Tướng tai đàn ông |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Tiến cầm tay tôi lắc lắc và chỉ ra con sông gần nhà: “Ngày trước cháu chết ở kia kìa”. Tuy nhiên, theo TS Vũ Thế Khanh, Tổng giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ – Tin học Ứng dụng (UIA), chuyện của Tiến không có gì lạ.
Chúng tôi tìm đến thị trấn Vụ Bản lúc trời đã gần chính ngọ. Không khó để hỏi thăm nhà anh Tân, chị Thuận, bởi dường như câu chuyện “hồi sinh” của cháu Tiến ở cái thị trấn nhỏ này ngay cả cháu bé lên 10 cũng kể rành mạch được.
Bên ấm trà nóng, lim dim nhả làn khói thuốc xám, anh Tân gật gù khi nghe chúng tôi dè dặt nói lý do đến thăm nhà.Cổng nhà anh Tân có 3 cháu nhỏ khoảng 9-10 tuổi đang nô đùa. Thấy tôi cất lời hỏi thăm, một cháu bé nhìn trắng trẻo, khôi ngô nhất trong đám trẻ nhanh nhảu: “Cô hỏi bố cháu à! Bố cháu đang ở trong nhà. Cô vào uống nước để cháu gọi bố”. Trong lúc chúng tôi đang ngờ ngợ đoán chừng cậu bé lúc nãy chính là bé Tiến “nổi tiếng” tiêu tốn không ít giấy mực của báo chí, thì anh Tân bước ra.
Ngẫm nghĩ một lúc, anh Tân dụi tắt điếu thuốc đang cháy dở, thẳng thắn nói: “Nói thật với cô, tôi đã không có ý định tiếp phóng viên nữa. Một phần tôi cũng không muốn mọi người nhắc quá nhiều về chuyện của cháu, tôi muốn mọi người coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Nhưng vì cô đã lặn lội đường xa đến đây tôi sẽ kể rành mạch không giấu giếm, cũng là để đính chính vài thông tin mà một số báo đã không nói chính xác hoàn toàn khiến tôi rất bức xúc”.
Anh Tân và chị Thuận cưới nhau được 6 năm mới sinh được cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến (28/2/1992). Cháu Tiến lớn lên bụ bẫm, xinh xắn, trong sự yêu chiều hết mực của cả gia đình. Thế nhưng, đến năm cháu 5 tuổi, tai họa bất ngờ ập xuống.
Hôm đó vào buổi chiều tháng Giêng, anh Tiến đang nằm đọc báo bỗng giật nảy mình chồm dậy, ruột gan như lửa đốt. Anh gọi chị Tân bảo: “Thằng Tiến đâu, tìm nó về đi”. Chị Tân tìm gọi mãi nhưng không thấy Tiến đáp lại, ra phía bờ sông gần nhà chị chỉ nhìn thấy đôi dép cháu để trên bờ. Dưới dòng nước xanh ngắt nhìn thấu tận đáy, không thấy điều gì bất thường. Chị chạy về báo anh Tân. Bỏ tờ báo, anh hớt hải ra phía bờ sông thì nhìn thấy xác cháu Tiến nổi cách bờ 3m.
“Tôi lao xuống dòng nước, ôm chặt lấy con nhấc lên bờ. Nhưng tất cả đã quá muộn!”, giọng anh lạc đi, không giấu vẻ kinh hoàng khi nhớ về cái ngày đau thương ấy.
Vắng tiếng cười trẻ thơ, căn nhà chỉ còn hai người lớn trở nên hoang lạnh hơn bao giờ hết. Là con một, phải chịu áp lực từ phía gia đình, anh Tân buồn bã chả thiết làm gì, suốt ngày ngơ ngẩn gần như người hóa dại. Cháu Tiến mất đi khiến cả anh Tân, chị Thuận đều như kẻ mất hồn. Nỗi đau càng nhân lên gấp bội khi chị Thuận do vấn đề sức khỏe đã “không còn khả năng làm mẹ” nữa. Trong cơn vật vã, bà cụ hàng xóm mà sau này anh Tân mới biết là “bà mế” có sang vỗ vai anh và bảo: “Con yên tâm, sớm muộn gì nó cũng tìm về với con thôi!”. Khi ấy vì quá đau buồn anh cũng coi lời bà như lời an ủi của những người hàng xóm tốt bụng khác.
Năm 2006, cả hai vợ chồng vẫn chưa nguôi nỗi đau mất con thì nghe có người rỉ tai ở Xóm Cọi, xã Yên Phú, Lạc Sơn, cách nhà anh chị chừng 3km có cháu bé nghi là “con lộn” của Tiến. Cháu tên Bùi Lạc Bình (sinh ngày 6/10/2002) là con một gia đình người Mường nhưng ngay từ khi biết nói đã khăng khăng bảo mình là con người Kinh, nhà trên thị trấn Vụ Bản.
Vốn chưa bao giờ tin có chuyện “đầu thai” như kiếp luân hồi của nhà Phật, nhưng hai anh chị vẫn đánh bạo tìm đến nhà cháu bé nọ. Thật bất ngờ khi anh chị đến nơi cháu không hề thấy lạ mà gọi bố mẹ xưng con và quấn quít không rời. Anh chị ngỏ lời mời chị Dự, người sinh cháu Bình, tên bố mẹ “mới” đặt, đến nhà chơi. Nghe thấy thế, Bình vui lắm, trèo phắt lên xe hào hứng như đứa trẻ lâu ngày được về nhà.
Vừa vào nhà, Bình đã chạy quanh nhà tìm đồ chơi mà Tiến trước kia thích. Cháu còn tự nhiên vào giường anh Tân, chị Thuận nằm lên đó rồi bi bô: “Ngày xưa con thường ngủ chỗ này bố nhỉ?”. “Ngay khi nhìn thấy cháu, nghe cháu nói, và thấy những hàng động của cháu vợ chồng tôi như chết đứng. Tất cả đều giống hệt như cháu Tiến thủa trước, có khác chỉ là khác về hình hài mà thôi”, anh Tân kể.
