Tướng phụ nữ khổ –
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Bích Ngọc (##)
![]() |
Bát tự mang đào hoa - cả đời hấp dẫn người khác phái| ► ## cung cấp công cụ Lấy lá số tử vi của mỗi người chuẩn xác |
– Bạn có biết mình mệnh gì, cha mẹ, con cái mình mệnh gì không? Chỉ cần biết Can Chi của một năm bất kỳ, bạn sẽ tính nhẩm ra ngay mệnh ngũ hành rồi.
![]() |
![]() |
| Can | Giá trị tương ứng |
| Giáp, Ất | 1 |
| Bính, Đinh | 2 |
| Mậu, Kỷ | 3 |
| Canh, Tân | 4 |
| Nhâm, Quý | 5 |
| Chi | Giá trị tương ứng |
| Tý, Sửu, Ngọ, Mùi | 0 |
| Dần, Mão, Thân, Dậu | 1 |
| Thìn, Tỵ, Tuất, Hợi | 2 |
Đây là điển cố thứ Hai lăm trong quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát, mang tên Bồ Tát Lý Quảng Cơ Trí (còn gọi là Bồ Tát Lý Quảng Mưu Trí). Quẻ Quan Thế Âm Bồ Tát Lý Quảng Cơ Trí có bắt nguồn như sau:
Lý Quảng (? – 119 tr. CN), người vùng Thành Kỷ, Lũng Tây, là danh tướng thời Tây Hán, dũng cảm thiện chiến, giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Khi quân Hung Nô xâm phạm Thượng Quận (thủ phủ của quận đặt ở huyện Phu Thi, nay là thị trấn Ngư Hà, phía đông nam thành phố Du Lâm, tỉnh Thiểm Tây), Hán cảnh Đế sai một Thái giám thân tín cùng Lý Quảng chỉ huy và huấn luyện quân đội đánh lại Hung Nô. Một lần, Thái giám mang mấy chục kỵ binh đi săn, trên đường gặp ba kỵ sĩ của Hung Nô và giao chiến với họ, kết quả bên Hung Nô đã bắn chết tùy tùng và vệ sĩ của Thái giám, còn Thái giám cũng trúng tên bị thương. Thái giám lo sợ chạy về báo cáo với Lý Quảng. Lý Quảng nhận định rằng ba người đó là những xạ thủ tài giỏi của Hung Nô, bèn đích thân dẫn một trăm kỵ sĩ đuối theo.
Các xạ thủ của Hung Nô vì không có ngựa phải đi bộ, cho nên bị Lý Quảng đuối kịp. Lý Quảng lệnh cho các kỵ binh triển khai làm hai cánh bên phải và bên trái, tự mình bắn chết hai xạ thủ của Hung Nô, bắt sống một tên. Họ vừa mới trói tù binh lên ngựa đế quay về, liền có mấy nghìn kỵ binh Hung Nô chạy đến. Thấy quân đội của Lý Quảng, cho rằng đó là nghi binh của quân Hán để dụ địch, rất sợ hãi, bèn lập tức lên núi triển khai thế trận. Một trăm kỵ binh của Lý Quảng cũng rất kinh sợ, đều muốn quay ngựa chạy về. Lý Quảng bèn nói: “Chỗ ta cách đại quân phải mười mấy dặm, nay ta chỉ có một trăm kỵ sĩ mà bỏ đi, nếu quân Hung Nô đuối bắn thì ta sẽ chết hết. Nếu ta ở lại, Hung Nô chắc chắn sẽ cho rằng chúng ta là toán quân dụ địch của đại quân, chắc chắn sẽ không dám tấn công.”
Vì thế Lý Quảng lệnh cho các kỵ binh tiến lên phía trước, đi thẳng đến vị trí cách trận địa của quân Hung Nô không đầy hơn hai dặm mới dừng lại. Lý Quảng lại hạ lệnh rằng: “Tất cả xuống ngựa tháo yên ngựa!” Các kỵ binh của ông nói: “Quân giặc đông mà lại ở gần, tình thế rất khấn cấp, làm thế nào bây giờ?” Lý Quảng nói: “Bọn giặc kia cho rằng chúng ta sẽ đi, nhưng nay ta đều tháo yên ngựa là để cho chúng thấy là ta không đi, như thế sẽ khiến chúng đinh ninh rằng chúng ta là nghi binh của đại quân.” Kỵ binh của Hung Nô quả thực không dám tùy tiện tấn công.
Lúc này có một tướng lĩnh Hung Nô ra trận đế bảo vệ cho binh sĩ của mình, Lý Quảng nhảy lên ngựa, mang theo mười mấy kỵ binh, bắn chết viên tướng đó, sau đó trở về trong quân của mình, lại tháo yên ngựa xuống. Ông lệnh cho binh sĩ đều buông ngựa, nằm ngủ trên đất. Lúc này trời đã tối, quân Hung Nô bắt đầu cảm thấy họ rất khả nghi, không dám tiến đến tấn công. Đến nửa đêm, Hung Nô cho rằng quân Hán có phục binh ở gần đây, lo sợ ban đêm sẽ tập kích họ, bèn dẫn quân bỏ đi. Sáng sớm hôm sau, Lý Quảng bình yên trở về doanh trại của mình.
Những câu nói hay về mưa thật lãng mạn và ý nghĩa. Mưa cũng như là một hiện tượng tự nhiên, nhưng đã được con người nhân hóa lên để diễn tả những suy nghĩ và tình cảm của con người.
Phải chăng khi ngắm những giọt mưa rơi ta cứ ngỡ đó là như những giọt nước mắt của con người, ta rất buổn và cảm thấy cô đơn. Và đối với tình yêu cũng vậy mưa đã gắn liền với biết bao chuyện tình yêu của biết bao đôi lứa.
Những câu nói hay về mưa thật lãng mạn và đầy ý nghĩa được con người ví von đúng với những tâm tư tình cảm của con người cho bạn tham khảo sau đây nhé.
“… Mùa hè hoa rau muống
Tím lấp lánh trong đầm
Cơn mưa rào ập xuống
Cá rô rạch lên sân …”
—Tạ Vũ—
Xưa còn bé, lá sen làm ô nhỏ
Che trên đầu, ù chạy dưới cơn mưa
Lá mong manh, khéo mấy cũng chẳng vừa
Mưa tội nghiệp nên mưa chừa hai đứa
Thời gian trôi, mình lớn thêm chút nữa
Anh vẫn cầm chiếc lá chạy trong mưa
Chỉ có em, em giờ chẳng như xưa
Chỉ đứng nép bên hiên nhìn mưa xuống
Thắc mắc hỏi, em nhìn anh luống cuống
Em áo dài nên chẳng muốn đi mưa
Em lớn rồi, sao có thể như xưa
Che chiếc lá mà dầm mưa chung bước
Năn nỉ mãi, em ngập ngừng: “Thôi được!
Nhưng bây giờ anh đi trước, em sau
Em cấm anh, không được ngoái nhìn sau
Anh đi trước, em theo sau e ấp
Tay run run em ôm ngang chiếc cặp
Che ngang ngực, ngượng ngập bước trong mưa
Mưa bây giờ, mưa chẳng giống ngày xưa
Mưa tinh nghịch nên chẳng chừa hai đứa!
Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng, con ở với ai!..
Mưa đêm gió lạnh bên ngoài
Đường lên quan ải có dài không anh?
Mưa sa giọt nhỏ giọt ngừng
Tuổi em còn nhỏ chưa từng nhớ thương.
Mưa sa lác đác gió tạt vô thành
Đôi ta chồng vợ ai dỗ dành đừng xiêu.
Mưa sa lác đác gió táp lạnh lùng
Thấy em lao khổ, mủi lòng nhớ thương!
Đàng đi biết mấy dặm trường
Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?
Mưa từ thung lũng mưa ra
Trèo non, lội suối em qua tìm chồng,
Tìm chồng sao chẳng thấy chồng
Lênh đênh trôi dạt theo dòng tới đâu.
Mưa từ trong núi mưa raMưa khắp thiên hạ, mưa qua chùa Thầy
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ non!
Mưa từ trong Quảng mưa ra
Mưa khắp Hà Nội mưa ra Hải Phòng.
Hạt mưa trong thực là trong
Mưa xuống sông Hồng mưa cả mọi nơi
Hạt mưa vẫn ở trên trời
Mưa xuống hạ giới cho người làm ăn.
Tháng giêng là tiết mưa xuân
Đẹp người thục nữ thanh tân má hồng.
Muốn cho đây đấy vợ chồng
Hay còn quyết chí một lòng chờ ai?
Mưa xuân lác đác ngoài trời
Trông ra đường, thấy một người thơ ngây
Gặp nhau ở quãng đường này
Như cá gặp nước như mây gặp rồng!
Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đắp đất ngăn rào vườn hoa.
Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn.
Mưa xuân phơi phới vườn hồng
Ta về đập đất, ta trồng lấy cây.
Mưa mai sợ nỗi nắng chiều
Con người thất vận cũng nhiều người thương
Ấy ai là bạn của ta, ta chờ!
Nắng mưa là chuyện do trờiCúp cua là chuyện ở đời học sinh
Cúp cua đừng cúp một mình
Rủ thêm vài đứa tâm tình cho vui
Nhớ ai như vợ chồng Ngâu
Một năm mới gặp mặt nhau một lần.
Tháng tám mưa khắp xa gần
Bước sang tháng chín đúng tuần mưa rơi
Tháng mười mưa ít đi rồi
Nắng hanh trời biếc cho tươi má hồng.
Một chạp là tiết mùa đông
Mưa phùn đêm vắng trong lòng lạnh thay
Bài mưa anh đã học đây
Mối tình dào dạt đêm chầy như mưa!
Những giọt mưa tí tách
Mang đến sự trong lành.
Mang đến sự mỏng manh
Của tình yêu trở lại.
Xua đi bao sợ hãi
Xua đi bao đắng cay
Khi hình bóng em gày
Thoáng hiện trong mưa ướt.
Tôi ước ao có được
Em ở trong vòng tay.
Để nỗi nhớ lấp đầy
Khoảng trống nơi tim nhỏ.
Em vẫn như còn đó
Đợi tôi đến trong mưa.
Dù chẳng trẻ con nữa,
Vẫn thoả thuê nô đùa.
Chỉ đùa thôi với mưa
Tình yêu đâu đùa được.
Nên âm thầm mong ước,
Yêu em trong ngày mưa
Những câu nói hay về mưa được con người nhân hóa lên rất tình cảm và ý nghĩa phải không bạn?
Năm mới Tết đến, các gia đình đua nhau sắm sửa hàng loạt các loài hoa, loài cây quý để nhà cửa có thêm nhiều màu sắc mới cũng như mong ước mang đến nhiều may mắn hơn cho gia đình. Tuy nhiên, không phải loài thực vật quý mang lại may mắn cũng đều không có "tác dụng phụ". Dưới đây chính là 1 vài loại cây rất thường được ưa chuộng trong ngày Tết nhưng lại cực độc với trẻ con. Bạn hãy lưu ý và ghi nhớ mỗi khi có ý định sắm sửa cây cho Tết nhé!
Cây thủy tiên

