Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,...   Click to listen highlighted text! Chào mừng bạn đến với website Tử vi, tướng số, phong thủy, bói, quẻ,... Powered By DVMS co.,ltd
Kính mời quý khách like fanpage ủng hộ Vạn Sự !

Vạn Sự

Những vật dụng trang trí nhà hợp phong thủy để đón tài lộc

Vậy là những ngày cuối cùng của năm cũ đang qua đi, một năm mới lại đến, một mùa xuân mới tràn đầy sức sống và năng lượng lại về, những bí quyết trang trí nhà hợp phong thủy, đón tài lộc năm mới dưới đây chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Bình gốm
Yếu tố ngũ hành rất quan trọng trong phong thủy, chính vì vậy, trong nhà cần hội tụ đủ cả 5 yếu tố. Có rất nhiều đồ vật trong nhà thuộc hành Kim như: tivi, tủ lạnh, quạt… và hành Hỏa như các bóng đèn chiếu sáng, bếp đun... Tuy nhiên, hành Mộc và hành Thủy trong nhà thường ít hơn, vì vậy để trung hòa các hành với nhau, bạn có thể sử dụng bình gốm kết hợp nước trong bình để cắm hoa. Với cách làm đơn giản này, bạn vừa có thể cân bằng được ngũ hành giúp tăng cường sinh khí cho ngôi nhà vừa có thể trang trí nhà thêm đẹp và sinh động bằng những bình hoa tươi tắn.




2. Chuông gió
Theo quan niệm từ thời xa xưa, tiếng chuông gió ngân vang mang ý nghĩa báo hiệu tin mừng. Nó được xem là biểu tượng mang lại may mắn và tài lộc trong năm mới. Chuông có thể làm bằng gỗ hoặc bất cứ kim loại nào. Treo chuông gió trong nhà sẽ tạo ra năng lượng luân chuyển. Ngoài ra, chuông gió còn giúp phân tán các luồng khí đi khắp căn nhà, tạo bầu không khí thư thái, dễ chịu và đón một năm mới may mắn, an lành.






3. Câu đối
Mỗi dịp Tết đến xuân về, hình ảnh ông đồ già ngồi trên vỉa hè quanh Văn Miếu Quốc Tử Giám để viết câu đối cho mọi người đã trở nên quá đỗi thân thuộc. Năm nào cũng có rất nhiều người đến xin chữ để treo ở nhà trong năm mới, mỗi người mỗi mong ước khác nhau, tuy nhiên câu đối đều mang ý nghĩa chúc phúc, cầu may cho gia đình.


4. Cây/ cành đào
Cây/cành đào trong ngày Tết ngoài ý nghĩa xua đuổi ma quỷ còn thể hiện mong muốn của mọi người sang năm mới sẽ gặp nhiều may mắn, an lành, hạnh phúc. Bên cạnh đó, hoa đào được xem là tinh hoa của ngũ hành, là biểu tượng cho sự đổi mới và sức sinh sôi phát triển mạnh mẽ.




5. Cây mai
Hoa mai tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Trong ngày Tết, mọi người thường mua cây (hoặc cành) mai vàng nhiều lộc bởi theo quan niệm của phong thủy, hoa mai nở đúng lúc giao thừa hay sớm mùng một sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng và hạnh phúc, tài lộc sẽ đến với gia đình trong năm mới.




6. Cây quất
Theo âm Hán Việt thì âm của từ "quất" gần giống âm của từ "cát", bởi vậy cây quất thường được chọn để trang trí trong nhà vào ngày Tết. Cây quất có lá xanh tốt, sai quả, quả vàng đều thể hiện sự phù trú, hứa hẹn một năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Chính vì vậy, mỗi khi Tết đến xuân về, nhà nhà đều bài trí cây quất với hy vọng mang lại niềm vui và may mắn trong cả năm cho gia đình. Ngoài ra, cành quất trĩu quả trong quan niệm dân gian là biểu tượng cho sức khỏe, bình an, trường thọ và sự may mắn trong tình duyên, thể hiện sự sum vầy của nhiều thế hệ trong gia đình.


7. Dây may mắn
Dây may mắn với sợi chỉ đỏ kết nối hình đồng tiền, nén vàng... thường khắc kèm các từ cầu mong may mắn, phát tài cũng là một món đồ trang trí được khá nhiều gia đình ưa chuộng trong dịp đầu năm mới. Các loại dây may mắn thích hợp với rất nhiều vị trí trong nhà như trên cửa sổ, đặt kèm trên mâm ngũ quả... Đặc biệt, với những gia đình trưng hoa mai, hoa đào hay quất cảnh trong dịp Tết, thì dây may mắn còn là một món đồ phụ kiện bắt mắt làm cho những cây cảnh này thêm nổi bật và rực rỡ.


8. Tranh tết
Những hình ảnh hạnh phúc, no đủ trong những bức tranh Tết sẽ là một món đồ trang trí làm cho ngôi nhà của bạn thêm đẹp và ấm áp trong những ngày đầu năm mới này. Bạn có thể lựa chọn các bức tranh giân dan Đông Hồ, Hàng Trống... hay những bức tranh mang màu sắc xuân tươi vui để làm sáng không gian phòng khách hoặc phòng ăn.




9. Hoa tươi
Người Việt Nam rất chú ý đến phong thủy khi chọn hoa trưng vào dịp Tết. Một số loại hoa mọi người thường hay lựa chọn vào dịp Tết như: hoa Trạng Nguyên, hoa Hải Đường, hoa Lan, hoa Sống Đời, hoa Đồng Tiền… Bởi hoa Trạng Nguyên mang ý nghĩa mong muốn một năm mới may mắn, thành đạt cho cả gia đình, trong khi đó, hoa Hải Đường lại thể hiện sự giàu sang, phú quý. Ngoài ra, bạn cũng có thể trưng một số loại hoa khác trong nhà ngày đầu năm mới để tạo sự mới mẻ, hiện đại như: hoa Hướng Dương, hoa Ly, hoa Tulip…


10. Bể cá
Trong không gian nội thất, bể cá không chỉ có tác dụng trang trí nhà, làm đẹp, tạo sự gần gũi với thiên nhiên, mà về mặt phong thủy, bể cá còn đem lại nhiều vận may về tài lộc cho gia chủ nếu biết bài trí đúng cách.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Những vật dụng trang trí nhà hợp phong thủy để đón tài lộc

Tạo tính an toàn cao cho ban công như thế nào? –

Vì muốn mở rộng diện tích của phòng sát ban công (một trong ba phòng: phòng khách, phòng thờ hoặc phòng ngủ), trên tầng hai nhiều gia đình đã tìm cách nôi thông ban công thành một phần mới của các phòng này. Điều này có ưu điểm là giúp cho các phòng

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

được cơi nới rộng rãi và thoáng đãng hơn song về mặt hạn chế nó có thể làm hỏng kết cấu của ngôi nhà. Vì vậy, cần tạo tính an toàn cho ban công bằng cách:

–  Đảm bảo nguyên tắc chịu lực.

Ban công thường có kết cấu nhô ra khỏi tường bao ngôi nhà, nên khả năng chịu lực kém. Do đó, khi cải tạo nó phải tính toán thật cẩn thận, sao cho không phá hỏng nguyên tắc chịu lực của toàn công trình.

cac-loai-cay-canh-co-tac-dung-hoa-giai-phong-thuy-o-ban-cong

Khi cải tạo nổi thông phòng với ban công, không nên dùng loại vật liệu quá nặng nề vì như vậy sẽ khiến nhà bạn phải chịu tải trọng lớn hơn thiết kế vốn có.

–  Loại bỏ xà ngang ép đỉnh.

Giữa ban công và phòng sát ban công (một trong ba phòng: phòng khách, phòng thờ hoặc phòng ngủ) trên tầng hai thường có một xà ngang chịu lực, sau khi cải tạo, nối liền một dải mặt sàn giữa phòng cần cơi nới vào ban công, chiếc xà ngang này sẽ đem lại cho người trong phòng cảm giác bị một vật nào đó đè nặng, để vừa đảm bảo mỹ quan vừa không gây tâm lý không an toàn, bạn nên làm một tấm trần giả để làm phẳng, che khuất thật khéo. Nếu muôn tăng hiệu quả bền chắc, thì trên trần ban công có thể lắp đặt thêm đèn chiếu sáng, làm nó khuất trong ánh đèn, lại tạo nên vẻ đẹp lung linh.

Ban công sau khi đã cải tạo nôi liền với phòng khách, thì tường phía ngoài không nên quá thấp.

Ngoài ra, tại nơi vốn là ban công cũ không nên kê đặt những đồ gia dụng có trọng lượng lớn như tủ quần áo, ghế sôfa, giường.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tạo tính an toàn cao cho ban công như thế nào? –

Sưu tầm về Dịch thuyết

Một bài viết tổng hợp về Kinh Dịch của cụ Hà Uyên. Rất hay!
Sưu tầm về Dịch thuyết

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Dịch dĩ đạo âm dương

"Dịch dĩ đạo âm dương" chỉ rõ nét đặc sắc của Kinh Dịch, trình bày về lý âm dương. Câu này, có xuất xứ trong Trang Tử - Thiên hạ luận, nguyên văn cả câu là: "Thi bày tỏ cái chí, Thư là để thuật lại công việc, Lễ là để hướng dẫn hành động, Nhạc là để dẫn dắt chí tuệ. Dịch nói về lý âm dương, Xuân Thu chỉ rõ danh phận".

Trang Tử - Thiên hạ thiên viết: "Dịch là để nói về âm dương". Sử ký - Thái Sử công tự tự viết: "Dịch làm sáng tỏ trời đất, âm dương, tứ thời, ngũ hành. Cho nên Dịch sở trường ở chỗ biến". Những lời đó đều nói về tôn chỉ căn bản của Dịch, là vạch rõ quy luật tự nhiên biến hóa của âm dương. Hàn Khang Bá - Hệ từ truyện chú kế thừa Vương Bật lấy Lão Trang để giải thích tông chỉ của Dịch, viết: "Đạo nhất âm nhất dương gốc ở Hư vô. Lại nói: Đạo là gì? Đó gọi là Vô. Không có gì không thông, không có gì là không bắt nguồn từ đó, cái đó gọi là Đạo. Đã là tịch nhiên vô thể, thì không thể là Tượng, phải vận dụng hết "Hữu" thì "Vô" mới hiển dụng. Cho nên đến như "Thần vô phương nhi Dịch vô thể", thì Đạo có thể thấy được vậy. Bởi thế, cùng biến thì tận thần, nhân thần mà minh đạo, âm dương tuy khác nhau, nhưng đồng nhất ở Vô. Ở âm mà vô âm, âm do đó sinh ra; ở dương mà vô dương, dương do đó mà hình thành, cho nên nói 'nhất âm nhất dương' vậy".

Tư Mã Thiên, người thời Tây Hán nói "Dịch dĩ đạo hóa". Ông cho rằng, nội dung đặc sắc của Kinh Dịch là ở chỗ nó nêu lên cái lý biến hóa của sự vật, cho nên ông nói: "Lễ là để ước chế lòng người, Nhạc là để khởi phát cái hòa, Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để biểu đạt tâm trạng, Dịch là để chỉ ra sự biến hóa, Xuân Thu là để chỉ ra cái 'nghĩa'. Kéo đời loạn đưa trở về ngay chính, không gì hơn là đọc Xuân Thu".

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Thần diệu biến hóa, khiến cho dân noi theo"; và, "Thấu hiểu được lẽ thần diệu, biết được lẽ biến hóa, đức sẽ lớn mạnh vậy".

Sử ký - Hoạt kê liệt truyện tự Khổng Tử nói: "Lục nghệ, quy về nói từng thứ một thì, Lễ là để chế ước con người, Nhạc là để khởi phát cái 'hòa', Thư là để hướng dẫn công việc, Thi là để diễn đạt tâm trạng, Dịch là để tỏ rõ thần kỳ biến hóa, Xuân Thu nói về cái nghĩa. Thái sử công nói: Đạo trời lồng lộng, chẳng lớn lắm sao? Trong cái lời nói vi diệu ấy, cũng có thể hiểu được".

Hệ Từ - Thượng truyện viết: "Ôi, đạo của Dịch rộng thay, lớn thay! Lấy nó mà nói về việc ở xa thì không bao giờ cùng, lấy nó mà nói về việc ở gần thì bình thản chính đính, nó bao gồm đầy đủ cả mọi việc trong trời đất". (Phù dịch quảng hĩ, đại hĩ! Dĩ ngôn hồ viễn tắc bất ngự. Dĩ ngôn hồ nhĩ tắc tỉnh nhi chính. Dĩ ngôn hò thiên địa chi gian tắc bị hỉ). Việc lập ra quẻ, từ gốc đến thân, từ thân ra cành, tự nhiên thuận hành, đủ trời đất người, có phân có hợp, có tiến có thoái, có ngang có dọc, có thuận có nghịch, v.v...nhưng không có gì, đi mà không lại, tới mà không lui, thấu hiểu tự nhiên.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa nói: "Câu trên là muốn chỉ rõ tầm vóc quảng đại của Dịch lý. Lẽ biến hóa của Dịch thông khắp bốn phía xa, cho nên gọi là 'quảng'; nó thông tới tận trời, cho nên gọi là 'đại". Lại nói: "cái lẽ biến hóa của Dịch cùng cực u thâm, không bao giờ ngừng nghỉ", "cái lẽ biến hóa của Dịch, ở nơi gần, thì giữ được bình thản yên tĩnh mà chính đính, không hỗn loạn vậy".

Du Diễm - Chu Dịch tập thuyết nói: "Đạo Dịch rất quảng đại. Từ việc gần, việc xa, cho đến mọi việc trong trời đất này, không có gì không phải là Dịch. Lấy Dịch mà suy việc xa thì lý thông suốt, không hề trở ngại. Lấy Dịch mà bàn việc gần, thì lý đầy đủ rõ ràng ngay trước mắt, thản nhiên mà chính đính.Lấy Dịch mà bàn luận mọi việc trong vòng trời đất, thì lý lẽ của mọi sự mọi vật đều đủ cả trong đó. Có thể gọi là quảng đại vậy".

Lễ ký - Kinh giải viết: "Khiết tịnh tinh vi, Dịch giáo dã" (Trong sạch thuần khiết, tinh vi, đó là cái giáo lý của Dịch vậy). Chú giải cho câu nói này, Khổng Dĩnh Đạt - Lễ ký chính nghĩa viết: "Dịch cho rằng, đạo làm người ngay chính gặp điều lành, tà vạy ắt sẽ gặp điều dữ, không dâm lạm thái quá, như vậy gọi là 'khiết tịnh'; cùng lý tận tính, lời lẽ vi nhiệm thì gọi là 'tinh vi' vậy".

Dịch chi thất tặc

Câu nói này được viết trong Lễ Ký - Kinh giải. Ý nghĩa câu "dịch chi thất tặc" cho rằng nghiên cứu Dịch, nếu không biết tự tiết chế trong lời dạy của Dịch, thì sẽ có mối lo làm tổn thương tới Lý, làm hại tới vật. Làm người mà cung kính, không cẩu thả thì đủ để giúp cho nội tâm được chính trực. Hành vi thích hợp cũng đủ để giúp cho vẻ ngoài được đoan phương. Trịnh Huyền - Lễ Ký chú viết: "Thất, có nghĩa là không có khả năng tiết chế trong lời dạy của Dịch", lại nói "Dịch tinh vi, ái ố tương công, viễn cận tương thủ, tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại". Nghĩa là: Đạo Dịch rất tinh vi, yêu ghét đối chọi nhau, xa gần chấp thủ nhau, vậy thì nó không thể chứa người khác ý, nếu không sẽ dẫn tới tai hại.

Khổng Dĩnh Đạt - Lễ Ký chính nghĩa viết: "Dịch chủ ở sự thuần tĩnh nghiêm chỉnh, xa gần chấp thủ nhau, yêu ghét đối chọi nhau, nếu không biết tiết chế, ắt sẽ bị tai hại". Khổng Dĩnh Đạt lại phân tích lời chú giải của Trịnh Huyền "Dịch tinh vi", ý muốn nói Dịch lý rất vi diệu sây sắc, cầu tránh xác đáng, không dung chứa người khác mình. Dịch nói "ái ố tương công" là để chỉ sáu hào của quẻ Dịch, hoặc hào âm cưỡi hào dương, hoặc hào dương nén hào âm, kề cạnh nhau mà không có sở đắc, gọi là "ái ố tương công". Nói "viễn cận tương thủ", là chỉ bỉ thủ có ứng là xa gần hợp nhau. Hoặc nếu xa mà không có ứng, gần mà không hợp nhau, thì không thể hòa hợp đến với nhau được.

Câu "tác bất năng dung nhân, cận vu thương hại", là ý muốn nói, nếu ý hợp nhau thì dù xa mà vẫn yêu nhau; nếu ý xa nhau, thì có gần mà vẫn ghét nhau, tức là không nên cùng với người không giống mình, nếu không sẽ bị tổn hại như bị giặc làm hại vậy.

Dịch khí tòng hạ sinh

Chu Dịch Càn tạc độ có câu: "Dịch khí tòng hạ sinh", nghĩa là Dịch lý thuyết minh quá trình phát sinh của sự vật, đều xuất phát từ sự vận động của "Khí"; mà sự sinh - thành của Khí đều thuận từ dưới lên trên, từ vi tế đến hiển hiện rõ ràng. Do vậy, 6 hào của các quẻ trong Dịch, đều được liệt theo thứ tự từ dưới lên trên.

Chu Dịch Càn tạc độ viết: "Vật do cảm nhau mà động, các vật cùng loại thì ứng với nhau, Khí của Dịch được sinh ra từ dưới". "Khí của trời đất tất có đầu có cuối. Vị trí của sáu hào đều từ dưới lên trên. Cho nên, Dịch bắt đầu từ cái Một, một phân ra hai, hai thông ở ba,... ở bốn, thịnh ở năm, kết thúc ở trên cùng".

Trịnh Huyền chú: "Dịch vốn không có hình, từ vi tế mà hiển hiện ra, khí từ dưới sinh ra, nên lấy hào dưới cùng làm khởi đầu vậy". "Dịch vốn không có hình thể, do Khí biến mà sinh ra cái Một, cho nên Khí từ dưới mà sinh ra".

Bàng thông

Điều lệ dịch học do Ngu Phiên đề xướng. Ý nói hai quẻ sáu hào so sánh với nhau, thể của hào âm dương khác nhau, tức là đây là dương thì kia âm, đây là âm thì kia dương, bàng thông với nhau từng cặp một. Ngu Phiên nói: "Quẻ Tỵ bàng thông với Đại hữu, quẻ Đại hữu bàng thông với quẻ Tỵ". Các quẻ khác giống như vậy.

Bàng thông là một trong những điều lệ quan trọng trong Dịch thuyết của Ngu Phiên. Xét, Văn ngôn truyện quẻ Càn nói: "Lục hào phát huy, bàng thông tình dã", ý nói hào của Dịch biến động chẳng dừng. Ngu Phiên đã căn cứ vào đây mà lấy danh từ "bàng thông", nhưng biến đổi ý nghĩa mà sáng tạo thành Dịch lệ của mình. Tới đời Minh thì Lai Tri Đức phát minh ra Tổng quái, Thác quái, được người đương thời gọi là "tuyệt học", trong đó Thác quái tức là áp dụng lệ Bàng thông của Ngu Phiên.

Trích dẫn

Sáu Hào phát huy biến động, biến thông tình - lý sự vật. Hào ở quẻ này là Âm, thì hào tương ứng của quẻ kia là Dương. Ở quẻ này là hào Dương, thì hào tương ứng ở quẻ kia là Âm.

Một sự vật nếu có thành tựu, thì sự vật ấy ắt phải đắc vị - đắc thời - đắc trung. Muốn duy trì một sự vật gì (?), thì chớ để nó phát triển tối đa, mà phải luôn cảnh giác phòng bị mặt trái của nó. Có như vậy, mới không nhận lấy mặt trái của nó.

Cho nên nói tình dã

Thành Ký tế định

Một trong những điều lệ Quái biến do Ngu Phiên đề xướng, nói rằng các hào vị bất chính đều sẽ biến thành chính, quẻ thành Ký tế, hào vị mới định.

CHI CHÍNH

"Chi" giống như nói "biến". "Chính", là chỉ hào âm cư âm vị - ngôi vi chẵn, hào dương cư dương vị - ngôi vị lẻ. Đây là một trong những điều lệ do Ngu Phiên đề xướng.

Trong quẻ, phàm hào vị nào bất chính đều cần phải biến cho thành chính, tức là điều mà Dịch truyện cho là "chính" và "đáng vị", cũng gọi là "chi biến". Theo điều lệ này, thì hào Sơ phải là dương, hào Nhị phải là âm, hào Tam phải là dương, hào Tứ phải là âm, hào Ngũ phải là dương, hào Thượng phải là âm. Khi quẻ sáu hào đều "chính", thì quẻ thành Ký tế, hào vị đã định, bởi vậy còn gọi là "thành Ký tế định". Ngu Phiên dùng thể lệ này để thuyết giải nhiều thể lệ biến của Dịch. Như quẻ Truân lời hào Lục Nhị là "Thập niên nãi phu", ông giảng là: "Khôn số thập, tam động phản chính, Ly nữ đại phúc, cố thập niên phản thường nãi phu, vi thành Ký tế định dã". Có nghĩa là: quẻ Truân, Chấn hạ Khảm thượng, duy có hào Tam bất chính, biến động đến chính, thành Ký tế mà hạ thể là Ly, thì mới có lời giải thích như trên". Lại như tượng truyện hào Cửu Nhị quẻ Vị tế viết: "Vị Sơ dĩ chính, Nhị động thành Chấn, cố thành chính", hào Cửu Tứ nói: "Động chính, đắc vị", hào Lục Ngũ nói: "Chi chính tắc cát", hào Thượng Cửu nói: "Chung biến chi chính, cố vô cữu". Nghĩa là quẻ Vị tế sáu hào đều thất chính, Ngu Phiên thuyết giải năm hào đều nên biến đến chính. Duy thiếu chỉ có một hào Lục Tam thì cũng theo lệ ngày mà suy ra.

Tam biến thụ thượng

Ngu Phiên đề xuất điều lệ Dịch học, chỉ hào thứ Ba biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng, còn gọi là "Quyền" hay là "Quyền tượng". Chu dịch tập giải khi bàn về quẻ Gia nhân, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Hào Tam đã biến, thì đổi vị trí cho hào Thượng. Đổi thì được đắc vị. Cuối cùng sẽ tốt". Lại dẫn Tượng truyện nói: "Chỉ hào Tam động. Hào Thượng đổi vị trí với hào Tam thành Ký tế định". Đây là nói quẻ Gia nhân chỉ có hào Thượng Cửu là thất chính, thì lấy hào Cửu Tam đã chính, biến thành hào âm, đổi vị trí với hào Thượng Cửu, thì sau hào đều chính mà thành Ký tế.

Xét thấy, lệ này của Ngu Phiên, lời chú ở sách Chu dịch tập giải đã dẫn, chỉ thấy có hai quẻ Gia nhân và Tiệm, đều thuộc quẻ mà hào Tam và hào Thượng là hào dương. Hào Tam là dương, vốn đã được chính, lại biến thành hào không chính, sau đó đổi ngôi vị với hào Thượng Cửu, khiến hai hào đều được chính. Phép này ngược với lệ: "Chi chính thành Ký tế". Bởi vậy, Ngu Phiên mới tự đặt tên là phép Quyền nghi.

Chu dịch tập giải ở hào Thượng Cửu quẻ Tiệm dẫn chú Ngu Phiên, nói: "Hào Tam đã đắc vị, lại biến nhận với hào Thượng là quyền. Khổng Tử nói: có thể hợp đạo, không thể quyền nghi, cũng không lạ vậy".

Phản quái

Điều lệ Dịch học do Ngu Phiên đời Tam quốc đề xướng. Nghĩa là lấy 6 hào của quẻ 6 vạch đảo ngược lại thành quẻ khác. Như quái tượng quẻ Quán, đảo ngược lại thì thành quái tượng quẻ Lâm. Quẻ Quán và quẻ Lâm hỗ nhau, thành quẻ phản quái.

Người đời sau cũng gọi là quẻ "phản đối", gọi như vậy thấy không chính đính với học thuyết của Ngu Phiên, do vì chữ "đối" theo nghĩa âm đối dương hay dương đối âm, ví như quẻ Quán có quẻ đối là quẻ Đại quá.

Nhưng trong 64 quẻ của Kinh, có 8 quẻ gồm Càn, Khôn, Khảm, Ly, Di, Trung phu, Tiểu quá, Đại quá có hình quẻ đặc biệt, đảo ngược cũng không biến đổi, nên không có "phản quái".

Lý Đỉnh Tộ - Chu dịch tập giải ở phần quái từ quẻ Di, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản phục không suy, cũng như Càn Khôn Khảm Ly Di Trung phu Tiểu quá Đại quá". Trong Dịch thuyết của Ngu Phiên, dùng rất nhiều thí dụ về "phản quái". Như Chu dịch tập giải, ở quái từ quẻ Thái, dẫn lời Ngu Phiên nói: "Phản là Bĩ. Ở quái từ quẻ Minh di lại nói: phản là Tấn. Ở quái từ quẻ Tiệm nói: phản thành Quy muội, v.v..." Xét, thể lệ phản quái, hoặc phản đối, thực ra là một trong những đặc trưng vốn có của hình thái 64 quẻ trong Kinh.

Tuân Sảng

Tuân Sảng (128 - 190), người Dĩnh Xuyên, Dĩnh Âm, này là thành phố Hứa Xương, tỉnh Hà nam, thời Đông Hán, tự là Từ Minh, còn có tên là Tư. Thủa nhỏ ham học, 12 tuổi đã đọc được Xuân Thu, Luận Ngữ, ông đam mê kinh truyện, không chúc mừng thăm viếng ai, được người đương thời gọi là "Tuân thị bát long, Từ Minh vô song", và được Thái úy Đỗ Kiều khen rằng "có thể làm thầy người khác".

Hậu Hán thư - Tuân Sảng truyện, thì trước tác rộng khắp các loại kinh, tử, sử cộng hơn trăm thiên của ông đều thất truyền. Về Dịch học theo cổ văn Dịch của Phí Trực, lấy Thập dực giải thích nghĩa Kinh, ông đã sáng tạo nghĩa lệ đặc trưng "Càn Khôn thăng giáng", kết hợp dùng cả thể lệ quái biến, tiêu tức để giải thích yếu chỉ của Kinh, tác phẩm Dịch giải của ông đã thất truyền.

Hậu Hán thư - Nho lâm truyện viết: "Vào thời Kiến Vũ, Phạm Thăng truyền bá Mạnh thị Dịch để dạy cho Dương Chính, còn Trần Nguyên và Trịnh Chúng đều truyền bá Phí thị Dịch, về sau Mã Dung cũng truyền dạy cho Trịnh Huyền. Trịnh Huyền soạn Dịch chú, từ đó Dịch học họ Phí thịnh hành, mà Dịch học họ Kinh suy yếu".

Quái biến, thể lệ Dịch học của Tuân Sảng, có thể thấy được đại cương phép quái biến thông qua phép Càn Không thăng giáng, nhưng còn có biệt lệ:

1- Có loại từ Càn Khôn mà biến ra, như Thoán truyện quẻ Khiêm dẫn lời Tuân Sảng nói: "Càn lai chi Khôn" (Khôn từ Càn mà biến ra), lại dẫn trong Thoán truyện quẻ Giải: "Càn động chi Khôn, Càn Khôn giao động, động nhi thành Giải" (Càn động biến thành Khôn, Càn Khôn giao động, do động mà biến thành Giải).

2- Có loại từ Lục tử biến ra, như Thoán truyện quẻ Truân nói: "Đây vốn là quẻ Khảm. Xét, hào Sơ thăng lên Nhị, hào Nhị giáng xuống Sơ, đó là cương nhu bắt đầu giao nhau". Lại dẫn Thoán truyện quẻ Mông nói: "Đây vốn là quẻ Cấn. Xét, hào Nhị tiến lên (thăng) chiếm ngôi hào Tam, hào Tam lùi xuống (giáng) hào Nhị, cương nhu đắc trung cho nên thông".

3- Có loại từ tiêu tức quái biến ra, như quái từ quẻ Tụng dẫn lời Tuân Sảng nói: "Dương đến chiếm ở hào Nhị mà phu động ở hào Sơ". Tiêu Tuần cho rằng ở đây nói quẻ Tụng là gốc ở quẻ Độn. Lại như Thoán truyện quẻ Bĩ dẫn: "Đây vốn là quẻ Thái chỉ âm từ trên xuống, ở vào giữa quẻ Càn".

Dịch thuyết của Tuân Sảng nói đến quái biến còn lại không nhiều, lệ ấy có phải chỉ chừng ấy không, thì chưa rõ. Đến khi Dịch học của Ngu Phiên ra đời, thì thể lệ quái biến càng trở nên tỉ mỉ và có hệ thống.

THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương".

Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn. Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người hậu Hán chú Dịch thường dùng Nguyệt quái nhưng không nói rõ, cho rằng Nguyệt quái mọi người đều biết, bất tất phải nói kỹ, điều đó cho thấy tính quan trọng của Nguyệt quái".

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy".

TRỊNH HUYỀN VÀ DỊCH VĨ CHÚ

Trịnh Huyền là Kinh học gia, Dịch học gia nổi tiếng đời Hán. Cống hiến quan trọng đối với Dịch học của ông là: chú thích kiệt xuất công trình Dịch Vĩ, với trước tác đồ sộ và sắc bén, Trịnh Huyền đã trở thành tập đại thành của Tượng - Số dịch học đời Hán.

Trịnh Huyền (127 - 200) người đất Cao Mạt, thời Đông Hán, tự là Khang Thành, ông nổi danh là một đại sư về Dịch học, tinh thông Ngũ hành, là người kế thừa đầu tiên của Kinh thị dịch học.

Trịnh Huyền nghiên cứu Phí thị dịch học, sau đó ông theo nhà kinh học nổi tiếng Mã Dung nghiên cứu Cổ văn kinh. Học xong, ông về làng giảng dạy ngũ kinh. Do chính biến giữa Hoạn quan với Đại thần thời Hán Linh Đế, ông bị bắt giam; Ra tù ông đóng cửa không đi đâu, ở nhà viết sách.

Ông trước tác nhiều về Ngũ kinh, hậu như chú giải toàn bộ, như Chu dịch chú - Tùy thư - Kinh tịch chí được chép thành 9 quyển, Dịch tán, Dịch luận, tác phẩm nổi tiếng nhất của Ông là Dịch vĩ chú được chép trong Tứ khố toàn thư. Đặc biệt của sách này là hào thần, thần ở đây có nghĩa chỉ về ngôi sao, vì Trịnh Huyền coi 12 hào của Càn và Khôn là 12 'thần' tức 12 ngôi sao, ông dùng Dịch để lập thuyết về Thiên văn học. Trịnh Trần đời Thanh có soạn 4 quyển Trịnh học lục, đây là tư liệu quan trọng để nghiên cứu về Trịnh học. Ngoài ra, Vương Ứng Lân thời Nam Tống biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú; Mã Quốc Hàn biên soạn Tân bản Trịnh thị Chu dịch; Viên Quân đời Thanh biên soạn Trịnh thị di thư.

Trịnh Huyền là đệ tử của Mã Dung, quan điểm học thuật giống như Mã Dung, trên cơ sở kế thừa Kinh thị dịch học mà phát huy Phí thị học.

Chu dịch chú của Trịnh Huyền đã thất lạc. Tùy thư - Kinh tịch chí đã sao chép được 9 quyển, đời sau có biên soạn Chu dịch Trịnh Khang thành chú một quyển, sách tương đối có tính đại biểu. Những tư liệu trong Tứ khố toàn thư còn lưu giữ đều là những tư liệu nghiên cứu về Trịnh Huyền với Dịch học.

Sách Dịch vĩ được Trịnh Huyền chú giải có trình độ lý luận rất cao. Trên cơ sở của Kinh Phòng về bát quái, hào vị tương kết tương hợp, Trịnh Huyền đã xây dựng thêm số Ngũ hành thành Đại biến số để giải thích số Đại diễn và số Trời Đất của Dịch.

Dịch nói: 天一地二。天三地四。天五地六。天七地八。天九地十。Thiên nhất Địa nhị, Thiên tam Địa tứ, Thiên ngũ Địa lục, Thiên thất Địa bát, Thiên cửu Địa thập”. Số lẻ là dương thuộc Thiên; số chẵn là âm thuộc Điạ. Cho nên ta mới có 10 số thiên-nhiên, dàn thành 5 cặp âm-dương: (1, 2), (3, 4), (5, 6), (7, 8), (9, 10). Trịnh Huyền chú giải: 河以通乾出天。洛以流坤吐地符。河龍圖發。洛龜書成。河圖有九篇。洛書有六篇。(Hoàng-hà để thông hiểu quẻ Kiền suy ra từ trời. Lạc-thủy để lưu hành quẻ Khôn nhả địa-phù. Hoàng-hà Long-đồ phát-xuất, Lạc-thủy Quy-thư hoàn thành. Hà-đồ gồm 9 thiên, Lạc-thư gồm 6 thiên).

