Tử vi 2018 tuổi Dần –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Do Canh Thìn là năm dương, theo quy định, nam mệnh sinh vào năm dương lấy số vận tuổi theo số thuận đến tiết sau thì dừng, sau đó lấy 3 ngày là một tuổi mà đem chia tháng 10 năm Canh Thìn là tháng thiếu, cho nên từ ngày 14 tháng 10 theo số thuận đến đại tuyết ngày 9 tháng 11 là 24 ngày lại chia cho 3 là vừa tròn 8, như vậy tức là nói số vận tuổi của ông này là 8 tuổi. Sau khi đã tính ra số vận tuổi, tiếp theo đó là sắp can chi đại vận. Chúng ta cũng biết, can chi của đại vận là căn cứ vào can chi của tháng sinh mà sắp ra, lấy số vận tuổi nếu là số thuận thì sắp thuận theo một can chi ở sau can chi tháng sinh, nếu là số nghịch thì sắp theo một can chi ở trước can chi tháng sinh. Bây giờ đã biết tháng sinh là Đinh Hợi, lấy số vận tuổi là số thuận, cho nên can chi đại vận của mệnh này nên từ Đinh Hợi theo số thứ tự là Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tỵ, Giáp Ngọ, Ât Mùi.
Do sách đoán mệnh quy định thiên can địa chi đại vận mỗi chữ quản 5 năm, cho nên mỗi thiên can và mỗi địa chi cộng lại là 10 năm. Xem 5 năm trước tuy lấy thiên can là chính nhưng phải kết hợp địa chi để cùng xem, xem 5 năm sau thông thường vứt bỏ thiên can, chỉ xem địa chi, đó là nguyên tắc trong đại vận địa chi nặng hơn thiên can trong đại vận mà sách đoán mệnh đã nói.
Đến 17 tuổi là Mậu Tý, 18 đến 27 tuổi là Kỷ Sửu, 28 đến 37 tuổi là Canh Dần, 38 đến 47 tuổi là Tân mão, 48 đến 57 tuổi là Nhâm Thìn, 58 đến 67 tuổi là Quý Tỵ, 68 đến 77 tuổi là Giáp Ngọ, 78 đến 88 tuổi là Ât Mùi.
Tính về cát hung sang hèn của đại vận, trước tiên phải xuất phát từ thiên can của trụ ngày bản mệnh, phân tích nên và kỵ của ngũ hành bản mệnh, lại kết hợp với sinh khắc phù ức của ngũ hành đại biểu cho can chi đại vận với thiên can trụ ngày bản mệnh, là nên hay là kỵ và có hình xung hoá hợp hay không, mới có thể có sự phán đoán cuối cùng. Vì vậy, sách Mệnh lý thám người từng dẫn lời của Trần Tố Am như sau:
Nên hay không nên, toàn dựa vào cách cục, lợi hay không lợi, chỉ hỏi thiên can, phá cách gọi là kỵ, trợ cách gọi là nên. Phù ngày sinh nhược mà khí thịnh ức ngày sinh cường mà toàn mỹ. Ngày vượng lại đến đất vượng (ngũ hành đại vận với can ngày bản thân mà nói quả là quá vượng) hẳn gặp hung, ngày suy lại gặp đất suy (ngủ hành đại vận với can ngày bản thân mà nói hiện lên quá suy) thì chủ gặp hung. Nếu tài quan ấn, thực hỷ gặp nhau thì cát. Hung như hỉnh xung quả kiếp, chủ sẽ không yên.
Ví dụ can ngày là Kim, mệnh cường, lý tưởng nhất là hành vận thực thương tài quan thuỷ Mộc Hoả vì rằng Hoả có thể chế Kim, không dẫn đến Kim quá vượng mà dẫn tới trái ngược, mà Kim lại có thể sinh Thuỷ khắc Mộc, khiến cường Kim có đất mà tiết ra, nếu như gặp Thổ vận sinh Kim và Kim vận tỷ kiên, kiếp tài, với bản thân người ấy mà nói, rõ ràng tạo nên thế “ngày vượng lại gặp đất vượng”, như vậy rất là không cát lợi, ngược lại nếu can ngày là Kim, Kim trong mệnh nhược, thế thì lại có sự xoay chuyển 180°, nên hành vận là Ấn thụ, tỷ kiếp sinh ta và phù ta, nếu không thân nhược lại gặp tài cung khác nào “ngày suy lại gặp đất suy”
Cách tính cát hung sang hèn đại vận nói trên, nếu như kết hợp dùng dụng thần để phán đoán thì phối hợp với tứ trụ bát tự là tốt. Nếu trong nguyên cục có dụng thần thì hành vận cả đời người thường là nước chảy hoa nở, đắc ý vô cùng. Nhưng với một số bát tự phối hợp với tứ chi nguyên cục không lý tưởng mấy, trong nguyên cục không có dụng thần, hoặc là dụng thần tương đối yếu thì phải xem khi hành vận có gặp dụng thần hay không. Hành vận cả đời người của một con người, không thể lúc nào cũng gặp Thuỷ, gặp Mộc gặp Kim, nếu như trong nguyên cục thiếu dụng thần, nhưng khi hành vận nếu được bổ sung, uốn nắn sự thiên lệch, khiếm khuyết ngũ hành trong mệnh, thì cũng có thể phát phúc hoặc làm nên sự nghiệp, về hai loại dụng thần nguyên cục và hành vận, các nhà thuật số gọi nó là dụng thần nguyên cục và dụng thần hành vận. Từ tổng thể mà nói, nếu ngày sinh vượng, nếu hành tài, quan vận. Ngày sinh vượng mã mà tài, quan nhược, khi hành đến tài, quan vận nhất định sẽ đại phát, nếu ngày sinh vượng quá mức, nên hành tỷ kiếp hoặc ấn thụ vận, ngày sinh nhược, mà tài, quan vượng thì hành tỷ, kiếp vận tốt hơn ấn thụ vận, nếu như can ngày không cường không nhược, gọi là trung hoà, người trung hoà cũng thích nghi với hành tài, quan vận.
Lấy ví dụ để chứng minh cho dễ hiểu, chúng ta hãy xem một mệnh ở đây.
Năm Canh Thìn Tháng Đinh Hợi
Ngày Canh Thân Giờ Canh Thìn
8 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
8 Mậu Tý
18 Kỷ Sửu địa Chi hội Thuỷ
28 Canh Dần
38 Tân Mão địa Chi hội Mộc
48 Nhâm Thìn
58 Qúy Tỵ
68 Giáp Ngọ địa Chi hội Hỏa
78 Ất Mùi
88 Bính Thân
Canh Thân gọi là chuyên lộc. Gọi là lộc tức là lâm quan trong 12 cung ký sinh. Đàn ông chiếm lộc, được đất làm nhà, trong mệnh 4 Kim, 2 Thổ, 1 thuỷ, 1 Hoả khuyết Mộc. Ngũ hành khuyết Mộc, trong Hợi tàng Giáp Mộc, trong Thìn tàng Ất Mộc, ngày sinh ngày Mộc (trong nạp âm ngũ hành, Canh Thân thuộc thạch lựu Mộc).
Mệnh này sinh vào mùa đông, Kim hàn mà nặng, chi năm tỷ kiên, chi tháng chính cung, thực thần, chi ngày tỷ kiên, can giờ tỷ kiên.
Trong bát tự, tỷ kiên nhiều mệnh cứng, tuổi tác người yêu cách nhau nhiều, nếu không phải kết hôn lại. Cùng tuổi, thỏ chó không phối hợp, hợp với hầu, khỉ, gà, thỏ thuộc Mão, rồng thuộc Thìn, Mão Thìn hại nhau, chó thuộc Tuất, rồng thuộc Thìn, Thìn Tuất xung nhau, cho nên đều không phối hợp được, khỉ thuộc Thân, chuột thuộc Tý, rồng thuộc Thìn, Thân Tý Thìn hợp Thuỷ, cho nên tương hợp. Ngoài ra Thìn Dậu hợp Kim, gà thuộc Dậu cho nên cũng hợp với gà thuộc Dậu, nhưng đó không phải là tuyệt đối.
Dụng thần khỏi vận, 8 đến 12 tuổi thiên ấn, thân thể nhiều bệnh, 13 đến 17 tuổi thương quan, cũng không thuận lợi, 18 đến 22 tuổi chính ấn, học hành khắc khổ, 23 đến 27 tuổi mộ khố, bị tổn thất nhiều, 28 đến 32 tuổi tỷ kiên, vì rằng trong mệnh đã có tâm đối xử với người mà người ta lại ngầm suy tính, 33 tuổi đến 37 tuổi thiên tài, Dần Thân tương xung trúng mã vận, sao vợ động cựa mà có tài vận, 38 đến 42 Tân Kim, kiếp tài vận, bát tự khuyết Mộc, các kiếp phân tài, bị tổn thất, 42 đến 48 tuổi chính tài vì Ất Mộc trong mão cùng hợp Canh Kim, cho nên kể không hết ngọt chua cay đắng, 48 đến 52 tuổi, Quý Đinh giao chiến, không hay, 63 đến 68 tuổi, tỵ vận trường sinh, vừa lo vừa mừng, 68 đến 78 tuổi thiên tài, chính cung, bước này vận tốt. Tóm lại từ 63 tuổi về sau, can chi đại vận đều là Mộc Hoả, dụng thần đắc lực, về sau hẳn hỷ lạc vô lo.
Chú ý, 53 đến 57 tuổi phòng tài, phòng thân thể, trong vòng 32 tuổi thua lỗ, từ sau 33 thiên tài, 48 tuổi trở về sau thành danh.
Mệnh này lúc nhỏ, cát hung đều một nửa, tốt nhất tách khỏi bố. Tuổi thanh niên, bị va vấp lớn, tuổi trung niên bắt đầu có đã chuyển tốt, cho đến cuối đời, cả đời có thiên tài nhưng thường bị phá. Mệnh này đông tây nam bắc đều thông, có danh vọng, theo nghề văn chương càng tốt. Mệnh này cần chú ý nhiều đến thân thể, vì rằng trong mệnh Kim quá nhiều. Lại do Quan tinh là hỷ thần Canh Kim ngày sinh, cho nên con cái tốt, cuối đời hạnh phúc. Dĩ nhiên, mọi sự việc trên thế giới đều có cách nhìn khác nhau, cho nên với cùng một mệnh, do mỗi người lý giải khác nhau nên thường có cách nói khác nhau, điều này không nói cũng hiểu.
Để được rõ ràng, ở đây chúng tôi nêu lên một ví dụ về nhà mệnh lý học Vương Như Kim trú ở thành phố Thiên Tân đã đoán mệnh cho nhà văn Tam Mao ở Đài Loan sinh năm 1943. Vương Hy Kim đã gửi cho tôi một bức thư nói: năm ngoái giữa mùa Đông năm 1990, nữ nhà vàn Tam Mao ở Đài Loan đã tự vẫn, các giới đều kinh ngạc than tiếc, tôi do hiếu kỳ, đã tra tin tức đăng trên các báo, đoán giờ sinh của bà là mệnh Cục Dần (tôi đã viết bài nói về cái chết của bà) đã có bình luận tóm tắt. Giờ sinh của Tam Mao là căn cứ tình hình các mặt mà đoán ra.
Năm
Quý Mùi
Tháng
Ất Mão
Ngày
Quý Mùi
Giờ
Giáp Dần
4 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
4
Bính Thìn
14
Đinh Tỵ
24
Mậu ngọ
34.
Kỷ Mùi
44
Canh Thìn
Ngày sinh Quý Mùi, tháng sinh Ất Mão, giò sinh Giáp Dần, Mộc vượng ồ xuân lệch, có mối lo lớn Mộc thịnh thuỷ súc, nhưng ở Thiên Hỷ kỵ có nói: “Lục quý nhật đắc Dần, tuế nguyệt pha thành, Kỷ nhị phương”. Đó là hình hợp cách Tỵ là thành, tạo mệnh đẹp. Thực thần, Thương quan trong cục, tú khí đủ đầy, hoặc nói “bỏ mệnh théo mấy cách” tựa như miễn cưỡng, vì rằng Mùi chi dưới có thể hội thành Mộc cục, theo sự nên và kỵ, rất hỷ đất Thuỷ, Mộc, Hoả, Thuỷ trợ tỷ, Mộc tiết tú, Hoả sinh tài, 4 đến 13 tuổi Bính Thìn, Hoả Thổ giao nhau, lo mừng một nửa.
14 đến 23 tuổi Đinh Tỵ, Can Chi đại vận đều Hoả có thể bói ra mừng lo, 19 tuổi Kỷ Hoả là đàn mã, lại tương hình với chi giờ Dần Mộc, nên bỗng đi về nơi khác. Thiên khí tương nói: “Dịch mã mang kiếm (ngựa không cương), sơn đẩu văn chương, tiêu sái xuất trần” nên sáng tác phong phú, một thời nổi danh.
24 tuổi đến 43 tuổi, đại vận Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, tuy nhiên ý văn tuôn chảy, tài vận không ngừng, nhưng do bình sinh tối kỵ phương Mậu, Kỷ, cho nên phu tinh không lộc, nói không hết nỗi chua ngọt đắng cay, như con chim nhạn cô độc bên trời
44 tuổi đại vận Canh Thân, Kim khí triệt địa thấu thiên, hung thần giáng lâm, Kim lai phạt Mộc, dụng thần tan vỡ. Năm ngoái (1990) Canh Ngọ nguyệt thấu Mậu can, song Canh khắc Mộc, sao không chết được”. Trong Huyền cơ phú nói: vận quý lấy ở Chi, sao lại đi cầu ở Can”, cho nên Mậu, Kỷ, Canh, được Thổ, Kim che đầu càng đáng lo vậy. Hoa cái ở Mùi vận, thấy văn chương của nữ sĩ Tam Mao đã đạt đỉnh cao.
Tóm lại, xem sự nghịch thuận của tạo hoá, mệnh cục thanh tú vô cùng, anh hoa phát tiết, nhưng đường vận lại không soi đẹp mệnh cục, tiếc thay, đáng lẽ nguồn thanh mà đục vậy.