Thủy tiên tượng trưng cho sức khỏe và tiền tài. Tuy nhiên, hoa lại chứa độc tố nguy hiểm. (Ảnh: Internet)
Hoa thủy tiên là một trong những loại hoa đẹp và được nhiều người yêu thích. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, loài hoa quyến rũ này được xem là biểu tượng của danh dự, sức khỏe và tiền tài. Tuy nhiên, hoa thủy tiên có chứa chất độc ancaloit lycorin. Do đó, nếu trẻ ăn nhầm loài hoa này có thể bị độc tố có trong hoa gây tê liệt, phát ban đỏ hoặc lở loét trên da.
Cây hoa ly

Hoa ly được ưa chuộng bởi màu sắc đẹp và hương thơm đặc biệt. (Ảnh: Internet)
Hoa ly được yêu thích trưng trong những ngày Tết bởi màu sắc đẹp, có hương thơm ấn tượng, và độ bền cao. Hoa ly đẹp và mùi rất thơm. Không chỉ vậy, hoa này còn giúp khử độc trong nhà tương đối hiệu quả.
Tuy nhiên, các chất thơm kích thích thần kinh, sử dụng ở mức độ hợp lý thì hương thơm sẽ giúp con người thư giãn, vui vẻ, thoải mái... Ngược lại, sự kích thích quá lớn sẽ dẫn đến tình trạng mệt mỏi, đau nhức đầu, tập trung kém.
Về bản chất thì hương thơm của các loại hoa không có độc. Nhưng nếu trong một căn phòng đóng kín cửa mà để nhiều hoa, đặc biệt là hoa ly vốn có hương thơm rất nặng, hoa sẽ lấy đi hết oxy trong phòng. Người ở trong phòng đó đương nhiên sẽ mệt mỏi, khó chịu.
Thiên điểu
Cấu tạo và màu sắc độc đáo nên thiên điểu rất được yêu thích. (Ảnh: Internet)
Tên khoa học là Strelitzia reginae. Thiên điểu có cấu tạo rất độc đáo, gồm ba lá dài màu cam rực rỡ và ba cánh hoa màu lam ánh tím, bao phía dưới là tràng hoa màu lam sẫm. Do đó, nó là loại hoa kiểng rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, loài hoa được mệnh danh "chim thiên đường" này lại chứa rất nhiều chất độc làm hại đường tiêu hóa.
Hoa và hạt của cây có các chất gây ngộ độc đường ruột. Tiếp xúc hoặc ăn hoa, hạt thiên điểu, chất độc sẽ đi vào cơ thể theo đường miệng, gây hại cho đường ruột và tiêu chảy. Ngoài ra, khi tiếp xúc lâu với cánh hoa, bạn sẽ có cảm giác thấy khó chịu, chóng mặt, buồn nôn.
![]() |
![]() |