Tiêu Diên-Thọ 焦延壽, tự Cống, là sư phụ của Kinh Phòng, đã truyền lại cho Kinh Phòng nguyên lý Hào thần. Sách có chép "Bát-quái Lục-Vị-Đồ 八卦六位圖", lấy ngũ-hành, 10 can (nạp-giáp), 12 chi (trang chi) phổ vào các hào của bát-quái. Đó chính là một thuật của Kinh Phòng. Phép Hào thần sau này đã được Trịnh Huyền sử dụng lấy làm hào âm dương để giải thích Dịch, được ghi lại trong sách Dịch Hán Học 易漢學 của Huệ-Đống 惠棟, Quyển IV, có chép Đồ này.

Số Ngũ hành được xuất hiện sớm nhất ở Thượng thư - Hồng phạm viết: "Đầu tiên là ngũ hành. Thủy nhuận hạ, hỏa viêm thượng, mộc khúc trực, kim tùng cách, thổ viên giá sắc" (Nước thấm xuống làm nên vị mặn, lửa bốc lên làm ra vị đắng, gỗ cong thẳng làm nên vị chua, kim theo thay đổi làm nên vị cay, đất để gieo cấy làm nên vị ngọt). Thông qua đây, Trịnh Huyền lấy số Ngũ hành để chú giải về số trời đất trong Dịch, viết: "Khí của trời đất mỗi thứ có 5. Theo thứ tự ngũ hành, 1 là thủy đó là số trời, 2 là hỏa đó là số đất; 3 là mộc đó là số trời; 4 là kim đó là số đất; 5 là thổ đó là số trời". Ông lại nói: "Số trời đất là 55, với ngũ hành khí thông. Phàm ngũ hành giảm 5, đại diễn lại giảm 1 cho nên thành 4".

Trịnh Huyền chú thích Dịch vĩ rất rõ ràng khúc triết, ông phát triển "Hào thần thuyết" của Dịch vĩ lấy 6 hào của quẻ, tương phối với 12 thần trong 1 năm. Cứ 2 quẻ Dịch đối, ứng trực cho 1 năm, 64 quẻ ứng trực cho một vòng 32 năm, khởi đầu từ hai quẻ Càn Khôn, kết thúc ở hai quẻ Ký tế và Vị tế. Mục địch của Trịnh Huyền là cho quái và hào tương ứng với nội hàm của Thời gian, dẫn tới hiệu quả Thời gian tương ứng với Tiết khí. Hào Thần đối ứng tương tự như với phương pháp Nạp giáp vào quẻ vào hào với vận trình thời gian cho từng năm mới. Tức là: đối với quẻ dương thì đi theo chiều thuận, đối với quẻ âm thì đi theo chiều nghịch. Ta lấy quẻ Càn Khôn làm ví dụ:

Càn vận hành theo chiều trái:

- Hào Thượng: tháng Chín - kiến Tuất

- Hào Ngũ: tháng Bảy - kiến Thân.

- Hào Tứ: tháng Năm - kiến Ngọ

- Hào Tam: tháng Ba - kiến Thìn

- Hào Nhị: tháng Giêng - kiến Dần

- Hào Sơ: tháng Một - kiến Tý.

Khôn vận hành theo chiều phải:

- Hào Thượng: tháng Tư - kiến Tị

- Hào Ngũ: tháng Hai - kiến Mão

- Hào Tứ: tháng Chạp - kiến Sửu

- Hào Tam: tháng Mười - kiến Hợi

- Hào Nhị: tháng Tám - kiến Dậu

- Hào Sơ: tháng Sáu - kiến Mùi

Trịnh Huyền dùng thuyết Hào thần để chú giải quẻ Dịch, chính là do Hào thần đã phản ánh được quy luật âm dương tiêu trưởng, khi Hào thần kết hợp với âm dương khí hóa, đã giải thích được sự thuận nghịch, thành bại của sự - vật, phát huy đầy đủ nguyên lý của Dịch về sự tương ứng giữa con người với thế giới tự nhiên.

Đặc điểm của Trịnh Huyền là lấy Kinh để chú giải Nghĩa, có nghĩa là lấy Dịch kinh chú giải Dịch truyện, cũng như lấy Kinh để giải Vĩ, đây là ông căn cứ vào thuyết lấy âm dương ngũ hành làm cơ sở, Ông đã đề xuất tăng cường ý - nghĩa cho âm dương của Tượng hào, đồng thời dùng Âm dương hào, để giải thích Dịch. Ông cũng đề xuất xây dựng quan điểm của Lão Tử để giải Dịch, như Trịnh Huyền chú Dịch vĩ với Dịch tam nghĩa, lấy tư tưởng vô vi vô vật của Lão để trình bầy mọi điều, Ông viết: "Noi theo Dịch mà vô vi, thì tính của thiên hạ không thể không tự hình thành. Với điều đó, ta có thể nói Dịch đạo là vô vi. Cho nên, trời đất, vạn vật, tất cả đều biến thông".

THUYẾT GIẢI DỊCH CỦA KINH PHÒNG

Kinh Phòng là người khai sáng phái tượng - số Hán dịch, cống hiến chủ yếu về Dịch học của ông là phát triển tượng số học của Dịch học, sự phát hiện ra những điều mới trong Dịch của ông, đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc. Đời sau đã coi ông với Mạnh Hỷ là đại biểu cho các nhà Dịch học đời Hán, điều này đã khẳng định vị thế của ông trong Dịch học.

Kinh Phòng (77 - 37 tr.CN) người Tây Hán, người đất Đốn Khâu Đông quận, tự là Quân Minh, ông vốn họ Lý. Ông học dịch ở Tiêu Diên Thọ, rất thích âm luật, sau chết trong tay Trung thư lệnh Thạch Hiển.

Ông biên soạn rất nhiều, nhưng theo Hán thư - Nghệ văn chí, thì nay chỉ còn 11 thiên Tai dị Mạch thị Kinh Phòng, 2 thiên Ngũ lộc xung Phòng lược thuyết, Kinh thị đoạn gia. Trừ 3 quyển Kinh thị dịch truyện ra, thì toàn bộ trước tác khác của ông đều thất lạc.

Kinh Phòng là riêng một học phái, đặc điểm về học thuật của ông là nhấn mạnh thuyết "thiên nhân cảm ứng", do làm rõ được về tai dị trong thiên nhiên, rồi từ đó Ông chiêm nghiệm khí số cho xã hội, nên được nhà vua ban thưởng. Kinh Phòng là mở đầu của phái tượng - số Dịch học. Tập Kinh thị dịch truyện là gốc của tượng - số, là ông tổ của chiêm nghiệm Dịch học.

THẾ - ỨNG

Thế - Ứng là điều lệ Dịch học của Kinh Phòng thời Tây Hán. "Thế" là chỉ quẻ nào đó, trong hệ thống bát cung quái, thuộc thế quái thứ mấy của Cung nào đó, như vậy có nghĩa là hào thứ mấy tức là hào "Thế".

"Ứng" là chỉ sau khi xác định hào của Thế quái, hào này nếu là Sơ thì ứng với hào Tứ, nếu là Tam thì ứng với hào Thượng. Ngược lại cũng như vậy.

Thế - Ứng trong Dịch thuyết của họ Kinh là rất quan trọng, là một trong những phương pháp cơ bản để đoán quẻ khi chiêm sự. Thượng Bỉnh Hòa bàn tới hàm nghĩa của Thế - Ứng và phương pháp suy tìm Thế - Ứng, Thế hào, Ông chỉ rõ: "Thế - Ứng là chủ trong quẻ, là chỗ dựa để suy đoán lành dữ, đại để như Trinh - Hối (tức là nội quái và ngoại quái). Thế là ta, Ứng là nó. Song Thế - Ứng xét ra gặp hào nào, vẫn vốn lấy gốc từ bản cung của quẻ Ngộ quái".

Do đó, tìm hiểu căn nguyên của Thế - Ứng của bất cứ một quẻ nào đó, đều phải khảo cứu Bản cung quái thuộc trong Bát cung quái. Lấy cung Càn làm ví dụ, hào Sơ biến là Nhất thế quái Thiên Phong Cấu, vì quẻ Cấu là từ hào Sơ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Cấu: Thế tức tại hào Sơ, Ứng tại hào Tứ. Hào Nhị của Càn lại biến, thì hào Nhị Thế quái Thiên Sơn Độn, vì Độn từ hào Nhị của quẻ Càn biến mà ra, nên Thế của quẻ Độn là hào Nhị, còn Ứng tại hào Ngũ. Hào Tam quẻ Càn lại biến thì thành Tam thế quái Thiên Địa Bĩ, vì quẻ Bĩ do hào Tam của quẻ Càn biến mà thành. Cho nên Thế của Bĩ là ở hào Tam, còn Ứng thì tại hào Thượng. Hào Tứ của Càn lại biến thì thành Tứ thế quái Phong Địa Quan, vì quẻ Quan là do hào Tứ quẻ Càn biến mà ra. Cho nên Thế của quẻ Quan là ở hào Tứ, còn Ứng thì ở tại hào Sơ. Hào Ngũ quẻ Càn lại biến thì thành Ngũ thế quái Thiên Địa Bác, vì quẻ Bác là do hào Ngũ quẻ Càn biến mà ra, cho nên Thế của quẻ Bác là ở hào Ngũ, Ứng tại hào Nhị. Hào Thương quẻ Càn chẳng thể biến đổi, nếu biến thì xuất cung. Sau khi do hào Ngũ của Ngũ thế quái Bác thoái lùi, thì hào Tứ lại biến thành Dương, thành ra Du hồn quái Hỏa Địa Tấn, Thế của Tấn lùi ở hào Tứ (giống với Tứ thế quái Quan), còn Ứng tại hào sơ. Lại do Tứ của Du hồn quái Tấn thoái lùi, hoàn toàn biến đổi ba hào ở dưới, thì thành Quy hồn quái Hỏa Thiên Đại hữu, Thế của quẻ Đại hữu lại lùi ở hào Tam (giống với Tam thế quái Bĩ), còn ứng tại hào Sơ. Còn như bản cung quái Càn là Thiên, thì Thế tại hào Thượng, Ứng tại hào Tam. Bảy cung còn lại cũng giống như vậy.

Khi tìm hiểu quy luật ở trong của Thế - Ứng, thì thấy Thế vị của Nhất thế quái cho đến Ngũ thế quái, lần lượt ở tại hào Sơ cho đến hào Ngũ, bản cung quái tại hào Thượng, thì Du hồn quái giống Tứ thế quái tại hào Tứ, Quy hồn quái giống Tam thế quái tại hào Tam. Xác định Thế hào rồi thì vị trí của Ứng hào sẽ rất dễ thấy. Cho nên Thượng Bỉnh Hòa nói: "Thế đã định thì cách hai hào là Ứng hào", nói cách hai hào là Ứng hào là cách nói giản tiện về sáu ngôi - vị chẵn lẻ âm dương tương ứng của các quẻ trong Dịch.

Kinh thị dịch truyện - về quẻ Quy hồn Đại hữu của cung Càn,Kinh Phòng nói: "Tam công lâm Thế, Ứng Thượng cửu vi Tông miếu". Từ Ngang nói: "Quy hồn đảm đương chức Tam công, Thế vị thì tại hào thứ ba, thế hào Thìn thổ tương ứng với Tông miếu hào Tị hỏa, (đó tức là hào Thượng, Thượng cư quái cực là tông miếu), Hỏa có khả năng sinh Thổ".

Phép Thế - Ứng mà các nhà bói toán đời sau vận dụng, là do Dịch học của Kinh Phòng mà ra. Các nhà dịch học Hán Ngụy, lưỡng Tấn như Tuân Sảng, Can Bảo,... thì lại thường lấy điều lệ "thế - ứng" để giải thích nghĩa của Dịch.

PHI – PHỤC

Điều lệ Dịch học do Kinh Phòng đời Hán đề xướng. "Phi" là chỉ Quái tượng của hào thế đã hiện rõ của một quẻ nào đó, của một cung nào đó. "Phục" là để chỉ Quái tượng đang ẩn phục chưa hiện rõ do hào thế, hoặc hào tương ứng với nó biến thành.

Phàm là tượng "phi - phục", thì phải có âm dương đối nhau, dương phi thì âm phục, âm phi thì dương phục. Chu Chấn - Hán thượng dịch truyện viết: "Phàm quẻ hiện rõ gọi là phi, quẻ chưa hiện rõ gọi là phục. Phi là mới đến. Phục là đã qua".

Kinh thị Dịch truyện trình bày thể lệ được thâu tóm như sau:

1. Bản cung quái trong Bát cung quái lấy âm dương đối nhau để hỗ thành "phi - phục". Như quẻ Càn và quẻ Khôn đối nhau, Càn là "phi" thì Khôn là "phục", Khôn là "phi" thì Càn là "phục". Tượng làm chủ là hào thế (hào Thượng Cửu Thượng Lục). Các cặp quẻ dịch đối Chấn - Tốn, Khảm - Ly, Cấn - Đoài cũng vậy.

2. Quẻ do Bát cung hóa sinh ra từ nhất thế đến ngũ thế, ba quẻ trước là "phi - phục" đối với nội quái, hai quẻ sau là "phi - phục" đối với ngoại quái. Như quẻ Cấu nhất thế quái của cung Càn, hào thế Sơ Lục đã hiển hiện mà cư ở nội Tốn, hào Sơ Cửu quẻ Càn được hóa sinh ra liền ẩn phục mà cư ở nội Càn, bởi vậy quẻ Cấu phi ở nội Tốn mà phục ở nội Càn, hào Sơ là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Độn nhị thế quái, phi ở nội Cấn phục ở nội Càn, hào Nhị là chủ tượng. Cũng với lý đó, quẻ Bĩ tam thế quái, phi ở nội Khôn phục ở nội Càn, hào Tam làm chủ tượng. Quẻ Quán tứ thế quái, phi ở ngoại Tốn phục ở ngoại Càn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Bác ngũ thế quái, phi ở ngoại Cấn phục ở ngoại Càn, hào Ngũ là chủ tượng. Bản cung còn lại theo đó mà suy.

3. Quẻ Du hồn là "phi - phục" với ngoại quái của ngũ thế quái bản cung. Quẻ quy hồn là "phi - phục" với nội quái của quẻ Du hồn bản cung. Như quẻ Tấn là quẻ Du hồn của cung Càn, hào thế Cửu Tứ đã hiển hiện mà cư ở ngoại Ly, hào Lục Tứ của quẻ ngũ thế quái Bác do quẻ Du hồn phục biến, liền ẩn mà cư ngoại Cấn, hào Tứ là chủ tượng. Quẻ Quy hồn cung Càn là Đại hữu, hào Cửu Tam là hào thế, đã hiển hiện ra mà cư ở nội Càn, ba hào âm dưới quẻ Du hồn Tấn, phản quy phục biến, liền ẩn mà thành nội Khôn; bởi vậy quẻ Đại hữu phi ở nội Càn phục ở nội Khôn, hào Tam là chủ tượng. Bảy cung còn lại theo đây mà suy.

4. Khi chiêm quẻ, gặp hai hào động của bản quái, ba hào động của bản quái trở lên, thì lấy hào động trên cùng làm chủ tượng, xét từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, cũng đều căn cứ vào Quái từ Quái tượng và Hào từ Hào tượng để định cát hung.

Xét, về thể lệ "phi - phục", thực chất Kinh Phòng vận dụng nguyên lý đầy vơi, tiêu tức trong mâu thuẫn đối lập âm dương của Dịch, sau đó suy rộng phát triển mà thành. Từ Ngang trong Kinh thị Dịch truyện tiên nói: "Âm dương tiêu trưởng mà có phi-phục. Hiển là phi, ẩn là phục. Đã phi thì từ hiển mà ẩn; đã phục thì từ ẩn mà hiển. Trong phi có phục, trong phục có phi, tiêu tức tuần hoàn không cùng".

Hán thư - Kinh Phòng truyện viết: "Tiêu quái gọi là Thái âm. Tức quái gọi là Thái dương". Nhan Sư Cổ chú: "Tiêu quái gồm Cấu, Độn, Bĩ,Quán, Bác, Khôn. Tức quái gồm Phục, Lâm, Thái, Đại tráng, Quải, Càn". Chu Hy chép ở đầu sách Chu dịch bản nghĩa có nói: "Thái dương sinh hai quẻ Càn Đoài. Thái âm sinh hai quẻ Cấn Khôn".

Kinh Phòng đã kết hợp, vận dụng cả Ngũ hành, Can Chi, Ngũ tinh, Tứ khí, Lục thân, Cửu tộc, Phúc đức, Hình sát, v.v...để giúp vào việc chiêm nghiệm. Các nhà bốc phệ đời sau đều lấy phép "phi-phục" của Kinh Phòng để xin âm dương chiêm đoán tai dị. Những nhà Dịch học thời Hán Ngụy như Tuân Sảng, Ngu Phiên lại thường dùng lý luận "dương hạ phục âm, âm hạ phục dương" trong thể lệ phi-phục để giải thích nghĩa của Dịch. Về câu "Lý sương kiên băng chí" trong Văn ngôn truyện quẻ Khôn, Tuân Sảng nói: "Sương là mệnh lệnh của Trời, dưới Khôn có Càn ẩn phục. 'Lý sương kiên băng', đó là nói đạo thuận tòng. Càn khí thêm vào, tính biến thành cứng. Như bề tôi thuận theo mệnh vua mà hoàn thành đạo làm tôi". Hoặc câu "Quân tử dĩ trí mệnh toại chí" trong Đại tượng truyện quẻ Khôn, Ngu Phiên nói: "Quân tử là chỉ hào Tam, dương đang ẩn phục".

Kinh Phòng kiên trì thuyết "quái khí" để bình nghị âm dương tai biến, cho nên di thuyết của ông truyền ở đời rất sâu rộng. Đầu quyển Thượng là: Càn cung bát quái, thứ đến Chấn cung bát quái, Khảm cung bát quái, Cấn cung bát quái. Đầu quyển Trung là: Khôn cung bát quái, thứ đến Tốn cung bát quái, Ly cung bát quái, Đoài cung bát quái. Đầu quyển Hạ bàn về Thánh nhân làm Dịch, phép đếm cỏ thi bày quẻ, rồi bàn về phép Nạp Giáp, sau đó bàn về 24 khí hậu phối hợp với 64 quẻ, và Tứ Dịch: Thiên dịch - Địa dịch - Nhân dịch - Quỷ dịch. Thiên quan, Địa quan và Ngũ hành sinh tử. Phép bói dùng đồng tiền đời sau thực ra xuất phát từ đây. Cách dùng Hỏa châu lâm cựu truyền cũng khởi đầu từ sách của Kinh Phòng.

DU HỒN

Du hồn là quẻ thuần bản cung của mỗi cung, khi biến đến hào thứ năm, thì hào trên không biến, mà lại đi xuống, biến ở hào thứ tư đã biến, quẻ được hình thành như vậy, thì gọi là quẻ Du hồn. Kinh thị Dịch truyện, đó là Du hồn". Lục Tích chú thích: "Khi âm đã bóc hết dương, nhưng dương đạo không thể bị diệt hết, vì vậy phản dương phục đạo. Nhưng không quay về ngôi bản vị, thì gọi là Du hồn theo "lệ" của Bát quái". Nói về quẻ Tấn: "Khí tinh túy thuần"

Xét, gọi tên Du hồn, vốn gốc từ Hệ từ - Thượng truyện "Tinh khí vi vật, du hồn vi biến". Kinh Phòng đã tiếp thu, lấy làm tên gọi cho quẻ hình thành bởi lần biến thứ sáu của Bản cung quái. Can Bảo chú giải về quẻ Tụng nói: "Quẻ Tụng là du hồn của quẻ Ly. Ly là binh qua, thiên khí hình sát, là quẻ mà vương công phải dùng tới quân đội".

QUY HỒN

Quy hồn là quẻ bản cung của mỗi cung, đã biến đổi tới lần thứ 6 thành quẻ Du hồn, thì đồng thời biến đổi 3 hào đã biến ở dưới quẻ, như vậy thì thành quẻ, gọi là quẻ Quy hồn. Kinh thị Dịch truyện trong mục quẻ Đại hữu nói: "Quẻ trở về bản cung gọi là Đại hữu, tượng trong thấy Càn là bản vị". Gọi là "Bản cung", hay "Bản vị" là chỉ cung Càn biến tới quẻ Quy hồn, thì ba hào dưới lại biến nữa mà trở về Càn. Như vậy, hào Sơ, hào Nhị, hào Tam đều biến hai lần. Hào Tứ biến lần hai thì được quẻ Du hồn.

Lục Tích chú thích rằng: "Tám quẻ vốn khởi từ cung Càn, tới Đại hữu là Quy hồn. Gọi là Quy hồn là nói về tượng của quẻ đó biến, mà quay trở về bản vị Hạ quái của bản cung". Tuân Sảng nói: "Tùy là quy hồn của Chấn, Chấn trở về (quy) từ Tốn (chỉ hạ thể quẻ tam thế Chấn thành Tốn, tới quẻ quy hồn mới hồi phục bản thể thành Chấn), cho nên rất thông thuận. Vì Tốn là khiêm tốn, hòa thuận, nên có nghĩa là Thông.

Kinh thị Dịch truyện nói: "Dịch của Khổng Tử chép: Có tứ dịch. Nhất thế Nhị thế là Địa dịch. Tam thế Tứ thế là Nhân dịch. Ngũ thế Bát thuần là Thiên dịch. Du hồn Quy hồn là Quỷ dịch". Lại nói: "Du hồn, Quy hồn là Quỷ dịch. Quỷ là lại quay về. Quẻ Du hồn từ hào thứ năm, thì quay về mà biến ở hào thứ tư; quẻ Quy hồn từ hào thứ tư, lại quay về mà biến ở ba hào ở dưới quẻ. Thể lệ này đều bao hàm cả tôn chỉ của sự 'quay về' (phục quy)".

Thế quái khởi Nguyệt lệ

Điều lệ Dịch học của Kinh Phòng. Phép này đem Bát cung quái chia ghép với 12 tháng. Không giống với thể chế đem quẻ ghép với tháng, trong Quái khí đồ của Mạnh Hỷ.

Khởi Nguyệt lệ:

- Nhất thế quái: âm làm chủ tháng Năm, vì một âm tại Ngọ. Dương làm chủ tháng Một, vì một dương tại Tý.

- Nhị thế quái: âm làm chủ tháng Sáu, vì hai âm tại Mùi, Dương làm chủ tháng Chạp, vì hai dương tại Sửu.

- Tam thế quái: âm làm chủ tháng Bảy vì ba âm tại Thân, dương làm chủ tháng Giêng, vì ba dương tại Dần.

- Tứ thế quái: âm làm chủ tháng Tám vì bốn âm tại Dậu, dương làm chủ tháng Hai vì bốn dương tại Mão.

- Ngũ thế quái: âm làm chủ tháng Chín vì năm âm tại Tuất, dương làm chủ tháng Ba vì năm dương tại Thìn.

- Bát thuần Thượng, âm làm chủ tháng Mười vì sáu âm tại Hợi, dương làm chủ tháng Tư vì sáu dương tại Tị.

- Du hồn do Tứ thế làm chủ, giống với Tứ thế quái.

- Quy hồn do Tam thế làm chủ, giống với Tam thế quái.

Âm dương nói ở đây, là chỉ hào Thế của thế Quái cùng Du hồn quái, Quy hồn quái, thuộc quẻ nào đó, thuộc cung nào đó, là hào âm hay hào dương. Căn cứ vào thuyết này mà lập "Thế quái khởi nguyệt lệ biểu".

Tất cả 12 tiêu tức quái, đều hợp với 12 tháng phối thuộc, còn 52 quẻ khác, vì hào Thế của chúng hợp với tiêu tức hào của 12 tiêu tức quái, nên cũng phân biệt liệt vào 12 tháng. Cho nên, khởi Nguyệt lệ của Kinh Phòng chính là do 12 tiêu tức quái mở rộng ra mà thành. Sự vận dụng lệ này, vốn là để bói toán chiêm nghiệm.

- Nguyệt kiến Tý - quẻ đời một (nhất thế quái): Phục, Bí, Tiết, Tiểu súc

- Nguyệt kiến Sửu - quẻ đời hai (nhị thế quái): Lâm, Đại súc, Giải, Đỉnh

- Nguyệt kiến Dần - quẻ đời ba (tam thế quái) Thái, Ký tế, Hằng, Hàm.

- Quẻ Quy hồn: Đại hữu, Tiệm, Cổ, Đồng nhân

- Nguyệt kiến Mão - quẻ đời bốn (tứ thế quái) Đại tráng, Khuê, Cách, Vô vọng.

- Du hồn quái: Tấn, Đại quá, Tụng, Tiểu quá

- Nguyệt kiến Thìn - quẻ đời năm (ngũ thế quái) Quải, Lý, Tỉnh, Hoán.

- Nguyệt kiến Tị - quẻ Bát thuần (Bát thuần quái) Càn, Cấn, Tốn, Ly

- Nguyệt kiến Ngọ - nhất thế quái: Cấu, Dự, Lữ, Khốn

- Nguyệt kiến Mùi - nhị thế quái: Độn, Truân, Gia nhân, Tụy

- Nguyệt kiến Thân - tam thế quái: Bĩ, Tổn, Ích, Vị tế

- Quẻ Quy hồn: Tùy, Sư, Tỵ, Quy muội

- Nguyệt kiến Dậu - tứ thế quái: Quán, Thăng, Mông, Kiển

- Du hồn quái: Minh di, Trung phu, Nhu, Di

- Nguyệt kiến Tuất - ngũ thế quái: Bác, Phong, Phệ hạp, Khiêm

- Nguyệt kiến Hợi - Bát thuần quái: Khôn, Chấn, Khảm, Đoài.

Sở Tử Huy viết lời bạt cho sách Khải mông tiểu truyện, đã làm rõ nghĩa của Chu Tử còn thiếu, lập luận của Ông có căn cứ, lý lẽ có hệ thống chặt chẽ. Đã làm rõ nghĩa “Càn Khôn nạp Giáp”, quẻ Càn từ Giáp đến Nhâm, quẻ Khôn từ Ất đến Quý, số của nó đều là 9. Tuy nhiên Ông ngờ thuyết cho rằng, số 9 của quẻ Càn có khả năng kiêm cả số 6 của quẻ Khôn. Nhưng Khôn âm không thể bao hàm Càn dương. Tử Huy cho rằng, trong số 6, có số 1, 3, 5 (là các số dương), như vậy thì số 9 dương cũng có thể chứa trong số 6 âm. Thực ra học thuyết về số không ngoài chẵn - lẻ, chỉ có một nghĩa đó mà rất nhiều thuyết bàn tới, càng suy luận càng nẩy sinh những luận lý mới, thuyết nào cũng đúng cả.

Xét, một quẻ sinh 3 con, 3 con sinh 9 cháu. Phép Bát phong của họ Kinh, mỗi quẻ có 3 hào là “sinh”, có 3 hào ngoài là “hành”. Một quẻ sinh 3 cho nên 8 quẻ “biệt sinh” ra 24 “tử tức” (con cháu), 8 quẻ còn “hoà sinh” 24 “tử tức” nữa. Ngoại quái đều có 1 người hành ở một hào. 3 người “hành” vào trong (nội quái) làm khách, cho nên nói: “có ba người khách từ từ đến”. Nhân lấy phép một hào biến của Tả Thị, mỗi quẻ có 6 biến hào làm thành một quẻ, lại hợp 6 lần biến thành 36 quẻ

Nguồn:

- Kinh thị Dịch truyện - Từ Ngang

- Từ điển Chu dịch - Trương Thiện Văn.

THUYẾT VỀ DỊCH SỐ

Số là sự thăng hoa của Tượng, Dịch số bắt nguồn từ Dịch tượng, hào số trong Dịch là tổ của vạn số. Nói là tổ của vạn số, là từ sau khi Phục Hy họa vẽ bát quái, hào âm "- -" (2 số) và hào dương "-" (1 số), số tổng của hai số (3 số) đã trở thành tổ của vạn số.

Dịch số bao gồm Thiên số và Địa số - số của Đại diễn, số của kỳ - ngẫu (số lẻ - chẵn), và nội dung của tứ đại sinh thành số (bốn số lớn sinh thành). Trong đó Dịch số Hà Lạc có nội hàm quan trọng trong khoa học sinh mệnh.

Sự kết hợp giữa Dịch tượng và Dịch số có ý nghĩa quan trọng về phương diện đi sâu làm sáng tỏ Dịch lý. Số là điểm cơ bản của Khoa học tự nhiên, khi ứng dung về mặt chiêm phệ của tượng - số còn được gọi là "thuật số học", là hạt nhân của văn hóa chiêm phệ, sự tương bổ tương thành giữa tương - số và thuật số đều là hạt nhân của Dịch học.

Đặc điểm tượng - số của Dịch là thông qua tượng - số, phân tích làm sáng tỏ Dịch lý. Trong quá trình từ Tượng đến Số, từ Số đến Lý, về khách quan đã thúc đảy tư duy hình tượng đến tư duy trừu tượng, còn được gọi là Huyền học của tư duy Cổ đại. Dịch số không những có tác dụng quan trọng đối với sự phát triển của Dịch tượng, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của Dịch lý. Quy luật phát triển giữa hai bộ môn đó với nhau là: Dịch số bắt nguồn từ Tượng lại phát triển Tượng lên; Dịch số ra đời từ Lý lại thúc đẩy cho Lý phát triển. Ba bộ môn Số - Tượng - Lý tương phản tương thành, cùng chung kích thích sự phát triển của Dịch học và Khoa học tự nhiên.

THIÊN SỐ VÀ ĐỊA SÔ CỦA DỊCH

Nội hàm số Thiên Địa của Dịch là lấy số thiên địa để chứng minh nguyên lý hợp nhất của Thiên Địa, mục đích dùng để chứng minh quy luật tự nhiên của Vũ trụ, như viết: "Thiên nhất, địa nhị, thiên tam địa tứ; thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát; thiên cửu địa thập".

Khái niệm 'cực' trong Dịch là nói đến cái bản nguyên của Thiên Địa, như Dịch truyện - Hệ từ nói: "Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên" (Có trời đất, sau mới sinh ra vạn vật), nên Dịch bàn về số là chủ ý lấy Số để chứng minh sự biến hóa vận động của Thiên Địa. Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc nhi các hữu hợp. Thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số dĩ thành biến hóa nhi hành quỷ thần dã".

Lấy Thiên số và Địa số làm tiêu chí trong quá trình tiêu trưởng của Dịch, đặc biệt là lấy sự nghịch - thuận của âm dương của số, để làm tiêu chí mất còn của âm dương thiên địa, như Dịch - Thuyết quái viết: "Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị số dịch số nghịch dã".

Gọi là nghịch - thuận của Số, là chỉ vãng - lai của Số; "vãng" là số tả huyền (xoay sang trái), thuận thiên nhi hành nên viết thuận; "lai" là số xoay chuyển song hữu (phải) nghịch thiên nhi hành nên viết nghịch. Cho nên, thuận số tượng trưng cho dương sinh âm trưởng, nghịch số tiêu chí âm trưởng dương tiêu. Như trong Tiên thiên bát quái phương vị đồ của Phục Hy, các quẻ Càn Đoài Ly Chấn của nửa vòng bên trái, thì lấy tả huyền vi thuận, tượng trưng cho dương trưởng âm tiêu. Ngược lại, với nửa vòng tròn bên phải, các quẻ Tốn Khảm Cấn Khôn dịch chuyển về bên phải, thể hiện dấu hiệu âm trưởng dương tiêu. Đúng như Chu Hi đã viết: "thiên tả hành, hữu địa tuyền" (Trời đi về phía trái, đất xoay về phía phải).

Thứ tự thuận của Bát quái là từ phải sang trái, tức do: Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn; cho nên dương sinh xoay vòng sáng trái (tả) theo thiên thời, âm trưởng đi theo sang vòng bên phải (hữu), tương phản đúng hướng tốt. Bởi vậy Dịch viết: "dịch chi số do nghịch như thành hĩ" (số của Dịch do ngược lại mà thành). Vậy tức là 'Dịch' lấy sự nghịch thuận của số, để chứng minh giải thích mối quan hệ mật thiết giữa bát quái định vị với thiên địa vận hành, phản ánh bối cảnh thiên văn của bát quái.

Dịch lấy Thiên số Địa số để tượng trưng cho Tứ tượng lão dương, lão âm, thiếu dương, thiếu âm là Thái cực tứ tượng. Căn cứ theo nguyên lý thái cực thái cực âm dương tiêu trưởng, số tứ tượng tiêu chí cho bốn giai đoạn của thiên địa âm dương tiêu trưởng. Tức lấy 6 làm số lão âm, tượng trưng cho cực của địa âm; lấy '7 số' làm số thiếu dương đại biểu số khởi đầu của thiên dương; lấy '9 số' làm số lão dương tiêu chí cho cực của thiên dương, lấy 8 làm số thiếu âm tượng trưng cho số khởi đầu của địa âm. Dịch truyện lại tiến thêm một bước ứng hợp giữa tứ tượng số và hào số với nhau, để dùng trong chiêm phệ bói toán.