Kể từ ngày gặp cháu Bình thì ăn ngủ chẳng yên bởi giữa hai người với đứa trẻ xa lạ dường như có mối thâm tình gì đó day dứt lắm. Nhớ cháu, thương cháu nhưng lại sợ người ngoài bảo muốn cướp con. Vợ chồng anh hiếm muộn, nhưng vợ chồng chị Dự-anh Hoan cũng chỉ có duy nhất cháu Bình là con.
Về phần chị Dự, sau lần đến chơi nhà ấy, cháu Bình cứ nằng nặc đòi về “nhà bố mẹ”. Thấy con nhèo nhẹo khóc, chị Dự cũng không biết phải làm sao. Đưa cháu về nhà anh Tân, chị Thuận chơi thì sợ người ta dị nghị là “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Nhưng sau một lần Bình bị ốm nặng, sốt cao, cháu cứ luôn miệng “dọa”: “Mẹ không cho con về, con lại chết lần nữa!”. Hoảng quá, lần này chị đánh liều gọi cho anh Tân đưa cháu về nhà chơi. Cháu Bình về nhà anh thì khỏe khoắn, vui vẻ, không còn đau ốm nữa.
“Thấy cháu tha thiết quá, sau bao đắn đo chúng tôi dè dặt đề nghị gia đình anh Hoan, chị Dự cho cháu về ở với chúng tôi. Thật bất ngờ là cả vợ chồng anh chị và bà nội cháu đều gật đầu đồng ý. Chính bà nội cháu cũng bảo rằng: Ngay từ lúc thằng bé biết nói tôi đã biết nó không phải người Mường rồi”, anh Tân nói.
Theo lời anh Tân, kể từ ngày cháu về với anh chị, hết lần này đến lần khác hai người “thử” cháu. Thậm chí, nhiều người hàng xóm cũng sang nhà để “hỏi chuyện ngày xưa”. Tất cả cháu đều trả lời vanh vách. Từ tên bác hàng xóm, đến cô giáo mẫu giáo rồi bạn bè thân của cháu, cháu đều nhớ tên. Đường về nhà, hay những câu chuyện nhỏ nhặt như ngày xưa bà nội cho cháu uống bia ở đầu làng cháu cũng nhắc lại, ngay cả việc, “cháu đã từng chết như thế nào, bị ngã xuống nước ra sao”…
“Dù trước đó, chưa một lần tin có chuyện “hoang đường” như thế, nhưng đến lúc ấy cả vợ chồng tôi đều hoàn toàn tin rằng Bình chính là cháu Tiến, con chúng tôi 10 năm về trước”, anh Tân kể.
Từ ngày về ở với anh chị Tân, Thuận, Bình nằng nặc đòi gọi tên là Tiến, ngay cả tên đệm cháu cũng đòi giữ.
“Hãy coi con cháu những đứa trẻ bình thường”
Bé Tiến bây giờ đã bước sang tuổi thứ 9. Cháu trắng trẻo, khôi ngô, ngoan và lễ phép nhưng cũng hiếu động hệt như những đứa trẻ cùng trang lứa khác. Khi chúng tôi ngồi nghe anh Tân kể chuyện thì Tiến không ngừng nô đùa trước sân, chọc tổ ong khiến anh Tân mấy bận phải đứng dậy nạt cháu.
Câu chuyện dang dở thì chị Thuận mẹ cháu về, thoáng qua những dè dặt ban đầu, nhắc đến con chị cười nói xởi lởi lắm. Lần dở từng trang sách của cháu, đôi mắt chị vẫn ánh lên niềm hạnh phúc vô hạn: “Cháu đi học mấy năm liền đều đạt học sinh giỏi…”. Rồi chuyện trường, chuyện lớp, chuyện nghịch ngợm của trẻ nhỏ làm bầu không khí rộn ràng hẳn lên.
Mải chuyện đã quá trưa tự lúc nào, chị Thuận giữ chúng tôi ở lại ăn cơm, chúng tôi cũng vui vẻ đồng ý. Khi mâm cơm đã dọn tinh tươm, Tiến vẫn đứng ngoài sân mê mải đọc cuốn Hương Hiếu Hạnh của nhà sư Thích Tâm Hiệp viết về trường hợp “đầu thai” của Tiến. Nghe anh Tân bảo, nhà sư sau khi nghe câu chuyện của Tiến đã viết một bài in trong tập sách Hương Hiếu Hạnh và tặng anh chị một cuốn. Từ lúc rõ mặt chữ, Tiến lúc nào cũng cầm cuốn sách và đọc đi đọc lại câu chuyện kể về mình. Những câu chuyện ngày xưa cháu cũng dần quên.
Sau bữa cơm đầm ấm, chúng tôi xin phép hai anh chị tiếp tục lên đường. Trước khi đi, anh Tân trầm ngâm: “Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Trung tâm tiềm năng con người đã nhiều lần điện thoại gặp nhưng tôi đều từ chối. Hiện giờ, tôi chỉ muốn mọi người hãy coi cháu như những đứa trẻ bình thường khác. Cháu Tiến giờ ở nhà tôi với tư cách là “con nuôi”. Cháu vẫn thường xuyên qua lại nhà mẹ đẻ…”.Tôi đứng dậy gọi Tiến vào ăn cơm thì bất chợt cậu bé nắm tay tôi lắc lắc, chỉ ra phía con sông sau nhà: “Cô ơi, ngày xưa cháu chết ở kia kìa”. Dù đã nghe câu chuyện của cháu nhưng câu nói bất chợt của Tiến vẫn khiến tôi lạnh sống lưng.
Hành: Thổ
Loại: Hung Tinh
Đặc Tính: Đau thương, nguy khốn, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa.
Sao Thiên Thương đóng ở vị trí cố định là cung Nô. Sao này là hung tinh, chỉ dùng để xem hạn, đặc biệt là tiểu hạn, chớ không có ý nghĩa lắm trên toàn cuộc đời. Thành thử, bao giờ cần giải đoán vận hạn, thì mới nên lưu ý đến vị trí và sự hội tụ của Thiên Thương với các sao khác.