Thổ Công là vị thần trông coi, cai quản trong nhà, định sự họa phúc cho mọi gia đình, thường được gọi là Đệ nhất gia chi chủ. Nhờ có vị thần này nên các hồn ma quỷ không xâm nhập được vào nhà để quấy nhiễu gia đình.
Bàn thờ Thổ công không chỉ thờ một vị, mà thờ ba vị thần với ba danh hiệu khác nhau. Trong bài vị người ta để danh hiệu của cả ba vị thần này, mỗi vị trông coi một việc khác nhau.
- Thổ Công: trông coi việc bếp núc.
- Thổ Địa: trông coi việc nhà.
- Thổ Kỳ: trông nom việc chợ búa cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất.
Bài vị của ba thần được lập chung và viết như sau:
- Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân,
- Bản gia Thổ địa Long Mạch Tôn Thần,
- Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ Phúc đức chính thần.
Mỗi gia đình có riêng một Thổ công. Hàng năm các Thổ công này được thay thế vào ngày 23 tháng chạp (gọi là ngày ông Táo lên trời). Vào ngày này gia đình sửa lễ cúng ông Công , rồi đốt bài vị cũ, thay bài vị mới.
Mũ Thổ Công:
- Mũ Thổ Công là một cỗ gồm ba chiếc: 1 mũ đàn bà và 2 mũ đàn ông không có hai cánh chuồn. Nếu thờ 3 chiếc là thờ đủ mũ cho ba vị thần còn nếu thờ 1 mũ thì đó là mũ Thổ Công.
- Mũ được làm bằng giấy, mũ thường đi kèm với một chiếc áo và một đôi hia. Dưới mũ đặt 100 thoi vàng giấy.
- Mũ, áo, hia mỗi năm một màu hợp với ngũ hành: Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ (trắng-xanh-đen-đỏ-vàng) mỗi năm có một hành riêng, mỗi hành có một màu nhất định:
+ Năm có hành Kim: cúng mũ màu trắng.
+ Năm có hành Mộc: cúng mũ màu xanh.
+ Năm có hành Thủy: cúng mũ màu đen.
+ Năm có hành Hỏa: cúng mũ màu đỏ.
+ Năm có hành Thổ: cúng mũ màu vàng.
Cũng như bài vị Thổ Công, hàng năm mũ cũng được đem hóa vào ngày tết Táo quân và được thay cỗ mũ khác để thờ cho đến tết Táo quân năm sau.
Cúng Thổ Công:
- Cúng vào ngày giỗ Tết, Sóc Vọng. Có thể cúng chay hoặc mặn.
- Trong ngày Sóc Vọng, ngày mồng Một, ngày Rằm, các gia đình thường cúng chay; đồ lễ gồm: giấy vàng, bạc, trầu, nước, hoa quả. Tuy vậy, cũng có gia đình cúng mặn có thêm các đồ: rượu, xôi, gà, chân giò….
- Những khi làm lễ cúng Gia tiên, bao giờ cũng cúng Thổ Công trước. Khấn cầu sự phù hộ của Thổ Công cũng giống như khấn Gia tiên. Mặc dù gọi là cúng Thổ Công, nhưng khi cúng phải khấn đủ các Thần linh ghi trong bài vị.
Tết Thổ Công:
- Thổ Công là vị thần có nhiệm vụ ghi chép mọi việc tốt xấu xảy ra trong mỗi gia đình. Lễ cúng Thổ Công quan trọng nhất là ngày tết Táo quân vào ngày 23 tháng Chạp (còn gọi là tết ông Công).
- Trong ngày lễ này, sau khi cúng xong, Thổ Công lên chầu Thượng Đế để báo cáo những điều tai nghe, mắt thấy ở trần thế mà mình đã ghi chép được. Còn các gia đình sẽ hóa vàng, mũ, áo, hia của năm trước đổ tro ra sống và phóng sinh cho con cá chép để cho ông cưỡi lên trời. (quan niệm dân gia cho rằng: cá chép sau khi được phóng sinh sẽ hóa thành rồng để cho ông Táo cưỡi.).
Văn khấn Thổ Công sau đây được dùng cho cả năm tùy theo cúng vào lúc nào mà thay đổi ngày tháng cho phù hợp.
- Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư phật mười phương.
- Kính lạy ngài Hoàng Thiên Hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Con kính lạy ngài Đông Trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
- Con kính lạy các ngài Thần linh cai quản trong xứ này.
Tín chủ là………………………………………………………………
Ngụ tại………………………………………………………………….
Hôm nay là ngày……….tháng……..năm………………………….
Tín chủ con thành tâm sắm sửa hương, hoa, lễ vật, kim ngân, trà quả, bầy ra trước án. Đốt nén hương thơm kính mời: ngày Bản gia Đông trù Tư mệnh Táo phủ Thần quân, ngài Bản gia Thổ Địa Long Mạch Tôn thần, ngài Bản gia Ngũ phương Ngũ thổ, Phúc đức chính Thần.
Cúi xin các Ngày thương xót tín chủ, giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật, phù trì tín chủ chúng con tòan gia an ninh khang thái, vạn sự tốt lành, gia đạo hưng long thịnh vượng, sở cầu tất ứng, sở nguyện tòng tâm.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Dân gian ta vẫn có câu “đi lễ cả năm không bằng ngày rằm tháng 7”, chỉ cần nghe vậy thôi có lẽ chúng ta cũng sẽ thấy được phần nào mức độ quan trọng của ngày rằm tháng 7 trong đời sống tâm linh người dân Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa ngày rằm tháng 7, hãy cùng Thư viện Phong thủy tìm hiểu rõ hơn ngay sau đây nhé.

Rằm tháng 7 tức là ngày 15 tháng 7 âm lịch. Người miền bắc quen gọi rằm tháng 7 là ngày xá tội vong nhân, còn người miền Nam thường gọi đây là ngày lễ Vu Lan. Tuy nhiên, trong tháng 7 có 2 ngày lễ lớn chính là ngày lễ Vu Lan và ngày cúng cô hồn, xá tội vong nhân, về cơ bản 2 ngày lễ này là khác nhau, tuy nhiên nó thường được tổ chức chung.
Ngày rằm tháng 7 hay còn gọi là ngày lễ vu lan, để hiểu hơn về ý nghĩa ngày rằm tháng 7, chúng ta hay cùng tìm hiểu về sự tích gắn với ngài Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, một vị tôn giả tu luyện được nhiều phép thần thông.
Vì tưởng nhớ đến người mẹ đã mất, khi còn sống bà sống cực kỳ ác, do đó khi chết đi bà mẹ của Mục Kiền Liên đã bị nhốt xuống địa ngục, đày làm quỷ đói do kiếp trước gây nhiều ác nghiệp. Mục Kiền Liên dùng đôi mắt thần quán chiếu đã nhìn thấy cảnh mẹ phải chịu nhiều khổ cực, do thương mẹ nên ông đã làm phép xuống địa ngục dâng cơm cho mẹ. Tuy nhiên bà mẹ Mục Kiền Liên có tên Thanh Đề, do lâu ngày không được ăn cơm, quá đói nên khi nhận bát cơm của con, vừa ăn, vừa dùng tay che bát cơm lại vì sợ các cô hồn khác đến tranh cướp mất. Do khi chết đi vẫn còn tính tham sân si nên khi vừa đưa bát cơm lên đến miệng, tức khắc cơm hóa thành lửa đỏ, không thể ăn được. Quá đau xót khi phải chứng kiến cảnh trên, Mục Kiền Liên liền xin Đức Phật giúp mẹ mình.
Đức Phật dậy rằng, một mình ông không thể cứu được mẹ, muốn cứu mẹ phải nhờ hợp lực của các chư tăng khắp mười phương. Vào ngày rằm tháng 7, nhân lúc các chư tăng mãn hạ sau 3 tháng an cư kiết hạ, hãy sửa 1 lễ đặt vào trong chiếc chậu để dâng cúng và thành khẩn cầu xin như vậy sẽ có thể cứu rỗi vong nhân khỏi địa ngục.
Nghe lời phật dậy, Mục Kiền Liên liền làm theo, không chỉ cứu được mẹ mà còn cứu được biết bao vong hồn bị giam giữ, từ đó ngoài ý nghĩa mùa hiếu hạnh, báo hiếu, ngày rằm tháng 7 còn gọi là ngày xá tội vong nhân. Trong những ngày nay, các cô hồn sẽ được nhận thức ăn từ người dân, những người lập đàn cầu siêu hoặc cúng thí.
Theo tín ngưỡng truyền thống của dân tộc ta, ngày Vu Lan, ngày rằm tháng 7 chính là ngày để con cái có dịp tưởng nhớ tới công lao sinh thành của cha mẹ mình. Tưởng nhớ ở đây không phải là mâm cao cỗ đầy, tiền đầy túi mà quan trọng hơn cả chính là thái độ, chính là cách thể hiện giữa con cái với cha mẹ.
Trong ngày này, mọi người cần đến chùa làm lễ Vu Lan, cầu siêu để tỏ lòng biết ơn, báo hiếu tới ông bà tổ tiên những người đã mất. Bên cạnh đó làm mâm cơm thắp hương gia tiên, thần phật và cúng thí thực cô hồn, làm lễ phóng sinh.
Xem thêm: Bài văn khấn chúng sinh ngày rằm tháng 7
Tăng thêm không gian xanh cho phòng khách
Hãy chú ý đến việc mang màu xanh cây lá vào khu vực nội thất bên trong ngôi nhà, đặc biệt là phòng khách nhằm tạo cảm giác tươi mát, sinh động. Những cây cảnh trang trí trong nhà bạn nên ưu tiên lựa chọn loại cây dễ chăm sóc, có độ cao phù hợp với các thiết kế trong phòng nhằm tăng tính thẩm mỹ và tính đối xứng phù hợp.