Thiên số và Địa số trong quá trình phát triển, quan trọng nhất là Trần Đoàn thời Bắc Tống, ông lập thuyết chủ yếu lấy Thiên số và Địa số của Dịch, làm cơ sở để thông biến với Hà đồ và Lạc thư. Trong "Long đồ tam biến" nổi tiếng, Trịnh Huyền đã xây dựng học thuyết sáng tỏ về sự diễn biến của Hà đồ - Lạc thư, tức là ông đã dung hòa và kết hợp được giữa Thiên số và Địa số của Dịch, thêm nữa là Kỳ số và Ngẫu số với Ngũ hành sinh thành số, có nghĩa là đệ nhị biến, đem số của 'ngôi vị' hợp với thiên số và địa số trong đệ nhất bất biến, thành số dĩ hợp thiên địa, đã thể hiện ý nghĩa sâu xa sự tượng hợp thiên địa, hàm ẩn số thiên địa của Dịch, đúng như trong Tống văn giám - Long đồ tự - Đồ tam biến đã nói: "Hậu ký hợp dã; thiên nhất cư thượng vị đạo chi tông, địa lục cư hạ vị địa chi bản; thiên tam địa nhị địa tứ vi chi dụng. Tam nhược tại dương tắc tỵ (tránh) cô âm, tại âm tắc tỵ quả (thiếu, ít) dương". (Sau đã được tổng hợp lại: trời là số 1 làm tôn chỉ của đạo. Đất làm số 6 đặt làm gốc của quả đất. Thiên 3, địa 2, địa 4 đều vận dụng vào. Số 3 nếu ở tại dương thì số âm tránh được sự sô độc, còn ở tại âm thì số dương tránh được cô quả".

Lưu Mục trên cơ sở của Trần Đoàn, lại tiến hành tái tạo thêm, phát triển số thiên địa thành ngũ hành sinh thành số. Có nghĩa là phân biệt Long đồ thiên số địa số với ngũ hành sinh thành số tương kết hợp, sáng tạo nên 'Hà Lạc ngũ hành sinh thành số' nổi tiếng. Như viết: "Đó là số ngũ hành sinh thành. Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ. Đó là số sinh vậy. Như vậy thì số dương không có số để hợp, số âm sẽ không gặp may. Cho nên, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ. Dẫn đến là số âm dương đều có sự hòa hợp và may mắn, như vậy vật sẽ đắc thành, nên được gọi là thành số".

Số thiên địa của Dịch là mẫu của vạn số, có mối quan hệ mật thiết với ngũ hành sinh thành số, âm dương kỳ ngẫu số, đại diễn phệ số. Thiên số và Địa số là cơ sở của ngũ hành sinh thành số, là sản vật kết hợp giữa thiên địa số và ngũ hành của Dịch, Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập". Hán thư - Ngũ hành chí viết: "Thiên dĩ nhất sinh thủy, địa dĩ nhị sinh hỏa, thiên dĩ tam sinh mộc, địa dĩ tứ sinh kim, thiên dĩ ngũ sinh thổ". Dịch số câu ẩn đồ viết: "Thiên nhất sinh thủy, địa nhị sinh hỏa, thiên tam sinh mộc, địa tứ sinh kim, thiên ngũ sinh thổ, địa lục thành thủy, thiên thất thành hỏa, địa bát thành mộc, thiên cửu thành kim, địa thập thành thổ".

Hơn nữa sự tương hợp của số thiên địa trong "Long đồ tam biến" của Trần Đoàn, cũng bắt nguồn từ Dịch truyện - Hệ từ viết: "Thiên số ngũ, địa số ngũ, ngũ vị tương đắc như các hữu hợp, biến hóa nhi hành quỷ thần dã". Lại viết "Trên trời là số 1, dưới đất là số 5, vị trí số 5 tương đắc sẽ có sự hòa hợp nhau, sẽ có sự biến hóa mà làm thành quỷ thần vậy".

Dịch lấy thiên số làm kỳ số là dương số; lấy địa số làm ngẫu số là âm số, từ đó mà đặt cơ sở cho kỳ ngẫu âm dương số. Như trong thiên địa số của Dịch truyện - Hệ từ viết: "Phàm thiên số đều là kỳ số, địa số đều là ngẫu số. Lấy thiên làm đương, lấy địa làm âm", qua đây ta thấy mối quan hệ sâu xa giữa kỳ ngẫu âm dương số của Dịch với thiên địa số.

Số 50 của Đại diễn là số diễn giả, dùng để chiêm phệ Dịch, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết với số thiên địa của Dịch. Bởi vì số Đại diễn là cơ sở để lấy thiên số và địa số hợp ngũ phương mà diễn giả vạn số. Hơn nữa số Đại diễn cũng thoát thai từ số thiên địa của Dịch. Đúng như Dịch truyện - Hệ từ viết: "Đại diễn chi số ngũ thập... thiên số nhị thập hữu ngũ, địa số tam thập. Phàm thiên địa chi số ngũ thập hữu ngũ, thử số dĩ thành biến hóa nhi hành quẻ thần dã".

Lấy kỳ số và ngẫu số tượng trưng thiên địa, được khởi nguồn từ tứ tượng pháp thiên địa mà có, từ phản ánh bắt nguồn ở tượng của số, nói rõ tính vật chất của Dịch số. Như Dịch - Thuyết quái viết: "Tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số", tham tức là số 3 là kỳ số (số lẻ); lưỡng tức là số 2 là ngẫu số, 'tham thiên lưỡng địa' tức là để gọi thiên kỳ địa ngẫu, thiên dương địa âm, cũng có nghĩa là để giám sát cả trời đất. Ý tứ của toàn câu là lấy số âm dương kỳ ngẫu để nắm chắc độ số của thiên địa, thông qua Ngũ âm làm số đo trời, cụ thể là lấy âm dương của số, làm thước đo âm dương của trời đất. Cho nên nói đây là nội hàm chủ yếu của kỳ ngẫu số trong Dịch.

Kỳ số và ngẫu số làm tiêu chí cho số âm dương, được bắt nguồn gốc ở hào âm hay dương, trong đó Hào dương là kỳ số, là 'dương số chi phụ' (cha của số dương); Hào âm là ngẫu số, là 'âm số chi mẫu' (mẹ của số âm). Từ đây đặt nên mối quan hệ vững chắc giữa kỳ ngẫu số và âm dương.

Kỳ số và ngẫu số cũng biểu thì cho sự 'hư - thực', vẫn bắt nguồn từ hào âm dương, trong đó ngẫu số là 'hư', kỳ số là 'thực'. Nội hàm hư thực của kỳ ngẫu số cũng được phản ánh ở Bát quái, như quẻ Ly là trung hư, quẻ Khảm là trung mãn. Cho nên trong Thái cực đồ, điểm trắng kỳ số tượng trưng cho thực, điểm đen ngẫu số tượng trưng cho hư.

Đối với triết lý, được phản ánh trong mối quan hệ giữa Dịch truyện và Lão Tử. Thứ nhất, là từ góc độ của Ngẫu số tiến hành phân tích rõ sự sinh thành của Vũ trụ, như "Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái". Cụ thể là sự sinh thành của Bát quái và vạn vật, thông qua kỳ số và ngẫu số của Dịch, đã phản ảnh triết lý 'nhất phân vi nhị' (một chia làm đôi), nhờ sự gợi mở của triết lý này mà người đời sau đã sáng lập nên 'Tiên thiên bát quái thứ tự đồ', và 'Thiên thiên lục thập tứ quái thứ tự đồ'. Hai đồ hình này đã bao hàm rõ nét nguyên lý 'nhất phân vi nhị', đã ảnh hưởng lớn đến thế hệ sau.

Ngoài ra, trên cơ sở 3 hào làm nhất quái của Dịch kinh, thì Dịch truyện còn đề xuất tư tưởng 'tam tài quan' của thiên địa nhân nhất thể. Trên cơ sở này, mà người đời sau đã xây dựng lập thuyết 'hàm tam vi nhất' (bao hàm 3 làm 1), như trong Tam thống lịch đời Ngụy, Mạnh Khang chú giải: "Thái cực nguyên khí, hàm tam vi nhất", có nghĩa là lấy hai con cá mầu đen trắng đại biểu cho thiên địa, đường phân giới tuyến hình chữ 's' đại biểu cho Nhân, từ đồ hình đã chỉ rõ hợp nhất tam tài thiên địa nhân.

Lão Tử đã phát triển nổi bật Kỳ số của Dịch, chủ yếu là lấy Kỳ số giải thích sự sinh thành của Vũ trụ: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Dịch truyện nhấn mạnh Ngẫu số 'nhị', đó là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lão Tử phát huy 'tam' Kỳ số, tích cực đề xuất rằng 'tam' sinh vạn vật. Dịch truyện sáng lập bộ môn sáng trói về "nhất phân vi nhị", còn Lão Tử đề xướng "nhất phân vi tam". Thuyết minh Dịch truyện và Lão Tử lấy 'tham' và 'lưỡng' để giải thích vũ trụ thông qua hình đồ triết lý diễn sinh như sau:

......................[Hào âm --> ngẫu số 2 --> nhất phân vi nhị

Tham thiên [Hào số 3 --> hàm tam vi nhất --> Trung hòa quan

Lưỡng địa [Hào dương -->Kỳ số 1 --> nhất phân vi tam

.....................(nhị hợp vi nhất)

Dịch lấy hào dương làm Kỳ số, hào âm làm Ngẫu số, Dịch ghép lấy hào ba của Kỳ số 'tổ' thành kinh quái, lấy Ngẫu số lưỡng kinh quái 'hợp' thành trọng quái. Kỳ Ngẫu số của Dịch đã xác lập định luật lấy đơn số làm 'lẻ', lấy song số làm 'chẵn', đặt cơ sở cho luật kỳ - ngẫu cổ đại. Đặc biệt là căn theo luật Kỳ số là hào dương, Ngẫu số là hào âm, đã quy định Kỳ là số dương Ngẫu là số âm, từ đây xác định nội hàm âm dương của luật Kỳ - Ngẫu, đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hậu thế cho đến tận này nay. Như trong Bạch hổ thông - Giá tụ Ban Cố viết: "Dương số Kỳ, âm số Ngẫu", đã nói rõ kỳ ngẫu của Dịch có quan hệ mật thiết đối với sự hình thành của luật kỳ ngẫu âm dương.

Luật kỳ ngẫu âm dương đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều bộ môn: lịch pháp, thuật số, chiêm phệ, vận khí học,... của thời cổ đại. Như thời tính Can chi kỷ (12 năm), lấy kỳ số làm dương Can, ngẫu số làm âm Can, học thuyết Vận khí trong Hoàng đế nội kinh cũng như vậy. Lại như các thuật số Thái ất, Kỳ môn, Lục Nhâm cũng đầu lấy âm dương kỳ ngẫu làm tiền đề: hào âm tượng trưng cho 'nhất phân vi nhị', hào dương có ý chỉ 'hợp nhị vi nhất'.

Dịch truyện dựa trên cơ sở Dịch kinh, đã xác minh rõ quan niệm về sự thống nhất đối lập ẩn tàng trong luật kỳ ngẫu của các hào âm và hào dương, hoàn toàn phù hợp với số sinh tượng, tượng sinh lý, có nghĩa là quy luật tư duy trìu tượng sản sinh ở tư duy hình tượng, tiến thêm một bước chứng thực quan điểm 'tham thiên lưỡng địa nhi ỷ số'. Từ đây mà tư tưởng biện chứng được xác lập.

Gọi là luật chính phản, có nghĩa là chỉ hướng chính và hướng phụ của sự vật. Bất cứ sự vật nào trong vũ trụ đều tồn tại hai mặt chính phản (phải trái), tức có chính hướng tất có phản hướng, bao gồm hư thực u ẩn, khai hợp (khép mở), minh ám (sáng tối), trú dạ (ngày đêm), tử sinh,... Hào dương và hào âm của Dịch kinh, có hắc ngư và bạch ngư trong Thái cực đồ, rồi tới hắc điểm và bạch điểm của Hà đồ Lạc thư, tất cả đều tàng ẩn chứa đựng nguyên lý thư thực chính phản, mà còn đều lấy Kỳ làm chính hướng làm thực, lấy Ngẫu làm phản hướng làm hư; đối với Hà Lạc cũng vậy: Kỳ số là chính là thực, Ngẫu số là phản là hư.

Luật chính phản là luật đặc hữu của Dịch, là sự phát triển đặc thù của quy luật mâu thuận của Dịch, mà chủ yếu chỉ tính chất hư thực, u hiện (kín lộ), khai hợp (đóng mở), để làm sáng tỏ quy luật chính phản của sự vật. Cụ thể như hào âm của bát quái là hư số, còn Hào là thực số vậy. Cũng như số ẩn (độn số) của Kỳ môn độn Giáp, các hào trong Kỳ môn gồm: Độn - Giả - Mộ - Tỵ (tránh) - Huyệt - Phục thì đều thuộc ẩn thuộc hư, còn Kỳ - Môn - Tiến - Du - Phi - Sư thì đều là các hào hiển lộ rõ, là thực. Sau đó Kỳ môn dựa vào đó suy diễn hư thực, chiêm đoán cát hung, đạt đến mục đích tránh được họa, được hưởng phúc.

SỐ ĐẠI DIỄN

Số Đại diễn là thành phần chủ yếu của Dịch số. Đại diễn tức là diễn ngữ, diễn dịch, là chỉ về phương pháp dùng thẻ bằng cỏ Thi để diễn dịch xem đoán vận số. Số Đại diễn là tổng hòa của thiên số và địa số trong Dịch: "Thiên nhất địa nhị, thiên tam địa tứ, thiên ngũ địa lục, thiên thất địa bát, thiên cửu địa thập".

Số Đại diễn sở dĩ lấy 'ngũ thập' là do thời cổ đại, lấy 'ngũ thập' làm cực số tự nhiên quan trọng, nguyên nhân là do số 'ngũ thập' có đầy đủ nội hàm với vũ trụ thiên văn. Như trong Hoàng đế nội kinh nói: "nhân khí hành Kinh mạch ngũ thập doanh", nhấn mạnh 'ngũ thập doanh' là số thọ của phép dưỡng sinh. Linh Khu - Ngũ thập doanh viết: "ngũ thập doanh bị, đắc tân thiên chi thọ hỉ" (được số thọ của cả trời đất). Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt dẫn lời Kinh Phòng nói: "Ngũ thập giả, vị thập nhật, thập nhị thìn, nhị thập bát tú dã". Mã Dung cũng nói: "Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thập tứ khí, phàm ngũ thập" (khái quát lại là năm mười)

Số Đại diễn 'ngũ thập hữu ngũ', còn có thuyết là số căn cứ để vua Đại Vũ trị thủy thời cổ đại, như trong Chu bễ toán kinh nói "Vũ trị hồng thủy, bắt đầu mở rộng vận dụng và bỏ lược đi phần huyền hoặc nên gọi là số đại diễn".

Số Đại diễn là điển phạm lấy Số mà nghiên cứu Tượng, tuy là số chiêm toán, nhưng lại có mối tương quan mật thiết với vũ trụ sinh thành, lý luận này bắt nguồn từ ở Thái Nhất (Bắc Thìn) ở trong bất động, là bối cảnh thiên văn vũ trụ xoay chuyển của 49 ngôi sao bắc đẩu tinh tọa, Mã Dung viết: "Hợp thái cực, lưỡng nghi, tứ thời, ngũ hành, thập nhị nguyệt, nhị thập tứ khí vi ngũ thập, nhi giảm khứ bắc thìn chi nhất vi dụng tứ thập cửu. Dịch hữu thái cực vị bắc thìn dã. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh tứ thời, tứ thời sinh ngũ hành, ngũ hành sinh thập nhị nguyệt, thập nhị nguyệt sinh nhị thấp tứ khí. Bắc thìn cư vị bất động. Kỳ dư tứ thập cửu, chuyển vận nhi dụng dã". Giảm bớt đi số 1 của bắc thìn, xem như giảm một ngày để dùng số 49. (Dịch có thái cực gọi là bắc thìn. Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh nhật nguyệt, nhật nguyệt sinh 4 mùa, bốn mùa sinh 5 hành, 5 hành sinh ra 12 tháng, 12 tháng sinh ra 24 khí. Sao ở Bắc cực ở vị trí bất động, ngoài ra còn lại 49, được chuyển vận mà sử dụng)

Số Đại diễn ngoài hàm chứa tính thiên văn ra, thì cũng hàm chứa cả số âm dương, cụ thể là số "dư" từ số Đại diễn sau khi kinh qua tam biến của chiêm phệ, lấy đó trừ đi 4 thì được 9 là lão dương số, được 6 là lão âm số, được 7 là thiếu dương số, được 8 là thiếu âm số, bốn số này cũng tức là âm dương tứ tượng. Ngoài ra, số lão dương và số lão âm được lấy làm tiêu chí của hào dương và hào âm trong Dịch.

Số Hà Lạc là sự hợp nhất của số thiên địa, số đại diễn và số sinh thành. Tổng số của Hà đồ là "ngũ thập hữu ngũ" (năm mươi dư năm), đây là số tổng hòa trong Dịch, mà Lạc thư tổng số là "tứ thập hữu ngũ" (bốn mươi dư năm). Hai số đại diện cho chính - phản, trái phải của số Đại diễn.

Thổ khí là nguyên cớ của vạn vật. Được gọi là số 'sinh' gồm các số 1, 2, 3, 4, 5 là số tượng trưng cho thủy, hỏa, mộc, kim, thổ; trong đó số của Thổ là nguyên cớ cho bốn số đứng ở ngôi vị trước mà ỷ vào (nhi ỷ số: số dựa vào) mà được thành số 6, 7, 8, 9, 10. Tổng hòa của Hà đồ sinh thành số cũng là 'ngũ thập hữu ngũ'.

Phệ số tức là số bói quẻ bằng cỏ Thi 'kỳ dụng tứ thập hữu cửu' (dùng số bốn mươi dư chín). Thi số là chỉ phệ số của 'tứ thập hữu cửu' rút ra trong 'ngũ thập' của số Đại diễn một "can rễ" không dùng, thông qua sự biến hóa của bói toán (phệ biến), thì thấy được sự dung nhất giữa ba bộ môn số - tượng - lý.

Sách số là chỉ Càn Khôn sách số có nguồn gốc từ lấy số 4 đại diện cho tứ doanh nhân với 9 là số 'dụng cửu' của hào dương mà thành 36, tiếp theo lại nhân với 6 của hào dương mà thành 216 sách số của Càn. Số 4 của tứ doanh nhân với số 6 là số 'dụng lục' của hào âm thành thành 24, lại nhân tiếp với 6 của hào âm thì được 144 là sách số của Khôn, tổng hòa của sách số là 'tam bách hữu lục thập', đây là chỉ số của một vòng quay mặt trời thời xưa. Cho nên, Càn Khôn sách số là tiêu chí chỉ sự vận hành của thiên địa, cũng tức là Càn Khôn sách số của 28 vì sao quanh bầu trời vòng quay hết 64 quái 384 hào.

Số chỉ vạn vật là số 11520, là một khí số quan trong thời cổ đại, được tổ hợp từ sách số của Càn là 36 nhân với 192 hào dương được 6912, sách số của Khôn là 24 nhân với số hào âm được 4608, cộng lại thành số 11520. Phệ số và số phi ức có sự tương quan mật thiết giữa số chỉ vạn vật với khí số thiên văn (số phi ức: số không ức đoán hoặc số không phán đoán được).

Thiệu Ung đã phát triển phệ số, lấy bát quái tự số (số thứ tự) và lục hào số làm cơ sở của phệ số, để tiến hành bói toán diễn dịch, và trên cơ sở của Càn Khôn sách số và số chỉ vạn vật, xây dựng thuyết "vạn vật giai số". Chỉ ra số chung thủy của thiên địa là số 1.216.192.320, số trước sau của trời đất.

Trần Đoàn kết hợp giữa số Đại diễn và số hà lạc, mà sáng chế ra "Hà lạc lý số". Tức là sự đối ứng giữa việc lấy năm tháng ngày giờ sinh ra con người, với số can chi Hà đồ Lạc thư và bát quái, từ đây mà chiêm nghiệm mệnh số của con người. Với đặc điểm có đủ diễn biến thừa tiếp của tiên thiên quái và hậu thiên quái, lấy Giờ sinh của con người định ra vị trí hào động của tiên thiên quái, sau lại biến thành hậu thiên quái, để xét mệnh vận lâu dài.

Số bát quái do số đại diễn của Dịch bao quát, được Đại Tử Bình phát triển thành phương pháp xem Bát tự, tức tứ trụ mệnh học, cụ thể là phối ứng giữa can chi của năm-tháng-ngày-giờ sinh, kết hợp với quy luật âm dương ngũ hành sinh khắc, để tiến hành chiêm nghiệm vận mệnh nhân sinh.

Huệ Đống nói: "Hư ngũ nhi hữu diễn, hư nhất nhi khả dụng, nhất dữ ngũ giai đạo chi bản dã" (Số 5 hư mà có thể diễn dịch, số 1 hư mà có thể khả dụng, số 1 và số 5 đều là gốc của đạo vậy".

THUYẾT VỀ PHỆ PHÁP

Phệ pháp là phương pháp xem bói theo Dịch. Hệ từ thượng truyện nói: "Dịch là đạo của thánh nhân, gồm bốn phương diện, mà thứ nhất là chiêm bói". Bài 'Đại diễn chi số' cũng là bài riêng trình bầy chi tiết về yếu chỉ của phép bói. Thiên Phệ nghi trước là do Chu Hi soạn ở đầu quyển Chu dịch bản nghĩa đã trình bầy rõ về phép bói.

Trước hết, chuẩn bị 50 thẻ cỏ thi đựng vào trong ống. Phía nam ống đặt một khay gỗ, chia làm hai ô to, ô to bên trái lại được chia làm 3 ô nhỏ. Khi bói, hai tay cầm 50 sợi cỏ thi, tay phải nhặt ra một thẻ đặt vào trong ống (đây là điều mà Hệ từ truyện gọi là: Số đại diễn 50, sử dụng có 49, còn gọi là 'hư nhất bất dụng'). Rồi lấy cả hai tay tùy ý chia đôi 49 thẻ đặt vào hai ô to bên trái và bên phải của khay gỗ. Đây gọi là 'doanh thứ nhất' (doanh có nghĩa là kinh doanh), cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: chia ra làm hai để tượng trưng cho lưỡng nghi. Tiếp đó, dùng tay trái cầm lấy số thẻ trong ô to bên trái, tay phải nhặt lấy 1 thẻ trong ô to bên phải, rồi cài vào khe ngón tay út trái. Đây tức là 'cài 1 để tượng trưng cho tam tài: trời đất người'. Tiếp theo, dùng tay phải đếm 4 thẻ một số thẻ ở tay trái. Đây tức là nửa trước 'của doanh thứ ba', cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'đếm bằng số 4 để tượng trưng tứ thời'. Tiếp đó, lấy số thẻ sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, kẹp vào khe ngón tay vô danh của tay trái. Đây tức là nửa trước của 'doanh thứ tư', cũng tức là điều mà Hệ từ gọi là: 'quy số lẻ về chỗ kẹp để tượng trưng cho nhuận'. Tiếp theo, dùng tay phải trả lại số thẻ đã đếm vào ô lớn bên trái, rồi cầm lấy số thẻ trong ô lớn bên phải, và dùng tay trái đếm 4 thẻ một. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ ba'. Tiếp theo, lại lấy số thẻ, sau khi đếm 4 còn thừa, hoặc 1 thẻ, 2 thẻ, 3 thẻ, 4 thẻ, như trước kẹp vào khe ngón tay giữa của tay trái. Đây tức là nửa sau của 'doanh thứ tư', đây cũng là điều mà Hệ từ gọi là 'kẹp lần hai để tượng trưng cho hai lần nhuận'.

Bây giờ, những thẻ thừa ra trong hai lần đếm đã kẹp được, ô lớn bên trái thừa 1 thẻ, thì ô lớn bên phải thừa 3 thẻ; Bên trái thừa 2 thẻ thì bên phải thừa 2 thẻ; Bên trái thừa 3 thẻ thì bên phải thừa 1 thẻ; Bên trái thừa 4 thẻ thì bên phải cũng thừa 4 thẻ. Lấy số thẻ thừa của hai lần đếm, nhập vào số thẻ của một lần cài, thì được không phải là 5 thẻ thì 9 thẻ. Bốn doanh thế là xong. Dùng tay phải, lấy số thẻ đã đếm, đưa trở lại vào ô to bên phải, gộp với số thẻ đã qua 1 lần cài 2 lần kẹp, đặt vào ô nhỏ thứ nhất bến trái khay gỗ. Đó là hoàn thành một lần biến. Tổng số thẻ thừa có được sau lần biến thứ nhất 'không 5 thì 9'.

Sau lần biến thứ nhất, dùng hai tay lấy số thẻ đã đếm xong 1 lần biến, ở hai ô to bên trái và bên phải khay gỗ, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh ở lần biến thứ nhất, lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ hai bên trái. Đó là hoàn thành 2 lần biến. Tổng số thẻ thừa sau lần biến thứ hai là 'không 4 thì 8'.

Sau lần biến thứ hai, đêm số thẻ đã đếm của lần biến thứ hai, ở trong 2 ô to bên trái và bên phải, gộp lại làm một, rồi theo trình tự 4 doanh như lần biến thứ nhất, thứ hai, mà lấy số thẻ 1 cài 2 kẹp đặt vào ô nhỏ thứ ba bên trái. Đó là hoàn thành ba lần biến. Tổng số thẻ thừa có được lần biến thứ ba là 'không 4 thì 8' (giống lần biến thứ hai).

Xong ba lần biến, thì mới xem số thẻ đã đếm của lần biến thứ ba, và số thẻ cài kẹp thu được của 3 lần biến, mà vạch thành từng hào. Số thẻ cài kẹp thu được sau ba lần biến là 5, 4, 9, 8. Các số 4, 5 là lẻ (trong hai số này, đều chỉ chứa một số 4, nên gọi là lẻ). Các số 9, 8 là chẵn (trong hai số ngày, đều chứa hai số 4, nên gọi là số chẵn). Tổng hợp lại số 1 cài 2 kẹp và số chẵn hay lẻ như sau: gọi là 3 số lẻ, tức là 5, 4, 4 thì gọi là 'tam thiểu', gộp lại là 13, thì số thẻ đã đếm là 36 (49 - 13), đem chia cho 4 được 9, gọi là Lão dương, phép bói gọi là "trùng".

Nếu số cài kép thu được sau 3 lần biến là 2 số lẻ 1 số chẵn (tức 5, 4, 8 hoặc 9, 4, 4), thì gọi là 'lưỡng thiểu nhất đa', gộp là là 17 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 32 (tức 49 - 17), đem chia 4 được 8, là Thiếu âm, còn gọi là "sách".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 2 số chẵn 1 số lẻ (tức 9, 8, 4 hoặc 5, 8, 8), thì gọi là 'lưỡng đa nhất thiểu', gộp lại là 21 thẻ, vậy là số thẻ đã đếm là 28 (tức 49 - 21), đem chia cho 4 được 7, là Thiếu dương, còn gọi là "đơn".

Nếu số cài kẹp thu được sau 3 lần biến là 3 số chẵn, tức là 9, 8, 8, thì gọi là 'tam đa', gộp lại là 25 thẻ, thì số thẻ đã đếm là 24 (tức 49 - 25), đem số thẻ đã đếm chia 4 được 6, là Lão âm, còn gọi là "giao".

Bốn doanh thành một biến, ba lần biến thì được một hào, 18 lần biến thì được 6 hào mà thành quẻ. Hào thu được trong 3 lần biến đầu gọi là Sơ hào. Hào thu được của lần biến thứ 4 đến thứ 6 là Nhị hào. Hào thu được của lần biến thứ 7 đến thứ 9 là Tam hào. Hào thu được của lần biến thứ 10 đến thứ 12 là Tứ hào. Hào thù được của lần biến thứ 13 đến thứ 15 là Ngũ hào. Hào thù được của lần biến thứ 16 đến thứ 18 là Thượng hào.

Quẻ bói được gọi là "bản quái", quẻ biến thành gọi là "chi quái". Phép bói thời cổ dựa vào tình hình biến và bất biến của Bản quái (quẻ chiêm được), mà chiêm đoán cát hung lợi hại. Sách Chu dịch khải mông của Chu Hi quy nạp thành 7 điều như sau:

1. Một hào biến thì xem ở lời hào biến của Bản quái.

2. Hai hào biến thì xem ở lời của hai hào biến của Bản quái, nhưng vẫn lấy hào trên làm chính.

3. Ba hào biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái và Chi quái, đồng thời lấy Bản quái làm "Trinh" (trong), Chi quái làm "Hối" (ngoài).

4. Bốn hào biến thì xem hai hào bất biến ở Chi quái, vẫn lấy hào dưới làm chính.

5. Năm hào biến thì xem ở hào bất biến của Chi quái.

6. Sáu hào biến thì xem ở hai hào Dụng ở quẻ Càn và quẻ Khôn, những quẻ còn lại xem ở Thoán từ và Chi quái.

7. Sáu hào đều không biến thì xem ở Thoán từ của Bản quái.

Trong quá trình bói Dịch, được một quẻ sáu hào, nếu có một, hai, hoặc mấy hào biến động, thì hào ấy gọi là "động hào", cũng gọi là "biến hào". Sách Chu dịch khải mông của Chu Hy có bàn về quy định của các lệ này. Đời sau, các nhà Dịch học có người coi đó là Pháp thức, nhưng cũng có người chỉ trích.

Thượng Bỉnh Hòa soạn sách Chu dịch cổ phệ khảo căn cứ vào thuyết sẵn có của Chu Hi, và chỉ ra rằng: "Quẻ có nhất hào động, nhị hào động, tam hào động, thậm chí tứ hào, ngũ hào, lục hào toàn động. Ta gặp quẻ này thì suy đoán thế nào? Nay xét thành lệ của người xưa, cùng những điều bàn luận quy định của Chu Tử lấy đó làm pháp thức. Song chẳng thể câu nệ. Vì Dịch quý ở chỗ chiêm nghiệm sự biến dịch. Sự thông biến của Tượng và Từ, cùng sự ứng hợp với sự thực, sự gợi ý của thần minh, đều là thiên biến vạn hóa, có những điều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên không thể cố chấp. Cần phải căn cứ vào Sự mà chọn lấy Từ, quan sát Tượng mà ấn chứng với Ta, bỏ chỗ sơ mà dùng chỗ thân".

Thượng Bỉnh Hòa còn tập hợp các lời bói trong Sử truyện làm chứng cứ, nói rõ những tình huống mà Chu Hi nêu ra, và chỉ ra rằng, khi bói Dịch đều phải kết hợp quái tượng của Bản quái và Chi quái để suy đoán cát hung, ông chỉ trích mạnh thuyết "Càn Khôn chiêm nhị dụng" của Chu Hi, cho rằng Nhị dụng chỉ chứng tỏ phép bói Dịch dùng Cửu - Lục, không dùng Thất - Bát, quyết không phải là lời chiêm đoán của quẻ Càn và Khôn, và chỉ rõ: "Đặt ra cái đó, mà lời chiêm đoán của sáu hào đều biến, thì 62 quẻ còn lại, đều nên có lời chiêm đoán của sáu hào biến, thế mà sao lại không có? Hơn nữa, trong Dịch, nhất, nhị, tam, tứ, ngũ hào biến đều chưa xem tới, mà đột ngột xem tới lục hào biến, về nghĩa khó thông, về lệ cũng không thỏa đáng".

Lại nói: "Xét, phép cũ của cổ nhân, thường xem lời Thoán truyện mà đoán. Nhưng Thoán truyện thường không sát với ta, thì xem cái gì phù hợp mà suy đoán, thế thì quan sát Tượng quẻ là hơn".Có nghĩa là, vừa phải dựa vào Quái từ, vừa phải coi trọng việc phân tích hàm nghĩa của Quái tượng".

"Dịch vốn là dùng để bói, không nắm được phép bói, ý nghĩa của "cửu - lục", thì không biết vì sao lại như vậy, và càng khó lý giải về chương Đại diễn của Hệ từ. Ngay sách Xuân Thu nói "mỗ quái chi mỗ quái" là cũng chưa nắm được duyên do. Vì vậy, người học Dịch trước hết phải nắm vững phương pháp của phép bói. Nay ta sử dụng Phệ nghi do Chu Tử lưu truyền lại. Vậy thì Phệ nghi là do Chu Tử chế định ra, hoặc có thể do tiên nho truyền lại, Chu Tử không nói gì, bất tất phải bàn luận gì thêm".

ĐƠN SÁCH TRÙNG GIAO

Từ sau đời Hán, người bói dùng đồng tiền thay cho 50 cọng cỏ Thi. Bói được hào Thiếu dương, thì gọi là "Đơn", tức giống như đếm cỏ Thi mà gặp "lưỡng đa nhất thiểu", số của nó là 7, vẽ thành phù hiệu --(vạch dương); Bói được hào Thiếu âm, thì gọi là "Sách", tức khi đếm cỏ Thi gặp "lưỡng thiểu nhất đa", số của nó là 8, vẽ thành phù hiệu - - (vạch âm). Bói được hào Lão dương, thì gọi là "Trùng", tức là đếm cỏ Thi gặp "Tam thiểu", số của nó là 9, vẽ phù hiệu (hình vuông); Bói được hào Lão âm, thì gọi là "Giao", tức là khi đếm cỏ Thi gặp "Tam đa", số của nó là 6, vạch thành phù hiệu X (dấu nhân).