Thiên Thương có nghĩa là buồn thảm, xui xẻo, không may, ngăn trở mọi công việc, mang lại tang thương, bệnh tật, tai họa. Ý nghĩa này chỉ có khi xét vận hạn.
Thiên Thương, Văn Xương hay Văn Khúc: Tác họa khủng khiếp có thể chết non nếu hai hạn cùng xấu.
Thiên Thương, Kình Dương, Hỏa Tinh, Thiên Riêu, Cự Môn: Hại của, hại người.
Thiên Thương, Thiên Sứ: Hay ốm đau (Thiên Sứ) hay rắc rối vì hạn.
Thiên Thương ở Tý, Dần: Độc.
Thiên Thương, Thiên Hình: Bị đánh.
Thiên Thương, Tang Môn: Có tang, có sự biến đổi phi thường
Thiên Thương, Thiên Khốc: thi cử lận đận.
Họa sẽ đến mau nếu Thiên Thương ở Dần,Thân,Tỵ, Hợi.
Họa sẽ đến thật mau nếu: Thiên Thương ở Sửu, Mão, Thìn, Dậu, Tuất;Thiên Sứ ở Tý, Mão, Thìn, Ngọ, Mùi.
Những Sao Giải Thiên Thương
Chính Tinh:
Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương, Thiên Đồng.
Bàng Tinh:
Hóa Khoa, Hóa Lộc, Tả Phù, Hữu Bật, Quang Quý, Khôi Việt.
Thiên Giải, Địa Giải, Giải thần.
Thiên Quan, Thiên Phúc.
Tuần, Triệt.
Cung Phúc Tốt:
Ngoài ra nếu Phúc có nhiều sao tốt và mạnh thì sẽ chế giải khá mạnh và toàn diện.
Tuy nhiên, việc chế giải ở đây không có nghĩa là sự việc đó hoàn toàn không xảy đến, mà là nếu có đến, chuyện chẳng may đó không tác họa đúng mức, nếu gặp sao giải hiệu lực.
Đã từ lâu, nốt ruồi không chỉ là một đặc điểm nhận diện của con người mà còn là một dấu hiệu dự báo được vận mệnh giàu sang phú quý hay nghèo khổ túng bần. Cũng có thể nó biểu hiện cho việc đại cát đại lợi và cũng có thể biểu hiện cho những hiểm nguy bất ngờ v.v Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn thông tin về Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì. Mời các bạn cùng theo dõi.

Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại:
+ Nốt ruồi ở gót chân phải có ý nghĩa gi?
+ Răng khểnh có ý nghĩa gì đối với con gái
+ Râu quai nón có ý nghĩa gì?
+ Ý nghĩa của việc tặng gương soi
+ Ý nghĩa của việc đeo nhẫn ở các ngón tay
Từ thời xa xưa chúng ta vẫn nghe đến rằng Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, vẻ đẹp của đôi mắt thể hiện được phần nào tâm hồn của chủ nhân và có thể là thu hút người đối diện. Vậy nếu Nốt ruồi ở mắt có ý nghĩa gì? Và liệu nốt ruồi mọc ở trong mắt phải thì có làm ảnh hưởng gì đến vẻ đẹp như bấy lâu nay mọi người vẫn hằng ví von hay không?
Thực chất câu trả lời cho Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì cũng còn rất nhiều ý kiến trái chiều, cũng từ sự nghiên cứu của nhiều nhà nhân tướng học khác nhau. Dưới đây là một số ý nghĩa phổ biến mà mọi người thường biết đến:
Thể hiện cho sự đa sầu đa cảm:
Vì đôi mắt thể hiện cho những gì sâu thẳm của con người như câu ví ở trên. Một nốt ruồi mọc ở trong mắt phải dường như để thể hiện rằng con người này là một người đa sầu đa cảm. Đặc biệt nếu là phụ nữ thì sẽ là người yếu lòng, khóc thầm nhiều và cuộc sống dường như có nhiều phiền muộn. Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì xét theo quan niệm này thì không mấy tốt đẹp.
Thể hiện cho sự giàu có:
Nhiều người tìm hiểu Nốt ruồi ở mắt có ý nghĩa gì chắc hẳn không khỏi vui mừng vì nếu có nốt ruồi ở đuôi mắt (trái, phải) thì sẽ thể hiện cho sự giàu có. Nốt ruồi ấy là nốt ruồi kinh doanh, gặp nhiều may mắn.
Ngoài các câu trả lời cho Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì như đã kể trên thì với các vị trí khác xung quanh mắt phải cũng có những ý nghĩa khác nhau. Kẻ 1 đường dưới mắt phải và đánh dấu các điểm và đọc ý nghĩa theo chỉ dẫn dưới đây:
Nếu ngoài gần gò má thì là số hay gặp cướp giật
Gần vào phía sống mũi hơn 1 chút thì là người hay làm việc tốt, gặp điều tốt
Gần sống mũi hơn nốt ruồi trên là kẻ lăng loàn
Gần hơn sống mũi nữa là người sinh ít con
Gần khóe mắt phải là khi sinh ra thường hay nhiều bệnh tật.
Tuy các câu trả lời cho Nốt ruồi ở mắt có ý nghĩa gì rất nhiều nhưng chỉ mang tính chất tham khảo. Hiện nay rất nhiều người đã đi tẩy nốt ruồi để một mặt thẩm mỹ hơn và 1 mặt họ tin có thể tránh được những điều không hay từ ý nghĩa của nó.
Hi vọng những thông tin trên của Phong thủy số sẽ giúp bạn tìm lời giải cho Nốt ruồi trong mắt phải có ý nghĩa gì và nhiều hơn thế nữa nhé. Chúc các bạn gặp nhiều thành công!
![]() |
| Ảnh minh họa |
Lý thuyết về âm dương là một tên gọi của Đạo. Hai lực này đối nghịch nhau và cùng nhau tạo nên mọi hình thái của đời sống. Âm thì mờ tối , Dương thì sáng sủa, Âm thụ động, Dương tích cực. Quan niệm Âm- Dương xem con người và môi trường làm một. Đó là nhà ở, chỗ làm việc, núi đồi, sông suối, quả đất và không gian. Nếu bạn hiểu được những gì phong thuỷ trình bày, thì bạn có thể gìn giữ được sự quân bình bên trong, để được may mắn và cải thiện số mệnh của mình.
