với các sao khác, không có chỗ nhất định; đó là Vĩ tinh (sao ở vĩ tuyến). Kinh với Vĩ lẫn lộn hiện ra thiên văn.
Các đời đều theo thuyết ấy.
Gần đây có người Tây Dương vào Trung Quốc, tinh về thuật trắc nghiệm (đo lường trời), có nói rằng: “Trời có 9 tầng: tầng cao nhất là Tôn động thiên, không có sao gì cả; mỗi một ngày, đem các tầng trời từ Đông sang Tây, quay về bên tả một vòng. Tầng thứ hai là Liệt tú thiên. Tầng thứ ba là Trấn tinh thiên (Thổ tinh). Tầng thứ tư là Tuế tinh thiên (Mộc tinh). Tầng thứ năm là Huỳnh hoặc thiên (Hỏa tinh). Tầng thứ sáu là Thái dương thiên. Tầng thứ bảy là Kim tinh thiên. Tầng thứ tám là Thủy tinh thiên. Tầng thứ chín, tầng thấp nhất, là Thái âm thiên.
Tám tầng trời, từ Trấn tinh thiên trỏ xuống, đều theo Tôn động thiên quay về phía tả. Nhưng, mỗi một tầng trời đều có độ xoay sang hữu, tự Tây sang Đông. Thuyết này cũng giống như thuyết Chu Bễ, lấy con kiến đi trên bàn xoay đá mài làm thí dụ.
Mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh, đều có một tầng trời; những tầng ấy đều không giống với đất, cho nên cách đất cao thấp không thông nhất; cái số cao nhất, thấp nhất đểu phải lấy đường bán kính của đất làm chuẩn đích.
Thuyết này cùng giống với câu nói trong Sở từ: "Vòng tròn có chín tầng trời”.
12. Bọn Nam Hoài Nhân (Ferdinandus - Verbiest), người Tây Dương làm sách Khôn dư đồ thuyết, có nói: “Đất với biển vốn là hình tròn, hợp lại làm một quả cầu ở trong thiên cầu; thực như quả trứng gà, lòng đỏ ở trong lòng trắng; trời đã bao bọc đất thì trời với đất cùng nhau hưởng ứng”.
Sách ấy lại nói: ''Người đời bảo trời tròn bao bọc lấy đất vuông, đó là lấy nghĩa động tĩnh lý vuông tròn mà nói, chứ không phải nói hình. Họ còn đem độ số Đông, Tây, Nam, Bắc để chứng minh cái nghĩa đất tròn rất là rành mạch. Các nhà khảo về hình tượng đều bảo thuyết đó không ra ngoài thuyết Hồn Thiên của người Trung Quốc xưa.
Lại bài Thiên đạo luận của Nhân Loan, đời Hậu Chu, trong Hoằng minh tập, có nói: “Đạo gia thường nói trời tròn đất vuông; nay đem bốn góc cùng phương hướng so sánh, thì thấy trời đất đều tròn”. Thế thì cái thuyết trời đất cùng tròn, cổ nhân cũng đã có vậy. Hai quyển Đồ thuyết dịch ra chữ hán. Trong sách ấy có nói về thổ địa, sản vật, phong tục, nhân vật, khí dụng và chế độ các nước, nhiều sự quái gỏ lạ lùng, không sao biết được. Còn như bàn đến núi non, triều tịch (nước thủy triều lên xuống), sông biển, gió mây, sấm chớp, thì đều rất đúng; vì các nước ấy ở gần biển, tập quen đường biển, căn cứ vào sự biết thực, thấy thực mà suy lượng hình tượng, chứ không phải ức đoán vu vơ! Nay sách Thuyết linh (của Ngô Chấn Phương, Uông Uyển, đời nhà Thanh) cũng có chép, nhưng mười phần không còn một phần; mà sự lựa chọn cũng sai lầm nhiều lắm.
13. Trong thiên Thiên viên của sách Đại Đới lễ ký (của Đới Đức, đời Hán) có chép việc Đan Cư Ly hỏi Tăng tử rằng: "Có thực trời tròn mà đất vuông không? Tăng tử đáp: “Trời sinh ở đầu trên, đất sinh ở đầu dưới (chua: ngưòi ta đầu tròn mà chân vuông, nhân đó mà hệ thuộc trời đất). Đầu trên gọi là tròn, đầu dưới gọi là vuông; như thực trời tròn, đất vuông thì thành ra bốn góc không được che kín à? Ta nghe đức Khổng Tử có nói: ”Đạo trời tròn, đạo đất vuông (chua thêm: đó là đạo vuông tròn, chứ không phải nói hình tượng vuông tròn)".
Ta nhận thấy Khổng Tử tuy không nói rõ hình đất tròn, nhưng xem một câu nói: ‘Tứ giác chi bất yểm (bốn góc không che kín)” thì đã biết được đại ý. Vậy, lời bàn về đất tròn của người Tây Dương thật không phải là mới lạ.
14. Sách Ngọc ghi chép: “Độ mỗi nhất vạn1” và chua rằng: chia một độ làm vạn phần. Xét sách Quảng nhã (của Trương Ấp đời Ngụy) mỗi độ là 2.932 dặm, nhị thập bát tú cách nhau tích lại được 1,700.923 dặm, đường kính là 356,970 dặm. Nhưng sách Thì hậu thần khu lại nói: "Nhị thập bát tú cộng là 366 độ, mỗi độ ước 3.000 dặm; kể là vạn phân thì 10 phân là 1 tấc, 10 tấc là một thước; mỗi 1 phân quản 30 dặm, mỗi 1 tấc quản 300 dặm, mỗi 1 thước quản 3.000 dặm”. Cùng với các thuyết “Chu thiên” cộng 1.097.000 dặm, không giống nhau. Xét sách Tấn chí dẫn lời Xuân thu khảo dị có bác đi rằng: Chu thiên cộng 1.071.000 dặm, mỗi độ là 2.932 dặm.
Có lẽ thuyết này là đúng.
Ngưòi Tây Dương lại cho là vòng Chu thiên 90.000 dặm, mà mỗi độ là 150 dặm; như thế lại là khác hẳn.
15. Sách Thượng thư vĩ khảo linh diệu (nguyên là Thượng thư vi, do Trình Huyền chú giải) chép rằng: “Ngày dài thì bóng mặt trời dài 1 thước, 6 tấc; ngày ngắn thì bóng mặt trời dài 1 thước, 3 tấc”. Sách Dịch Vĩ nói: “Ngày Đông chí, trồng một cây nêu cao 8 thước đến trưa, xem bóng mặt trời dài ngắn để chiêm nghiệm có điều hòa không. Phép xem bóng ấy cho biết ngày Hạ chí bóng dài 1 thước 4 tấc 8 phân; ngày Đông chí dài 1 trượng 3 thưóc”.
Phép Chu Bễ nói: “Trong đất nhà Thành Chu, ngày Hạ chí bóng mặt trời dài 1 thước 6 tấc; ngày Đông chí dài 1 trượng 5 thước 5 tấc”.
Bài truyện về sách Hồng Phạm, Lưu Hường có nói: “Ngày Hạ chí, bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 8 phân; ngày Xuân phân và Thu phân, bóng dài 7 thước 3 tấc 6 phân; bóng mặt trời ỏ kinh đô Hán, Ngụy, Tống đều khác nhau”. Phép làm lịch của bốn nhà, về cách ảnh hậu (trình độ đo lưòng bóng mặt trời) thì như nhau, nhưng về cách điều trần đường vĩ tuyến thì sợ khó mà bằng cứ được. Cái thuyết đo bóng vào hai ngày Xuân phân, và Thu phân của Lưu Hướng nói trên, là chỉ lấy sai phân mà suy ra, chứ không phải nhân biểu hậu mà định dài ngắn.
Xét các sách Linh Diệu, Chu Bễ, Linh Hiến và Trịnh Huyền, chua sách Chu Lễ đều nói rằng: "Bóng mặt trời chiếu xuống đất, một nghìn dặm chỉ sai 1 tấc”.
Xét năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Nguyên gia thứ 19 (442), nhà Tống sai sứ sang Giao Châu đo bóng mật trời thì thấy: ngày Hạ chí bóng cây nêu về phía Nam dài 3 tấc 3 phân.
Hà Thừa Thiên khảo sát bóng mặt trời ở Dương Thành có nói rằng: "Ngày Hạ chí, bóng dài 1 thước 5 tấc”. Tính ra thì Dương Thành cách Giao Châu vạn dặm, mà bóng mặt trời sai nhau có 1 thước 8 tấc 2 phân, thế là 600 dặm, chỉ sai 1 tấc thôi.
Đến đời Hậu Ngụy, Tín Đô Phương chua bôn phép xem thiên văn của phép Chu Bễ có bảo rằng: “Đất Kim Lăng cách Lạc Dương từ Nam chí Bắc độ nghìn dặm, bóng sai 4 tấc”. Vậy thì, cứ 250 dặm là sai 1 tấc.
Lưu Chưóc đời nhà Tùy, lấy bóng mặt trời ở hai ngày Hạ chí và Đông chí mà định chỗ trời cao nhất chiếu xuống. Sách Chu Quan nói bóng mặt trời ngày Hạ chí dài 1 thước 5 tấc. Bọn Trương Hành, Trịnh Huyền, Vương Phồn, Lục Tích, đều cho bóng mặt trời cứ 1.000 dặm sai 1 tấc. Lại nói về phía Nam: dưới xứ Đới Nhật 1 vạn 5 nghìn dặm, bóng cây nêu rất đúng; khi trời cao lại khác. Xét trong phép toán, không có lý nào, 1 tấc sai được 1 nghìn dặm; mà cũng không có điển nào nói thế cả. Nay Giao Châu và ích Châu, về phía Bắc, nếu không có bóng, mà về phía Nam, qua Đới Nhật, cách những 50.000 dặm, như vậy thì nghìn dặm sai 1 tấc; đó không phải là sự thực.