Trịnh Huyền chú Nghi lễ - Sĩ quan lễ có đoạn "phệ dữ tịch" kể đến phép lấy tiền thay cỏ Thi như sau: "Lấy 'tam thiểu' làm "trùng tiền", trùng tiền thì 9; 'tam đa' làm "giao tiền", giao tiền thì 6; "lưỡng đa nhất thiểu" làm "đơn tiền", đơn tiền thì 7; "lưỡng thiểu nhất đa" làm "sách tiền", sách tiền thì 8".

Bói Dịch, ba lần biến mà được số [9 - 8 - 8] thì gọi là Tam đa. Tức là biến lần đầu được 9, lần thứ hai và thứ ba đều được 8, thì được hào Lão âm. Ba lần biến của việc bói Dịch khi được số [5 - 4 - 4] thì gọi là Tam thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được số 5, lần biến thứ hai và thứ ba đều được số 4, thì được hào Lão dương. Sau ba lần biến được số [9 - 8 - 4] hay [5 - 8 - 8] thì gọi là Lưỡng đa nhất thiểu, có nghĩa là lần biến thứ nhất được 9 hoặc 5, lần biến thứ hai được 8, lần biến thứ ba được 4 hoặc 8, thì được hào Thiếu dương. Sau ba lần biến được số [5 - 4 - 8 (5-8-4)] hoặc [9 - 4 - 4] thì gọi là Lưỡng thiểu nhất đa, thì được hào Thiếu âm.

Số thẻ cài kẹp được "Tam cơ", ví như [5 - 4 - 4], cộng là 13 thẻ, là số đã qua gọi là số "phục". Số còn lại là 36 thẻ, là Lão dương, là số hiển hiện hay số "phi". Do vậy, số cho hào "phục" gồm số Tam cơ là 13 - 25 và số Tam ngẫu là 17 - 21.

Lý Lâm Phủ chú: "Dùng 49 thẻ, chia ra mà đếm. Về biến có 4 loại: một là hào Đơn, hai là hào Sách, ba là hào Giao, bốn là hào Trùng. Tất cả 18 lần biến mà thành quẻ".

Hệ từ - Thượng truyện viết: "Tam ngũ dĩ biến, thác tổng kỳ số; Thông kỳ biến, toại thành thiên địa chi văn; Cực kỳ số, toại đinh thiên hạ chi tượng". = Năm ba lần biến hóa, đan xen tổng hợp các số. Biến đã thông, thì thành vẻ đẹp của trời đất; Số đã cực, thì định được tượng của thiên hạ. Lý Đỉnh Tộ dẫn lời Ngu Phiên nói: "Số là số của sáu vạch. Sáu hào biến động, đạo tam cực sinh, vì vậy mà tạo thành tượng cát hung trong thiên hạ".

Khổng Dĩnh Đạt giải thích: "Cực kỳ số, chỉ sự tính toán cùng cực số âm dương, để định ra tượng muôn vật trong thiên hạ, như là tính toán cùng cực 216 thẻ để định ra tượng Lão dương của Càn. Tính toán cùng cực 144 thẻ để định ra tượng Lão âm của Khôn. Nêu ra Càn Khôn, thì những cái khác là có thể biết được vậy".

Thượng Bỉnh Hòa giải thích "Tam ngũ dĩ biến" trong Chu dịch thượng thị học nói: "Số hào đến 3, nội quái đến đó là cuối. Cho nên, nói hẳn phải biến đổi" (Hào số chí tam, nội ngoại chung hỉ cố viết tất biến". Đây là nói theo Tam tài, còn nói theo Ngũ hành, thì đến năm là đủ, cho nên quá năm là phải biến đổi.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu dịch chính nghĩa khi nói về hào Sơ Cửu quẻ Càn viết: "Số 7 là Thiếu dương, số 8 là Thiếu âm, số 9 là Lão dương, số 6 là Lão âm".

Nhà sư Nhất Hạnh đời Đường cho rằng, khi đếm cỏ thì bói quẻ, ba lần biến đều là lẻ, tức là "Tam cơ", còn gọi là Tam thiếu, được số 9 tức là tượng quẻ Càn; Đều là chẵn, tức là Tam ngẫu, cũng gọi là Tam đa, được số 6, là tượng của quẻ Khôn. Càn Khôn là Cha Mẹ, nên gọi Cửu Lục là Lão dương Lão âm. Ba lần biến, hai chẵn một lẻ, tức "lưỡng đa nhất tiểu", được số 7, là tượng của các quẻ Chấn Khảm Cấn. Còn trong ba lần biến được hai lẻ một chẵn, tức "lưỡng thiểu nhất đa", được số 8, là tượng các quẻ Tốn Ly Đoài. Sáu quẻ này là ba trai ba gái mà Càn Khôn sinh ra, nên gọi Thất Bát là Thiếu âm Thiếu dương.

Thuyết của Nhất Hạnh nói:

Ba lần biến đều là thiểu là tượng của quẻ Càn, Càn là Lão dương, mà số dư của phép đếm 4 được 9 nên gọi là Cửu.

Ba lần biến đều là đa là tượng của quẻ Khôn, Khôn là Lão âm, mà số dư của phép đếm 4 được 6, nên gọi là Lục.

Ba lần biến mà một lần thiểu là tượng các quẻ Chấn Khảm Cấn, ba quẻ này là Thiếu dương, mà số dư phép đếm 4 được 7, nên gọi là Thất.

Ba lần biến mà một lần đa là tượng của các quẻ Tốn Ly Đoài, ba quẻ này là Thiếu âm, mà số dư của phép đếm 4 được 8, nên gọi là Bát.

Cho nên, những số Thất Bát Cửu Lục là do số dư mà đặt tên là Âm Dương. Âm Dương sở dĩ là Lão Thiếu không phải vì điều đó, mà vì là tượng của Bát quái trong ba lần biến.

Hệ Từ - Hạ truyện viết: "Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu". Triết lý của Dịch cho rằng, quy luật của sự vật khi phát triển đến cùng cực thì sẽ biến hóa, khi đã biến hóa thì sẽ thông suốt, khi đã thông suốt thì sẽ lâu bền.

Khổng Dĩnh Đạt - Chu Dịch chính nghĩa viết: "Đạo của Dịch khi cùng thì tùy theo thời mà biến đổi, khi đã biến đổi thì có sự khai thông, khai thông thì được lâu bền, cho nên nói 'thông' tất 'bền' vậy".

Du Diễm - Chu dịch tập thuyết viết: "Đến thời biến, thì phải biến, nếu không biến sẽ cùng, đó là đạo có biến tất có thông của Dịch. Có biến sẽ có thông, tức là tùy theo thời. Dân hãy còn hăng hái, chưa thấy mệt mỏi chán ghét, Thánh nhân không được bắt họ từ bỏ cái chí hăng hái đó; dân chưa được yên ổn Thánh nhân không được bắt buộc họ phải hăng hái làm việc. Chỉ đến khi số đã cùng, thời đã biến, lúc đó Thánh nhân nhân đó mà biến thông thúc đẩy, có như vậy dân mới không mệt mỏi. Nếu không dân sẽ cảm thấy phiền nhiễu, chán ghét, làm sao không mệt mỏi được? Cứ như vậy mà thuận theo, không cần biết lý do tại sao, như vậy là "thần"; thuận hành dần dần biến cải, không cần câu thúc vào ngôn từ để hướng dẫn hành động, như vậy là "hóa". Theo đạo "thần hóa", đó là đạo dạy dân, dưỡng dân của Thánh nhân đấy, nếu không theo đạo đó, tất dân không chịu theo.

Đạo của Dịch không có cùng, chỉ có số mới cùng. Số dương cùng ở số 9, số âm cùng ở số 6. Cùng thì biến, biến thì thông, thông thì lâu dài, lâu dài thì lại cùng. Do vậy, "nếu được trời giúp thì tốt, không có cái gì không lợi vậy".

Theo nghĩa "Dịch biến" và "Dịch bất biến" làm chuẩn mực để sáng tỏ về lẽ động tĩnh của nhân sự: Số cơ ngẫu là 7 - 8 vậy; giao trùng là 6 - 9 vậy. Quẻ vạch theo số 7 - 8 là "Dịch bất biến", hào vạch theo số 6 - 9 là "Dịch biến" vậy. Quẻ tuy là "dịch bất biến", mà trong lại có "dịch biến", thì có nghĩa là 'hanh'. Hào tuy là "dịch biến", mà trong lại có cái "dịch bất biến", thì gọi là 'trinh'. Phép xem Hồng Phạm dùng hai chữ "trinh - hối", "trinh" tức là tĩnh, "hối" tức là động. Cho nên, nếu thấy tĩnh cát mà động hung thì chớ dùng; Thấy động cát mà tĩnh hung thì chớ xử; Thấy động tĩnh đều tốt thì mọi việc đều tốt; Thấy động tĩnh đều hung, thì trong vòng trời đất không thể trốn đâu cho thoát được.

Tiên Nho khi nói Quái biến thì chưa có sự chuyển dịch về cương nhu âm dương, đảo ngược vị trí trên dưới. Nay lấy Càn làm Khôn, lấy Thủy làm Hỏa, lấy trên làm dưới, làm rối ren chìm đắm, thường thì tượng Dịch từ đây mà nhầm lẫn vậy. Du Việt theo thể lệ Bàng thông "thành Ký tế định" của Ngu Phiên, và phép "thăng - giáng" của Tuân Sảng, bàn chung về cái lý "cùng tất biến, biến tất thông" của các quẻ Dịch.

Trong Dịch, có 192 hào âm và hào dương "đắc chính", cũng đồng thời tồn tại 192 hào âm và hào dương "thất chính"; Được chính tức là Ký tế định, thất chính sẽ hóa thất chính thành chính, rồi sau đó mới có thể định. Cho nên đối với những quẻ Bàng thông, bỉ thử giao dịch lẫn nhau, thì trong 192 hào, có 96 hào âm gặp hào dương; hoặc 96 hào dương gặp hào âm, do vậy có thể biến dịch được. Có 96 hào âm gặp hào âm, hoặc hào dương gặp hào dương, do vậy không biến dịch. Có thể biến dịch, thì gọi là "thông", không thể biến dịch, thì gọi là "cùng"; Cùng tất sẽ có biến và có phép của sự biến thông, biến tất sẽ có hóa, hóa tất sẽ chuyển từ bất chính thành chính.

Lại nói rằng, muốn biết Lý "cùng - thông", thì trước hết phải biết lý "thăng - giáng" của âm dương, đây là thuyết của Tuân Từ Minh, muốn biết cái lý "thăng - giáng", trước hết phải biết cái lý "cùng - thông", đây là thuyết của Ngu Trọng Phiên. Tham nhập hai thuyết làm một, đó là do Tiêu Lý Đường.

Tóm lại, hào quẻ có thể thông với các quẻ khác, thì gọi là "thông", khi hào quẻ không thông với các quẻ khác thì gọi là "cùng". Cùng, mà tự biến đổi âm dương của mình, tức là hóa bất chính thành chính, thì gọi là "biến hóa".

THUYẾT VỀ "KHÍ" CỦA TRƯƠNG TẢI

HÀM NGHĨA CHUNG VỀ KHÍ

Khí là nguồn gốc hoặc là bản thể của vạn vật trong thế giới tự nhiên. Khí là thứ vật chất tinh vi, chuyển động không ngừng, Khí là cơ sở thống nhất của Thiên Địa vạn vật, là nguồn gốc sinh thành vạn vật. Lý luận này có liên quan đến thuyết sinh – thành vũ trụ cổ đại. Khí là nguyên nhân sự tồn tại của thiên địa vạn vật, cho nên Khí không là hình thái vật chất cụ thể nào, nó không có hình thể, không có âm thành và hình thái. Như vậy, những người đưa ra và theo thuyết Khí bản thể luận đã loại bỏ ý kiến cho rằng Lý, Thái cực, Đạo có trước Khí, và chúng ngự ở trên Khí để chi phối Khí; họ chỉ rõ: Khí là bản thể cao nhất. Mặt khác, họ thuyết minh mối liên kết giữa Khí với Thái hư, và nêu rõ: Khí là phạm trù thông thường mang nội dung trừu tượng.

Khí là nguyên tố hoặc chất liệu của tồn tại khách quan. Chất liệu này, nguyên tố này hoặc hữu thể, hữu hình, có thể thấy được, có thể nghe được; hoặc là vô hình, vô thể, không thấy được, không nghe được. Khí là hiện tượng vật chất vi nhỏ, là thứ hỗn độn chưa có hình chất, sau khi ngưng tụ mới trở thành có hình có tượng. Nghiên cứu Khí sẽ nhận thấy tính thống nhất của vạn vật trên thế giới, nghĩa là thấy được bản chất chung của những hiện tượng và của vạn vật. Những học gia theo quan điểm Khí bản thể luận, thì coi Khí là phạm trù cao nhất của kết cấu logic triết học lý luận mà họ tin theo. Các học gia theo quan điểm Lý học bản thể luận và Tâm thức bản thể luận cũng cho rằng: Khí có tính vật chất và tính năng động, Khí nhập vào Đạo, vào Lý, vào Thái cực, và vào Tâm, đó là nguyên tố, chất liệu hoặc khâu trung gian để cấu tạo nên thế giới muôn vật.

Khí là thực thể khách quan có động thái công năng. Khí không ngừng chuyển động biến hóa, lúc thì tụ vào, lúc thì tản ra, nghi ngút, khi bay bổng, khi trầm lắng, lúc co đặc, lúc dàn mỏng, … Chuyển động biến hóa chính là hình thức và điều kiện tồn tại của Khí. Nếu Khí không có công năng động thái này thì Khí không tồn tại và chẳng có giá trị gì. Khí hàm chứa cặp âm dương đối lập thống nhất, Khí là bản chất của vật, cho nên Khí chuyển động biến hóa không ngừng thì mọi vật luôn chuyển động và biến hóa. Vai trò của Khí trong một hệ thống được xem như thứ vật chất trung gian môi giới, chuyển động biến hóa của Khí mà tạo tác nên muôn vật, thuộc tính của Khí cũng ảnh hưởng đến muôn vật.

Khí là sinh mạng của con người. Con người sống thọ hay chết yểu, đức tính con người thiện hay ác, đời sống vật chất giầu hay nghèo, sang hay hèn, địa vị tôn quý hay ti tiện, đều liên quan đến Khí. Khí chuyển động ở cơ thể con người thực hiện đạo dẫn thần khí, đấy chính là công pháp nhằm điều chỉnh cơ năng sinh lý cơ thể con người, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, tăng cường sinh lực và khả năng miễn dịch, trị bệnh kiện thân, kéo dài tuổi thọ. Vì thế Khí là đồng hồ sinh học mang nội dung những thông tin về sinh mệnh cơ thể người, bởi vì con người bẩm thụ khí mà sinh ra. Khí có Khí trong sạch và Khí vẩn đục, Khí u ám, Khí quang minh, Khí thành hiền, Khí thô bỉ, do bẩm thụ Khí khác nhau mà từng con người có tư chất, thọ yểu, quý tiện khác nhau.

Khí là vật chất môi giới hoặc môi thể đầy ắp trong vũ trụ. Trong khoảng không vũ trụ, các hành tinh như nhật nguyệt trăng sao, cùng chuyển động trong một trật tự hài hòa, mọi sự vật tương hỗ cùng tồn tại trong một hệ thống, giữa các sự vật đó có một dòng Khí quán thông với nhau, làm cho các vật thể có sức hút để giữ lấy nhau, và có lực đẩy để khỏi va chạm vào nhau. Sức hút ấy, lực đẩy ấy, gọi là “ái cự lực”. Nó làm cho mọi vật trong vũ trụ vừa cự nhau vừa dựa vào nhau mà tồn tại. Khí chính là môi giới hoặc môi thể làm cho ánh sáng, âm thanh được phát ra và truyền đi lan tỏa rộng khắp. (Khí hút nhau gọi là “ái lực”, khí đẩy nhau gọi là “cự lực”, cái gọi là “ái cự lực” tạo nên sự chuyển động trong mâu thuẫn tự thân của Khí)

Khí là phẩm cấp đạo đức. Khí là do tụ nghĩa mà sinh thành một lý tưởng đạo đức, Khí này đầy ắp giữa khoảng trời đất, nó quán thông với Khí của đất trời. Thứ Khí này, không phải thứ huyết khí cụ thể, mà là tri Khí, thần Khí, là một loại tinh thần, ý thức hoặc ý chí, đó cũng là sự tu dưỡng đạo đức.

Khí hàm nghĩa vừa là thực thể của tồn tại khách quan, vừa là tinh thần đạo đức của chủ thể. Khí là phàm trù bao trùng cả thế giới tự nhiên cùng toàn bộ đời sống xã hội, sự sống của con người, Khí cũng là phạm trù mà mọi dòng phái, mọi học phái triết học cùng sử dụng chung trong suốt chặng đường phát triển của lịch sử. Khí có hàm nghĩa rất sâu rộng, khó mà lý giải một cách phiến diện và đơn nhất.

THÁI HƯ TỨC LÀ “KHÍ”

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Trương Tải cho rằng, Khí tức là hư, hư tức là Khí; Khí tụ thành hình, Khí tan biến thì hình mất, Khí trở về nguồn, quay về Thái hư. Thái hư là tên gọi khác của Khí, hàm nghĩa của Khí và Thái hư tương đương nhau, chúng khác nhau ở chỗ, Thái hư là Khí vô hình, trạng thái hữu hình là muôn vật. Thái hư không có thuộc tính của hữu hình. Chính mông - Thái hòa, Trương Tải chỉ rõ: "Thái hư không thể không có Khí, Khí không thể không tụ thành muôn vật, muôn vật không thể không tản ra thành Thái hư, theo đó mà quay vòng không bao giờ dứt". Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình là quá trình chuyển hóa lẫn nhau, bởi vì chúng cùng chung nguồn gốc là Khí.

Từ quan điểm "Thái hư vô hình là bản thể của Khí", Trương Tải cho rằng Thái hư cũng là bản nguyên của vũ trụ. Trương tử ngữ lục - trung viết: "Hư là tổ tông của trời đất, trời đất sinh từ hư không" (Hư giả, thiên địa chi tổ, thiên địa tòng hư trung lai). Quan điểm "hư có thể sinh ra khí", coi hư là bản nguyên của vũ trụ, coi Khí do Thái hư sinh ra, quan điểm này trái ngược với lý luận "Thái hư tức là Khí" của Trương Tải. Ông chỉ rõ, quan điểm "Hư sinh Khí" thực chất là quan điểm "Hữu sinh ra từ Vô" của Lão Tử, đó là lối tư duy hư cấu, một thứ bản thể mang tính quan niệm, thoát ly thế giới vật chất, sau đó lại từ cõi "Hư" hoặc "Vô" sinh ra thế giới vật chất. Trương Tải kiên trì quan điểm: Khí là gốc, khẳng định vật chất là tính bản nguyên và là tính chất thứ nhất của Khí. Thật rõ ràng!

Đạo thể hiện quy luật mang tính cương lĩnh định hướng; Lý thể hiện quá trình mang tính nguyên tắc thực thi. Đạo và Lý thể hiện sự chuyển động biến hóa của Khí, chúng không phải bản thể ở trên Khí, mà thống nhất trong hệ thống triết học Khí bản thể luận. Ông nói: "Bởi Thái hư nên mới có tên gọi là Thiên, bởi Khí hóa nên mới có tên gọi là Đạo". Trương Tải cho rằng Đạo là "Do Khí hóa mà có tên là Đạo", tức là quá trình chuyển động biến hóa của Khí mang tính vật chất, xa rời Khí là xa rời chuyển động của Khí, như vậy sẽ không có cái gọi là Đạo. Khi nói về phạm trù Lý, ông viết: "Khí trời đất tuy hàng trăm ngả tụ và tản, được và mất, nhưng chúng vẫn thuận theo Lý, không rối loạn", đều tuân theo quy luật và trật tự, đó chính là Lý. Đạo và Lý không thể tách rời khỏi Khí mà tồn tại riêng.

"Thái hư là thể của Khí" đã giải quyết đúng mối quan hệ Thái hư với Khí, Thái hư vô hình và muôn vật hữu hình được đặt thống nhất trong Khí.

Trên cơ sở "Thái hư tức là Khí", Trương Tải nêu quan điểm Khí vừa là 'hữu' vừa là 'vô'. "Khí năng nhất hữu vô" tức là Khí có thuộc tính thống nhất 'hữu - vô' ngay trong bản thân Khí. Chính mông - Thái hòa viết: "Nếu nói vô vàn tượng là sự vật thấy được trong Thái hư, thì đó là vật với hư không tồn tại mối liên hệ trợ giúp nhau. Hình độc lập với Hình, Tính độc lập với Tính. Hình và Tính, trời và người không tồn tại mối qua hệ qua lại với nhau; kiến giải như vậy là sa vào thuyết sai lầm, coi trời đất núi sông là hệ quả ảo hóa". Thái hư là vô hình, muôn tượng là hữu hình, tuy Trương Tải xây dựng mối liên hệ giữa chúng, thông qua thuyết Khí tụ tán, nhưng giữa chúng vốn có sự khác biệt. Ông chỉ rõ, nếu không nhận ra sự khác biệt đó, sẽ không thể hiểu được muôn vật sinh ra như thế nào, tách rời bản nguyên với muôn vật, coi chúng là tồn tại độc lập riêng rẽ, không liên quan với nhau, thì sa vào quan điểm sai lầm của Phật giáo, coi thế giới Càn Khôn là ảo hóa.

Trương Tải nói: "Biết hư không tức là Khí, hữu vô, ẩn hiện, thần hóa, tính mệnh quan hệ trong sự thống nhất vô nhị. Nhìn vào những chuyển động tụ tán, xuất nhập, có hình và không có hình, có thể biết được gốc sinh ra chúng, hiểu biết đó chính là đi sau vào Dịch".

"Bản" tức là lấy Khí làm gốc, hữu vô, ẩn hiện, tụ tản, có hình hoặc không có hình đều bắt nguồn ở Khí, chúng là hai loại hình thái biểu hiện khác nhau của Khí bản thể. Khi Khí tản, chúng là Thái hư vô hình, biểu hiện của chúng là: vô, ẩn, u tối, không có hình, hư. Khi Khí tụ, chúng là muôn vật hữu hình, biểu hiện của chúng là: hữu, hiển, minh, hình, và thực. Đạo và Dịch phản ánh chuyển động biến hóa của Khí.

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Khí tụ lại, hiện ranh giới rõ ràng thì đó là hữu hình. Khí tản ra, không thấy ranh giới rõ ràng thì đó là vô hình. Vậy, khi mà Khí tụ lại, sao lại không gọi chúng là Hữu? Khi mà Khí tản ra, sao lại không theo đó gọi chúng là Vô?". "Từ vô sinh ra hữu, biểu hiện thành vật. Từ hữu chuyển thành vô, đó là quá trình ẩn mà biến đi...đại ý là không vượt quá giới hạn hữu vô, vật tuy là thực mà gốc của thực ở cõi vô" (vật tuy thị thực, bản thị hư lai). Trương Tải cho rằng, Khí kiêm hai thuộc tính hữu và vô, đây là thuộc tính của tự nhiên. Hai thuộc tính của tự nhiên dựa vào nhau, trợ giúp nhau, không thể khuyết một trong hai thuộc tính đó. Chính mông - Càn xưng viết: "Những gì có thể tạo nên hình dạng đều là Hữu, mọi cái là Hữu đều là Tượng, mọi Hình Tượng đều là Khí".

Từ Khí hóa nên Tượng, từ Tượng hóa thành Hữu. Khi Khí tản chưa tụ lại thì đó là Vô. "Thái Hư là gốc của Khí, thì trong suốt vô hình". Từ Khí hóa hư, hư thì vô hình. Thuộc tính "vô" của Khí không phải tuyệt đối hư vô, đó chính là chỉ về Thái hư vô hình, mắt không nhìn thấy được, khi so sánh với muôn vật hữu tượng hữu hình thì Thái hư là vô hình, cho nên gọi đó là Vô, nhưng Thái hư vô hình không phải tuyệt đối hư vô, mà trong cái "hư" hàm chứa cái "thực", trong cái "vô" hàm chứa cái "hữu".

Trương tử ngữ lục - trung - Trương Tải nói: "Đạo của trời đất lấy cực hư làm thực, con người cần tìm lấy cái thực trong cái hư" (Thiên địa chi đạo vô phi dĩ chí hư vi thực, nhân tu hư trung cầu xuất thực). Muôn vật hữu hình tuy là thực hữu, nhưng sự vật cụ thể chung quy phải tiêu vong.

So sánh với sự vật cụ thể biến hóa mất đi, thì Thái hư vô hình là vĩnh hằng. Hữu và Vô luôn chuyển hóa lẫn nhau, sự vật hữu hình chuyển hóa thành Thái hư vô hình, Thái hư vô hình chuyển hóa thành sự vật hữu hình. Thế giới vật chất biến hóa theo quy luật Khí hóa tụ tán, hữu và vô liên hệ với nhau. Vô không phải tuyệt đối hư vô, mà chỉ là vô hình của Thái hư. Trương tử ngữ lục - Trung viết: "Kim loại sắt thép cũng đến lúc phải mục ruỗng, núi đồi cũng đến lúc phải đổ nát. Mọi vật hữu hình đều dễ hoại, chỉ có Thái hư là không lay chuyển, cho nên, Thái hư là thực nhất". Chính mông - Thái hòa - Trương Tải nhấn mạnh: "Biết Thái hư là Khí, không phải là Vô". Trong hư không mênh mông vô cùng vô tận, đâu đâu cũng là Khí mịt mù. Bản thân Thái hư chính là Khí, Khí của Thái hư là vô hình. Hiểu được đạo lý này, thì không có cái gọi là Vô; Dịch - Hệ từ: "Thánh nhân ngẩng lên và cúi xuống, rồi nói biết hàm nghĩa của 'u minh', mà không nói biết hàm nghĩa của 'hữu vô'. 'U' tức là 'vô', 'minh' tức là 'hữu'. Dùng khái niệm 'u' thay thế cho khái niệm 'vô', để tránh ngộ nhận 'vô' là khẳng định tuyệt đối hư vô vậy".

Khí là thứ vật chất mang tính liên tục, tính tự có khiêm thuộc tính hữu và vô. Đây thuộc về phạm trù tính hữu hạn và tính vô hạn, tính tạm thời với tính vĩnh hằng, tính gián đoạn với tính liên tục trong sự tồn tại của thế giới vật chất. Sự cầu thị trong thế giới Càn Khôn.

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc!

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Trương Tải nói: “Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.”

THUYẾT VỀ THẬP NHỊ TÍCH QUÁI

Các nhà Dịch học thời Hán lấy 12 hình quẻ đặc thù trong 64 quẻ, phối hợp với khí hậu từng tháng của 12 tháng trong một năm, biểu thị ý nghĩa "âm dương tiêu tức" của vạn vật trong thế giới tự nhiên, gọi là Thập nhị tích quái, hay còn gọi là Nguyệt quái, Hậu quái, Tiêu tức quái.

Nguồn gốc của Thập nhị tích quái rất cổ. Thuyết này đầu tiên thấy ở Quy Tàng: "Tý Phục, sửu Lâm, dần Thái, mão Đại tráng, thìn Quải, tị Càn, ngọ Cấu, mùi Độn, thân Bĩ, dậu Quan, tuất Bác, hợi Khôn" (Mã Quốc Hàn - Ngọc hàm sơn phòng tập dật thư). Thượng Bỉnh Hòa cho rằng, Tả truyện - Thành công năm thứ 16 chép chuyện Tấn Hầu bói việc đánh nước Sở, được quẻ Phục, nói: "Năm quốc kiển, xạ kỳ nguyên, Vương trung quyết mục, dĩ Phục cư Tý". là dẫn chứng rõ nhất về việc vận dụng Thập nhị tích quái để nói về Dịch.

Chữ "Tích" còn có nghĩa là Vua (quân), "chủ" là nói 12 quẻ này làm chủ 12 tháng. Nay dựa vào bộ Hán thượng dịch truyện - Chu Chấn truyền lại Quái khí thất thập nhị hậu đồ của Lý Cái vẽ Thập nhị tích quái đồ biểu thị rõ tôn chỉ: dương đầy là "tức", âm hư là "tiêu". Sáu quẻ từ Phục đến Càn là tức quái, là Phục nhất dương sinh thuộc cung Tý, quẻ tháng 11; Lâm nhị dương sinh thuộc Sửu quẻ tháng 12; Thái tam dương sinh thuộc Dần quẻ tháng Giêng; Đại tráng tứ dương sinh thuộc Mão thuộc tháng 2; Quải ngũ dương tức, thuộc Thìn quẻ tháng 3; đến Càn lục dương tức, thuộc Tị quẻ tháng 4. Sáu quẻ từ Cấu đến Khôn là "tiêu" quái, là Cấu nhất âm tiêu, thuộc Ngọ, quẻ tháng 5; Độn nhị âm tiêu, thuộc Mùi, quẻ tháng 6; Bĩ tam âm tiêu, thuộc Thân, quẻ tháng 7; Quan tứ âm tiêu, thuộc Dậu, quẻ tháng 8; Bác ngũ âm tiêu, thuộc Tuất, quẻ tháng 9; đến Khôn là quẻ lục âm tiêu, thuộc Hợi, quẻ tháng 10.

Hai quẻ Càn Khôn là mẹ của "tiêu - tức", Dịch vĩ - Càn tạc độ viết: "Thánh nhân nhân âm dương mà nêu ra tiêu tức, lập Càn Khôn để thống nhất Thiên Địa", lại chép: "Quẻ tiêu tức, thuần là Đế, không thuần là Vương". Dịch vĩ - Càn nguyên tự chế ký viết: "Tích quái, ôn khí không theo 6 quẻ, vật dương không sinh, khí đất sẽ dấy lên", Trịnh Huyền chú: "sáu quẻ là chỉ quẻ Thái, Đại tráng, Quải, Càn, Cấu (dưới Cấu còn có Độn, ghi chép sót), hàn khí không theo 6 quẻ, không dẫn đến đông vinh, vật thực không thành", Trịnh Huyền chú "Sáu quẻ là nói các quẻ Bĩ, Quan, Bác, Phục, Lâm". Các nhà Dịch học từ Mạnh Hỷ, Kinh Phòng thời Tây Hán; Mã Dung, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Ngu Phiên thời Đông Hán, cho đến các học giả đời Thanh, chẳng ai không dùng Thập nhị tích quái để lập thuyết, ảnh hưởng rất lớn.

Hệ từ - Hạ truyện viết: "Cương nhu tương thôi, biến tại kỳ trung hỹ", Chu dịch tập giải dẫn lời chú của Ngu Phiên nói: "Nói về tiêu tức của 12 tháng, cửu lục tương biến, cương nhu tương thôi mà sinh biến hóa, cho nên bên trong có biến đổi vậy". Ngụy thư - Luật lịch chí chép từ Chính Quang lịch - Cầu tứ chính thuật ghi thứ tự tiếp nhau của 60 quẻ như sau:

- Tháng Một: Vị tế, Kiển, Di, Trung phu, Phục [18 âm - 12 dương]

- Tháng Chạp: Truân, Khiêm, Khuê, Thăng, Lâm [19 âm - 11 dương]

- Tháng Giêng: Tiểu quá, Mông, Ích, Tiệm, Thái [17 âm - 13 dương]

- Tháng Hai: Nhu, Tùy, Tấn, Giải, Đại tráng [14 âm - 16 dương]

- Tháng Ba: Dự, Tụng, Cổ, Cách, Quải [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tư: Lữ, Sư, Tỵ, Tiểu súc, Càn [14 âm - 16 dương]

- Tháng Năm: Đại hữu, Gia nhân, Tỉnh, Hàm, Cấu [10 âm 20 dương]

- Tháng Sáu: Đỉnh, Phong, Hoán, Lý, Độn [11 âm - 19 dương]

- Tháng Bảy: Hằng, Tiết, Đồng nhân, Tổn, Bĩ [13 âm - 17 dương]

- Tháng Tám: Tốn, Tụy, Đại súc, Bí, Quan [15 âm - 15 dương]

- Tháng Chín: Quy muội, Vô vọng, Minh di, Khốn, Bác [17 âm - 13 dương]

- Tháng Mười: Cấn, Ký tế, Phệ hạp, Đại quá, Khôn [18 âm - 12 dương]

18 + 19 + 17 + 14 + 13 + 14 = 95 hào âm

12 + 11 + 13 + 16 + 17 + 16 = 85 hào dương

10 + 11 + 13 + 15 + 17 + 18 = 84 hào âm

20 + 19 + 17 + 15 + 13 + 12 = 96 hào dương

Thứ tự này là theo cách nói của sách Dịch vĩ - Kê lãm đồ. Căn cứ theo thuyết: "Nhu tại nội nhi cương đắc trung" lấy quẻ Trung phu làm khởi đầu. Đây là nêu hào Ba hào Bốn có đức "âm hư" ở giữa 6 hào, và hai hào Nhị Ngũ có đức "dương thực" nằm giữa thượng quái và hạ quái, để nói rõ hàm nghĩa "trung hư" là thành, "trung thực" là tín, biết hồi chuyển mà quay trở lại. Dịch vĩ - Kê lãm đồ viết: "Khí dương của trời đất, vũ trụ bắt đầu sinh ra từ quẻ Trung phu". Lại viết: "Giáp Tý, khí của quẻ khởi từ Trung phu, 6 ngày 7/80 ngày". Tức là chỉ hào Năm quẻ Trung phu có số thứ tự là 365, tương đương với số ngày của một Năm.