Lại như Viên Thụ Sách trong Mệnh lý thám nguyên đã đoán mệnh cho tỳ khưu nào đó:
Năm Giáp Thân Tháng Tân Mùi Ngày Kỷ Mùi Giờ Giáp Tý An mệnh Giáp Tuất, 10 tuổi khỏi vận, đại vận như sau:
10 Nhâm Thân 20 Quý Dậu
30 Giáp Tuất 40 Ất Hợi
50 Bính Tý 60 Đinh Sửu
70 Mậu Dần 80 Kỷ Mão
Để giữ nguyên được phong cách, lấy lời phê của ông họ Viên ở trong sách như sau: Kỷ hợp với Giáp, chính ngũ hành thuộc Thổ tức hoá khí ngũ hành cũng thuộc thổ việc hoá Thổ này sau tiết tiểu thử một ngày, xích đế đương nắm quyền, Thổ vượng chưa dụng sự, cách cục tuỳ đẹp, nhưng tinh thần không đủ, lại gặp chi Thân tàng Canh, ám địa hoá Kim để tiết Thổ khí, càng khó nói là đạt chức công khanh, may mà giờ đão không vong mà hội Thiên Ất, bẩm tính thông minh, dù rằng ký sinh ở tĩnh Thổ, cơ duyên tấu hợp, càng ứng đắc chí nhân sa môn, nếu lại có công khắc trị, khó tránh khỏi phân tranh trong trần tục, sẽ giành được chân tính bẩm sinh, há không diệu kỳ sao. Trước 20 tuổi, tiền đồ trắc trở, gặp nhiều khó khăn. Từ 21 tuổi giao Quý vận, gió xuân ấm áp con người thư thái, 26 tuổi giao Dậu vận, ngoài tròn trong khuyết, người mới được biết, 30 tuổi cùng thái tuế xung khắc, hoa lan hoá thành gai góc, tiếc thay: Ngày 16 tháng 7 năm 31 tuổi giao Giáp vận, mở ra bầu trời sáng sủa, năm 36 tuổi giao Mậu vận, ngoài bị tai hoạ của năm 37 tuổi ra, còn 4 năm sau đều ở vườn cực lạc, 41 tuổi giao Ất vận, phải giữ mình đừng có tham lam, 46 tuổi giao hội vận, tiếp theo Bính vận, Tý vận, 15 năm hạnh phúc vô cùng, 61 tuổi giao Đinh vận, chống đối cực hình với cách hoa Thổ, lúc này bay đã mỏi, cần phải lưu ý, thọ ngoại lục tuần”.
Về lời phê đại vận của mệnh này, nhà mệnh lý học Đài Loan thời nay còn tổng hợp phân tích, phê rất kỹ càng để thảo luận thêm về học thuật, ở đây chúng tôi trích dẫn một ví dụ ghi trong Tử Bình bát tự đại đột phá:
Mệnh Càn, sinh giờ Sửu ngày 2 tháng 10 năm Tân Mùi (nông lịch) 1931.
Năm Tân Mùi Tháng Kỷ Hợi
Ngày Canh Ngọ Giờ Đinh Sửu
1 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
1 Canh Tuất 11 Đinh Dậu
21 Bính Thân 31 Ất Mùi
41 Giáp Ngọ 51 Quý Tỵ
Dưới đây triển khai phân tích
1. Phân tích sức sinh tồn của can ngày cao hay thấp
Canh Kim sinh tháng Hợi, lệnh khí là hưu tháng 10 Canh Kim khí hàn
Can năm Tân, can tháng Kỷ, chi năm Mùi, chi giờ Sửu sinh trợ.
Can giờ Đinh Hoả, chi ngày Ngọ Hoả khử hàn nói tóm lại, ngày sinh Canh Kim tinh thần sung sướng, khí lực không nhược, có thể nhậm tài quan.
2. Phân tích sức sinh tồn của chính quan
Can tháng Đinh Hoả sinh tháng Hợi, lệch khí là tử can tháng Đinh Hoả được chi ngày Ngọ Hoả sinh trợ, mọi cái được khắc tiết.
Nói tóm lại, lực lượng chính quan không mạnh nhưng cũng không yếu.
3. Phân tích sức sinh tồn của thiên tài
Trong chi tháng Hợi tàng Giáp, Giáp sinh tháng Hợi, lệch khí là tướng
Trong chi tháng Hợi Nhâm Thuỷ sinh trợ, mọi thứ đều khắc tiết
Nói tóm lại, lực lượng thiên tài không mạnh, thiên về suy nhược
4. Phân tích kết câu của 4 chi
Trụ năm và trụ giờ thiên khắc địa xung, trụ năm và trụ ngày nhất cấp tương phù
5. Phân tích hoàn cảnh xuất thân
Tra xem sức sinh tồn can ngày của sơ vận cao hay thấp sơ vận Mậu Tuất, Mậu sinh Tân, trợ Kỷ, sinh Canh tiết Đinh, Tuất trợ Mùi, khắc Hợi, tiết Ngọ, trợ Sửu. Tóm lại, can ngày Canh Kim khí cường mà Đinh Hoả hợi nhược, Giáp Mộc cũng suy nên biết hoàn cảnh xuất thân tạm được nhưng không phải là gia đình đại phú đại quý.
6. Phân tích về học thuật
Nguyên mệnh ấn thụ nhiều và sơ vận Mậu Tuất, nhị vận Đinh Dậu đều không thương khắc ấn thụ nguyên mệnh, biết được lúc nhỏ cố gắng học hành.
Nguyên mệnh Đinh, chi Ngọ tàng can thấu điều hậu, mệnh cục ấn lạnh, khô ẩm trung hoà và sơ vận Mậu Tuất, nhị vận Đinh Dậu không thương khắc Đinh, Ngọ, nên liết lúc nhỏ văn hay chữ giỏi.
Nguyên mệnh thực thần bị hạn chế nhưng nhị vận Đinh Dậu trợ thực thần, nên biết từ 11 tuổi đến 20 tuổi trí tuệ mở mang.
16 tuổi lưu niên Bính Tuất, đại vận Đinh Dậu, Bính, Đinh trợ Đinh Hoả, Mậu, Dậu trợ can ngày, lưu niên không ác, nên vận thi cử đẹp.
19 tuổi lưu niên Kỷ Sửu, đại vận Đinh Dậu, Kỷ Sửu trợ Canh, tiết Đinh, Đinh Dậu làm nhược Canh, trợ Đinh, lưu niên bình thường, nên thi cử bình thường. Nói tóm lại, học lực người này hẳn giỏi.
7. Phân tích về nhân duyên
21 tuổi đến 30 tuổi Bính Thân đại vận, Thân sinh Nhâm thuỷ trong Hợi. Nhâm sinh Giáp, thực thần sinh tài, tâm tính bắt đầu phù động.
23 tuổi lưu niên Quý Tỵ, Tỵ Ngọ Mùi tam hội, trong Mùi tàng Ất, Ất là thê tinh, tinh cung đồng hợp, năm này bạn gái đến nhà.
25 tuổi lưu niên Ất Mùi, Ất Canh hợp, Ất là thê tinh, Ngọ Mùi hợp, tinh cung đồng hợp, có người khác giới vào nhà.
30 tuổi lưu niên Canh Tý, Bính Tân hợp, Bính là tử tinh, Tý Sửu hợp, sinh con.
Tóm lại, mệnh này 25 tuổi lưu niên Ất Mùi, có nhiều khả năng lấy vợ.
8. Phân tích về bố mẹ
Chính Mão Kỷ Thổ sinh tháng Hợi, Đinh Ngọ Sửu Mùi tương sinh, chính ấn không nhược, thiên tài sinh tháng Hợi, toàn cục phát tiết, thiên tài suy nhược, mẹ thọ cao hơn bố.
Kỷ đến sinh Canh, chính ấn sinh ngày sinh không coi là kỵ, mẹ yêu thương, nhất là ở hai vận Đinh Dậu, Bính Thân, tình mẹ con thương yêu càng sâu nặng.
Nguyên mệnh thiên tài Giáp Mộc tương đối yếu, sức ảnh hưởng của can ngày không lớn, có thể bỏ qua không bàn, nên tình cảm bố con nhạt nhẽo như nước, khó nói là thân hay sơ.
Đại vận Bính Thân, Thân Hợi hại nhau, 23 tuổi lưu niên Quý Tỵ, Tỵ Hợi xung, trong Hợi tàng Giáp, Giáp là bố, bố con vì thế xa nhau.
Đại vận Bính Thân là thời kỳ lập nghiệp, Bính trợ Đinh, Thân tiết Sửu, lúc này lực lượng quan tinh Đinh Hoả được tăng cường, đúng là thòi cơ can tháng Kỷ Thổ trợ can ngày, nên không phải tay trắng mà nên cơ nghiệp, chính ấn ở can tháng, thiên tài ở chi tháng, mẹ đứng ở vị trí mẹ, bố đứng ở vị trí bố, phẩm chất đạo đức bố mẹ tiết tháo, phải là người hiền lương chân chính.
9. Phân tích về vợ chồng
Trong mệnh chính tài yếu nhỏ, tàng ở tài khố, can năm thâu kiếp, sức ảnh hưởng của chính tài đối với chính can có thể bỏ qua không bàn, tình cảm vợ chồng bình lặng như nước.
Nguyên mệnh Can ngày Canh Kim phùng Kỷ, Tân, Mùi, Sửu tương sinh, Thân cường có thể nhậm quan, chi ngày phùng quan tinh, vợ có sự giúp sức, Ất Mùi đại vận, Ất Canh hợp, Ngọ Mùi hợp, có ngoại tình, Giáp Ngọ đại vận, Ngọ Ngọ tự hình, 43 tuổi lưu niên Quý Sửu, Sửu Mùi xung, trong Mùi tàng Ất, Ất là thê tinh, vợ chồng vì thế phân ly.
10. Phân tích về giàu sang
Nguyên mệnh Thân cường, quan tinh không nhược, tài sinh quan tinh, mệnh sang mà không giàu.
Bính Thân đại vận, Bính trợ Đinh, Thân tiết Sửu, Thân cường quan cũng cường, vận sang đến người.
Ất Mùi đại vận, Ất khắc Kỷ, sinh Đinh, Mùi trợ Mùi tiết Ngọ, khắc Hợi, vẫn thân cường quan cũng cường, quan vận thuận buồm xuôi gió.
Giáp ngọ đại vận, Giáp khắc Kỷ, sinh Đinh, Ngọ sinh Mùi, trợ Ngọ, sinh Sửu, vẫn là Thân cường quan cũng cường, quan trường thuận lợi.
Quý Tỵ đại vận, Quý tiết Canh, phá Đinh, Tỵ sinh Mùi trợ Ngọ, sinh Sửu, vẫn là thân cường quan cũng cường, quan trường vẫn là có lợi, nhưng Dần ở thế đi xuống Nhâm Thìn đại vận, Nhâm tiết Canh Tân, khắc Đinh Thìn tiết Ngọ, trợ Mùi, trợ Sửu, Thân cường quan tinh nhược, quan trường không lợi, điều ra tiếng vào.
11. Phân tích về thị phi họa hiểm
Quý Tỵ đại vận, đại vận cùng đề cương thiên khắc địa, xung, thân thể bắt đầu xuống dốc
53 tuổi lưu niên Quý Hợi, Quý thương Đinh, Hợi thương Ngọ, quan tinh dụng thần mà bị thương, bị tai hoạ về điều tiếng. Nguyên mệnh Giáp Ất suy nhược, Giáp Ất thuộc gan mật nên biết gan mật bị yếu. Từ 11 đến 30 tuổi, Thân Dậu khắc Giáp Ất, gan mật càng suy nhược hơn.
12. Những cái khác
Nguyên mệnh Thổ khí nặng, Thổ thuộc sắc vàng, tâm tính tự nhiên thích gần những màu sắc vàng như quần áo màu vàng, đồ dùng màu vàng, vùng đất vàng nguyên mệnh chính quan quân chế thích đáng khiến cho con người biết tự răn, tự quản, không vượt qua nghi lễ nguyên ấn thụ không nhược, cá tính hướng nội. Ngoài những điều này ra, có nhiều cách tính giản đơn cô đọng, ở đây chúng tôi nêu lên mấy ví dụ của nhà mệnh lý học thái Ất Tử Châu.
a. Chân Tá sinh giờ Mùi ngày 4 tháng 7 năm Kỷ Mão 1939
Năm Kỷ Mão Tháng Nhâm Thân
Ngày Đinh Hợi Giờ Đinh Mùi
3 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
3 Tân Mùi 13 Canh Ngọ
23 Kỷ Tỵ 33 Mậu Thìn
43 Đinh Mão 53 Bính Dần
63 Ất Sửu 33 Mậu Thìn
43 Đinh Mão 63 Ất Mùi
Ngày sinh Đinh Hoả, địa chi Hợi, Mão, Mùi hợp thành Mộc cục. Thiên can Đinh Nhâm lại hợp mã hoá Mộc, bệnh ở chi tháng Thân Kim gây ngạnh, cho nên lấy già theo cường, Đinh Mão, Bính Dần, Ất Vận đều đẹp, Sửu vận thường.
b. Hồng Tả sinh giờ Ngọ ngày 11 tháng 6 năm Nhâm Ngọ 1942
Năm Nhâm Ngọ Tháng Đinh Mùi
Ngày Đinh Sửu Giờ Bính Ngọ
5 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
5 Mậu Thân 15 Kỷ Dậu
25 Canh Tuất 35 Tân Hợi
45 Nhâm Tý 55 Quý Sửu
Đinh Hoả là tư lệnh, Đinh trong Bát tự minh ám nhiều, có thể từ cường mà tính, đại lợi ở phương nam, 45 tuổi Nhâm vận, Đinh Nhâm có thể hoá Hoả, mở mày mỏ mặt, 49 tuổi Tý vận không hề gì, vì Tý Sửu tương hợp là Thổ, có thể chống lại thuỷ, chỉ có 55 tuổi Quý Sửu thì vận bình ổn, thân cư nam phương, có thể giảm trở ngại.
c. Hồ Tá năm 1955 Ất Mùi
Năm Ất Mùi Tháng Mậu Dần
Ngày Đinh Dậu Giờ Quý Mão
1 tuổi khởi vận, đại vận như sau:
1 tuổi Đinh Sửu 11 Bính Tý
21 Ất Hợi 31 Giáp Tuất
41 Quý Dậu 51 Nhâm Thân
Giáp Ất thành rừng, quan suy ấn vượng, hỷ ở Mậu Thổ tư lệnh càng có chi ngày Dậu, dược tài phá ấn, bát tự thượng thừa. Nhưng thuỷ địa bắc phương, thiếu thiện bày ra, đất Kim tây phương từ nay về sau có thể làm nên, chọn thiện mà theo, tiến trình không hạn độ.
d. Kim Hữu sinh giờ Hợi ngày 12 tháng 4 năm Nhâm Dần (nông lịch) 1962
Năm Nhâm Dần Tháng Ất Tỵ
Ngày Quý Sửu Giờ Quý Hợi
3 tuổi khỏi vận, đại vận như sau:
3 tuổi Giáp Thìn 13 Quý Mão
23 Nhâm Dần 33 Tân Sửu
43 Canh Tý 53 Kỷ Hợi
Quý thuỷ sinh vào tháng Tỵ, Canh Kim tư lệnh, thuỷ nhiều phùng Kim, thiên hành kiện vượng, coi là cường. Rất hỷ thực thương thông căn, phùng Mộc tất phát, trên đường đi đến Dần, Mão, có thể phấn phát mã cường, có thể tự lập Canh sinh, xanh chuyển sang lam. Trên đường vận Tân Sửu, Canh Tý, do Kỷ củng cố được cơ sở, không đáng lo, vận cuối hanh thông, sau khi được mệnh, hoàn cảnh càng đẹp, thông, sau khỉ biết được mệnh, hoàn cảnh càng đẹp.
e. Lăng Hữu sinh giờ Thân ngày 7 tháng 10 năm Nhâm Dần 1962
Năm Nhâm Dần Tháng Canh Tuất
Ngày Ất Tỵ Giờ Giáp Thân
8 tuổi khởi vận, đại như sau:
8 Kỷ Dậu 18 Mậu Thân
28 Đinh Mùi 38 Bính Ngọ
48 Ất Tỵ 58 Giáp Thìn
Mậu Thổ tư lệnh, Giáp Mộc tiến khí, tháng 9 Ất Mộc, gốc khô lá rụng, phải dựa vào Quý thuỷ nuôi dưỡng, giờ phùng Giáp Thân, giây rợ tụ Giáp. Tứ trụ Ất canh tác hợp, Tỵ Thân lại hợp, khôn mệnh không nên. Sự nghiệp còn được, hôn nhân khó khăn, vận đẹp phải ở sau khi biết mệnh, còn có thể nhận định thắng thiên.