16. Phép Trung quĩ phúc ảnh đời Đưòng nói rằng: "về phép Trung quĩ, xưa kia, Lý Thuần Phong làm lịch lấy trung quĩ định 24 tiết khí; cùng với phép đo dài ngắn của Tổ Xung Chi khác nhau; nhưng chưa biết ai phải.
Khi Tăng Nhất Hành làm lại Đại diễn, vua Đường có hạ chiếu cho quan thái sử phải đo bóng mặt trời khắp thiên hạ, mà lấy chỗ đất giữa làm định số. Khi họp bàn có nói rằng: Chu quan (Sách) dùng thổ khuê (thước đo bóng mặt trời bằng ngọc) đo, thì lấy chỗ bóng mặt trời 1 thước 5 tấc làm trung tâm điểm của đất, mà họ Trịnh (Trịnh Huyền) thì cho là bóng chiếu xuống đất, cứ 1 nghìn dặm sai 1 tấc. Như vậy, về phía Nam xứ Đới Nhật Hạ, xa cách 15.000 dặm, thì sai mất 1 thưóc 5 tấc. Đất cùng với tinh, thần, tứ du, lên xuống trong 3 vạn dặm; lấy số ấy mà chia đôi thì thấy được chỗ địa trung, Đĩnh Xuyên quận, đất Dương thành ngày nay, tức là địa trung đó.
Trong khoảng năm Nguyên gia (424 - 454), nhà Tống đi đánh nước Lâm Ấp (Chiêm Thành); ngày tháng 5 dựng cây nêu để trông, thì thấy mặt trời ở về phía Bắc cây nêu; ở Giao Châu thì bóng mặt trời ở về phía Nam cây nêu 3 tấc. Năm Khải nguyên thứ 12 (724, đời Đường Huyền Tông), đo bóng mặt trời ở Giao Châu (tức là Thăng Long, Hà Nội ngày nay) vào ngày Hạ chí thì thấy bóng ở phía Nam cây nêu 3 tấc, 3 phân cùng với sự đo năm Nguyên gia nói trên giống nhau.
Sứ giả (nhà Đường) là Đại tướng Nguyên Thái nói: ở Giao Châu, trông hết tầm con mắt mới thấy cao hơn 20 độ. Còn sách Hội yếu (Vương Phổ đời Tống soạn) thì bảo: ra khỏi mặt đất hơn 30 độ. Vào cữ tháng Tám, người đi biển trông thấy dưới sao Lão nhân tinh có hàng sao lấp lánh sáng, vừa rõ vừa tỏ và rất nhiều, mà xưa nay chưa thấy. Đó là những sao mà nhà làm sách Hồn thiên cho là những sao thường ẩn ở trong đất.
Lại về phía Bắc nước Thiết Lặc (tên thị tộc cổ ở tây bắc Trung quốc, nay là Thanh Hải, còn gọi là Sắc Lặc) có nước Cốt Lị Cán (tên bộ lạc trong thị tộc Sắc, gần Tây Bá Lị Á – Siberia) ngày dài đêm ngắn; đêm đến, trời vàng vàng mà không đen tối; chiều tối nấu một bộ lá lách dê vừa chín thì trời đã sáng, vì chỗ ấy gần chỗ mặt trời mọc.
Sách Nam cung (viết tắt của Nam cung cố sự của Trịnh Hoằng) của Thái sử Giám nói: “Chọn nơi đất phẳng ở tỉnh Hà Nam, đặt phép đo bằng dây tẩm mực trước, rồi dựng cây nêu, kéo dây mà đo, bắt đầu từ huyện Hoạt Đài trước. Bóng mặt trời ngày Hạ chí ở thành Bạch Mã dài 1 thước 5 tấc 7 phân. Về phía Nam hơn nữa, ở huyện Tuấn Nghi và huyện Nhạc Đài (thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam), thì bóng mặt trời dài 1 thước 5 tấc 3 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Phù Câu, bóng dài 1 thước 4 tấc 4 phân. Lại về phía Nam hơn nữa, ở huyện Thượng Sái và huyện Vũ Tân, thì bóng dài 1 thước 3 tấc 6 phân và một nửa phân. Đại khái cứ 526 dặm, 270 bộ, là bóng sai hơn 2 tấc. Còn thuyết cũ nói chỗ kinh đô nhà vua cứ nghìn dặm thì bóng sai 1 tấc là lầm.
Nay lấy phép Câu Cổ (phép toán cổ tính theo như định lý Pytago) so với cách đo Trung quĩ ở Dương Thành, thì thấy bóng ngày Hạ chí dài 1 thước 4 tấc 4 phân, 7 hay 8 li; bóng ngày Đông chí dài 1 trượng 2 thước 7 tấc 1 phân và nửa phân; bóng ngày Xuân phân và ngày Thu phân dài 5 thước 4 tấc 5 phân; lấy cái thước vuông đo úp, mà đo chéo đến chỗ cùng đất, thì thấy 34 độ và 4 phần 10 độ (4/10).
Xem cây nêu ở các huyện Hoạt Đài, Tuấn Nghi, Thượng Thái và Vũ Tân, thì Bắc Cực cách đất, dù ngày Xuân phân hay Thu phân hơi có co giãn, nhưng cũng khó so sánh được. Đại để cứ 351 dặm, 80 bộ, sai lắm là 1 độ.
Bắc Cực khi xa khi gần mặt trời khác nhau, thì bóng ở đường Hoàng đạo cũng vì đó mà biến đổi.
Hàng năm, lấy địa đồ đo bóng mặt trời ở Vũ Lăng, định khí là 4 thước 4 tấc 7 phân. Cầm bản đồ mà trông chếch, thì thấy chỗ cực cao là 29 độ và nửa độ (1/2), sai với Dương Thành là 5 độ 3 phân. Lấy địa đồ ở Uất Hoành Dã mà đo bóng, định khí là 6 thước 6 tấc 5 phân và một nửa phân (1/2); cầm bản đồ, trông chéo, thì thấy chỗ cực cao là 40 độ, sai với Dương Thành 5 độ 3 phân.
Phàm độ số Nam, Bắc sai nhau 10 độ và nửa độ nữa (1/2); đưòng kính là 3.688 dặm, 90 bộ. Từ Dương Thành đến Uất Hoành Dã và Vù Lãng, đại khái vào ngày Hạ chí dùng với Nam Phương sai ít, vào ngày Đông chí cùng với Bắc Phương sai nhiều.
Lại lấy bản đồ, xét và so sánh, ở Việt Nam, lúc mặt trời ở trên đỉnh trời về phía Bắc 2 độ, 4 phân, chỗ cực cao 20 độ, 4 phân; vào tiết Đông chí bóng dài 7 thước 9 tấc 4 phân; nhất định như thế. Tiết Xuân phân và Thu phân là 2 thước 9 tấc 3 phân; tiết Hạ chí, bóng cây nêu về phía Nam 3 tấc 4 phân, sai với Dương Thành 14 độ, 3 phân, mà đường kính thì 5.023 dặm. So đến Lâm Ấp: lúc mặt trời ở đỉnh trời, về phía Bắc 6 độ, 6 phân hơn một ít; chỗ cực cao 70 độ, 4 phân, chu vi 25 độ; thường hiện luôn, không khi nào lấp bóng, tiết Đông chí bóng dài 6 thước, 9 tấc. Bằng nay cách Dương Thành, phía bắc đến đất Thiết Lặc củng sai mất 17 độ, 4 phân; mà cùng với Lâm Ấp ngang nhau.
Quan Trung Thường Thị nước Ngô là Vương Phồn, xét chuyện tiên nho, lấy mực 15.000 dặm ở xứ Đới Nhật Hạ làm một nửa đưòng kính chu vi, rồi theo phép toán Câu cổ tà xạ để đo độ trời, thì thấy được 1.406 dặm, 24 bộ có thừa. Nay đo bóng mặt trời, cách Dương Thành 5.000 dặm, thì thấy đã ở phía Nam nước Đái Nhật; thế là mỗi độ giảm một phần ba của độ (1/3).
Nam cực, Bắc cực, cách nhau 8 vạn dặm, mà đường kính thì 5 vạn dặm. Vũ trụ to rộng, há chỉ như thế? Cái thuật đo trời của Vương Phồn, không khác gì lấy quả bầu mà đong biển.
Năm Khai nguyên thứ 13, đo đến núi Đại Tông (theo chú trong Ngiêu điển thì Đại Tông là núi Thái Sơn) lúc bấy giờ ở chân núi hay còn đêm tốì, ở chỗ nhật quán (nơi mặt trời mọc, đông nam núi Thái Sơn) trông về phía Đông, thấy mặt trời cao dần dần. Cứ phép đo, từ lúc sớm cho đến khi mặt trời mọc, sai 2 khắc rưởi, mà nay lại sai hơn 3 khắc, lý do là người đời xưa dùng thước thổ khuê đo trời, cốt để tuyên bá hòa khí, giúp đỡ mọi vật, chứ không ở chỗ đo đưòng kính chu vi các vị trí ngôi sao. Còn như ý nghĩa trong lịch số, là lấy lòng thành kính mà ban bố thời hậu cho dân biết và tôn trọng tượng trời, chứ không phải chỗ phải trái, của các thuyết hồn thiên, cái thiên.
17. Sách Tấn thiên văn chí nói: "Đất là ở giữa trời, mà Dương Thành là giữa đất". Sách Hà đồ quát địa tượng nói: “Núi Côn Lôn là cột trời, khí núi ấy thông lên tận trời. Côn Lôn là chính giữa đất”.
Chu tử nói: "Trung tâm điểm của đất bây giờ với ngày xưa khác nhau. Đời Hán thì Dương Thành là giữa đất; đời Tống thì Nhạc Đài là giữa đất; đã thấy sai nhau nhiều”.