Không khí phòng khách sôi động hơn khi có sự xuất hiện của cây xanh
Làm mới phòng ngủ
Hãy khởi đầu chiến dịch “refresh” phòng ngủ với ý tưởng về một bộ drap trải giường mới. Tương ứng với mùa hè, bạn nên chọn những gam màu mát như cam, hồng phấn, xanh… Một phòng ngủ với không gian được thay đổi sẽ giúp bạn dễ đi vào giấc ngủ hơn.
Chi phí: Từ 1 triệu đồng trở lên

Phòng ngủ mới với gam màu xanh nổi bật, trẻ trung
“Mặc áo mới” cho bếp
Nhà bếp là khu vực hay bị chủ nhà lãng quên vì nhiều người vẫn quan niệm, đây chỉ là phần phụ của ngôi nhà. Nhưng sự thật, trong kiến trúc hiện đại, không gian bếp được chú trọng khá nhiều, thậm chí nhiều căn hộ còn chọn bếp và phòng ăn là nơi nhấn nhá tạo điểm nổi bật cho cả ngôi nhà. Vậy làm sao để làm mới nhà bếp? Bạn có thể phối lại màu cho khuôn viên bếp và các đồ vật như bàn ăn, kệ chén, thành bếp… Hoặc bạn có thể đột phá bằng cách thiết kế thêm phần trần thạch cao trang trí và tạo điểm nhấn ánh sáng với các dãy đèn mắt ếch ốp trần.
Chi phí: Tùy vào không gian và diện tích

Bạn sẽ cảm thấy thích thú hơn khi nấu ăn trong một phòng bếp đẹp và hiện đại
Tường và tầng áp mái – vừa trang trí vừa chống nhiệt mùa hè
Với tường và tầng áp mái ngoài việc trang trí, chống nóng cũng nên là ưu tiên hàng đầu khi bạn quyết định làm mới ngôi nhà trong mùa hè. Đối với các vách tường đón nắng trực tiếp bạn nên sử dụng hệ vách ốp thạch cao cách nhiệt được tăng cường thêm một lớp bông sợi khoáng hoặc bông thủy tinh để giảm tối đa bức xạ nhiệt vào nhà. Nếu là khu vực áp mái thì tấm cách nhiệt và trần thạch cao là một gợi ý hay. Thạch cao là vật liệu thân thiện với môi trường, thi công nhanh. Ngoài ra, bạn có thể tha hồ tùy biến trang trí trần thạch cao theo gu thẩm mỹ của riêng mình.
Chi phí: Tùy vào không gian và diện tích

Trần và vách thạch cao của tầng áp mái sẽ giúp giảm bớt nhiệt độ trực tiếp từ bên ngoài vào phòng
ợng cho cơ thể .
Bên cạnh những hình xăm táo bạo hay chọn những chỗ hiểm để khoe hình xăm thì nhiều bạn gái chọn cho mình những hình xăm dễ thương cực cute.

Một cánh bướm nhỏ xinh ở vai, cổ tay thường được các bạn gái lựa chọn. Lý do nhiều người chọn xăm hình con bướm bởi ngoài vẻ đẹp mong manh, nó còn là biểu tượng của sự tái sinh.

Hình xăm cánh thiên thần sẽ làm bạn nữ trông thật quyến rũ khi diện đồ lót bikini đi biển.

Theo giới xăm hình, sao là biểu tượng của tinh thần, ánh sáng. Sao 5 cánh tượng trưng cho ánh sáng hiển hiện từ trung tâm. Sao 6 cánh là biểu hiệu của đạo Do Thái, là tinh thần hòa quyện với vật chất. Sao 7 cánh được coi là sự hài hòa của thế giới, dải cầu vồng 7 màu… Trong khi đó, cỏ 4 lá là biểu tượng của sự may mắn , những hình xăm dễ thương này rất được các cô gái yêu thích .
![]() |
![]() |
Đầu xuân mua muối, cả năm may mắn phát tài| ► Những vật phẩm phong thủy giúp phát tài, phát lộc |
![]() |
![]() |
| ► ## gửi đến bạn đọc công cụ xem ngày tốt xấu theo Lịch âm dương để thuận lợi công việc |
Ngày vía 8/2, hiểu đúng về cách thờ Phật Di Lặc
Khi treo tranh trong nhà, gia chủ nên chọn hướng theo bát quái đồ. Củ thể như thế nào? Tại sao lại chọn hướng theo bát quái đồ? Chúng ta cùng dọc bài viết dưới đây để biết được hướng treo tranh phong thủy nhé!