Xin nói thêm, xem đại vận ngoài kết hợp ngũ hành nên và kỵ ra, còn có một cách nói: năm quản tuổi thiếu niên, ngày tháng quản trôi trung niên, giờ quản tuổi lão niên”. Cách nói này, trong Tam mệnh thông hội quyển 2 còn nói cụ thể “lấy tháng sinh làm sơ hạn, quản 25 năm, lấy ngày sinh làm trung hạn quản 25 năm, lấy giờ sinh làm cuối hạn quản 50 năm”.
Cách xem đại thể lấy can ngày làm điểm xuất phát, trong đó can chi trụ năm là hỷ thần dụng thần thì tuổi trẻ phát đạt, là kỵ thần thì tuổi trẻ khốn khổ, can chi ngày tháng là hỷ thần thì trung niên hanh thông, là kỵ thần thì trung niên trì trệ, can chi giờ là hỷ thần thì cuối đời rơi rụng cô đơn. Nhưng nói chung cho rằng, cách xem này so với cách tính đại vận thì giản đơn hơn chút ít.
Ngoài đại vận ra, lưu niên và mệnh cung tốt hay xấu, đều từ thiên can trụ ngày xuất phát mà tiến hành luận đoán tỷ mỷ về nên hoặc kỵ của ngũ hành. Nên là cát là vinh, kỵ là hung là khô. Điều không nên quên là, lúc xem lưu niên, còn phải đặt lưu niên vào trong đại vận để quan sát và phân tích. Đại vận cát mà lưu niên cát, năm đó đại cát; đại vận cát mà lưu hung không gây đại hung, đại vận hung mà lưu niên cát, khó giữ được đại cát. Sức mạnh của đại vận đủ để phò tá lưu niên. Lấy ví dụ, đại vận tốt so như sông lớn, lưu niên. Lấy ví dụ, đại vận tốt so như sông lớn, lưu niên tốt so như sông nhỏ, sóng lớn nước đầy, sông nhỏ nước cũng cạn. Thuỷ thế của sông lớn đủ để ảnh hưởng sông nhỏ mà thuỷ thế của sông nhỏ khó lòng ảnh hưởng sông lớn.
Còn có một cách xem lưu niên và mệnh cung kết hợp. Cách xem lưu niên trước tiên lấy “thái tuế’ gặp năm luân lưu làm đầu. Nếu mệnh cung gặp cát thần của năm lưu niên, năm ấy được phúc, nếu gặp hung sát, năm ấy gặp hoạ”. Do những thần sát này phân bố Tý, Sửu, Dần, Mão trong vòng 12 năm, mỗi năm đều không giống nhau, cho nên đối chiếu với mệnh cung để xem, cát hung của mỗi năm cũng khác nhau. Nhưng do những thần sát này hung nhiều cát ít và phương pháp lại thô thiển giản đơn, cho nên Viên Thụ Sách trong Mệnh lý thám nguyên đã chỉ trích cách xem này. Ông nói: hung sát có đến 9 phần 10, cát thần chỉ có 1 phần 10, ai cũng biết là không thích hợp. Bỏ lẽ can chi ngũ hành sinh khắc đi, mà áp dụng lý lẽ hư vô này thì chẳng chút hiệu nghiệm. Đến các nhà mệnh lý học đều không tin, thì thấy nó hoang đường đến mức nào.
Nói đến “thái tuế”, đại thể có hai tình hình, một loại là trụ năm trong tứ trụ gọi là thái tuế của năm sinh, một loại khác là từng năm luân lưu đi qua gọi là du hành thái tuế. Thái tuế năm sinh quản suốt đời, còn du hành thái tuế thì mỗi năm du hành 12 cung để định cát hung hoạ phúc bốn mùa trong năm, về du hành thái tuế, trong Tam mệnh thông hội quyển 2 nói rằng: tuế làm tổn thương can ngày, có hoạ tất nhẹ, ngày phạm tuế quân, tai ương tất nặng”.
Tuế quân làm tổn thương ngày như Canh năm khắc Giáp ngày là Thiên quan, quân trị thần, bố trị con, tuy có tai ương không bị hại lớn. Tại sao? Trên trị dưới là thuận, tình của nó chưa tuyệt. Như ngày Giáp khắc năm Mậu là thiên tài, khác nào thần phạm đến quân, con phạm đến bố, rất là không lợi. Tại sao? Dưới xúc phạm trên, là nghịch, không tránh khỏi hung. Nếu ngũ hành có cứu, tứ trụ có tình, như ngày Giáp khắc năm Mậu, tứ chi có Canh Thân Kim, hoặc trong đại vận, cũng đem Giáp Mộc chế phục thuần tuý, không thể khắc Mậu Thổ thành được cứu. Có câu: “Mậu Kỷ luôn gặp Giáp , đầu can phải có Canh Tân” là như vậy.
Nguồn: Quang Tuệ
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Minh Tuyết (##)
Hướng bếp tuổi quý Hợi 1983:
Năm sinh dương lịch: 1983
– Năm sinh âm lịch: Quý Hợi
– Quẻ mệnh: Cấn Thổ
– Ngũ hành: Đại Hải Thủy (Nước biển lớn)
– Thuộc Tây Tứ Mệnh, nhà hướng Bắc, thuộc Đông Tứ Trạch
– Hướng tốt: Tây Bắc (Thiên Y); Đông Bắc (Phục Vị); Tây Nam (Sinh Khí); Tây (Diên Niên);
– Hướng xấu: Bắc (Ngũ Quỷ); Đông (Lục Sát); Đông Nam (Tuyệt Mệnh); Nam (Hoạ Hại);
=> ## cung cấp công cụ Xem ngày cưới chuẩn xác theo Lịch vạn sự |
Dựa theo tập tính của loài rắn, mối quan hệ sinh - khắc của 12 con giáp (tương sinh, tam hợp, tam hội...) và nghĩa của chữ tượng hình Trung Hoa - các bộ chữ, chúng ta có thể tìm ra các tên gọi mang lại may mắn cho người tuổi Tỵ.
Rắn thích ẩn náu trong hang, trên đồng ruộng hoặc ở trên cây và thường hoạt động về đêm. Vì vậy, có thể dùng các chữ thuộc các bộ Khẩu, Miên, Mịch, Mộc, Điền để đặt tên cho người tuổi Tỵ.
Những chữ đó gồm: Khả, Tư, Danh, Dung, Đồng, Trình, Đường, Định, Hựu, Cung, Quan, An, Nghĩa, Bảo, Phú, Mộc, Bản, Kiệt, Tài, Lâm, Tùng, Sâm, Nghiệp, Thụ, Vinh, Túc, Phong, Kiều, Bản, Hạnh, Thân, Điện, Giới, Lưu, Phan, Đương, Đơn, Huệ…
Rắn còn được gọi là "tiểu long" |
Rắn được tô điểm thì có thể chuyển hóa và được thăng cách thành rồng. Nếu tên của người tuổi Tỵ có chứa những chữ thuộc bộ Sam, Thị, Y, Thái, Cân - chỉ sự tô điểm - thì vận thế của người đó sẽ thăng tiến một cách thuận lợi và cao hơn.
Bạn có thể chọn các tên như: Hình, Ngạn, Thái, Chương, Ảnh, Ước, Tố, Luân, Duyên, Thống, Biểu, Sơ, Sam, Thường, Thị, Phúc, Lộc, Trinh, Kì, Thái, Thích, Chúc, Duy…
Tỵ, Dậu, Sửu là tam hợp. Vì vậy, những tên chứa các chữ Dậu, Sửu rất hợp cho người tuổi Tỵ. Ví dụ như: Kim, Phượng, Dậu, Bằng, Phi, Ngọ, Sinh, Mục, Tường, Hàn, Đoài, Quyên, Oanh, Loan…
Tỵ, Ngọ, Mùi là tam hội. Nếu tên của người tuổi Tỵ có các chữ thuộc bộ Mã, Dương thì thời vận của người đó sẽ được trợ giúp đắc lực từ 2 con giáp đó. Theo đó, các tên có thể dùng như: Mã, Đằng, Khiên, Ly, Nghĩa, Khương, Lệ, Nam, Hứa…
Rắn là loài động vật thích ăn thịt. Vì vậy, bạn cũng có thể chọn những chữ thuộc bộ Tâm, Nhục - có liên quan đến thịt - để đặt tên cho người tuổi Tỵ. Các tên đó gồm: Tất, Chí, Cung, Hằng, Tình, Hoài, Tuệ, Dục, Hồ, Cao, Hào, Duyệt, Ân, Tính, Niệm…
Rắn còn được gọi là “tiểu long” (rồng nhỏ). Do vậy, những chữ thuộc bộ Tiểu, Thiểu, Thần, Sĩ, Tịch… cũng phù hợp với người tuổi Tỵ. Những tên bạn nên dùng gồm: Tiểu, Thiếu, Thượng, Sĩ, Tráng, Thọ, Hiền, Đa, Dạ…
(Theo Bách khoa thư 12 con giáp)
nhé.
Thời gian: tổ chức từ ngày 4 tới ngày 6 tháng 1 âm lịch (Chính hội là ngày 4 tháng 1).
Địa điểm: Phường Mai Động, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tưởng niệm và nghi nhớ công ơn của thành hoàng làng là vị tướng Tam Trinh (người đã cùng hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân Tô Định, thu phục 65 thành trì).
Nội dung: vào sáng ngày mùng 4 tết hàng năm, nhân dân phường Mai Động thường tổ chức lễ rước rất trọng thể tướng Tam Trinh. Đặc biệt, để ghi nhớ truyền thống hào hùng, nhân dân Mai Động còn mở hội vật vào các ngày mùng 4-5-6 tháng Giêng. Trước đây, cứ kết thúc cuộc rước và tế cáo Yết Thành Hoàng, thì các cuộc đấu vật được diễn ra trên Đống Vật.
2. Hội Làng Bối
Thời gian: Tổ chức từ ngày 4 tới ngày 6 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Hải Bối, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: nhằm suy tôn ba vị thành hoàng làng là: Triệu Nguyên, Triệu Chính, Triệu Lệnh.
Nội dung: Trong hội làng Hải Bối, sau màn tế lễ thánh thần là các hoạt động vui chơi dân gian như: cờ người, leo cột mỡ, hát tuồng, hát trống quân, hát giao duyên nam nữ, hai bên hát với nhau qua một sợi chỉ dài, nối với ống bơ được bịt bằng da ếch, gọi là hát Ống. Trò hát đối giao duyên này thu hút được đông đảo các nam thanh nữ tú.
3. Hội Đền Xuân Lai
Thời gian tổ chức: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Thôn Xuân Lai, xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vị Thánh Gióng.
Nội dung: Hội đền lễ cúng dâng hương lên thánh thần trong một không khí trang trọng. Tiếp đó là phần hội có các trò chơi dân gian như: lấy nước, kéo lửa, thổi cơm thi, cướp cờ và trò kéo Mỏ (Mỏ ở đây là hay cây tre bánh tẻ thật thẳng róc sẵn chỉ để lại tay tre ở gần gốc tạo thành chặc).
Hai đội nối chạc vào nhau rồi ra sức kéo cho tới khi phân rõ thắng thua.
4.Hội Chùa Trăm Gian
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Chùa Trăm Gian, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn Phật và Đức thánh Nguyễn Bình An.
Nội dung: Mở đầu hội chùa Trăm Gian là lễ rước kiệu thánh, rước nhang án, rước giá cỗ (Bánh trưng, bánh giầy của nhà chùa)... xuống núi và tế ở Quán Thánh giữa đồng, nơi có dấu chân Thánh về quê xin tương cà. Ngoài ra trong hội còn tổ chức thi cỗ chay và các trò chơi dân gian như đấu vật, múa rối dưới nước... Đặc sắc nhất là đánh cờ người được tổ chức trên sàn nổi ở giữa hồ bán nguyệt trước cửa chùa. Cuộc thi cờ này thu hút rất nhiều kì thủ ở gắp nơi. Đây là cuộc so tài đọ trí giữa các kì thủ lừng danh trong thiên hạ. Đây không chỉ là cuộc thi tài giữa các kì thủ mà còn là một nghi thức thiêng liêng trong lễ hội.
5. Hội Làng Miêng Hạ
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Làng Miêng Hạ, xã Hoa Sơn, huyện Ứng Hòa, tĩnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội).
Nội dung: Hội làng được khai hội vào giờ thìn, bằng một tiếng pháo lệnh. Khi nghe tiếng pháo lệnh nổ thì ba nơi: đền Thạch (của Giáp trạch, Giáp trù), đền Đông (của Giáp Đông, Giáp Tây), đền Thượng (của Giáp Thượng, Giáp Đình) sẽ nghênh kiệu tụ ở đình. Mỗi nơi rước hai cỗ kiệu, trông đó có một kiệu rước cây bông, về đặt trước cửa đình để tế lộ thiên. Khi việc tế xong, hàng loạt cây pháo được đốt tạo nên một không khí sôi động, tiếng pháo mô phỏng tiếng sấm, lóe ra ánh chớp và tưởng như dào dạt những trận mưa dông không dứt tưới xuống làm cho mùa màng tươi tốt. Sau này người ta không tổ chức hội pháo nữa mà chủ yếu diễn trò ội ại. Trò ội ại còn gọi là trò cướp nõ xé bông. Hình cây bọng thực chất chỉ là hình ảnh tượng trưng của âm dương. Trai đinh các giáp cướp được nõ mang về thành kính dâng lên bàn thờ tổ Thần của các giáp ở đền. Sau một hồi tế tạ, họ mang nõ ra hóa đốt thành than trước sự reo vui của dân làng Giáp. Ai đó cũng đều quan niệm năm đó là một năm Giáp mình làm ăn gặp nhiều may mắn.
6. Hội Chùa Phật Tích
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh và ghi nhớ công ơn của phật Bà Quan Âm và vua Lý Thánh Tông.
Nội dung: Lễ hội chùa Phật Tích được tổ chức hàng năm là dịp nhân dân khắp nơi về hành hương lễ Phật, nghe giảng kinh. Đây còn là dịp mọi người cảm nhận sự thanh thản, nhẹ nhõm nơi cửa thiền và cầu mong được bình yên, an lành và hạnh phúc cho mọi người dâng hương tưởng nhớ vị vua Lý Thánh Tông.