Phép 'Cầu tứ chính thuật', là do Mạnh Hỷ người thời Tây Hán đề xuất, tự là Trường Khanh, là người khai sáng Mạnh thị học về Kinh Dịch kim văn, thành tài và có trước thư lập ngôn. Dịch Hán học - Huệ Đống đã nói về đặc điểm về Mạnh thị học như sau: "Quái khí đồ của họ Mạnh lấy các quẻ Khảm Chấn Ly Đoài làm bốn quẻ chính, 60 quẻ còn lại, mỗi quẻ chủ 6 ngày 7 phân (lục nhật thất phân) hợp với số vòng trời 12 Nội tích quái, gọi là tiêu-tức. Càn đầy là tức, Khôn rỗng là tiêu, kỳ thực Càn Khôn là 12 vạch". Lại nói: "Bốn quẻ chỉ bốn mùa, mỗi hào chủ 24 khí, 12 quẻ chủ 12 giờ, mỗi hào chủ 72 hậu, 60 quẻ chủ 6 ngày 7 phân, mỗi hào chủ 365 ngày 1/4 ngày. Tích quái là Quân. Tạp quái là Thần. Tứ chính là phương bá. Hai ngày 'chí', hai ngày 'phân', hàn, ôn, phong, vũ, đều lấy ứng quái làm tiết. Ngoài ra, trong 48 quẻ còn lại, quẻ Dương có 24 quẻ, gọi là Thiếu dương, quẻ Âm có 24 quẻ, gọi là quẻ Thiếu âm. Cho nên 60 quẻ này còn được gọi là Tạp quái, cũng giống như nói rằng: vua tôi chung sức liên hợp, giao tạp để thành hình quái khí, để mà chỉ rõ cái lý âm dương tiêu tức". Dịch vĩ - Càn tạc độ có câu: "Lục thập tứ quái tam bách bát thập tứ hào giới", Trịnh Huyền chú giảng là: "Tiêu tức ở tạp quái là tôn quý, mỗi tháng ví như một quẻ mà ngôi thuộc vào đấy, đều có nơi hệ thuộc".

Chu dịch Thượng thị học - Thượng Bỉnh Hòa nói: "Người đời Hậu Hán chú Dịch, thường dùng Nguyệt quái mà không nói rõ ra, vì Nguyệt quái mọi người đều biết, không nhất thiết phải chỉ ra. Tầm quan trọng của nó có thể bết vậy". Tức là 12 Tích quái, vì 12 quẻ này dùng để biểu thị quy luật âm dương tiêu-tức của 12 tháng, cho nên gọi là Nguyệt quái.

TÍNH LIÊN TỤC THỜI GIAN THEO THUYẾT KINH PHÒNG

Thuyết quái viết: Thiên địa định vị

...........CÀN.........................KHÔN

........G.Tuất......Hỏa...........A.Dậu..........Thủy

........G.Thân.....Thủy..........A.Hợi...........Hỏa

........G.Ngọ.......Kim...........A.Sửu..........Kim

........G.Thìn......Hỏa...........A.Mão..........Thủy

........G.Dần......Thủy..........A.Tị..............Hỏa

........G.Tý.........Kim...........A.Mùi............Kim

- Giáp Tý - Ất Sửu = hào 1 - hào 4

- Giáp Tuất - Ất Hợi = hào 6 - hào 5

- Giáp Thân - Ất Dậu = hào 5 - hào 6

- Giáp Ngọ - Ất Mùi = hào 4 - hào 1

- Giáp Thìn - Ất Tị = hào 3 - hào 2

- Giáp Dần - ẤT Mão = hào 2 - hào 3

Thuyết quái viết: Sơn Trạch thông khí

............CẤN............................ĐOÀI

...........B.Dần......Hỏa.............Đ.Mùi..........Thủy

...........B.Tý........Thủy............Đ.Dậu..........Hỏa

...........B.Tuất.....Thổ..............Đ.Hợi...........Thổ

...........B.Thân.....Hỏa.............Đ.Sửu.........Thủy

...........B.Ngọ......Thủy............Đ.Mão.........Hỏa

...........B.Thìn......Thổ..............ĐTị.............Thổ

- Bính Dần - Đinh Mão = hào 6 - hào 2

- Bính Tý - Đinh Sửu = hào 5 - hào 3

- Bính Tuất - Đinh Hợi = hào 4 - hào 4

- Bính Thân -Đinh Dậu = hào 3 - hào 5

- Bính Ngọ - Đinh Mùi = hào 2 - hào 6

- Bính Thìn - Đinh Tị = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Lôi Phong tương bạc

...............CHẤN..............................TỐN

..............C.Tuất.......Kim................T.Mão........Mộc

..............C.Thân......Mộc.................T.Tị...........Kim

..............C.Ngọ.......Thổ.................T.Mùi.........Thổ

..............C.Thìn.......Kim.................T.Dậu........Mộc

..............C.Dần.......Mộc.................T.Hợi.........Kim

..............C.Tý..........Thổ.................T.Sửu........Thổ

- Canh Tuất - Tân Hợi = hào 6 - hào 2

- Canh Thân - Tân Dậu = hào 5 - hào 3

- Canh Ngọ - Tân Mùi = hào 4 - hào 4

- Canh Thìn - Tân Tị = hào 3 - hào 5

- Canh Dần - Tân Mão = hào 2 - hào 6

- Canh Tý - Tân Sửu = hào 1 - hào 1

Thuyết quái viết: Thủy Hỏa bất tương xạ

..............KHẢM..........................LY

.............M.Tý.......Hỏa...............K.Tị.........Mộc

.............M.Tuất....Mộc...............K.Mùi......Hỏa

.............M.Thân...Thổ................K.Dậu.....Thổ

.............M.Ngọ.....Hỏa...............K.Hợi.......Mộc

.............M.Thìn....Mộc...............K.Sửu......Hỏa

.............M.Dần.....Thổ...............K.Mão......Thổ

- Mậu Tý - Kỷ Sửu = hào 6 - hào 2

- Mậu Tuất - Kỷ Hợi = hào 5 - hào 3

- Mậu Thân - Kỷ Dậu = hào 4 - hào 4

- Mậu Ngọ - Kỷ Mùi = hào 3 - hào 5

- Mậu Thìn - Kỷ Tị = hào 2 - hào 6

- Mậu Dần - Kỷ Mão = hào 1 - hào 1

Bài Tây Minh của Trương Hoành Cừ tức Trương Tái là một áng văn quan trọng của Đạo học gia. Bài này, vốn là đoạn văn đầu của thiên Càn Xưng trong Chính Mông.

Trương Tái chép đoạn đầu thiên này vào vách tường phía Tây nơi thư phòng, ông đặt tên là Đính Ngoan, rồi chép đoạn cuối của thiên này vào vách tường phía Đông, ông đặt tên là Biếm Ngu. Trình Di thấy thế, đổi Đính Ngoan thành Tây Minh, và đổi Biếm ngu thành Đông Minh. Về sau, Chu Hi tách bài Tây Minh này ra thành một bài độc lập và chú giải nó. Bài Tây Minh của Trương Tái và Thái Cực Đồ Thuyết của Chu Liêm Khê là hai áng văn bất hủ của Tống Nho. Bài Tây Minh như sau:

Càn là cha, Khôn là mẹ; tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà đứng ở giữa. Cho nên cái Khí lấp đầy trời đất là thân thể của ta. Cái thống lĩnh trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bạn bè của ta. Nhà vua là con cả của cha mẹ ta (tức trời đất). Quan đại thần là người quản lý việc nhà của con cả. Hãy tôn trọng bậc trưởng thượng, vì họ là bậc trưởng thượng (của trời) đáng cho mình tôn trọng.; hãy thương xót kẻ mồ côi yếu đuối, vì chúng là trẻ thơ ấu (của trời) đáng cho mình thương. Thánh nhân hợp nhất với đức (của trời). Hiền nhân là bậc ưu tú (của trời). Trong thiên hạ những kẻ già yếu, tàn tật, không anh em, già không con, già không vợ, già không chồng, đều là anh em của ta, họ chật vật khốn khổ mà không biết than thở cùng ai. (Kẻ khá giả) Tùy thời mà bao bọc những kẻ đáng thương ấy, đó là thể hiện lòng tôn kính (cha trời mẹ đất). (Kẻ khốn đốn) vui với mệnh trời, không lo buồn tủi phận, đó là thể hiện lòng chí hiếu (với cha trời mẹ đất). Làm trái lệnh cha mẹ là phẩm hạnh của đứa con ngỗ nghịch. Kẻ làm hại điều nhân gọi là tặc. Kẻ gây ác là hạng bất tài. Ai giữ được nguyên hình sắc như thủa ban đầu mới là giống hệt cha trời mẹ đất. Ai hiểu được sự biến hóa của sự vật tức là nối được sự nghiệp của cha trời. Ai nghiên cứu đến tận cùng cái thần diệu của sự vật, là nối được chí lớn của cha trời. Cẩn thận khi ở một mình, dù ở chỗ̃ khuất vắng mà không làm điều hổ thẹn với lương tâm, đó là một hiếu tử không làm nhục cha trời. Luôn gìn giữ tâm và nuôi dưỡng tính, đó là hiếu tử không biếng lười của cha trời. Ghét riệu (vì riệu làm loạn tâm tính), đó là sự quan tâm ông Vũ đến cong lao dưỡng dục của cha trời mẹ đất. Nuôi dưỡng anh tài là ban ân đức cho đồng loại (thể hiện đạo hiếu) của Dĩnh Khảo Thúc (đối với cha trời mẹ đất). Tận tâm chí hiếu để cha mẹ vui lòng, đó là công của Thuấn. Không chạy chốn (số mệnh) mà chỉ đợi bị giết, đó là Thân Sinh cung kính (thiên mệnh). Giữ gìn toàn vẹn thân thể do cha mẹ sinh ra cho đến lúc chết, đó là Tăng Sâm. Một mực vâng lời cha, đó là Bá Kỳ. (Cha trời mẹ đất cho ta) phú quý hạnh phúc, là làm dày dạn cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống ta cứ thuận theo trời mà hành sự; khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình.

Nho gia cuối thời Chiến Quốc đều chịu ảnh hưởng của Đạo gia. Trong số Nho gia thời đó, Tuân Tử là một bậc đại sư, tuy chịu ảnh hưởng của Đạo gia, đạt được chủ nghĩa tự nhiên của Đạo gia. Như chữ thiên theo Khổng Tử là ông Trời, tức đấng chủ tể vũ trụ. Theo Mạnh Tử thì chữ thiên này là số mệnh hay vận mệnh. Còn theo Tuân Tử thì chữ thiên này là cõi tự nhiên.

Giải Tế - Tuân Tử viết: "Cho nên từ phương diện thực dụng mà nói, Đạo rốt cuộc là Lợi [...] Từ phương diện ngôn từ mà nói, Đạo rốt cuộc là luận biện. Từ phương diện trời mà nói, Đạo rốt cuộc là nguyên nhân. Các thứ ấy chỉ nói lên một góc của Đạo. Đạo có bản thể thường hằng nhưng (ứng dụng) thì luôn biến đổi. Biết một góc thì không đủ gọi là biết. Kẻ thiên kiến thì chỉ thấy một góc của Đạo chưa thể xem là biết được. Nhưng hắn tự cho mình biết hết, còn tô điểm vẽ vời cho cái biết của mình, thế là bên trong thì loạn bên ngoài thì gạt người, trên che lấp dưới, dưới bưng bít trên, đó là cái họa của che lấp

(Cố do dụng vị chi, đạo tận lợi hĩ. [...] Do từ vị chi, đạo tận luận hĩ. Do thiên vị chi, đạo tận nhân hĩ. Thử sổ cụ giả, giai đạo chi nhất ngung dã. Phù đạo giả, thể thường nhi tận biến, nhất ngung bất túc dĩ cử chi. Khúc tri chi nhân, quan ư đạo chi nhất ngung, nhi vị chi năng thức dã, cố dĩ vi túc sức chi, nội dĩ tự loạn, ngoại dĩ hoặc nhân, thượng dĩ tế hạ, hạ dĩ tế thượng, thử tế tắc chi họa dã).

Đối với những học thuyết của các nhà thời đó, Tuân Tử cũng có nhận thức rõ ràng và phê bình xác đáng!

Thiên luận - Tuân Tử nói: "Lão Tử có thấy chỗ co mà không thấy chỗ duỗi. Mặc Tử có thấy chỗ bằng nhau mà không thấy chỗ khác nhau" (Lão Tử hữu kiến ư khuất, vô kiến ư tín. Mặc Tử hữu kiến ư tề, vô kiến ư kỵ).

Giải Tế - Tuân Tử nói: "Mặc Tử bị dụng che lấp nên không biết văn" (Mặc Tử tế ư dụng nhi bất chi văn).

Ông lại nói: "Huệ Tử bị lời nói che lấp nên không biết cái thực. Trang Tử bị trời che lấp nên không biết người (Huệ Tử tế ư từ nhi bất tri thực. Trang Tử tế ư thiên nhi bất tri nhân).

Đại sư Tuân Tử nòng cốt vẫn là Nho gia, chịu ảnh hưởng lớn từ Khổng Tử. Thời ông có thể nói là loạn, nên dân chúng tìm niềm tin vào đồng cốt và cúng tế. Tư tưởng Nho gia và nghề nghiệp làm Quan Cai trị của ông ảnh hưởng chủ đạo ở sách ông viết. Do vậy Tuân Tử cũng “Thiên Kiến” trong phê bình Lão học và âm dương gia…(có thể thiên kiến cả về đẳng cấp xã hội). Còn Đạo và thấy của Tuân Tử là cái thấy của nhà cai trị và Thầy dậy người đi cai trị.

Quan niệm Đạo đức của Tuân Tử ngược với Mạnh Tử và cho con người bản tính vốn ác, quan điểm này có thể cũng xuất phát từ quan điểm Cai trị, hoặc hoàn cảnh thời ông sống hỗn loạn, cái ác nhiều. Do vậy, Tuân Tử phản kích kịch liệt Mạnh Tử và các Đạo gia, Âm dương gia.

Ông lại có quan niệm kỳ quặc về Thánh nhân, Thánh nhân là phải cố hết sức tự cầu cho có nhiều phúc và chiếm nhiều tài nguyên, chỉ biết súc tích tài vật và lợi dụng trời đất - phải chăng quan điểm này có ảnh hưởng hậu duệ sau này..??

Vì tư tưởng Nho gia cố hữu và là nhà Cai trị vậy, nên có thể nhận định Tuân Tử không thâm nhập được vào Lão Trang học và học phái Âm dương gia. Tuy Tuân Tử có nhắc đến Tự Nhiên nhưng là Tự Nhiên theo đại sư Tuân Tử.

(Tham khảo Lịch Sử Triết Học Trung Quốc – Tg Phùng Hữu Loan ; NXB Khoa Học xã Hội)

Quái từ: Khuê, tiểu sự cát.

Lời quẻ: Quẻ Khuê tượng trưng cho sự ngang trái chia lìa, biết thận trọng xử sự thì thu được tốt lành.

Tự quái truyện giải thích Khuê là quai = ngang trái. Thuyết văn giải tự - Hứa Thận giải thích là "Mục bất tương thích", tức là hai mắt không nhìn nhau, có nghĩa là chống trái, không hòa thuận với nhau.

Tiểu, chỉ về âm nhu, hàm nghĩa cẩn thận, thận trọng. Lời quẻ chỉ ra rằng: phàm sự vật ở vào thời chống trái nhau, thì phải dùng phương pháp mềm mỏng, nhu thuận, thận trọng tìm ra cách xử lý thích hợp, thì mới có thể chuyển mâu thuẫn thành hài hòa được. Nếu cứ cương cứng một cách thái quá, khiên cưỡng mong cầu hòa hợp, thì khó mà vượt qua khuê ly được. Vì vậy, Lời quẻ mới nói là Tiểu sự cát.

Cổ nhân nói:

Trịnh Khang Thành giảng: "Khuê tức là đối lập nhau, lửa thì muốn bay lên, (nước) ao hồ thì muốn thấm xuống, cũng như con người đồng cư tâm ý khác nhau, nên gọi đó là Khuê" (Khuê, quai dã. Hỏa dục thướng, Trạch dục hạ. Do nhân đồng cư nhi chí dị dã, cố vị chi Khuê).

Ngu Phiên chú giảng: "Hai quái Ly Đoài tượng trưng cho hai thiếu nữ vậy" (Nhị nữ Ly Đoài dã).

Quách Dương chú giảng: "Tám quẻ Văn Vương lập ra, Ly là con gái giữa, Đoài là con gái út. Cả hai đều là tượng âm nhu, cho nên đối lập nhau chứ không tương ứng. Ly ở trên, là tượng dính bám vào trời. Đoài ở dưới là hồ nước, tượng trưng cho khả năng dung hòa. Lấy nhu tiến lên phía trên, đến hào Ngũ đắc vị. Trên ứng với Thượng, nên gọi là đắc trung ứng cương. Lại thêm hào âm nhu chiếm vị trí ngôi tôn, là bề tôi mà chiếm vị của vua, cùng tương ứng với Nhị, là vuâ phải ứng theo bề tôi, cho nên chỉ thành tựu được việc nhỏ" (Văn Vương bát quái, Ly vi trung nữ, Đoài vi thiếu nữ, gia vị âm tượng, cố tương khuê nhi bất tương ứng. Đoài tại hạ, Ly tại thượng. Ly giả, lệ vu thiên chi tượng, Đoài giả, trạch tại hạ năng dung chi tượng. Dĩ nhu nhi thượng tiến, chí lục ngũ đắc vị, thượng ứng thượng cửu, cố xưng vi đắc trung ứng cương. Hựu nhân âm hào lục ngũ chiếm cửu ngũ chi vị, vi thần chiếm quân vị; dữ cửu nhị tương ứng, vi quân ứng vi thần, chỉ năng thành tựu tiểu sự).

Chu dịch tập giải dẫn lời Ngu Phiên nói: "Tiểu là chỉ hào Ngũ. Âm cũng gọi là tiểu. Hào này đắc trung ứng cương nên được tốt".

Chu dịch chiết trung dẫn lời Hà Khải nói: "Việc đã chống trái nhau rồi, thì không thể lấy cái tâm nóng giận mà giải quyết được. Chỉ có cực kỳ bình tĩnh, từ từ chuyển hóa. Đó là mẹo hay để hòa hợp vậy. Cho nên mới nói Tiểu sự cát. Tiểu sự là chỉ việc xử sự mềm mỏng. Không phải đại sự là không tốt, mà chỉ sự thận trọng thì được tốt vậy".

Chu dịch chính nghĩa - Khổng Dĩnh Đạt nói: "Một khi vật tình đã chống trái nhau, thì không thể làm việc đại sự được. Làm việc đại sự là phải huy động nhiều người, việc đó chỉ có ở thời đại đồng mới làm được. Tiểu sự là những việc như ăn uống, quần áo, không phải đợi sức đông, tuy chống trái mà vẫn có thể làm được".

(Bài viết sưu tầm của cụ Hà Uyên)


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Sưu tầm về Dịch thuyết

Hướng bếp hợp người sinh năm 1940 Canh Thìn –

Năm sinh dương lịch: 1940 Năm sinh âm lịch: Canh Thìn Quẻ mệnh: Càn ( Kim) thuộc Tây Tứ mệnh Ngũ hành: Kim bạch lạp (Bạch lạp Kim Hướng : hướng Đông (Hướng xấu), thuộc Đông Tứ trạch Hướng tốt: Tây Bắc - Phục vị : Được sự giúp đỡ . Đông Bắc - Thiên y

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Năm sinh dương lịch: 1940

Năm sinh âm lịch: Canh Thìn

Quẻ mệnh: Càn ( Kim) thuộc Tây Tứ mệnh

Ngũ hành: Kim bạch lạp (Bạch lạp Kim

Hướng : hướng Đông (Hướng xấu), thuộc Đông Tứ trạch

???????????????????????????????????????????????????????????????????????????????

Hướng tốt:

Tây Bắc – Phục vị : Được sự giúp đỡ .
Đông Bắc – Thiên y : Gặp thiên thời được che chở .
Tây – Sinh khí : Phúc lộc vẹn toàn .
Tây Nam – Diên niên : Mọi sự ổn định .

Hướng xấu:

Bắc – Lục sát : Nhà có sát khí .
Đông – Ngũ qui : Gặp tai hoạ .
Nam – Tuyệt mệnh : Chết chóc .
Đông Nam – Hoạ hại : Nhà có hung khí .

Trong trường hợp này, có thể đặt bếp tọa các hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát); , nhìn về các hướng tốt Tây Bắc (Diên Niên); Đông Bắc (Sinh Khí); Tây Nam (Phục Vị); Tây (Thiên Y);

Ngoài ra, bếp nên tránh đặt gần chậu rửa, tủ lạnh, tránh có cửa sổ phía sau, tránh giáp các diện tường hướng Tây.

Chậu rửa, cũng như khu phụ, được hiểu là nơi xả trôi nước, tức là xả trôi những điều không may mắn, nên đặt tại các hướng xấu như hướng Bắc (Tuyệt Mệnh); Đông (Hoạ Hại); Đông Nam (Ngũ Quỷ); Nam (Lục Sát);

Cửa của bếp nấu không được để thẳng với cửa chính của nhà, hoặc nhìn thẳng vào cửa phòng ngủ, người nằm ngủ sẽ gặp tai ương tật ách


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Hướng bếp hợp người sinh năm 1940 Canh Thìn –

2017 những lời chúc Tết hay nhất đầu năm mới

Những lời chúc tết, câu chúc tết đầu năm mới 2017 hay và ý nghĩa dành cho bố mẹ ông bà, người thân, bạn bè, đối tác và khách hàng đầu năm mới Đinh Dậu 2017
2017 những lời chúc Tết hay nhất đầu năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những lời chúc tết, câu chúc tết đầu năm mới 2017 hay và ý nghĩa dành cho bố mẹ ông bà, người thân, bạn bè đầu năm mới Đinh Dậu 2017. Cùng Xem Tướng Chấm Net gửi đến người thân, bạn bè của mình những lời chúc tết hay và ý nghĩa nhất để có một năm đầy niềm vui bình an và hạnh phúc.

Lời chúc năm mới 2017 hay và ý nghĩa

Chúc năm mới:
– Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn bạn được ngọt ngào.
– Vừa đủ THỬ THÁCH để giữ bạn luôn kiên nhẫn.
– Vừa đủ MUỘN PHIỀN để giữ bạn thật sự tỉnh táo.
– Vừa đủ HY VỌNG để cho bạn được hạnh phúc.
– Vừa đủ THẤT BẠI để bạn mãi khiêm nhường.
– Vừa đủ THÀNH CÔNG để giữ bạn mãi nhiệt tâm.
– Vừa đủ BẠN BÈ để bạn được an ủi.
– Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng các nhu cầu vật chất của bạn.
– Vừa đủ NHIỆT TÌNH để bạn cho đời thêm hân hoan.
– Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan những thất vọng.

1. Năm Đinh Dậu 2017 – Chúc bạn luôn: Đong cho đầy hạnh phúc – Gói cho trọn lộc tài – Giữ cho mãi an khang – Thắt cho chặt phú quý.

2. Chúc mừng năm mới Đinh Dậu 2017. Chúc năm mới sức khỏe dẻo dai, công việc thuận lợi thăng tiến dài dài, phi những nước đại tiến tới thành công.

3. Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua. Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà. Vài lời cung chúc tân niên mới. Vạn sự an khang vạn sự lành.

4. Hoa đào nở, chim én về, mùa xuân lại đến. Chúc một năm mới: nghìn sự như ý, vạn sự như mơ, triệu sự bất ngờ, tỷ lần hạnh phúc.

5. Chúc bạn 12 tháng phú quý, 365 ngày phát tài, 8760 giờ sung túc, 525600 phút thành công 31536000 giây vạn sự như ý. Đây là lời chúc năm mới về thời gian

6. Năm hết tết đến kính chúc mọi người thật nhiều sức khoẻ, miệng cười vui vẻ, tiền vào mạnh mẽ, cái gì cũng được suôn sẻ, để sống tiếp một cuộc đời thật là đẹp đẽ.

7. Cung chúc tân xuân phước vĩnh cửu – Chúc trong gia quyến được an khương – Tân niên lai đáo đa phú quý – Xuân đến an khương vạn thọ tường. Đây là lời chúc mừng năm mới thể hiện chút hán nôm mà các cụ hay dùng chúc nhau rất nho nhã.

8. Kính chúc mọi người một năm mới tràn đầy niềm vui và hạnh phúc: Vui trong sức khoẻ, trẻ trong tâm hồn, khôn trong lý tưởng và trưởng thành mọi lĩnh vực.

9. Năm mới chúc nhau sức khỏe nhiều. Bạc tiền rủng rỉnh thoải mái tiêu. Gia đình hạnh phúc bè bạn quý. Thanh thản vui chơi mọi buổi chiều.

10. Mùa xuân xin chúc – Khúc ca an bình – Năm mới phát tài – Vạn sự như ý – Già trẻ lớn bé – Đầy ắp tiếng cười – Trên mặt ngời ngời – Tràn đầy hạnh phúc – Xuân đến hy vọng – Ấm no mọi nhà – Kính chúc ông bà – Sống lâu trăm tuổi – Kính chúc ba mẹ – Sức khoẻ dồi dào – Đôi lứa yêu nhau – Càng thêm nồng ấm – Các em bé nhỏ – Học giỏi chăm ngoan – Chúc Tết mọi người – Năm mới hoan hỉ – Gặp nhiều niềm vui.

11. Năm hết Tết đến – Chúc ông chúc bà – Chúc cha chúc mẹ – Chúc cô chúc cậu – Chúc chú chúc dì – Chúc anh chúc chị – Chúc luôn các em – Chúc cả các cháu – Dồi dào sức khoẻ – Có nhiều niềm vui – Tiền xu nặng túi – Tiền giấy đầy bao – Đi ăn được khao – Về nhà người rước – Tiền vô như nước – Tình vào đầy tim – Chăn ấm nệm êm – Sung sướng ban đêm – Hạnh phúc ban ngày – Luôn luôn gặp may – Tràn đầy hạnh phúc.

12. Năm mới Tết đến – Rước hên vào nhà – Quà cáp bao la – Mọi nhà no đủ – Vàng bạc đầy tủ – Gia chủ phát tài – Già trẻ gái trai – Sum vầy hạnh phúc – Cầu tài chúc phúc – Lộc đến quanh năm – An khang thịnh vượng.

13. Đong cho đầy Hạnh phúc. Gói cho trọn Lộc tài. Giữ cho mãi An Khang. Thắt cho chặt Phú quý. Cùng chúc nhau Như ý, Hứng cho tròn An Khang, Chúc năm mới Bình An. Cả nhà đều Sung túc.

14. Mừng 2017 phát tài phát lộc/ Tiền vô xồng xộc, tiền ra từ từ/ Sức khoẻ có dư, công danh tấn tới/ Tình duyên phơi phới, hạnh phúc thăng hoa/ Xin chúc mọi nhà một năm đại thắng

15. Năm hết Tết đến – Đón Gà tiễn Khỉ – Chúc ông chúc bà – Chúc cha chúc mẹ – Chúc cô chúc cậu – Chúc chú chúc dì – Chúc anh chúc chị – Chúc luôn các em – Chúc cả các cháu – Dồi dào sức khoẻ – Có nhiều niềm vui – Tiền xu nặng túi – Tiền giấy đầy bao – Đi ăn được khao – Về nhà người rước – Tiền vô như nước – Tình vào đầy tim – Chăn ấm nệm êm – Sung sướng ban đêm – Hạnh phúc ban ngày – Luôn luôn gặp may – Suốt năm con Gà.

16. Sang năm mới chúc mọi người có một bầu trời sức khoẻ, một biển cả tình thương, một đại dương tình cảm, một điệp khúc tình yêu, một người yêu chung thủy, một tình bạn mênh mông, một gia đình thịnh vượng. Chúc các bà, các ông, các cô, các chú, các chị, các anh sang năm mới vạn sự như ý, tỷ sự như mơ, làm việc như thơ, đời vui như nhạc, coi tiền như rác, coi bạc như rơm, chung thủy với cơm và sắc son với phở.

17. Chúc bạn có 1 bầu trời sức khỏe, 1 Biển cả tình thương, 1 Đại dương tình bạn, 1 Điệp khúc tình yêu, 1 Người yêu chung thủy, 1 Sự nghiệp sáng ngời, 1 Gia đình thịnh vượng. – Chúc năm mới cả gia đình bạn vạn sự như ý, Tỉ sự như mơ, Triệu triệu bất ngờ, Không chờ cũng đến!

18. Thay mặt Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc kính chúc đồng chí và gia đình một năm mới hạnh phúc, an khang, thịnh vượng!

Những lời chúc dành cho gia đình bố mẹ ông bà đầu năm 2017

1. Con chúc ba mẹ năm mới nhiều niềm vui mới, mọi khó nhọc trên đôi vai sẽ vơi bớt đi. Con chúc ba mẹ sống lâu trăm tuổi. Con chúc ba mẹ của con sống vui cùng con cháu

2. Ba mẹ ơi, con luôn mong ước gia đình mình được đoàn tụ, sum họp bên nhau và cùng nhau đón phút giao thừa thiêng liêng, không phải xa nhau mỗi người một nơi như thế này nữa. Sang năm mới, con kính chúc ba má luôn mạnh khỏe, vui vẻ, bình an, hạnh phúc và sống thật lâu để con được nghe hoài giọng nói, tiếng cười và được nhìn thấy ánh mắt hiền, được mãi cảm nhận sâu sắc tình thương bao la, ấm áp của ba má.

3. Tết Đinh Dậu, con chúc Bố mãi trẻ khỏe, dẻo dai. Xuân sang con gái yêu chúc Mẹ ngày càng tươi tắn, xuân sắc hơn xuân. Con mãi yêu gia đình nhỏ bé, thân thường này.

4. Nhân dịp năm hết tết đến, con xin chúc bố mẹ và gia đình mình mình có một năm mới giàu sức khỏe, nhiều niềm vui, thành công trong công việc. Con sẽ cố gắng học tập thật tốt để không làm bố mẹ thất vọng, gắng ra trường kiếm được công việc thật tốt bù đắp hàng chục năm trời công nuôi dưỡng của bố mẹ.

5. Dẫu biết rằng vẫn còn nhiều bất đồng ý kiến và bất công tại gia đình mình. Tuy không nói ra nhưng tận sâu trong thâm tâm con vẫn mong muốn rằng cha mẹ luôn dồi dào sức khỏe, minh mẫn trong Xuân Đinh Dậu này và hàng trăm xuân sắp tới. Con yêu ba mẹ!

6. Một mùa xuân nữa con không về ăn tết cùng ba mẹ và các em, con buồn lắm. Con kính chúc gia đình mình luôn mạnh khỏe, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc đong đầy. Con nhớ ba mẹ và các em nhiều lắm lắm.

Những lời chúc tết bố mẹ ngắn gọn, giản dị nhưng đầy ý nghĩa:

– Con chúc bố mẹ luôn mạnh khoẻ và mãi ở bên chúng con
– Con không biết nói gì ngoài lời cảm ơn và mong muốn sẽ được ở bên bố mẹ
– Hãy luôn là điểm tựa của con bố mẹ nhé
– Mạnh khoẻ – Vui Vẻ… đó là tất cả những gì con sẽ cố gắng cho gia đình mình.
– Hãy để con được ôm bố mẹ và gửi ngàn vạn lời chúc tuyệt vời nhất tới bố mẹ
– Chúc cha mẹ một năm mới đầy sức khoẻ và hạnh phúc
– Con sẽ chăm chỉ học tập hơn trong năm mới này. Bởi con biết đó là điều khiến bố mẹ hạnh phúc nhất.
– Hãy luôn bên con bố mẹ nhé
– Chúng con yêu ba mẹ nhiều lắm.

Những lời chúc tết hay và ý nghĩa người yêu đầu năm 2017

1. Năm mới đến rồi một năm qua thật đặc biệt với anh và cả em nữa. Năm mới đến thế là a lại được nối dài năm tháng được yêu thương chăm sóc em. Anh chúc em tràn đầy hạnh phúc ngọt ngào hãy gìn giữ và nuôi dưỡng tình yêu của chúng mình em nhé.

2. Em muốn nói với anh rằng anh là cả cuộc đời em. Yêu anh tận sâu thẳm trong trái tim. Em ko thể thiếu anh. Anh là tình yêu của em. Năm mới em chúc cho tình yêu của chúng mình mãi đẹp như thủa ban đầu luôn cháy bỏng anh nhé!