Tạp chí của Lưu Định Chi nhà Hán nói: “Đính tâm của trời là ỏ huyện Dương Thành ở chân núi Tung Sơn, đính tâm của đất là ở núi Côn Lôn; so le không cân nhau, là vì trong khoảng trời đất, phương Đông Nam thì nắng nóng; phướng Tây bắc thì rét lạnh, Đất ở phương rét lạnh thì rắn chắc mà cao vọt lên, cho nên phương Tây bắc có nhiều núi; đất ở phương nắng nóng thì mềm ướt mà sụt thấp xuống, cho nên phương Đông nam nhiều nước. Hợp cả chỗ Đông nam nhiều nước, Tây bắc nhiều núi, quân bình mà bàn, thì Dương Thành là giữa đất lấy chỗ đính cao thì Côn Lôn là giữa. Đó là nói về phong vực Trung Quốc.
Nhưng ta xét lời nói của Trâu Diễn, thì đất chia làm chín châu, Đông nam gọi là Thần Châu, còn tám châu nữa, là Thứ Nhung, Hấp, Ký, Thai, Tế, Bạc, Dương, đều là Xích Huyện (tức Xích Thành, ở đó đất đỏ, sắc như ráng mây). Ký châu là một trong chín châu không biết ở vào chỗ nào.
Nhà sư Ma Đằng (Kàcyapa Màtàngha) thưa với vua Minh đế nhà Hán rằng: "Nước Cà-ti-la-vệ (Kapilavastu, nơi sinh quán của Đức Phật, trung bộ Ấn Độ, Tây nam Nepal) là trung tâm "tam thiên đại thiên thế giới bách ức nhật nguyệt” và các phật tam thế đều sinh ra ở đấy cả.
Trách Dưng nói rằng: "Phật sinh ở Thiên Trúc, vì Thiên Trúc là chính giữa trời đất và là nơi trung hòa”. Ông lại nói: “Trong truyện có nói rằng: Các vì sao Bắc thần, ở trời là giữa, mà ở người là phía Bắc”.
Xem đó thì đất Hán chưa hẳn đã là giữa trời.
Nhà sư Pháp Lâm đời Đường, dẫn lời bàn ở sách Trí độ luận (kinh Phật, của Long thụ bồ tát) có nói rằng: “Thiên và thiên kể chồng lại cho nên gọi là tam thiên; thiên rồi lại mấy thiên nữa, cho nên gọi là đại thiên; nước Cà-ti-la-vệ ở đó”. Kinh Phiên thán nói rằng: “Sông Thông Hà (Rapti) trở về phía Đông gọi là Chấn Đán, lấy nghĩa là lúc mặt trời mọc sáng rọi vào góc Đông. Chư Phật ra đời đều ở trung châu, chứ không ở ngoài biên ấp”.
Pháp uyển truyện nói: Hà Thừa Thiên nước Tống cùng với Trí tạng pháp sư tranh luận về chỗ giữa trời. Nhà sư nói rằng: “Thiên Trúc là trung thiên, vì những ngày Hạ chí, Đông chí, lúc mặt trời giữa trưa, dựng nêu không có bóng. Đến đời nhà Hán, lập ra Ảnh đài (để đo bóng mặt trời), đến lúc giữa trưa ngày Hạ chí, Đông chí, dựng nêu còn hơi thấy bóng. Theo trong toán kinh, một tấc ở trên trời bằng một nghìn dặm ở dưới đất". Khi ấy họ Hà mới tỉnh ngộ.
Nói tóm lại: Trung bộ Thiên Trúc là trung tâm trái đất. Ông Thích Minh khái bác lời sớ của Phó Dịch có nói rằng: "Gọi là nước ở giữa thiên hạ thì phải là trung tâm của ba nghìn nhật nguyệt, một vạn hai nghìn trời đất". (Tam thiên nhật nguyệt, vạn nhị thiên thiên địa chi trung tâm).
Các thuyết kể trên vể trời đất sai trái nhau, không biết thuyết nào là đúng.
18. Sách của người Tây Dương ra đời sau hết; thuyết của họ lại ly kỳ. Những người Tây Dương ấy đi đường biển mười vạn dặm mới đến Trung Quốc, họ lịch duyệt đã nhiều, đo lường lại tinh, cho nên ngưòi Trung Quốc đều dốc lòng tin, không ai dám chê cả. Nay chép các thuyết của họ, nói về chia độ kinh tuyến các nước, đại lược như sau: "Tất cả các nưóc lớn hay nhỏ, hoặc ở về Nam, Bắc, hoặc về Đông, Tây, đều có độ phận. Vì đất cùng biển đã thành hình tròn như quả cầu; từ Nam đến Bắc, quả đất như cái trục có hai đầu đối với trời. Nam cực và Bắc cực của trời gọi là hai cực quả đất; nhất định thế. Hai cực ấy đều cách xích đạo, mà phía trên phía dưới xích đạo là số của vĩ tuyến thì rõ ràng lắm".
Mặt trời và mặt trăng bám vào thiên cầu đi quanh địa cầu suốt ngày đêm không nghỉ, vốn không mọc hay lặn. Duy, nước này gặp khi mặt trời sáng thì là ngày, khi trăng sao sáng thì là đêm. Vì thế, thấy vầng thái dương lên thì đó là phương Đông; thấy vầng thái dương xuống thì đó là phương Tây. Xong, phương Tây ở nước này lại là phương Đông ở nước kia, mà địa cầu vốn không có chính Tây chính Đông gì cả.
Thế thì kinh tuyến của quả đất bắt đầu kể số từ chỗ nào?
Lúc mới họa toàn đồ thì hai đại châu thổ là Âu La Ba và Lỵ Mạt Á đều ở về phía Tây nước Trung Hoa. Kỳ thủy xét trong bốn biển thì Phúc Đảo là cực tây; ngoài đảo ấy là biển; đi sang Đông mà tìm lục địa (đất liền) thì thấy từ biển về phía Đông, đất rộng mênh mông biết đâu là cùng, mà là những nước liên tiếp nhau. Trên bản đồ nhất thống, vạch một đường tuyến từ Bắc Cực qua Phúc Đảo đến Nam Cực, rồi lây đường tuyến ấy làm mốc (biểu) độ số đường ngang, thì gồm hai mối đầu đuôi của 360 độ
Có người hỏi: quả địa cầu không có Đông Tây, sao trong địa đồ lại có các địa phương Đông Dương, Tây Dương; chẳng hóa lầm ư? Xin đáp rằng: người khéo họa đồ ấy đã lấy nước lớn làm chủ, rồi xem bên tả, bên hữu nước lớn ấy, đặt tên biển và tên các địa phương, vả như: Âu La Ba (châu Âu) thì thấy Á Mặc Li Gia (châu Mỹ) làm phía Tây, lấy châu Á Tê Á (Châu Á) làm phía Đông, cho nên vẽ Á Mặc Lị Gia ở phía hữu, và Á Tê Á ỏ phía tả. Như Trung Hoa (thuộc châu Á Tê Á) thì phải vẽ Âu Ba La và Lị Mạt Á ở phía hữu mà Nam và Bác Á Mặc Lị Gia ở phía tả. Vì, nếu không vẽ thế thì tên các địa phương sẽ lẫn lộn.
Sách Sơn hải toàn đồ chú giải rằng: "Đất với biển vốn hình tròn mà hợp làm một ở trong thiên cầu, Trời đã bọc đất thì trời đất ứng nhau: cho nên trời có Nam Bắc hai cực, đất cũng có Nam Bắc hai cực như vậy; trời chia làm 360 độ, thì đất cũng chia làm 360 độ. Trong thiên cầu có đường xích đạo; từ xích đạo xuông Nam 33 độ 1/2 là Nam Hoàng đạo; từ xích đạo lên phía Bắc 33 độ 1/2 là Bắc Hoàng đạo.
Cứ như Trung Quôc ở về phía Bắc Bắc Hoàng đạo, mặt trời đi theo đường xích đạo thì ngày đêm bằng nhau; đi về nam đạo thì ngày ngắn, đi về bắc đạo thì ngày dài. Cho nên, về thiên cầu có bản đồ ngày đêm bằng nhau ở giữa, lại có hai bản đồ ngày ngắn và ngày dài ở nam và ở bắc để tỏ rõ bóng mặt trời đi. Địa cầu cũng có ba bản đồ tương ứng như thế ở dưới. Duy trời bọc ngoài đất rất to, độ rộng; đất ở trong trời rất nhỏ, độ hẹp. Do đó độ số khác nhau. Bề rộng trong thiên hạ, bắt đầu từ Phúc Đảo, gồm có 10 độ, rồi đến 360 độ lại tiếp liền nhau. Thử xét như Nam Kinh cách trung tuyến trở lên là 32 độ, cách Phúc Đảo sang Đông là 120 độ, rồi ở yên đó. Phàm các vùng trên mặt địa cầu, từ trung tuyến trở lên đến bắc cực thì thực là bắc phương, từ trung tuyến trở xuống thì thực là nam phương”.
Nhà Phật nói Trung Quốc ở Nam Thiểm Bộ châu; và kể cả số đất của Tu Di Sơn (kinh Phật nói là Tuyết Sơn - Hymalaya) ở trong ngoài mặt đất, thì đủ biết là lầm.
19. Từ sau sách Sử ký và Hán thư, người nói đến phân dã đều cho là sao Nữ sao Ngưu là phân dã các nước Ngô, Việt; sao Dực, sao Chẩn là phân dã các nước Kinh, Sở. Lưỡng Quảng tuy là đất Việt nhưng giới hạn có phân biệt; Địa lý chí đời Tiền Hán cho là các quận thuộc về Uất Lâm, Thương Ngô ở về phía Tây tỉnh Việt (Việt Đông là Quảng Đông, Việt Tây là Quảng Tây) thì đều thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ. Các nhà học giả Đỗ Hựu, Âu Dương Tu, Tô Đông Pha đã phân biệt rõ ràng. Nhà sư Nhất Hành lại có thuyết lưỡng giới (hai cõi): lấy phía Đông bắc nước Việt tiếp giáp nước Ngô thuộc Tinh Kỷ (phân dã sao Ngưu, sao Đẩu) phía Tây nước Việt đến nước Sở thuộc sao Thuần Vĩ. Bạch Quì Kham đời Tống đà càn cứ vào đó mà khảo luận, không còn nghi hoặc gì nữa.