7.Hội Đồng Kỵ
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Làng Đồng kỵ , xã Đồng Quang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đối tượng suy tôn: Nhằm suy tôn vị thành hoàng làng Hùng Huy Vương (một tướng giỏi của vua Hùng thứ 6 có công theo Thánh Gióng đánh giặc Ân xâm lược).
Nội dung: Hội Đồng Kỵ tổ chức lễ rước ông Quan Đám, đồng thời dân còn kết hợp làm lễ chúc thọ, lễ khao lão. Trước đây trong hội có tục rước pháo, nay người ta đổi thành rước mô hình quả pháo. Riêng phần hội có trò đấu vật, chọi gà, hát đối đáp, thi thổi cơm, thi đọc trúc văn bằng chữ Hán, chữ Nôm ca ngợi thành hoàng Làng.
8.Hội Làng Giàng
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, Tỉnh Thái Bình.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh công chúa Qúy Minh (Con vua Trần Duệ Tông).
Nội dung: Hội làng Giàng tái diễn lại hoạt động múa giáo cờ, giáo quạt (các điệu múa này đều do công chúa Qúy minh dạy khi xưa).
9.Hội Đền Dương Sơn
Thời gian: Tổ chức từ ngày mùng 4 tới ngày mùng 7 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: Thôn Từ Trọng, xã Hoằng Qùy, Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thành Hóa.
Đối tượng suy tôn: Nhằm tôn vinh công đức của vị Thành Hoàng Làng là Lê Phụng Hiểu - một danh tướng thời Lý.
Nội dung diễn ra: Mở đầu lễ hội hoạt động tế thần người ta chọn 48 nữ quan (là những cô gái xinh đẹp chưa chồng) để hát múa thờ và làm cỗ dâng Thánh. Riêng phần hội có hoạt động thi nấu cơm, đồ xôi, làm bánh, lạ, đẹp để dâng lên cúng Thánh. Không kém phần đặc sắc là việc diễn thờ: hát múa bài bông, hát trải (trên thuyền rồng), chèo cạn.
10. Hội Đua Thuyền Tịnh Long
Thời gian: Được tổ chức vào ngày mùng 4 tới ngày 5 tháng 1 âm lịch.
Địa điểm: xã Tịnh Long, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Nội dung: Từ khoảng giữa tháng Chạp người Tịnh Long đã sửa xoạn khuyên góp tiền bạc, để chuẩn bị cho lễ hội đua thuyền. Tịnh Long có 4 thôn (An Lộc, An Đạo, Gia Hòa, Tăng Long), mỗi thôn thành lập một hội đua không giống thuyền thường, với dáng thon và dài. Khi đóng thuyền, người ta phải chọn ngày lành tháng tốt. Mỗi thôn có một thuyền đua, được trang trí theo hình Long, Lân, Quy, Phụng. Thuyền đua được thở ở am miếu của thôn, hàng năm, đến kì đua mới được làm lễ hạ thủy, có cờ, trống rộn ràng và khi đua xong lại đưa về am miếu.
Ngày hội đua thuyền ở Tịnh Long thật sự là một lễ hội vui xuân lành mạnh, tưng bừng và náo nức.
Tuy nhiên, có nhiều tác giả cho rằng nhiều tương sinh chưa hẳn là tốt. Trái lại, có đối khắc trong các yếu tố chưa hẳn đã là xấu. Quan điểm này nói lên vấn đề nghịch hợp của qui luật Âm Dương Ngũ Hành. Ví dụ như có người dẫn chứng rằng người Mệnh Thủy cung Mệnh đóng ở Thủy, tại đó có nhiều sao Thủy hay sao Kim (Kim sinh Thủy) thì không chắc đã hay, dù các yếu tố tương sinh về Âm Dương Ngũ Hành đều có lợi cho đương mệnh. Lý do đưa ra quá nhiều nước thì làm úng Bản Mệnh, chỉ cần một số lượng nước vừa phải Bản Mệnh mới tồn tại và hưng vượng. Một ví dụ về đối khắc cho rằng Bản Mệnh là Hỏa đóng ở cung Kim, thông thường thì đối khắc, nhưng chính nhờ Hỏa khắc Kim mà Kim mới thành đại dụng (kim khí nhờ lửa mới được đúc rèn thành vật dụng thiết yếu). Cho nên, việc đối khắc này lợi cho đương số chớ không có hại. Một ví dụ khác nữa cho rằng trong một cung mà có sao Kim, sao Mộc, tất sao Mộc bị sao Kim khắc chế, nhưng, nếu có cả sao Thủy đồng cung thì, theo luận cứ của vài tác giả, sao Mộc sẽ vô hại, vì lúc bấy giờ, Kim bận lo sinh Thủy nên không lo khắc Mộc !
Qua những ví dụ đó, ai cũng thấy rằng qui luật hợp hay khắc của Âm Dương Ngũ Hành rất phức tạp, khả dĩ đưa đến một mê hồn trận không có lối thoát, vì chưa ai giải rõ được số lượng yếu tố tương sinh vừa phải, số lượng yếu tố tương khắc vừa đủ, trường hợp nào khắc mà hay, trường hợp nào sinh mà dở, trường hợp nào khắc mà không khắc, lý do nào bị khắc mà hóa ra không bị khắc v.v…
Trí óc con người có thể hình dung được sự bất lợi của thái quá đối với bất luận yếu tố nào của con người. Nhưng cho đến nay, ngay cả trong lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành và trong quan điểm của những tác giả thực nghiệm, chưa thấy có qui luật nào nói lên mức độ trung dung vừa phải. Dường như đây là vấn đề lượng định của mỗi cá nhân.
Trí óc con người cũng có thể hình dung được rằng sự khắc chế có nhiều cái hay cho con người và đời người, cụ thể như nghĩ rằng nghịch cảng có thể là một động lực thúc đẩy con người đấu tranh, do đó, sự đối khắc xét ra có ích để cho con người được trui rèn, ngõ hầu trở thành lão luyện, từng trải. Nhưng lối hình dung như vậy chỉ đúng được 1 phần vì 2 lẽ:
- Nghịch cảnh có thể làm lụn bại chí đấu tranh của cá nhân nếu đó là nghịch cảnh lớn và liên tiếp, quá sức chịu đựng của cá nhân.
- Mức độ nặng nhẹ của nghịch cảnh xuất phát từ sự đối khắc ngũ hành không thể qui định thích đáng cho mọi người và cho mỗi cá nhân. Vẫn có trường hợp 2 đối khắc ngũ hành là vừa đủ cho cá nhân này lại quá nặng cho một cá nhân khác.
Một lần nữa, đây cũng là vấn đề lượng định riêng của người giải đoán.
Đối với ví dụ sao Kim bận sinh cho sao Thủy nên không lo khắc chế sao Mộc đồng cung, thì đây quả là một lý luận đúng nửa chừng vì có người đối nại rằng sao Kim có thể chỉ lo khắc sao Mộc mà bỏ qua sao Thủy, hoặc là sao Thủy vì lo phù sinh cho sao Mộc nên sao Mộc hưng vượng sẽ không bị sao Kim khắc chế? Thành thử trên ví dụ đó, nhiều hướng luận đoán chớ không phải chỉ có một lý luận. Ai khẳng định tức là rơi vào phiến diện, từ đó có thể sai lầm.
Cho nên, vấn đề nghịch hay hợp giữa các hành còn thiếu sót. Không lý thuyết nào đủ sức đưa ra những lượng định (appréciation quantitative) và những phẩm định (appréciation qualitative) thỏa đáng, khả dĩ làm được việc này. Tất cả đều lệ thuộc sự thẩm định riêng rẽ của người giải đoán, may thì đúng, rủi thì sai. Đây là một nhược điểm trầm trọng của khoa Tử -Vi mà hậu quả sẽ đưa đến nhiều tranh chấp nan giải.
Phương Vị: Nam Đẩu TinhTính: DươngHành: ThổLoại: Tài Tinh, Quyền TinhĐặc Tính: Tài lộc, uy quyềnTên gọi tắt thường gặp: Phủ
Một trong 14 Chính Tinh. Sao thứ nhất trong 8 sao thuộc chòm sao Thiên Phủ theo thứ tự: Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân.
Vị Trí Ở Các Cung
Cưới xin là chuyện trọng đại cả đời người. Từ xa xưa, các cụ đã có lệ chọn ngày lành tháng tốt cho đôi trẻ nên duyên, cầu mong cho hai vợ chồng hôn nhân hạnh phúc, sung túc. Một năm có 12 tháng, cưới tháng nào thì tốt? Có nhiều người nói rằng, tháng nào cũng có thể tổ chức đám cưới, nhưng tuyệt đối không nên cưới trong tháng cô hồn, tức tháng 7 âm lịch.
Người xưa có câu “quân tử ái tài”, đối với tiền tài, mỗi người đều hi vọng càng nhiều càng tốt. Đứng trên góc độ xem phong thủy, ai cũng muốn tự thân vượng vận, chiêu tài, tăng thêm phúc lộc. Thực ra, vấn đề này không hề phức tạp, chỉ cần nhớ 3 lưu ý về cách chiêu tài theo phong thủy rất đơn giản dưới đây là đủ rồi.
Tử Vi thuộc âm thổ, chủ tinh của hệ Bắc đẩu. Về hiện tượng Tử Vi, đứng bậc chí tôn còn gọi là đế toà (như vị vua). Khi luận về Tử Vi, điểm tối trọng yếu là phải thấy được những sao phò tá cho chủ tinh này. Như cổ ca viết: Tử Vi nguyên thuộc thổ Quan lộc cung chủ tinh Hữu tướng vi hữu dụng Võ tướng vi cô quân (Sao Tử Vi vốn thuộc thổ Chủ quan tước quyền vị Có bề tôi thì mới hữu dụng Như vua mà không triều đình) Những sao tá tinh đứng ở đâu? Ở hai bên hoặc theo tam hợp chiếu gọi là giáp hay hiệp, hoặc đứng cùng. Tỉ dụ Tử Vi đứng giữa hai cung bên có Tả Phụ Hữu Bật Xương Khúc. hoặc Tử Vi cùng Tả Hữu đứng chung một cung, hoặc tam hợp xung chiếu là Tả Hữu. Tử Vi thiếu Tả Hữu là cô quân. Vua phải có quần thần mới thành quyền lực, mới uy nghi. Quần thần là những sao nào? Tả Phụ, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên Mã. Nếu không có quần thần lại còn gặp nhiều hung tinh tức là đế ngộ hung đồ (vua gặp kẻ cướp) hoặc “quân tử tại dã tiểu nhân tại vị” (vua bị đám gian thần tiểu quân uy hiếp). Đế tinh trở nên vô dụng còn gặp nguy hại nữa. Hung đồ tiểu nhân là những sao nào? Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Hỏa Tinh, Địa Không, Địa Kiếp, Tham Lang, Tuần Triệt. Đừng quên rằng những sao kể trên chỉ là hung đồ tiều nhân đối với Tử Vi thôi. Ở một số trường hợp khác, chúng lại thành cực tốt. Sách Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: Quần thần khánh hội, phú quí song toàn (vua tôi hợp hội giàu sang) Cách này là cách Tử Vi gặp đầy đủ sao phò trợ, như Tả Hữu làm tướng súy, Thiên Tướng Xương Khúc làm phụ tá, Khôi việt làm quan truyền lệnh, Thiên Phủ làm quan coi kho, binh lương, Lộc Mã làm quan giữ sổ bộ phong chức tước. Trong “Chư tinh vấn đáp”, Trần Hi Di tiên sinh viết: “Tử Vi là đế hoa ở mọi cung đều có khả năng giáng phúc tiêu tai, hóa giải những hung ác của các sao khác, khả dĩ chế ngự Hỏa Tinh, có năng lực biến Thất Sát thành quyền, hợp cùng với Thiên Tướng, Thiên Phủ đều thành sang quí, nếu không thế lực thì cũng giàu có, dù gặp Tứ Sát phá vẫn xem là trung cục hoặc bình thường chứ không đến mức thấp kém, hạ tiện. Sang đến “Cổ Ca” lại thấy một câu khác: “Tụ hội với Kình Dương Hỏa Linh biến thành loại ăn trộm, ăn cắp vặt”. Thế là thế nào? Hai câu mâu thuẫn nhau? Thật ra không mâu thuẫn. Tử Vi phải đi cùng với các sao tốt khác đã, rồi gặp Tứ Sát mới là trung cục. còn như gặp toàn sát tinh không tất nhiên thấp kém, hạ tiện. Trường hợp Tử Vi đứng một mình tại Ngọ cung và Tí cung (đứng Ngọ đẹp hơn) tất có Thiên Phủ Thiên Tướng chiếu lên hội họp, sách gọi bằng cách Cực Ưỡng Ly Minh (Cực là tên gọi khác của Tử Vi, Ly là cung Ngọ). Cách Cực Ưỡng Ly Minh dù không đến nỗi ra cái thân phận cô quân. Chỉ xem thê cung mà thấy nhiều đào hoa tinh thì dễ bị vợ lừa. Vào số nữ thì khác, thường chỉ là chồng kém mình trên địa vị học vấn hoặc tiền bạc. Phủ, Tướng trong cách “Cực Ưỡng Ly Minh” đã góp phần nào cho sự cân bình lực lượng chống với hung sát tinh. Căn cứ vào câu phú: “Tử Vi cư Tí Ngọ, Khoa Quyền Lộc chiếu tối vi kỳ”, Tử Vi Tí Ngọ gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì cán cân lực lượng ngã về Tử Vi, ác thế lực cũng phải nhường bước. Tử Vi thủ Mệnh an ở Ngọ Không Sát tinh chức có tam công Tử Vi Thiên Tướng đồng cung (Thìn Tuất) đương nhiên Thiên Phủ chiếu hội, nhưng cách cục này không hay bằng Tí Ngọ Tử Vi hội chiếu Phủ Tướng (Phủ Tướng triều viên). Tử Tướng Thìn hay Tuất hãm vào Thiên La địa Võng khó khăn hơn, nhất là vào số nữ không tránh khỏi vất vả. Tử Vi Phá Quân, Tử Vi Thiên Tướng thủ Mệnh nữ, việc trăm năm không suôn sẻ, lận đận chồng con. Tử Vi Phá Quân đóng Mệnh bị Liêm Tham Tỵ hoặc Hợi xung chiếu. Tử Vi Thiên Tướng đóng Mệnh, Phu cung Tham Lang hội Liêm Trinh ở Dần hoặc Thân. Liêm Tham là hai sao mang tính chất sắc tình rắc rối, bởi vậy nên vấn đề gia thất không êm. Bây giờ bàn riêng về Tử Vi Phá Quân. Tử Vi Phá Quân đi cặp chỉ thấy ở hai cung Mùi và Sửu. Phá Quân là sao xung phong