3. Nếu giọt nước là những nụ hôn, anh sẽ trao em biển cả. Nếu là những ôm ấp vuốt ve anh sẽ tặng em cả rừng cây. Nếu đêm dài là tình yêu anh gửi em cả trởi sao lấp lánh. Nhưng anh không có quyền tặng em trái tim vì nới đó đã thuộc về em. Chúc em năm mới tình yêu của anh.

4. Bây giờ anh đã yêu em, hôm nay và ngày mai nữa, và chúa đã cho anh thời gian..Anh sẽ yêu em đến cuối cuộc đời. Chúc tình yêu của anh một năm mới hạnh phúc và may mắn.

5. Nếu như nói trái đất may mắn vì có được mặt trời, những con thuyền may mắn vì có đại dương để vùng vẫy, cỏ cây có mặt đất để sinh tồn… thì phải nói anh là một người cực kì may mắn vì anh đã có được em trong cuộc đời. Chúc em yêu của anh năm mới mọi sự tốt lành.

6. Trên Trái Đất có 9.000.000.000 người. Và anh không hiểu vì sao anh chỉ nhắn tin cho mỗi mình em. Có lẽ vì 8.999.999.999 người còn lại không thể thay thế được em. Happy new year my love!

7. Mỗi ngày, khi Chúa mở cánh cửa thiên đường, Ngài nhìn anh và hỏi: “Điều ước hôm nay của con là gì?”. Anh trả lời: “ Xin Người hãy bảo vệ người đang đọc tin nhắn này suôt năm mới đến và suốt cuộc đời này và cầu chúc ngài hãy để con luôn được chăm sóc người con yêu này”.

8. Năm mới đến anh chúc em một năm mới ăn khỏe, ngủ khỏe và sức khỏe thì cực khỏe để yêu anh cũng cực cực khỏe ? Ước gì anh được hôn em một miếng bây giờ em yêu à!.

Những câu chúc tết hay ý nghĩa nhất cho sếp đồng nghiệp bạn hàng cho ngày đầu đi làm
1. Thay mặt anh chị em xin gửi tới sếp lời chúc mừng mừng năm mới, chúc sếp một năm mới vui – khỏe – trẻ trung. Luôn giữ được tâm hồn dạt dào tràn đầy năng lượng thắp sáng công ty.

2. Thưa anh, năm cũ sắp qua, năm mới sắp đến, tôi và gia đình xin cầu chúc anh và gia đình một năm mới dồi dào sức khỏe, vạn sự như ý, luôn đạt những thành quả mới trong cuộc sống.

3. Mặc dù không còn được đóng góp công sức của bản thân , nhưng tận sâu trong lòng tôi vẫn dõi theo từng bước thăng trầm của công ty. Nhân dịp năm mới , tôi cầu chúc cho Anh và các đồng nghiệp đón một cái Tết thật vui vẻ và luôn gặt hái được nhiều thành công trong công việc.

4. Nam nhi thỏa chí anh hào
Một năm tài lộc lại cao chất chồng
Xuân vui Tết ấm quây quần
Xin kính chúc sếp thành công mỗi ngày.

5. Chúc mừng năm mới sếp nhà ta
Có mấy chút thơ đọc gọi là
Mừng cho sếp một năm mới
Rạng rỡ công danh sự nghiệp thành
Hạnh phúc tiền tài luôn tấp nập
Gia đình trẻ nhỏ tiếng cười vui
Sức khỏe dồi dào, tăng gia mạnh
Buôn bán kinh doanh, lợi nhuận nhiều.

Những câu chúc tết hay ý nghĩa nhất cho sếp đồng nghiệp bạn hàng cho ngày đầu đi làm 2

6. Năm qua Tết đã đến rồi
Em xin chúc sếp với đôi câu này
Tiền tài nặng ví nặng tay
Gia đình thịnh vượng, vui vầy, ấm êm
Đối ngoại thuận dưới, thuận trên
Đánh đâu cũng thắng, cũng bền sức dai.

7. Một năm hì hục làm ăn
Ngẩng đầu Tết đã ùn ùn đến chân
Mừng ngày đông đã sang Xuân
Em kính chúc sếp muôn phần bội thu.

8. Tết đến pháo nổ giòn tai
Chúc sếp phát lộc, phát tài, phát xuân
Trong ngoài thuận lợi xa gần
Hợp đồng dễ trúng, mười phân vẹn mười.

9. Chúc anh/chị luôn mạnh khỏe
Cuộc sống đầy vui vẻ
Luôn thấy mình còn trẻ
Doanh số thừa có lẻ
Trong nhà có tiếng trẻ
Mừng năm mới vui vẻ

10. Tôi ông như ghế với bàn
Một đôi ăn khớp chẳng ai sánh bằng
Chúc ông năm mới phát tài
Giàu sang, như ý, xuôi ngoài, thuận trong.

Những câu chúc tết hay ý nghĩa nhất cho sếp đồng nghiệp bạn hàng cho ngày đầu đi làm 3

11. Công danh gõ cửa ông kìa
Lộc tài thẽ thọt song thưa muốn vào
Dậy đi mở cửa xem nào
Tôi mang lời chúc chen vào xuân đây!

12. Cầu cho công việc êm xuôi
Ông, tôi đều được một đôi lộc tài
Chúc ông sức khỏe dẻo dai
Thăng quan phút chốc để ai cũng thèm.

13. Bỗng đâu chung một công ty
Bỗng đâu ta lại cùng đi một đò
Chúc cho công việc thuận hòa
Chúc cho tài lộc nở ra mỗi ngày.

14. Nhờ có cậu ở cạnh bên
Mà tớ đã tiến được lên từng này
Năm mới chúc cậu gặp may
Gia đình thịnh vượng vui vầy sớm hôm.

15. Lo toan công việc cả năm
Tết này chúc sếp an nhàn thảnh thơi
Lộc tài, phú quý sánh đôi
Thuận buồm, xuôi gió để rồi bội thu.

Những câu chúc tết hay ý nghĩa nhất cho sếp đồng nghiệp bạn hàng cho ngày đầu đi làm 4

16. Chúc người thuyền trưởng mát tay
Xuôi con thuyền lái về ngay sang giàu
Tài cao, chí lớn đương đầu
Vượt qua biển cả về mau an nhàn.

17. Bôn ba sóng gió bao ngày
Hôm nay gặt hái nặng tay bạc vàng
Chúc sếp thuận lợi, bình an
Chúc cho sức khỏe lan tràn mãi xuân.

Xem thêm:

Những câu chúc tết hay 2017

Những câu chúc tết hài hước dễ thương 2017

Lời chúc năm mới 2017 tặng người yêu tặng vợ tặng chồng

Những lời chúc tết hay tặng đồng nghiệp và sếp nơi công sở 2017


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 2017 những lời chúc Tết hay nhất đầu năm mới

12 việc nên làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Trong tâm nguyện của Đức Phật có nhắn nhủ 12 chân lý đơn giản mà mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Xem 12 việc nên làm mang ý nghĩa tốt đẹp
12 việc nên làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Đức Thích Ca Mầu Ni có một đại nguyện lớn nhất: "Khi ta thành Phật, nếu chúng sinh thành tâm thành ý niệm danh hiệu “Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quan Âm Tự Tại Vương Như Lai” thì có thể mượn sức mạnh của ta để có được cuộc sống ấm no đầy đủ”. Trong tâm nguyện của Đức Phật có nhắn nhủ 12 chân lý đơn giản mà mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. 

=> Đọc và suy ngẫm: Danh ngôn cuộc sống, những ý đẹp lời hay giúp suy nghĩ tích cực

12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc 7
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
12 viec nen lam mang y nghia nhan van sau sac hinh anh goc
 
Lichngaytot.com

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 12 việc nên làm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Phong thủy nhà ở GIẢI XUI, CHIÊU TÀI năm mới

Cùng tham khảo các tuyệt chiêu phong thủy sau đây để giúp giải vận xui, đón khí tài may mắn trong năm mới Ất Mùi 2015.
Phong thủy nhà ở GIẢI XUI, CHIÊU TÀI năm mới

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

 Cùng tham khảo các tuyệt chiêu phong thủy sau đây để giúp giải vận xui, đón khí tài may mắn trong năm mới Ất Mùi 2015.

Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh
 
Cửa là nơi đầu vào của tất cả mùi vị và khí vì thế bố cục rất quan trọng. Cần lưu ý hai cánh cửa không được đối ngược nhau nếu không sẽ gây ra xung khí khiến tài khí của bạn không ổn định, gia đình bất hòa.   Ngoài ra, cửa nên mở vào trong vì nếu mở ra ngoài thì theo phong thủy căn nhà bạn sẽ bị lọt khí, dương khí lộ thì âm khí sẽ tràn vào như vậy sẽ bất lợi cho bạn.
Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh 2
 
Phòng ngủ là nơi bạn sử dụng đến 1/3 thời gian trong ngày, vì vậy không được chất đồ linh tinh trong phòng ngủ mà nên dọn dẹp sạch sẽ, gọn gàng, quần áo cũng phải gấp hoặc treo ngăn nắp.   Phòng ngủ không được sáng quá cũng không nên tối quá. Nếu có cửa sổ lớn nên làm rèm  
Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh 3
 
Phòng khách được coi là cửa trong của ngôi nhà, vì thế thiết kế của phòng khách vô cùng quan trọng, không được để lọt hết khí.   Nên bày bể cá để trấn, không nên treo những vật như đao, kiếm, tiêu bản thú nhồi bông trên tường để tránh chiêu uế khí, sát tài khí và gây nguy hiểm đến mọi người trong nhà.  
Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh 4
 
Phòng bếp là nơi giữ lửa nên nó thuộc hành hỏa vì vậy không được quá ẩm ướt để tránh tương xung, dẫn đến gia đình bất hòa. Những đồ sắc nhọn như dao kéo nên cất vào nơi kín như ngăn kéo hoặc tủ bếp vừa tránh gây nguy hiểm cho mọi người vừa không có lợi cho phong thủy.  
Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh 5
 
Ban công được ví như cánh cửa thứ hai của ngôi nhà, là con đường chính của tài khí. Bố cục của ban công không được đối diện với cửa chính, nếu không sẽ tạo ra thế “xuyên tâm” dẫn đến xung khí.   Ngoài ra ban công tốt nhất là nằm ở hướng Đông sẽ giúp đón tài khí vượng nhất cho gia đình trong năm mới.  
Phong thuy nha o GIAI XUI, CHIEU TAI nam moi hinh anh 6
 
Nhà vệ sinh thuộc hành Thủy, vì thế không nên bố trí vị trí nhà vệ sinh và bếp đối ngược với nhau sẽ tạo thế tương xung. Hơn nữa, nhà vệ sinh không nên bố trí trong gian bếp để tránh uế khí lọt ra ngoài gây ảnh hưởng đến sức khỏe của mọi người.   Nhà vệ sinh phải luôn duy trì thông gió tốt nhất, phải lắp quạt thông gió để chạy suốt ngày nhằm mục đích hút hết uế khí, tránh làm ảnh hưởng đến khí và phong thủy trong căn nhà bạn.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy nhà ở GIẢI XUI, CHIÊU TÀI năm mới

Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Chùa Duệ Tú thường được gọi là chùa Duệ hay chùa Quảng Khai. Chùa Duệ thuộc thôn Tiền trước đây là xã Dịch Vọng – huyện Từ Liêm – Hà nội
Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Duệ Tú thường được gọi là chùa Duệ hay chùa Quảng Khai. Chùa Duệ thuộc thôn Tiền trước đây là xã Dịch Vọng – huyện Từ Liêm – Hà nội . Nay là Phường Quan Hoa – Quận Cầu Giấy – Hà nội , cách trung tâm Thành Phố khoảng 6 km về phía Tây Bắc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Tương truyền chùa được xây từ đời Lý Nhân Tông, là nơi tu trì của pháp sư Lê Đại Điên. Đại Điên đã dùng phép thuật giết Từ Vinh, nên con của Từ Vinh là Từ Lộ (Từ Đạo Hạnh sau này) đã giết chết Đại Điên để báo thù cho cha. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Nguyên dạng hiện nay là đợt trùng tu vào các năm 1936, 1985 và 1994.

Kiến trúc chùa gồm tam quan, chánh điện, điện Mẫu và nhà phụ. Tam quan có đại hồng chung đúc năm 1815. Ngôi chánh điện hình chuôi vồ, tiền đường 5 gian, hậu cung 1 gian.

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa còn giữ một số tượng mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII, XIX. Đặc biệt, chùa có pho tượng Pháp sư Đại Điên, tạc to bằng người thật, ngồi trong khám thờ. Bên cạnh có tấm bia (1941) ghi 3 đạo sắc phong cho Đại Điên vào các đời vua Gia Long, Duy Tân và Khải Định. Trụ trì chùa hiện nay là Thượng tọa Thích Thanh Điện, đương nhiệm Ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Chùa Duệ Tú đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1989. Đây là một trong những địa danh tâm linh thu hút phật tử tứ phương.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Duệ Tú - Hà Nội

Giấc mơ về bầu trời bao la

Mơ thấy bầu trời bao la là giấc mơ cát tường, cho thấy người nằm mơ đang vô cùng hạnh phúc, sự nghiệp thuận lợi, tiền đồ tươi sáng.
Giấc mơ về bầu trời bao la

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu mơ thấy một bầu trời trong sáng thì gia đình bạn sẽ sớm được hưng thịnh, đoàn tụ và vui vẻ. Hình ảnh rạng đông xuất hiện trong giấc mơ đồng nghĩa với việc bạn sẽ đạt được danh vọng như ý, thành đạt trong mọi lĩnh vực.    Bạn hãy sửa soạn để đón nhận cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp nếu mơ thấy ánh mặt trời soi vào mình. Ngoài ra, nếu thấy mặt trời che khuất mặt trăng trong giấc mơ của bạn thì một quý tử mà gia đình bạn đang mong đợi sắp được ra đời.   Ngược lại, nếu thấy bầu trời đỏ như lửa xuất hiện trong giấc mơ thì bạn nên chuẩn bị đối mặt với những sự xáo trộn, chia lìa về mặt tình cảm sẽ diễn ra trong khoảng thời gian sắp tới.
Giac mo ve bau troi bao la hinh anh
Ảnh minh họa
Một bầu trời vàng óng dễ gây được sự cuốn hút tâm hồn người, nhưng nếu đó là hình ảnh mà bạn mới bắt gặp trong giấc mơ thì bạn nên cẩn trọng với những điều liên quan đến pháp luật.    Nếu trong giấc mơ của bạn nằm mơ thấy mình đang nhìn lên bầu trời trong xanh, giấc mơ này biểu thị niềm hy vọng, khả năng, sự sáng tạo, hòa bình và tự do ngôn luận.   Nếu bạn nằm mơ thấy bầu trời có nhiều mây đen và u ám, giấc mơ này báo trước nỗi buồn và rắc rối sẽ ập đến với bạn.   Nếu bạn nằm mơ thấy bầu trời màu trắng, giấc mơ này thể hiện những mong muốn mà bạn đang cầu nguyện.    Nếu bạn nằm mơ thấy một bầu trời đầy màu sắc, giấc mơ này là biểu hiện sự lãng mạn trong bạn.   Nằm mơ thấy trời sập thể hiện sự sợ hãi của bạn. Bạn cảm thấy rằng hy vọng và ước mơ của bạn đã bị tan vỡ. Có lẽ bạn đã quá lý tưởng hóa và giấc mơ này là một nỗ lực để mang bạn trở về với thực tế.   Nằm mơ thấy một cái gì đó đang rơi xuống từ trên trời, giấc mơ này thể hiện thái độ bi quan của bạn. Bạn đang đánh mất quan điểm về một tình huống hay vấn đề nào đó ở hiện tại. Nếu bạn mơ thấy vật đó từ trên trời rớt ngay trúng người bạn, điêu này ám chỉ rằng bạn không thể nhận biết về một số tình huống ở hiện tại. Bạn cần phải nhìn nhận rõ ràng hơn về mọi thứ đang xảy ra trong cuộc sống của mình.   Nằm mơ thấy ánh sáng bầu trời trong giấc mơ của bạn đại diện cho sự giác ngộ. Bạn đang nhận được sự hướng dẫn từ một người có quyền lực hoặc tầm nhìn cao hơn bạn. Giấc mơ cũng cho thấy bạn đang có một niềm tin tâm linh rất cao.
Mơ thấy bầu trời trong xanh, cao vời vợi là tình yêu có sự tiến triển, có thể chờ đợi một buổi hẹn hò. Bạn nên chọn một công viên hay bên bờ biển để gặp gỡ.


Giac mo ve bau troi bao la hinh anh
Ảnh minh họa
Mơ thấy tiên nữ bay trên trời ngụ ý việc tốt sắp xảy ra, có thể bạn sẽ nhận một khoản tiền lớn từ bạn bè thân thiết.

 
Mơ thấy ngựa bay trên bầu trời là ngụ ý vạn sự như ý, đương nhiên mặt tình yêu gặp nhiều thuận lợi nhất.

 
Mơ thấy mình trèo lên nhà cao ngắm bầu trời là tài lộc rộng mở, bạn sắp có một mối làm ăn tốt đẹp.

 
Mơ thấy quả cầu bay lên bầu trời có thể xảy ra tai nạn giao thông, khi lên xuống cầu thang, hay đi qua đường bạn phải đặc biệt cẩn thận nhất là những người đang lái xe.

 
Mơ thấy mình đang bơi lội trên bầu trời dự báo vận trình chuyển xấu đặc biệt mặt sức khoẻ, bạn nên chú ý các bệnh nhỏ nhặt nhưng nếu không điều trị dứt điểm thì sẽ chuyển xấu.

 
Mơ mình cầm tiền bay trên bầu trời là vận tài lộc chuyển xấu, sẽ phải chịu nhiều chi tiêu bất ngờ.

 
Mơ mình rơi từ trên trời xuống cảnh báo nhiều chuyện không thuận lợi xảy ra.

 
Mơ thấy bầu trời u ám thì khát khao muốn theo đuổi một ai đó đột nhiên dâng cao.
Tổng hợp
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giấc mơ về bầu trời bao la

Chùa Phúc Lâm - Hải Phòng

Chùa Phúc Lâm còn có tên gọi khác là chùa Cựu Điện, tên chữ là Phúc Lâm Tự. Chùa Phúc Lâm ở làng Cựu Điện, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Chùa Phúc Lâm – Một trong những nơi tín ngưỡng tâm linh nổi tiếng ở Hải Phòng. Chùa Phúc Lâm còn có tên gọi khác là chùa Cựu Điện, tên chữ là Phúc Lâm Tự. Đây là ngôi chùa cổ có bề dày truyền thống lịch sử văn hoá đáng trân trọng và tự hào. Chùa tọa lạc ở làng Cựu Điện, xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Tỉnh Hải Phòng. Nơi đây được trụ trì bởi sư thầy Thích Tịnh An.

Chùa Phúc Lâm là ngôi chùa truyền thống cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của huyện. Trong đó, những nhà sư trụ trì chùa là những nhà hoạt động cách mạng khi thì bí mật, lúc công khai. Những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, chùa Phúc Lâm thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của huyện và là nơi làm việc của cơ quan nông sản huyện.

Kiến trúc hiện tại của chùa Phúc Lâm được làm mới năm 1932. Sau ba lần di chuyển mặt chính của toà Phật điện và Nhà thờ tổ đều quay hướng Tây. Chùa còn xây dựng thêm nhà thờ Mẫu, nhà khách. Thượng điện cấu trúc chữ đinh, 5 gian tiền, 3 gian hậu cung, vì kèo cấu trúc giá chiêng, 5 gian tiền với 6 bộ vì gỗ, 24 cột tròn, chuôi vồ 3 gian, xây bệ xi măng.

Khác với một số công trình tôn giáo niên đại thời Nguyễn ở Hải Phòng, chùa Phúc Lâm phần hiên phía trước rộng rãi, xây kiểu vòm, cuốn tường hồi, bít đốc, nay trùng tu đã thay bằng hiên mái chẩy với cột đá vuông, hoa văn hoạ tiết điêu luyện, song vẫn giữ được nét chạm đục truyền thống nghệ thuật nhà Nguyễn qua hình lá guột chữ triện bong trên gỗ.

Toà phật điện có 18 pho tượng là phật điện, vẻ đẹp lộng lẫy. Toà Cửu Long còn đầy đủ 9 con rồng, cùng các pho tượng nhỏ, sắc hoàng kim rực rỡ. Ở giữa có Đức Thích Ca lúc mới ra đời, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Các pho tượng Phật khác gồm ba vị tam thế toạ trên đài sen, hai bàn tay lồng vào nhau, khoanh chân; Quan âm Tổng tử, Quan âm Thiên thủ, Thiên Nhỡn, Nam Tào, Bắc Đẩu. Đặc biệt, có hai vị tướng bộ Thiện, bộ Ác cỡ nhỏ chỉ cao 35cm. Chuông đồng cao 1,2m, đường kính đáy 50cm, được đúc vào tháng 9/1839 triều vua Minh Mệnh thứ 20. Chùa có hai bức đại tự chữ đề: “Phúc Lâm thiền tự Thanh Thái tử tôn”.

Gác Chuông Chùa Phúc Lâm
Gác Chuông Chùa Phúc Lâm

Toàn bộ quang cảnh khuôn viên nhà chùa nằm thấp thoáng dưới tán cây cổ thụ cổ kính, tôn nghiêm, hoành tráng. Phía trước chùa là núi nhân tạo. Cựu Điện có nhà Thuỷ tạ, có hồ nước trong. Bên cạnh đó là ngôi chùa “Khổng Tước tự” – một câu chuyện huyền thoại về quá trình cầu tự để sinh ra vị Thành hoàng, người có công lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống thế kỉ XI.

Trong những năm qua, chùa Phúc Lâm do sư thầy Thích Tịnh An trụ trì, cùng các phật tử xa gần đầu tư công sức, trí tuệ, tiền của trùng tu nâng cấp tạo dựng khuôn viên chùa Phúc Lâm ngày một khang trang hơn, xứng đáng là một di tích lịch sử cấp Quốc gia, có bề dày truyền thống lịch sử cách mạng lâu đời.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Chùa Phúc Lâm - Hải Phòng

Xem tướng đàn ông ngoại tình qua 7 đặc trưng trên khuôn mặt

Tướng đàn ông ngoại tình, trăng hoa không khó để nhận biết. Quý cô chỉ cần để ý chút xíu những đặc điểm trên khuôn mặt là biết liền.
Xem tướng đàn ông ngoại tình qua 7 đặc trưng trên khuôn mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– Tướng đàn ông ngoại tình, trăng hoa không khó để nhận biết. Quý cô chỉ cần để ý chút xíu những đặc điểm trên khuôn mặt là biết liền, tránh "để mỡ cạnh miệng mèo" nhé!


1. “Mỏ nhọn”, môi mỏng

 

Đàn ông có chiếc “mỏ nhọn”, tức miệng có phần lồi ra thường không chân thành, nói câu nào là “chém gió” câu ấy, thiếu sự thành khẩn. Cộng thêm đặc điểm môi mỏng, chứng tỏ chủ nhân thuộc tuýp nói nhiều, hay nói, nhưng lời nào cũng chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân.    Đa phần những người này có tài “khoa môi múa mép”, hay nói ra những lời xu nịnh, nhất là khoản “tán gái” rất giỏi, đã nhắm cô nào là y như rằng cô ấy khó thoát khỏi lưới tình của anh chàng này.   Ngoài ra, người này ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới cảm xúc của riêng mình, một khi đã đạt được mục đích sẵn sàng gạt phăng người khác qua một bên, không hề có tinh thần trách nhiệm. Đây là một trong những đặc điểm dễ nhận biết của tướng đàn ông ngoại tình.  
Xem tuong dan ong ngoai tinh qua 7 dac trung tren khuon mat hinh anh
 

2. Tai nhỏ

 

Những anh chàng tai nhỏ cũng khéo léo trong khoản ăn nói. Tuy nhiên, mức độ thật giả trong từng lời nói của họ không ai có thể chắc chắn được, cảm giác nói như đùa.    Ưu điểm của người này là thông minh, lanh lợi, tác phong làm việc nhanh gọn. Nhưng lại nhiều tham vọng nên có thể bất chấp thủ đoạn để đạt được mục đích. Cuộc sống hôn nhân với anh chàng này cũng khá nhiều sóng gió vì anh ta dễ thay đổi tình cảm, lại nói dối như xiếc.  

3. Miệng nhỏ, gò má thấp lõm

  Đa phần những chàng trai miệng nhỏ “nói như hát hay”, khiến chị em không thể không xao động. Thậm chí tâm can tình nguyện “lên giường” với chàng sau khi nghe mấy lời đường mật.   Tuy nhiên, nếu kết hợp thêm đặc điểm gò mà thấp lõm hoặc quá nhọn, chứng tỏ chủ nhân không có tinh thần trách nhiệm, thấy nửa kia gặp khó khăn về tài chính, họ sẽ tự động “bốc hơi”, không lời cáo biệt.   Vì thế, cuộc sống hôn nhân của anh chàng này không mấy suôn sẻ. Chỉ cần cảm xúc dâng trào, bất chấp là có vợ hay chưa, họ vẫn tán tỉnh cô gái đã “lọt vào tầm ngắm”.   
Xem tuong dan ong ngoai tinh qua 7 dac trung tren khuon mat hinh anh
 

4. Anh chàng mắt như mắt rắn

  Đàn ông có đôi mắt như mắt rắn, ý chỉ lúc nào cũng sáng rực để đi “săn con mồi”. Gặp cô nàng này xinh đẹp, có gia thế khủng, chàng lập tức “ủ mưu” theo đuổi, bất chấp hậu quả gia đình tan vỡ. Hãy tránh xa tướng đàn ông ngoại tình này ra nhé!  

5. Lông mày mượt, đuôi mày có nốt ruồi

  Nam giới có tướng lông mày mượt mà, đuôi mày lại có nốt ruồi thì hài hước thôi rồi. Hễ họ mở miệng là như phun tơ nhả ngọc, mang tới không khí vui vẻ, phấn chấn. Mà con gái lại “yêu bằng tai”, được nịnh nọt vào câu là đổ xiêu đổ vẹo.    Nhưng theo quan điểm nhân tướng học, đàn ông có nét tướng cách này không chung thủy trong tình yêu. Dù bản thân họ có ý thức được rằng việc ngoại tình là xấu đi chăng nữa, nhưng hễ có “gái nhảy vào”, họ lại chẳng từ chối nổi.
Xem tuong dan ong ngoai tinh qua 7 dac trung tren khuon mat hinh anh
 

6. Huyệt Thái dương bằng phẳng

  Nhân tướng học quan niệm, sau 35 tuổi, huyệt Thái dương ở đàn ông bằng phẳng, không có nếp nhăn nào thì chứng tỏ mức độ trăng hoa, nhu cầu “chuyện ấy” rất cao. Họ không ngừng lừa dối tình cảm của vợ, của những cô gái ngây thơ trong trắng chỉ để thỏa mãn dục vọng bản thân.    Với tướng đàn ông ngoại tình này, tình yêu là thứ phù du, khó nắm bắt, chỉ có tình dục mới làm con người ta cảm thấy thỏa mãn và hạnh phúc. Vì thế, yêu rồi bỏ là chuyện dễ như trở bàn tay.  

7. Đầu mũi nhọn

  Đàn ông có tướng mũi mà đầu mũi nhọn thường nhiều dã tâm, xảo trá, lăng nhăng, chỉ biết sống vì lợi ích cá nhân. Kết thân với người này, bạn sẽ là đối tượng luôn phải gánh chịu thiệt thòi, tỷ lệ ngoại tình ở người này rất cao.  
► Lịch ngày tốt cung cấp công cụ xem tử vi, xem tướng các bộ phận cơ thể đoán vận mệnh chuẩn xác

Hoàng Lam


Tướng mặt đàn ông tốt nên lấy làm chồng
Những đặc điểm dễ nhận thấy về tướng mặt đàn ông tốt là vầng trán cao rộng, đôi mắt tinh nhanh, đôi tai áp sát vào đầu...

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Xem tướng đàn ông ngoại tình qua 7 đặc trưng trên khuôn mặt

5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.
5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.


1. Song Ngư thích những trải nghiệm mới

Nếu bạn thuộc tuýp hướng nội, thích ở nhà hơn là ra ngoài vào cuối tuần hay các dịp nghỉ lễ, Song Ngư có thể cảm thấy chán khi ở cùng bạn.

Song Ngư được sinh ra để tìm tòi, khám phá. Họ thích du lịch, nhảy dù tự do, đi bộ và trải nghiệm tất cả những hoạt động thú vị trong cuộc sống.

5 dieu can biet khi hen ho voi Song Ngu hinh anh
 
2. Song Ngư thích hoạt động tình nguyện


Bạn có thể bắt gặp cảnh tượng Song Ngư tặng đồ ăn miễn phí cho người vô gia cư và người già nhiều hơn là hình ảnh họ “quẩy” trong vũ trường.

Song Ngư rất giàu tình cảm, thích làm việc thiện, xông xáo trong các hoạt động tình nguyện, luôn tâm niệm rằng “lấy việc giúp người khác làm vui”, sẵn lòng lắng nghe những điều bất hạnh và đưa tay ra cứu giúp người khác. Họ chính là “thần hộ mệnh” của những ai có hoàn cảnh sống khó khăn, bất hạnh.

Tử vi năm 2016 của Song Ngư
2016 sẽ là một năm tuyệt vời của Song Ngư, bạn sẽ có cơ hội phát huy năng lực trong các hoạt động cộng đồng, tất nhiên là với sự giúp đỡ và hợp tác của mọi
3. Song Ngư có thể khá nhạy cảm


Với “gấu” là Song Ngư, bạn không nên hành động hay nói năng một cách quá thẳng thắn, vì rất có thể là họ không thích điều đó. Thật ra, Song Ngư khá nhạy cảm, dễ bị bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh. Chỉ cần một câu nói vô tình của bạn cũng có thể khiến họ suy nghĩ cả ngày.

Ngoài ra, Song Ngư cũng dễ đồng cảm với hoàn cảnh, cảm xúc của những người xung quanh.

5 dieu can biet khi hen ho voi Song Ngu hinh anh 2
 
4. Đôi khi Song Ngư “lạc” vào thế giới màu hồng

Song Ngư luôn phải đấu tranh tư tưởng với hai thế giới, một là thế giới màu hồng huyền ảo, hai là thế giới thực tại mà họ đang sống. Điểm yếu của Song Ngư chính là mơ mộng, họ nhìn đời qua lăng kính màu hồng.

Do đó, một khi Song Ngư đã quyết tâm muốn thay đổi thế giới của riêng mình, họ luôn tìm ra cách để điều đó có thể xảy ra.

5. Song Ngư không thể chịu được xung đột

Song Ngư chúa sợ những bất hòa, cãi vã xuất hiện trong các mối quan hệ của họ. Họ không muốn vướng vào những cuộc tranh luận nên thường cố gắng tránh xa mọi xung đột dù là nhỏ nhất, thậm chí là nhún nhường để có thể thỏa hiệp với mọi người.

Do đó, khi hẹn hò với một Song Ngư, nếu mâu thuẫn, cãi vã xảy ra, hai bạn nên bình tĩnh và nói chuyện với nhau một cách cởi mở, nhẹ nhàng.

► Xem tử vi 12 cung hoàng đạo được cập nhật liên tục, chuẩn xác tại Lichngaytot.com!

Phùng Hiền (Theo Higherperspectives)
 

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: 5 điều cần biết khi hẹn hò với Song Ngư

Đuổi dữ đón lành tháng cô hồn bằng thảm phong thủy

Thảm Phong thủy trước nhà : Tấm thảm đặt trước nhà tuy nhỏ bé nhưng lại có tác dụng hữu hiệu trong việc đón vận khí tốt và xua đuổi năng lượng xấu trong tháng
Đuổi dữ đón lành tháng cô hồn bằng thảm phong thủy

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Tấm thảm đặt trước nhà tuy nhỏ bé nhưng lại có tác dụng hữu hiệu trong việc đón vận khí tốt và xua đuổi năng lượng xấu trong tháng cô hồn này.


 

1. Chọn thảm phong thủy trước nhà theo cung mệnh

Với mệnh Kim: Những người mệnh Kim nên dùng thảm trước nhà hoặc thảm sàn có tông màu sáng và sắc ánh kim để bài trí cho ngôi nhà của mình. Ngoài ra, có thể kết hợp với tông màu nâu, vàng trong trang trí như sơn tường, nội thất… Vì đó là màu sắc tương sinh mang lại sự may mắn và hưng vượng cho người mệnh Kim. Xem thêm: Mệnh Kim hợp màu gì
 
Với mệnh Mộc: Những chiếc thảm có tông màu xanh kết hợp với đen, xanh sẫm phù hợp dành cho người có mệnh Mộc vì đó là màu sắc tượng trưng của bản mệnh và hành Thủy (Thủy sinh Mộc). Lưu ý, màu xanh có nhiều sắc độ khác nhau, từ cốm nhạt đến xanh đậm nhưng đều mang lại cảm giác mát mẻ và gần gũi với thiên nhiên. Xem thêm: Mệnh Mộc hợp màu gì
 
Với mệnh Thủy: Gia chủ mệnh Thủy nên dùng thảm màu xanh hoặc đen theo hành Thủy. Ngoài ra, có thể trang trí đồng thời màu trắng hoặc thiên về màu trắng nhiều hơn (Kim sinh Thủy). Xem chi tiết tại bài viết: Mệnh Thủy hợp màu gì?