Nội dung
Hướng chính Đông và Đông-nam, theo ngũ hành thuộc Mộc, có thể treo tranh sông nước vì theo mối tương quan của ngũ hành thì Thủy sẽ hỗ trợ Mộc. Tuy nhiên, tránh treo tranh thác nước (Thủy quá vượng) sẽ làm hại Mộc.
Hướng chính Nam, theo ngũ hành thuộc Hỏa, thích hợp treo tranh núi cao, rừng rậm. Mộc có thể sinh Hỏa khiến cho gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
Hướng Đông-bắc và Tây-nam, theo ngũ hành thuộc Thổ, là phương vị Tài tinh tốt nhất, nên treo 1 bức tranh vẽ 8 con ngựa, còn gọi là bức “Bát mã đồ”. Vì ngựa theo ngũ hành thuộc Hỏa, Hỏa sinh Thổ, rất có lợi cho tài vận của gia chủ.
Hướng chính Bắc, theo ngũ hành thuộc Thủy, nên treo tranh 9 con cá còn gọi là bức “Cửu ngư đồ”, có lợi cho tài vận của gia chủ.
Hướng Tây-bắc và hướng chính Tây, theo ngũ hành thuộc Kim, có thể treo tranh Vạn Lý Trường Thành khung vàng khiến tài vận, sự nghiệp thành công và phát triển vững vàng.
Năng lượng của năm Bính Thân mang đến những bước nhảy vọt trong cuộc sống. Năm nay là thởi điểm để tạo ra những sự thay đổi mới, thậm chí cả những kế hoạch tham vọng nhất cũng có thể thành công. Trong năm nay, mọi việc đều có thể khởi sắc, chỉ cần đừng cả tin và tin tưởng vào những người không xứng đáng. Con khỉ khôn ngoan sẽ dẫn lối cho bạn.
![]() |
Tính theo Ngũ hành, năm nay là Hỏa Hầu (con Khỉ lửa). Lửa đến là tài lộc đến. Lửa cháy mạnh thì bệnh tật, xui xẻo sẽ bị thiêu rụi. Năm nay, bạn chỉ cần lưu ý không hấp tấp, đặc biệt là những tháng mùa hạ. Trong Phật giáo có một câu chuyện về "ba con khỉ" răn dạy con người về tâm trí. Loài khỉ thường hay nhảy nhót, khọt khẹt, đứng ngồi không yên, thường chuyền hết từ cành này sang cành cây khác, lại hay phá phách, bắt chước. Tâm người ta cũng thế, không khi nào được yên, cứ lăng xăng, lộn xộn, suy nghĩ, nghĩ hết chuyện này đến chuyện khác. Nghĩ quá nhiều khiến con người bị loạn, hành động rối bời. Hình ảnh ba con khỉ “bịt mắt để dùng tâm mà nhìn, bịt tai để dùng tâm mà nghe, bịt miệng để dùng tâm mà nói” giúp con người từng bước suy nghĩ kĩ và hành động.
Những em bé sinh ra trong năm nay sẽ mang mệnh Sơn Hạ Hỏa (Lửa chân núi). Mệnh Hỏa này cần có thêm Mộc (Mộc sinh Hỏa) để khiến lửa cháy to hơn, qua đó sẽ gặp nhiều thành công, may mắn.
Giờ may mắn
Trong năm con khỉ, nếu hành sự quan trọng thì nên tiến hành trong các khung giờ thuận lợi và may mắn.
- Giờ Tý: 23:00 giờ - 1 giờ
- Giờ Thìn: 7 giờ - 9 giờ
- Giờ Tỵ: 9 giờ - 11 giờ
- Giờ Thân: 15 giờ - 17 giờ
Theo Đông Đông Khampha.vn
| ► Lịch ngày tốt gửi đến độc giả những câu chuyện về thế giới tâm linh huyền bí có thật? |
![]() |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Những cách chính để có thể biết trước những việc xảy ra trong cuộc đời
(Anh Việt)
Trong khoa đoán số Tử vi, việc đoán hạn tốt xấu (từng 10 năm và từng năm) là phần hấp dẫn nhất, nhưng cũng là phần khó. Đoán cho 12 cung, có thể dừng lại ở những điểm đại cương. Còn đoán về tiểu hạn (hay tiểu vận), tức là những việc xảy ra trong năm (và trong tháng) thì không thể làm đại cương được, gặp may hay gặp rủi, phát tài hay tán tài, có tang có ốm đau hay không, thi đậu hay trượt vỏ chuối, phải nói ra cho rõ, và sự kiểm nhận lại có ngay trong tháng trong năm, người đoán lòi ngay ra sự đoán đúng hay sai.
Mặt khác, con người lại thích được đoán về những việc sắp xảy ra trong cấp thời, hơn là những việc xa lắc.
Những nguyên tắc để đoán vận hạn
1. Phải xác định rõ vận mệnh, tài bạch, phúc đức, quan lộc…
Vận hạn xảy ra ở mức độ nào, còn tùy theo những điểm căn bản.
Như đến hạn phát tài lớn, nhưng ở người Mệnh thấp, Tài bạch nghèo thì sự phát tài lớn chỉ có nghĩa dăm bảy ngàn; còn ở người Mệnh cao, Tài bạch xúc tích, thì phát tài có nghĩa là hàng triệu bạc.
Gặp hạn xấu, có thể chết được, nhưng phải xem Mệnh và Phúc đức người đó thế nào. Nếu Phúc tốt, Mạng sống lâu, chưa thể đoán là hạn nặng đến chết.
2. Phải xác định gốc đại hạn 10 năm.
Trên lá số tùy theo Âm dương Nam nữ và tùy theo Thủy nhị cục, Mộc tam cục, có ghi những số: 2,12,22,32… hay 3,13,23,33…Mỗi con số đó là số tuổi bắt đầu của đại vận 10 năm. Vậy con số 32 là chỉ về đại vận từ 32 đến 41 tuổi.
Phải xem gốc đại hạn chủ về cái gì, rồi tiểu hạn (1 năm) mới ăn từ gốc đó mà ra. Thí dụ: đại hạn phát tài, thì các tiểu hạn hướng về phát tài, đại hạn chủ về công danh, thì các tiểu hạn chủ về công danh. Xem gốc đại hạn phải cộng cung chính và 3 xung chiếu.
Cứ xem như các tiểu vận trên 12 cung là thấy các tiểu hạn cứ diễn đi diễn lại hoài hoài, không lẽ vận số cứ từng chu kỳ 12 năm lại diễn ra đúng như trước. Vậy vận số 1 năm như thế nào là do cung của tiểu hạn cho biết, nhưng phải tùy theo Mệnh và Phúc đức cùng những cung chính và cũng tùy theo đại hạn. Một trong những cách giải đoán vận hạn 1 năm là nhập các sao của tiểu hạn và đại hạn lại mà đoán.
3. Phải xem lưu đại hạn
Lưu đại hạn là một cung cho biết cái hướng của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng đại hạn giống như cỗ xe, và lưu đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, những cũng còn tùy theo người tài xế hay dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung lưu đại hạn lại mà đoán.
Xem lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 xung chiếu.
Cách tính cung lưu đại hạn như sau:
Người Dương Nam, Âm Nữ, chiều chính là chiều thuận. Bắt đầu cung đại hạn, là năm đầu của đại hạn, sang cung chính chiếu là năm kế, lùi một cung theo chiều nghịch là năm kế nữa, rồi trở lại chiều thuận, chứ mỗi cung tính 1 năm, các cung và năm kế tiếp nhau cho đến lúc hết năm của đại hạn.
Thí dụ: người Dương nam, Thủy nhị cục, đại hạn 22 tại Ngọ, thì lưu đại hạn 22 tuổi ở Ngọ, 23 ở Tý, 24 ở Hợi….31 ở Ngọ.
Người Âm nam, Thủy nhị cục, đại hạn 42 ở Dậu, thì lưu đại hạn 42 ở Dậu, 43 ở Mão (cung chính chiếu), 44 ở Thìn, 45 ở Mão…51 ở Dậu.
Như vậy muốn đoán tiểu hạn, người vừa kể vào năm 44 tuổi, phải xem gốc đại hạn ở Dậu, lưu đại hạn 44 tuổi ở Thìn và cung của tiểu hạn, 3 yếu tố kết hợp với nhau mà đoán.
4. Phải xem cung tiểu hạn
Cung tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão…)
Đoán vận hạn trong năm, còn phải tùy theo các cung gốc:
Như tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là đại hạn công danh, và lưu đại hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ.
Ngược lại, thấy tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy đại hạn tốt đẹp, lưu đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vi đại hạn là nền gốc.
Xem tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu.
5. Xem đến cung nguyệt hạn
Xem các cung nguyệt hạn là để xem hạn cho từng tháng. Dĩ nhiên nguyệt hạn phải bắt nguồn từ tiểu hạn, tiểu hạn tốt thì nguyệt hạn có xấu cũng không đáng lo. Còn tiểu hạn mà xấu, thì gốc chính đã là xấu rồi, nguyệt hạn có đẹp cũng không có nghĩa là đẹp nhiều.
Các cách tính cung Nguyệt hạn:
Cách thứ nhất
Khởi từ cung tiểu hạn kể là tháng giêng đếm theo chiều nghịch đến tháng sinh bắt đầu từ đó kể là giờ Tý theo chiều thuận đếm đến giờ sinh, lại bắt đầu từ đây kể là tháng giêng, cứ theo chiều thuận đếm từng cung là tháng giêng, tháng 2…
Thí dụ: người tuổi Kỷ Mùi, sinh tháng Tư, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu
Cách thứ 2
Khởi từ cung tiểu hạn, đếm theo chiều thuận từ tháng Giêng đến tháng sinh, rồi kể từ đó là giờ Tý vẫn đếm theo chiều thuận đến giờ sinh, rồi từ đây là tháng Giêng (cung Nguyệt hạn tháng Giêng), đếm tiếp là tháng 2,3…
Thí dụ: vẫn người Kỷ Mùi, sinh tháng 4, giờ Thìn, tiểu hạn năm Sửu.
Cách thứ 3
Cung Tiểu hạn kể là tháng Giêng rồi cứ theo chiều thuận mà kể các cung sau là các tháng kế.
Xem Nguyệt hạn cũng xem cung chính và các cung chiếu.
Tại sao có đến 3 cách ấn định cung Nguyệt hạn? Đó là do kinh nghiệm.
6. Xem đến cung Nhật hạn
Xem đến tháng, có thể bấm thêm đến ngày (Nhật hạn)
Như tháng này là tháng 5, năm Sửu thì theo cách tính thứ nhất, tính nguyệt hạn, tháng 5 ở cung Tý. Lấy cung Tý là ngày mùng 1, cứ thế theo chiều thuận mà tính đi, mỗi cung 1 ngày.
Xem cung Nhật hạn, cũng đủ cung chính và 3 cung xung chiếu.
7. Xem cung thời hạn (giờ)
Còn có thể tinh đến giờ xảy ra biến cố.
Đến ngày nào đó, gọi đấy là giờ Tý, rồi cứ tính theo chiều thuận mà tính mỗi cung là 1 giờ. Như ngày mùng 9 tháng 5 năm Sửu ở cung Thân, xem sang giờ, thì gọi cung đó là giờ Tý, rồi cứ thế tính tiếp theo chiều thuận.
KHHB 73
![]() |
| Ảnh minh họa |
(tên khác là bá hạ, bát phúc, thạch long qui) là con trưởng của rồng - linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng. Bị hí có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá...

Li vẫn (còn gọi là si vẫn) - con thứ hai của rồng, là linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn. Tương truyền li vẫn thích ngắm cảnh và thường g

Bồ lao
Con thứ ba của rồng, là linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn.

Bệ ngạn
(còn gọi là bệ lao, hiến chương) là con thứ tư của rồng, có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn. Theo truyền thuyết, bệ ngạn rất thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.