hãm trận, đi với Tử Vi được tính như vị tướng dũng mãnh. Tử Vi ra hiệu lệnh, Phá Quân thi hành. Muốn khống chế Phá Quân, Tử Vi cũng cần một trí lực cao. Do đó Tử Phá đóng Mệnh bất luận nam hay nữ đều là con người quyết đoán, chí phấn đấu sôi nổi, can trường lì lợm, phiêu lưu, không thủ cựu, có đời sống hiếu động nhiều màu sắc. Số trai Tử Phá dễ đi vào chính giới hay quân giới nếu gặp cơ duyên. Được Hóa Quyền Tả Hữu Kình Dương là thành công. Tuy nhiên cuộc sống bôn ba thăng trầm. Tử Phá ra kinh doanh cũng đắc lực nhưng không bền vì nguyên tắc tiền bạc cần phải an định mới tụ để phát triển lớn. Tử Phá nữ mệnh, người đàn bà tháo vát, ngang ngạnh, bướng bỉnh, dám làm dám chịu, riêng về tình ái rất tùy tiện, tính dục mạnh. Sách mới có câu: Tử Phá Tham Lang vi chí dâm Kìa nữ mệnh xem tướng cách cuộc Tử Phá Tham hội ước đa dâm Tử Phá và Tử Vi Tham Lang (tức các Đào hoa phạm chủ). Nam mạng Tử Phá mà tuổi Sửu, Mùi, Thìn, Tuất vào quân giới chính trị hay hơn các tuổi khác (Qua kinh nghiệm thôi, sách vở không nêu lý do tại sao). Tử Phá nữ mệnh đối với hiện đại tốt hơn thời xưa vì hiện đại người đàn bà được trọng qua sự nghiệp hơn là qua hôn nhân theo quan niệm tự do phóng khoáng là hạnh phúc. Về cách Tử Vi Tham Lang đóng Mão và Dậu, cách này cổ thư gọi bằng Đào hoa phạm chủ. Tử Vi là chủ, Tham Lang là Đào hoa. Tham Lang ví như Đắc Kỷ, Tử Vi ví như Trụ Vương. Tham Lang như Tây Thi, Tử Vi như Phù Sai. Tử Tham nữ mạng đa tình hiếu dâm. Tử Vi nam mạng dễ rơi vào lụy tình, bẫy tình, dại gái, mê gái. Sách có câu: Tử Tham Mão Dậu gặp Kiếp Không, Kình Đà Linh Hỏa thường đi vào đường tu hành. Tu hành nên hiểu theo nghĩa khác nhau. Lão kỹ đầu thiền về già đi tu, hương nhang thờ cúng cũng kể làm thoát tục. Nhiều chồng rút cuộc nằm không cũng kể là tăng. Cả đời toàn gặp thất bại, lấy cho lắm vợ cuối cùng ngồi trơ thân cụ, đây là kết quả của Tử Tham Tứ Sát Kiếp Không trong Mệnh cung của lá số. Tử Tham Tứ Sát tâm thần sinh ra chán nản thường trực. Không cứ phải cạo trọc đầu hay khoác áo nhà tu mới là thoát tục, mới là tăng lữ. Cách Tử Tham nếu chỉ gặp Hỏa hay Linh tinh tránh được Kình Đà Không Kiếp thì tốt hơn. Trong khi cách Tử Vi Phá Quân gặp Linh Hỏa lại không tốt mà gặp Kình Đà lại hay, như câu phú: Tử Phá thủ Mệnh ngộ Dương Đà, tiện khứ kinh thương (hội Dương Đà vào kinh thương hoạnh phát) Cổ nhân còn đưa ra câu phú sau đây: Tử Vi ngộ Phá Quân ư Thìn Tuất Sửu Mùi tứ mộ cung, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu (Tử Vi gặp Phá Quân ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi làm bề tôi bất trung, làm con bất hiếu) Tử Vi Thiên Tướng tại Thìn hay Tuất đều gặp Phá Quân ở Tuất hay Thìn. Còn Tử Vi Sửu Mùi đương nhiên đứng bên Phá Quân. Tử Phá Sửu Mùi vào quân giới, chính trị đạt ước nguyện, hai giới này sự phản phúc bất trung chẳng khác gì chất dẫn hỏa chỉ chờ có lửa liền bốc cháy, bởi vậy không nên dùng người mang số Tử Phá làm tâm phúc. Tử Vi Thiên Tướng gặp Phá Quân ở cung xung chiếu cũng thế. Chỉ khác nhau ở điểm Tử Phá thì tự mình tạo phản còn Tử Tướng thì nghe theo người làm phản. Một đàng do tham vọng, mộg đàng gió chiều nào ngả chiều ấy. Còn vấn đề làm con bất hiếu? Bản chất con người Tử Phá không bao giờ chịu ước thúc trói buộc, làm việc chỉ hoàn toàn tự ý, vì lợi hay vì vợ dụ mà bất hiếu do cái lòng ích kỷ và ba phải. Số nữ Tử Phá thủ mệnh bậc làm cha mẹ phiền lòng hơn Tử Tướng. Số nam ngược lại Tử Phá bướng, phiêu lưu, gây tai tiếng, gây xáo trộn, phá rối kỷ cương nhưng một ngày nào đó thành công. Nam mạng Tử Vi Thiên Tướng, phụ mẫu cung Thiên Lương hãm tại Tị hoặc Hợi. Thê cung Tham Lang bất hiếu nặng hơn như mê vợ mà quên công ơn sinh thành (Thê hội chiếu Đào Hoa), hoặc bỏ quê hương gia đình lưu lạc, hoặc phụ mẫu sớm xa trần thế, muốn ân trả nghĩa đền không được. Tử Vi Thiên Tướng không thành công bằng Tử Phá. Sách ghi câu:”Tử Vi Thìn Tuất ngộ Phá Quân, phú quí hư danh”. Hư danh là không thực, hão huyền. Nói đến Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung. Cách này hiện lên chỉ ở hai cung Dần và Thân. Phú ghi mấy câu: Tử Vi Nam Hợi Nữ Dần cung, Nhâm Giáp sinh thân phú quí đồng Tử Vi Thiên Phủ toàn y Phụ Bật chi công Tử Phủ đồng cung chung thân phúc hậu Tử Phủ, Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoán định công hầu khí Câu thứ nhất Tử Vi Nam Hợi không có Thiên Phủ đồng cung, đó là cách Tử Vi Thất Sát với cung xung chiếu là Thiên Phủ. Chỉ có Dần cung mới đứng cùng Thiên Phủ thôi. Vậy thì số gái Tử Phủ mà tuổi Nhâm Giáp giàu sang là bởi tại tuổi Giáp Lộc Tồn đóng Dần, hội với Hóa Lộc đứng bên Liêm Trinh và Hóa Khoa đứng với Vũ Khúc. Hội đủ Khoa Quyền Lộc: tuổi Nhâm Quyền Khoa ngay tại mệnh và Lộc Tồn nhị hợp từ Hợi. Câu hai còn như gấm thêm hoa, đã Khoa Quyền Lộc còn cả Tả Hữu càng đẹp, đã sang trọng giàu có còn quyền thế. Câu ba ý chỉ dù không phải là tuổi Giáp Nhâm cũng có đời sống bình ổn vững vàng. Câu bốn nói Tử Phủ đồng cung tại Thân tốt hơn tại Dần, vì Thân thì Thái Dương Thái Âm đắc địa trợ giúp cho vận trình, trong khi ở Dần, Thái Dương Thái Âm vào thế hãm (chỉ riêng cho tuổi Giáp). Có một luận cứ đáng ghi nhận nói: Tử Phủ đồng cung hội tụ cả hai chủ tinh Bắc và Nam đẩu, như vậy thái quá nên dễ cô đơn. Trường hợp Mệnh Phụ Mẫu, Phu chịu ảnh hưởng Cô Thần Quả Tú càng nặng dễ ly hôn, góa bụa hoặc sớm khuyết cha mẹ. Chuyển qua cách Tử Vi Thất Sát. Cách này chỉ hiện lên ở hai cung Tỵ và Hợi. Trần Đoàn tiên sinh viết: Tử Vi năng hóa Thất Sát vi quyền. Tử Vi đứng bên Thất Sát thế vị oai nghiêm, hùng tâm vạn trượng, như vị hoàng đế xuất chinh có bầy tướng giỏi. Tử Vi Thất Sát khả năng hành động cũng như khả năng suy tưởng kế hoạch đều giỏi, tham vọng cao , vào bất cứ lãnh vực nào học vấn, kinh doanh, chính trị, quân sự, kỹ nghệ đều được. Thành tựu lớn hay nhỏ, cao hay thấp còn tùy thuộc các phụ tinh. Nếu nhiều phụ tinh tốt thì chức trọng quyền lớn, địa vị chức nghiệp khả kính. Tử Vi Thất Sát có Hóa Quyền thế lực càng lớn. Phú nói: Tử Vi Thất Sát Hóa Quyền phản tác tinh tường (Tử Sát mà gặp Hóa Quyền lại thành hay đẹp). Tại sao dùng hai chữ phản tác? Bởi tại Tử Vi không Thất Sát mà chỉ Hóa Quyền tự mình không điều khiển được Quyền sẽ đưa đến hung hiểm Tử Vi hợp với Lộc Khoa Khôi Việt Tả Hữu hơn đứng riêng với Hóa Quyền. Tử Vi Thất Sát thủ Mệnh gặp Tuần Triệt ưu thế bị giảm nhiều, thành công với hư vị, không có thực quyền. Như phú nói: Tử Vi Thất Sát gia không vong, hư danh thụ ấm. Tử Vi Thất Sát vào số Nữ thường được chồng nể vì do tài điều khiển gánh vác. Nhưng Tử Sát nam mạng thì vợ quán xuyến Vai trò Thiên Phủ từ cung xung chiếu của cách Tử Vi Thất Sát chỉ là phụ họa vào cái tốt đã sẵn thôi. Về hình thái và tính nết của Tử Vi có những điểm sau: Tử Vi người đầy đặn, mặt vuông vắn hoặc tròn. Tử Vi có một sở đoản trên tính tình, ưa nghe lời phiến động, khoán nịnh, đôi lúc kiêu căng và dễ phụ hội với kẻ quyền thế, hay biến tâm, bản chất tương đối trung hậu nhưng khí lượng hẹp hòi, thiếu anh hùng bản sắc.Có khuynh hướng năm thê bảy thiếp. Trong Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có đoạn viết: Tử Vi viên hội cát tinh lâm Nhị hạn phùng chi phúc lộc hưng Thương nhân đắc ngộ đa tài phú Quan quí phùng chi chức vụ thăng Tử Vi nhập hạn bản vi tường Chỉ khứng tam phương Sát Phá Lang Dân thứ phùng chi đa bất lợi Quan viên lạc hãm hưu kinh thương Nghĩa là:”Vận hạn gặp sao Tử Vi, thương nhân phát tài, làm quan thăng chức. Tử Vi là sao đem may mắn đến. Nhưng nếu gặp thêm với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang thì lại không tốt. Kẻ dân giã bất lợi, người chức vị khó khăn.
Sát Phá Tham đây là Tử Sát, Tử Phá và Tử Tham ở cung vận hạn. Không hẳn gặp những sao ấy sẽ bất lợi với khó khăn. Vì Tử Sát, Tử Phá thường gây ra biến động. Thời xưa con người sợ biến động, nhưng thời nay biến động là cần thiết. Thấy Tử Sát, Tử Phá ở vận trình hoặc tiểu hoặc đại vận mà hay tốt lên thì mừng chứ sao lại lo ngại. Những câu cổ ca trên không lấy gì là đúng cho hiện đại. Về sao Tử Vi còn thấy những câu phú khác không ghi trong toàn thư mà của những nhà tướng số đời sau ghi lại qua kinh nghiệm. - Đế toạ ly cung Tam Kỳ Hình Ấn Khôi Xương Hồng Bật, mỹ mạo tài hung, hạn hữu Cự Sát Đà Linh, Chu Du cam hận mệnh vong (Tử Vi đóng Ngọ hội hợp với Khoa Quyền Lộc, Hình Ấn, Khôi Xương là người tài giỏi, tướng mạo khôi ngô, nếu gặp vận hạn có Cự, Sát, Đà, Linh (Cự Môn, Đà La, Linh Tinh hoặc Thất Sát, Đà La, Linh Tinh) thì giống như Chu Du đời tam quốc nuốt hận mà chết)
- Đế lạc nhàn cung, gia Khúc Xương đa ngôn giảo hoạt (Tử Vi đóng Tí Mão Dậu hội tụ Xương Khúc thì giảo hoạt và ưa nói quá sự thực) Trong khi Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư có câu: ”Tử Vi Quyền Lộc ngộ Dương Đà tuy hoạch cát nhi vô đạo” nghĩa là Tử Vi có Quyền Lộc nên danh có của nhưng nếu gặp thêm Dương Đà nữa thì tâm chất bất nhân vô đạo. - Tử Vi mạc phùng Kiếp Không Hồng Đào nhập Mệnh giảm thọ (Tử Vi mà gặp Kiếp Không, Hồng Đào tại Mệnh tất không thọ)
- Tử Phủ đồng cung, Tuần Không xâm nhập, đế vô quyền nan giải hung tinh hạn ngộ (Tử Vi Thiên Phủ tại Mệnh bị Tuần Không, vua thành vô quyền khó giải cứu cho vận gặp hung tinh)
- Dần mộc, Phủ Vi hội Tam Kỳ, Kình Bật cư lai, Mệnh xuất võ do văn quyền hành cứ phục chúng nhân, mạc phùng Không Kiếp hư vô (Dần cung, Tử Vi Thiên Phủ có Khoa thêm Kình Dương Hữu Bật có văn tài nhưng lại theo nghiệp võ, thành công người đời kiêng nể, nhưng nếu bị Không Kiếp lại thành sôi hỏng bỏng không)
- Tử Phá mộ cung vô ưu họa ách, vận lai Phụ Bật nguyên vọng đắc như cầu, Thân kiêm Hồng Lộc Hóa Khoa khánh hội long vân (Tử Vi Phá Quân ở Sửu Mùi Thìn Tuất không lo những họa tai lặt vặt, tới vận gặp Tả Hữu thì mưu sự thành tựu, nếu cung Thân lại được Hóa Khoa, Hóa Lộc, Hồng Loan cảnh thêm hay).
- Đế toạ Thiên La Thân cư Triệt xứ, Giáp Kỷ nhân chung niên nan toại chí đa trái thê nhi (Tử Vi đóng Thìn, cung Thân bị sao Triệt án ngữ, tuổi Giáp tuổi Kỷ suốt đời không toại chí, còn khổ vì vợ vì con)
- Tứ Sát Tốn cung, đề huề bảo kiếm, Hỏa Tuyệt nhập xâm đa sát. Hạn hội Hồng Khoa Ấn Mã dị lập chiến công. (Tử Vi Thất Sát ở cung Tỵ gặp Hỏa Tinh và sao Tuyệt thành người đa sát nếu có Hồng Loan, Hóa Khoa, Quốc Ấn, Thiên Mã hội tụ làm võ tướng dễ lập công to)
- Tử Phủ Vũ Tướng Tả Hữu Long Phượng Khoa Quyền Lộc Ấn, quần thần khánh hội chi cách gia Kình Kiếp loạn thế nan thành đại sự (Cách quần thần khánh hội Tử Phủ Vũ Tướng Long Phượng Tả Hữu Khoa Quyền Lộc Ấn nếu bị Kình Dương Địa Kiếp gặp thời loạn bất thành đại sự)
- Tử Tham Tả Hữu hội trung Có người con gái trốn chồng theo trai (Ở cách này Tả Hữu biến chất, tuy nhiên Tử Tham Tả Hữu còn phải thêm cả Tang Hổ nữa thì mới liều như thế)
- Tử Tham Khôi Việt phương Đoài Long thần kỳ đảo ai ai cúng dường (Tử Tham đóng ở Dậu cung gặp Khôi Việt dễ đi vào nghề thầy chùa thầy cúng)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Thiên Nga (##)
tối kỵ.