Duoi du don lanh trong thang co hon bang tham truoc nha hinh anh
Ảnh minh họa

Với mệnh Hỏa:
Người mệnh Hỏa có thể sử dụng thảm có tông màu đỏ, hồng, tím thuộc màu bản mệnh hoặc kết hợp với những màu xanh (Mộc sinh Hỏa) giúp xua đi nguồn tà khí trong tháng cô hồn. Xem thêm: Mệnh Hỏa hợp màu gì
 
Với mệnh Thổ: Các màu thuộc mệnh Hỏa như hồng, đỏ, tím rất tốt cho người mệnh Thổ. Do đó, gia chủ mệnh Thổ có thể dùng thảm trước nhà có những tông màu chủ đạo này để đón nguồn khí tốt vào nhà. Xem chi tiết tại bài viết: Mệnh Thổ hợp màu gì? 
 

2. Chọn thảm theo hướng nhà

Theo phong thủy, người Đông tứ mệnh - những người thuộc mệnh Mộc (Chấn, Tốn), Hỏa (Ly), Thủy (Khảm), nếu mở cửa theo hướng Tây tứ trạch (tức hướng Tây, Tây Bắc, Tây Nam hoặc Đông Bắc) thì sẽ gặp phải tà khí. Trường hợp Tây tứ mệnh - những người thuộc mệnh Thổ (Khôn, Cấn) hoặc Kim (Đoài, Càn), nếu mở cửa chính hướng Đông tứ trạch (tức hướng Đông, Đông Nam, Nam hoặc Bắc) cũng sẽ gặp các tà khí. 

Duoi du don lanh trong thang co hon bang tham truoc nha hinh anh 2
Ảnh minh họa

- Nhà hướng Tây và Tây Bắc gặp tà khí của Kim. Theo đó, gia chủ mệnh Thủy, Mộc nên trải thảm màu lam, xám, đen hoặc xanh biển sẫm ở cửa chính để hóa giải tà khí. Người mệnh Hỏa cần trải thảm màu đỏ, hồng, cam hoặc tím.
 
- Nhà hướng Tây Nam và Đông Bắc gặp tà khí của Thổ. Để hóa giải điều này, người mệnh Thủy cần trải thảm màu trắng, bạc, kem, vàng hay nâu ở cửa chính. Còn người mệnh Mộc cần dùng thảm màu xanh lục hoặc xanh da trời.
 
- Nhà hướng Đông và Đông Nam gặp tà khí của Mộc. Do đó, gia chủ mệnh Thổ nên trải thảm màu đỏ, hồng, cam, tím ở trước cửa chính để hóa giải. Người mệnh Kim trải thảm màu trắng, bạc, kem, vàng hoặc nâu là thích hợp.
 
- Nhà hướng Nam gặp tà khí của Hỏa. Cho nên người thuộc cung mệnh Thổ, Kim cần trải thảm màu vàng hoặc nâu để hóa giải. 
 
- Nhà hướng Bắc gặp tà khí của Thủy. Vì vậy, người mang mệnh Thổ và Kim có thể hóa giải bằng cách trải thảm màu vàng hoặc nâu.

Các bài viết cùng chủ đề Tháng cô hồn, có thể bạn quan tâm:
Chuyên gia phong thủy giải đáp: Cưới trong tháng cô hồn – Nên hay không nên? Tránh những điều kiêng kỵ trong tháng cô hồn để tránh hồn bay phách lạc Bảo bối phong thủy xua đuổi tà khí trong tháng cô hồn Kinh nghiệm cúng lễ đuổi ma xua tà trong tháng cô hồn

ST
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đuổi dữ đón lành tháng cô hồn bằng thảm phong thủy

Lời Phật dạy về cuộc sống: Đừng coi thường ai cả

Cùng nghe lời Phật dạy về cuộc sống, hiểu được tôn trọng người khác cũng là tôn trọng chính mình.
Lời Phật dạy về cuộc sống: Đừng coi thường ai cả

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Không chỉ là tôn giáo với những giáo lý giáo luật chặt chẽ, đạo Phật có nhiều triết lý sống đơn giản mà sâu sắc, giúp con người tiếp cận gần hơn tới hạnh phúc và vui vẻ.

Loi Phat day ve cuoc song Dung coi thuong ai ca hinh anh
 
Có câu nói vô cùng nổi tiếng của triết học mà hầu như ai cũng biết “anh không phải là cá, sao biết niềm vui của cá”. Câu nói nhắc nhở về sự khác biệt giữa những người khác nhau, không ai giống ai cả. Lời Phật dạy về cuộc sống tương tự như vậy nhưng dễ hiểu hơn nhiều: đừng coi thường ai cả.  

1. Coi thường người khác là phạm ác nghiệp

  Theo Phật giáo, con người sống trên đời tránh nhất là tham, sân, si vì ba điều này gây ác nghiệp, đưa đường chỉ lối sai trái khiến cuộc sống bế tắc, đảo lộn. Vì sao coi thường người khác là phạm ác nghiệp? Vì coi thường người khác là đang tham, sân, si.   Coi thường có thể xuất phát từ sự khinh khi, coi mình cao hơn người khác hoặc ghen tị với thành quả mà người khác đạt được nên cố tỏ ra bất cần. Dù trường hợp nào thì cũng là phạm phải tham. Vì tham cầu danh để thỏa mãn hư vinh hoặc tham thứ không thuộc về mình nên nảy sinh tham vọng. Tham vọng được như họ hoặc tham vọng giẫm đạp lên họ.    Lòng tham này có thể dẫn tới tội ác, làm ác để chiếm đoạt cái họ đang có thành của mình hoặc làm ác để chứng minh mình hơn họ, mình là người ở vị thế cao hơn, tốt hơn, mình có quyền chà đạp, nhạo báng họ. Sống thuận theo tự nhiên mới mong có cuộc đời viên mãn, sống tham lam không thể thoát khỏi quả báo.
 
Coi thường người khác là sân - sân là cơn nóng giận, thù hận, không hài lòng. Bạn có biết rằng, khi coi thường ai đó trong lòng chúng ta đã nảy sinh ác nghiệp sân, có ý nghĩ thù địch với đối phương vì cảm thấy họ kém cỏi, không đạt tiêu chuẩn mà bạn đặt ra.   Coi thường người khác là si – mê muội, nông cạn, thiếu hiểu biết. Bản thân làm được điều gì đó, đạt được thành tựu gì đó không có nghĩa là người khác cũng phải làm được. Ngược lại, không phải điều mình không làm được thì người khác cũng không có khả năng đó.   Lời Phật daỵ về cuộc sống nhấn mạnh tới bản ngã của mỗi con người. Bất cứ ai cũng là một cá thể hoàn chỉnh với những năng lực, cảm xúc, quan điểm khác biệt. Người có thế mạnh ở mặt này, người có thế mạnh ở mặt khác, trên đời không có người hoàn hảo cũng không có ai là vô dụng cả. Xem thêm bài viết Triết lý "vô ngã" dẫn đường hạnh phúc của đạo Phật   Đánh giá thấp về người khác chính là biểu hiện của sự ngu muội, không nhìn thấy toàn diện vấn đề, có cái nhìn phiến diện theo năng lực của bản thân. Vì vậy mà kích động, dễ sai lầm, dễ cho mình đứng trên, tới khi đối diện với cuộc sống phong phú mới ngỡ ngàng, thất bại và hối hận.  

2. Tôn trọng người khác là tôn trọng chính mình


Loi Phat day ve cuoc song Dung coi thuong ai ca hinh anh
 
Phật giáo luôn hướng con người tới cuộc sống an nhiên, tự tại, vô thường, bình tâm. Vì sao? Vì như vậy có thể loại bỏ tham, sân, si và hạnh phúc. Để có được điều ấy, trước tiên phải tôn trọng người khác, tôn trọng chính mình.   Người đánh giá thấp người khác thực chất là người không biết tôn trọng chính mình, luôn so sánh bản thân với người xung quanh mà không biết rằng, giá trị của mỗi người đều xứng đáng được tôn vinh. Mình yêu quý bản thân bao nhiều thì người khác cũng yêu quý họ như vậy.   Hơn nữa, mỗi chúng ta là một cá tính riêng, sao phải trở thành thước đo so bì hơn kém với người khác. Hơn thì sao, không hơn thì sao? Giá trị đích thực của cuộc sống đâu nằm ở thứ bậc, chỉ cần ta an yên, mọi chuyện đều tốt đẹp, chỉ cần ta sống tốt, đâu có gì đáng kể nữa.   Khi ta tôn trọng chính mình thì cũng sẽ biết tôn trọng người khác, biết nhìn nhận điểm tốt, điểm mới từ những người xung quanh, từ đó cổ vũ, khích lệ họ và học tập họ để hoàn thiện chính mình. Mình tôn trọng mọi người, mọi người sẽ tôn trọng mình, tạo nên vòng tròn quan hệ dựa trên tinh thần tích cực, hòa đồng và nhân ái, mở rộng tâm hồn, điều hạnh phúc sẽ ghé thăm.   Hãy nhớ lời Phật dạy về cuộc sống, luôn để con mắt nằm ngang, nhìn thẳng một cách trong sáng, chính trực, cuộc đời tất bằng phẳng. Người mà mắt nhìn lúc nào cũng từ trên rọi xuống, sẽ không thể thấy quang cảnh tươi đẹp xung quanh, càng không thể thấy trước chướng ngại trên đường mà tránh. Đó không phải là tự mình tạo nghiệp cho mình hay sao. 
Gái kém duyên, muộn chồng lạc quan hơn khi nghe lời Phật dạy Phật dạy: 20 điều khó cản bước con người tiến tới hạnh phúc Học Phật 4 chữ để sống chung với mẹ chồng không còn là nỗi ác mộng
Tâm Lan
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Lời Phật dạy về cuộc sống: Đừng coi thường ai cả

CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Phong thủy cùng vì một mục đích, đó là thực tiễn quá trình thiết kế, xây dựng, bày trí không gian kiến trúc, nhà cửa. Thế nhưng trong quá trình phát triển, mỗi một nhà phong thủy nghiên cứu ở một bình diện, khía cạnh khác nhau, cho nên bộ môn này đa dạng về các học thuyết và trường phái. Sau khi nghiên cứu, người ta tổng hợp thống kê lại, gồm có các học thuyết lớn sau.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

     Trong quá trình hình thành và phát triển, phong thủy phân hóa thành nhiều học thuyết, nhiều trường phái khác nhau. Tất cả các phái đều có những tinh hoa và hạn chế riêng. Với phạm vi một bài viết, tôi không có tham vọng đi sâu về nội dung các thuyết, chỉ có thể giới thiệu sơ lược về các trường phái phong thủy hiện hành mà thôi.

Các học thuyết phong thủy

    Phong thủy Bát trạch Phái này được Phong thủy sư Thái Kim Oanh, xâu chuỗi, hệ thống hóa, khái quái hóa trong tác phẩm “Bát trạch minh cảnh”.  Phái này có nguồn gốc từ thuyết âm dương ngũ hành, từ Thái cực phân chia thành Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng sinh Bát quái. Dựa vào năm sinh của gia chủ, xác định phân chia mệnh chủ thành  Đông tứ ( Khảm – Bắc, Ly – Nam, Chấn – Đông, Tốn -  Đông Nam), Tây tứ ( Đoài – Tây, Khôn – Tây Nam, Càn – Tây Bắc, Cấn – Đông Bắc). Từ mệnh cung xét các quan hệ với các phương vị khác tạo ra bốn hướng tốt Sinh khí, Thiên y, Phục vị, Phúc đức. Và lâm phải bốn hướng xấu Tuyệt mệnh, Họa hại, Ngũ quỷ, Lục sát.

    Phái này có một hạn chế là không tính đến sự hài hòa của môi trường xung quanh. Không xét đến vận khí của thiên thời biến đổi qua từng thời kỳ, từng giai đoạn…

    Dương trạch tam yếu: Tương truyền phái này do Triệu Cửu Phong đời Tống sáng lập. Phái này xét ba bình diện cơ bản của nhà ở. Bao gồm : Môn (là hướng của chính, cổng chính khi vào nhà), Táo (là nhà bếp), Chủ (là phòng ở của chủ gia đình)

 Phân ra Tịnh trạch, Động trạch, Hóa trạch, Biến trạch

 Nhưng khi vận dụng vào thực tiễn, có những căn nhà thiết kế chuẩn mực ba yếu tố trọng yếu kia, nhưng vẫn không gặp may mắn như mong đợi.

   Phái cảm xạ: Được khởi xướng bởi các nhà ngoại cảm, thông linh. Những người lựa chọn đất làm nhà, táng mộ theo thuyết này đều là các nhà ngoại cảm, theo Mật tông, khoa học nhân điện. Mục đích chính là tìm ra các vùng có tầm số năng lượng cao thấp mạnh yếu, để an định cửa nhà hoặc táng mộ. Dụng cụ họ sử dụng thường là đũa từ, con lắc, quả cầu năng lượng, hoặc dùng chính huyệt luân xa của mình để cảm nhận.

Phái này ít người học tập và tu luyện thành công

   Phái Huyền không: Dựa vào Tam nguyên, cửu vận, lập ra hệ thống tinh bàn. Để dự đoán cát hung, suy vượng của căn nhà theo từng thời kỳ, từng giai đoạn.

Nội dung phương pháp của trường phái này căn cứ trên những quy ước về sự vận động của cửu tinh trên 9 phương vị (8 phương và ở giữa – Trung cung), tùy theo thuộc tính quy ước của cửu tinh và vị trí của nó để luận cát hung cho căn hộ. Qua phần sơ lược về các trường phái nêu trên thì chúng ta đều nhận thấy: Đối tượng để nghiên cứu của các trường phái đều giống nhau (tức là con người với môi trường, điều kiện và hoàn cảnh sống của họ); nhưng lại được xem xét dưới các góc độ khác nhau mà chưa bao quát toàn bộ vấn đề cần nghiên cứu. Khái niệm thời gian và không gian và đối tượng nghiên cứu được mỗi trường phái xem xét và nâng tầm quan trọng dưới nhiều tiêu chí khác nhau.

    Phái Loan đầu: Do Dương Tùng Quân sáng lập. Phái này căn cứ xem xét ảnh hưởng của môi trường xung quanh, bao gồm, đặc điểm địa hình, sông ngòi, núi non, đường sá, và các công trình khác đối với nhà ở.

Nhà ở khi thiết kế xây dựng phải hài hòa với môi trường tự nhiên, để tránh thiên tai, địch họa, đảm bảo an toàn về sức khỏe, và gặp nhiều may mắn thuận lợi trong làm ăn.

Nhà ở phải tọa sơn, hướng thủy. Nhất vị, nhì hướng. Tức là dựa lưng vào chỗ cao, có thế tọa vững chắc, hướng nhìn rộng rãi, thoáng đãng, phong tầm mắt ra vô tận, thì mới đón được cát khí, vượng khí, tiền đồ mới rộng mở.

    Phái Tứ trụ : Phái này dựa vào năm yếu tố của cá nhân gồm có giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh, năm sinh và giới tính lập nên lá số Tứ trụ. Phân tích lá số tứ trụ sẽ thấy rõ được các yếu tố sinh vượng, mạnh yếu, khiếm khuyết về ngũ hành của mệnh cục. Biết được điều này sẽ chọ được dụng thần, bổ khuyết, điều hòa làm cân bằng hệ thống ngũ hành trong mệnh. Khi đạt tới sự cân bằng,(không bất cập, hoặc thái quá, không quá vượng, quá suy) thì cuộc sống con người sẽ đầy đủ, ấm no, về vật chất, hạnh phúc về tinh thần.

Môn dự đoán này do Trần Đoàn tiên sinh đời Tống sáng lập, Trần Đoàn truyền lại cho học trò là Thiệu Khang Tiết.  Nhà thơ Tản Đà nước ta cũng rất tinh thông môn dự đoán này. Gần đầy, Thiệu Vĩ Hoa (cháu của Thiệu Khang Tiết), Lý Cư Minh, nghiên cứu kỹ lưỡng môn dự đoán này, áp dụng cải vận thành công cho nhiều người. Hai nhà đẩu số này có biên soạn nhiều tài liệu để lại.

Áp dụng vào cuộc sống cá nhân, khi nắm được dụng thần, con người ta có thể đi về phương hướng có lợi, lựa chọn ngành nghề phù hợp, chọn tên, đặt bút danh, biệt hiệu, dùng trang phục, vật phẩm phong thủy là dụng thần của mình. Đối với phong thủy, việc lựa chọn hướng nhà theo hướng dụng thần, trồng thêm cây cối và tăng thêm đồ gỗ đối với người dụng thần là Mộc, đặt bể phong thủy, làm bể bơi, hồ bán nguyệt đối với người dụng thần là Thủy…

    Học thuật mênh mông vô bờ bến, những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ nhoi, giữa đại dương mênh mông. Nhưng khi chúng ta quyết tâm. Không gì là không thể. Việc lựa chọn đất, thiết kế, xây dựng phải được tính toán một cách chi tiết, tỷ mỷ, vận dụng nhuần nhuyễn, các nguyên tắc cơ bản của phong thủy. Tục ngữ có câu “An cư, lạc nghiệp”. Có được căn nhà hợp phong thủy, vận mệnh của bạn sẽ không ngừng hanh thông, thuận lợi.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: CÁC HỌC THUYẾT PHONG THỦY

Đặc tính của sao Đà La - Thị phi, khốn khó và tai ách

Sao Đà La gặp Lực, Quyền ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi là người có quyền hành, được nhiều người kính phục. Phụ tinh. Thuộc bộ sao đôi Kình Dương và Đà La. Gọi tắt là bộ Kình Đà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Đặc tính của sao Đà La - Thị phi, khốn khó và tai ách

Đặc tính của sao Đà La - Thị phi, khốn khó và tai ách

Tìm hiểu về đặc tính của Sao Đà La trong Tử Vi

Tên sao Đẩu Phận Âm dương  - Ngũ hành Hóa Chủ Bị khảo
Đà la Bắc đẩu (sát tinh) Âm kim Kị Thị phi Tại đẩu quẩn trình tấu, tại số chủ hung ác

Thuộc tính âm dương ngũ hành của sao Đà La là âm Kim, là sát tinh thứ hai trong chòm sao Bắc Đẩu, hóa khí là kị, chủ về thị phi, là một trong lục sát tinh, nhưng sát khí của sao Đà La không nặng bằng Kình Dương. Nếu như sức pha hoại vận mệnh của sao Kình Dương là rõ ràng dễ nhận biết, thì sao Đà La cũng như một mũi tên bắn lén, tai họa trắc trở xảy ra lúc nào không biết.

Hóa khí của sao Đà La là kị, nên có thể coi là sao kị, nhưng sao Kị này hoàn toàn khác với sao Hóa Kỵ trong tứ hóa. Sao Hóa Kỵ chủ về nhiều nạn tai hung hiểm, đố kị, thị phi, mọi sự đều không thuận lợi, dễ chuốc điều thị phi. Còn Kỵ của sao Đà La là âm nhu, không rõ rệt, sự việc phải lần nữa kéo dài, vì vậy mà lỡ mất thời cơ tốt. Sao Đà La khi ở tại bốn cung Mộ miếu vượng Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, nếu gặp cát tinh cùng đến hoặc hội chiếu lại gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, hoặc Hóa Kỵ, trái lại sẽ chủ về đột phá, phần nhiều có biểu hiện xuất chúng.

Sao Đà La đồng cung với sao Tham Lang,  dễ vì tửu sắc mà thành tật, sao Đà La đồng cung với sao Phá Quân, phần nhiều chóng phát và chóng tàn. Sao Đà La đồng cung với sao Hỏa Tinh, Linh Tinh sẽ bị mụn nhọt, bệnh ngoài da hoặc bệnh truyền nhiễm. Sao Đà La rơi vào cung tật ách sẽ dễ mắc bệnh ngầm kinh niên. Đại hạn, lưu niên gặp phải sao Đà La, thì việc thành công khá chậm, nữ mệnh khó kết hôn.

 


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Đặc tính của sao Đà La - Thị phi, khốn khó và tai ách

Tại Sao phải thắp hương 100 ngày liên tục khi đặt bàn thờ Thần Tài Ông Địa?

Ban thờ Thần Tài – Ông Địa thường để dưới đất. Nhưng theo quan niệm dân gian, các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ, sáng sủa. Vì vậy, trong quá trình thờ cúng, ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước sạch.
Tại Sao phải thắp hương 100 ngày liên tục khi đặt bàn thờ Thần Tài Ông Địa?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Thờ Thần Tài – Ông Địa đã ăn sâu vào phong tục tập quán, quan niệm của người Việt từ nhiều đời nay, với mong muốn cầu tài lộc, kinh doanh phát đạt. Trong bài trước, chuyên mục Phong thủy thường thức đã trình bày sơ lược về nguồn gốc, chọn hướng đặt ban thờ Thần Tài – Ông Địa. Bài viết này, xin tiếp tục những lưu ý, kiêng kỵ cần biết khi thực hành nghi thức cúng lễ quan trọng này.

Sắp lễ trên ban thờ

Ban thờ Thần Tài – Ông Địa thường để dưới đất. Nhưng theo quan niệm dân gian, các vị này rất ưa chuộng sự sạch sẽ, sáng sủa. Vì vậy, trong quá trình thờ cúng, ta nên giữ cho các vị này luôn sạch sẽ bằng cách tắm rửa thường xuyên bằng nước sạch. Khi trời mưa to, các bạn bê Thần Tài, Ông Địa, Ông Cóc cho vào một cái thau sạch và để tắm mưa ngoài trời độ 15 phút. Sau đó, mang vào lau khô, xịt nước thơm và thắp hương xin. Nhiều lần thấy rất linh diệu.

Một điều lưu ý là khi cúng Thần Tài – Ông Địa , người ta thường cúng nhiều thứ nhưng không thể thiếu đồ ngọt như bánh hỏi, chuối, bưởi…. Nếu ở Sài Gòn, người dân có quan niệm mua tiền giấy cúng riêng Thần Tài – Ông Địa, người ta làm sẵn cả một bộ, trong đó có tiền Quý Nhân (Âm và Dương – Tức là những tờ giấy gập đôi màu đỏ có đục những hình Thần Tài khắp bề mặt).

Tại sao phải thắp hương 100 ngày liên tục khi đặt bàn thờ thần tài

Khi mới lập bàn thờ, ta nên thắp nhang liên tục trong 100 ngày để bàn thờ tụ Khí. Tuyệt đối không vì sợ tốn điện mà tắt đèn trên bàn thờ, vì những ngọn đèn đó giống như những ngọn Hải Đăng dẫn đường cho các vị giáng xuống trần. Trong 100 ngày đó, mỗi sáng chỉ cần thay nước và thắp một nén nhang. Những lúc cần cầu xin điều gì thì thắp 3 nén cắm theo hàng ngang. Những ngày Rằm, mùng Một, lễ, Tết thắp 5 nén theo hình chữ thập. Nên chọn loại nhang cuốn tàn (giữ được tàn), sau một thời gian sẽ có bát nhang rất đẹp và tụ Khí rất tốt. Chỉ đến ngày 23 tháng Chạp mới rút chân nhang (khi bát nhang quá đầy chân nhang) và đem hóa cùng tiền giấy. Khi hóa xong nhớ đổ một chút rượu vào đám tro.

Những kiêng kỵ cần tránh

Gia chủ cần lưu ý, tuyệt đối không để hoa, lá héo úa trên bàn thờ vì khi đó dẫn đến làm ăn khó khăn. Mùng 10 Âm lịch hàng tháng là cúng Thần Tài ; Mùng 2 và 16 Âm lịch hàng tháng là cúng cô hồn.

Vì đãng trí, nhiều người mua bộ đồ thờ sứ (gồm bát hương, tượng Thần Tài – Ông Địa) về thì đặt luôn lên ban thờ mà không lau rửa, vệ sinh. Nếu cẩn trọng, gia chủ cần dùng nước gừng rửa sạch sẽ trước khi thờ cúng. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhớ điều này. Bên cạnh đó, bát hương Thần Tài và Ông Thần Tài, Ông Thổ Địa không có nhãn chữ nho, không có cốt chữ nho, không có gói Thất Bảo (vàng bạc châu báu) hoặc cũng không rõ là bên trong có gì hay không mà cứ thế thờ cúng. Không có bùa Cầu Tài chữ nho và bài vị chữ Nho bằng gương.

Một sai lầm khác nhiều người thường mắc, đó là chưa xem hướng bàn thờ thần tài theo tuổi mà chỉ biết đến cách truyền miệng là đặt ban thờ bên trái, quay ra ngoài cửa dẫn đến quay ban thờ vào các hướng đại kỵ bản mệnh gia chủ: Tuyệt Mệnh, Lục Sát, Họa Hại, Ngũ Quỷ gây hao hụt tài lộc. Khu vực thờ cúng bàn thờ thần tài bừa bãi, không lau dọn sạch sẽ ban thờ, để ban thờ bụi bặm, lộn xộn, thiếu trang nghiêm…

Trên ban thờ, không thể thiếu ba hũ gạo, muối, nước và bát nước Minh Đường Tụ Thủy. Thiếu ông cóc, hoặc ông cóc không được khai quang điểm nhãn, không biết cách quay ông cóc để đón và giữ lộc. Ban thờ đặt ngay dưới hoặc đối diện đèn, gương, nhà vệ sinh, chậu rửa tay, bị góc nhọn đâm vào, quá nhiều ánh sáng…

Không được lễ thỉnh thần tài thổ địa về nhập vào tượng và bát hương theo đúng khoa giáo chữ nho cổ truyền mà mua tượng thần tài về khấn nôm chung chung, sắm lễ không chu đáo dẫn đến làm ăn bị mất lộc, thăng giáng thất thường… Bộ đồ sứ thờ có màu xung khắc với bản mệnh: Ví dụ như gia chủ mệnh Hỏa hoặc Thổ lại dùng bát hương màu xanh thuộc Thủy là bị xung khắc.

Những kiêng kỵ này, gia chủ cần biết để tránh phạm phải để việc thực hành nghi thức thờ Thần Tài – Ông Địa được trang nghiêm, đúng phép. Có như vậy, tài lộc mới theo về.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Tại Sao phải thắp hương 100 ngày liên tục khi đặt bàn thờ Thần Tài Ông Địa?

Bí mật 5 loài hoa "tiền triệu" hiếm có khó tìm

Linh lan, hồng Juliet,...khiến bao người say đắm nhưng không phải ai cũng có đủ điều kiện kinh tế để chơi hoa.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

1. Hoa linh lan

Hoa linh lan tượng trưng cho hạnh phúc, sự tinh khiết của trái tim, và khiêm tốn nhờ hương và sắc của mình. Hoa có màu trắng, rủ xuống hình chuông và mùi thơm ngọt. Vẻ đẹp cả trong lẫn ngoài của linh lan vì thế đã quyến rũ không ít người yêu hoa. Công nương Kate Middleton và Grace Kelly đều từng chọn linh lan làm hoa cầm tay trong lễ cưới hoàng gia.

 bi mat 5 loai hoa

 bi mat 5 loai hoa

Bó hoa cưới của hai vị công nương nước Anh và Monaco đều chọn linh lan làm chủ đạo

Tuổi thọ của linh lan rất ngắn, chỉ khoảng vài tuần cuối đông, đầu xuân. Vì vậy, khi thu hoạch linh lan, người làm vườn phải rất cẩn thận vì chỉ một sai lầm có thể rút ngắn tuổi thọ của hoa. Một cành linh lan dài từ 15-30cm có giá không hề rẻ, dao động từ 15 - 50 đô (300 - 1 triệu đồng).

2. Phong lan Thâm Quyến

Hoa phong lan Thâm Quyến là loài hoa lan đắt nhất thế giới hiện nay, với trị giá khoảng 200.000 đô (khoảng 4,4 tỉ VND/cây). Sở dĩ đắt đỏ như vậy không chỉ vì quý hiếm mà chính bởi sự ra đời đặc biệt của mình. Đây không phải là loài hoa tự nhiên mà được lai tạo hoàn toàn trong phòng thí nghiệm.

 bi mat 5 loai hoa

Một cây phong lan Nongke phải mất 8 năm để nuôi dưỡng, trong đó 4-5 năm mới cho ra hoa. Chỉ có những cây đạt tiêu chuẩn với sắc và hương tinh tế mới được đem ra bán trên thị trường. 

 bi mat 5 loai hoa

3. Hoa lan Rothschild 

Không cao giá như hoa lan Nongke Thâm Quyến nhưng lan Rothschild cũng có giá thuộc loại "hàng khủng" khi chạm ngưỡng 6.000 USD/ cành (khoảng 130 triệu VND). Chúng được mệnh danh là "Vàng của Kinabalu" do giá trị hái ra tiền của mình. 

 bi mat 5 loai hoa

Rothschild bán ở một mức giá rất cao nhờ vẻ đẹp hiếm lạ. Những cánh hoa dài với màu xanh lá cây đốm đỏ vươn ngạo nghễ. Loài hoa này chỉ có thể tìm thấy được ở Vườn quốc gia Kinabalu ở Malaysia. Bên cạnh thực tế là nó chỉ được tìm thấy ở một nơi, trồng được một cây Rothschild cực kỳ khó khăn và mất một quá trình lâu dài. Bông hoa nchỉ nở giữa các tháng trong tháng Tư và tháng Năm và có thể mất đến 15 năm mới cho ra một đóa. 

4. Hoa hồng Juliet

David Austin là một nhà thực vật học người Anh nổi tiếng với những giống hoa hồng được lai tạo và cải tiến từ các loại hoa hồng cổ điển nên luôn có nét độc đáo riêng biệt. Những giống hoa hồng Anh David Austin thường có giá không hề rẻ nhờ vào chất lượng hoa của mình. 

Hoa hồng Juliet là một trong những giống hoa hồng đầu tiên David Austin chăm trồng. Trong suốt 15 năm, ông đã tự tay chăm sóc, tưới nước, tỉa cành loài hoa này với chi phí lên đến 3 triệu bảng (khoảng hơn 100 tỉ đồng), vì vậy Juliet còn có cái tên khác là "hoa hồng 3 triệu bảng". Ngày nay, những cây Juliet lứa đầu thường đượ bán với giá rất cao. Có những bó Juliet đạt giá hơn 15 triệu đô (330 tỷ VN đồng).

 bi mat 5 loai hoa

 bi mat 5 loai hoa

Sau 15 năm, Juliet mới ra hoa khum đẹp với màu phớt cam hiện đại. Khi nở hoàn toàn, bông hoa nhiều cánh hoa lộ gọn gàng, được sắp xếp nép trong những cánh to xếp hình trái tim bên ngoài. Hoa có mùi thơm nhẹ của hoa hồng và thường được cắt để cắm trong đám cưới, lễ tưởng niệm, các sự kiện và các dịp đặc biệt. 

 bi mat 5 loai hoa

 bi mat 5 loai hoa

5. Hoa Kadupul

Hoa Kadupul được mệnh danh là bà hoàng của các loài hoa với giá trị vô giá. Loài hoa này hiếm có khó tìm vì chưa có nhà vườn nào trồng được do kỹ thuật trồng và cách chăm sóc cầu kì, kĩ lưỡng. Kadupul nở vào ban đêm và trong thời gian rất ngắn nhưng tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Chỉ vài phút đồng hồ thôi nhưng những người đã từng được thưởng ngoạn qua đều thấy tinh thần thư giãn và thoải mái. Kadupul sẽ tàn trước khi bình minh lên nên vì vậy chẳng bao giờ người ta thấy chúng ở các cửa hàng, kể cả bán trên mạng.

 bi mat 5 loai hoa

Loại hoa quý giá này được tìm thấy ở những xứ nóng như Mexico, Venezuela, Brazil và Mỹ. Người ta tin rằng, khi điều ước được thực hiện vào lúc Kadupul nở, điều ước đó sẽ trở thành hiện thực.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bí mật 5 loài hoa "tiền triệu" hiếm có khó tìm

Giải pháp khắc phục nhược điểm của nhà và đất

Có hai cách giải quyết các khó khăn trở ngại là: nhập thế và xuất thế . Cánh nhập thế là giải pháp hợp lý theo kinh nghiệm và hiểu biết của chúng ta. Nhưng quan trọng không kém là cách chữa xuất thế, không hiểu được bằng lý luận thông thường và rất bí mật. Cách chữa nhập thế trên các bình diện của nó song hành với các tư tưởng hiện đại của vật lý, y khoa và trang trí . Cách chữa xuất thế thì cách xa tầm hiểu biết , khám phá nó như nằm trong tiềm thức của chúng ta vậy.
Giải pháp khắc phục nhược điểm của nhà và đất

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Kết quả mỹ mãn cách chữa xuất thế của môn Phong thủy là làm tăng luồng vận khí. Đặc tính phổ biến của thuật xuất thế được thực hành qua 3 kỹ thuật căn bản sau đây:

    1. Phương pháp tiếp khí: bằng cách tháp khí từ một nơi hay từ dưới lòng đất cách xa đó.

    2. Phương pháp bình khí: để làm môi trường xung quanh hoà nhập vào nhau. Nếu căn nhà có hình thù kỳ dị thì hãy tạo ra phong cảnh hay kiến trúc phụ thuộc để tạo quân bình.