Thao thiết
con thứ năm của rồng, là linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ. Thao thiết tham ăn vô độ, được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn mà trở nên bất lịch sự.

Công phúc
Con thứ sáu của rồng, là linh vật thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè... với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ muôn dân.

Nhai xế
Con thứ bảy của rồng - là linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh, thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm, xà... ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.

Toan nghê
(còn gọi là kim nghê) - con thứ tám của rồng - linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút. Toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.

Tiêu đồ
(còn gọi là phô thủ) - con thứ chín của rồng - là linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của mình. Tiêu đồ được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Ngoài chín con nói trên, gia đình rồng còn có một số linh vật khác như: tù ngưu - linh vật giỏi về âm nhạc; trào phong - linh vật được gắn trên nóc nhà ngụ ý chống cháy và thị uy kẻ xấu (giống li vẫn); phụ hí - linh vật bảo vệ bia mộ.

Tù ngưu

Trào phong

Phụ hí
Sưu Tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (##)
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Quỳnh Mai (##)
đang có ở xung quanh và chúg ta cần phải quan tâm đến hình thể và màu sắc nếu muốn duy trì sự cân bằng giữa Âm dương và Ngũ hành.
Điều quan trọng là các công trình này phải tương xứng với môi trường và chúng ta duy trì được tính vững vàng ở khu vực “tứ trụ” trong vườn – Đông Nam, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Bắc.

Các công trình trong vườn và các kiến trúc mang tính trang trí là phương pháp đắc dụng để đạt được điều này miễn là chúng theo đúng luật Ngũ hành tương sinh.
Ở những nơi chúng ta dùng các công trình này cho các mục đích riêng, chẳng hạn để làm việc, để ươm giống, hoặc nhà xưởng, thì ghế làm việc phải hướng về một trong bốn hướng tốt nhất của chúng ta. Chúng ta nên sắp xếp để chắc chắn lúc ở bàn làm việc, mặt chúng ta nhìn về hướng cửa ra vào.
Nếu không được, cũng nên có biện pháp để chúng ta không bị gây bất ngờ từ phía sau lưng, như dùng một chuông gió hoặc một vật phản chiếu để giúp chúng ta phát hiện những gì diễn ra phía sau. Cẩn thận khi dùng gương soi vì sự phản chiếu ánh sáng từ mặt trời có thể làm chói mắt.
Một số công trình xây dựng trong vườn thậm chí chỉ dùng với mục đích trang trí. Những nhà thủy tạ, nhà hóng gió có thể trông hấp dẫn nhưng vào những lúc lộng gió hoặc mưa to thì những kiến trúc để hở hai cạnh bên không phải là nơi lý tưởng cho chúng ta thư giãn vì sẽ tạo cảm giác không an toàn.
Tuy nhiên, nếu chọn được vị trí thích hợp, chúng có thể tạo ra cho chúng ta một không gian riêng tư tuyệt vời. Nếu nhìn về hướng Đông, các nhà hóng gió này là nơi chọn lựa số một để dùng điểm tâm vào mỗi sáng sớm và đón nhận nguồn năng lượng tinh khôi của buổi bình minh. Nếu nhìn về hướng Tây, nhà hóng gió sẽ là điểm thú vị để nghỉ ngơi và rũ bỏ những nhọc nhằn của một ngày khi chiều xuống.
Khi đặt cố định các vật trang trí nước phải cẩn thận, đừng để các góc cạnh của chúng bắn “mũi tên độc” vào nhà hoặc các khu vực ngồi trong vườn. Nếu không thể tránh được, chứng ta có thể trồng các loại cây leo để hóa giải chúng hoặc đơn giản là che chúng đi.
Đồ đạc sắp xếp cần có tiện nghi và tiếp đãi theo thông lệ. Sự xắp xếp theo hình kỉ hà tạo ra cảm giác trang trọng trong khi đặt cụm lại làm cho thân mật hơn. Các ghế sopha được xếp theo hình bát quái tạo may mắn, Gương chiếu đặt trên khung cửa sổ làm tăng ánh sáng và tầm nhìn ra ngoài.
Lò sưởi tạo ấm áp và may mắn, nhưng đồ đạc quá gần nó và quay về nó thì cần một tấm gương trên lò hay dựng gương hai bên nó.
Một quầy bar nhỏ xinh xắn trước nhà sẽ là chỗ thư giãn rất thú vị
Quầy bar này bạn có thể sử dụng với nhiều mục đích khác nhau, đơn giản là nơi pha chế đồ uống hay một khu vực ăn uống đúng nghĩa đều tốt. Tuy nhiên, bạn cần thiết kế sao cho nó đúng nghĩa là một bar ngoài trời ở sự tiện lợi, vừa có thể nấu nướng, ăn uống như gian bếp thực thụ vừa được thoải mái thư giãn.
Một chiếc võng mềm mại thế này quả là nơi thư giãn ngoài trời tuyệt vời
Có lẽ đây là cách làm đơn giản mà cũng hiệu quả nhất. Nếu khoảnh sân nhỏ nhà bạn có cây lớn thì giải pháp này rất tuyệt. Bạn cũng có thể tự tạo 2 cây cột chắc chắn dưới bóng mát của dàn cây leo cũng tốt. Nếu không thể mắc được võng thì xích đu là giải pháp thay thế tuyệt vời.
Biến góc sân vườn nhỏ trở thành gian phòng ấm áp chỉ với một bộ bàn ghế cỡ lớn
Ý tưởng này cũng rất thú vị, bạn chỉ cần chọn bàn ghế và các vật dụng có chất liệu bền, đẹp là có thể "hô biến" góc sân vườn nhỏ phía sau nhà trở thành nơi nghỉ ngơi lí tưởng.
Hãy chọn đặt một bộ bàn ghế thật rộng rãi để những vị khách tới chơi cũng có thể ngồi thư giãn hoặc ngồi chờ thật thoải mái. Nếu đặt thêm một chiếc lò sưởi nữa thì không gian này sẽ trở nên ấm cúng vô cùng.
Nội thất màu xanh lá luôn mang đến cảm giác thư thái, dễ chịu
Với phòng thư giãn sau nhà, bạn không nhất thiết phải trang trí quá cầu kỳ hoặc màu mè. Chỉ cần chọn một số đồ nội thất có màu xanh lá cây cũng đủ mang lại cho không gian này cảm giác mát dịu. Bên cạnh đó, bạn có thể bổ sung một vài mô hình trò chơi ngoài trời như sân golf, tenis... để tăng thêm sự gần gũi với thiên nhiên.
5. Tự tạo một spa nhỏ
Một spa nhỏ ngoài trời là nơi thư giãn tuyệt vời sau ngày làm việc mệt mỏi
Đừng ngại bố trí một bồn tắm nước nóng nhỏ ở cuối sân, vì nó có thể sẽ là nơi bạn muốn ra thư giãn nhất sau một ngày dài làm việc mệt nhoài. Hãy bố trí nó gần ở khu vực cửa phòng chính để bạn có thể nhanh chóng bước đến đó tận hưởng sự thoải mái nhẹ nhàng một cách nhanh nhất.
6. Cân nhắc về tần suất sử dụng
Nhiều người luôn muốn được thư giãn ở khu vực nghỉ ngơi bất cứ thời điểm nào trong năm. Nếu có điều kiện, bạn có thể xây một căn phòng trên đỉnh núi với một chiếc lò sưởi để ngắm cảnh tuyết rơi tuyệt đẹp bên ngoài mà không sợ bị lanh. Tùy thuộc vào thực tế, bạn có thể chọn đặt lò sưởi hoặc quạt sao cho phù hợp.
7. Dựng nhà chòi
Nhà chòi ngay phía sân sau là một gợi ý không tồi để có thể hóng gió, nghe tiếng côn trùng kêu
8. Thêm yếu tố nghệ thuật
Nếu thêm các chi tiết trang trí bạn sẽ thấy không gian thư giãn ngoài trời hoàn hảo hơn nhiều. Đơn giản
chỉ là một bức tranh hay sự nhấn nhá về màu sắc cũng đem lại những hiệu quả rõ rệt
Chuyện quỷ đói được siêu thăng Ở Việt Nam, rằm tháng bảy với người miền Bắc chủ yếu được coi là ngày xá tội vong nhân, còn với người miền Nam lại có ý nghĩa chính là Vu lan báo hiếu. Tuy cùng một ngày nhưng hai lễ này mang ý nghĩa khác nhau.
Truyền thuyết về Vu lan liên quan đến tôn giả Mục Kiền Liên, một trong các đại đệ tử của đức Phật Thích Ca, một người sớm đắc quả A La hán thoát khỏi vòng luân hồi. Không còn bị vô minh che mắt, ngài có thể nhìn thấu hàng vạn tiền kiếp của mình cũng như mọi điều trong các cõi. Là một người con chí hiếu, đức Mục Kiền Liên muốn nhìn xem người vợ đã khuất của mình bây giờ đang ở cảnh giới nào. Sinh thời, bà Thanh Đề mẹ ngài là kẻ sống bạc ác, cay nghiệt, vì vậy ngài biết mẹ mình sẽ bị đọa xuống địa ngục. Thế nhưng tuy đã tìm ở nhiều tầng địa ngục, Mục Kiền Liên vẫn chưa thấy mẹ. Chỉ đến khi soi thiên nhãn đến tầng ngục sâu nhất, dành cho những người sinh thời phạm những tội ác ghê gớm nhất, ngài mới thấy mẹ mình đang bị đày đọa ở đó trong hình hài của ngạ quỷ (quỷ đói) và phải treo ngược người. Đau lòng xót ruột, Mục Kiền Liên hóa phép ra mâm cỗ thật ngon dâng mẹ. Bà mẹ đói khát vội vàng vồ lấy thức ăn, nhưng hễ đưa đến gần miệng là lập tức biến thành lửa đỏ. Mục Kiền Liên dù tu hành đắc đạo, nhiều phép thần thông nhưng chẳng thể làm gì giúp người mẹ đang phải trả giá cho tội lỗi của mình. Ngài bèn trở về cầu cứu Phật Thích Ca.
![]() |
| Ngạ quỷ đói khát, miệng đầy lửa do những tội nghiệt lúc sinh thời. |
![]() |
Hiện tượng: Vào cửa nhìn ngay thấy nhà vệ sinh