Trong phong thủy, hình dáng của cây xương rồng thuộc vào loại đặc biệt, thân phát triển hướng lên trên, giống như xương của con rồng với ý nghĩa mang đến sức mạnh, có tác dụng hóa giải hình sát mạnh bên ngoài. Vì thế nó là một trong những cây có tác dụng hóa hung cao nhưng lại cực kỳ cấm kỵ khi bài trí trong nhà.
Bày xương rồng trong nhà gia chủ dễ bị bệnh tật, mất mát tài sản, tình cảm trục trặc, cô đơn.
Nguyên nhân bởi cây xương rồng là cây nhiều gai nhọn, những mũi nhọn của nó chĩa vào người thì sẽ tạo ra khí xấu, ảnh hưởng tới sức khỏe của gia chủ. Chưa kể việc tập trung quá nhiều gai nhọn trên thân cây khiến nó luôn bị bao bọc bởi sát khí. Đôi khi, xương rồng nở hoa (nếu trồng xương rồng mà nở hoa, được coi là điềm lành vì hoa của nó mang năng lượng tốt) nhưng không đủ sức để át đi năng lượng xấu của những chiếc gai nhọn.
Tuyệt đối không để xương rồng trong phòng tân hôn. Các loại thực vật có gai chủ yếu là hoa hồng, xương rồng… thường được trang trí trong phòng tân hôn. Tuy nhiên, theo phong thủy, những chiếc gai nhọn mang hàm ý đối đầu, ăn miếng trả miếng. Điều này khiến cho vợ chồng dễ gây tổn thương cho nhau (ở mức độ nhẹ), không bao dung, nhẫn nhịn và rất nhiều điều bất lợi khác liên quan đến cảm xúc.
Nếu bạn là một người yêu xương rồng thì chỉ nên đặt xương rồng ở ngoài cửa, như vai trò của người canh gác, bảo vệ bạn khỏi những năng lượng xấu, ngăn không cho chúng xâm nhập vào nhà.
Vì cây xương rồng là một cây có nhiều gai nhọn xung quanh khiến nó luôn được bao bọc bởi sát khí nên các nhà phong thủy đưa ra lời khuyên không nên đặt xương rồng trong phòng làm việc hoặc trong nhà mà chỉ nên trồng xương rồng vào những khu vực xấu hoặc để chống lại những sát khí chiếu vào nhà như để trấn lại góc nhọn hoặc các loại mũi tên sắt từ hàng rào của người hàng xóm…
Có những người nội tâm không ai nhìn thấu, tuy rằng bề ngoài kiên cường nhưng trong lòng lại rất yếu đuối, bị tổn thương cũng chỉ có thể tự mình chịu đựng, chỉ cần người khác mở lời xin lỗi là lập tức đồng cảm, tha thứ. Trong 12 cung hoàng đạo, thì 3 chòm sao nữ vị tha dưới đây xứng đáng được phong là “thánh nữ”.
Tổng hợp các yếu tố về bản thân con người và môi trường cư ngụ sẽ có được…
Hỏi: Nhà tôi quay mặt về hướng phong thủy xấu, không hợp với tuổi của tôi. Nhưng tôi lại không thể di chuyển cửa ra vào. Mong chuyên mục tư vấn cho tôi một số giải pháp phong thủy để cải thiện tình trạng này. Tôi xin cảm ơn!
Trả lời:
Xin chào bạn Hưng!
Đầu tiên, chúng tôi muốn hỏi bạn một câu rằng: “Bạn có chắc chắn ngôi nhà của mình có năng lượng phong thủy tốt và điều duy nhất cần phải giải quyết là hướng nhà (đồng thời là hướng cửa ra vào) không hợp phong thủy hay không? Trước đó, bạn đã áp dụng mọi biện pháp cơ bản để lấy lại nguồn năng lượng cân bằng và đầy sức sống cho ngôi nhà nên mối bận tâm duy nhất hiện nay là hướng phong thủy không phù hợp của ngôi nhà (hoặc cửa ra vào) mà thôi?”.
Thông tin phong thủy về hướng nhà/hướng cửa ra vào là tốt hay xấu rất phức tạp, có nhiều quan điểm đối lập, do đó, bạn cần tỉnh táo trước khi áp dụng bất kỳ biện pháp phong thủy hóa giải nào. Về mặt lý thuyết, ngôi nhà/cửa ra vào quay mặt về hướng phong thủy hợp với tuổi của gia chủ là tốt nhất, vì đây là nơi đón được nguồn năng lượng tốt nhất vào nhà.
Tuy nhiên, hướng may mắn chỉ là một trong rất nhiều yếu tố để tạo nên phong thủy tốt cho ngôi nhà, hỗ trợ sức khỏe và hạnh phúc của bạn cùng gia đình.
Thực hành phong thủy không giống với việc sáng tạo nghệ thuật hoặc âm nhạc mà đòi hỏi phải có hiểu biết cơ bản thật kỹ càng và sau đó cải thiện dựa trên những gì có sẵn, không thể dựa trên cảm hứng. Bạn không phải tuân theo bất cứ nguyên tắc cứng nhắc nào bởi vì thực tế không hề tồn tại không gian cũng như con người hoàn toàn giống nhau. Và phong thủy là tạo ra không gian tốt đẹp, nơi con người có thể phát triển.
Vì vậy, chúng tôi khuyên bạn kiểm tra lại phong thủy của toàn bộ ngôi nhà một cách cẩn thận, đặc biệt là những khu vực thường xuyên bị lãng quên như tủ quần áo, tầng hầm, ga-ra để xe hoặc phòng giặt là… Xem xét có thứ gì cần được cải thiện bằng phong thủy ở trong phòng ngủ, phòng bếp, phòng tắm, hành lang… hay không.
Chỉ sau khi bạn thành thật xử lý toàn bộ ngôi nhà và dành sự quan tâm cho mỗi và mọi khu vực bằng cách áp dụng tất cả những lời khuyên phong thủy hiện có, bạn mới có thể tập trung vào vấn đề thách thức của hướng nhà không tốt.
Trước khi dùng đến các giải pháp phong thủy cho cửa ra vào quay mặt về hướng không may mắn, cần chắc chắn nó được chăm sóc tốt. Nhờ đó, nguồn khí hoặc nguồn năng lượng có thể lưu thông dễ dàng.
Khi bạn hoàn thiện việc tạo ra năng lượng phong thủy tốt cho khu vực hành lang/cửa chính hoàn hảo nhất, kiểm tra xem thiết kế nội thất có phù hợp với khu vực bát quái của cửa ra vào hay không. Chẳng hạn, nếu cửa ra vào của ngôi nhà quay về hướng Nam, bạn không nên sử dụng màu xanh và màu đen ở đây.
Về cơ bản, bạn buộc phải bảo vệ sự may mắn của mình bởi vì không giống với các hướng tốt giúp gia tăng sự may mắn, các hướng xấu có xu hướng thách thức may mắn của bạn.
Có 3 cách truyền thống để khắc phục hướng nhà/hướng cửa chính không hợp với tuổi gia chủ, đó là:
1. Điều đầu tiên là sử dụng một cánh cửa khác thường xuyên hơn, đúng với hầu hết các trường hợp và không hề phức tạp. Nhiều ngôi nhà có thiết kế đường đi vào không gian nội thất thông qua ga-ra để xe hoặc cửa sau. Do đó, cửa chính được “dẹp” sang một bên, chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Nếu cửa ra vào quay mặt về hướng phong thủy không thuận, không may mắn ít khi được sử dụng, nguồn năng lượng tiêu cực sẽ không có cơ hội “lọt sâu” vào ngôi nhà hoặc không được kích hoạt, suy yếu đi.
2. Cố gắng tạo ra năng lượng bảo vệ mạnh mẽ xung quanh cửa ra vào của ngôi nhà. Bạn có thể treo gương bát quái phía trên cửa, trang trí vật phẩm phong thủy truyền thống như đặt tượng/tranh ảnh của Quan Thế Âm Bồ Tát – Nữ thần của lòng bao dung và tình thương cao cả và tượng Quan Công – Vị thần chiến tranh gần cửa ra vào. Ngoài ra, bạn cũng có thể chọn biểu tượng của riêng mình nhưng có khả năng mang lại năng lượng của sự bảo vệ và lòng bao dung, che chở.
3. Một cách tuyệt vời để đối phó với hướng phong thủy xấu hoặc không may mắn là làm suy yếu yếu tố phong thủy của nó. Ví dụ, nếu cửa ra vào của bạn quay mặt về hướng Bắc (hướng Bắc là hướng không may mắn với bạn), thì hãy làm suy yếu yếu tố Nước – biểu tượng của hướng Bắc bằng cách trang trí các đồ vật đại diện cho yếu tố Thổ.
Dù vậy, biện pháp này phải được thực hiện thật tinh thế bởi vì bạn vẫn phải đảm bảo được sự cân bằng giữa 5 yếu tố phong thủy cơ bản. Đồng thời, duy trì năng lượng hỗ trợ sự nghiệp của hướng Bắc kết nối hài hòa.
Chào chuyên gia! Tôi là nữ, 64 tuổi. Xem trên bảng tính sao hạn thì năm nay, tôi gặp sao Kế Đô, rất xấu. Bên cạnh đó, con trai tôi sinh năm 1991, năm nay cũng gặp “năm tuổi”. Tôi muốn hỏi trong phong thủy, có cách gì đơn giản để cải thiện vận hạn cho tôi và con trai không? Xin cảm ơn! Nguyễn Thị Liên (Mê Linh, Hà Nội)
Chuyên gia phong thủy Hồ Thắng:
Hóa giải sao xấu
Tử vi của người xưa cho rằng: Mỗi người vào mỗi năm có một ngôi sao chiếu mệnh, tất cả có 9 ngôi sao, cứ 9 năm lại luân phiên trở lại. Có sao tốt có sao xấu. Gặp sao tốt thì sức khỏe, công danh, tình cảm thuận lợi, gặp sao xấu thì ngược lại. Trong 9 sao chiếu mạng thì mỗi sao đều có ngũ hành riêng. Cụ thể từng sao có ngũ hành như sau: Sao La Hầu (hành Kim, xấu), Sao Kế Đô (hành Thổ, xấu), Sao Thái Dương (hành Hỏa, tốt), Sao Thái Âm (hành Thủy, tốt), Sao Mộc Đức (hành Mộc, tốt), Sao Vân Hớn, hoặc Văn Hán (hành Hỏa, xấu), Sao Thổ Tú (hành Thổ, xấu), Sao Thái Bạch (hành Kim, xấu), Sao Thủy Diệu (hành Thủy, tốt)
Theo phong thủy, để hóa giải những bất lợi của sao chiếu mệnh, có thể sử dụng cách đơn giản nhất là vật phẩm phong thủy. Cụ thể:
Sao La Hầu: Khẩu thiệt tinh, chủ về ăn nói thị phi, hay liên quan đến công quyền, nhiều chuyện phiền muộn, bệnh tật về tai mắt, máu huyết. Nam rất kỵ, nữ cũng bi ai chẳng kém. Kỵ tháng Giêng, tháng Bảy. Sao này ảnh hưởng nặng cho nam giới về tai tiếng, thị phi, kiện thưa, bệnh tật, tai nạn. Sao La Hầu thuộc hành Kim, nên dùng hành Thủy để tiết khí hành Kim của sao xấu, như đeo trang sức đá quý màu đen, màu xám, màu xanh biển như: Thạch anh đen, Thạch anh tóc đen, thạch anh tóc tiên đen, hoặc đá mã não xanh dương, đá thanh kim xanh đậm…
Sao Kế Đô: Hung tinh, kỵ tháng Ba và tháng Chín, nhất là nữ giới. Chủ về ám muội, thị phi, đau khổ, hao tài tốn của, họa vô đơn chí; trong gia đình có việc mờ ám. Sao Kế Đô thuộc hành Thổ nên dùng hành Kim để tiết khí hành Thổ của sao xấu, như đeo đá quý màu trắng như Thạch anh trắng…
Sao Thái Dương: Thái dương tinh (mặt trời) tốt vào tháng Sáu, tháng Mười, nhưng không hợp cho nữ giới. Chủ về an khang thịnh vượng, nam giới gặp nhiều tin vui, tài lộc còn nữ giới lại thường gặp tai ách. Sao Thái Dương là tinh quân tốt nhất trong các sao hạn cho nam giới như Rồng lên mây, chiếu mệnh tháng 6, tháng 10, lộc đến túi đầy tiền vô. Mệnh ai chịu ảnh hưởng của sao này đi làm ăn xa gặp nhiều may mắn, tài lộc hưng vượng, phát đạt. Sao Thái Dương thuộc hành Hỏa, nên dùng màu đỏ, màu hồng, màu tím để tăng cường cát khí của sao tốt chủ về tài lộc, như đeo trang sức đá quý màu đỏ, màu hồng, màu tím như: Thạch anh tím, Thạch anh hồng, mã não đỏ, Thạch anh tóc đỏ, Thạch anh hồng ưu linh, Ruby đỏ… Hoặc dùng màu xanh lá thuộc hành Mộc, để Mộc sinh Hỏa càng thêm tốt, như đeo đá quý màu xanh lá. Nhưng sao Thái dương tinh (mặt trời) lại không hợp cho nữ giới. Chủ gặp tai ách. Sao Thái dương thuộc hành Hỏa, nên dùng hành Thổ để tiết khí hành Hỏa để hóa giải tai ách, như đeo trang sức đá quý màu vàng, màu nâu như: Thạch anh vàng, Thạch anh tóc vàng, Thạch anh ưu linh nâu, hổ phách…
Sao Thái Âm: Chủ dương tinh (mặt trăng), tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng Chín nhưng kỵ tháng Mười. Chủ về danh lợi, hỉ sự. Sao Thái Âm thuộc hành Thủy, nên dùng màu đen để tăng cường cát khí hành Thủy của sao tốt chủ về danh lợi, hỉ sự, như đeo trang sức đá quý màu đen, màu xám, màu xanh biển như: Thạch anh đen, Thạch anh tóc đen, thạch anh tóc tiên đen, hoặc đá mã não xanh dương, đá thanh kim xanh đậm… Hoặc dùng màu trắng thuộc hành Kim, để Kim sinh Thủy càng thêm tốt, như đeo đá quý màu trắng như: Thạch anh trắng…
Sao Mộc Đức: Triều ngươn tinh, chủ về hôn sự, nữ giới đề phòng tật bệnh phát sinh nhất là máu huyết, nam giới coi chừng bệnh về mắt. Tốt vào tháng Mười và tháng Chạp âm lịch. Sao Mộc Đức thuộc hành Mộc, nên dùng màu xanh lá thuộc hành Mộc, để tăng cường cát khí của sao tốt chủ về tình duyên, hôn nhân, hạnh phúc, như đeo trang sức đá quý màu xanh lá như: Ngọc phỉ thúy… Hoặc dùng màu đen thuộc hành Thủy, để Thủy sinh mộc càng thêm tốt, như đeo đá quý màu đen hoặc màu xanh dương như: Thạch anh đen, Thạch anh tóc tiên đen, Lam Bảo (Ngọc lam)…
Sao Vân Hớn (hoặc Văn Hán): Tai tinh, chủ về tật ách, xấu vào tháng Hai và tháng Tám âm lịch. Nam gặp tai hình, phòng thương tật, bị kiện thưa bất lợi; nữ không tốt về thai sản, nên đề phòng gặp chuyện quan sự, trong nhà không yên, khó nuôi súc vật. Sao Vân Hớn thuộc hành Hỏa, nên dùng hành Thổ để tiết khí hành Hỏa của sao xấu, như đeo trang sức đá quý màu vàng, màu nâu như: Thạch anh vàng, Thạch anh tóc vàng, Thạch anh ưu linh nâu, hổ phách…
Sao Thổ Tú: Ách tinh, chủ về tiểu nhân, xuất hành đi xa không lợi, có kẻ ném đá giấu tay sinh ra thưa kiện, gia đạo không yên, chăn nuôi thua lỗ. Xấu tháng Tư, tháng Tám âm lịch, trong nhà nhiều chuyện thị phi, chiêm bao quái lạ, không nuôi được súc vật, chẳng nên đi xa và đêm vắng. Sao Thổ Tú thuộc hành Thổ, nên dùng hành Kim để tiết khí hành Thổ của sao xấu, như đeo trang sức đá quý màu trắng như: Thạch anh trắng …
Bảng Sao hạn.