Thế thì tỉnh Quảng Đông là khu vực Dương Châu, mà các tỉnh Yên Quảng, Hải Dương cùng Sơn Nam Hạ Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc về chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Nữ. Tỉnh Quảng Tây là khu vực Kinh Châu, mà các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc cùng Sơn Nam Thượng Lộ nước Việt Nam ta đều thuộc chi điều ấy, nên thuộc phân dã sao Chẩn.
Nơi nào gần phương Đông thì ấm nhiều, rét ít, hàng năm ruộng cấy hai mùa; nơi nào gần phương Tây thì nóng rét bằng nhau, mỗi năm ruộng chỉ cấy được một mùa; vì Khí hậu các nơi ấy khác nhau. Đến như Vân Nam là khu vực Dương Châu; các xứ ở nước ta như Tuyên Quang, Hưng Hóa đến mãi Sơn Tây, mãi đến phía hữu liên tiếp Thanh Hóa, Nghệ An, đều là dư Khí (khí dư dật) của khu vực ấy nên đều thuộc phân dã sao Quỉ.
Sách Vĩ thư khảo linh diệu có nói: “Mỗi một độ là 2.932 dặm có lẻ"; vậy phủ Thái Bình thuộc tỉnh Quảng Tây, thuộc phân dã độ thứ 13 sao Chẩn; ở về nước ta, các xứ Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Kinh Bắc, và Sơn Nam Thượng Lộ ước chừng đứng vào độ thứ 14 phân dã sao Chẩn. Phủ Liêm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông đứng vào độ thứ 6 phân dã sao Nữ; ở nước ta thì các xứ Yên Quảng, Hải Dương, Sơn Nam Hạ Lộ ước chừng đúng vào độ thứ 7 phân dã sao Nữ.
Các loại sách thiên văn trong Minh chí cho các châu Cao, Hóa, ở tỉnh Quảng Đông thuộc phân dã sao Ngưu, sao Nữ, còn các châu Khâm, châu Liêm thuộc phân dã sao Dực, sao Chẩn. Ta nghi rằng: châu Liêm là đất quận Hợp Phố phía Nam liền ngay bờ biển phải thuộc về dư chi sao Thuần Vĩ, là phân dã sao Tinh Kỷ, mà phía hữu thì vào đến một khoảng ở giữa các phủ Thái Bình và Nam Ninh, không thể kéo ra phía ngoài biển được. Vả lại, Ngô Châu thuộc phân dã sao Nữ, còn hai huyện Bác Bạch, Lục Châu thuộc phủ ấy, đều có đường thông vào xứ Yên Quảng nước ta; Khâm Châu thuộc tỉnh Quảng Đông lại giáp giới với châu Vạn Ninh thuộc tỉnh Yên Quảng nước ta. Xem thế đủ biết nó phải đứng vào phân dã sao Nữ.
20. Sách Sơ học ký (Bộ bách khoa thư đời Đường do Từ Kiên chủ biên) chép rằng: “Việc chế tạo ra "lậu khắc” (dụng cụ đo thời giờ bằng nước rỏ giọt) có từ thời Hoàng đế, truyền đến đời nhà Hạ, nhà Thương". Theo phép ấy, sáng sớm tiết Đông chí, giọt nước chảy đến khắc 45, sau tiết Đông chí thì ngày dài, cứ 9 ngày dài thêm một khấc; sáng sớm ngày tiết Hạ chí giọt nước chảy đến khắc 65, sau tiết Hạ chí thì ngày ngắn, cứ 9 ngày giảm đi một khắc”.
Dụng cụ dùng nước xem giờ ấy có ba tầng tròn, đường kính đều một thước, để trên cái thùng hứng nước (trì chù) hình khối vuông, có con rùa vàng miệng phun nước vào thùng hứng nước, nước chảy ngang dọc lại chảy xuống cái chứa nước để ngang ở dưới, gọi là cái cừ, trên cái cừ ấy, có đặt hình người tên là quan tư thần (giữ việc giờ, khắc) đúc bằng vàng, mặc đủ áo mũ, hai tay cầm cái tên. Ấy là phép "lậu khắc” (xem giờ bằng giọt nước) của Ân Quỳ.
Còn một phép nữa: Lấy đồng đúc một con quạ khát nước, gọi là khát ô (ống đồng uốn khúc lấy hơi dẫn nước lên), hình như cái móc câu uốn khúc, dẫn nước vào mồm con rồng bạc để nó phun vào chậu đựng nước; cứ nước chảy xuống được 1 thưng, trọng lượng hai căn là một khắc. Ấy là phép "lậu khắc” của Lý Lan.
Hà Thừa Thiên đời Tống đã cải tiến phép ấy, định lại là hai ngày Xuân phân và Thu phân sớm tối, ngày đêm đều 55 khắc、
Đến đời Lương, Vũ đế cho ngày đêm có 100 khắc, đem phân phối cho 12 giờ, mỗi giờ 8 khác thì còn có phần thừa, nên chỉ lấy 96 khắc cho cả ngàv lẫn đêm, số 96 ấy chia làm 12 giờ, thì mỗi giờ chẵn 8 khắc. Đến năm Đại đồng thứ 10 (544) lại đổi làm 108 khắc. Tiết Đông chí, giờ ban ngày 48 khắc, giờ ban đêm 60 khắc, Tiết Hạ chí, giờ ban ngày 70 khắc, giờ ban đêm 38 khắc. Ngày Xuân phân, Thu phân, giờ ban ngày 60 khắc, giờ ban đêm 48. Còn các số buổi tối, buổi sáng đều là 3 khắc. Đến đời Trần lại phục hồi phép cổ cả ngày lẫn đêm là 100 khắc.
Đời Đường lại chế ra phép “Thủy hải phù tiễn" (tên nôi trong biển nước), có bôn cái thùng rót nước, lấy tên nổi lên chia ra khắc; chia ngày đêm làm 12 giờ, mỗi giờ 8 khắc, 30 phân; mỗi khắc 60 phân, cộng 48 cái ten; 2 cái tên là một khí; một năm cộng có 2,191.500 phân đều khắc ở trên cái tên; có con quạ bằng đồng dẫn nước xuống, tên nổi lên; đến chỗ phân biệt ngày đêm, chia tiết hậu, ngày chí (Hạ chí, Đông chí); mùa hạ ngày dài, mùa đông ngày ngắn, buổi sớm, buổi tốì, lúc ẩn, lúc hiện, đều đúng với cách đo bóng của sách Chu quan không sai chút nào. Cách thức chế tạo của đời Tống, đời Nguyên, không giống nhau, nhưng đều lấy 100 khắc làm phép áp dụng cả.
Sách Tam tài đồ hội (bách khoa thư, Vương Kỳ đời Minh soạn) có dẫn các sách nói về nguồn gốc Khí hậu. Sách Xuân thu nội sự nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám tiết, vạch ra hào để ứng với tiết hậu”. Sách Tấn lịch chí nói: “Vua Viêm đế chia một năm làm tám tiết, trước hết là công việc nhà nông. Đổng Ba nói: “Vua Phục Hi đặt ra tám quẻ, mỗi quẻ ba vạch để tượng trưng 24 Khí tiết. Thiên Nguyệt lệnh trong sách Lễ ký có chua rằng: “Chu công làm ra phép xem giờ, định ra 24 khí, 72 tiết hậu. Vậy thì phép xem Khí hậu đã được đặt ra từ vua Phục Hi trước, rồi đến Chu công định lại sau: Cứ năm ngày là một tiết hậu, một tháng có sáu tiết hậu, 5 nhân với 6 là 30 ngày (6x5 = 30), ba tiết hậu là một Khí có 15 ngày.
21. Phép định tiết Khí ngày giờ
Tiền cửu niên suy hậu cửu thông,
Can thực chi xung tiết Khí đồng,
Nhuận nguyệt tất định vô trung khí,
Thử pháp ư quân tối hữu công.
Dịch nghĩa;
Suy tính chín năm trước, thì biết được chín năm sau,
Can thực chi xung, thì cùng một tiết khí,
Tháng nhuận chắc chắn được định là không có trung khí,
Phép ấy dạy người rất có công.
Thí dụ: Năm Kỷ Hợi, ngày Nhâm Tuất là tiết Lập xuân, thì (chín năm sau là) năm Đinh Mùi, ngày Giáp Thìn sẽ cũng là tiết Lập xuân. Nhâm là thủy sinh Giáp là mộc, là thực thần; Thìn xung Tuất; thế là "Can thực chi xung". Còn những tiết khác, theo đó mà tính.
22. Phép định tiết Khí thời khắc:
Kim niên Vũ thủy, mính niên xuân
Thiên can bất động gia lưỡng thần,
Dịch nghĩa:
Xuân năm nay là tiết Vũ thủy, thì sang năm là tiết Lập xuân,
Không động gì đến thiên can, chỉ gia thêm hai địa chi giờ (thời thần).
23. Tính 24 khí, cũng phỏng theo phép này.
Thời gia tam khắc vạn niên linh,
Dịch nghĩa:
“Án giờ thêm 3 khắc dẫu muôn năm cũng không sai”.
Thí dụ: Năm nay ngày mồng ba tháng Giêng là ngày Canh Thân, một khắc đầu giờ Ngọ là tiết Vũ Thủy từ ngày Canh Ngọ không động đến thiên can (là Canh) chỉ gia thêm 2 giờ là Tuất, tức ngày Canh Tuất (tháng Giêng) sang năm là tiết Lập xuân. Lại như: một khắc đầu giờ Tí, là tiết Vũ Thủy thì khắc thứ ba đầu giờ Tí, sẽ là tiết Lập xuân.