Môn Phong thuỷ có nhiệm vụ tìm kiếm để tạo ra một nơi cho việc sinh sống được quân bình, hài hoà, người ngụ cư được sức khoẻ dồi dào. Ý nghĩa của sự cân bằng không thuần ở sự đối xứng bên ngoài. Nó sắp xếp nhà cửa và con người với các yếu tố thiên nhiên và nhân tạo để có được sự hài hoà và yên lành trong môi trường chung quanh.
Tết nguyên Đán hay còn gọi là Tết ta, tết Âm lịch, tết cổ truyền hoặc chỉ đơn giản gọi là Tết. Đây là dịp lễ quan trọng nhất năm, thời gian được nghỉ dài nhất. Do ảnh hưởng từ văn hóa Trung Quốc và nền văn hóa Á Đông nên từ xa xưa, ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam không thể thiếu những phong tục như cúng Táo quân, Tất niên, mừng tuổi, xông đất, ....
Tết nguyên đán được tính theo chu kỳ vận hành của mặt trăng, nên thường muộn hơn tết Dương lịch khoảng 1 tháng (hay còn gọi là tết Tây). Nguyên nhân là do quy luật cứ 3 năm lại có một năm nhuận. Tết nguyên đán ở Việt Nam thường rơi vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2 dương lịch, và thường kéo dài trong khoảng nửa tháng từ ngày 23 tháng Chạp tới ngày 7 tháng Giêng năm sau.

Theo tiếng Hán thì chứ Tết do việc đọc lệch từ chữ Tiết mà thành, hai chữ Nguyên đán có nguồn gốc từ chữ Hán. “Nguyên” có nghĩa rằng một sử khởi đầu hay sơ khai, hoặc có thể là buổi sáng sớm. Nên thực ra phải đọc đúng là “Tiết Nguyên Đán” hay “Xuân Tiết”. Tuy nhiên, do cách tính lịch của người Trung Quốc và Việt Nam khác nhau nên có những năm, người Việt Nam đón Tết Nguyên Đán trước Trung Quốc và các nước khác 1 đến 2 ngày.
Từ thời văn minh lúa nước, do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã phân chia thời gian trong 1 năm thành 24 tiết khí khác nhau. Trong đó , thời khắc quan trọng nhất khi bắt đầu 1 chu kỳ canh tác là thời gian sau Tết Nguyên Đán.
Theo lịch sử Trung Quốc thì Tết Nguyên Đán có từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế và thay đổi theo từng thời kỳ. Những đến từ nhà Hán thì đặt tháng tết vào tháng Dần tức tháng giêng. Từ sau đó, các triều đại đều lấy tháng Giêng là tháng tết.
Ở thời Đông Phương Sóc, ông chi rằng ngày tạo thiên lập địa có giống gà, ngày thứ hai có thêm chó, ngày thứ 3 thêm lơn, ngày thứ 4 thêm dê, ngày thứ 5 thêm trâu, ngày thứ 6 sinh ngựa, ngày thứ 7 sinh loài người, đến ngày thứ 8 mới sinh ngũ cốc. Vì thế Tết được chọn từ ngày mồng 1 đến hết ngày mồng Bảy.
Trước năm 1967, Việt Nam lấy múi giờ chung là GMT+7 làm múi giờ chuẩn cho âm lịch.

Tết nguyên đán ở Việt Nam có ý nghĩa sâu xa và linh thiêng, vừa là tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới. Mọi người chúc tụng nhau sức khỏe, tiền bạc hạnh phúc. Đây cũng là dịp người Việt thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn. Hướng về giá trị cốt lõi là cội nguồn, tình cảm gia đình, annh em hàng xóm trở thành một truyền thống tốt đẹp.
Về ý nghĩa tâm linh của ngày Tết là hoạt động thắp nén hướng, bày mâm cỗ dâng lên tổ tiên, với mong muốn tổ tiên sẽ luôn phù hộ cho những người trong gia đình sức khỏe, công việc trong năm mới luôn tốt và may mắn. Trong ngày Tết cũng không thể thiếu những phong tục ngày tết mà ông cha ta đã lưu giữ từ hàng nghìn năm nay.
Đó chính là giá trị đạo đức và nhân văn của ngày tết cổ truyền của Việt Nam. Ngoài ra, văn hóa ngày Tết Việt Nam không thể thiếu những lời chúc, chúc nhau sức khỏe, tiền tài, tuổi tác, chú làm ăn bằng năm, bằng mười năm trước.
Xem thêm những bài viết hữu ích khác tại: Phong thủy số
: Những bài thơ chúc tết hay Những câu thơ chúc tết hay nhất Tết 2017
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thùy Dung (##)
![]() |
| Ảnh minh họa |
Núi này thường sinh huyệt chân long, vị trí ở bên trái minh đường trước mộ nên gọi là “Tả Phụ”.
Núi Tả Phụ thường nằm bên cạnh núi Vũ Khúc, nó có khá nhiều điểm giống với núi này. Núi cao như chuông úp là núi Vũ Khúc, núi thấp bên cạnh là núi Tả Phụ.
Núi Tả Phụ nhỏ nhắn, tròn đầy là địa thế đẹp. Nếu núi kéo dài thành dáng bình phong lại càng tốt. Núi Tả Phụ có càng nhiều núi hộ vệ thì long mạch rất tốt.
Nếu núi Tả Phụ liên tiếp như tường thành, có thể bao bọc hết huyệt mộ thì long thế lớn kết huyệt quý. Trường hợp là cát tinh (núi cát) kết huyệt không có núi Tả Phụ bảo vệ, chứng tỏ long mạch chưa lập. Nếu kết huyệt cũng không quý. Trong “Hám Long Kinh” có viết: “Núi Tham Lang, núi Cự Môn không có núi Tả Phụ, núi Hữu Bật hộ vệ thì không giữ được long mạch”.
Núi Tả Phụ thuộc hành Kim. Bản thân núi không cát cũng không hung. Vậy nên kết hợp với cát tinh thì cát, kết hợp với hung tinh thì hung. Dương trạch cũng vậy.