Sao Thái Bạch: Triều dương tinh, sao này xấu cần giữ gìn trong công việc kinh doanh, có tiểu nhân quấy phá, hao tán tiền của, đề phòng quan sự. Xấu vào tháng Năm âm lịch và kỵ màu trắng quanh năm, nữ mạng sẽ gặp bất lợi, đề phòng tiểu nhân mưu hại hay hao tài tốn của, nhất là ở tháng Năm âm lịch. Sao Thái Bạch thuộc hành Kim, nên dùng hành Thủy để tiết khí hành Kim của sao xấu, như đeo trang sức đá quý màu đen, màu xanh dương, như: Thạch anh đen, Thạch anh tóc đen, Đá thanh kim xanh dương…
Sao Thủy Diệu: Phước lộc tinh, tốt nhưng cũng kỵ tháng Tư và tháng Tám. Chủ về tài lộc hỉ. Không nên đi sông biển, giữ gìn lời nói (nhất là nữ giới) nếu không sẽ có tranh cãi, lời tiếng thị phi đàm tiếu. Để tăng cường cát khí cho sao tốt Phước lộc tinh thuộc hành Thủy, chủ về về tài lộc hỉ, thì đeo trang sức đá quý màu đen, màu xanh dương, để tăng cường cát khí của sao tốt như: Thạch anh đen, Thạch anh tóc đen, Đá thanh kim xanh dương… Hoặc dùng màu trắng thuộc hành Kim, để Kim sinh Thủy càng thêm tốt như đeo đá quý màu trắng.
Hạn Thái Tuế (năm tuổi)
Hạn Thái Tuế, tức là hạn gặp “năm tuổi” thì rất xấu, vì công việc có tiểu nhân ám hại, sự nghiệp gặp khó khăn, mọi việc không thuận lợi, bệnh tật, tai nạn… Nếu gặp trường hợp này thì nên đeo mặt dây chuyền Phật bản mệnh của tuổi đó để hóa giải. Ví dụ người tuổi Mùi đến năm Mùi là bị hạn Thái Tuế, tức là hạn gặp “năm tuổi” thì nên đeo Phật bản mệnh tuổi Mùi để được độ mạng bình yên. Ngoài ra tuổi nào đeo Phật bản mệnh của tuổi đó để được độ mạng bình yên.
Cụ thể Phật bản mệnh từng tuổi như sau: Phật bản mệnh ứng với tuổi Tý là Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát nổi tiếng với hình tượng nghìn tay nghìn mắt, tượng trưng cho tấm lòng đại từ đại bi của ngài. Phật bản mệnh ứng với tuổi Sửu, Dần là Hư Không Tạng Bồ tát có trí tuệ cao siêu, mang sức mạnh nhân từ, cứu giúp chúng sinh trong nước và lửa. Ngài giúp những người sinh năm Sửu, Dần tăng thêm trí nhớ, phù hộ cho họ gia đình yên vui hoà hợp. Phật bản mệnh ứng với tuổi Mão là Văn Thù Bồ Tát biểu tượng cho bình an, che chở bảo vệ, mang lại điều tốt lành. Phật bản mệnh ứng với tuổi Thìn, Tỵ là Phổ Hiền Bồ tát, là đại diện cho tất cả các Bồ tát, là thần bảo vệ cho những người sinh năm Thìn, Tỵ. Phổ Hiền Bồ tát phù hộ cho họ kéo dài tuổi thọ, cả đời yên ổn và tránh xa các loại bệnh tật, tai hoạ. Phật bản mệnh ứng với tuổi Ngọ là Đại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho ánh sáng và trí tuệ. Phật bản mệnh ứng với tuổi Mùi, Thân là Như Lai Đại Nhật đại diện cho trí tuệ Phật giáo tối cao, ngài giống như mặt trời, bố thí các loại công đức cho chúng sinh một cách vô tư. Những người sinh năm Mùi, Thân sẽ nhận được sự phù hộ của ngài, cũng như được quý nhân phù trợ, khiến cho sự nghiệp thành tựu, làm nên nghiệp lớn. Phật bản mệnh ứng với tuổi Dậu là Bất Động Minh Vương. Phật bản mệnh ứng với tuổi Tuất, Hợi là Phật A Di Đà cư trú tại thế giới Tây phương Cực Lạc, dựa vào nguyện lực vô lượng của ngài để phổ độ chúng sinh. Những người sinh năm Tuất, Hợi sẽ nhận được sự phù hộ của ngài, một đời bình an, gặp hung hoá cát.
Ngoài ra, có thể đeo mặt dây chuyền vật phẩm phong thủy 12 con giáp (nhị hợp) để hóa giải hạn “năm tuổi”. Cụ thể vật phẩm 12 con giáp (nhị hợp) cho từng tuổi như sau: Tuổi Tý - Con trâu; Tuổi Sửu - Con chuột; Tuổi Dần - Con heo; Tuổi Mão - Con chó; Tuổi Thìn - Con gà; Tuổi Tỵ - Con khỉ; Tuổi Ngọ - Con dê; Tuổi Mùi - Con ngựa; Tuổi Thân - Con rắn; Tuổi Dậu - Con rồng; Tuổi Tuất - Con mèo; Tuổi Hợi - Con cọp.
Tác giả: Việt Anh
Về khoa Tử vi có cả ngàn chuyện lý thú, kể ra hoài hoài không sao hết được. Trong những câu chuyện lý thú lại có những kinh nghiệm ly kì, làm đề tài thảo luận cho những vị mê tử vi. Vì Tử vi là một khoa rất khó, bao la, đòi hỏi những kinh nghiệm cả mấy chục năm đối với những người say sưa nhất. Cho nên chúng tôi đã thỉnh các vị tài ba nhất về tử vi, để nêu lên đây những câu chuyện về tử vi để cống hiến quý vị.
Trong những câu chuyện tử vi ghi sau đây, có thường xuyên trong những số báo, chúng tôi cũng đi tìm những nguyên tắc đoán của các vị danh tài Tử vi. Những lời phú đoán có sẳn của các sách, như quý vị đã biết, chỉ là những nét đoán căn bản dành cho những “cách” có sẳn (những thế giao nhau của chính tinh, trung tinh, ác sát tinh,…) nhưng những cách đó còn phải chịu nhiều sự chế biến, gia giảm, mà chỉ có những nhà tử vi thật nhiều kinh nghiệm mới luận đoán đúng.
Bởi thế, chủ đích của chúng tôi mà nhân những câu chuyện, nêu lên một số những kinh nghiệm để làm đề tài thảo luận, và trao đổi sự am hiểu giữa các quý vị, cũng như góp thêm kinh nghiệm cho những vị đương theo dõi tử vi, đương thích tử vi.
Với những bạn đọc chưa biết Tử vi, xin cứ đọc những câu chuyện sau đây xuất hiện hàng tuần để tìm hứng thú và để thích Tử vi. Rồi một thời gian sau, chúng tôi sẽ trình bày với quý vị các cách lấy số Tử vi (phép lập thành, phép tính nhẩm và nhanh), cùng với các phép giải đoán (đã được hệ thống hóa).
Lá số Tử vi của nhân vật đương thời
Qua những câu chuyện mà chúng tôi biết, chúng tôi dám quả quyết rằng những bản giải đoán số Tử vi của những nhân vậy sao sang đương thời không thể nào đúng được!
Hồi 1964, chính tai tôi nghe một ông thầy tử vi giảng cho một ông sỹ quan đi coi số cho một ông tướng. Ông sỹ quan nói: “Ông tướng tôi thắc mắc cái chổ Tử vi mà gặp Địa Không Địa Kiếp đấy, có sao không cụ?”. Ông thấy đã nói một câu mà tôi cho là bất hủ:
– Ăn nhằm gì! Lúc này là thời loạn, Kiếp Không làm gì được Tử vi? Vả chăng, ông này làm tướng mà…
Ông thầy đã nói trái ngược lại sách vở, trái ngược với sự thật. Nhưng ông không thể nói rõ được sự thật. Đối với người thường, các ông thầy còn không nói ra sự thật huống chi là đối với các ông tai to mặt lớn đang có quyền, có thế rần rần.
Có người nói giỡn:
– Chính bởi thế mà nhiều ông thấy làm khổ các ông to, cái vụ đố gọi là “chơi”. Cứ bốc thơm người ta lên, người ta yên trí tầm bậy rồi người ta rơi rụng.
Thật ra, các ông thầy tự bắt buộc phải chơi ác là vì sợ đoán thật thì nguy bổn mạng của mình. Nhưng cũng vì thế mà phải nói rằng các ông thầy đã “cầm cân nẩy mực” trên đường chính trị. Cái đó mới thật lạ.
Có trời mà cũng có ta! Lẽ huyền vi của lá số Tử vi: chỉ đường dẫn nẻo cho mà đi, chứ không phải là cho biết số mạng cố định.
Hay là: Câu chuyện ngôi sao Lộc tồn của Đ.V.K
Câu chuyện này đã được lưu truyền nhiều trong những giới mê tử vi biết Ông cụ Đặng Vũ Ký, một nhân vật quán quân ngồi tù chỉ vì thích dính dấp vào các phong trào đấu tranh này nọ.
Hồi đó, vào lúc Phật giáo đương đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm, chùa Xá Lợi vừa bị tấn công, các sư tranh đấu bị bắt đùm đề. Tiện tay quét, công an của ông Diệm phá luôn báo Tự Do, nhân viên tòa soạn vào tù cả đống. Trong số những người vào tù, có cụ Hoàng Hạc đạo nhân, một cây về khoa học huyền bí, vào tù gặp một nhân vật chìa lá số của mình nhờ đoán. Nhân vật đó chính là cụ Đặng Vũ Ký.
Nhưng để cụ Hoàng Hạc kể nghe lý thú hơn. Cụ kể:
– Tôi có một lúc bị bắt, tôi vô khám (Nha Tổng, đường Võ Tánh). Khám chật như nêm, được người ta cho phép ở ngoài hàng ba, sống vất vưởng như cô hồn. Tụi chúng tôi ở không, chẳng làm gì tiêu khiển, nhân gặp nhiều bạn đồng hội đồng thuyền, toàn là những tay mê Tử vi cả. Ngày tối cứ lấy số của cha này, cha kia, coi đi coi lại rồi nói dóc cho qua ngày qua tháng. Có một ông già đã ngoại lục tuần cũng bị bắt, cậy tôi coi Tử vi, ông lò mò tới hỏi số của mình. Ở đây coi số không ăn tiền nên coi thả cửa. Tôi coi lá số xong rồi lắc đầu. Cụ ấy hỏi:
– Nè, bác sĩ H… hồi đó có coi cho tôi có nói tôi được cách Song Lộc. Song lộc thì giàu có lắm, tại sao mà nghèo mãi như vậy? Tôi không bao giờ có được trong túi vài ba ngàn đồng. Vậy tử vi nói bậy rồi.
Một ông bạn tù của chúng tôi cũng là 1 cây tử vi bèn cười. Tôi hỏi: – Sao anh cười?.
Ông bạn ấy bảo: – Song lộc thì đúng, nhưng ở đây đoán Song lộc là số cự phú thì sai bét.
Tôi hỏi: – Sao thế?
Ông ấy nói:
– Bộ ông bạn không thấy mạng, thân của ông ta ở cung Hợi có Liêm Tham thủ cung hay sao? Sách nói không sai rằng: “Liêm Tham Tị Hợi hình ngục nan đào”. Lại còn bị Bạch Hổ, Thiên Hình thì đã chẳng những bị tù mà còn bị hành hình, chết trong tù ngục là khác. Nhưng ông này có sao Lộc tồn thủ mệnh ở cung Hợi. Vì thế, Lộc tồn này cứu mạng ông ta khỏi chết, nếu chẳng có Lộc tồn thì đã đi đời nhà ma rồi.
Tôi nói:
– Lộc tồn là sao lộc mà?
– Đâu phải nó chỉ là sao lộc, mà còn là sao Phúc nữa. Nó ở cung nào thì giáng phúc, tiêu tai. Bởi vậy thủ mệnh thì đáng lẽ giàu, nhưng vì nó đã biến thành sao PHÚC, nên đã mất tính chất sao PHÚ. Bởi vậy có thể đoán: “Nếu ông ta mà giàu thì bị tù mà chết”, còn nếu ở tù mà không chết, không bị hành hạ, thì Lộc tồn đây “đóng vai trò cứu tử” chứ “không cứu nạn” được, song phải chịu nghèo mới yên thân.
Ông bạn già nghe đoán số cho mình như vậy liền bật cười khen:
– Hay lắm, tôi thú thật suốt đời tôi, bất cứ là trào nào cũng đều bị ở tù, nhưng ở tù thì ở tù, song chưa bao giờ bị đánh một bạt tai.
Rồi ông nói thêm:
– Lạ quá, tôi nghèo mãi, mà nghèo thì bình yên, hễ có tiền thì bị ở tù, cũng đều là bị liên can thôi. Kỳ này, có người bạn thấy nghèo quá, cho cái nhà. Được cái nhà mừng quá, cái nhà cũng khá tốt. Té ra dọn về ở được 2 tháng thì bị bắt đến nay, thành ra vợ tôi phải lo nuôi tôi, phải bán cái nhà rồi.
Bạn tôi hỏi:
– Bán nhà, nhưng rồi còn bao nhiêu tiền?
– Còn lối vài ngàn gì đó.