24. Phép xem giờ khắc mặt trời mọc, lặn.
Giờ Mặt Trời mọc
a. Giờ Dần:
Hạ Chí, giữa giờ Dần, 2 khắc.
Mang Chủng, Tiểu Thử, giữa giờ Dần, 3 khắc.
Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dần, 4 khắc.
b. Giờ Mão:
Lập Hạ, Lập Thu, đầu giờ Mão, 1 khắc.
Cốc Vũ, Xử Thử, đầu giờ Mão, 2 khắc.
Thanh Minh, Bạch Lộ, đầu giờ Mão, 3 khắc.
Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Mão, 4 khắc.
Kinh Trập, Hàn Lộ, giữa giờ Mão, 1 khắc.
Vũ Thủy, Sương Giáng, giữa giờ Mão, 2 khắc.
Lập Xuân, Lập Đông, giữa giờ Mão, 3 khắc.
Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Mão, 4 khắc.
c. Giờ Thìn:
Tiểu Hàn, Đại Tuyết, đầu giờ Thìn 2 khắc.
Đông Chí, đầu giờ Thìn 1 khắc.
Giờ Mặt Trời lặn
d. Giờ Thân:
Đông Chí, giữa giờ Thân, 2 khắc.
Tiểu Hàn, Đại Tuyết, giữa giờ Thân, 3 khắc.
Đại Hàn, Tiểu Tuyết, giữa giờ Thân, 4 khắc.
e. Giờ Dậu:
Lập Đông, Lập Xuân, đầu giờ Dậu, 1 khắc.
Vũ Thủy, Sương Giáng, đầu giờ Dậu, 2 khắc.
Kinh Trập, Hàn Lộ, đầu giờ Dậu, 3 khắc.
Xuân Phân, Thu Phân, đầu giờ Dậu, 4 khắc.
Thanh Minh, Bạch Lộ, giữa giờ Dậu, 1 khắc.
Cốc Vũ, Xử Thử, giữa giờ Dậu, 2 khắc.
Lập Hạ, Lập Thu, giữa giờ Dậu, 3 khắc.
Tiểu Mãn, Đại Thử, giữa giờ Dậu, 4 khắc.
f. Giờ Tuất:
Mang Chủng, Tiểu Thử, đầu giờ Tuất 2 khắc.
Đại Thử, đầu giờ Tuất 1 khắc.
25. Tiết vị lai nguyệt sóc tiết khí quyết
(Nắm lấy bí quyết xem tiết khí ngày mồng Một đầu tháng sắp tới)
Bí quyết này có 12 câu thơ thất ngôn:
Nguyệt sóc nguyên lai tự cổ hữu
Tiền cửu tương lai giữ hậu cửu.
Đại nguyệt ngũ can liên, cửu chi,
Tiểu nguyệt tứ can bát chi ngẫu.
Lục lục chi niên, tử tế suy,
Nhiệm quân tẩu tận kỷ hàn lộ;
Tiện tố kim niên lập xuân số;
Toán lai hữu bản vô sai ngộ.
Tứ thập thất niên tiền hữu nhuận,
Nhuận tiền nhị nguyệt định kim phùng,
Phân hào bất lậu chân tiêu tức
Tận tại tiên sinh chưởng át trung.
Dịch nghĩa:
Ngày sóc (mồng một đầu tháng) từ xưa nguyên vẫn có.
Chín năm trước tính đến chín năm sau,
Tháng đủ tính theo năm can và chín chi,
Tháng thiếu tính theo bốn can và tám chi.
Cái năm sáu sáu suy cho kỹ,
Trải qua mấy tiết Hàn lộ,
Thì định được ngày tiết Lập xuân năm nay.
Tính như thế đã có căn bản không thể sai lầm.
Bốn mươi bảy năm trước có tháng nhuận,
Thì năm nay nhuận, trước hai tháng;
Một phân một hào không sót tí gì,
Đều ở trong tay thầy toán số.
Giả như năm Mậu Tí, tháng Giêng là tháng thiếu, mà ngày mồng một là ngày Ất Dậu; can Ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu tính đến chi thứ tám là Thìn (xem câu thơ thứ tư ở trên), thì biết ngày sóc tháng Giêng năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Thìn.
Tháng Hai năm Mậu Tí là tháng đủ mà ngày mồng Một là ngày Giáp Dần; từ Giáp tính đến can thứ năm là can Mậu, từ chi Dần tính đến chi thứ chín là chi Tuất (xem câu thơ thứ 3 ở trên), thì ngày Sóc tháng 2 năm Bính Thân (9 năm sau) là ngày Mậu Tuất. Còn những năm khác theo thế mà tính.
Lại có bí quyết rằng;
Chính nguyệt sơ nhất nhật thìn thuyết,
Cửu niên nhị nguyệt thập ngũ đồng.
Nhị nguyệt sơ nhất, nhật thìn vị,
Tức thị cửu niên nhị nguyệt trung.
Dịch nghĩa:
Mồng một tháng Giêng là ngày Thìn,
Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn.
Mồng một tháng Hai là ngày Thìn,
Thì rằm tháng Hai chín năm sau cũng là ngày Thìn,
Phép này rất đúng.
Duy có tiết Khí nào ở vào rằm tháng nhuận, thì nên tính lui lại một ngày, còn những tháng khác tương đối không sai.
26. Luận về tiết Lập xuân. Đem những thời khắc ngày tiết Hàn lộ từ 36 về trước đối chiếu với thời khắc tiết Lập Xuân năm nay không sai chút nào.
Luận về tháng nhuận. Xem tháng nhuận 47 năm về trước, lại gia thêm hai tháng, thì biết năm nay nhuận tháng nào. Thí dụ: Năm Canh Thìn trước, nhuận tháng tám, tính đến năm Bính Dần (47 năm về sau; xem câu thơ thứ chín ở trên), gia thêm hai tháng, tức là nhuận tháng Mười.
27. Sáu mươi hoa giáp chia làm đôi, từ Giáp Tí, Ất Sửu thuộc Kim, đến Nhâm Thìn, Quí Tị thuộc Thủy, cộng 30 hoa giáp. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi thuộc Kim, đến Nhâm Tuất, Quí Hợi thuộc Thủy cũng 30 hoa giáp.
Chính cung, đối cung; Kim rồi Hỏa, Hỏa rồi Thủy, đều giống nhau.
28. Về nghĩa Lục thập Giáp Tí nạp âm, trong sách Tứ thư đại toàn và tiểu chú, chương thiên thời, địa lợi, sách Mạnh Tử có dẫn thuyết Tam xa nhất lãm (xem qua đủ hiểu) nhưng chưa được minh bạch.
Xét sách Thụy quế đường hạ lục, thấy có nói: “Âm luật lấy số nhất với lục làm hành thủy; nhị với thất làm hành hỏa; tam với bát làm hành mộc; tứ với cửu làm hành kim; ngũ với thập làm hành thổ. Trong ngũ hành, chỉ kim, mộc là có âm tự nhiên, còn thủy, hỏa, thổ phải nhờ nhau mới thành âm được: thủy nhờ thổ, hỏa nhờ thủy, thổ nhờ hỏa. Cho nên: kim âm là tứ cửu; mộc âm là tam bát; hỏa âm là nhị thất; thủy âm là nhất lục; thổ âm là ngũ thập.
Giáp, Kỷ, Tí, Ngọ là số 9;
Ất, Canh, Sửu, Mùi là số 8;
Bính, Tân, Dần, Thân là số 7;
Đinh, Nhâm, Mão, Dậu là số 6;
Mậu, Quí, Thìn, Tuất là số 5;
Tỵ, Hợi là số 4.
Giáp Tí, Ất Sửu 34 số (9+9+8+8), là âm của tứ (4) kim, cho nên gọi là kim;
Mậu Thìn, Kỷ Tị 23 số (5+5+9+4), là âm của tam (3) mộc, cho nên gọi là mộc.
Canh Ngọ, Tân Mùi 32 số (8+9+7+8), nhị là âm hỏa (2), Thổ lấy hỏa làm âm, cho nên gọi là Thổ.
Giáp Thân, Ất Dậu 30 số (9+7+8+6), thập là thổ (10), thủy lấy thổ làm âm, cho nên gọi là thủy. Mậu Tí, Kỷ Sửu 31 số, nhất là số thủy, hỏa lấy thủy làm âm,cho nên gọi là hỏa.
Sáu mươi hoa giáp đều thế, vì đó mới là nạp âm. Lục thập Giáp Tí là lịch, nạp âm là luật, chi là nạp âm phân biệt ra.
(Nguồn: sưu tầm)
Cầm lên được thì phải bỏ xuống được, có những điều không buông bỏ nếu cứ giữ trong lòng sẽ chỉ khiến bạn thêm phiền muộn, đau khổ, buông bỏ được là cho mình cơ hội đón nhận hạnh phúc.
![]() |
| Ảnh minh họa |
![]() |
| Ảnh minh họa |

Những người nằm co theo tư thế của bào thai được bói là người cứng rắn bề ngoài song lại rất nhạy cảm bên trong. Họ có thể ngượng ngùng khi gặp một ai đó lần đầu tiên song nhanh chóng bớt căng thẳng. Đây là vị trí ngủ phổ biến nhất. 41% trong số 1.000 người tham gia nghiên cứu ngủ theo tư thế này. Số phụ nữ nằm co nhiều gấp hơn 2 lần so với nam giới.
Nằm nghiêng, hai tay buông xuôi. Những người ngủ theo kiểu này dễ tính, thích giao tiếp và tin tưởng người lạ. Tuy nhiên, họ có thể dễ bị mắc lừa.

Tư thế ngủ nằm nghiêng, hai tay giơ ra phía trước. Tính cách của người coi bói này cởi mở, song có thể đa nghi. Họ chậm đưa ra quyết định song một khi đã quyết, họ chắc chắn không thay đổi.