Theo Bí ẩn thời vận
|
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
![]() |
Sự tích suy nguyên về bánh chưng và bánh dày mà ngày nay chúng ta đều biết và xác tín là do Tiết Liêu/ Lang Liêu - một trong các người con của vua Hùng - làm ra là câu chuyện được ghi chép trong Lĩnh Nam Chích Quái (thế kỷ XV).
Truyện kể rằng: Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi vị quan lang và công tử lại mà phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.
Thế là các con đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ khắp trên cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duy có vị công tử thứ 18 là Tiết Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, mắc bệnh mà chết, tả hữu ít người giúp đỡ, khó xoay xở, nên đêm ngày lo lắng, mộng mị bất an. Một đêm kia mộng thấy thần nhân tới nói rằng: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi người khỏe mạnh và ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình đất và trời rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công đức sinh thành lớn lao của cha mẹ”. Tiết Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ mà nói rằng: “Thần nhân giúp ta vậy!”.
Nói rồi bèn theo lời dặn trong mộng mà làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy không bị vỡ, vo cho sạch, lấy lá xanh bọc chung quanh làm hình vuông, cho trân cam mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho việc đại địa chứa chất vạn vật rồi nấu chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn, tượng trưng cho trời gọi là bánh dày.
Đến kỳ, vua vui vẻ truyền các con bày vật dâng tiến. Xem qua khắp lượt, thấy không thiếu thức gì. Duy có Tiết Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh dày. Vua kinh ngạc mà hỏi, Tiết Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không chán, hơn hẳn các thức của các con khác, tấm tắc khen hồi lâu rồi cho Tiết Liêu được nhất.
Đến ngày Tết, vua lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước (1).
Câu chuyện này có một số chi tiết cần phải xem xét:
1. Trước hết, khái niệm “trời tròn đất vuông” vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc (2). Từ thế kỷ thứ X, An Nam dần dần thoát ly khỏi uy quyền phương Bắc, và đến triều Lý (1009-1225), nước Đại Việt mới thực sự là một quốc gia độc lập. Phật giáo được coi là quốc giáo, Tăng lữ tham gia vào hàng ngũ quan lại, và một số vị vua thời Lý, Trần đã tự mình đứng ra thành lập các tông phái, thiền phái (Lý Thánh Tông mở phái Thảo Đường, Lý Cao Tông tự xưng là Phật, Trần Nhân Tông là sơ Tổ Trúc Lâm yên Tử, được tôn là Điều Ngự Giác Hoàng). Tuy vậy, về mặt quản lý nhà nước, do tiếp nhận văn hoá phương Bắc, nước Đại Việt độc lập vẫn tổ chức theo quan niệm vương quyền Nho giáo. Ngoài các khái niệm Thiên Vương, Phật-Vua, vẫn còn thừa nhận khái niệm Thiên Tử (Ông vua Con Trời). Như vậy, vua vẫn phải lưu tâm đến việc tế cáo "Cha Trời, Mẹ Đất" cũng như phong thần các xứ (Thiên Tử phong bách thần) để tỏ rõ uy quyền với các thần linh trong nước. Đàn Xã Tắc lập năm 1048 và đàn Viên Khâu (Gò đất hình tròn, theo nguyên tắc đàn xây ở phía Nam kinh thành để tế trời, gọi là đàn Nam Giao), đàn Vu ở phía Nam kinh thành được nhắc tới vào các năm 1137-1138 (3). Nói chung, việc tế Trời-Đất đến thời Lê mới thực sự hoàn bị theo nghi lễ Nho giáo. Song kể từ thế kỷ XI, việc dựng đàn tròn, đàn vuông để tế "Cha Trời, Mẹ Đất" đã cho thấy khái niệm “trời tròn đất vuông” đã tồn tại trong nếp nghĩ của người dân nước ta từ lâu
2. Các tác giả Lĩnh Nam Chích Quái sau đó đã khuôn công năng của hai loại bánh này vào việc cúng tổ tiên, tôn vinh chuẩn mực hiếu đạo, một giá trị luân lý cốt lõi của Nho giáo; để vua Hùng nói: “Tiến cúng tiên vương cho ta tròn đạo hiếu”, và cuối truyện xác định: “Đến ngày Tết vua lấy bánh này dâng cúng cha mẹ. Thiên hạ bắt chước…”. Tục cúng bánh chưng, bánh dày vào ngày Tết được mô tả từ câu truyện này, về sau được xác tín là tập tục ra đời từ thời Hùng Vương.
Nhưng Tết, xét từ nguyên uỷ là lễ thức, lễ hội được tiến hành sau mùa gặt hàng năm hay bắt đầu mùa gieo cấy. Thời điểm này tùy thuộc vào điều kiện khí hậu và tập quán canh tác của mỗi tộc người. Tết như vậy có chức năng kép: tạ ơn thần linh và tổ tiên về kết quả vụ mùa đã qua và cầu mong kết quả cho vụ mùa năm tới. Nói chung, các cư dân nông nghiệp luôn tiến hành một loạt nghi lễ theo các tiến trình phát triển của cây lúa. Với những lễ vật tương ứng.
- Lúa vừa chín tới: lễ cúng ăn cốm.
- Lúa chín gặt: lễ cúng cơm mới.
- Gặt xong đưa vào kho: lễ mừng lúa mới, với lễ vật là các thứ chế biến từ gạo tẻ và nếp như: cơm, xôi, bánh…
Cốm là lễ vật phổ biến trong lễ cúng mừng lúa lúc đã cứng hạt. Cốm là sản phẩm chế biến bằng cách rang lúa nếp, giã cho dẹp lại và sàng sảy để bỏ trấu đi. Dữ liệu của nhà dân tộc học Từ Chi viết về loại cơm chul (cơm chùn), lễ vật trong dịp Ăn cơm mới của người Mường, tuồng như đã hé mở cho chúng ta biết về nguyên ủy của cốm: lúa gặt về còn ướt sũng, không có thời gian phơi khô, mới được làm thành lễ vật dâng cúng ngay để mọi người bắt tay vào gặt. Chỉ còn một cách là đem “rang” (có hạt bung ra) rồi giã nhẹ để tách vỏ. Gạo đó chế thành cơm chul (4). Lúa nếp rang nở bung ra mà người miền Bắc gọi là bỏng thì ở Trung Bộ (kể cả Nam Bộ) gọi là nổ. Bánh nổ là lễ vật truyền thống vào dịp Tết ở Trung Bộ, và nổ là lễ vật bắt buộc trong nhiều đám cúng việc lề ở Nam Bộ. Phải chăng đó là di duệ của cốm, và xa xưa hơn là cơm chul?