Bạn tôi cười:
– Thì khi hết vài ngàn đó, cụ ra.
Quả vậy, đến tuần sau vài ngàn đó xài hết là cụ được thả ra (nhân đảo chính 1/11).
Ngẫm nghĩ sao Lộc tồn đó được kể như có 2 ảnh hưởng: mình xài nó ở phương diện nào thì nó mất ảnh hưởng ở phương diện kia.
Bởi thế ông cụ cứ nghèo là yên thân, vì Lộc tồn đóng vai cứu tinh. Nhưng ông cụ phát tài tức là xài đến ảnh hưởng tài tinh của Lộc tồn, thì không còn là vai trò cứu tinh nữa, thì ông vào tù vì ảnh hưởng của Liêm trinh, Tham lang đóng tại Tị Hợi. Cả đời như vậy.
Ngẫm ra, thì số Tử vi là một con đường chỉ cho mình đi. Trong trường hợp cụ Ký thì không nên làm giàu để rồi phải vào tù và chết trong tù. Như vậy, đâu phải chúng ta ai cũng chịu một định mệnh an bài sẵn, chúng ta vẫn còn cái tự do để lựa chọn cho cuộc đời mình. Ta có quyền xài Lộc tồn như là Phúc tinh hay như là Tài tinh, đó là cái tự do, cái quyền của ta.
Tôi vẫn thường áp dụng lối đó trong đời: năm mà gặp Lộc Tồn cũng là năm gặp Ác Sát tinh, nghĩa là vận hạn nặng. Tôi từ chối những cơ hội phát tài trong năm đó, để giữ cho mình khỏi bị vận hạn.
(Theo Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí)
Tình hình nghiên cứu Tử vi Đẩu Số trong giai đoạn cuối thế kỷ 20, có thể nói là rất nhiều nhân tài, danh gia đua nhau xuất hiện. Hơn nữa, đã thoát ly phương pháp luận đoán đơn giản của giai đoạn trước, tiến vào một thời kỳ mới, phương pháp luận đoán đã dần dần hướng vào hoàn thiện chỉnh thể, phức tạp mà chu đáo, không chỉ phân khoa tỉ mỉ, mà còn rất nhiều Môn phái bổ khuyết chỗ sở trường, sở đoản cho nhau.
Do phương pháp luận đoán của Tử Vi Đẩu Số thường dựa vào "kinh nghiệm" để suy diễn, không như khoa mệnh lý Tứ Trụ có những nguyên tắc rõ ràng để noi theo, vì vậy khi luận đoán Tử Vi Đẩu Số nó không có khuôn khổ giới hạn nội dung luận đoán một cách rõ nét. Nhưng, nói một cách khái quát về các xu hướng luận đoán, thông thường được phân thành hai xu hướng lớn, hai dòng chảy lớn khi luận đoán. Đó là khuynh hướng luận đoán của phái Chủ Tinh và khuynh hướng luận đoán của phái Lưu Tinh. Trong phái Lưu Tinh, lại phân thành hai chi phái, đó là phái Thái Tuế và phái Tiểu Hạn.
Phái Chủ Tinh xem trọng hiệu lực của các sao Chính và tính chất cách cục tình lý của sao. Mang tác dụng của các sao lớn suy diễn đến mức độ tinh tế, và được phối hợp với các sao nhỏ, để luận đoán sự phát sinh biến hóa tăng lên hay giảm đi. Phái luận đoán theo cách này rất chú trọng các hiện tượng trong Mệnh bàn gốc, căn cứ vào đây để luận đoán vận mệnh đời người, có độ chính xác khá cao. Đây là lưu phái Tử Vi Đẩu Số thuộc loại rất cơ bản.
Ngoại trừ việc xem trọng sự ứng nghiệm của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn một bí kíp một bộ phận về "hành vận", có khuynh hướng tu chính bộ phận Mệnh Cục gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy cung vị Thái Tuế làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái bày bố vào 12 cung Địa chi theo từng năm, để luận đoán cát hung, hưng suy của niên vận đó. Nếu phân chia tỉ mỉ hơn về phương thức luận đoán, thì lại có hai loại biến hóa khác, một môn phái chủ trương Sao động mà Cung bất động, tức 12 cung bản mệnh bất động, còn Lưu tinh thì "Phi động". Và môn phái thứ hai thì chủ trương Sao động mà Cung đồng thời cũng động, tức 12 cung bản mệnh "Phi động" theo từng năm, Lưu tinh cũng biến động theo Năm.
Ngoại trừ việc xem trọng "hiện tượng" vốn có của các sao Chính và Mệnh bàn, phái này còn chú trọng bộ phận Đại hạn - Tiểu hạn, có khuynh hướng tu chính quan điểm của Mệnh gốc. Về phương pháp luận đoán vận hạn Lưu niên, thì lấy Cụng vị của Tiểu hạn làm chủ, mang tinh diệu Lưu niên của bản phái xem trọng để bài bố "Phi động" vào 12 cung địa chi theo từng Năm, lấy cung vị Tiểu hạn làm chủ yếu, theo nguyên tắc "Cung động" và "Sao động", biến hóa theo chiều nghịch lần lượt 12 cung, vì vậy có thể luận đoán rất tỉ mỉ những thay đổi, những biến động trong đời sống của con người.
Các phái hệ có thêm vào Tử Vi Đẩu Số các phương thức luận đoán, như Ngũ hành, Bát quái, Thần sát, Quan sát, Trung hạn, hoặc Lục Nhâm, ... hay không, nói chung, phần lớn các hệ phái đều không tách rời phương thức lý luận truyền thống. Chẳng hạn như, vận dụng cục tính và tình lý của các sao, tinh hệ hỗ động (các hệ thống sao dẫn động lẫn nhau), và phương pháp "Tam phương Tứ chính". Theo dòng chảy, các Môn phái lấy phương pháp luận cung Mệnh theo Tam phương làm chủ yếu, thì được gọi chung là phái Tam Hợp.
Khoảng thập nhiên 80 ~ 90 của thế kỷ trước, các thuyết Phi Tinh Tử Vi Đẩu Số kế tiếp nhau ra đời ở Đài Loan, hay nói theo bình diện xã hội đó là công khai xiển dương Môn phái. Nhóm Môn phái này, được một số người gọi là phái "Tứ Hóa". Về sau theo đà càng lúc càng nhiều người phát biểu sự truyền thừa Học thuyết Phi tinh của môn phái mình, nên mọi người đổi lại gọi là phái "Phi Tinh". Theo truyền thuyết, các phái "Phi Tinh" có nguồn gốc lâu đời, lấy Quái khí luận của Đạo gia làm xương sống lập thuyết, chú trọng vận dụng Cung vị trùng điệp, Thái cực điểm, Thể Dụng, và Quỹ tích của Phi tinh hóa.
Cái gọi là "Đồ Hóa Tứ tượng", hay còn được gọi là "Tứ tượng Hóa đồ", mà gọi tắt là "Tứ Hóa". Tứ tượng là quy luật tự nhiên của Trời Đất, giống như bốn Mùa thay đổi không ngừng. Bản chất của các sao (tinh, thần, đẩu, diệu) gọi là "tinh tính" (tính của sao); các Sao gặp gỡ nhau sẽ nảy sinh ra sự ưa - ghét, hợp Cách hay không hợp Cách, đó gọi là "tinh tình" (tình của sao), và các Sao luôn biến hóa thay đổi, bản chất luôn biến hóa thay đổi này của các Sao được gọi là "hóa diệu" (sao biến hóa). Tử Vi Đẩu Số vận dụng 18 sao chính để luận đoán cát - hung. Các sao này, vốn chỉ là biểu tượng, là phù hiệu đại biểu cho "Số". Cho nên, Tử Vi Đẩu Số chỉ là sự vận dụng của "Số", mà không còn là "tinh chiêm" như đã luận thuật từ trước.
Các Sao theo một quy luật nhất định bay vào các Cung, nhưng sự cát - hung của một Cung cá biệt, không thể chỉ lấy Sao ở một vị trí Cung mà đoán định. Bởi vì, vị trí các Sao tuy đều là cố định, nhưng sẽ thay đổi theo thời gian, chịu ảnh hưởng bởi sự biến hóa của Tứ tượng. Các Tinh và Cung phối hợp với nhau, sẽ cho ra 144 loại Mệnh cách này. Vì vậy, các tổ hợp Sao theo quy luật Tứ tượng mà "phi" (bay), đó gọi là "Phi tinh".
Do đó, "Phi tinh Tứ hóa" là mượn Can để độn Tinh (sao), lấy giả tượng phối hợp với Chi để ứng thời, làm căn bản cho Phi tinh Tử Vi Đẩu Số!
Trước kia, các phái Tam Hợp đều được gọi chung là "Nam phái", còn các phái Tứ Hóa thì được gọi chung là "Bắc phái".
Căn cứ trên phương diện lấy Cung vị làm Tượng để luận đoán mà phân loại, thì Tử Vi Đẩu Số có hai Đại pháp môn: "Tam hợp pháp" và "Tứ Hóa pháp" (hay còn gọi là Tứ tượng pháp).
"Tam hợp pháp" là lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hợp", thêm vào cung Thiên di làm "Tứ chính" hợp thành "Tam phương Tứ chính". Theo địa chi tam hợp mà đoán việc của người, là cơ sở của học thuyết Đẩu Số.
"Tứ hóa pháp" cũng lấy cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch làm "Tam hội", nhưng "Tứ chính" thì lấy "cung vị tứ tượng" để quy chiếu, tức là lấy cung Mệnh, cung Tử nữ, cung Thiên di và cung Điền trạch làm "Tứ chính", khác với "tam hợp pháp" ở chỗ là, Tứ hóa pháp lấy thiên can của sáu cung này để làm tượng luận đoán, chứ không chỉ dựa vào tính của các Sao. Nếu không, sao của sáu cung sẽ hỗn loạn, khó mà đoán việc.
Tam hợp pháp gặp trường hợp cung vị không có chính diệu, thì mượn chính diệu của đối cung để dùng.
Tứ hóa pháp gặp trường hợp ở cung vị không có chính diệu, lại không mượn chính diệu ở xung cung để dùng, vì nguyên do nó dùng tượng ở can của Cung.
Ngoài ra, Tam hợp pháp theo thuyết Ngũ hành, chú trọng Tinh đẩu, cho nên tinh diệu mới có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm". Còn Tứ hóa pháp thì phối hợp với Quẻ và Lý Số, chú trọng Tượng Số, cho nên Tinh diệu không có thuyết "miếu, vượng, lợi, hãm".
Nói về sự biến hóa của Tử Vi Đẩu Số, ngoại trừ các lưu phái chính như đã nói trên, có một số lưu phái trong quá trình luận đoán, còn dẫn dụng một cách ít công khai các tác dụng đặc thù khác, chẳng hạn như tứ trụ, phong thủy, chiêm bốc, quái tượng, thậm chí cả đến số mục hay mầu sắc của các sao ... trong đó sự phân chia khoa mục luận đoán rất tỉ mỉ, không kém sự phân loại của khoa học hiện đại, khiến cho người học đời sau, có lẽ phải mất tinh lực của cả đời người, mới có thể nghiệm một cách hoàn bị và sâu sắc khoa Tử Vi Đẩu Số.
(Theo Blog Tử Vi Tinh Quyết)
► Tham khảo thêm những thông tin về: Phong thủy nhà ở và các Vật phẩm phong thủy chuẩn xác nhất |
Mơ nhặt được ngoại tệ: Giấc mơ này là điềm báo tài vận của bạn sẽ phát đạt |
► Cùng đọc: Danh ngôn cuộc sống, những lời hay ý đẹp và suy ngẫm |
hiên tâm. Thay Thiên tâm có nghĩa là thay vị trí trung tâm trong căn nhà đi.
Trước kia đa phần người ta sống trong căn nhà bằng, khi chuyển đến ở một căn nhà cũ thì phải mở một cái hốc trên trần nhà để cho ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào vị trí chính giữa của căn nhà. Vị trí này chúng ta gọi là Thiên tâm. Cách làm đó được gọi là “vượng Thiên tâm”, có tác dụng làm lại sinh vượng mới cho căn nhà. Thiên tâm được ánh sáng mặt trời chiếu 3, 5, 7 ngày, thậm chí là bảy bảy bốn mươi chín ngày tuỳ vào mức độ cũ nhiều hay ít của chính căn nhà đó thì có thể đậy hốc đó lại.
Người thời ngày nay chủ yếu sống trong nhà tầng hoặc nhà chung cư nên cũng khó tạo hốc trên trần nhà. Vậy ta có thể cậy nền nhà lên rồi lấp đi, đặt pháo trúc ở vị trí trung tâm hoặc ra ngoại thành lấy một ít đất tốt gói trong bọc vải màu đỏ rồi đặt ở trung tâm nhà. Đương nhiên cách đạt hiệu quả nhất vẫn là lấy pháo đã đặt ở trung tâm nhà đốt vỏ giấy màu đỏ bên ngoài đi thì có thể bắt đầu sinh vượng lại từ đầu.
Không nhất định cứ phải căn nhà để trống 15 năm trở lên mới được tiến hành biện pháp “thay Thiên tâm”. Chỉ cần là căn nhà cũ của người khác, khi mình dọn đến ở thì đều phải cậy nền nhà ở vị trí trung tâm lên rồi thay đi. Làm như vậy có thể tránh vận khí xấu của chủ nhà cũ quanh quẩn bên người bạn. Đồng thời có thể làm sinh vượng vận trạch của căn nhà đó.
Ảnh minh họa |
► Xem thêm: Ngũ hành tương sinh và những ảnh hưởng đến cuộc đời, vận mệnh |
Mơ thấy anh trai thường là giấc mơ tốt đẹp, dự báo bạn sẽ có được cuộc sống bình an, hạnh phúc.
Nếu nam giới mơ thấy anh trai mình, điều này nhắc bạn nên có thái độ ôn hòa hơn với anh trai để tránh xảy ra mâu thuẫn, xung đột trong gia đình.
Nếu bạn là nữ giới thì giấc mơ về anh trai mang thông điệp rằng gia đình bạn sẽ luôn hòa thuận, êm ấm.
Trong giấc mơ bạn thấy người anh trai của mình xuất hiện với hình ảnh mạnh mẽ, điều đó chứng tỏ bạn đang hài lòng với cuộc sống của mình, đặc biệt là về số tài sản hiện có.
Mơ thấy anh trai xuất hiện với bộ dạng khốn đốn, nghèo khó thì bạn nên chú ý tới cuộc sống hiện tại. Đây là dự báo bạn sẽ gặp chuyện không may như có thể bị tổn thất tài sản, tiền bạc.
Ngoài ra, giấc mơ này còn có ngụ ý rằng bạn không nên quá tự mãn, hãy biết quan tâm và hòa đồng hơn với những người xung quanh.
Lộ liễu "hối lộ" Thánh Thần |
Chen lấn xô đẩy nhau để cướp ấn đền Trần |
Ngôi chùa thiêng nhất chính là chùa trong Tâm |
► Tra cứu: Lịch âm, Lịch vạn niên chuẩn xác tại Lichngaytot.com |
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Yến Nhi (##)