Nằm ngửa, hai tay buông xuôi, ép sát 2 bên mình. Tư thế ngủ này được bói là người trầm lặng và kín đáo. Họ không thích ồn ào song tự đặt ra tiêu chuẩn cao cho bản thân cũng như những người khác.
Nằm sấp, tay vòng qua gối, đầu quay về một phía. Đó là những người thích giao du song nóng nảy và dễ mếch lòng, không thích bị phê bình hoặc tình huống quá khích.

Dạng nằm ngửa, hai tay giơ lên đầu, vòng qua gối. Chủ nhân này là những người bạn tốt bởi họ luôn sẵn sàng lắng nghe người khác và thường giúp đỡ khi cần. Họ không thích là trung tâm của sự chú ý.
Bé sinh vào mùa nào đặt tên theo tiết trời, thiên nhiên của mùa ấy là cách đặt tên vừa hay, ý nghĩa, lại hòa hợp theo phong thủy, đem lại may mắn, phát tài. Hãy thử tham khảo kiểu đặt tên con theo đúng mùa sinh và xem tên có phù hợp với con mình hay không?
Mùa xuân là mùa bắt đầu của một năm, mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, của muôn hoa khoe sắc thắm, mùa của những loài chim (đặc biệt là chim én) bay về làm tổ. Vì thế, có rất nhiều gợi ý thú vị cho những cái tên của bé yêu sinh vào mùa xuân:
Tên cho bé gái:
Mang ý nghĩa của mùa xuân: Minh Xuân (mùa xuân tươi sáng); Mỹ Xuân, Diễm Xuân (mùa xuân tươi đẹp); Thanh Xuân (tuổi trẻ tràn đầy sức sống); Hương Xuân (hương thơm của mùa xuân).
Các loài chim của mùa xuân: Hoàng Yến, Thanh Yến, Diệu Yến, Hồng Yến, Nhã Yến, Ngọc Yến, Bảo Yến, Phương Yến, Minh Yến, Xuân Yến, Kim Yến, Quỳnh Yến.
Các loài hoa của mùa xuân: Tú Mai, Thủy Tiên, Thanh Mai, Yến Thảo, Xuân Mai, Hải Đường, Nguyệt Mai, Cát Tường, Anh Đào, Tầm Xuân, Xuân Đào, Trà My, Thanh Đào, Anh Thảo.
Tên cho bé trai:
Mang ý nghĩa mùa xuân: Xuân Trường (mùa xuân trường tồn); Thanh Minh (tiết thanh minh của mùa xuân); Vĩnh Xuân (mùa xuân vĩnh cửu); Đông Phong (làn gió từ phương đông, gió mùa xuân); Đông Quân (vị thần của mặt trời, của mùa xuân).
Nhắc đến mùa hạ là nhắc đến sự rạo rực, sôi động và tràn đầy năng lượng từ ánh nắng mặt trời, từ những loài hoa nhiệt đới nhiều màu sặc sỡ và những cơn mưa mùa hạ tươi mát. Mùa hạ đem tới nhiều cảm hứng để đặt tên cho bé trai và bé gái:
Tên bé gái theo mùa hạ: Hạ Vy (mùa hạ nho nhỏ); Hạ Miên (giấc mơ mùa hạ); Diệp Hạ (lá cây mùa hạ); Lam Hạ (mùa hè xanh); An Hạ (mùa hè bình an); Thanh Hạ (mùa hè thanh bình); Hạ Vân (đám mây mùa hạ); Thùy Dương (án nắng rực rỡ); Thiên Thanh (bầu trời xanh)
Tên bé gá theo loài hoa mùa hạ: Đỗ Quyên, Hồng Liên, Mộc Miên, Diên Vỹ, Ngọc Phượng, Cát Phượng, Hướng Dương.
Tên bé trai theo mùa hạ: Hạ Vũ (mưa mùa hạ); Khởi Hạ (sự bắt đầu của mùa hạ); Quang Hạ (ánh nắng mùa hạ), Thái Dương (ánh mặt trời rực rỡ); Nam Phong (ngọn gió phía nam, gió mùa hạ)
Mùa thu đem đến cảm giác tươi sáng, nhẹ nhàng, lãng mạn. Đây là mùa có ngày Quốc khánh, ngày lễ vui và thiêng liêng của cả đất nước, mùa có trăng tròn đầy và viên mãn nhất:
Tên bé gái theo mùa thu: Hương Thu (hương thơm mùa thu); Diễm Thu (mùa thu đẹp); Hoài Thu (mùa thu thương nhớ); Minh Thu (mùa thu trong sáng); Bích Thu (mùa thu xanh)
Tên bé gái theo hiện tượng mùa thu: Thùy Vân (đám mây diêu bồng); Minh Nguyệt (ánh trăng sáng trong); Thu Nguyệt (ánh trăng mùa thu); Thu Thủy (làn nước mùa thu);
Tên bé gái theo loài hoa mùa thu: Thạch Thảo, Hoàng Cúc, Thanh Cúc, Hồng Cúc, Họa Mi, Vân Anh, Trúc Đào.
Tên bé trai theo mùa thu: Quốc Khánh (ngày vui của đất nước); Thanh Phong (ngọn gió mát màu thu); Vĩnh Thu (mùa thu dài bất tận)
Ấn tượng về mùa đông luôn là sự giá băng, lạnh lẽo. Vì thế, những cái tên liên quan đến các loài cây mạnh mẽ, chịu được sương gió bão tuyết cực kì thích hợp để đặt tên cho các bé trai. Những hiện tượng thiên nhiên lãng mạn như băng , tuyết cũng rất hợp để đặt tên cho bé gái:
Tên bé gái theo mùa đông: Đông Vy, Quỳnh Đông, Đông Nhi, Đông Phương
Tên bé gái theo hiện tượng mùa đông: Thanh Băng, Tuyết Nhi, Băng Di, Tuyết Ngọc, Tuyết Mai, Hải Băng, Ngọc Tuyết, Hàn Thư, Tuyết Vân, Hàn Nhi, Băng Tâm, Hàn Thanh, Khánh Băng, Minh Tuyết.
Tên bé trai theo mùa đông: Huỳnh Đông, Quang Đông, Hải Đông, Chí Đông, Giang Đông, Thụy Đông, Khả Đông.
Tên bé trai theo loài cây mùa đông: Hoàng Bách, Sơn Bách, Lâm Tùng, Thanh Tùng, Đức Tùng, Danh Tùng, Hoàng Thông, Huy Thông,
| Tên sao | Đẩu phận | Âm dương ngũ hành | Hóa | Chủ | Tứ hóa |
| Thái dương | Trung thiên đẩu | Dương hỏa | Qúy | Quan lộc | Giáp: kị, Canh: Lộc, Tân: Quyền |
Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Thái Dương thuộc âm hỏa, là chính tinh và cát tinh của trung thiên Đẩu, hóa khí là quyền quý, chủ chính của cung quan lộc.
Sao Thái Dương chủ về mắt, cá tính, về xử sự, chủ về hoạt động giao tế, có tính công bằng, bác ái, ngay thẳng.
Sao thái Dương thuộc dương hỏa, là tinh hoa của mặt trời, là chuẩn mực của tạo hóa, trong số chủ về cao quý, sau đó là giàu có, văn võ song toàn (nếu gặp sao Thiên Hình sẽ hiển quý về nghiệp võ), ưa gặp sao Tả Phù và Hữu Bật để được trợ giúp, gặp Lộc Tồn là có tước lộc cao, gặp Thái Âm sẽ tương sinh, gặp các cát tinh sẽ được may mắn cát tường, gặp sát tinh sẽ vất vả phí sức. Nếu đóng tại cung Thân, cung Mệnh, lại miếu vượng, là sao tốt trong mệnh số, là then chốt của quan lộc, đứng sau Hóa Lộc, Hóa Quyền, tốt nhất là cung quan lộc.
Vầng Thái Dương mỗi ngày mọc ở Đông và lặn ở Tây, nên trong mệnh bàn, sao Thái Dương cũng sẽ biến đổi trong từng cung vị thứ tự như sau: tại cung Dần và cung Mão là mới mọc (sơ thăng); tại cung Thìn và cung Tỵ là lên điện (thăng điện); tại cung Ngọ là mặt trời giữa trời (Nhật lệ trung thiên), chủ về đại phú, đại quý; tại cung Mùi và cung Thân là nghiêng bóng (thiên viên), làm việc siêng năng, sau lười biếng; tại cung Dậu là lặn về Tây (tây một), quý mà không hiển, đẹp mà rỗng tuếch; tại cung Tuất, Hợi, Tí, Sửu là mất sáng (thất uy), nếu gặp Cự Môn, Phá Quân, chủ về một đời bần hàn và vất vả, tính cách khó gần gũi, dễ gặp chuyện thị phi.
Sao Thái Dương chủ về quan lộc, vì vậy nên ở cung quan lộc, đặc biệt là khi xuất hiện một mình tại cung Ngọ, là thế "Nhật lệ trung thiên" (mặt trời giữa trời), khí thế mạnh mẽ, sự nghiệp lẫy lừng, ắt là bậc lãnh đạo, thành tựu nhất định phi phàm.
Sao Thái Dương ưa đồng cung, hoặc hội chiếu với lục cát tinh, đặc biệt ưa gặp các sao Tam Thai và Bát Tọa giúp tăng thêm hào quang của Thái Dương. Cũng rất ưa đồng cung với các sao Ân Quang, Thiên Qúy, phần nhiều chủ nhận được ân huệ đặc biệt, vinh hiển. Nếu sao Thái Dương ở cùng một cung với đế tinh, Tả Phù và Hữu Bật, tuy hảm nhưng vẫn được cho là quý.