    3. Phương pháp nổi bật: để gia tăng và bổ sung khí vận - bằng cách trang bị thêm một bóng đèn sáng, vòi phun nước, bể nuôi cá làm sinh động không khí yếu và tù hãm cũng như làm khí vận chuyển khắp nhà. Mặt khác, ta dùng vật có thanh nhạc như quạt gió, khánh hay chuông.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Giải pháp khắc phục nhược điểm của nhà và đất

Mơ thấy cây cối: Tượng trưng tính cách và cá tính của một con người –

Mỗi cành cây ngọn cỏ là kết cấu đời sống nội tâm của một con người. Hình ảnh một thân cây xuất hiện trong mơ, nhắc nhở người nằm mơ sau khi tỉnh dậy hãy cẩn thận xem xét lại giấc mơ của mình: giấc mơ với nhánh cây vươn dài hướng ra ngoài, có ý chỉ t
Mơ thấy cây cối: Tượng trưng tính cách và cá tính của một con người –

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy cây cối: Tượng trưng tính cách và cá tính của một con người –

Mơ thấy gấu sẽ gặp may mắn

Nằm mơ thấy con gấu là sự nghiệp của bạn đang có người đâm phá vì ganh tị, bởi vì họ bất tài và thiếu khôn ngon so với mình.
Mơ thấy gấu sẽ gặp may mắn

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo


► ## giải mã giấc mơ theo tâm linh chuẩn xác gửi tới độc giả

Mo thay gau se gap may man hinh anh
Ảnh minh họa

Mơ thấy gấu thường là điềm có kẻ giàu sang và thế lực đến gây sự với bạn.   Mơ thấy bị gấu rượt đuổi, điềm báo có kẻ tiểu nhân đang tìm cách ám hại bạn.
 
Việc giết chết hoặc đánh đuổi một chú gấu trong mơ ngụ ý rằng ta sẽ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.   Nằm mơ thấy gấu bị nhốt trong chuồng biểu thị sự thành công trong tương lai.   Việc nhìn thấy một chú gấu đang nhảy múa trong mơ ngụ ý bạn sẽ gặp may mắn trong công việc.   Mơ thấy gấu gảy đàn, điềm báo sinh được quý tử.

Nếu bạn mơ thấy một con Gấu trúc trong giấc mơ của bạn, thì điều này cho thấy rằng bạn đang gặp khó khăn trong việc thỏa hiệp một điều gì đó trong cuộc sống khi thức dậy. Bạn cần phải tìm giải pháp trung lập để tất cả các bên tham gia sẽ hài lòng.
 
Nằm mơ thấy săn được gấu là thắng được kẻ thù. Bạn có sức mạnh vĩ đại.   Nằm mơ thấy ăn thịt gấu là tránh được một âm mưu.   Nằm mơ thấy con gấu màu trắng là điềm dữ - Gia đình bạn sẽ có người mất.   Nằm mơ thấy hai con gấu là con bạn làm ăn ra, sự nghiệp phát triển.

Tổng hợp

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Mơ thấy gấu sẽ gặp may mắn

Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

GiờNgày Tý Sửu Dẩn Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Dần-Thân * *     * *   *     *   Mão-Dậu *   * *     * *   *     Thìn-Tuất     *   * *     * *   * Tị-

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

ngayhoangdao

Giờ\Ngày

Sửu

Dẩn

Mão

Thìn

Tị

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

Dần-Thân

*

*

   

*

*

 

*

   

*

 

Mão-Dậu

*

 

*

*

   

*

*

 

*

   

Thìn-Tuất

   

*

 

*

*

   

*

*

 

*

Tị-Hợi

 

*

   

*

 

*

*

   

*

*

Tý-Ngọ

*

*

 

*

   

*

 

*

*

   

Sửu-Mùi

   

*

*

 

*

   

*

 

*

*

* Lưu ý:
Các ô có sao là giờ Hoàng Đạo. Mỗi ngày có 6 giờ Hoàng Đạo.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bảng tính giờ Hoàng Đạo đơn giản –

Các loại hình ngôi nhà cấm kỵ trong phong thủy

Các nhà phong thủy phái Loan Đầu rất xem trọng hình thế của căn nhà, họ cho rằng hình thế ngôi nhà phải đầy đặn, không được khuyết hãm, vì nếu khuyết sẽ làm ảnh hưởng hung hại đến người trong nhà.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo



CÁC LOẠI HÌNH NGÔI NHÀ CẤM KỴ TRONG PHONG THỦY   Các nhà phong thủy phái Loan Đầu rất xem trọng hình thế của căn nhà, họ cho rằng hình thế ngôi nhà phải đầy đặn, không được khuyết hãm, vì nếu khuyết sẽ làm ảnh hưởng hung hại đến người trong nhà.   1.     Nhà bị khuyết cạnh Nam Bắc -         Nhà cửa ở các thành phố hiện nay lâm vào tình trạng bị khuyết cạnh nhiều hơn thời xưa. Khuyết hai cạnh Nam, Bắc là khuyết hai phương thuộc hành thủy và hành hỏa. Cả thủy và hỏa đều thiếu thì đây là vấn đề nghiêm trọng. Khi mà hung tinh của Lưu niên bay đến khu vực phía bắc và phía nam thì nhà chủ về việc hao tài, mất của, bệnh tật, kiện tụng, thị phi, bất lợi…                       
                   
                  

2.     Nhà bị khuyết cạnh Đông, Tây -         Chính tây là hành Kim, chính Đông là hành Mộc. Hai phương này bị khuyết hãm lại có ảnh hưởng yếu hơn khuyết hãm Nam, Bắc. Nhà khuyết Đông, Tây thì chủ về nhà làm việc vất vả, gian nan, khó tụ tài, chí lớn khó thành và không thành công.                      
                    
                       
3.     Nhà bị khuyết góc Đông Bắc -         Góc đông bắc thuộc thổ, chủ về bất lợi sức khỏe, nhất là bệnh về đường tiêu hóa. Bất lợi cho thiếu nam.                   
4.     Nhà bị khuyết góc Đông Nam -         Góc Đông Nam thuộc Mộc. chủ về bất lợi đối với con gái đầu; về sức khỏe thì chủ về bệnh gan mật, hệ thống thần kinh.                
5.     Nhà bị khuyết góc Tây Nam -         Góc Tây nam thuộc thổ, chủ bất lợi về sức khỏe, nhất là bệnh về đường tiêu hóa, ngoài ra còn bị các chứng hư nhược. Người mẹ và nữ chủ nhân là hai người phải chịu nhiều bất lợi nhất.                        
6.     Nhà bị khuyết 4 góc -         Nhà bị khuyết cạnh 4 góc là phạm kỵ rất nghiêm trọng, không nên ở nhà này. -         Nhà phạm khuyết góc sẽ chủ về việc tai họa ngoài ý muốn, tài khí không tụ, tù tội, kiện tụng.                                 
7.     Quy đầu ngọ -         Quy đầu ngọ là nhà bị khuyết hai góc tây nam và đông nam. -         Loại nhà này sẽ xảy ra nhiều biến cố, ngoài ý muốn, cho nên thường xuyên phải di chuyển chỗ ở.                          
  Lưu ý: Cách hóa giải cho các loại hình nhà bị khuyết góc -         Dùng gương kính để cân bằng lại năng lượng, khí trường tại vùng bị khuyết -         Đặt một chậu hay bể nước có nuôi cá (số lượng cá tùy thuộc vào từng cung vị) tại vị trí bị khuyết. -         Đặt một khối đá phong thủy hay đá thạch anh để cân băng lại năng lượng. ( Đá cần phải được tẩy rửa năng lượng trước khi đặt) -         Treo hồ lô bằng đồng tại cung khuyết.

Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Các loại hình ngôi nhà cấm kỵ trong phong thủy

Bói tình yêu qua tướng mặt

Bói tình yêu thông qua tướng mặt của một người đã được Nhân tướng học tổng luận cho kết quả khá chính xác, ai chung thủy, ai lụy tình, trọng tình cảm
Bói tình yêu qua tướng mặt

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Những nhà Nhân tướng học đều biết rằng, tướng mặt có chứa rất nhiều thông tin về một con người, mà qua đó, chúng ta có thể bói tình yêu của những người này một cách khá chuẩn xác. Qua tướng mặt, ta có thể biết được ai là người lụy tình, ai chung thủy với tình yêu, ai là người trọng tình cảm, ai một lòng chung tình. Những nhân tố khác mà Nhân tướng học quan tâm như: lạc quan, tích cực, giữ chữ tín, độ lượng, yêu gét rõ ràng cũng là những thước đo quan trọng khi xem bói tình yêu cho một người nào đó.

Đối với tình yêu, điều đáng ngại nhất là bản thân toàn tâm toàn ý nhưng đối phương lại hững hờ, thờ ơ. Khi mới quen nhau, hai bên rất tâm đầu ý hợp, khi chính thức hẹn hò yêu nhau thì hai người lúc nào cũng gắn với nhau như keo. Nhưng thời gian yêu nhau càng dài thì tình cảm càng ngày càng phai nhạt, không còn mặn nồng như lúc mới yêu, thậm chí thái độ của đối phương dần hờ hững, tìm cách lảng dần. Nếu tỉnh táo thì có thể nhận ra những rạn nứt đó, biết được rằng quan hệ của hai người đã có sự biến chất. Nhưng nếu là người quá lụy tình sẽ không thể nhận ra sự thật, vẫn tiếp tục yêu hết mình. Cho đến khi đối phương đề nghị chia tay thì mới tỉnh mộng, có hối hận thì cũng đã muộn, đành phải nén lòng quên đi mối tình đẹp, để thời gian hàn gắn vết thương lòng. Dù bản thân rất nặng tình nhưng đối phương vấn không hề hay biết.

Xem Bói tình yêu theo diện mạo tướng mặt có thể giúp bạn nhận ra những người chung thủy, trọng tình cảm hoặc lời nói trong tình yêu của họ là chân thật. Ngoài ra khi xem tướng mặt mà cho thấy người này khiêm tốn và hiền hòa có đa phần thường chung tình. Xem tướng thấy người này chữ tín thì tình cảm họ nói ra thường là điều thổ lộ thật sự. Với tướng người khoan dung độ lượng, lạc quan yêu đời thì yêu ghét họ rành mạch, rõ ràng, sẽ không lừa dối bạn. Căn cứ vào những đặc điểm trên, bạn có thể coi bói tình yêu của người yêu đối với bản thân một cách khá chính xác.

1. Tướng mặt người chung thủy và người không chung thủy trong tình yêu

– Kích thước hai mắt bằng nhau, nhìn khá cân đối, vị trí của hai con mắt tốt nhất là nằm trên cùng một đường thẳng. Đây là con người chung thủy với người yêu của họ.

– Nếu một mắt thấp, một mắt cao hẳn cho thấy người này ý chí không kiên định, rất dễ bị quyến rũ, mê hoặc bởi người khác.

– Tướng tai có vị trí cân đối, không lệch lạc: tình cảm ổn định, khó thay lòng đổi dạ dù có sự quyến rũ từ bên ngoài.

– Tai nên có vị trí cao thấp vừa phải là tốt. Nếu vị trí của tai quá cao hoặc quá thấp thì người này thường không ổn định về tình cảm, rất dễ bị kích động thậm chí thay lòng đổi dạ.

– Ngưòi có mắt to nhỏ không thường không chung thuỷ. Hai mắt to nhỏ không đều nhau, thường là tình cảm bất ổn, tâm lý không vững vàng. Người có đôi mắt như vậy rất hay thay lòng đổi dạ, tình cảm không ổn đinh, thậm chí không chung thuỷ. Tình duyên theo đó thường trắc trở, ghệp ghềnh hơn người khác.

2. Bói tình yêu người trọng tình cảm yêu đương đắm đuối

– Tướng mũi thẳng: thận trọng trong giao tiếp. Mũi thẳng là tướng tốt. Những người có mũi cong, vẹo thường hay lừa dối trong tình cảm.

– Hai cánh mũi cũng nên có đường nét rõ ràng, kích thước đồng đều. Những người có tướng mặt như vậy thường thận trọng trong tình cảm, sẽ lựa chọn người yêu một cách cẩn thận, kỹ càng.

– Nhân trung sâu và dài: trọng tình cảm. Nhân trung ngay ngắn, sâu và dài, hoặc nở rộng dần xuống phía dưới là người thường rất rộng rãi, trọng tình cảm, nhu cầu sinh lý bình thường.

– Tướng miệng ngay ngắn: lời nói thành thật. Miệng ngay ngắn là tướng tốt. Những lời họ nói ra có thể tin cậy được, không sợ bị lừa dối trong tình cảm.

– Người có miệng méo, lệch thường nói những lời không thành thực, và cũng không nghiêm túc trong tình cảm.

3. Bói tình yêu người khiêm tốn, hiền hòa, chung tình

Sống trong xã hội, dù là trong tập thể lớn hay là tập thể nhỏ thì ai cũng muốn được người khác tôn trọng và khẳng định. Được tập thể chấp nhận là một việc rất đáng tự hào. Nhưng nếu sống trong tập thể lại làm việc một mình một kiểu, tự phụ kiêu căng, coi thường người khác, hống hách ngang ngược, chắc chắn sẽ bị mọi người ghét bỏ, thậm chí còn bị trừng phạt. Đây là trường hợp không được tập thể chấp nhận. Nhưng nếu một người khiêm tốn, cư xử khéo léo, có thể nhìn thấy những điểm tốt của mọi người xung quanh, sống hoà thuận với họ, biết cách khen ngợi động viên người khác thì chắc chắn sẽ được tập thể tin tưởng, có mối quan hệ tốt với tập thể, luôn luôn có người tình nguyện giúp đỡ thậm chí dù có lâm nguy cũng được cứu giúp. Ngoài ra trong phép bói tình duyên, thống kê cho thấy những người này trong tình yêu họ sẽ thật lòng, chung tình mà không bội bạc lại người yêu.

Tổ hợp tướng mặt tốt – khiêm tốn, khéo léo, không chê bai người khác, thật lòng trong tình yêu:

  • Ngũ quan đoan chính, kích thước trung bình, dễ chiêm được thiện cảm của người khác.
  • Miệng khép chặt, không có khe hở, môi đầy đặn, khoé miệng không bị trề Mắt không lồi không trũng mắt nhìn thẳng, có thần thái.
  • Mũi thẳng, ngay ngắn, trán cao, rộng
  • Lông mày dài quá mắt, mắt và lông mày cách nhau một khoảng thích hợp lông mày có đường nét rõ ràng.
  • Cánh mũi dày, nhìn chính diện không thấy lỗ mũi. Nhân trung sâu và dài không có nếp nhăn.
  • Tổ hợp tướng mặt xấu – kiêu cẳng tự phụ, không biết khen ngợi người khác, tình yêu đem cân đong đo đếm
  • Khuôn mặt to, ngũ quan nhỏ, thậm chí dường như ngũ quan tập trung một chỗ.
  • Khuôn mặt xương xẩu, ngũ quan nổi bật, lông mày vừa đen vừa rậm.
  • Khuôn mặt góc cạnh, vuông vức hoặc mặt tròn xoe không có góc cạnh nào
  • Tai thấp, cằm nhỏ, người có tướng mặt này thường ngoan cố, không chịu sửa đổi, mà đi theo con đường sai trái.
  • Người mắt nhỏ bụng dạ hẹp hòi, nhỏ mọn, cố chấp bảo thủ. Người miệng nhỏ môi mỏng thì tính cách rất ngoan cường háo thắng, đã nói là làm.

4. Bói tướng mặt người tự tin, lạc quan, lịch thiệp, yêu ghét rõ ràng

Khi gặp phải khó khăn, thất bại, mọi người thường hay nản chí, chán chường. Nhưng vẫn có những người trong khó khăn mà có thể xoay chuyển tình thế, tổng kết kinh nghiệm của sự thành công và bài học của sự thất bại và cuối cùng có được sự nghiệp thành công. Đương nhiên cũng có những người khi gặp khó khăn thì buông xuôi bỏ cuộc, không dám đối mặt với thực tế nghiệt ngã và cũng không nghĩ ra cách gì để thay đổi cục diện đó. Căn cứ theo lý luận của Nhân tướng học, sự lạc quan luôn đi cùng với sự tự tin và khiêm tốn, yêu ghét thì rành mạch; Bi quan tiêu cực thường đi với sự tự ti, hèn nhát, không biết rõ thực sự bản thân yêu ai, có tình cảm với ai.

– Khoảng cách giữa ấn đường vừa phải: người lạc quan – là tướng mặt tốt. Không vì một chút chuyện nhỏ mà thù ghét. Không vì xích mích đơn thuần mà bỏ rơi người yêu.

– Những người có ấn đường nhỏ, hẹp thường là người hẹp hòi, nhỏ mọn, tiêu cực, hiểu biết nông cạn, không thể nhận biết sự việc một cách đúng đắn, làm việc không đầu không cuối, lỗ mãng xốc nổi. Coi tình yêu là trò đùa. Không tôn trọng tình cảm của bản thân và của người yêu.

– Người có ấn đường quá rộng thường là người hèn yếu, không có chính kiến, bắt chước theo người khác.

Do đó thì khoảng cách giữa ấn đường vừa phải, không rộng không hẹp thì tốt nhất. Quá rộng hay quá hẹp đều không phải là tướng mặt tốt.

– Mũi cao: lạc quan tích cực. Mũi đại diện cho cá tính, chủ kiến của một người. Nếu mũi cân đối thể hiện được là người lạc quan, tích cực và rất có tinh thần trách nhiệm, không sợ khó khăn, quyết tâm kiên trì đến cùng. Trong tình yêu thì rất chừng mực, biết quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho người yêu.

– Miệng có kích thước vừa phải: cư xử khoan dung, độ lượng. Miệng có kích thước vừa phải chứng tỏ đó là người rất lạc quan, rộng lượng, cư xử với người khác khoan dung, độ lượng, không những có thể bỏ qua lỗi lầm mà còn không tùy tiện chỉ ra điểm yếu của người khác; nếu không cũng rất sòng phẳng ý chí kiên định, làm việc luôn kiên trì tuân theo quy tắc của bản thân, không hề thay đổi, có đầu có cuối. Trong tình yêu thì kiên trì theo đuổi đến cùng; biết tha thứ lỗi lầm của người yêu; biết nói lời yêu thương, quan tâm tới người yêu.

– Cằm đầy đặn: người giữ chữ tín. Người có cằm đầy đặn thì thường lạc quan chủ động, hành động mạnh mẽ, nói là làm ngay đồng thời rất giữ chữ tín. Những việc đã hứa thì dù có khó khăn, trở ngại mấy cũng làm bằng được. Người như vậy rất dễ thành công. Trong tình yêu, đã nghĩ là nói ra; đã nói ra sẽ giữ lời và thực hiện đúng như vậy. Nếu ai đó bói tình yêu mà tìm được những người thương như vậy quả thật là an tâm.

– Người có cằm ngắn thường tính toán hơn thiệt, làm việc tiêu cực bị động không toàn tâm cho công việc. Tâm trạng rất dễ thay đổi, thường hoang mang; làm việc gặp một chút khó khăn liền bỏ cuộc giữa chừng. Không đeo đuổi tình yêu, an phận và chấp nhận thua thiệt mà không biết giành lấy hạnh phúc cho bản thân. Thường tự trách mình và chím đắm trong nỗi buồn khổ nếu thất bại trong tình yêu và hôn nhân.


Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bói tình yêu qua tướng mặt

Cầu thang lượn vòng theo tường

Cầu thang không chỉ dùng để đi lên các tầng trên, mà còn dùng để đi xuống các tầng dưới. Nhà ở hiện nay đa phần đều có kết cấu mặt phẳng, nhiều gia đình cùng ở chung một toà nhà, nên cầu thang chỉ là phương tiện chung, do đó không ít người đã xem thường tác dụng của nó.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Họ cho rằng cầu thang chỉ là lối đi lại. Thực ra cầu thang vừa là nơi tiếp khí, chuyển khí trong nhà, mà cũng là nơi rất dễ xảy ra tai nạn. Vị trí tốt nhất cho cầu thang chính là bám sát tường.

Chẳng may cầu thang lại đối diện với cửa chính thì để tránh khi mở cửa làm nhân khí và tài khí thất thoát ra ngoài, phải treo một chiếc gương cầu lồi ở bậc thang và chỗ đối diện với cửa chính, để khí có thể phản xạ vào trong nhà, tất nhiên đây chỉ là cách cứu vãn.

Cầu thang là nơi mà khí lưu động rất nhanh, khí có thể lưu động từ tầng một lên các tầng khác, khi mọi người lên xuống cầu thang sẽ làm nhiễu loạn luồng khí mà hình thành thế đối xung. Luồng khí kỵ nhất là đi thẳng, vì vậy cầu thang nên thiết kế thoai thoải, còn về hình dáng nên làm câu thang theo kiểu xoắn chôn ốc hoặc đoạn giữa có chỗ ngoặt. Ngoài ra, nên làm bậc cầu thang bằng gỗ, như vậy có thể giảm nhẹ sự lưu động theo đường thẳng của luồng khí.


Khi thiết kế cầu thang cần chú ý hướng cầu thang theo phong thủy, cầu thang
không nên đối diện với cửa chính.

Cầu thang tránh đặt giữa nhà. Nhiều nhà thiết kế không quan tâm đến sự khác biệt giữa nhà ở và văn phòng nên đã thiết kế cầu thang ở giữa nhà. cầu thang đi qua vị trí chính giữa ngôi nhà, tức chia ngôi nhà thành hai nửa không gian, điều này sẽ làm cho trong nhà hay xảy ra tranh cãi, vợ chồng bất hoà, thậm chí phải ly tán, trong phong thuỷ cho rằng đây là tướng hung.

Cầu thang trong nhà ở thường có ba loại: thứ nhất là đoạn giữa có chỗ ngoặt (có chiếu nghỉ), thứ hai là câu thang hình xoắn chôn ốc, thứ ba là cầu thang nghiêng. Dù cầu thang được thiết kế theo kiểu nào thì chân cầu thang cũng không nên đặt ở giữa nhà, và ban công ở cuối cầu thang cũng không nên nằm ở giữa nhà.

Khoảng không dưới gầm cầu thang không nên làm phòng ăn, nhà bếp, phòng ngủ, mà chỉ có thể làm nhà kho. Có nhà để tiết kiệm không gian đã làm cầu thang rất dốc, điều này không chỉ là điều kỵ trong phong thuỷ, mà cũng không phù hợp với yêu cầu về độ an toàn. Đồng thời, cố gắng không làm bậc cầu thang bằng đá hoặc kim loại, nguyên nhân cũng như trên.

(Theo Phong thủy trong gia đình)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Cầu thang lượn vòng theo tường

Bếp nhỏ và những ý tưởng

Tiết kiệm không gian, thiết kế hấp dẫn, vật liệu đẹp, nội thất độc đáo, đa chức năng... là những công thức để biến căn bếp nhỏ nhắn của bạn trở nên thoáng đãng, đẹp mắt mà vẫn đầy đủ tiện nghi. Sự sáng tạo và gu thẩm mỹ của riêng bạn sẽ khiến căn bếp trở thành một nơi lui tới thường xuyên của các thành viên trong gia đình bạn.

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

Căn bếp lãng mạn, ngọt ngào cho cô đầu bếp yêu màu tím. Cách phối màu tím và
đen với những bức họa độc đáo khiến căn bếp độc đáo và thu hút

 
Căn bếp xanh mát với khung cửa sổ tràn ánh nắng

Phòng bếp hiện đại luôn chú trọng khu vực ăn uống và bề mặt nấu nướng. Để bếp rộng rãi hơn, bạn có thể “thu nhỏ” tất cả các món nội thất với: đảo bếp nhỏ, quầy bar ăn sáng, bàn ăn nhỏ nhắn... Ngoài ra, các kệ bếp mở rộng hơn, bày thêm ghế đẩu (stool) hoặc ghế dài (bench) dễ dàng sắp xếp gọn gàng khi không sử dụng cũng là ý tưởng thông minh.

 
Nên dùng nội thất màu trắng, không gian nhỏ sẽ thoáng hơn

 
Hãy cho tất cả những thứ đồ lỉnh kỉnh của bếp vào tủ vào đóng cửa lại

Bạn nên sử dụng nội thất đa chức năng để căn bếp nhỏ gọn gàng hơn. Bạn nên dùng bàn ăn như một đảo bếp hoặc ngược lại. Các món nội thất nên được bố trí thuận tiện, dễ di chuyển và có thể xếp gọn. Bạn cũng nên lưu ý thiết kế các hệ thống ngầm và tận dụng triệt để không gian trống để lưu trữ những đồ đạc vốn rất lỉnh kỉnh của phòng bếp.

 
Nên dùng màu trung tính cho căn bếp nhỏ

 
Đảo bếp trở thành bàn ăn tiện dụng

Để phòng bếp có cảm giác rộng rãi, thoáng đãng hơn, người ta hay sử dụng những gam màu tươi tắn, sáng sủa (thường là các màu trung tính) như màu trắng, màu be, các sắc độ patel. Ngoài ra, nội thất bắt sáng, phản chiếu ánh sáng cũng nên được sử dụng.

 
Hệ thống nội thất âm tường đem lại sự gọn gàng cho căn bếp

 
Căn bếp nội thất gỗ mộc mạc. Nên tận dụng để tổ chức, sắp xếp nội thất, tạo ra không gian
đa chức năng, tiện nghi trong một diện tích nhỏ

 
Căn bếp khá xinh xắn, dễ thương với nội thất "thu nhỏ".  Màu trắng chủ đạo “mềm mại hóa” vẻ
xù xì của tường gạch, bê tông.

 
Nội thất màu trắng cộng với hai cánh cửa sổ lớn đón ánh sáng khiến căn bếp trở nên rộng rãi,
thoáng mát

Về cách phối màu trong phòng bếp, nên sử dụng hệ thống tủ kệ có màu sắc hòa hợp, liền mạch với màu sơn tường. Nhưng bạn vẫn có thể sử dụng gam màu tương phản nếu muốn nhấn mạnh, để các món nội thất nổi bật hơn. Bạn có thể lựa chọn 1 vài điểm nhấn thú vị, độc đáo, đi sâu vào chi tiết để thể hiện cá tính và gu thẩm mỹ riêng biệt của mình.

 
Hệ thống kệ treo tường xinh xắn, tiện lợi khiến không gian gọn gàng hơn

 
Nội thất bóng bắt sáng là một mẹo nhỏ giúp phòng bếp rộng hơn

Bạn cũng cần để ý đến sự sạch sẽ, sáng sủa trong phòng . Bạn cũng nên lựa chọn các món nội thất thiết kế đơn giản nhưng sắc sảo, hiện đại. Tổ chức, sắp xếp hợp lý công với một chút phong cách trong thiết kế, bạn sẽ có một căn bếp tuy diện tích không như mong muốn nhưng vẫn bắt mắt, xinh xắn.

 
Cửa sổ lớn với những bức tranh hoa tươi sáng

 
Hệ thống tủ ngầm tạo vẻ gọn gàng cho căn bếp nhỏ

 
Không gian trở nên rộng rãi hơn khi sử dụng nội thất có màu sắc hài hòa với màu tường

(Theo Afamily)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Bếp nhỏ và những ý tưởng

Phong thủy ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không?

Ví tiền đi liền khúc ruột, ai ai cũng có nhưng chưa chắc mọi người đã biết sử dụng đúng phong thủy ví tiền để hút thêm nhiều tài nhiều lộc. Phong thủy ví
Phong thủy ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không?

Tử Vi, Tứ Trụ, Xem Tướng, Gieo quẻ, Xem bói, Phong Thủy, 12 con giáp, 12 cung hoàng đạo

– “Ví tiền đi liền khúc ruột”, ai ai cũng có nhưng chưa chắc mọi người đã biết sử dụng đúng phong thủy để hút thêm nhiều tài nhiều lộc.


Vậy thế nào mới là cách dùng ví tiền chuẩn phong thủy? Hãy cùng các chuyên gia phong thủy lý giải về vấn đề này, giúp bạn hiểu thực sự hiểu rõ và có cách ứng dụng phù hợp.

1. Gấp tiền đút vào ví sẽ không tụ tài?


Theo các chuyên gia phong thủy, điều này không đúng. Dẫu biết rằng ví tiền được sắp xếp gọn gàng, tiền để thẳng và ngăn nắp sẽ tạo ra phong thủy tốt, nhưng không có nghĩa là gấp tiền rồi cho vào ví lại gây việc khó tụ tài.

Có điều, cách làm này sẽ khiến ví tiền của bạn mất diện tích và cũng không thuận tiện trong việc chi tiêu. Tốt nhất, bạn nên để tiền thẳng và cho vào ví.

Phong thuy vi tien cua ban co the hut tai loc hay khong hinh anh
 
Ngoài ra, cần lưu ý không được để biên lai hay hóa đơn trong ví. Vật này mang tính ghi lại số tiền đã chi tiêu. Nếu cứ lưu cữu lâu ngày khiến tiền bạc càng có xu hướng thâm hụt hoặc hút thêm nợ nần.

2. Không kéo khóa, ví tiền khó tụ tài?


Với những loại ví tiền có khóa kéo, một số người cho rằng sau khi sử dụng xong, không kéo khóa sẽ khiến tài khí khó tụ lại.

Phong thuy vi tien cua ban co the hut tai loc hay khong hinh anh 2
 
Điều này không hẳn đúng. Bởi có tới 1/3 số người dùng loại ví này, từ những lao động phổ thông, nhân viên văn phòng tới các ông chủ, bà chủ lớn. Vậy bạn nói xem, ví tiền tụ tài hay không?

3. Ví tiền càng nhỏ càng khó hút tài lộc?


Theo phong thủy ví tiền, kích thước ví tiền to hay nhỏ không ảnh hưởng tới yếu tố phong thủy. Nó chỉ phụ thuộc vào yêu cầu, mục đích và sở thích của người dùng mà thôi.

Phong thuy vi tien cua ban co the hut tai loc hay khong hinh anh 3
 
Tuy nhiên, các chuyên gia phong thủy lại khá chú trọng tới kiểu dáng ví tiền. Những loại ví có hình dáng kì dị, dễ khiến tiền và giấy tờ trong đó bị nhàu nát, khiến tài lộc khó tụ, thậm chí còn tiêu tán.

Vì thế họ khuyên nên sử dụng các loại ví có hình dạng càng đơn giản càng tốt như hình chữ nhật, vuông, bán nguyệt... tượng trưng cho ngũ hành bản mệnh của từng người.

4. Dùng ví màu đỏ sẽ gây thâm hụt tiền bạc?


Căn cứ vào ngũ hành bản mệnh từng người mà có cách chọn màu ví phù hợp. Ví dụ, người mệnh Hỏa thích hợp dùng ví màu đỏ để mang lại sự may mắn và giàu có. Tuy nhiên, với người kị Hỏa lại không tốt. Ngũ hành tương khắc khiến tiền bạc thâm hụt, điều này có lý về mặt phong thủy.

Tương tự với những ví màu khác như đen, cam, hồng, vàng, xanh... nếu tương sinh với ngũ hành bản mệnh ắt sinh tài hút lộc và ngược lại, nếu tương khắc sẽ không mang lại điều may mắn, khó hút tiền bạc.

Phong thuy vi tien cua ban co the hut tai loc hay khong hinh anh 4
 

5. Dùng ví càng lâu càng dễ hút tài lộc?


Một số người cho rằng, chỉ nên dùng ví trong khoảng 3 năm rồi thay thế ví mới. Bởi ví cũ đã không còn mang lại nhiều may mắn. Điều này cũng không hẳn.

Với những chiếc ví chất lượng kém hay trung bình, 3 năm có thể đã hỏng nên người ta phải thay mới. Còn với ví tốt, càng dùng lâu càng dễ “được lộc”, miễn sao bạn luôn đảm bảo nó sạch sẽ, sáng đẹp và ngăn nắp.

3 giây để nhận ra tướng mặt người được phúc đức bao bọc suốt đời
– Người có tướng mắt to, ánh mắt có thần thường được hưởng phúc thọ song toàn, sức khỏe dồi dào, cuộc sống bình yên, vui vẻ.

6. Ví càng đắt tiền, tài lộc càng dễ tụ?


Điều này không đúng. Tùy từng điều kiện kinh tế cũng như yếu tố ngũ hành của mỗi người mà có sự lựa chọn ví tiền phù hợp. Chứ không nhất thiết hay miễn cưỡng phải mua ví đắt tiền. 


Ngọc Điệp

Xem thêm video: Nắm rõ nhân quả thông minh học giỏi để "đón đầu" cuộc sống



Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet:

Xem thêm: Phong thủy ví tiền của bạn có thể hút tài lộc hay không?

Tiktok channel

Click to listen highlighted text! Powered By DVMS co.,ltd