Cơm là lễ vật bắt buộc trong lễ cúng cơm mới của nhiều tộc người, và cũng là lễ vật của nhiều lễ cúng khác. Tuy nhiên, vì sự bình dị của nó mà cơm không được người ta coi là lễ vật thực sự như xôi. Rõ ràng trong nếp nghĩ phổ biến của nhiều tộc người, xôi là lễ vật bởi nó phải có trong các cuộc lễ mà hiếm hoi trong bữa ăn thường ngày. Gạo nếp quý hiếm hơn gạo tẻ, và vì có hương thơm nên được chọn làm lễ vật dâng cúng. Nói chung, gạo là thức ăn chính của con người nên nó có ý nghĩa thuộc về nghi lễ. Lúa gạo luôn được coi là có nguồn gốc thiêng liêng, là hạt ngọc trời; nó biểu trưng cho sự sung túc, sự sinh sản dồi dào, nhờ trời mới có và sự thanh khiết nguyên sơ. Người Thái đồ, nấu xôi có nhuộm màu: xôi đỏ tượng trưng cho Mặt Trời, xôi vàng tượng trưng cho Mặt Trăng (Tết Cầu mùa: Xíp Xì)(5). Người Nùng làm xôi bảy màu để “tượng trưng cho chặng đường lịch sử bảy tháng đầy ý nghĩa trong một năm đất trời xoay chuyển, nhưng gắn liền với lịch sử dân tộc” (mỗi màu tượng trưng một tháng, từ tháng Giêng đến tháng Bảy)(6). Cơm cúng đơm vào chén, bát, thậm chí còn nèn, gọi “chén cơm in”. Còn xôi đơm ra đĩa hay mâm, phổ biến từ “mâm xôi”, luôn gợi cho ta hình ảnh của một sự vun cao lên tròn trịa và sung mãn, biểu thị cho sự phồn thực.
Từ xôi đến bánh dày chỉ là một bước ngắn: lấy xôi nếp giã nát ra và vun lên thành mâm bánh dày. Loại bánh làm bằng nếp như vậy vẫn là lễ vật “thanh khiết nguyên sơ” như xôi. Với người Chăm, lễ vật trong Tết Rija Nưga của họ có xôi, bỏng (nổ) và bánh đúc(7). Với người Dao, trong Tết nhảy của họ có lễ vật không thể thiếu là bánh bằng bột gạo nắn tròn, treo tòng teng trên những cây mía đặt ở gian giữa bàn thờ Bàn Vương(8). Đó là hai ví dụ về hai loại bánh “tròn đầy”, thuộc thứ lễ vật được chế biến bằng bột gạo có phần kỳ công hơn bánh dày. Bánh dày không chỉ là đặc sản của người Việt, mà nó còn là thứ lễ vật bắt buộc, đã thành tục lệ trong văn hóa của nhiều tộc người. Tết của người H'mông là một ví dụ: “Bánh dày là hương vị không thể thiếu, một biểu tượng trên bàn thờ tổ tiên trong ngày Tết của người H'mông”(9). Ở người H'mông Hang Kia, Pà Cò cũng có truyền thuyết suy nguyên về bánh dày của dân tộc mình. Nội dung truyền thuyết hoàn toàn khác với sự tích bánh chưng bánh dày của người Việt, mà chủ ý là nói về nguồn gốc lúa nếp: ông Tổ người Hmông lấy được từ xứ sở của người tí hon dưới lòng đất, và hàng năm, người Hmông làm bánh dày để tưởng nhớ tổ tiên và tạ ơn con chim đại bàng đã cứu ông Tổ mình ngày xưa(10). Một tập tục liên quan đến loại bánh dày này là trong mấy ngày đầu năm phải ăn bánh dày trắng, tuyệt đối không được nướng bánh dày. Nếu nướng, người H'mông cho rằng năm đó nương rẫy sẽ bị hạn hán(11). Điều này cho chúng ta thấy: bánh dày theo quan niệm của người H'mông là biểu thị nương rẫy, là đất, nói rộng ra là “không gian sinh tồn” .
3. Nói chung, bánh dày là một lễ vật được hình thành trong một quá trình nhất định, khuôn theo một tâm thức thuần khiết từ quan niệm thiêng về gạo (tẻ và nếp) của cộng đồng các cư dân trồng / tỉa lúa. Nó vừa là nhân vừa là quả của nền văn hóa lúa; ở đó, nó là biểu tượng của tín lý phồn thực hơn là tín lý tư biện về vũ trụ. Điều này cũng có phần tương tự đối với cái bánh chưng.
gian thứ 3 bên trái là táo bếp.
Ở nước ta, bếp nấu là một nét đặc trưng nằm trong bản sắc văn hóa dân tộc. Vấn đề này tranh cãi cũng nhiều, nhưng phần nhiều những ý kiến bàn cãi không theo nguyên lý mà diễn đạt với sự suy diễn. Do hiểu bếp nấu chưa đúng nên cách đặt bếp còn tùy tiện dẫn đến xảy ra không ít những điều đáng tiếc, lúc đó đổ lỗi cho số.

Căn cứ theo Ngọc hạp Thông thư của Triều Nguyễn, đặt lò bếp vào phương Nhâm, Hợi khó nuôi con. Miệng lò quay về phương Tý và Quý là hướng Bắc không thịnh vượng cho gia đình. Đặt bếp vào phương Sửu khó chăn nuôi. Miệng bếp đặt vào Tỵ và Bính (cuối Đông Nam và đầu Nam) là tổn tài. Miệng bếp đặt vào phương Đinh (cuối Nam) – Dậu (chính Tây) trong nhà đa bệnh.
Chú ý, cách đặt bếp cấm tuyệt đối miệng lò đặt vào các vị trí địa chi (như Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ…). Đặt miệng lò vào các phương địa chi Ngọ hay Mùi nếu trong nhà có người đàn bà đúng vào hai tuổi Ngọ, Mùi sẽ bị dâm dục. Nguồn nước sinh hoạt hàng ngày không được đặt đối diện với mặt bếp kể cả giếng nước đối diện với mặt bếp thì nữ, nam dâm loạn, giếng nước không đặt trên đầu bếp hay bị cháy nhà, hỏa hoạn…
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thanh Vân (##)
Không chỉ là tôn giáo với những giáo lý giáo luật chặt chẽ, đạo Phật có nhiều triết lý sống đơn giản mà sâu sắc, giúp con người tiếp cận gần hơn tới hạnh phúc và vui vẻ.
![]() |
![]() |
| ► Cùng xem những tiết lộ thú vị về 12 cung hoàng đạo tình yêu |
![]() |
![]() |
![]() |
| ► Cùng đọc những câu nói hay về cuộc sống và suy ngẫm |
![]() |
![]() |
| ► Tham khảo thêm những thông tin về: Lịch vạn niên và Lịch âm dương chuẩn xác nhất |
Người tuổi nào không giàu sang thì phú quý trong 3 năm tới?
Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa mơ nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu phật tử cùng tao nhân, mặc khách khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương.
|
| Lễ hội chùa Hương |
Tại chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền.
Phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa Ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của Đạo giáo. Đền Cửa Vòng thờ Bà Chúa Thượng Ngàn là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và cá thần.
Ngày hội, làng tổ chức đám rước thần từ đền ra đình trong không khí đông vui, hân hoan của mùa xuân. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu... Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền ngắm cảnh như lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Đến nay, ngày hội đua thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội.
Trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người với thiên nhiên cao rộng, là sự hòa hợp giữa thực và mơ.
(Theo Việt Báo)
![]() |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Chọn kiểu lông mày của bạn và khám phá lời tiên tri thú vị nhé!
![]() |
![]() |
![]() |
![]() |
Mr.Bull (theo BT)
Hiện tượng: Đầu giường bị dầm ngang ép sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến chất lượng nghỉ ngơi của con người, dễ làm cho mất ngủ, tinh thần mơ mơ màng màng. Thời gian như vậy càng lâu thì tổn hại càng lớn.

Phương pháp hóa giải:
Phương pháp tốt nhất và hữu hiệu nhất là điều chỉnh đầu giường ra xa dầm ngang hoặc trên đầu giường đặt một chiếc tủ đầu giường có chiều rộng bằng dầm ngang để tránh lường sát. Nếu tạm thời chưa thể đặt tủ đầu giường thì trên hai đầu dầm ngang treo hai quả hồ lô đồng để giảm lường sát khí.
sức cuốn hút người khác phái. Vì vậy đôi khi không cần phải chủ động mà chỉ cần thể hiện sự lễ độ, lịch sự của mình, họ cũng được người khác làm quen, bắt chuyện.
Người tuổi Mão thường có tình cảm phong phú, có nhiều tâm tư, cá tính ôn hòa, có thể thấu hiểu thông cảm cho người khác. Họ dễ nảy sinh tình cảm với người khác giới nhưng đôi khi cũng dế cãi cọ, tranh chấp. Vì vậy người tuổi Mão cần biết cách kiềm chế cảm xúc của mình để tránh gây tổn thương người xung quanh.
![]() |
![]() |
| ► Xem bói ngày tháng năm sinh để biết vận mệnh, công danh, tình duyên của bạn |
Tướng miệng phụ nữ có số mệnh giàu sang
1. Hội Đống Đa:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Gò Đống Đa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn vị vua Quang Trung.
Nội dung: Đống Đa khi xưa là nơi 29 vạn quân Thanh bị tiêu diệt năm 1789. Sáng sớm ngày mùng 5, đám rước Thần mừng chiến thắng từ đình Khương Thượng về gò Đống Đa trong rừng cờ tàn, tán, lọng, kiệu... rực rỡ màu sắc cùng chiêng, trống, thanh la... diễu hành.
Đặc sắc và thu hút người xem nhiều nhất còn là lễ rước "Rồng lửa" được bện bằng nùi rơm, mo nang và giấy bồi trang trí thành hình con rồng, một tốp thanh niên bận võ phục đi quanh, biểu diễn côn, quyền nhằm tái hiện lại cuộc chiến đấu đã qua. "Rồng lửa Thăng Long" trở thành biểu tượng chiến thắng của người dân Việt Nam.
Trong hội còn nhiều trò chơi dân gian vui khỏe đua tài, đua trí trên bãi rỗng trước gò.
2.Hội Vân Sa:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Làng Vân Sa, xã Tản Hồng, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây cũ (nay Thuộc Hà Nội).
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh Trần Quốc Chẩn (là con thứ của vua Trần Hưng Đạo và là quan đại triều đời Trần) và Ngũ Nương (Đức Thánh Bà - là một vị tướng của Hai Bà Trưng).
Nội dung: Làng Vân Sa vốn là một làng nghề nuôi tằm dệt lụa, vì thế mà mở đầu của lễ hội và lễ rước bông, sau đó mới tới các hoạt động vui chơi dân gian như: trò cướp kén, trò tứ dân lạc nghiệp, múa Tứ Linh.
3. Hội Vật Võ Liễu Đôi:
Thời gian: Tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày 10 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm tổ chức: Làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
Đối tượng suy tôn: nhằm tưởng nhớ tới Thánh ông họ Đoàn giỏi võ, sức khỏe phi thường có công dẹp giặc phương Bắc, đồng thời là ông tổ của vật võ.
Nội dung: Ở các lễ hội khác, vật võ chỉ là trò vui thể thao còn ở trong lễ hội Liểu Đôi, vật võ lại là nội dung chính của ngày hội.