Sao Thái Dương nếu miếu địa, vượng địa mà gặp sát tinh xâm phạm, chỉ gây ảnh hưởng tới người thân là nam giới, còn về biểu hiện của bản thân thì chỉ tăng thêm vất vả chứ không bị giảm quý. Ánh sáng của sao Thái Dương cũng không sợ Thiên La và Địa Võng hạn chế độ sáng, nhưng cũng khó tránh vất vả. Sao Thái Dương tuy không sợ lục cát tinh, nhưng trừ trường hợp ở cung Mão ra, đều không thích sao Hóa Kị, đặc biệt khi ở cung vị lạc hãm sẽ rất bất lợi về mắt.
Sao Thái Dương không ngừng vận chuyển, gặp Tả Phù và Hữu Bật sẽ phò trợ cho quân chủ, gặp Lộc Tồn sẽ trợ phúc, ở các cung nhập miếu thì cát; lạc hãm mà gặp hung tinh thì vất vả. Nếu đóng tại cung Thân và cung Mệnh, chủ về tính tình trung hậu, rộng lượng không chấp nhặt. Nếu miếu, vượng địa gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền thì tăng thêm hiển quý. Nếu nhận được các sao tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt tam hợp chiếu hai cung tài bạch và quan lộc thì chủ về phú quý tột đỉnh, thêm tứ sát cũng chủ về no ăn, ấm mặc, Phụ nữ thì chủ về vượng phu ích tử, càng đucợ nhiều phong tặng.
Sao Thái Dương có tính động nếu đóng tại cung mệnh thì không đời không mấy được thanh nhàn, hơn nữa vì sao Thái Dương chủ sự sang quý chứ không chủ về giàu có, nên hiển quý mà thanh cao, dù gặp được sao Lộc Tồn nhưng cũng phải vất vả mới kiếm được tiền bạc.
Nếu sao Thái Dương, Thái Âm giáp (kèm hai bên) Thiên Phủ hoặc Vũ Khúc, Tham Lang ở cung mệnh tại Sửu, Mùi, là cách cục "Nhật Nguyệt giáp mệnh", chủ về một đời giàu có (nếu giáp Vũ Khúc, Tham Lang thì phát muộn). Sao Thái Dương nằm ở cung mệnh tại cung Ngọ, là cách cục "Kim sán quang huy" (hào quang vàng chói lọi; hay còn gọi là cách cục "Nhật lệ trung thiên" mặt trời giữa trời), tài năng xuất chúng, thành tựu phi thường. Nếu sao Thái Dương và Sao Thiên Lương ở cung mệnh tại Mão, tam hợp hội chiếu với sao Thái Âm tại cung hợi, nếu sinh vào ban ngày sẽ là cách cục "Nhật chiếu lôi môn"(mặt trời rọi cửa sấm, hay còn gọi là cách cục "Nhật xuất phù tang" mặt trời mọc ở phương đông), có tài lãnh đọa lỗi lạc. Nếu cung mệnh đóng tại cung Mùi, sao Thái Dương tại Mão, sao Thái Âm tại Hợi, sao Thiên Đồng và sao Cự Môn ở cung Sửu hội chiếu, là cách cục "Minh châu xuất hải" (Ngọc châu ra khỏi biển), vững bước đường mây. Nếu cung mệnh đóng tại cung Sửu hoặc cung Mùi, sao Thái Dương, Thái Âm miếu địa, vượng địa ở cung tam hợp chiếu; hoặc Thái Dương ở cung Thìn, Tị, Thái Âm ở cung Tuất, Dậu, là cách cục "Nhật Nguyệt tịnh minh" (mặt trăng và mặt trời cùng sáng, hay còn gọi là cách cục "Đan trì quế trì" bậc son thềm quế), đường công danh sớm rộng mở. Nếu cung mệnh đóng tại Sửu, Mùi, mà Thái Dương và Thái Âm cùng đến hoặc đối cung chiếu về, cách cục "Nhật Nguyệt đồng lâm" sẽ làm quan lớn. Nếu Thái Dương, Thái Âm đều ở cung điền trạch, hoặc ở cung tam hợp hội chiếu cung điền trạch, là cách cục "Nhật Nguyệt chiếu bích" (mặt trăng và mặt trời chiếu vách), sẽ có rất nhiều đất đai. Nếu Thái Dương đồng cung với Cự Môn tại cung Dần, Thân là cách cục "Cự Nhật đồng cung", chủ về khổ trước sau thành tựu. Nếu các sao Thái Dương, Thiên Lương, Văn Xương, Lộc Tồn hội tụ tại các cung mệnh, quan, tài, thiên tam vương tứ chính, là cách cục "Dương, Lương, Xương, Lộc", chức tước tiền tài đều đẹp. Nếu sao Thái Dương miếu địa cùng với Văn Xương ở cung quan lộc, là cách cục "Hoàn điện thủ ban" (quan đứng đầu ở điện rồng), phú quý toàn mỹ. Nếu sao Thái Âm tại cung Thìn, Mão mà sao Thái Dương tại cung Tuất, Hợi, lạc hãm thủ mệnh, là cách cục "Nhật Nguyệt phản bối" (mặt trời và mặt trăng trở mặt), là mệnh vất vả lao nhọc, ít duyên với cha mẹ. Nếu sao Thái Dương, Thái Âm lạc hãm tại cung tật ách, là cách cục "Nhật Nguyệt tật ách", chủ về thân thể có khuyết tật.
Ca Quyết:
Thái Dương nguyên thuộc hỏa; Chính phủ Quan Lộc tinh
Nhược cư thân mệnh vị; Bẩm tính tối thông minh
Từ ái lượng khoan đại; Phúc thọ hưởng hà linh
Nhược dữ Thái âm hội; Sâu phát qui vô luận
Hữu huy chiếu Thân mệnh; Bình bộ nhập kim môn
Cự Môn bất tương phạm; Thăng điện thừa quân ân
Thiên viên phùng ám độ; Bần tiện bất khả ngôn
Nam nhân tắc khắc phụ; Nữ mệnh phu bất toàn
Hỏa Linh phùng nhược định; Dương Đà nhãn mục hôn
Nhị hạn nhược trí thử; Tất định mại điền viên.
Nghĩa là:
Sao Thái Dương thuộc hành hỏa, là Quan Lộc tinh, ở cung Thân Mệnh bẩm tính thông minh, từ ái và khoan hậu đại phúc, đại thọ. Nếu có thêm Thái Âm hội tụ phát quí vô cùng. Ánh sáng Thái Dương chiếu vào Thân mệnh dễ đi đến cửa vàng cung điện. Gặp Cự Môn nơi hãm địa lại bần tiện vô tả, nữ mệnh chồng không vẹn toàn. Tứ Sát, Dương Đà, Hỏa Linh vây hãm thì bị đau mắt, hạn Thái Dương có Tứ Sát xung phá bán hết gia nghiệp.
Những câu phú về sao Thái Dương ghi trong Tử Vi đẩu số toàn thư gồm có:
Thái dương miếu địa Ngọ, Mão vượng địa Dần, Thìn, Tị hãm Tuất, Hợi, Tý.
Nhật chiếu lôi môn, Tý Thìn, Mão địa trú nhân sinh, phú quí thanh dương. (Thái dương đứng trong cung Tý, Thìn, Mão, Dậu là mặt trời chiếu cửa sấm, người sinh ban ngày phú quí nổi danh).
Thái Dương cư Ngọ, Canh Tân Đinh Kỷ nhân phú quí song toàn. (Thái Dương ở Ngọ cung, người tuổi Canh Tân Đinh Kỷ, phú quí song toàn).
Thái Dương, Văn Xương tại Quan Lộc, hoàng điện triều ban. (Sao Thái Dương gặp Văn Xương tại cung Quan Lộc làm quan trong triều đình. Văn Khúc cũng vậy).
Thái Dương, Hoá Kỵ thị phi nhật hữu mục hoàn thương. (Gặp Hoá Kỵ, mắt hư đau bất ngờ).
Nhật lạc Mùi, Thân tại mệnh vị vi nhãn tiền cần hậu lãn. (Mệnh đóng cung Thân, Mùi có sao Thái Dương con người chóng chán, trước chăm chỉ sau lười biếng).
Nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo phối hiền phu tín khả bằng. (Số đàn bà, Thái Dương thủ mệnh đắc định là người đoan chính, sớm lấy chồng hiền).
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
1. Tết Đoan Ngọ
Thời gian: tổ chức vào ngày 5 tháng 5 âm lịch.
Nội dung: Theo sách Phong Thổ ký thì Tết Đoan Ngọ còn gọi là Tết Đoan Dương.
Đoan nghĩa là mở đầu, Ngọ là giữa trưa, Đoan Ngọ là bắt đầu lúc giữa trưa; còn Dương là mặt trời, là khí dương Đoan Dương nghĩa là bắt đầu lúc khí dương đang thịnh.
Tết Đoan Ngọ ăn vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch.
Sở dĩ Tết này được gọi là Tết Đoan Ngọ, chính tvì tháng năm là tháng bắt đầu nắng to, khi dương đang thịnh như mặt trời vào lúc giữa trưa.
Theo địa bàn thì phương Nam là chính Ngọ, mà Ngọ là ngôi dương, cho nên tết này là Tết Đoan Dương. Vả chăng tháng năm cũng lại là tháng Ngọ trong một năm.
Người Trung Hoa còn gọi Tết Đoan Ngọ là Tết Trùng Ngũ hay Đoan ngũ nữa.x
Theo sách “Tuế thời lạp ký” thì Trùng Ngũ là hai số 5 gặp nhau, mồng 5 tháng Năm. Ngoài ra xưa kia ở kinh kỳ, người ta gọi ngày mồng 1 tháng năm là Đoan Nhất, ngày mồng 2 là Đoan Nhị, ngày mồng 3 là Đoan Tam, ngày mồng 4 là Đoan Tứ và ngày mồng 5 là Đoan Ngũ. Thực ra ban đầu, ngày Đoan Ngọ chì là ngày người dân cúng lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong sáng quang đãng. Hơn nữa giữa tiết hạ này oi bức, bệnh tật thương hay có, nên người ta cúng vái để cầu được bình yên, tránh đựợc mọi bệnh thời khí.