Chúng ta vừa bước từ bên ngoài vào trong phòng liền chính diện với nhà vệ sinh, những uế khí từ nhà vệ sinh xông thẳng ra làm cho con người có cảm giác khó chịu, bất lợi cho môi trường trong nhà, gây ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe con người.
Phương pháp hóa giải: Có thể dùng một bức bình phong hình chữ L không trong suốt đặt sau cửa ra vào để hóa giải.
Nếu không có cách nào để đặt tấm binh phong thì cùng có thể treo một tấm rèm dài trên cửa nhà vệ sinh và ở nơi bậc cửa đặt một xâu đồng tiền Ngũ Đế đẻ hóa giải. Độ dài của tấm rèm cửa nhà vệ sinh phải vượt quá chiều cao của bồn cầu mới thích hợp, chất liệu của tấm rèm phải dày dặn, không nhìn xuyên qua được mới thích hợp, không nên dùng vải rèn hoặc rèm chuỗi hạt.
Điều nên biết
Nhà ai gặp các trường hợp kể sau đây thì nên đặt một con Đồng Long (rồng bằng đồng) đẻ hóa giải.
1. Nằm trong ngõ hẻm không cụt
2. Bên phải nhà cao, bên trái nhà thấp
3. Dương khí trong nhà không đủ
4. Phòng (nhà) quá lớn mà khí không tụ
5. Khi túc sát (khí lạnh lẽo) quá nặng
6. Khi cô khắc quá nặng
7. Có góc nhọn đâm thẳng vào, phạm thiên trảm sát
8. Vương tài.
a. Những dâm tinh nặng ý nghĩa nhục dục:
Tham Lang: Chỉ sự tham dục lớn lao, nhất là khi hãm địa thì tính nết càng sa đọa, hư đốn, lăng loàn. Thông thương, Tham Lang chỉ hạng người dễ động tình, xấu máu về sắc dục, bị thu hút bởi nhu cầu sinh lý và chạy theo nhu cầu này một cách mù quáng, bất chấp đạo đức, gia đình, dư luận. Nết dục của Tham Lang (võ tinh) có ít nhiều bạo tính, dục động, khó kìm chế. Ngoài ra, Tham Lang thụ hưởng sinh lý một cách ích kỷ, nghĩ đến mình nhiều hơn đến bạn đồng tình, thiếu tế nhị, cao thượng, vị tha. Tham Lang đặc biệt bất lợi cho phái nữ. Nữ có sao này có ít nhiều đĩ tính, nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu và có thêm sao tình dục khác: đây là hạng gái giang hồ. Còn Nam số có Tham Lang là kẻ ăn chơi, đàng điếm, hoang dâm, nếu không có đủ sao mạnh chế khắc.
Thiên Riêu hãm địa (trừ ở Mão và Dậu): có ý nghĩa sinh lý rất mạnh, chỉ sự chơi bời, sắc dục, trụy lạc, sa đọa, xu hướng tình dục và tính nết dâm đãng. Như Tham Lang, ái tình của Thiên Riêu bừa bãi, mạnh mẽ, đồng thời có khuynh hướng xác thịt. Đối với sao này, không có vấn đề tình yêu lý tưởng hay tinh thần, chỉ có sự thỏa mãn vật chất. Nếu Thiên Riêu đắc địa ở Mão và Dậu, nết tình vẫn mạnh, chỉ được lợi là không bị tai tiếng xấu xa mà thôi.
Thai: có ý nghĩa tình dục mạnh, thiên về sự thay cũ đổi mới và có đặc tính tái phạm, dù có cố gắng chừa.
Đào hoa: chỉ sự ham thích ái tình, tính nết trăng hoa, đa tình, ham chinh phục để yêu và được yêu, lấy tình yêu làm lẽ sống của tâm hồn, để thỏa mãn một tình cảm chứa chan hoặc một nhu cầu sinh lý nồng nhiệt. Đối với Đào Hoa, hình thái của ái tình không quan trọng bằng cường độ của ái tình nên bao giờ cũng tha thiết, đam mê, si lụy, rung động mạnh trước ái tình và tham lam trong tình trường. Đào Hoa không những phong phú, nhằm nhiều đối tượng cùng một lúc mà còn lẳng lơ, sa đọa, bất chính, phi đạo đức. Sao này đại kỵ cho Nữ Mệnh.
Mộc Dục: phóng đãng, ham muốn vật dục, khao khát yêu đương và quyến rũ yêu đương. Tính nết sinh lý của sao này ít nhiều hỗn loạn, không mấy chọn lọc đối tượng, bao hàm nhiều hình thái, từ sự tự thỏa mãn đến vấn đề đồng tính luyến ái. Tình yêu của Mộc Dục hơi quái dị, bất thường.
Mộ: sao này chỉ sự dâm đãng thông thường.
Liêm Trinh hãm địa: chỉ khi hãm địa (ở Tỵ, Hợi, Mão và Dậu), Liêm Trinh mới có ý nghĩa dâm đãng. Đắc địa (ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ, Dần, Thân, Sửu và Mùi), Liêm Trinh chỉ tính nết hào hoa thông thường.
b. Những sao tình dục nặng ý nghĩa tinh thần:
Hoa Cái: chỉ sự khao khát tình ái, sự thích thú được người khác phái chú ý và yêu đương, sự trêu cợt để cho bên kia phải chết mê, chết mệt vì yêu đương. Hoa Cái chỉ sự chưng diện, tính thích xa hoa, lộng lẫy để có một bề ngoài đài các, sang trọng, quyến rũ. Hoa cái chỉ sự kiểu cách trong bộ điệu, trong ngôn ngữ cho đến giọng nói uốn lưỡi, sửa giọng, lắm khi không tự nhiên, đôi khi lố bịch; sự ham chuộng các loại thời trang.
Hồng Loan: so với Đào Hoa, Hồng Loan chỉ ái tình tương đối có nết hạnh hơn. Hồng Loan thu hút bằng sự quyến rũ do đức tính bên trong. Hồng Loan chỉ sự khéo léo chân tay, khéo léo ngôn ngữ, khéo léo về dáng điệu tức là những nét duyên về công, dung và ngôn.
Văn Xương, Văn Khúc: không có ý nghĩa dâm đãng trực tiếp. Người có Xương Khúc có tâm hồn văn chương mỹ thuật, bắt nguồn từ những năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc, nghệ thuật, thi ca nhưng rất đa tình, giàu tình cảm, dễ cảm xúc, tiếp nhận và tiếp phát tình cảm rất mạnh. Người có Xương Khúc có sự nhạy cảm, sự mơ mộng, sự kể lể văn chương, thiên hướng về cái tôi rất mạnh.
Thái Âm: chỉ sự hữu duyên, hữu tình và đa tình. Người có Thái Âm rất lãng mạn, có khuynh hướng bộc lộ tình cảm, hay mơ mộng viển vông, có thể dâm đãng (nếu hãm địa, ý nghĩa này rất rõ rệt).
2. Những sao tình dục riêng cho nữ phái:
a. Sao đơn thủ
Cự Môn hãm địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và Tỵ): nếu đóng ở Mệnh, Thân của nữ số. Chỉ tâm trạng bất mãn chung chứ không nhất thiết bất mãn về sinh lý, gặp nhiều ngang trái.
Hỏa Tinh, Linh tinh hãm địa (Tý, Thân, Dậu và Hợi): nằm mơ thấy yêu đương.
Thiên Không ở Mệnh của Nữ số: người dâm tiện, suốt đời bị ách gió trăng, là hàng ca kỹ, tì thiếp lăng loàn.
b. Sao hội họp:
Liêm Trinh, Tham Lang ở Tỵ, Hợi của Nữ số: vừa đắc kép, vừa tham dâm. Sự hội tụ ở 2 cung Tỵ và Hợi, nơi cả hai đều hãm địa, càng bất lợi cho phụ nữ: đó là những gái lầu xanh khả hữu.
Thiên Lương, Thiên Đồng ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi.
Thiên Lương, Thiên Mã ở Tỵ, Hợi: phóng túng, ham chơi, thay đổi bạn liên tục.
Thái Âm hãm, Đà La: đam mê sắc dục. Đà La chỉ sự bất hạnh trong tình trường.
Thiên Đồng, Thiên Riêu: người không chung tình, thường thay đổi tình nhân và nếu có chồng thì ngoại tình.
Tham Lang, Đại, Tiểu Hao: giống như Đồng Riêu, chỉ trường hợp ngoại tình hay song tình, có mối tình thầm kín, được giấu diếm kỹ, không bộc lộ. Đây có thể là người bề ngoài đoan chính nhưng bên trong rất nồng nhiệt, chỉ phạm dâm khi có cơ hội hoặc là người đeo đuổi một lần hai mối tình trong đó phải bảo mật một mối.
Tham Lang, Phá Quân: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê, đổ vỡ về gia đạo. Đi với Tham Lang, người phụ nữ này vì tham dục nên bị liên lụy với gia đình.
Tham Lang, Thất Sát hãm địa (Mão, Dậu, Thìn và Tuất): nghiệp chướng về ái tình khó tránh khỏi. Nữ số có Tham, Sát ở Dần hay Thân là người bạc tình, mới chuộng cũ vong.
Thiên Cơ, Xương, Khúc: Nếu Phúc - Mệnh - Thân xấu gặp bộ sao này rất tham dâm. Nếu đi với Thiên Riêu hay Thai thì rất cuồng nhiệt và lăng loàn, đôi khi bộc lộ qua dâm thư kiểu như Hồ Xuân Hương.
Tham Lang, Đào Hoa: đồng nghĩa với Liêm Tham ở Tỵ, Hợi: người hồng nhan đa truân, gái giang hồ, phụ nữ chủ động cưới chồng.
Mộc Dục, Hoa Cái, Bạch Hổ: phụ nữ cuồng dâm, tính dâm ăn sâu vào máu huyết, thay đổi nhân tình như thay đổi xiêm y.
3. Vị trí các sao tình dục:
a. Sao tình dục ở cung Nô: ý nghĩa dâm đãng của đương số rất rõ ràng, có những mối tình ngoại hôn lang chạ, bừa bãi, không phân biệt giai cấp, đối tượng, kiểu như chủ lấy tớ ... Nết sa đọa của đương số còn tệ hại hơn. Chỉ có ngoại lệ khi có sao khắc chế ở Mệnh mà thôi.
b. Sao tình dục ở cung Phu Thê: hoặc vợ/chồng là người nhiều dục tính, tham dâm, có cuộc sống sinh lý dồi dào; hoặc vợ/chồng có ngoại tình; hoặc vợ/chồng có 2, 3 đời liên tiếp; hoặc vợ/chồng có thể đẹp hoặc duyên dáng, hữu tình.
c. Sao tình dục ở cung Tật: đương số có những bệnh họa liên quan đến sinh lý, tình dục, bộ phận sinh dục.
d. Sao tình dục ở cung Phúc: có thể biểu thị sự dâm đãng di truyền trong dòng họ (nếu cung Phụ hay cung Bào cũng có những sao này).
4. Những sao khắc chế tình dục:
Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương sáng sủa: tượng trưng cho sự ngay thẳng, đoan chính, trung hậu, tiết tháo. Ba sao này quân bình được các sao tình dục, kiềm chế được sự sa ngã đến mức độ đáng kể.
Ân Quang, Thiên Quý: chỉ phẩm hạnh, đức tính chung thủy, sắt son, tín nghĩa, trung thành. Hai sao này tiết giảm rất nhiều ý nghĩa trăng hoa của các sao tình dục.
Thiên Hình: chỉ sự chính trực, ngay thẳng, chính chuyên, mực thước, có ý chí đề kháng các loại cám dỗ của ái tình.
Long Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức, Thiên Đức (Tứ Đức): tượng trưng cho sự trong sạch, ý thức đạo đức trong vấn đề tình ái. Phải hội đủ Tứ Đức thì hiệu lực mới đủ mạnh vì Tứ Đức chỉ đủ để chế giảm các sao tình dục tầm thường.
Hóa Kỵ: Đồng cung với Liêm, Tham, Hóa Kỵ có thể chế được cái xấu của Liêm, Tham nói chung và từ đó chế cả tình dục mạnh mẽ của Liêm Tham nói riêng.
Lộc Tồn: chỉ sự chậm phát tình yêu, sự phát huy có chừng mực của sinh lý, đồng thời cũng có nghĩa cô độc trước tình yêu. Lộc Tồn là người kén yêu, khó khăn trong ái tình, chỉ yêu những đối tượng chọn lọc và có nhiều tính toán trong tình ái.
Triệt, Tuần: chế khắc tính nết dâm đãng khá mạnh. Triệt mạnh hơn Tuần mặc dù chỉ ảnh hưởng mạnh một thời gian mà thôi. Đi với Triệt, các dâm tinh hầu như mất hết ý nghĩa, không thể chi phối hay ảnh hưởng. Đi với Tuần, các dâm tinh vẫn còn chi phối con người một cách tương đối vừa phải suốt đời. Tình dục gặp Tuần, Triệt sẽ thiếu cơ hội bộc phát tự do, bị kìm tỏa trong tiềm thức, trong tư tưởng, không biểu lộ bằng hành động. Đây là trường hợp tình dục thiếu môi trường thuận lợi, bị ngăn trở, gặp ngang trái, bị cạnh tranh, gặp thất bại. Mặt khác, gặp Tuần Triệt, các sao tình dục sẽ có nghĩa là vô duyên, lỡ thì, cái duyên không có ai biết đến, không có điều kiện để trở thành ái tình (trường hợp gái già, trai muộn).
Nguồn: Sưu tầm
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Trúc Loan (##)