Mở đầu hội vật võ là nghi thức rước Thánh vào dóng. Lễ rước nghiêm trang mang đậm tinh thần thượng võ. Tiếp theo là lễ phát hỏa. Một ngọn lửa thật sáng được đốt lên, ông trùm trao gươm và khăn đào cho một đô vật danh dự (lễ này gọi là lễ trao gươm và thắt khăn đào). Cuối cùng là lễ Thanh động còn gọi là "lễ múa cờ tụ nghĩa".
Sau nghi thức long trọng, cuộc đấu vật bắt đầu. Có hai bé trai được làng cử ra vật năm keo để trình làng (gọi là lệ năm keo rốt), tiếp theo là các đô vật Liễu Đôi giao đấu trước, sau đó là các đô vật ở các nơi đến tranh tài.
Ngoài vật võ trong lễ hội còn rất nhiều thú vui khác như hát vè, hát đối đáp... và những món ăn đặc sản do tài nghệ chế biến của nhân dân địa phương mang đến lễ hội để dự thi.
4. Hội Phương Thành:
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 5 tới ngày mùng 7 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Phương Định, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn và ghi nhớ công ơn ông tổ nghề dệt.
Nội dung diễn ra: Mở đầu lễ hội là lễ tế ông tổ nghề dệt của làng, tiếp đó là các hoạt động vui chơi lành mạnh như thi dệt, chọi gà, cờ tướng, đấu vật
Hôn nhân là việc trọng đại của cả một đời người không chỉ riêng với cô dâu và chú rể mà nó còn liên quan tới cả một dòng họ. Do vậy nó phải được chuẩn bị rất chu đáo và đầy đủ. Phong tục cưới hỏi của người Việt bao gồm nhiều nghi lễ khác nhau và cùng với sự đi lên và phát triển của xã hội thì phong tục ấy vẫn được bảo tồn và phát triển. Tùy vào từng vùng miền mà các nghi thức cưới hỏi mang tính độc đáo riêng. Cùng Tạp Chí Cưới Hỏi tìm hiểu về phong tục cưới hỏi miền Bắc:
Ở miền Bắc về cơ bản phong tục cưới hỏi vẫn bao gồm 3 bước: dạm ngõ, ăn hỏi và lễ cưới.
Lễ dạm ngõ hay còn được gọi là lễ chạm ngõ là nghi lễ đầu tiên trước khi tiến hành lễ cưới. Hai bên gia đình chọn ngày lành tháng tốt để đi lại giao lưu và nhà trai chính thức xin phép cho chú rể đi lại với cô dâu. Lễ vật trong ngày dạm ngõ đơn giản chỉ gồm chục trầu cau, chè, thuốc và bánh kẹo với số lượng chẵn.
Trong nghi lễ dạm ngõ này thì bên nhà trai đưa sính lễ đến bên nhà gái với số lượng người không quá đông, chỉ gồm 4 người là đủ.Việc đón tiếp nhà trai cũng đơn giản và thân thiện.
Sau lễ dạm ngõ là lễ ăn hỏi
Trong lễ ăn hỏi, các thủ tục: ăn hỏi, xin cưới và nạp tài được gộp luôn trong ngày này. Nhà trai sẽ mang tới nhà gái 30 chục trầu và tráp ăn hỏi. Sau khi bố chú rể, bố cô dâu giới thiệu những người tham dự, mẹ chú rể sẽ lần lượt đưa 30 chục trầu. Chục trầu đầu tiên là cho nghi thức ăn hỏi, chục trầu tiếp theo cho nghi thức xin cưới và chục trầu thứ 3 là cho lễ nạp tài. Sau khi nhà gái nhận chục trầu thứ 3 thì sẽ đến lễ nhận các tráp ăn hỏi của nhà trai.
Tráp ăn hỏi có thể gồm 5, 7, 9 hoặc 11 tráp nhưng phải là số lẻ và lễ vật trong các tráp phải là bội số của 2. Đồ lễ ăn hỏi không thể thiếu là bánh cốm, bánh su sê, mứt sen, chè, rượu, trầu cau, thuốc lá… và có thêm xôi, lợn quay.
Các mâm quả này sẽ được nhà gái đưa lên bàn thờ gia tiên để thắp hương cho tổ tiên.
Điều đặc biệt cần lưu ý trong lễ ăn hỏi là
Sau khi nghi lễ ăn hỏi kết thúc thì lễ cưới sẽ được diễn ra và vào ngày lành tháng tốt như hai gia đình đã thông báo với nhau, thì nhà trai và chu rể sẽ đến rước cô dâu về nhà.
Cô dâu sẽ được trang điểm, mặc váy cưới và chú rể mặc vest. Nhà trai và nhà gái giới thiệu thành phần tham dự, rồi nhà trai trao trầu xin dâu cho nhà gái, xin phép cho chú rể lên phòng đón cô dâu. Cô dâu chú rể làm lễ gia tiên tại nhà gái. Sau cùng nhà trai xin phép được đưa cô dâu mới về nhà chồng. Đại diện nhà gái cũng có bài phát biểu đám cưới đồng ý cho nhà trai đón cô dâu. Khi cô dâu về nhà chồng, lễ gia tiên cũng được thực hiện ở nhà trai. Sau đó, lễ cưới sẽ được tổ chức tại nhà trai với các bài phát biểu của hai bên đại diện gia đình, trao quà và tiệc mặn hoặc ngọt cùng các chương trình biểu diễn văn nghệ góp vui.
Khi tiệc cưới kết thúc, phong tục cưới hỏi miền bắc có thêm tục lại mặt. Lễ lại mặt vẫn là một trong lễ quan trọng thể hiện ý nghĩa như lời nhắc nhở đôi vợ chồng mới cưới về chữ hiếu không chỉ với nhà chồng mà cũng phải quan tâm, chăm sóc tới gia đình nhà vợ. Ngoài ra còn thể hiện sự chu đáo, quan tâm của gia đình nhà trai và chú rể với gia đình nhà gái, tạo sự gắn bó, thân mật giữa hai nhà.
![]() |
| Ảnh minh họa |
| => Xem tướng chuẩn xác biết vận mệnh tại Lịch ngày tốt. |