Nhưng về sau để cho ngày nay có một ý nghĩa, người ta liền lấy ngày đó làm ngày kỷ niệm Khuất Nguyên và các ông thầy thuốc cũng nhân dịp này kỷ niệm hai chàng Nguyễn Triệu và Lưu Thần vào núi Thiên Thai tìm thuốc.
Có tiết lễ, phải có cúng bái. Cũng như các tết khác, ta cũng ăn Tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ.
Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; tại các thôn xóm có cúng tại miếu. Ở nhà, các tư nhân sữa lễ cúng ông bà ông vải và cúng Thổ Công. Trong lễ tại miền Bắc về dịp này thế nào cũng có trái dưa hấu vì lúc này đang mùa. Cỗ cúng xong thì ăn, không ai mang đỗ xuống sông như tục bên Tầu, và ta cũng không cúng Khuất Nguyên tuy là ngày kỷ niệm Khuất Nguyên.
Riêng tại gia đình các đông y sĩ có sữa lễ cúng Thánh sư, ngoài lễ cúng tổ tiên và Thổ Công.
Hoa quả là những thứ không thể thiếu trong ngày Tết Đoan Ngọ.
Ngoài việc cúng lễ trong ngày Tết Đoan Ngọ, xưa và cả nay ở một vài địa phương, người Việt ta có nhiều tục lệ được mọi người cùng theo. Những tục lệ có khi ta bắt chước theo người Trung Hoa, có khi chính là tục lệ riêng của nước ta:
Tục giết sâu bọ,
Tục nhuộm móng chân móng tay,
Tục đeo bùa tui bùa túi,
Tục tắm nước lá mùi,
Tục khảo cây lấy quả,
Tục hái thuốc vào giờ Ngọ,
Tục treo ngãi cứu để trừ tà,
Tục đi siêu.
Tết mồng 5 tháng Năm, còn được ta gọi là Tết Giết sâu bọ, vì trong ngày hôm ấy ta có tục giết sâu bọ. Thoe quan niệm của ta xưa, trong người, nhất là trong bộ phận tiêu hóa, thường có sâu bọ. Sâu bọ này nếu không bị trừ đi sẽ sinh sản ngày càng nhiều và gây tại hại cho người, nhưng giết sâu bọ không phải là một chuyện dễ dàng và không phải là bất cứ lúc nào cũng giết chúng cũng được. Quanh năm chúng ẩn sâu trong bụng, duy chỉ có ngày mồng 5 tháng Năml là chúng ngoi lên. Nhân dịp chúng ngoi lên, người ta cần giết chúng.
Giết sâu bọ bằng gì.?
Chính bằng những thức ăn, nhất là bằng rượu nếp và hoa quả.
Sáng sớm ngày mồng 5 tháng Năm, ngay khi thức dậy, súc miệng xong là phải giết sâu bọ ngay. Ở miền Bắc, trong dịp này mỗi người ăn ít nhất một bát cơm rượu nếp, sau đ1o ăn một bát thạch, rồi đến ăn các trái cây như mận, muỗm, sấu, đào, roi ( mận) vv …
Đối với trẻ con, người ta bôi chúng một ít thần sa, chu sa vào hai bên thái dương và vào bụng. Có khi người ta hòa với nước cho chúng uống. Người ta cắt nghĩa sự giết sâu bọ nhu sau:
Sáng hôm mồng 5 tháng năm, bọn sâu bọ ở bụng dưới ngoi lên bụng trên. An rượu nếp vào cho chúng say, sau đó những trái cây làm cho chúng chết. Mỗi trái cây đều là một vị thuốc giết sâu bọ. Trong đông y, Thuốc Nam cũng như thyốc Bắc, các vị thuốc phần lớn đều lấy ở loài thảo mộc, các trái là kết tinh của loài thảo mộc xho nên có tính chất giết được sâu bọ.
Ngoài trái cây, người ta còn có cho trẻ con bôi hoặc uống thần sa, chu sa, vì người ta tin rằng, lúc sâu bọ bị trái cây giết có sự phản ứng gây sự bất an cho trẻ con nên dùng thần sa, chu sa để trấn an trước. Đó là tục lệ và ý kiến người xưa!
Ngày nay, hàng năm khi mồng 5 tháng Năm tới, ngoài việc cúng bái, vẫn còn người giết sâu bọ, vẫn ăn cơm rượu nếp ( cơm rượu) vào buổi sáng và vẫn dùng trái cây như xưa.
Ở Việt Nam, ít người biết chuyện Khuất Nguyên, mà chỉ coi mùng 5 tháng 5 là "Tết giết sâu bọ" - vì trong giai đoạn chuyển mùa, chuyển tiết, dịch bệnh dễ phát sinh. Người ta quan niệm, trong ngày này, các loài sâu bọ đều hoảng hốt, trốn chạy vì nhà ai cũng có bữa cỗ "giết sâu bọ" vào sáng sớm, với hoa quả đầu mùa. Đào mịn lông tơ, mận đủ mùi chua ngọt, chuối ta mập mạp, dưa hấu bổ dọc thành những chiếc thuyền rồng sơn son mịn cát lóng lánh như lân tinh, dứa còn nguyên cái mũ miện xanh rờn óng bạc, nhưng cái lòng nó vàng tươi khêu gợi. Và đương nhiên không thể thiếu món rượu nếp.
Thành lệ, cứ đến sáng sớm ngày mồng 5, người ta cho trẻ ăn hoa quả, rượu nếp, trứng luộc, kê, bánh đa, mận, muỗm, dưa hấu, uống nước dừa... bôi hồng hoàng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để giết sâu bọ. Người lớn thì uống rượu hòa ít tam thần đơn hoặc bôi phẩm hồng vào thóp đầu, vào ngực, vào rốn để trừ trùng.
Trẻ em giết sâu bọ xong khi còn ngồi trên giường, rồi rửa mặt mũi, chân tay xong bắt đầu nhuộm móng tay móng chân, đeo chỉ ngũ sắc. Em gái đến độ tuổi xâu lỗ tai cũng chọn ngày này mà xâu.
Nhiều người mua bùa chỉ đeo cho trẻ con. Bùa kết bằng chỉ ngũ sắc, kết theo hình hoa sen, quả đào, quả ớt... Lại may áo lụa mang đến các cửa chùa, cửa tĩnh in dấu vẽ bùa rồi mặc cho trẻ, có ý trừ ma tà cho khỏi quấy.
Giữa trưa hôm ấy thì làm cỗ cúng gia tiên, rồi đi hái lá mồng năm. Tục hái thuốc mồng 5 cũng bắt đầu từ giờ Ngọ, đó là giờ có Dương khí tốt nhất trong cả năm, lá cây cỏ thu hái được trong giờ đó có tác dụng chữa bệnh tốt, nhất là các chứng ngoại cảm, các chứng âm hư. Người ta hái bất kỳ loại lá gì có sẵn trong vườn, trong vùng, miễn sao đủ trăm loại, nhiều ít không kể, nhất là lá ích mẫu, lá cối xay, lá vối, ngải cứu, sả, tử tô, kinh giới, lá tre, lá bưởi, cam, chanh, quýt, mít, muỗm, hành, tỏi, gừng, chè, ổi, trầu không, sài đất, sống đời, bồ công anh, sen, vông, lạc tiên, nhọ nồi... đem về ủ rồi phơi khô, để sau đem nấu uống cho rằng uống thế thì lành.
Lại có nhiều người đi lấy lá ngải cứu, năm nào thì kết hình con thú nǎm ấy như năm Tý thì kết con chuột, năm Sửu kết con trâu, năm Dần kết con hổ... treo ở giữa cửa, để trừ ma quỷ và về sau ai có bệnh đau bụng thì dùng làm thuốc sắc uống.
2. Hội Chọi Trâu Phù Ninh
Thời gian: tổ chức vào ngày 5 tháng 5 âm lịch.
Địa điểm: xã Phù Ninh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vua Hùng và các tướng lĩnh, Thành hoàng làng.
Nội dung: Để chuẩn bị cho lễ chọi trâu bốn làng là: Cão, Phú Mãn, Ngọc Trù, Ngọc Khôi mỗi làng phải chọn mua một con trâu cà (trâu phải đen tuyền), khi mua phải xin âm dương, nếu thánh ứng mới mua. Trâu mua rồi mỗi làng phải cử người làm mo nuôi để đến ngày chợ cho chúng chọi nhau và mổ thịt tế thần. Đến ngày chợ phiên dân làng tắm rửa cho trâu thật sạch sẽ, trước khi vào trận đấu người ta cho trâu uống nửa lít rượu. Phiên chợ ngày 5-5 cho chọi cả 4 con trâu, 2 cặp trâu chọi con nào thua thì mổ thịt, còn 2 con thắng cuộc được giữ lại cho chọi trận chung kết vào phiên chợ ngày 10-10. Khi mổ trâu làm lễ tế thần, người dân chuẩn bị những thứ để đựng thịt trâu (không bầy vào bát đĩa), đó là những cái rế tết bằng dây thừng, đan dầy và nông, trên lòng rế có lót lá chuối. Thịt bày vào những cái rế ấy và đem đặt lên một mô đất vuông bằng phẳng ở ngay giữa chợ để làm lễ cúng thần, trên cái nền này có bày hương án. Khi cúng lễ xong mọi người tập trung ăn uống ngay ở chợ.
Lễ hội chọi trâu ở xã phù Ninh là một lễ hội cổ xưa nhất mang đậm nét văn hóa dân gian của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước với tín ngưỡng gắn biểu tượng con trâu và tục sát sinh vật thiêng để hiến tế thần linh cầu cho “mưa thuận, gió hòa”, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu.